Ngày 23 tháng chạp năm Đinh Tỵ (tức ngày 2/2/1857), dịp lễ Tết truyền thống của người Việt chính thức bắt đầu bằng lễ đưa ông Táo về trời. Ông Táo trong truyền thống dân gian là vị thần bếp có thần chức đầy đủ là Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân. Táo Quân trong truyền thuyết của người Việt và người Hoa Hạ là khác nhau. Thậm chí giữa người Hoa và người Hạ cũng khác nhau.
Táo Quân trong tín ngưỡng dân gian của người Việt có từ sự tích “hai ông một bà”. Tuy vậy người dân vẫn quen gọi chung là Táo Quân hoặc Ông Táo do kết quả của thuyết “tam vị nhất thể” (thuyết Ba ngôi) khá phổ biến trong các tín ngưỡng, tôn giáo. Theo sự tích thì hai ông một bà vì mối quan hệ tay ba mà cùng chết cháy trong đống rơm. Trọng Cao và Thị Nhi là hai vợ chồng, nhưng Trọng Cao hay nghi ngờ và chửi mắng Thị Nhi. Có lần, sau một phen chửi mắng, Trọng Cao đã đuổi vợ ra khỏi nhà. Thị Nhi bỏ xứ ra đi, rồi gặp được Phạm Lang, cùng kết nghĩa vợ chồng. Sau này, Trọng Cao hối hận, đi tìm vợ. Trên đường đi, vì hết tiền lộ phí nên phải xin ăn. Một hôm, Trong Cao xin ăn tại nhà Phạm Lang, và gặp lại Thị Nhi trong lúc Phạm Lang đi vắng. Sau một phen kể lể tâm tình thì bất ngờ Phạm Lang về nhà. Thị Nhi liền bảo Trọng Cao trốn trong một đống rơm. Phạm Lang đốt đống rơm mà không biết có người trong đó. Trọng Cao không muốn phá vỡ hạnh phúc gia đình của Thị Nhi, nên quyết không chạy ra khỏi đám cháy. Thị Nhi thấy vậy, hối hận vì đã bày cho Trọng Cao trốn trong đống rơm, nên cũng lao mình vào đống lửa. Phạm Lang thấy vợ chết, đau buồn, cũng lao vào đống lửa theo. Cả ba đều chết cháy. Thiên Đế thấy ba người có nghĩa, nên phong cho làm Táo Quân, gọi chung là Định Phúc Táo Quân, nhưng mỗi người cai quản một việc. Phạm Lang trông coi việc bếp núc, thần hiệu là Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân. Trọng Cao trông coi việc nhà cửa, thần hiệu là Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần. Thị Nhi trông coi việc chợ búa, thần hiệu là Ngũ Phương Ngũ Thổ Phúc Đức Chánh Thần. Người Việt quan niệm ba vị Táo Quân định đoạt phúc đức cho gia đình, phúc đức này do việc làm đúng đạo lý của gia chủ và những người trong nhà. Hàng năm, đúng vào ngày 23 tháng Chạp là ngày lễ đưa ông Táo lên chầu trời, lễ cúng có cá chép vì người Việt cho rằng, ông Táo cưỡi cá chép lên trời. Đó là ảnh hưởng của văn minh sông nước mà người Hoa Hạ không có.
Người Hán tự nhận mình là Hoa Hạ, là Viêm Hoàng tử tôn. Nhưng Hoa Hạ lại là hai dân tộc khác nhau. Hoa tộc còn gọi là Viêm tộc, là một nhánh của Thần Nông thị, khởi nguyên từ dòng Khương thủy nên còn gọi là Khương tộc, Viêm Đế cũng có họ Khương. Người Hoa tự nhận là hậu duệ của Viêm Đế. Hoa tộc thuộc văn minh nông nghiệp của Thần Nông thị, nên chịu ảnh hưởng của văn minh sông nước, thiện thủy tính, giỏi chèo thuyền. Hạ tộc còn gọi là Hoàng tộc, khởi nguyên từ dòng Cơ thủy nên còn gọi là Cơ tộc, hoặc do đóng đô ở đất Hữu Hùng nên còn gọi là Hữu Hùng thị. Người Hạ tự nhận là hậu duệ của Hoàng Đế Cơ Hiên Viên, là vị đầu tiên trong Ngũ Đế. Cháu của Hoàng Đế là Đế Cốc Cơ Tuấn là vị thứ ba trong Ngũ Đế. Con của Đế Cốc là Hậu Tắc Cơ Khí là tổ tiên của nhà Chu, do đó nhà Chu có họ Cơ. Hạ tộc thuộc văn minh du mục, nên giỏi cưỡi ngựa, thiện chiến và hiếu chiến hơn Hoa tộc. Sau khi Hoàng Đế liên minh với Viêm Đế đánh bại Lê tộc (họ gọi một cách châm biếm là Xi Vưu, theo nghĩa cổ là con giun ở trong bụng, vì có chín bộ tộc nên còn gọi là Cửu Lê, cụm từ “lê dân bách tính” có nguồn gốc từ bọn họ), lại quay sang tập kích Viêm tộc, thống nhất Hoa Hạ, trở thành tổ tiên của người Hán. Thế nhưng, người Hoa Hạ có thông bệnh là khó rời cố thổ, thời xưa đi lại khó khăn, nên chỉ có thể đồng hóa chủ yếu bằng thông hôn. Người Hoa tộc ở phương nam gả con gái cho người Hạ tộc ở phương bắc và ngược lại. Do vậy, huyết thống của người Hoa Hạ ở phương nam nghiêng về Hoa tộc nhiều hơn (bên nội là Hoa tộc), cũng như huyết thống của người Hoa Hạ ở phương bắc nghiêng về Hạ tộc nhiều hơn (bên nội là Hạ tộc). Cũng từ đó, dù đã trải qua mấy nghìn năm mà người Hoa Hạ ở phương nam và ở phương bắc vẫn khác nhau, người phương nam giỏi chèo thuyền, người phương bắc giỏi cưỡi ngựa, câu “nam thuyền bắc mã” vẫn đúng cho đến tận bây giờ. Người Hán ở phương bắc dễ bị say sóng, nên Tào Tháo mới phải cho làm liên hoàn chiến thuyền. Thủy sư của Trung Hoa xưa hầu như đều là người phương nam. Vì sự khác nhau đó nên quan niệm thờ cúng và lễ tiết của người Hán ở phương bắc và phương nam cũng khác nhau. Chẳng hạn, người Hán ở phương bắc thờ ông Văn ông Vũ là Khổng Tử và Quan Công, thì khi xuống phía nam trở thành thờ bà thờ ông là Thiên Hậu Thánh Mẫu và Quan Công (người Minh Hương ở Việt Nam cũng thờ bà Thiên Hậu và ông Quan Công). Người Hán ở phương nam giống người Việt ở chỗ rất ưa chuộng thờ bà (gọi là đạo Mẫu).
Đối với sự tích Táo Quân, người Hán phương bắc cho rằng Táo Quân là Chúc Dung (theo Lã Thị Xuân Thu), hoặc Viêm Đế (theo Hoài Nam Tử). Cả hai vị này đều thuộc Hoa tộc. Do Hoa tộc bị Hạ tộc kiêm tính, nên người Hán phương bắc cho Hoàng Đế làm vị thần tối cao trên trời, rồi cho Viêm Đế hoặc Chúc Dung làm vị thần bếp, một thần chức bé tí xíu. Lễ cúng Táo Quân của họ ngoài thịt, cá, rượu, bánh dành cho Táo Quân, còn có nước và cỏ khô dành cho ngựa của Táo Quân ăn để có sức chở Táo Quân bay lên trời. Họ cho rằng Táo Quân cưỡi ngựa. Đó là ảnh hưởng của văn minh du mục.
Trong khi đó, người Hán phương nam, đặc biệt là người ở vùng Giang Tây, Phúc Kiến, cho rằng Táo Quân là nữ thần, gọi là Táo Quân Lão Mẫu hoặc Táo Quân Thái Thái, thờ cúng gần tương tự người Việt.
Nói tóm lại, tục thờ cúng Táo Quân với con cá chép làm vật cưỡi là đặc trưng của người Việt do ảnh hưởng của văn minh sông nước. Khi đến lễ đưa Táo quân về chầu trời, cũng là lúc bắt đầu dịp lễ Tết truyền thống. Dịp Tết Tân Dậu này, điều có tất cả mọi người như vợ chống Trịnh Võ, TRịnh Diễm Quỳnh, Nguyễn Văn Phương, Lê Văn Dật, Trần Văn Hùng, Trương Như Thanh, Francisco Goya, Fernando Rodriguez, bọn ông Hương Cả Trương Như Hoằng, Hương Chánh Phạm Hưng Hào, ông Hương Quản Nguyễn An,và ông Biện Đình Lê Đức Nghiệp cũng từ Phò Trạch sang đây ăn Tết, đưa cả gia đình theo đến Tân Triều trấn ăn tết.
Hiện tại, do cùng nói tiếng Việt, viết chữ Việt (chữ quốc ngữ), nên mọi thần dân của Vương quốc Pelew đều được gọi là người Việt (như người Việt gốc Đại Nam, người Việt gốc Tây Ban Nha, người Việt gốc Phi, ...). Cũng tương tự như người Mỹ gốc Việt, người Mỹ gốc Phi, người Mỹ gốc Arab, ... Ngay cả ở nước Israel sau này cũng có người Israel gốc Do Thái và người Israel gốc Arab, những người này đều nhận mình là người Israel và có đại biểu trong Quốc hội, không vì thế mà họ mất đoàn kết.
Do tình hình súng, tiền có nhiều mà quân đội chỉ có 1.000 quân nên Trịnh Võ nói với Hoàng:
- Thưa bệ hạ! Hiện tại chúng ta có 9.000 khẩu súng, xưởng sản xuất vũ khí mỗi ngày sản xuất được 35 khẩu. Hạm đội chúng ta có 20 chiến thuyền cỡ lớn và vô số thuyền nhỏ cỡ 300 tấn. Trong khi đó quân ta ở Pelew có 700 quân, ở Nam Kỳ 200 quân. Theo ý thần nghĩ bệ hạ nên cho tuyển thêm quân, ở làng Phò Trạch 100 quân nữa là được 1.000 quân. Mong bệ hạ cho tuyển thêm quân.
Hoàng nghe vậy quay qua hỏi Trương Như Thanh.
- Ta giao cho cậu nhiệm vụ tuyển quân, xây dựng căn cứ ở Nam Kỳ giờ sao rồi?
Như Thanh trả lời:
- Thưa bệ hạ!! Thần đã chiếm được 3 huyện trên tỉnh Vĩnh Long rồi ạ. Ở đấy có 200 quân chính quy và 2.000 dân binh sử dụng đao thương nhưng đã được tập bắn súng, chỉ cần trang bị súng đạn và huấn luyện đơn giản là có thể xuất chinh. Thần cũng cho mua lượng lớn lương thực, hiện giờ những kho lương ở đấy có thể nuôi 10.000 quân trong 1 năm ạ.
Hoàng mỉm cười nói:
- Tốt!! Cậu hãy chuyển 2.000 quân đấy ra đây va cho tuyển thêm 5.000 quân nữa, nếu không được thì hãy tuyển chừng nào có thể. Tiện thể hãy chuyển lương thực ra đây.
Như Thanh nói:
- Vâng thưa bệ hạ.
Hoàng trầm ngâm rồi nói với Như Thanh.
- Mà cậu hãy tìm người thay thế cậu ở đấy. Cậu hãy ở đây quản lý Pelew cho ta. Mà nhớ dặn người ở đấy không cần mở rộng thêm địa bàng. Hãy ẩn nhẫn cho tốt. Sẽ có lúc cần dùng đến.
Như Thanh vui mừng nói:
- Rõ thưa bệ hạ.
Hoáng nói với Trịnh Võ
- Anh hãy chuẩn bị đầy đủ và huấn luyện quân đi, năm mới chúng ta sẽ xuất chinh.
Về quốc kỳ, trước đây là nền vàng với một ngôi sao xanh ở giữa (đại biểu cho lĩnh địa của Quốc vương, tức quần đảo Pelew). Quốc kỳ của Đại Nam là nền vàng với mặt trời đỏ ở giữa (vòng tròn đỏ). Quốc kỳ của Đại Thanh là nền vàng với một con rồng xanh ở giữa (hoàng long kỳ).
Hoàng lại nói:
- Từ giờ quốc lỳ chúng ta sẽ lấy nền đỏ và nôi sao vàng ở giữa.
- Đồng phục triều đình và quân đội cũng sẽ thay đổi, ta sẽ gửi mẫu rồi hãy gấp rút thây đổi.
Hải Quân Pelew
Lục quân Pelew
Như Thanh đáp:
- Vâng. Khi có mẫu thần sẽ cho mai mới liền
Hết Tết, khi mọi người quay trở về cương vị, thì Hoàng lại chuẩn bị kế hoạch mở rộng địa bàn. Trước mắt, Hoàng định chiếm lấy vương quốc Sarawak trên đảo Borneo. HIện tại vương quốc này chưa thuộc về đế quốc nào. Thứ hai cho người về Bắc Kỳ chuẩn bị căn cứ khởi nghĩa.
Ngoài ra, một vị trí mà Hoàng nhắm đến là Vương quốc Hawai’i ở giữa Thái Bình Dương. Đây là một vương quốc nhỏ, thường xuyên bị các cường quốc Âu Mỹ nhắm đến. Có không ít người Mỹ đến đây buôn bán hoặc đầu tư các đồn điền trồng mía, cung cấp cho ngành công nghiệp sản xuất đường trên đảo. Mỹ quốc cũng rất quan tâm đến nơi này, nên nhân lúc Mỹ quốc gặp khó khăn, chuẩn bị vào cuộc nội chiên.
Đã có 3 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Hoanganh92
Ngày 23 tháng chạp năm Đinh Tỵ (tức ngày 2/2/1857), dịp lễ Tết truyền thống của người Việt chính thức bắt đầu bằng lễ đưa ông Táo về trời. Ông Táo trong truyền thống dân gian là vị thần bếp có thần chức đầy đủ là Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân. Táo Quân trong truyền thuyết của người Việt và người Hoa Hạ là khác nhau. Thậm chí giữa người Hoa và người Hạ cũng khác nhau.
Táo Quân trong tín ngưỡng dân gian của người Việt có từ sự tích “hai ông một bà”. Tuy vậy người dân vẫn quen gọi chung là Táo Quân hoặc Ông Táo do kết quả của thuyết “tam vị nhất thể” (thuyết Ba ngôi) khá phổ biến trong các tín ngưỡng, tôn giáo. Theo sự tích thì hai ông một bà vì mối quan hệ tay ba mà cùng chết cháy trong đống rơm. Trọng Cao và Thị Nhi là hai vợ chồng, nhưng Trọng Cao hay nghi ngờ và chửi mắng Thị Nhi. Có lần, sau một phen chửi mắng, Trọng Cao đã đuổi vợ ra khỏi nhà. Thị Nhi bỏ xứ ra đi, rồi gặp được Phạm Lang, cùng kết nghĩa vợ chồng. Sau này, Trọng Cao hối hận, đi tìm vợ. Trên đường đi, vì hết tiền lộ phí nên phải xin ăn. Một hôm, Trong Cao xin ăn tại nhà Phạm Lang, và gặp lại Thị Nhi trong lúc Phạm Lang đi vắng. Sau một phen kể lể tâm tình thì bất ngờ Phạm Lang về nhà. Thị Nhi liền bảo Trọng Cao trốn trong một đống rơm. Phạm Lang đốt đống rơm mà không biết có người trong đó. Trọng Cao không muốn phá vỡ hạnh phúc gia đình của Thị Nhi, nên quyết không chạy ra khỏi đám cháy. Thị Nhi thấy vậy, hối hận vì đã bày cho Trọng Cao trốn trong đống rơm, nên cũng lao mình vào đống lửa. Phạm Lang thấy vợ chết, đau buồn, cũng lao vào đống lửa theo. Cả ba đều chết cháy. Thiên Đế thấy ba người có nghĩa, nên phong cho làm Táo Quân, gọi chung là Định Phúc Táo Quân, nhưng mỗi người cai quản một việc. Phạm Lang trông coi việc bếp núc, thần hiệu là Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân. Trọng Cao trông coi việc nhà cửa, thần hiệu là Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần. Thị Nhi trông coi việc chợ búa, thần hiệu là Ngũ Phương Ngũ Thổ Phúc Đức Chánh Thần. Người Việt quan niệm ba vị Táo Quân định đoạt phúc đức cho gia đình, phúc đức này do việc làm đúng đạo lý của gia chủ và những người trong nhà. Hàng năm, đúng vào ngày 23 tháng Chạp là ngày lễ đưa ông Táo lên chầu trời, lễ cúng có cá chép vì người Việt cho rằng, ông Táo cưỡi cá chép lên trời. Đó là ảnh hưởng của văn minh sông nước mà người Hoa Hạ không có.
Người Hán tự nhận mình là Hoa Hạ, là Viêm Hoàng tử tôn. Nhưng Hoa Hạ lại là hai dân tộc khác nhau. Hoa tộc còn gọi là Viêm tộc, là một nhánh của Thần Nông thị, khởi nguyên từ dòng Khương thủy nên còn gọi là Khương tộc, Viêm Đế cũng có họ Khương. Người Hoa tự nhận là hậu duệ của Viêm Đế. Hoa tộc thuộc văn minh nông nghiệp của Thần Nông thị, nên chịu ảnh hưởng của văn minh sông nước, thiện thủy tính, giỏi chèo thuyền. Hạ tộc còn gọi là Hoàng tộc, khởi nguyên từ dòng Cơ thủy nên còn gọi là Cơ tộc, hoặc do đóng đô ở đất Hữu Hùng nên còn gọi là Hữu Hùng thị. Người Hạ tự nhận là hậu duệ của Hoàng Đế Cơ Hiên Viên, là vị đầu tiên trong Ngũ Đế. Cháu của Hoàng Đế là Đế Cốc Cơ Tuấn là vị thứ ba trong Ngũ Đế. Con của Đế Cốc là Hậu Tắc Cơ Khí là tổ tiên của nhà Chu, do đó nhà Chu có họ Cơ. Hạ tộc thuộc văn minh du mục, nên giỏi cưỡi ngựa, thiện chiến và hiếu chiến hơn Hoa tộc. Sau khi Hoàng Đế liên minh với Viêm Đế đánh bại Lê tộc (họ gọi một cách châm biếm là Xi Vưu, theo nghĩa cổ là con giun ở trong bụng, vì có chín bộ tộc nên còn gọi là Cửu Lê, cụm từ “lê dân bách tính” có nguồn gốc từ bọn họ), lại quay sang tập kích Viêm tộc, thống nhất Hoa Hạ, trở thành tổ tiên của người Hán. Thế nhưng, người Hoa Hạ có thông bệnh là khó rời cố thổ, thời xưa đi lại khó khăn, nên chỉ có thể đồng hóa chủ yếu bằng thông hôn. Người Hoa tộc ở phương nam gả con gái cho người Hạ tộc ở phương bắc và ngược lại. Do vậy, huyết thống của người Hoa Hạ ở phương nam nghiêng về Hoa tộc nhiều hơn (bên nội là Hoa tộc), cũng như huyết thống của người Hoa Hạ ở phương bắc nghiêng về Hạ tộc nhiều hơn (bên nội là Hạ tộc). Cũng từ đó, dù đã trải qua mấy nghìn năm mà người Hoa Hạ ở phương nam và ở phương bắc vẫn khác nhau, người phương nam giỏi chèo thuyền, người phương bắc giỏi cưỡi ngựa, câu “nam thuyền bắc mã” vẫn đúng cho đến tận bây giờ. Người Hán ở phương bắc dễ bị say sóng, nên Tào Tháo mới phải cho làm liên hoàn chiến thuyền. Thủy sư của Trung Hoa xưa hầu như đều là người phương nam. Vì sự khác nhau đó nên quan niệm thờ cúng và lễ tiết của người Hán ở phương bắc và phương nam cũng khác nhau. Chẳng hạn, người Hán ở phương bắc thờ ông Văn ông Vũ là Khổng Tử và Quan Công, thì khi xuống phía nam trở thành thờ bà thờ ông là Thiên Hậu Thánh Mẫu và Quan Công (người Minh Hương ở Việt Nam cũng thờ bà Thiên Hậu và ông Quan Công). Người Hán ở phương nam giống người Việt ở chỗ rất ưa chuộng thờ bà (gọi là đạo Mẫu).
Đối với sự tích Táo Quân, người Hán phương bắc cho rằng Táo Quân là Chúc Dung (theo Lã Thị Xuân Thu), hoặc Viêm Đế (theo Hoài Nam Tử). Cả hai vị này đều thuộc Hoa tộc. Do Hoa tộc bị Hạ tộc kiêm tính, nên người Hán phương bắc cho Hoàng Đế làm vị thần tối cao trên trời, rồi cho Viêm Đế hoặc Chúc Dung làm vị thần bếp, một thần chức bé tí xíu. Lễ cúng Táo Quân của họ ngoài thịt, cá, rượu, bánh dành cho Táo Quân, còn có nước và cỏ khô dành cho ngựa của Táo Quân ăn để có sức chở Táo Quân bay lên trời. Họ cho rằng Táo Quân cưỡi ngựa. Đó là ảnh hưởng của văn minh du mục.
Trong khi đó, người Hán phương nam, đặc biệt là người ở vùng Giang Tây, Phúc Kiến, cho rằng Táo Quân là nữ thần, gọi là Táo Quân Lão Mẫu hoặc Táo Quân Thái Thái, thờ cúng gần tương tự người Việt.
Nói tóm lại, tục thờ cúng Táo Quân với con cá chép làm vật cưỡi là đặc trưng của người Việt do ảnh hưởng của văn minh sông nước. Khi đến lễ đưa Táo quân về chầu trời, cũng là lúc bắt đầu dịp lễ Tết truyền thống. Dịp Tết Tân Dậu này, điều có tất cả mọi người như vợ chống Trịnh Võ, TRịnh Diễm Quỳnh, Nguyễn Văn Phương, Lê Văn Dật, Trần Văn Hùng, Trương Như Thanh, Francisco Goya, Fernando Rodriguez, bọn ông Hương Cả Trương Như Hoằng, Hương Chánh Phạm Hưng Hào, ông Hương Quản Nguyễn An,và ông Biện Đình Lê Đức Nghiệp cũng từ Phò Trạch sang đây ăn Tết, đưa cả gia đình theo đến Tân Triều trấn ăn tết.
Hiện tại, do cùng nói tiếng Việt, viết chữ Việt (chữ quốc ngữ), nên mọi thần dân của Vương quốc Pelew đều được gọi là người Việt (như người Việt gốc Đại Nam, người Việt gốc Tây Ban Nha, người Việt gốc Phi, ...). Cũng tương tự như người Mỹ gốc Việt, người Mỹ gốc Phi, người Mỹ gốc Arab, ... Ngay cả ở nước Israel sau này cũng có người Israel gốc Do Thái và người Israel gốc Arab, những người này đều nhận mình là người Israel và có đại biểu trong Quốc hội, không vì thế mà họ mất đoàn kết.
Do tình hình súng, tiền có nhiều mà quân đội chỉ có 1.000 quân nên Trịnh Võ nói với Hoàng:
- Thưa bệ hạ! Hiện tại chúng ta có 9.000 khẩu súng, xưởng sản xuất vũ khí mỗi ngày sản xuất được 35 khẩu. Hạm đội chúng ta có 20 chiến thuyền cỡ lớn và vô số thuyền nhỏ cỡ 300 tấn. Trong khi đó quân ta ở Pelew có 700 quân, ở Nam Kỳ 200 quân. Theo ý thần nghĩ bệ hạ nên cho tuyển thêm quân, ở làng Phò Trạch 100 quân nữa là được 1.000 quân. Mong bệ hạ cho tuyển thêm quân.
Hoàng nghe vậy quay qua hỏi Trương Như Thanh.
- Ta giao cho cậu nhiệm vụ tuyển quân, xây dựng căn cứ ở Nam Kỳ giờ sao rồi?
Như Thanh trả lời:
- Thưa bệ hạ!! Thần đã chiếm được 3 huyện trên tỉnh Vĩnh Long rồi ạ. Ở đấy có 200 quân chính quy và 2.000 dân binh sử dụng đao thương nhưng đã được tập bắn súng, chỉ cần trang bị súng đạn và huấn luyện đơn giản là có thể xuất chinh. Thần cũng cho mua lượng lớn lương thực, hiện giờ những kho lương ở đấy có thể nuôi 10.000 quân trong 1 năm ạ.
Hoàng mỉm cười nói:
- Tốt!! Cậu hãy chuyển 2.000 quân đấy ra đây va cho tuyển thêm 5.000 quân nữa, nếu không được thì hãy tuyển chừng nào có thể. Tiện thể hãy chuyển lương thực ra đây.
Như Thanh nói:
- Vâng thưa bệ hạ.
Hoàng trầm ngâm rồi nói với Như Thanh.
- Mà cậu hãy tìm người thay thế cậu ở đấy. Cậu hãy ở đây quản lý Pelew cho ta. Mà nhớ dặn người ở đấy không cần mở rộng thêm địa bàng. Hãy ẩn nhẫn cho tốt. Sẽ có lúc cần dùng đến.
Như Thanh vui mừng nói:
- Rõ thưa bệ hạ.
Hoáng nói với Trịnh Võ
- Anh hãy chuẩn bị đầy đủ và huấn luyện quân đi, năm mới chúng ta sẽ xuất chinh.
Về quốc kỳ, trước đây là nền vàng với một ngôi sao xanh ở giữa (đại biểu cho lĩnh địa của Quốc vương, tức quần đảo Pelew). Quốc kỳ của Đại Nam là nền vàng với mặt trời đỏ ở giữa (vòng tròn đỏ). Quốc kỳ của Đại Thanh là nền vàng với một con rồng xanh ở giữa (hoàng long kỳ).
Hoàng lại nói:
- Từ giờ quốc lỳ chúng ta sẽ lấy nền đỏ và nôi sao vàng ở giữa.
- Đồng phục triều đình và quân đội cũng sẽ thay đổi, ta sẽ gửi mẫu rồi hãy gấp rút thây đổi.
Hải Quân Pelew
Lục quân Pelew
Như Thanh đáp:
- Vâng. Khi có mẫu thần sẽ cho mai mới liền
Hết Tết, khi mọi người quay trở về cương vị, thì Hoàng lại chuẩn bị kế hoạch mở rộng địa bàn. Trước mắt, Hoàng định chiếm lấy vương quốc Sarawak trên đảo Borneo. HIện tại vương quốc này chưa thuộc về đế quốc nào. Thứ hai cho người về Bắc Kỳ chuẩn bị căn cứ khởi nghĩa.
Ngoài ra, một vị trí mà Hoàng nhắm đến là Vương quốc Hawai’i ở giữa Thái Bình Dương. Đây là một vương quốc nhỏ, thường xuyên bị các cường quốc Âu Mỹ nhắm đến. Có không ít người Mỹ đến đây buôn bán hoặc đầu tư các đồn điền trồng mía, cung cấp cho ngành công nghiệp sản xuất đường trên đảo. Mỹ quốc cũng rất quan tâm đến nơi này, nên nhân lúc Mỹ quốc gặp khó khăn, chuẩn bị vào cuộc nội chiên.
Đã có 3 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Hoanganh92
Ăn tết xong, quân đội đã sẵn sàng xuất chinh, Trịnh Võ đề xuất với Hoàng.
- Bệ hạ!! Quân đội đã sẵn sàng xuất chinh bất cứ lúc nào.
Hoàng nhìn trên bản đồ chưa bết đánh chỗ nào. Đang phân vân giữa về Đại Nam và vương quốc Sarawak. Khi nhìn đến đảo Broneo Francisco Goya lên tiếng.
- Bệ hạ. Đảo Borneo là thuộc địa của Netherlands.
- Netherlands chỉ chiếm phía đông nam đảo. Ở phía tây là vương quốc Sarawak và những vùng Netherlands chưa chiếm đóng, chỉ là một nhóm người Mã lai và Hoa lưu lạc hải ngoại. Mục tiêu của chúng ta là nơi đó.
Nói đoạn, Hoàng bảo Nguyễn Khánh Kiệt :
- Trình bày cho mọi người biết tình hình của vương quốc Sarawak.
Nguyễn Khánh Kiệt vâng dạ, đứng dậy nói :
- Vương quốc Sarawak chiếm cứ khu vực miền tây đảo Borneo. Đó là những lưu dân người Khách Gia, còn gọi là người Hẹ, đến đấy tìm phương sinh kế. Từ khoảng trăm năm trước, các tiểu vương ở miền tây Borneo nhập khẩu lao động người Hoa để làm việc trong các mỏ vàng và thiết. Đến năm 1777, một thủ lĩnh của cộng đồng người Khách Gia là La Phương Bác đã nổi dậy chiếm lấy khu vực tây Borneo, tự xưng là Vương quốc Sarawak. Vương quốc Sarawak bị người Netherlands ở miền đông Borneo bức bách, nên tình thế rất khó khăn. Thực tế, không một quốc gia nào trên thế giới, kể cả Đại Thanh, công nhận Vương quốc Sarawak cả. Lực lượng vũ trang của bọn họ rất yếu, chỉ khoảng 300 người, sử dụng đủ loại súng ống khác nhau, nhưng đều là loại lạc hậu. Chỉ cần quân ta đứng xa hơn 500 mét là sẽ không hề hấn gì cả.
Thực sự thì lực lượng của vương quốc Sarawak cũng khá so với một số quốc gia trong khu vực. Như Vương quốc Pelew trước đây thì khỏi nói. Vương quốc Hawai’i (một Vương quốc được các cường quốc Âu châu công nhận) cũng chỉ có khoảng 100 quân, tuy có súng, nhưng vẫn còn cởi trần đóng khố. Các Vương quốc Bali và Acer cũng vậy. Chỉ vì lực lượng của các cường quốc Âu châu ở Á Đông không nhiều, lại phải đóng giữ nhiều nơi, nên họ không thể phân binh đi chiếm đóng những nơi mà họ cho là không đáng. Cứ nhìn lực lượng của Pháp ở Á Đông thì biết. Hào xưng đệ nhị cường quốc, nhưng chiến tranh với Đại Nam chỉ huy động được vài nghìn quân.
Hoàng nói với Trịnh Võ:
- Anh võ!! Anh dân 2.000 quân, 3 chiến thuyền loại lớn, 16 chiến thuyền loại nhỏ. Anh hãy dẫn quân đánh vào phía bắc vương quốc Sarawak. Hưng làm tướng
Trịnh Võ và Trần Văn Hưng cười đáp:
- Rõ thưa bệ hạ.
Hoàng nói tiếp:
- Phương!! Tôi cho anh 2.000 quân, 2 chiến thuyền loại lớn, 20 chiến thuyền loại nhỏ. Cậu đánh từ phía nam lên, cậu làm được ko?
Nguyên Văn Phương mừng rỡ đáp.
- Được thưa bệ hạ.
Hoàng quay qua Fernando Rodriguez nói:
- Cậu hãy giúp Nguyễn Văn Phương trong trận này đi.
Fernando Rodriguez đáp:
- Cám ơn bệ hạ đã tin tưởng.
Hiện tại, ở thành Tân Triều còn 4 ngàn quân, Hoàng lại nhìn trên bản đồ rồi nói.
- Lê Văn Dật?
Lê Văn Dật trả lời:
- Có thưa bệ hạ.
Hoàng nói:
- Cậu dẫn 1.500 quân, 1 chiến thuyền loại lớn, 10 chiến thuyền loại nhỏ, Francisco Goya phó tướng. Cậu hãy chiếm Vương quốc Hawai’i cho tôi. Trong vòng 4 tháng phải làm chủ được Hawai’i và quây lại đây với 500 quân. Francisco Goya ở lại quản lý Hawai’i.
Hoàng lại quay qua nói với Nguyễn văn Hưng:
- Còn cậu, cậu hãy dẫn 2.000, 2 chiến thuyền loại lớn, 15 chiến thuyền loại nhỏ, cậu hãi chiếm đảo Hải Nam.
- Tất cả chuẩn bị xuất Phát
Ngày 15 tháng 3 năm 1857, tất cả các lộ quân rời cảng Tân Triều.
Ngày 4 tháng 4 năm 1857, Khi Hoàng đang sử lí sự vụ tại phủ thì hai nhà hóa học là John Smith đến tìm Hoàng, báo tin công trình nghiên cứu mà Hoàng giao cho đã thành công. Hoàng ngạc nhiên hỏi
- Nhanh thế cơ à ?
John Smith nói :
- Bệ hạ. Có phương hướng rồi, chỉ phải làm các thí nghiệm thôi mà. Có gì khó đâu.
Hoàng liền theo bọn họ đến một khu đất trống để xem thử uy lực của thứ chất nổ mới. Chỉ thấy một phụ tá của bọn họ mang một gói chất nổ với dây cháy chậm rất dài, đem chôn dưới một vách núi gần đó, rồi châm ngòi, bỏ chạy thật nhanh. Sau một lúc, một tiếng nổ kinh thiên động địa vang lên. Rồi cả một đoạn vách núi lớn đổ sụp xuống. Sức công phá của nó thật khủng khiếp. Hoàng chợt nhớ đến từ “bộc phá” mà bộ đội Việt Minh hay dùng trong kháng chiến chống Pháp. Thomas Jefferson giải thích :
- Bệ hạ. Công thức của loại chất nổ này cũng khá đơn giản : ba phần nitroglyxerin, một phần bọt biển và một ít phụ gia natri cacbonat. So với nitroglyxerin nguyên chất, nó ổn định hơn nhiều, và sức công phá cũng rất mạnh.
Hoàng hài lòng nói:
- Tên nó là gì?
Theo thông lệ quốc tế, những nhà phát minh có thể đặt tên cho phát minh của mình, tùy theo ý thích, nhưng không được dùng tên những người còn sống để đặt. John Smith nói:
- Bệ hạ. Chúng ta gọi nó là Explosive, tiếng Việt nghĩa là Nổ.
Hoàng cười nói:
- Tốt lắm. Hai người hãy làm các báo cáo để gửi đi đăng ký bằng phát minh. Sau đó chúng ta sẽ bàn đến công trình nghiên cứu tiếp theo.
John Smith nói :
- Xong hết rồi ạ. Chúng ta đang chờ công trình nghiên cứu tiếp theo đấy ạ.
Hoàng nhìn bốn người họ, rồi mỉm cười bảo :
- Tốt lắm. Về phát minh này, bốn người có thể chọn nhận ngay 100.000 Đồng Việt, hoặc hưởng 20% từ thu nhập của phát minh này trong tương lai.
Cả hai đưa mắt nhìn nhau. Số tiền 100.000 Đồng Việt tương đương 10.000 lượng vàng, lúc bấy giờ là một tài sản rất lớn, có thể mua được một chiến hạm cỡ lớn. Còn 20% thu nhập tương lai rất không đảm bảo. Cả bốn người trao đổi thật nhanh, rồi John Smith đại diện nói :
- Đa tạ Bệ hạ đã ban thưởng. Chúng ta nhận 100.000 Đồng Việt ạ.
Hoàng gật đầu nói :
- Được rồi. Lát nữa ta sẽ cho người mang tiền đến cho hai người. Các phụ tá cũng được thưởng mỗi người 300 kim tệ. Giờ chúng ta về viện nghiên cứu để bàn về công trình nghiên cứu tiếp theo.
Mọi người đi về viện nghiên cứu. Hoàng ngẫm nghĩ một lúc, cố nhớ lại, rồi vẽ ra một bảng hệ thống tuần hoàn các nguyên tố một cách đơn giản. Gọi là đơn giản bởi vì nó chỉ có các ô xếp theo hàng và cột đại diện cho bảy chu kỳ, tám nhóm A và tám nhóm B, ngoài ra chỉ có một vài nguyên tố mà Hoàng nhớ được vị trí, như : H, Li, Na, K, hoặc F, Cl, Br, I hoặc O, S, N, P, C, Si, Mg, Ca, và nhóm khí hiếm, là những nguyên tố được học nhiều, dùng nhiều. Khi Hoàng đã vẽ xong, Gordon Brown ngạc nhiên hỏi :
- Bệ hạ. Đây là hệ thống tuần hoàn các nguyên tố ?
Hoàng giật mình hỏi :
- Hai người cũng biết nó ?
John Smith lắc đầu nói :
- Không ạ. Mấy chục năm trước, Johann Döbereiner đã lập ra bảng ghi chép mối liên hệ giữa khối lượng nguyên tử và các tính chất hóa học của từng nguyên tố. Nhiều người đã dựa vào đó để cố gắng lập ra một bảng hệ thống tuần hoàn các nguyên tố, nhưng đều chưa thành công.
Robert Taylor ngắm nghía một lúc, rồi hỏi :
- Bảng này trông lạ lắm. Nguyên lý của nó thế nào ạ ?
Hoàng liền giải thích nguyên lý của việc lập bảng, sau đó giao cho hai người họ việc hoàn thiện bảng này. Hoàng cần phát triển khoa học kỹ thuật, trong đó hóa học là một ngành quan trọng. Nhưng không có bảng hệ thống tuần hoàn thì rất khó làm việc. Mà Hoàng không thể chờ thêm mười năm nữa, khi Mendeleev tìm ra nó. Thời gian mười năm có thể xảy ra rất nhiều chuyện, không thể chờ đợi.
Ngày 6 tháng 5 năm 1857, tin chiến thắng từ vương quốc Sarawak cũng đưọc gực về. Do quân ở đây ít và vũ khí còn lạc hậu, trong quá trinh chiếm đóng chỉ có 1 người hy sinh do bệnh. Quân đội đang trên đường rút về. Trên hạm đội còn có 15.000 nghìn người dân ở đây.
Đến ngày 16 tháng 5 năm 1857, Nguyễn Văn Hưng đã chiếm đóng thành công đảo Hải Nam.
Đã có 2 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Hoanganh92