Cứ như những điều tôi từng biết thì chưa hề có một quy định nào cấm đem theo vào trạm vũ trụ những con vật nuôi mà mình ưa thích. Cũng chẳng ai nghĩ rằng những quy định như vậy là cần thiết cả - vả chăng nếu như có một quy định ấy thì chắc hẳn là Sven Olsen cũng không được biết.
Với một người có cái tên như vậy, hẳn bạn phải hình dung Sven ít ra là một người khổng lồ phương Bắc cao hai mét, thân hình như một con bò tót và tiếng nói oang oang như lệnh vỡ. Nếu đúng là như vậy thì anh ta đã chẳng có mấy cơ may xin một công việc làm trên một trạm nghiên cứu vũ trụ. Thực ra là con người anh nhỏ thó, cũng hệt như những nhà du hành vũ trụ đầu tiên, cân nặng khoảng sáu chục ký là cái trọng lượng khiến nhiều người trong chúng ta phải nhịn ăn ấy chứ.
Sven là một trong những thợ xây dựng tốt nhất của chúng tôi, biệt tài trong việc lắp ráp chuyên môn hoá và rắc rối các thứ vật liệu đang rơi tự do, làm cho chúng tham gia vào một vũ điệu chậm trong không gian ba chiều và đưa chúng nó vào nằm đúng vị trí đã định, kết cấu chúng lại theo đúng thiết kế; đó là một công việc đòi hỏi khéo tay và khó khăn vì người thợ trong bộ quần áo du hành vũ trụ thật chẳng có chút thoải mái mấy tí. Thế nhưng đội lao động của Sven lại có lợi thế lớn hơn hẳn những đội xây dựng khác, như ta từng thấy họ làm những ngôi nhà chọc trời dưới đất. Bọn Sven có thể lui lại và ngắm nghía công việc họ vừa hoàn thành mà không lo bị rơi đột ngột vì nguyên lý trọng lực…
Xin bạn chớ hỏi tôi vì sao Sven lại thích có một con vật nuôi hoặc vì sao anh ta lại chọn chính con vật nuôi ấy. Tôi không phải là một nhà tâm lý học, nhưng tôi phải thừa nhận rằng, việc Sven chọn lựa thực quả là đáng chú ý. Con Clariben nặng chẳng đáng bao nhiêu, việc ăn uống của nó cũng thế, tí chút thôi, và không như phần lớn con vật khác, Clariben không lúng túng mấy vì chuyện sống ở nơi không có trọng lượng.
Lần đầu tiên tôi biết có con Clariben trên trạm vũ trụ là lúc tôi đang ngồi trong một xó kín đáo, thường vẫn được gọi chơi là văn phòng, và tôi đang soát xét các danh mục mặt hàng kỹ thuật để xem sắp cần tới thức gì. Bỗng dưng, tôi nghe thấy một tiếng nhạc chíp chiu ríu rít ngay bên tai, tôi liền nghĩ ngay rằng đó là tiếng gọi từ trạm liên lạc nội bộ, và tôi ngóng chờ xem chuyện gì. Nhưng không phải. Liền đó vang lên cả một khúc nhạc khiến tôi giật thót mình và va đầu phải cái xà ngay phía trên. Sau khi mắt đã hết nổ đom đóm, thì tôi liền trông thấy Clariben.
Đó là một con chim hoàng yến nhỏ, đang bay lơ lửng bất động trong không gian chẳng khác gì một con chim ruồi, và nó bay không cần chút nỗ lực gì bởi vì cánh nó vẫn không cần gì phải xoè ra đập vỗ. Hai chúng tôi nhìn nhau một thoáng. Sau đó, trước khi tôi hoảng hồn, con chim nhỏ đã bay lui một cách rất kỳ mà tôi không nghĩ rằng không một con hoàng yến nào trên mặt đất có thể làm nổi, sau đó bay đi nhẹ nhàng vô cùng. Hoàn toàn rõ ràng là nó đã biết cách hoạt động trong tình trạng không trọng lực và biết cách không làm những động tác thừa.
Sven không cho ai biết việc anh có con chim cả, và vào thời gian ấy chuyện đó cũng chẳng có gì quan trong lắm, vì Clariben cũng chỉ là một con chim như mọi con chim mà thôi. Anh đã lén đem một con chim theo, một phần là vì, theo lời anh nói, anh muốn xem xét về mặt khoa học. Anh muốn thử xem một con chim sẽ hoạt động ra sao khi nó không có chút trọng lượng nào nhưng vẫn có đôi cánh đó.
Clariben lớn nhanh và mập ra. Nói chung chúng tôi chẳng có gì lo lắng cho vị khách bé nhỏ này, trừ phi có một nhân vật quan trọng từ mặt đất tới thăm trạm. Khi ấy một trạm vũ trụ cũng có nhiều chỗ trốn chứ đừng có tưởng. Chỉ có mỗi một vấn đề là Clariben hơi làm ồn khi nó bị xua đuổi đi như vậy, và chúng tôi phải giải thích ngay cho khách về như tiếng chiêm chiếp và ríu rít, bảo đó là tiếng quạt gió ở bên kia vách ngăn hoặc đường thông nào đó. Trên trạm vẫn có hai ba chỗ trốn kín đáo; vả chăng có ai ngờ trên trạm vũ trụ lại có một con chim hoàng yến?
Trên trạm, chúng tôi làm việc suốt hai mươi bốn giờ một ngày, việc đó cũng chẳng vất vả lắm như các bạn nghĩ, bởi vì trong vũ trụ, mọi người ít cần ngủ lắm. Do chỗ chẳng có “ ngày ” và “đêm ” khi ta thường xuyên bay trong ánh mặt trời, nên ở đây cũng cần nói qua các khái niệm đó một chút. Hiển nhiên là khi tôi thức giấc vào “ buổi sáng ” thì hình như lúc đó là 6 giờ sáng dưới trái đất. Tôi thấy mình hơi nhức đầu một chút và mang máng nhớ tới những giấc mơ dở dang. Phải mất khối thời gian tôi mới tháo gỡ được các giây rợ giường ngủ, và vẫn còn mắt nhắm mắt mở tôi đã phải sang phòng ăn với các bạn. Bữa ăn sáng nay có vẻ yên lặng một cách khác thường và có một cái ghế ăn bỏ trống.
- Sven đâu nhỉ? – Tôi hỏi và chẳng để ý lắm vào điều mình hỏi.
- Nó đi xem con Clariben đâu – Có người trả lời – Nó nói không thấy con chim đâu hết. Thường thì con chim đánh thức nó dậy.
Trước khi tôi có dịp cãi là con chim cũng đánh thức cả tôi dậy nữa, thì đã thấy Sven trở lại từ lối cửa sau, và chúng tôi đều thấy ngay có chuyện đó chẳng lành rồi. Sven, từ từ xoè bàn tay ra và trong đó có một dúm lông nhẹ tênh màu vàng với hai cẳng chân co quắp giơ lên trời một cách bi tráng.
- Có chuyện gì vậy? – Chúng tôi hỏi, và người nào người nấy đều lo lắng.
- Mình không rõ – Sven nói một cách buồn rầu - Chỉ thấy nó như vậy thôi.
- Đưa tôi coi – Jack Dulcal, bác sĩ phụ trách việc ăn uống của chúng tôi nói. Tất cả chúng tôi đều im lặng chờ đợi trong khi bác sĩ cầm lấy Clariben để cố nghe tiếng tim nó đập.
Và chúng tôi thấy anh lắc đầu.
- Không nghe thấy tim nó đập, nhưng như vậy cũng không chắc là nó chết. Tôi chưa khi nào nghe thấy nói về tim con chim hoàng yến cả - Anh nói thêm như để thanh minh.
- Cho nó thở dưỡng khí đi! – Có một cậu nào đó gợi ý và lấy tay chỉ vào bình cái bình cấp cứu gắn băng xanh đặt cạnh cửa. Mọi người đều cho rằng đó là một ý kiến cực kỳ hay, và thế là Clariben liền được đặt vào trong chiếc mặt nạ đủ lớn để cho nó thở dưỡng khí.
Chúng tôi ngạc nhiên vô cùng khi thấy con chim sống lại. Mặt tươi rói, Sven gỡ cái mặt nạ cho con chim ra, và con chim đậu lại vào ngón tay cậu ta. Nó bắt đầu hót bài quen thuộc: “ Điăn thôi các chàng trai ” – và liền đó lại lăn ra bất tỉnh.
- Mình không hiểu nữa – Sven than vãn – Không hiểu nó có chuyện gì vậy? Trước đây có bao giờ nó như vậy đâu?
Chính vào lúc đó, trong đầu tôi chợt nhớ ra một điều gì đó. Vào buổi sáng hôm đó, trí óc tôi hình như uể oải, chậm chạp, như thể tôi còn muốn ngủ hoài, mãi vẫn chưa tỉnh hẳn. Tôi cảm thấy nếu được thở chút dưỡng khí kia thì sẽ tỉnh táo hơn, nhưng khi tôi sắm cầm lấy cái mặt nạ để thở, tôi chợt thấy loé trong đầu một điều gì đó. Tôi quay lại người kỹ sư trực nhật và nói với anh vội vã:
- Jim này, trong không khí của trạm, hình như có chuyện gì đó không tốt đó. Chính vì thế mà Clariben đã chết. Tôi nhớ là thợ mỏ vẫn đem theo chim hoàng yến vào lò để báo động họ khi sắp có khí nổ.
- Chuyện vớ vẩn! – Jim nói - Có chuyện gì thì sẽ có tín hiệu báo động chứ! Chúng ta đã có thêm một đường dây báo động song hành nữa kia mà?
- Hừ…đường dây báo động thứ hai vẫn chưa nối xong - Người phụ tá của anh nhắc.
Điều nhắc nhở đó làm cho Jim hốt hoảng. Anh bỏ đi không nói một lời. Trong khi đó chúng tôi đứng cãi lý với nhau và truyền tay nhau cái bình dưỡng khí một cách hữu hảo.
Mười phút sau Jim quay trở lại với bộ mặt của người có lỗi. Jim cho biết với tình trạng máy móc của chúng tôi hiện nay, tai nạn rất có thể có khả năng xảy ra; đêm trước chúng tôi bị “ nguyệt thực ”, một trường hợp nguyệt thực hiếm hoi do bóng quả đất che; vì thế là một phần máy lọc không khí đã bị lạnh lại, và hệ thống báo động duy nhất lại không hoạt động. Một nửa triệu đô la thiết bị hoá học và điện tử bỏ rơi chúng tôi hoàn toàn. Nếu không có Clariben, chúng tôi đã bị chết ngóm cả rồi.
Vì thế giờ đây, một khi bạn có điều kiện tới thăm một trạm không gian vũ trụ, bạn chớ ngạc nhiên khi nghe thấy tiếng chim hót. Khi đó không có gì phải hoảng hốt gì hết: ngược lại là đằng khác. Điều đó có nghĩa là bạn đang được an toàn gấp hai lần, và không phải chi tiêu thêm một chút gì hết.
Trong căn nhà bếp lớn khu chăn nuôi đại gia súc của Mac Kenzi, Toni King đang cúi lom khom trên chiếc chậu rửa, đánh bóng những chiếc bình lớn bằng đồng thau cho tới lúc sáng loáng lên như những đồng xu mới. Những kẻ ăn người làm khác, những người dắt ngựa đi dạo và những người cưỡi ngựa tập cho chúng các nước chạy, đã ăn sáng xong và đều đi làm cả.
Bác Charlie Hunker, người đầu bếp, đang đứng bên chiếc thớt, vung con dao sáng loáng chặt thịt bê chuẩn bị bữa ăn trưa. Vừa chặt bác nhìn vào Toni và nói:
- Ông chủ muốn cậu lên nhà gặp ông ấy. Ông nói là cậu mang cả con Benji nữa đấy.
Toni cố sức đoán thử xem ông Gormen có thể định làm gì con Benji? Một nụ cười từ từ hiện ra trên đôi môi con trẻ của cậu:
- Có lẽ ông chủ muốn dùng nó đi săn chăng?…
Charlie Hunker ngửa đầu ra cười oang oang:
- Cái túi da bọc xương ấy ư? Mắt thì mù như một con dơi. Và cũng chẳng phân biệt nổi một con gấu với một gốc cây mục.
Toni cúi xuống nhìn con chó đang nằm dưới chân cậu ta. Benji là một con chó để đánh hơi con mồi, màu lông nâu đậm và loăn xoăn. Mắt nó không nhìn thấy gì nữa rồi. Nhưng nó là bạn của Toni, đi đâu nó đều theo sát.
Toni đi về phía ngôi nhà lớn với con Benji sát gót, mặt trời tháng ba ấm nóng hứa hẹn một mùa xuân tới sớm. Những cây linh sam cao to phủ kín sườn núi kéo dài xuống tận khu đồng cỏ chăn nuôi.
Cả đời mình, Toni sống trong miền Caribou này, vùng chăn nuôi gia súc lớn tốt nhất nước Canada. Mồ côi từ sớm, Pop Mac Kenzi đã nhặt cậu về nuôi và nuôi nấng tại đây. Giờ đây cụ đã mất và mọi sự đều đã đổi thay. Ông Gormen, ông chủ mới, đã điều khiển trại với bàn tay sắt. Như Charlie Hunker đã từng nói:
- Đúng là ông ấy có vung roi lên, nhưng ông đã làm cho nơi đây trở thành có giá.
Ngôi nhà lớn bằng gỗ mộc nằm trên ngọn đồi dưới bóng những cây gạo. Nita, cô gái da đỏ, dẫn Toni vào cửa bên. Cô cúi xuống cười với cậu, hàm răng trắng bóng loá lên. Toni khi nào cũng thích Nita. Cô thường cho cậu những tảng bánh bột kiều mạch và xúc xích để ăn sáng. Thế nhưng những chuyện đó đã lùi xa vào dĩ vãng rồi.
Toni đứng đợi không thoải mái, hết chuyển đứng chân này lại đứng sang chân kia trong căn phòng khách rộng lớn. Toàn bộ khung cảnh này trước đây thật quá quen thuộc với cậu, và nơi đây có lúc là nơi cậu ở.
Nhìn qua khung cửa lớn như một bức tranh, cậu trông thấy ông Gormen lái một chiếc xe Jeep, trên xe có cả đứa con trai lên năm ôm chặt trong tay một con gấu xù lông đồ chơi.
Một mình ông Gormen vào nhà thôi. Đó là một người cao lớn, khuôn mặt đỏ au vì năm này qua năm khác, phóng ngựa trước những ngọn gió quật vào.
- Tôi gọi cậu tới đây, Toni ạ, vì tôi muốn nói chuyện với cậu về con Benji.
Toni ngẩng đầu nhìn lên, trên mặt cậu hiện lên một vẻ khó hiểu.
- Benji là một con chó già rồi, Toni ạ - Ông Gormen nói tiếp – Nó đã mù và không đi đâu được nữa. Để cho một con vật già đến thế là không tốt cho nó. Vì như thế là không tự nhiên.
Toni nuốt nước bọt một cách khó nhọc. Cậu nói:
- Thưa ông Gormen, nuôi nó có tốn gì đâu, chỉ một chút mẩu thừa mảnh vụn sau bữa ăn. Nó cũng chẳng làm phiền gì.
- Này, Toni, tôi là một người chủ trang trại gia súc lớn, và trước đó tôi là thú y sĩ. Cả đời tôi chỉ có công việc làm ăn gần gũi với thú vật thôi. Tôi biết rõ cậu nghĩ gì. Thế nhưng khi một con vật sống quá cái hạn có ích thì nó chỉ cản trở mà thôi. Cậu cần phải biết điều đó.
Toni cảm thấy một cục sợ quặn trong dạ dày mình. Cậu nói:
- Tôi xin hứa sẽ không để nó làm phiền ai.
Lời ông Gormen tỏ ra cứng rắn:
- Này, Toni, tôi định nói với cậu là chúng ta phải khử con Benji đi.
Toni lắc đầu không tin:
- Ông nghĩ như vậy là tốt ạ?
Ông Gormen gật đầu:
- Đúng thế, Toni ạ, là tốt đấy.
Toni thật khó mà tin được vào tai mình nữa. ông Gormen định giết con Benji.
Mới một năm trước đây ông Gormen tiếp thu trang trại này, và Toni phải tới sống tại nhà ngủ tập trung của công nhân. Giờ đây ông ta lại muốn thải một người bạn duy nhất của cậu. Thật chẳng hay ho tốt đẹp tí nào.
Những giọt nước mắt dâng lên mắt Toni. Cậu quỳ gối xuống và đưa hai cánh tay ôm quàng lấy cổ con Benji.
- Rất có thể nó sẽ chết một ngày không xa…Thưa ông, có nên cố đợi khi đó chăng?
Một nét đau đớn hiện qua bộ mặt ông Gormen, nhưng giọng nói của ông vẫn kiên quyết:
- Không được, Toni ạ. Tôi yêu cầu cậu và con Benji lên xe đi cùng tôi. Tôi đã chuẩn bị sẵn các thứ đây rồi. Xong việc, chúng ta sẽ tới khu nuôi chó.
Toni lẳng lặng đi ra cửa, một chút đắng cay dâng lên trong ngực cậu.
Trong lúc đi trên xe, ông Gormen cố tìm cách nói chuyện với Toni:
- Có một ổ chó lùn ở khu trại chó. Khi tới đó cậu có thể nhặt một con để mà nuôi riêng. Điều đó sẽ khiến cậu quên con Benji đi.
Toni nghe thấy ông ta nói, nhưng những lời lẽ đó chẳng có nghĩa gì với cậu hết. Cậu chẳng muốn quên Benji. Cậu muốn nhớ.
Cậu đã nghĩ tới việc bổ nhào ra khỏi xe, mang theo con Benji và chạy trốn. Nhưng liệu có bao nhiêu cơ may đi thoát? Suốt gần hai tiếng đồng hồ cậu luôn luôn sống dưới con mắt theo dõi của ông Gormen. Vả chăng làm gì bây giờ cũng là muộn.
Họ dừng lại trước khu trại chó và vào bên trong. Ông Gormen đặt con Benji lên trên một cái bàn. Ông xem xét răng con chó và nhìn vào đôi mắt trắng màu sữa của nó. Ông khẽ lắc đầu và lấy ra một cái ống tiêm to lớn và hút đầy một thứ nước không có màu sắc gì cả. Sau đó ông quay lại nói với Toni:
- Tốt nhất cậu ra ngoài kia chờ, chỉ một phút là xong xuôi thôi.
Lòng đau thắt, Toni lững thững bước ra ngoài. Cậu muốn quay lại và xin tha chết cho con Benji, nhưng cậu biết chắc là chẳng có ích gì.
Thốt nhiên, qua làn nước mắt nhoè trên mặt cậu nhìn thấy một người nào đó đang từ đỉnh đồi chạy xuống. Đó là Nita, cô gái da đỏ, với đôi bím tóc đen nhánh tung bay trong lúc cô ta chạy vội. Cô chạy ào qua Toni, thở chẳng ra hơi và nức nở lên tiếng gọi ông Gormen:
- David đi lạc mất rồi. Chúng cháu chẳng tìm thấy đâu.
Mấy giây sau, ông Gormen đã chạy ngược lên quả đồi cùng với Nita chạy sát gót.
Toni đi vào trong trại chó, những tưởng thấy Benji đã chết rồi. Nhưng Benji vẫn còn sống đó, đuôi ngoe nguẩy và thở khụt khịt. Bộ kim tiêm và ống tiêm vẫn đặt trên bàn chưa động chạm gì tới.
Tim Toni đập nhanh. Đây chính là cơ may mà cậu vẫn trông chờ từ lâu. Bọn họ đang mải tìm thằng bé đi lạc. Họ sẽ chẳng khi nào nhận ra.
Toni đi ngang nhà ăn tập thể của công nhân đi lên phòng mình, vội vã ném vài thứ quần áo vào trong một chiếc ba lô. Cậu định ra đi thì chợt nghe thấy có tiếng bước chân ngay phía sau. Cậu quay lại và nhìn thấy Charlie Hunker đang đứng trên lối đi ra, hai cánh tay to lớn khoanh trước ngực.
- Đi đâu? – Bác ta hỏi.
Chẳng còn thì giờ để tìm cách lừa bất kỳ ai nữa. Toni đành nói thật:
- Cháu đi khỏi nơi đây.
Charlie Hunker gãi gãi bộ râu lởm chởm trên mặt:
- Thời tiết tồi tệ này mà lại đi?
- Nếu bác định nói về thằng bé David – Toni nói – thì thế nào họ cũng sẽ tìm ra nó.
- Bao la bát ngát thế này….Họ cần ta giúp mới xong.
Toni nhún vai:
- Đó là việc của họ!
Nói rồi cậu đi ra cửa.
Cậu bắt đầu đi dọc theo những cánh rừng, hướng tới đường đi Caribou. Cậu không nhìn thấy những người cưỡi ngựa tập, cũng không thấy những công nhân dắt ngựa đi dạo. Cậu biết rằng họ đang đổ xô gần hết lên núi để tìm kiếm đứa con ông chủ.
Cậu nghĩ tới thằng bé David một thân một mình và hãi hùng trên núi. Đêm qua tiết trời lạnh xuống gần không độ. Nếu họ không kiếm được thằng bé trước khi tối trời, hẳn là nó sẽ khó mà có được một cơ may nào sống nổi. Cậu hơi ngoái lại phía sau để nhìn con Benji đang đi theo sát bước cậu. Con chó già dí mũi xuống sát đất mà đi.
Lần đầu tiên trong đời cậu biết được rằng con Benji đi theo được chỉ nhờ vào việc đánh hơi thôi. Con chó đang đi theo một dấu vết dài. Nếu như con Benji có thể theo vết cậu một cách dễ dàng đến thế, tại sao lại không theo được dấu vết kẻ khác? Cậu cố rũ bỏ ý nghĩ đó khỏi đầu óc mình, nhưng ý nghĩ đó vẫn quay trở lại quấy rầy cậu. Kể cũng nên thử xem sao. Và gần như không nghĩ ngợi gì hết, cậu quay lại và đi về phía khu trại chăn nuôi.
Những vết chân xinh xinh của thằng bé David vẫn còn in dấu trên mặt đất ẩm gần căn nhà. Toni dẫn con Benji tới đó, vỗ về dỗ dành nó, cố làm cho nó nhận ra mùi dấu vết thằng bé. Nhưng con chó già hình như chẳng hiểu gì hết.
Toni cố sức nghĩ xem phải làm gì. Thốt nhiên cậu nghĩ tới cô Nita.
Nghe tiếng Toni gõ cửa, cô gái da đỏ chạy ra, đôi mắt còn đỏ hoe vì gào khóc. Toni nói cho cô nghe cậu định làm gì, và cô chạy biến vào phòng rồi quay ra với một chiếc bít tất dài.
Toni cầm chiếc tất dí sát mũi con chó.
- Tìm nó đi, Benji, tìm nó đi!
Hai lần con chó đi ra ngoài một cách ngập ngừng, chạy một vòng rộng, rồi lại quay về nơi xuất phát. Toni lại cố một lần nữa, cậu đem chiếc bít tất đặt trên những vết chân của thằng bé. Lần này hình như con Benji hiểu ý. Nó đang cố lần ra một vết đi.
Nó bắt đầu đi xuống cánh đồng, trượt dọc theo những cánh đồng, thỉnh thoảng lại quay trở lui. Sau đó nó vòng về phía tay trái và bắt đầu đi lên núi.
Toni vẫn hoàn toàn không tin chắc là con chó đã theo đúng hướng. Có hàng chục người đi tìm kiếm đi theo chính con đường này đã một giờ rồi. Con Benji rất có thể lẫn lộn dấu vết lắm.
Toni cùng con chó vẫn tiếp tục đi lên, leo lên tận những cánh rừng mọc đầy những cây thích. Những lát băng mỏng vẫn còn phủ lên trên những vũng nước bằng lặng tạo thành bởi những đợt tuyết tan sớm. Những bờ khe đầy đá và dốc làm cho việc đi đứng thật khó khăn. Thời gian dài trôi qua, và tài năng cùng kinh nghiệm của con Benji bắt đầu bộc lộ.
Mắt thì mù, con Benji phải lần theo dấu vết sát mặt đất, mũi và mõm nó va vào mặt đất trần trụi sưng phồng cả lên.
Trời ập tối và bắt đầu ớn lạnh. Gió lạnh bắt đầu xói vào qua cả lớp quần áo dầy dặn của Toni và càng làm cho cảnh tìm kiếm vô ích thêm tuyệt vọng. Mệt và đói, Toni vấp ngã trong bóng tối. Nhưng với Benji thì trời tối cũng chẳng sao. Trong cảnh mù thì trời tối hay trời sáng với nó cũng thế thôi.
Thỉnh thoảng Toni lại lên tiếng gọi vang vào trong miền im lặng tối tăm. Nhưng chẳng có tiếng gì đáp lại. Nhiệt độ tiếp tục hạ thấp. Mặt trăng sáng mờ mờ chiếu qua cành lá làm cho cảnh núi non như trở thành ma quái.
Toni đã mất hết cảm giác về thời gian và phương hướng. Giờ đây cậu phải đi theo con Benji nếu không thì chính cậu cũng lạc đường.
Cậu tiếp tục cất tiếng gọi cho tới khi có tiếng vọng hồi âm. Lại một giờ nữa trôi qua và cậu đã loạng choạng lảo đảo. Tìm kiếm chẳng ích gì. Cậu đã mất hết mọi hy vọng. Cậu thử làm cho con Benji quay lại, nhưng con vật bướng bỉnh cứ xông lên và đánh hơi khụt khịt. Con Benji thì lại đang rất kích động, nó chạy thành những vòng tròn nhỏ và sủa khẽ. Mới đây, Toni nghĩ nó đã hoá rồ, nhưng về sau cậu đã thấy cái gì đó tạo ra những hành động đó ở con chó. Dưới một bụi cây, đôi mắt bằng thủy tinh trừng trừng nhìn trăng, là một con gấu đồ chơi.
Toni nhanh nhẹn nhặt con gấu nhỏ lên và gọi con chó:
- Tìm nó đi, Benji, tìm đi!
Giờ đây Benji đã trở thành dữ tợn, nó chạy xuyên qua các bụi cây, mùi vết nó lần theo còn mới tinh nơi lỗ mũi nó.
Khoảng trăm bước sau, cả hai tìm thấy thằng bé. Nó đã đuối sức quá, không còn kêu lên nổi một tiếng nào nữa, nhưng mắt nó vẫn chớp chớp và Toni biết rằng nó vẫn còn sống.
Hai giờ sau, Toni lảo đảo loạng choạng đi vào nhà ngủ tập thể của trại chăn nuôi, người mệt muốn chết, với thằng bé đang ngủ trên cánh tay cậu.
Bác Charlie Hunker ngẩng đầu lên nhìn. Vẻ lo ngại trên mặt bác chuyển thành một nụ cười rạng rỡ, phô hết cả hàm răng ra.
Bác bọc thằng bé con vào một chiếc chăn. Bác nói:
- Có café trên bếp lò ấy. Tao đi rồi về ngay. Để rồi tao sẽ hâm nóng thêm cho mấy ly nữa.
Toni uống café nóng và cho con Benji một chút café nguội. Sau đó, trước khi bác Charlie quay lại, cậu ra lối cửa sau và đi vào trong bóng đêm. Cậu cùng Benji đi dọc theo con đường Caribou và vừa đi vừa cố cưỡng lại cái mệt mỏi.
Benji mệt trước. Khe khẽ rên rỉ, nó dừng lại bên vệ đường liếm chân. Lạnh và mệt, Toni nằm dài xuống bên con chó già.
Khi Toni thức giấc, cậu thấy mặt trời buổi sớm chiếu rọi thẳng vào mặt mình. Cậu và con Benji đều được che phủ bằng một chiếc chăn dầy dặn và trên đầu cậu là một chiếc áo khoác của người đàn ông làm gối. Cậu vội nhìn lên và thấy chiếc xe Jeep đậu ngay giữa đường lớn. Đứng sau xe là ông Gormen đang bình thản hút tẩu thuốc. Đôi mắt ông mệt mỏi vì mất ngủ, nhưng đôi môi lại nở nụ cười. Ông nói:
- Toni, đã tới giờ về rồi chứ?
Toni đứng lên, mắt nhìn ông Gormen.
- Tôi không có nhà - Cậu nói – và tôi cũng không bỏ rơi con Benji đâu.
- Đó chính là điều tôi định nói với cậu vậy – Ông Gornen nói – Trong chuyện con Benji, tôi sai, và tôi cũng sai trong nhiều việc nữa. Nếu cậu thay đổi ý kiến, tôi rất mong cậu trở lại và sống cùng chúng tôi trong ngôi nhà lớn.
Toni thấy khó mà tin nổi ở đôi tai mình.
- Và có cả con Benji nữa chứ? – Toni hỏi.
- Cả con Benji nữa! – Ông Gormen gật đầu.
Mấy phút sau, hai bên ngồi với nhau trên chiếc xe hơi, hai tay Benji quàng quanh cổ con Benji.
- Có lẽ chúng mình nên ăn sáng với nhau nhỉ? - Ông Gormen nói - Cậu thích ăn gì?
Toni cười ngoác lên tận tai. Cậu nói:
- Bánh bột kiều mạch và xúc xích.
Ông Gormen nháy mắt:
- Bánh bột kiều mạch và xúc xích, đúng!
Trên chiếc đồng hồ cũ kỹ, bác thợ rèn bằng đồng hun, to không hơn một chú lính chì, đang giơ búa lên. Có tiếng “ cạch ”, và chiếc búa hạ xuống cái đe bằng đồng, với một tiếng ngân vui vẻ vang khắp căn phòng rồi chìm lặng đi dưới tủ sách. Bác thợ rèn nện tám tiếng. Bác chuẩn bị nện tiếng thứ chín, nhưng cánh tay bác dừng lại giơ trên đầu. Bác cứ đứng như vậy suốt một giờ đồng hồ, tay giơ cao, đợi để đánh tiếng thứ chín lên đe.
Bé Masha đứng cạnh cửa sổ nhìn ra ngoài trời, không quay đầu lại. Nếu em quay đầu lại, vú già Petrovna ( chắc chắn như vậy ) sẽ tỉnh giấc và sẽ bắt em quay vào giường nằm.
Vú Petrovna đang ngủ chập chờn trên đi văng, và mẹ thì đang ở nhà hát, bao giờ chẳng thế. Mẹ múa ở nhà hát nhưng chẳng khi nào cho cô con gái nhỏ cùng đi.
Nhà hát, thật là mênh mông; có những cột bằng đá và bốn con ngựa bằng gang đang lồng trên nóc. Và có một người đàn ông trên đầu có một vòng lá đang ghìm giữ bốn con ngựa lại. Người đó hẳn khoẻ vô cùng. Khoẻ và dũng cảm mới ghìm nổi bốn con ngựa hung hăng đến thế trên nóc nhà chứ. Vó những con ngựa nhao ra khoảng không. Em bé xúc động nghĩ bụng về những gì có thể xảy ra một khi người kia không đủ sức giữ chúng lại nữa; chúng sẽ rời khỏi mái và lao xuống quảng trường ầm ầm ngay trước mắt các chú dân phòng.
Trong nhiều ngày qua, mẹ khi nào cũng xúc động. Lần đầu tiên mẹ sẽ múa trong vai Lọ Lem, và mẹ đã hứa sẽ cho cả vú Petrovna cùng bé Masha tới coi. Chỉ còn hai ngày nữa thôi. Mẹ đã lôi trong chiếc rương lớn ra một bông hoa nhỏ bằng pha lê hết sức tinh tế. Một món quà tặng của ba. Ba là thủy thủ và sau một trong những chuyến đi xa về, ba đã đem bông hoa đó tặng mẹ.
Sau rồi ba ra trận. Ba đã đánh chìm nhiều chiến thuyền phát xít. Chính ba cũng đã bị chìm hai lần, và ba cũng đã bị thương nữa. Nhưng ba còn sống. Và giờ đây ba lại đi xa, tới một nơi có tên gọi đến tức cười: Kamtratka, và mãi tới mùa xuân ba mới trở lại kia…
Mẹ nhấc bông hoa pha lê ra và thầm thì điều gì với nó. Chuyện thật lạ kỳ, vì trước nay chưa từng thấy mẹ nói chuyện với đồ vật bao giờ.
- Rồi đó, ngày vinh quang của mi đã tới - Mẹ nói.
Và Masha đã hỏi mẹ:
- Ngày gì hả mẹ?
- Con còn nhỏ lắm, con chưa hiểu nổi…Khi tặng mẹ bông hoa này, ba nói với mẹ: “ Khi nào lần đầu tiên em múa trong vai Lọ Lem, em hãy gài bông hoa nhỏ này vào ngực áo sau khi đã múa hết màn vũ hội trong lâu đài. Và anh sẽ biết rằng chính lúc đó em đã nghĩ tới anh ”.
Masha phật ý đáp lại:
- Con không còn bé nữa đâu, và con hiểu hết!
- Con hiểu thế nào?
- Tất cả!
Masha thấy đỏ mặt xấu hổ, vì khi nào em nói điều gì, em đều thích mọi người đều tin.
Mẹ đặt bông hoa pha lê lên bàn và dặn Masha không được động tới bất kể vì lý do gì, vì nó rất mỏng manh.
Và vì vậy tối đó bông hoa mới nằm trên bàn lóng lánh gần Masha. Yên tĩnh quá; mọi vật dường như ngủ cả: cả ngôi nhà, cả khu vườn bên kia lớp cửa kính, cả con sư tử bằng đá nằm dưới kia, gần cửa, càng ngày càng trắng ra vì tuyết đang rơi phủ xuống thân nó. Riêng Masha không ngủ. Cả cái lò sưởi điện cũng không ngủ. Cả mùa đông cũng không ngủ. Masha nhìn qua cửa sổ, trong khi nước trong lò sưởi điện đang khẽ ca khúc ca ấm áp, trong khi mùa đông từ trên đang trút xuống tuyết dày và lặng lẽ đang bốc bay trước ngọn đèn, trước khi hạ xuống đất. Masha không sao hiểu nổi vì đâu mà những bông hoa to và đỏ thế kia trong giỏ trên bàn của mẹ lại có thể nở giữa mùa đông trong khí trời băng giá. Nhưng em còn ít hiểu hơn con quạ màu xám đang đậu trên cành cây kia và nhìn em không chớp mắt qua làn ô kính cửa sổ.
Con quạ đang đợi lúc vú già mở cánh cửa sổ cho thoáng nhà và sau đó dắt Masha vào phòng tắm.
Khi đó, quạ sẽ tới đậu trên thành cửa sổ, công việc ngày ngày nó vẫn làm thế, sau đó nó sẽ lẻn vào trong phòng, nó sẽ ăn trộm một thứ gì đó, bất kể thứ gì, rồi vội quay ra vườn. Nó vội vã lắm, đến mỗi lần nào cũng vậy, nó đều quên chùi chân và vì thế nó làm bẩn cả thảm trải nhà. Mỗi bận từ phòng tắm trở lại, vú Petrovna đều giơ tay lên trời và la lên:
- Chà chà, con vật quỷ quái, nó lại đánh cắp cái gì đó rồi!
Masha bắt chước điệu bộ vú già, và hai u con liền tìm xem vật gì vừa biến mất. Thông thường là một miếng đường, một chiếc bánh bích quy hoặc một khúc dồi.
Con quạ trú ở quầy hàng, Masha vẫn mua kem hồi mùa hè, và lúc này vào mùa đông người ta đã chèn chặt cửa hàng bằng những chiếc đanh to tướng. Con quạ tham lam và hay càu nhàu. Trong một kẽ hở của quầy hàng, nó trữ mọi tài sản bằng cách lấy mỏ khẽ mổ và nhét vào, nó làm thế để cho lũ sẻ không tới ăn trộm.
Có khi, giữa đêm, nó mơ thấy lũ sẻ lỉnh vào trong quầy hàng và ăn trộm của nó những mẩu dồi cứng lạnh, một chút vỏ cam, hoặc một mảnh giấy bạc gói kẹo sôcôla. Khi đó nó giận dữ vừa ngủ vừa quạc quạc ồn lên, và chú dân phòng nơi góc phố phải quay đầu lại lắng nghe. Đã nhiều đêm rồi, chú nghe thấy tiếng quạ kêu trong quầy hàng, và chú ngạc nhiên không rõ vì sao. Có khi chú tới gần quầy hàng, lấy tay che mắt khỏi bị ánh sáng cây đèn đường làm loá, và cố nhìn vào bên trong. Nhưng chú chẳng nhìn thấy gì, trong đó tối om om, trừ một cái hòm cũ màu trắng in trên nền sàn.
Một hôm, quay trở lại quầy hàng, con quạ bắt gặp Paska, một con chim sẻ nhỏ bù xù.
Cuộc đời đối với loài sẻ nhỏ thật là gian nan.Trong thành phố, lúa mạch ngày càng hiếm, ngựa cũng thế. Thời xưa (ông nội của Paska, một con sẻ già được đặt tên là Siskin, thì vẫn còn được biết cái thời đó ), chim sẻ đông có đàn có bầy, suốt từ sáng chí tối, trên các quảng trường, nơi đó xe ngựa đậu và lúa mạch vãi tung toé khỏi cái túi đựng cho ngựa ăn.
Giờ đây chỉ có ô tô trong thành phố! Ô tô thì không ăn lúa mạch như những bác ngựa hiền hậu, chúng uống một thứ nước độc có mùi hăng xè. Và loài sẻ ngày càng hiếm hoi, con về nhà quê sống bên các bác ngựa, con tới các bến cảng nơi đó đang bốc dỡ các thứ hạt, nơi đó loài sẻ sống trong cảnh vui vẻ, sung túc.
- Ngày xưa – Siskin kể - chim sẻ có hàng đàn vài ba ngàn con. Và mỗi khi bốc bay, tiếng rào rào thật mạnh khiến cho ngay cả những con ngựa kéo xe cũng phải giật thót lên và nói: “ Lạy Chúa tôi! Không làm sao mà trị nổi cái bọn rắn mày rắn mặt này ”. Thế rồi ở chợ nổ ra những cuộc chiến tranh chim sẻ, lông chim bay tứ tung…Giờ đây mà như vậy thì đừng có hòng mà yên lành với các chú dân phòng.
Paska bị con quạ bắt gặp lẻn vào trong quầy hàng bỏ trống lúc nó vẫn chưa kịp đánh cắp thứ gì cả. Quạ dùng mỏ đánh mạnh vào đầu sẻ Paska. Nó ngã lăn ra, mắt trợn ngược: nó giả tảng chết. Quạ hất nó ra khỏi quầy hàng rồi quạc lên một tiếng thật dài: nó nguyền rủa cả họ sẻ ăn trộm vặt.
Chú dân phòng quay lại nhìn rồi đi tới quầy hàng. Paska đang nằm trên tuyết. Đầu nó đau khủng khiếp và mỏ nó chỉ hé ra được thôi.
- Tội nghiệp sẻ con – Chú dân phòng nói và tháo găng tay ra, cho con sẻ vào rồi nhét tất cả vào túi - Đời mày thật cực!
Trong túi chú dân phòng, Paska chớp chớp mắt, nó khóc vì đói và vì tuyệt vọng. Một mẩu vụn bánh thôi! Con người thường vẫn có vụn bánh khô trong túi. Nhưng trong túi chú dân phòng chẳng có, chỉ có chút vụn thuốc lá thôi.
Sáng hôm đó, vú Petrovna cùng bé Masha ra công viên chơi. Chú dân phòng gọi em lại và hỏi, vẫn với vẻ nghiêm nghị thường ngày:
- Nữ công dân, đồng chí có cần một con sẻ không? Một con sẻ nhỏ để nuôi?
- Ô, có chứ, Masha sẽ rất sung sướng nếu có một con. Sung sướng lắm lắm ấy!
Khuôn mặt chú dân phòng với nước da mịn và ửng đỏ vì gió lạnh, chợt nhăn lại: chú cười. Chú lôi con chim trong túi ra:
- Thì đây, cho cháu. Cầm cả bao tay nữa. Nếu không nó vụt bay mất. Buổi trưa chú hết phiên trực. Khi đó cháu sẽ mang bao tay trả chú.
Masha mang chim nhỏ về nhà. Em chải lông cho nó, cho nó ăn và thả nó ra. Con chim đậu trên mép đĩa nước và uống nước trà trong đó. Sau đó nó ngồi nghỉ trên đầu bác thợ rèn bé tí trên chiếc đồng hồ. Nó đang gà gật ngủ thì đột nhiên bác thợ rèn nổi giận giơ búa lên. Chút nữa thì bác ta nện con Paska, nếu con này không kịp vỗ mạnh cánh bay, và bay tới đậu vào nhà thơ ngụ ngôn Krylov bằng đồng hun trơn tuột, đậu vào đó thực khó khăn quá chừng. Bác thợ rèn nện, rồi lại nện vào đe. Bác nện như vậy đủ mười một tiếng.
Con sẻ sống cả ngày và cả đêm trong phòng Masha. Và buổi chiều nó thấy con quạ bay qua cửa sổ vào ăn cắp trên bàn một đầu cá khô. Nó nấp sau nhưng bông hoa màu đỏ và im lặng quan sát.
Kể từ hôm đó, Paska ngày nào cũng tới với Masha để nhặt các mẩu vụn bánh, và nó cứ nghĩ không biết cảm ơn cô bé cách nào đây?
Một bận, Paska đem cho Masha một con sâu chết cóng nó bắt được trên một cành cây ngoài công viên. Nhưng cô bé không ăn sâu, còn bà Petrovna thì nhặt con sâu vứt qua cửa sổ, miệng làu bà làu bàu.
Thế là Paska tìm cách khéo léo thu hồi lại từ trong quầy hàng các thức con quạ ăn trộm của Masha. Nó làm như thế để trả thù con quạ. Nó lấy về khi thì trái cây khô, khi thì một mẩu bánh ngọt cứng như đá, hoặc có khi thì một mẩu giấy gói kẹo màu đỏ.
Hẳn là con quạ còn ăn trộm ở nhiều nơi khác nữa, vì lắm khi Paska lầm và mang về cả những thứ không phải của Masha: một chiếc lược, một quân bài đầm, hoặc một ngòi bút máy vàng.
Nó bay qua lối cửa sổ, ném mọi thứ xuống sàn nhà, bay những vòng rộng trong phòng rồi biến rất nhanh, chỉ thoáng như một cục tròn có lông chứ không ra hình con sẻ.
Chiều hôm đó, bà Petrovna ngủ nhiều hơn lệ thường. Còn Masha thì thích được thấy con quạ lẻn qua cửa sổ vào nhà. Đó là điều nó chưa từng được thấy.
Em leo lên một chiếc ghế dựa, mở cửa sổ ra, rồi nấp sau tủ. Những bông tuyết to bay vào trong phòng và tan thành nước trên sàn nhà…Chợt có một tiếng nghiến khẽ, và Masha thấy con quạ vào trong phòng, soi gương, xù lông ra khi trông thấy một con quạ khác trong gương với vẻ mặt ra chiều hung hãn, rồi lấy cắp bông hoa pha lê và bay ra ngoài cành cây.
Masha kêu lên một tiếng. Vú Petrovna thức giấc, mắng em, và thấy buồn bực. Khi mẹ ở nhà hát về, mẹ khóc thật lâu, đến nỗi Masha cũng khóc theo. Song vú Petrovna vẫn cố khuyên giải: đau buồn quá đang như vậy mà làm gì; biết đâu rồi có lúc chẳng lấy lại được, thật đấy chứ, bông hoa của ba mất sao được! Trừ phi con quạ tinh quái kia không đánh rơi xuống tuyết.
Buổi sáng, con sẻ tới như thường lệ và đậu lên đầu nhà thơ ngụ ngôn Krylov. Sau khi biết câu chuyện mất hoa, nó sù lông ra và ngẫm nghĩ một hồi.
Khi mẹ tới nhà hát tổng diễn tập, nó bay theo, chuyền từ cành này qua cành nọ, qua cột kia, qua biển khác. Khi tới nhà hát, nó đậu vào một đầu ngựa bằng gang, cọ mỏ, lau một giọt nước mắt, khẽ kêu lên một tiếng rồi bay đi mất.
Buổi chiều, mẹ cho Masha mặc áo có tạp dề trắng thường diện ngày chủ nhật; vú Petrovna thì quàng trên vai một tấm xa tanh nâu, và cả ba người tới nhà hát. Trong thời gian ấy, theo lệnh của Siskin, Paska tụ tập tất cả chim sẻ trong vùng lại. Chúng bay thành đàn tới vây quanh quầy hàng nơi con quạ giấu bông hoa pha lê. Từ mái nhà xung quanh, lũ sẻ khiêu khích quạ gần hai tiếng đồng hồ, cố làm cho nó cáu và chui ra khỏi chỗ ẩn náu. Như vậy có thể đánh nhau giữa trời và cùng lúc cả đàn sẻ lao vào quạ. Nhưng quạ khôn lắm: nó biết sẻ là loài lắm mưu mẹo, nên nó ở lỳ trong quầy hàng.
Cuối cùng, lấy hết can đảm, các con sẻ lần lượt lao vào trong quầy hàng, và sau đó bên trong quầy nổi lên tiếng hỗn loạn, khiến cho chẳng mấy chốc biết bao nhiêu người đã tụ tập lại bên ngoài quầy.
Chú dân phòng chạy lại. Chú nhìn quầy hàng và lui ra. Lông chim bay tứ tung và không thể nhìn thấy gì hết.
- Chà chà – Chú nói - một trận chiến chưa từng thấy.
Và để chấm dứt cuộc chiến tranh loạn ẩu, chú liền tháo gỡ các tấm gỗ chặn cửa quầy hàng.
Đúng vào lúc đó, tại nhà hát, các dây đàn violông và violông-xen khẽ run rẩy cất tiếng. Viên nhạc trưởng tài năng khẽ nâng bàn tay xanh xao, đưa tay sang hai bên, và cùng với tiếng nhạc cất cao thì cánh màn nhung khẽ động đậy và nhích sang hai bên sân khấu. Masha nhìn thấy một gian phông to và đẹp chan hoà ánh mặt trời màu vàng, nơi có hai chị em nhà giàu mà xấu cùng bà mẹ ghẻ láu lỉnh, còn mẹ của Masha thì người thanh mảnh, đẹp đẽ xinh tươi, mặc một chiếc áo dài màu xám.
- Lọ lem! – Masha thì thầm, và mắt em dán chặt vào sân khấu.
Trong ánh sáng xanh, hồng và vàng rực rỡ, toà lâu đài hiện ra dưới ánh trăng. Và Lọ Lem trong khi leo các bậc thang đã đánh rơi chiếc hài bằng pha lê.
Được nghe nhạc thật sung sướng biết bao! Masha đau đớn cùng với mẹ và sung sướng với mẹ, tựa hồ như các cây đàn cũng là những con người đang sống, những con người tốt bụng. Những người đó làm mọi việc để giúp đỡ mẹ, cả ông nhạc trưởng cũng thế, ông chỉ lo cho mẹ Masha và suốt buổi ông không ngoảnh lại nhìn khán giả.
Điều đó thật thiệt thòi cho ông, vì nếu ông nhìn lại, ông sẽ thấy vô số trẻ em má đỏ bừng vì sung sướng.
Những bà soát vé, những người không khi nào được xem vở diễn, cứ phải đứng canh cửa, tay cầm các tờ chương trình, nhưng lần này các bà cũng rón rén bước vào phòng, khép cửa lại và cùng đưa mắt nhìn mẹ Masha. Một bà còn lau nước mắt nữa. Bởi vì cái cô Lọ Lem múa thật đẹp kia là con gái một bà bạn đã qua đời, bà bạn đó xưa kia cũng là người soát vé như bà.
Cuối vở, trong khi âm nhạc vui tươi và đầy sức mạnh đang cất tiếng ngợi ca hạnh phúc, làm tràn đầy ánh sáng lên khuôn mặt mọi người, trong lúc mọi người đang ngạc nhiên thấy nước mắt long lanh trên khuôn mặt cô Lọ Lem đang hạnh phúc, thì một con sẻ nhỏ đã lẻn qua hành lang và các cầu thang, nhào vào phòng với tất cả sức mạnh của đôi cánh nhỏ. Con sẻ bù xù và mọi người biết chắc rằng nó vừa ra khỏi một cuộc chiến đấu ác liệt nào đó.
Nó bay quanh trên sân khấu, mắt loá đi vì bao nhiêu đèn, và mọi người thấy lóng lánh nơi mỏ nó có cái gì tương tự như một nhánh cây bằng pha lê.
Một tiếng reo vang lên trong nhà hát rồi liền sau đó dịu đi. Nhạc trưởng giơ bàn tay ra và nhạc im bặt. Những người ngồi hàng ghế cuối đều đứng lên coi xem có chuyện gì trên sân khấu. Con sẻ tới bên Lọ lem. Lọ Lem chìa bàn tay ra, và trong khi con sẻ vẫn bay như thường, nó buông vào hai tay nàng Lọ Lem một bông hoa pha lê nho nhỏ. Những ngón tay nàng run rẩy gắn bông hoa lên ngực áo.
Nhạc trưởng vẫy đũa chỉ huy. Nhạc lại cất lên rộn rã. Tiếng vỗ tay vang lên làm rung cả những bóng đèn, trong khi ấy con sẻ bay dưới vòm mái nhà hát và tới đậu lên một chùm đèn rồi lấy mỏ rỉa bộ lông bù xù.
Nàng Lọ Lem mỉm cười, chào mọi người, và nếu như Masha không biết tinh tường mọi việc, hẳn em không thể nghĩ đó là mẹ mình cho được.
Khi trời đã khuya lắm rồi, mấy người về nhà và khi mẹ đã tắt bớt đèn rồi tuyên bố đã tới lúc đi nằm, Masha buồn ngủ lắm rồi vẫn hỏi mẹ:
- Lúc cài hoa lên ngực áo, mẹ có ý nghĩ tới ba không?
- Có - Mẹ nói sau lát giây im lặng.
- Vậy sao mẹ khóc?
- Mẹ thấy sung sướng vì có những người như ba con.
- Không – Masha thì thầm – không phải vì thế đâu. Khi sung sướng thì không khóc, cười mới đúng chứ?
- Khi hạnh phúc quá lớn, người ta khóc, con ạ - Mẹ đáp lại – Và bây giờ con phải đi nằm thôi.
Masha ngủ. Vú Petrovna cũng ngủ. Mẹ tới bên cửa sổ, Paska đang ngủ gà gật trên một cành cây. Yên tĩnh quá chừng. Các bông hoa tuyết đang rơi lặng lẽ từ trên trời xuống làm cho cái yên ắng thêm sâu. Và mẹ nghĩ rằng, cũng như những bông hoa tuyết kia, các giấc mơ hạnh phúc cùng các câu chuyện kể đã rơi xuống nhẹ nhàng với những người đang ngủ yên, hệt như thế….