“Chẳng liên quan gì hết,” Cha Dominic nói.
“Cha nghe này,” tôi nói. “Con chẳng nghĩ được cách nào khác cả. Cô ta sẽ không vui vẻ mà ra đi đâu, cả Cha và con đều biết điều đó. Cô ta quá nguy hiểm, không thể để cô ta muốn đi đâu thì đi được. Con nghĩ ta phải ép cô ta thôi.”
Cha Dominic quay đi, nhìn chăm chăm lên một điểm nào đó trên cái trần nhà phía trên đầu. “Chúng ta, những người như ta và con, được sinh ra không phải để làm điều đó, Susannah ạ,” ông nói bằng một giọng buồn bã nhất tôi từng được nghe. “Chúng ta là những người gác cánh cổng để đến với thế giới bên kia. Chúng ta là những người dẫn đường cho những linh hồn lạc lối đi đến cái đích sau cùng của họ. Và tất cả những linh hồn ta từng giúp đỡ đều vui vẻ tự nguyện bước qua cánh cổng của ta…”
Ờ, phải. Tôi nghĩ, chắc rằng nhìn cuộc sống theo cách của Cha Dom thì hẳn phải thú vị lắm. Dường như đó là một nơi thật tốt đẹp. Tốt đẹp hơn rất nhiều so với cái thế giới mà tôi sống trong suốt mười sáu năm vừa qua.
“Vâng,” tôi đáp. “Ờ, con chẳng biết còn cách nào khác cả.”
“Một buổi lễ trừ ma ư,” Cha Dominic lẩm bẩm. Ông nói cái từ đó cứ như thể nó đáng ghê tởm lắm, như một đống lầy nhầy hay gì đó.
“Này Cha,” tôi nói, bắt đầu hối hận lẽ ra đừng có nói gì hết thì hơn. “Cha hãy tin con, đó chẳng phải là phương cách con muốn sử dụng đâu. Nhưng con thấy ta đâu có lựa chọn gì chứ. Heather không chỉ là mối hiểm họa với mỗi Bryce.” Tôi không muốn kể với ông cái điều cô ta nói về David. Tôi chỉ có thể thấy thằng bé nhảy ra khỏi giường, hét lên vì phải chống một đôi nạng. Nhưng một khi tôi đã quyết làm cái điều mình suy tính, tôi phải nói cho ông biết lý do tại sao cực đoan như thế là cần thiết. “Cô ta là mối nguy đối với cả trường,” tôi nói. “Phải ngăn cô ta lại.”
Ông gật đầu. “Đúng. Tất nhiên là con đúng. Nhưng Susannah ơi, con phải hứa với ta đừng có cố làm chừng nào ta còn chưa ra viện. Ta đã nói chuyện với bác sỹ, và bà ấy nói chắc thứ Sáu này ta có thể về được rồi. Như thế chúng ra sẽ có nhiều thời gian để tìm ra cách thức phù hợp – ” Ông liếc nhìn chiếc bàn cạnh giường. “Con đưa cho ta quyển Kinh thánh ở đằng kia Susannah. Nếu chúng ta tìm được cách dùng từ chính xác, có thể ta chỉ – ”
Tôi đưa cho ông cuốn Kinh thánh. “Con chắc chắn,” tôi nói, “rằng mình thành thạo tất cả rồi.”
Ông ngẩng lên, nhìn tôi chăm chăm bằng đôi mắt xanh biếc trong sáng như trẻ thơ. Thật không may là ông đã già mất rồi, lại còn là một linh mục nữa chứ. Tôi tự hỏi không biết bao nhiêu trái tim đã tan nát vì ông trước khi ông theo đạo. “Làm sao con có thể,” ông thắc mắc, “nắm rõ hết mọi đường về một việc phức tạp như lễ trừ tà ma của đạo Thiên chúa giáo La mã chứ?”
Tôi ngọ nguậy một cách khó chịu. “À, chắc là con sẽ không làm theo cách của đạo Thiên chúa giáo La mã đâu.”
“Còn có cách khác sao?”
“Ơ, vâng. Mỗi tôn giáo lại có một cách. Cá nhân con thì con thích Mecumba. Nó đi thẳng vào vấn đề luôn. Khỏi phải niệm những câu bùa chú dài dòng, hay bất cứ điều gì khác.”
Trông ông có vẻ đau. “Mecumba ư?”
“Vâng. Nghi lễ ma thuật của Brazil. Con tìm được trên net. Chỉ cần phải có máu gà và một – ”
“Ôi trời đất thánh thần ơi,” Cha Dominic ngắt lời tôi. Rồi khi trấn tĩnh lại, ông nói: “Chả liên quan gì hết. Heather Chambers được làm lễ rửa tội theo đạo Thiên chúa La mã, và dù có chết vì nguyên nhân gì đi chăng nữa, thì cô ta cũng đáng có một lễ trừ ma của đạo Thiên chúa La mã, nếu như không phải là một đám tang. Cơ hội cho cô ta được lên Thiên đàng vào lúc này chẳng là bao, ta thừa nhận điều đó, nhưng dĩ nhiên ta biết cô ta có mọi cơ hội được chào Thánh Peter ở các cánh cổng.”
“Cha Dom ơi,” tôi nói. “Con thực sự nghĩ rằng chẳng có vấn đề gì hết nếu cô ta có được làm lễ trừ ma theo kiểu của Thiên chúa giáo La mã, hoặc kiểu Brazil, hay thậm chí kiểu của người lùn Pygmy đi nữa. Thực tế mà nói, nếu Thiên đàng là có thật, thì Heather Chambers cũng chả bao giờ đặt chân đến đó được đâu.”
Cha Dominic chậc chậc. “Susannah, sao con có thể nói một điều như thế được chứ? Ai ai cũng có cái thiện tâm. Chắc chắn rằng ngay cả con cũng có thể thấy được điều đó mà.”
“Ngay cả con ư? Ý cha là gì, ngay cả con là thế nào?”
“Ờ, ta muốn nói là, ngay cả Susannah Simon, người có thể rất khắt khe với mọi người xung quanh, cũng phải hiểu rằng cho dù một người có tàn ác đến đâu đi chăng nữa thì trong anh ta vẫn có một đoá hoa của thiện tâm. Có thể chỉ là đoá hoa bé xíu vì thiếu nước và ánh mặt trời, nhưng hoa nào mà chẳng như nhau.”
Chả hiểu Cha Dom đang dùng thuốc giảm đau loại gì thế không biết nữa.
Tôi đáp: “Ừm, được rồi thưa Cha. Tất cả những gì con biết là, cho dù Heather có đi đến đâu đi chăng nữa, nơi đó cũng chả phải là Thiên đàng. Đấy là nếu có Thiên đàng thật.”
Ông mỉm cười nhìn tôi buồn bã. “Ta ước gì,” ông nói, “con có một nửa niềm tin vào Chúa so với lòng can đảm con có thừa ấy thôi cũng được Susannah ạ. Nghe ta một chút thôi. Con không được – không được – tự mình cố ngăn Heather đâu đấy. Một điều quá rõ ràng là đêm qua cô ta đã suýt nữa thì giết được con rồi. Ta không dám tin vào mắt mình khi bước ra ngoài và trông thấy sự tàn phá cô ta đã gây ra. Con trốn thoát mà bảo toàn được mạng là may mắn đấy. Từ cái chuyện xảy ra sáng nay thì, quá rõ rồi, như con nói đấy, cô ta chỉ có càng ngày càng mạnh lên mà thôi. Sẽ thật ngu ngốc – cực kỳ ngu ngốc – nếu con lại cố gắng tự mình làm bất cứ điều gì nữa.”
Tôi biết rằng ông có lý. Làm sao tôi có thể chứ? Ý tôi là, người đàn ông đáng thương đang nằm kia trông thật thê thảm. Tôi không muốn lại khiến ông phải lo lắng thêm nữa. Nhưng sự thật là tôi không thể nào đợi Cha Dom ra viện được. Heather là việc cần phải làm. Cứ mỗi ngày trôi qua, cô ta sẽ chỉ càng mạnh, càng khó chơi và càng căm hận hơn mà thôi. Tôi phải xử lý dứt điểm cô ta, phải xử lý dứt điểm cô ta thật sớm.
Thế là tôi phải làm cái việc mà chắc chắn là một tội lỗi chết người. Tôi nói dối một vị linh mục.
Thật hay là tôi chả theo đạo Thiên chúa.
“Đừng lo thưa Cha Dom,” tôi nói. “Con sẽ chờ cho đến khi Cha khoẻ lên.”
Tôi bắt chéo ngón tay, chứ còn gì nữa. Tôi hi vọng rằng, nếu có Chúa thật, thì điều đó cũng xoá đi cái tội dám nói dối một trong những bề tôi tôn kính nhất của Người.
“Để xem nào,” Cha Dominic lẩm bẩm. “Tất nhiên chúng ta sẽ cần có nước thánh. Việc đó không vấn đề gì hết. Và dĩ nhiên là cả một cây thánh giá nữa.”
Khi ông đang lẩm nhẩm cái danh sách mua hàng cho lễ trừ ma thì Adam và Cee Cee bước vào phòng.
“A, Cha Dom,” Adam nói. “Giời, trông Cha khiếp quá.”
Cee Cee huých cậu ta. “Adam,” cô nàng thì thào. Rồi quay sang Cha, cô nàng vui vẻ nói: “Cha Dom, đừng nghe cậu ta. Con nghĩ là trông Cha khoẻ lắm. Ơ, ý con là đối với một người gãy cả đống xương ấy ạ.”
“Các con à.” Cha Dom trông có vẻ rất vui thích khi gặp hai đứa. “Vui quá nhỉ! Nhưng sao các con lại lãng phí cả một buổi chiều đẹp trời thế kia để vào thăm một ông lão nằm viện làm gì? Các con nên ra bãi biển mà tận hưởng thời tiết đẹp mới phải.”
“Thật ra bọn con đến đây để viết bài về vụ tai nạn cho tờ Tin Tức Trường Truyền Giáo,” Cee Cee nói. “Bọn con vừa mới phỏng vấn monsignor xong. Thật không may tí nào, giám mục sắp đến đây, các chuyện khác, rồi cả bức tượng Cha Serra vô thủ nữa chứ.”
“Ờ phải,” Adam nói. “Thật là chán chả buồn chết.”
“Ừm,” Cha Dom đáp. “Đừng lo chuyện đó. Chính lòng quan tâm của bọn trẻ các con mới là điều làm cho giám mục thấy ấn tượng nhất chứ.”
“Amen,” Adam trịnh trọng nói.
Trước khi ai đó trong chúng tôi có cơ hội mắng cho Adam một trận vì cái tội dám mỉa mai như thế, thì một cô y tá bước vào bảo với Cee Cee và tôi rằng bọn tôi phải ra về bởi vì cô ấy phải lau người cho Cha Dom.
“Lau người cơ đấy,” Adam lầm bầm khi bọn tôi trên đường trở lại xe. “Cha Dom được người ta lau người cho, còn mình, người thực sự biết thưởng thức một điều như thế, thì mình được cái gì chứ?”
“Cơ hội sắm vai tháp tùng hai trong số những cô nương xinh đẹp nhất ở Carmel chăng?” Cee Cee đề nghị đầy lợi lộc.
“Ờ,” Adam nói. “Phải lắm.” Rồi cậu ta liếc tôi. “Mình không bảo cậu không phải là đứa con gái xinh nhất Carmel đâu Suze… mình chỉ… ờ… cậu biết đấy…”
“Mình biết,” tôi cười, nói.
“Mình muốn nói là, cái chuyện lau người ấy. Mà các cậu có liếc cô y tá không vậy?” Adam giữ cái cánh cửa xe của chỗ ngồi cho khách để Cee Cee có thể bò vào ghế sau. “Trở thành linh mục linh miếc cũng được cái gì đó chứ. Có lẽ mình cũng nên đăng kí xem.”
Cee Cee nói vọng lên từ ghế sau: “Cậu không đăng kí, mà được gọi ấy. Và tin mình đi Adam, cậu sẽ chả thấy thích thú gì đâu. Họ không cho phép các linh mục chơi Nintendo đâu đấy.” Adam căm ghét điều đó. “Biết đâu mình có thể lập ra một hội mới thì sao,” cậu ta trầm ngâm nói. “Giống như các thầy tu dòng thánh Francis ấy, chỉ chúng ta mới trở thành Hội Điều Khiển Trò Chơi. Khẩu hiệu của chúng ta sẽ là Điểm Cao Cho Một Người, Pizza Cho Mọi Người.” Cee Cee nói:
“Chú ý con mòng biển kia kìa.”
Chúng tôi đang trên đường Bờ Biển Carmel. Ngay đằng xa bức tường đá thấp phía bên phải bọn tôi là biển Thái Bình Dương, chiếu sáng như một viên đá quý bởi quả bóng mặt trời màu vàng rực rỡ phía trên cao kia. Chắc là tôi mải ngắm biển hơi bị khao khát một tí – tôi vẫn chưa quen với việc thấy biển ở mọi nơi mà – bởi vì Adam nói: “Oái, khỉ thật,” và lái vào chỗ đỗ mà một con BMW vừa mới rời đi. Tôi nhìn cậu ta thắc mắc khi cậu ta đưa xe vào bãi đỗ, và cậu chàng đáp: “Sao? Cậu không có cả thời gian để ngồi ngắm hoàng hôn nữa chắc?”
Tôi chui ra khỏi xe ngay lập tức.
Một lát sau, tôi băn khoăn tự hỏi sao mình lại từng không mong muốn chuyển đến sống ở đây được nhỉ? Ngồi trên tấm vải mà Adam vừa lấy ra từ nắp sau của cái xe, ngắm nghía những người chạy bộ và những người lướt sóng muộn, những chú chó chơi trò bắt đĩa bay và những khách du lịch với máy ảnh, lâu lắm rồi tôi mới cảm thấy thoải mái như thế này. Có thể thực tế là tôi vẫn sẽ chỉ có bốn tiếng để ngủ. Cái hương vị mặn nồng lại đang tràn ngập các giác quan của tôi. Nhưng lần đầu tiên trong cái quãng thời gian tưởng như vô cùng vô tận, tôi thực sự cảm thấy bình yên.
Điều đó thật kỳ quái, khi mà chỉ mấy tiếng nữa thôi, tôi sẽ phải đấu lại với quyền năng của ma quỷ.
Nhưng chưa đến lúc đó, tôi quyết định cho bản thân mình được thoải mái cái đã. Tôi hướng mặt về phía vầng mặt trời đang lặn, cảm nhận những tia nắng ấm ám trên đôi má, lắng tai nghe tiếng sóng rì rào, tiếng bọn mòng biển xáo xác, và tiếng chuyện trò của Cee Cee và Adam.
“Thế là mình nói với mẹ: Claire à, mẹ gần bốn mươi rồi đấy. Nếu mẹ và bố Paul muốn có thêm một nhóc nữa thì phải nhanh nhanh lên. Thời gian chả chờ đợi mẹ đâu.” Adam hớp một ngụm latte mua ở một cửa hàng café gần chỗ bọn tôi đỗ xe. “Và mẹ nói: ‘Nhưng bố mẹ không muốn con cảm thấy bị đe doạ bởi một đứa nhóc mới,’ và mình đáp: ‘Claire, trẻ con chả doạ được con đâu.’ Cậu biết cái gì làm mình thấy chết khiếp không? Đó là những thằng người tiền sử Nêanđectan dùng thuốc steroid [7] như Brad Ackerman ấy. Bọn chúng mới làm cho mình hãi cơ.”
[7] Steroid: một chất được sản sinh tự nhiên trong cơ thể, có vài loại steroid khác nhau được sử dụng để chữa nhiều bệnh, đôi khi các vận động viên thể thao cũng sử dụng (bất hợp pháp) để tăng khả năng thi đấu (giống kiểu chất doping).
Cee Cee lườm cảnh cáo Adam một cái, rồi nhìn tôi. “Cậu và các anh em con dượng thế nào rồi Suze?”
Tôi rời mắt khỏi vầng mặt trời đang lặn. “Mình nghĩ là ổn cả thôi. Ngu Ng– à, Brad, có dùng thuốc steroid thật à?”
Adam đáp: “Lẽ ra mình không nên nhắc đến. Xin lỗi cậu. Chắc chắn là cậu ta không dùng đâu. Nhưng tất cả bọn con trai trong đội tuyển cử tạ đều khiến mình phát sợ. Bọn chúng lại còn cực kỳ ghét những người đồng tính nữa chứ… ờ… cậu không thể nào không tự hỏi về giới tính của bọn nó đâu. Ý mình muốn nói là, chúng đều nghĩ là mình bị gay, nhưng mà cậu sẽ chả bao giờ thấy mình lại đi mặc cái quần bó chặt tận đùi như một số thằng đâu nhá.” Tôi thấy cần một câu xin lỗi người anh em con dượng, tôi nói câu đó, rồi thêm vào: “Mình không chắc là cậu ta bị gay đâu. Cậu chàng đã rất khoái chí khi Kelly Prescott gọi điện tối hôm trước mời bọn này đến bữa tiệc bể bơi của cô ta vào thứ Bảy.”
Adam huýt gió, và Cee Cee bất ngờ nói: “Ái chà chà. Cậu có chắc chắn tấm vải này đủ tiêu chuẩn cho cậu không? Biết đâu cậu lại khoái tấm khăn nằm trên bờ biển làm bằng len cashmere hơn thì sao. Kelly và cả lũ bạn nó đều ngồi trên cái thứ đó đấy.”
Tôi chớp mắt nhìn hai đứa, nhận ra rằng mình vừa mới nói một câu hớ hênh. “Ơ, mình xin lỗi. Thế Kelly không mời các cậu à? Nhưng mình cứ tưởng cô ta mời tất cả bọn lớp 10.”
“Dĩ nhiên là không rồi,” Cee Cee nói kèm một cái khịt mũi. “Chỉ những đứa nào có địa vị thôi, mà cái địa vị đó thì cả mình và Adam làm quái gì có chứ.”
“Nhưng cậu là chủ bút tờ báo của trường cơ mà,” tôi nói.
“Phải lắm,” Adam lên tiếng. “Dịch cái từ đó sang nghĩa đồ đần rồi cậu sẽ hiểu vì sao bọn này chưa bao giờ được mời đến bất kỳ bữa tiệc bể bơi nào của Công Nương Kelly hết.”
“Ơ,” tôi nói. Tôi im lặng trong khoảng một phút, lắng nghe tiếng sóng biển. Rồi tôi đáp: “Ừm, chắc là mình sẽ không đi đâu.”
“Cậu không đi ư?” Mắt Cee Cee lồi ra khỏi cặp kính luôn.
“Không. Lúc trước là vì mình có hẹn với Bryce, mà giờ cũng bị huỷ rồi. Còn bây giờ thì vì… ờ… nếu các cậu không đến thì mình biết nói chuyện với ai chứ?”
Cee Cee nằm dựa lưng xuống tấm vải. “Suze này,” cô ấy nói. “Đã bao giờ cậu nghĩ đến chuyện chạy đua vào chức phó chủ tịch lớp chưa?”
Tôi cười. “Ờ, phải. Mình là ma mới, nhớ không?”
“Có,” Adam nói. “Nhưng ở cậu có một cái gì đó. Mình thấy năng khiếu lãnh đạo thật sự tiềm tàng trong cái cách cậu cho Debbie Mancuso thua bét dĩ ngày hôm qua. Bọn con trai luôn ngưỡng mộ những đứa con gái trông có vẻ sẵn sàng đấm vào mồm bất cứ đứa con gái khác vào bất cứ lúc nào. Con trai bọn mình không thể đừng được.” Cậu ta nhún vai. “Có lẽ đấy là bản chất rồi.”
“Ừ,” tôi cười và nói. “Mình sẽ suy nghĩ kỹ về chuyện này. Mình có nghe đồn là Kelly đang định nướng hết số ngân quỹ của lớp vào vụ khiêu vũ khiêu viếc gì đó – ”
“Đúng thế.” Cee Cee gật. “Năm nào nó chả làm thế. Buổi khiêu vũ mùa xuân ngu si. Chán chết đi được. Ý mình muốn nói là, không có bạn trai thì làm ăn gì được cơ chứ? Đến đó ngoài nhảy nhót ra thì còn làm gì nữa đâu.”
“Khoan đã,” Adam nói. “Nhớ cái lần bọn mình mang bóng bay đựng nước đi không?”
“Ờ,” Cee Cee chỉnh lại. “Đúng, năm đó thì vui thật.”
“Mình đang nghĩ là,” tôi thấy chính mình đang nói, “có thể như thế này sẽ hay hơn. Các cậu biết đấy. Một bữa tiệc ăn ngoài trời trên bãi biển. Có thể vài lần.”
“Này,” Adam nói. “Phải đấy! Và đốt lửa nữa! Cái thằng khoái phóng hoả trong con người mình lúc nào cũng muốn đốt một đống lửa trên bãi biển.”
Cee Cee nói: “Chắc chắn. Chắc chắc bọn mình nên tổ chức. Suze, cậu phải chạy đua vào chức phó chủ tịch đấy.”
Khỉ gió, tôi vừa làm cái gì thế nhỉ? Tôi đâu có muốn làm phó chủ tịch lớp 10 chứ! Tôi chả muốn dây dưa! Tôi có yêu mến gì trường học đâu – mà cũng chẳng có ý kiến ý cò về bất cứ chuyện gì hết! Tôi đang làm cái gì thế này? Tôi mất trí rồi chắc?
“Ôi, nhìn kìa,” Adam nói, đột nhiên chỉ về phía mặt trời. “Nó lặn kìa.”
Quả bóng vĩ đại màu vàng cam dường như chìm xuống biển khi nó bắt đầu chầm chậm hạ thấp xuống đường chân trời. Tôi không trông thấy nước bắt toé tung hay hơi nước bốc lên, nhưng dám thề rằng tôi nghe thấy tiếng mặt trời chạm xuống mặt nước.
“Mặt trời lặn rồi đây,” Cee Cee hát khe khẽ.
“Da da da da da,” Adam hát.
“Mặt trời lặn rồi đây.” Tôi hát theo.
Thôi được, công nhận là hơi bị trẻ con, ngồi hát, ngắm mặt trời lặn. Nhưng như thế cũng vui chứ. Hồi còn ở New York, chúng tôi thường ngồi trong công viên ngắm cảnh sát chìm tóm gọn cái lũ buôn bán ma tuý cơ. Nhưng chẳng ở đâu vui như ở đây, hát hò vui vẻ trên bãi biển khi mặt trời lặn.
Có điều gì đó lạ lùng đang diễn ra. Tôi không biết chắc đó là điều gì.
“Và tôi nói rằng,” cả ba đứa đều hát, “mọi việc đều tốt đẹp!”
Và, thật lạ lùng, vào phút giây đó, tôi tin rằng rồi sẽ như thế. Tốt đẹp ấy mà.
Và đó là lúc tôi nhận ra cái điều đang diễn ra: Tôi đang hoà nhập. Tôi đây, Susannah Simon, cầu nối của hồn ma. Lần đầu tiên trong đời tôi đang hoà nhập với một nơi.
Và tôi hạnh phúc vì điều đó. Thực sự hạnh phúc. Rồi tôi thực sự tin rằng mọi chuyện sẽ tốt đẹp cả thôi.
Giời, thế mà tôi từng không chấp nhận cái sự thật khó nhằn đó đấy.
Đồng hồ báo thức của tôi reo vào lúc nửa đêm. Tôi không ấn nút tắt chuông đi. Tôi tắt hẳn cái đồng hồ, vỗ tay để bật chiếc đèn cạnh giường lên, lăn qua một bên, nhìn chằm chằm vào đống rèm phía trên đầu giường.
Vậy đấy. Cái ngày trọng đại. Hay đúng hơn là ngày quyết tử.
Sau bữa tối, tôi thấy mệt kinh khủng, biết rằng mình sẽ chẳng thể làm gì ra hồn nếu thiếu ngủ. Tôi nói với mẹ là tôi lên tầng làm bài tập, thế rồi tôi đặt lưng xuống ngủ lấy vài giờ. Hồi còn ở nhà cũ ở Brooklyn, chuyện đó chẳng có gì to tát hết. Mẹ sẽ để cho tôi ở một mình như tôi muốn. Nhưng trong căn nhà của gia đình Ackerman này, những từ Tôi muốn được ở riêng một mình hiển nhiên là chả có ý nghĩa gì. Không phải bởi nơi này bọn ma cứ tha hồ qua lại. Không phải thế, chính những người sống nhăn mới bắt tôi thay đổi.
Trước hết đó là Ngu Ngơ. Khi tôi ngồi xuống ăn bữa tối thịnh soạn được người cha dượng mới chuẩn bị không chê vào đâu dược, một công cuộc hỏi cung bắt đầu nổ ra bởi vì phải đến hơn 6 giờ tôi mới xong chuyện và về nhà. Đó là câu hỏi thường trực “Con đã đi đâu thế?” của mẹ (cho dù rõ ràng là tôi đã cẩn thận để lại lời nhắn rồi cơ đấy). Rồi sau đó là câu “Các con đi chơi vui chứ?” từ dượng Andy. Tiếp nữa là “Chị đi với ai thế?” từ ông Tiến Sỹ chứ ai. Và khi tôi đáp: “Adam Mctavish và Cee Cee Webb,” thì Ngu Ngơ dám khịt mũi khinh khỉnh, đang nhai thịt băm viên và nói: “Giời ạ. Bọn quái đản trong lớp.”
Dượng Andy nói: “Này. Cẩn thận đấy.”
“Giời ơi, bố,” Ngu Ngơ đáp. “Một đứa là con bạch tạng kỳ quái, đứa kia là tên pêđê.”
Câu đó làm cho nó ăn ngay một cú cốc đầu cực đau từ ông bố, người đã canh chừng nó cả tuần nay rồi. Lát sau, khi bọn tôi dọn bát đĩa trên bàn, tôi không thể đừng được cái việc nói cho Ngu Ngơ biết rằng nó sẽ không được đến bữa tiệc bể bơi của Kelly Prescott nữa, cái bữa tiệc mà tôi – Nữ Hoàng của những tên Quái đản – đã giúp cho nó nhận được lời mời.
“Tệ quá nhỉ, chú bé,” tôi nói, vỗ vỗ vào má Ngu Ngơ tỏ vẻ thương xót. Cậu ta đánh đét vào tay tôi, gạt đi.
“Thế hả?” cậu ta đáp. “Ờ, ít nhất thì ngày mai chả có ai gọi tôi là con quái thích lê la với bọn pêđê hết.”
“Ô, bé cưng ơi,” tôi nói, giơ tay ra véo vào cái má tôi vừa mới vỗ xong. “Bé sẽ chả bao giờ phải lo người ta gọi bé thế đâu. Họ sẽ gọi bé bằng những từ thậm tệ hơn thế nhiều.”
Cậu ta lại đét tay tôi lần nữa, hiển nhiên là cực kỳ sôi máu khiến cho cậu ta tạm thời không thốt lên nổi lời nào hết.
“Hứa với chị là bé đừng có thay đổi gì hết nhe,” tôi van xin. “Cứ như thế này thì bé cũng đã đáng yêu lắm rồi.”
Ngu Ngơ gọi tôi bằng một cái tên cực kỳ láo lếu đúng vào lúc bố cậu ta bước vào bếp với phần salad còn thừa.
Dượng Andy bèn cấm cửa cậu ta thêm một tuần nữa, rồi sau đó tống cổ cậu ta về phòng. Để bộc lộ nỗi bất mãn với những bước ngoặt sự kiện đó, Ngu Ngơ cho cái đĩa Beastie Boys vào và vặn to tướng đến mức tôi không thể nào ngủ nổi… ít nhất thì cho đến khi dượng Andy đi lên tịch thu luôn những cái loa. Rồi mọi thứ trở nên thật tĩnh lặng, tôi vừa mới lơ mơ ngủ thì có người gõ cửa. Đó là Tiến Sỹ.
“Ừm,” nó nói, lo lắng liếc ra đằng sau tôi về phía căn phòng tối tăm – căn phòng “bị ma ám” trong ngôi nhà. “Giờ có phải là lúc để… ơ… để nói về những điều em đã tìm hiểu được không ạ? Ý em là về ngôi nhà ấy? Và những người đã chết ở đây nữa?”
“Những người? Theo số nhiều ấy à?”
“Ơ, đúng vậy,” Tiến Sỹ đáp. “Em đã tìm được hàng đống tài liệu nói về những tội ác diễn ra trong ngôi nhà này, rất nhiều trong số đó có liên quan tới tội giết người ở các cấp độ các nhau. Vì đây là nhà trọ nên có rất nhiều người lưu trú trong một thời gian ngắn, đa phần đang trên đường trở về nhà sau khi đột ngột trở nên giàu sụ trong cơn sốt đào vàng ở cái bang phía bắc. Nhiều người trong số họ bị giết trong khi đang ngủ, vàng thì bị lấy mất, có người cho rằng đó là do những chủ nhân của cái nhà trọ đó, nhưng có khả năng nhất là những người khác cùng ở trọ – ”
Sợ rằng mình sắp nghe thấy Jesse đã chết như thế – và đột nhiên không hề có một tí hứng thú nào để tìm hiểu thêm về nguyên nhân cái chết của anh ấy, nhất là khi anh ấy có thể quanh quẩn nghe trộm lắm – tôi bèn nói: “Nghe này Tiến Sỹ – à quên, Dave. Chắc là chị chưa hết mệt bởi chuyến bay dài dằng dặc đâu, thế nên giờ chị đang cố ngủ thêm tí nữa. Ngày mai chúng ta nói chuyện ở trường nhé? Có lẽ mai chúng ta cùng ăn trưa đi.”
Đôi mắt Tiến Sỹ mở to. “Chị nói thật chứ ạ? Chị muốn ăn trưa cùng với em à?”
Tôi nhìn nó chăm chăm. “Ơ, ừ. Sao thế? Lại có quy định rằng học sinh cấp 3 thì không được ăn trưa cùng học sinh cấp 2 nữa chắc?”
“Không ạ,” Tiến Sỹ đáp. “Chỉ là… các anh ấy chả bao giờ làm thế cả.”
“Ờ,” tôi nói. “Chị sẽ làm thế. Được không nào? Em mua đồ uống, chị mua món tráng miệng.”
“Quá hay luôn!” Tiến Sỹ nói, quay trở về phòng với vẻ trông như thế tôi vừa mới bảo rằng ngày mai tôi sẽ truyền cho nó ngai vàng của nước Anh vậy.
Tôi vừa mới đến bên lề của lơ mơ thì lại có tiếng gõ cửa. Lần này khi mở, tôi thấy Ngái Ngủ đang đứng đó, lần đầu tiên trông tỉnh táo hơn tôi tưởng.
“Nghe này,” anh ta nói. “Anh không cần biết đêm nay em có lôi xe ra đi không, nhưng treo chùm chìa khoá về chỗ cũ trên cái móc, được chứ?”
Tôi nhìn anh ta chằm chằm. “Em đâu có lấy xe của anh đi đêm hôm đâu Ngá– , à quên, Jake.”
Anh ta đáp: “Sao cũng được. Nhưng trả chìa khoá về chỗ cũ nhé. Và thỉnh thoảng nhớ đổ xăng.”
Tôi nói, thật chậm để anh ta có thể hiểu: “Em chưa lấy xe của anh đi đêm bao giờ Jake ạ.”
“Thời gian của em, muốn làm gì là chuyện của em,” Ngái Ngủ nói. “Ý anh là, anh không khoái cái bọn băng đảng hay gì đó. Nhưng đó là cuộc sống của em. Chỉ cần trả lại chìa khoá của anh về chỗ cũ để anh tìm thấy, thế thôi.”
Thấy rằng cứ cãi qua cãi lại thế này chả được tích sự gì hết, thế là tôi đáp: “Được, em biết rồi,” và đóng cửa lại.
Rồi sau đó tôi có được vài giờ đồng hồ để ngủ giấc ngủ tối cần thiết. Tôi thức dậy không thực sự sảng khoái lắm – tôi có thể ngủ đến tận năm sau cũng được – nhưng dù sao cũng thấy đỡ hơn chút ít.
Cũng đủ sức để đi tẩn nhau với vài con ma đấy. Hồi tối tôi đã chuẩn bị hết những vật dụng sẽ cần dùng đến rồi. Balô của tôi nhét đầy những là nến, chổi sơn, một cái hộp thực phẩm Tupperware đựng đầy máu gà mua ở cửa hàng thịt ở siêu thị Safeway tôi nhờ Adam cho ghé qua trước khi đưa tôi về, và nhiều thứ linh tinh cần thiết khác để tiến hành lễ trừ ma thực thụ theo kiểu Brazil. Tôi hoàn toàn sẵn sàng khởi sự rồi. Tất cả những gì cần làm là xỏ đôi giày cao cổ vào, và chuồn thôi.
Dĩ nhiên là trừ cái việc Jesse hiện ra đúng lúc tôi nhảy khỏi mái hiên.
“Thôi được rồi,” tôi nói, đứng thẳng lên, chân tôi hơi ê ẩm cho dù mặt đất nơi tôi hạ cánh thì mềm. “Thẳng thắn với nhau một chuyện luôn nhé. Đêm nay anh sẽ không thò mặt ra ở Trường Truyền Giáo. Hiểu không? Cứ thò mặt đến đó đi, rồi anh sẽ cực kỳ, cực kỳ hối hận đấy.”
Jesse đứng dựa vào một trong những cây thông to vĩ đại trong sân nhà chúng tôi. Chỉ đứng đó, khoanh tay trước ngực, nhìn tôi cứ như thể tôi là một thể loại show diễn gì đó hay ho thú vị lắm ấy.
“Nói thật đấy,” tôi nói. “Đêm nay sẽ là một đêm tệ hại đối với ma. Tệ lắm đấy. Thế nên nếu tôi là anh thì tôi sẽ chả đến đó đâu.”
Tôi thấy Jesse mỉm cười. Đêm nay trăng không tỏ bằng đêm qua, nhưng cũng đủ rõ để tôi có thể nhìn thấy cái khoé miệng anh ta cong lên chứ không phải cong xuống.
“Susannah,” anh ta nói. “Cô định làm gì?”
“Chả làm gì hết.” Tôi bước qua cánh cổng nhà xe, lôi chiếc xe đạp ra. “Tôi chỉ có vài việc cần xử lý.”
Jesse lướt đến trước mặt tôi khi tôi đang đội chiếc mũ bảo hiểm. “Với Heather chứ gì?” anh ta hỏi khẽ.
“Đúng. Với Heather. Tôi biết lần trước không kiểm soát được, nhưng lần này, mọi thứ rồi sẽ khác.”
“Chính xác là thế nào?”
Tôi lăng một chân qua cái thanh chắn ngu si người ta lắp vào xe đạp của bọn con trai, đứng trên đầu lối đi, ngón tay nắm chặt lấy tay xe. “Được rồi,” tôi nói. “Cho anh biết luôn. Tôi sắp tiến hành một buổi lễ trừ ma.”
Bàn tay phải của anh ta vụt thò ra, nắm lấy cái ghi đông. “Cái gì cơ?” anh ta nói bằng một giọng hoàn toàn chẳng còn tí ti gì cái ý bông đùa trước đó.
Tôi nuốt xuống. Thôi được rồi, thì tôi chẳng thấy vững tin cho lắm so với cái vẻ mà tôi đang giả vờ vậy. Thực ra, đôi chân xỏ giày Converse All Stars của tôi đang run lắm đấy. Nhưng mà tôi còn biết làm gì khác đâu nào? Tôi phải ngăn Heather trước khi cô ta lại làm người khác bị thương chứ. Và sẽ thật hữu ích nếu mọi người ủng hộ nỗ lực của tôi.
“Anh không thể giúp tôi được đâu,” tôi nói một cách cứng nhắc. “Tối nay anh không thể đến đó được Jesse ạ, nếu không anh cũng có thể sẽ bị dính phép trừ tà đấy.”
“Cô,” Jesse nói một cách vô cảm như tôi, “điên rồi.”
“Có thể lắm,” tôi khổ sở nói.
“Cô ta sẽ giết cô,” Jesse nói. “Cô không hiểu à? Đó là điều cô ta muốn đấy.”
“Không phải.” Tôi lắc đầu. “Cô ta không muốn giết tôi đâu. Cô ta muốn giết hết những người tôi yêu thương trước đã. Sau đó cô ta mới giết tôi.” Tôi sụt sịt. Chả hiểu sao tự nhiên lại chảy nước mũi. Có thể là vì lạnh quá. Tôi không biết làm thế nào mà những cây cọ có thể sống được cơ chứ. Bên ngoài trời chỉ khoảng vài độ hay sao ấy.
“Nhưng tôi sẽ không để cho cô ta làm thế, anh hiểu không?” tôi nói tiếp. “Tôi sẽ ngăn cô ta lại. Giờ buông xe đạp của tôi ra đi.”
Jesse lắc đầu. “Không. Không được. Ngay cả khi cô không làm điều gì đó quá sức ngu ngốc.”
“Tôi ư?” Tôi bị xúc phạm đấy. “Cảm ơn nhiều nhé.”
Anh ta không thèm để ý. “Vị linh mục đó có biết chuyện này không, Susannah? Cô đã nói với ông ấy chưa?”
“Ừm, có chứ. Ông ấy biết. Ông ấy… ờ… sẽ gặp tôi ở đó.”
“Ông linh mục sẽ gặp cô ở chỗ đó ấy à?”
“Ừ, phải.” Tôi cười yếu ớt. “Anh không nghĩ là tôi lại cố làm cái việc kiểu này một mình đấy chứ hả? Ý tôi muốn nói là, tôi đâu có ngu thế, cho dù anh có nghĩ gì đi chăng nữa.”
Cái nắm trên xe đạp thả lỏng chút ít. “Ừm, nếu vị linh mục có ở đó thì…”
“Có mà. Chắc chắn thế.”
Nắm tay lại siết chặt như cũ. Tay kia của Jesse vung lên, một ngón tay dài chỉ vào mặt tôi và anh ta nói: “Cô đang nói dối, đúng không hả? Ông linh mục không hề đến đó. Cô ta đã làm ông ấy bị thương, phải không? Vào sáng nay à? Tôi đã đoán thế mà. Cô ta có giết được ông ấy không vậy?”
Tôi lắc đầu. Bất thình lình tôi cảm thấy chẳng hề muốn nói chuyện tí nào hết. Cảm giác như thể có thứ gì đó mắc nghẹn nơi họng tôi. Thứ gì đó đau lắm.
“Chính vì vậy nên cô mới tức giận đến như thế,” Jesse băn khoăn nói. “Lẽ ra tôi phải biết rồi mới đúng. Cô sắp đi đến chỗ đó để trả thù cô ta vì những gì cô ta đã làm với vị linh mục.”
“Nếu thế thì sao nào?” Tôi bùng nổ. “Cô ta đáng bị như thế!”
Anh ta hạ ngón tay xuống, dùng cả hai tay nắm lấy ghi đông xe đạp của tôi. Để tôi nói bạn hay, đối với một người chết mà như thế là khoẻ lắm đấy. Tôi không thể nào di chuyển nổi cái xe ngu si khi anh ta còn bám lấy nó như thế.
“Susannah,” anh ta nói. “Như thế không được đâu. Đó không phải là lý do cô được ban tặng tài năng phi thường đó đâu, không phải để cô làm những việc như thế này – ”
“Tài năng cơ đấy!” Tôi suýt nữa thì cười ầm lên. Tôi phải cắn chặt răng để ngăn lại. “Ờ, phải rồi, Jesse. Tôi được ban tặng một tài năng thật quý hoá quá. Ừm, biết gì không? Tôi phát ngán với cái tài năng đó rồi. Thật đấy. Tôi cứ nghĩ đến nơi này thì tôi có thể có một sự khởi đầu mới. Tôi cứ nghĩ mọi thứ rồi sẽ khác. Và anh biết sao không hả? Đúng là có khác đấy. Mọi thứ còn tệ hại hơn nữa kìa.”
“Susannah – ”
“Tôi phải làm gì bây giờ hả Jesse? Yêu mến Heather vì những gì cô ta đã làm chắc? Ôm ấp vỗ về cái linh hồn bị tổn thương đó chắc? Xin lỗi nhé, nhưng việc đó là bất khả thi. Có thể Cha Dom làm được đấy, nhưng tôi thì không, và giờ ông ấy chẳng làm gì được, thế nên ta sẽ xử lý mọi chuyện theo cách của tôi. Tôi sẽ loại bỏ cô ta, và nếu mà anh biết được điều gì là tốt cho mình, Jesse ạ, thì anh tránh xa ra!”
Tôi đạp cái chân chống một cú đầy bạo lực, cùng lúc giật cái ghiđông ra. Hành động đó làm cho Jesse kinh ngạc đến nỗi bất ngờ buông cái xe ra. Một giây sau, tôi biến luôn, làm cho những viên sỏi bên dưới bánh xe sau nảy lên, để lại Jesse đứng đó hít bụi. Tôi có nghe thấy tiếng anh ta nói hàng đống cái khỉ gì đó bằng tiếng Tây Ban Nha khi tôi lao xuống đường. Có thể đó là những câu chửi thề cũng nên. Mà chắc chắn là anh ta cũng chả hề nhắc đến cái từ querida gì hết.
Tôi không nhìn rõ con đường dẫn xuống thung lũng. Gió lạnh đến mức những giọt nước mắt tuôn thành hàng liên tục xuống má, bay cả vào mái tóc. Ơn Chúa, chẳng có mấy xe cộ nên khi tôi lao xe xuống chỗ đường giao nhau, việc tôi không nhìn thấy gì cả cũng không đáng ngại cho lắm. Dù sao đi nữa, xe ôtô cũng dừng lại nhường đường cho tôi.
Tôi biết lần này đột nhập vào trường sẽ khó nhằn hơn đây. Họ chắc đã phải tăng cường hệ thống an ninh sau cái chuyện xảy ra đêm hôm qua. Tăng cường an ninh ấy à? Đúng ra họ cần đi kiếm hẳn một hệ thống thật thì có.
Và họ đã làm thật. Một chiếc xe cảnh sát đỗ trong bãi xe, không bật đèn. Chỉ đỗ ở đó, ánh trăng phản chiếu trên cánh cửa. Tài xế – không nghi ngờ gì đó là một kẻ bất hạnh vì bị gí cái nhiệm vụ chán muốn chết này – có lẽ đang nghe nhạc, dù từ chỗ đứng ngay bên ngoài cánh cổng bãi xe tôi không nghe thấy tiếng gì hết.
Thế nên tôi phải kiếm cách khác để vào thôi. Chuyện nhỏ như con thỏ. Tôi giấu chiếc xe vào chỗ mấy bụi cây, rồi từ tốn lủi vòng ra vành đai bên ngoài trường.
Chả có mấy toà nhà mà một đứa con gái mười sáu tuổi khá nhỏ con lại chịu thua. Ý tôi muốn nói, bọn tôi khá là linh động. Tôi cũng có các khớp rất mềm dẻo. Tôi sẽ không kể cho bạn nghe tôi xoay xở đột nhập vào thế nào đâu đấy, vì tôi không muốn các giáo viên phụ trách trường tìm hiểu được – ai mà biết, nhỡ một ngày nào đó tôi lại phải sử dụng cách đấy thì sao – nhưng thế này nhé, nếu bạn sắp làm cửa thì hãy chắc chắn rằng kiểu gì nó cũng phải mở trực tiếp ra sân luôn. Khoảng cách giữa sân xi măng và cánh cửa chính là khoảng trống mà một đứa con gái như tôi đây cần có để luồn lách qua đấy.
Trong sân, mọi thứ trông khác hẳn so với đêm hôm qua – và đáng sợ hơn nhiều. Tất cả đèn đóm đều tắt hết – điều này có thể không phải là lời cảnh báo dành cho tôi, nhưng dĩ nhiên có thể Heather đã đập vỡ hết bóng đèn rồi – thế nên cái sân sấp bóng tối mò kỳ quái. Đài phun nước cũng bị ngắt rồi. Lần này tôi chẳng nghe thấy gì hết ngoài tiếng dế kêu. Chỉ là bọn dế rả rích trong những đám hoa dâm bụt. Bọn dế thì chả ảnh hưởng gì. Chúng là bạn của con người.
Không có dấu hiệu nào của Heather cả. Không thấy bóng dáng của bất cứ ai hết. Tốt rồi. Tôi bò về phía cái tủ đồ chung của Heather và của tôi – cố hết sức để bò thật khẽ – mà với đôi giày tôi đi thì cũng khá nhẹ nhàng rồi. Sau đó tôi quỳ xuống sàn đá lạnh lẽo và mở cái balô ra.
Tôi thắp nến trước. Cần có ánh sáng để nhìn chứ. Hơ cái bật lửa của tôi – ờ thì không hẳn là của tôi, nó là cái bật lửa thân dài lấy được ở bữa tiệc ngoài trời – xuống phía dưới chân nến, tôi nhỏ một vài giọt sáp xuống nền đất, rồi ấn cái chân nến xuống chỗ mấy giọt sáp mềm mềm dính dính để giữ nó đứng thẳng. Tôi lặp lại với những cây nến khác cho đến khi làm thành một vòng tròn nến trước mặt. Sau đó tôi mở nắp hộp đựng máu gà.
Tôi sẽ không miêu tả cái hình mà tôi cần phải vẽ ở tâm vòng tròn nến để lễ trừ ma có hiệu lực đâu đấy. Các buổi lễ trừ ma chẳng phải là thứ người ta có thể thử làm ở nhà, chả cần biết là bạn có bị ma ám đến mức nào đi chăng nữa. Việc này chỉ nên để những người chuyên nghiệp như tôi tiến hành mà thôi. Bạn đâu có muốn làm tổn thương những hồn ma vô tội lang thang quanh đó chứ.
Và Mecumba – trừ ma theo kiểu Brazil – không phải là chuyện muốn làm thế nào thì làm đâu, thế nên tôi sẽ không viết ra đây câu bùa chú tôi cần phải niệm. Với lại nó cũng bằng tiếng Bồ Đào Nha. Cứ hiểu rằng tôi nhúng chổi vẽ vào máu gà, và vừa vẽ những hình thù cần thiết, vừa thì thầm những từ ngữ cần thiết. Chẳng cần phải đến lúc tôi thò tay vào chiếc balô, lôi cái ảnh của Heather ra thì tôi mới nhận thấy rằng bọn dế đã thôi gáy từ lâu.
“Cô,” cô ta nói bằng một giọng cáu bẳn ngay phía sau lưng tôi, “đang làm cái quái quỷ gì thế hả?”
Tôi không trả lời. Tôi đặt tấm ảnh vào tâm của cái hình đã vẽ. Ánh sáng từ những ngọn nến *** bức ảnh khá rõ.
Heather tiến lại gần hơn nữa. “Này,” cô ta nói. “Đấy là ảnh của tôi chứ. Cô lấy ở đâu ra thế?”
Tôi chả thèm nói câu nào ngoài những từ tiếng Bồ Đào Nha cần phải đọc. Điều này có vẻ khiến cho Heather khó chịu.
Ờ, phải thừa nhận là mọi thứ dường như khiến cho Heather khó chịu ấy chứ.
“Cô đang làm gì đấy hả?” Heather hỏi lại lần nữa. “Cô đang nói cái tiếng gì đấy? Cái hình thù vẽ màu đỏ kia để làm gì?” Khi tôi không đáp, Heather trở nên – hình như đó là bản tính của cô ta rồi – nói năng tục tĩu. “Này con khốn kiếp kia,” cô ta nói, đặt một tay lên vai tôi và kéo lại, không được nhẹ nhàng cho lắm. “Có nghe thấy gì không đấy?”
Tôi dừng lời niệm chú đang đọc. “Cô làm ơn làm phước đi Heather,” tôi nói, “đứng ra kia ngay cạnh cái ảnh của cô ấy, được chứ?”
Heather lắc đầu. Mái tóc dài vàng ánh lên dưới ánh nến. “Cô là cái thá gì chứ?” cô ta hỏi đầy thô lỗ. “Đàn anh đàn chị chắc? Tôi không đứng đâu hết. Có phải... có phải đó là máu không?”
Tôi nhún vai. Tay cô ta vẫn tọa trên vai tôi. “Phải,” tôi đáp. “Nhưng đừng có lo. Chỉ là máu gà thôi.”
“Máu gà á?” Heather nhăn mặt. “Kinh quá. Cô có nói đùa không đấy? Cái đó để làm gì?”
“Để giúp cô,” tôi đáp. “Giúp cô quay trở lại.”
Hàm của Heather nghiến lại. Cánh cửa của những ngăn tủ phía trước mặt tôi bắt đầu rung rung. Nhưng không rung mạnh. Chỉ đủ để cho tôi hay rằng Heather đang không vui. “Tôi tưởng,” cô ta nói, “là tối qua tôi đã nói rõ với cô rồi, rằng tôi sẽ không đi đâu hết.”
“Cô bảo cô muốn quay trở lại còn gì.”
“Đúng thế,” Heather đáp. Vòng quay số trên những ổ khoá bắt đầu xoay tròn ầm ỹ. “Trở lại với cuộc sống trước đây của tôi.”
“Ờ,” tôi nói. “Tôi tìm được một cách để cô thực hiện được điều đó.”
Những cánh cửa bắt đầu kêu rền, rung lắc dữ dội.
“Không thể nào,” Heather nói.
“Có. Tất cả những gì cô cần phải làm là đứng ngay chỗ kia, giữa những cây nến, cạnh tấm ảnh của cô ấy.”
Heather không cần thêm một lời giục giã nào nữa. Trong một giây, cô ta ở đúng chỗ như tôi yêu cầu.
“Cô có chắc việc này có tác dụng không?” Heather háo hức hỏi.
“Có,” tôi đáp. “Chứ chả lẽ tôi ném cả đống tiền tiêu vặt vào chỗ nến và máu gà đó là vô ích chắc.”
“Và rồi mọi thứ sẽ trở lại đúng như cũ chứ? Ý tôi là trước khi tôi chết ấy?”
“Chắc chắn,” tôi nói. Tôi có cần phải cảm thấy tội lỗi vì nói dối cô ta không ấy nhỉ? Không. Ý tôi là không cần cảm thấy tội lỗi. Tất cả cảm giác của tôi là thật nhẹ cả người. Mọi thứ đến lúc này thật quá dễ dàng. “Giờ im miệng lại trong một phút trong khi tôi niệm chú.”
Cô ta chỉ có thể là quá háo hức nên mới nghe lời. Tôi niệm chú.
Niệm chú.
Và niệm chú.
Tôi bắt đầu thấy lo lo rằng chẳng có điều gì diễn ra cả thì ngọn lửa nến nhấp nháy. Mà không phải bởi gió đâu nhé. Chẳng có tí gió nào hết.
“Chả có gì xảy ra hết,” Heather càu nhàu, nhưng tôi xuỳ cô ta.
Những ngọn lửa nến lại nhấp nháy lung linh. Và rồi, phía trên đầu Heather, cái chỗ vốn là mái che lối đi, xuất hiện một cái hố đầy những dòng khí màu đỏ cuộn xoáy. Tôi nhìn chằm chằm vào cái hố ấy.
“Ừm, Heather này,” tôi nói. “Cô nên nhắm mắt lại.”
Cô ta sung sướng làm theo. “Sao? Đang có tác dụng rồi hả?”
“Ờ,” tôi nói. “Đang có tác dụng, ổn cả.”
Heather nói cái gì đó nghe như “hay ghê”, nhưng mà tôi không dám chắc. Tôi không nghe rõ cô ta nói gì cho lắm vì dòng khí màu đỏ cuồn cuộn – trông giống khói thì đúng hơn – bắt đầu xoáy theo trôn ốc từ trên xuống, tạo nên những tiếng động trầm trầm nghe như tiếng sấm. Những dòng khí đó nhanh chóng cuốn quanh người Heather, nhẹ tựa sương khói. Chỉ có cô ta là chả biết gì hết vì nhắm mắt rồi còn đâu.
“Tôi nghe thấy cái gì đó,” cô ta nói. “Có đúng là nó không đấy?”
Phía trên đầu cô ta, cái hố ngày càng mở rộng ra. Tôi có thể trông thấy những ánh chớp nhá lên trong đó. Có vẻ như đấy chả phải là nơi tốt đẹp lắm để đến sống. Tôi không bảo là tôi vừa mới mở cánh cửa địa ngục hay gì đó đâu nhé – ít nhất thì tôi cũng không muốn thế – nhưng nhất định đó là một thế giới khác với thế giới của chúng ta, mà nói thật, trông cái nơi đó chả hay ho thú vị để đi thăm thú, chứ đừng nói gì sống ở đó mãi mãi.
“Chỉ một phút nữa thôi,” tôi nói, khi ngày càng nhiều khói uốn lượn như rắn cuốn quanh thân mình thon thả của thành viên đội cổ vũ. “Rồi cô sẽ đến nơi.”
Heather vuốt ve mái tóc dài. “Ôi, Chúa ơi,” cô ta nói. “Tôi không thể chờ được. Điều đầu tiên mà tôi sẽ làm là đi đến bệnh viện và nói lời xin lỗi Bryce. Cô có nghĩ đó là một ý kiến hay không, Suzie?”
Tôi đáp: “Nhất định rồi.” Tiếng sấm ngày một to hơn, chớp nhá liên tục hơn. “Đó là một ý kiến hay tuyệt.”
“Hi vọng là mẹ tôi chưa vứt hết quần áo của tôi đi,” Heather nói. “Chỉ vì tôi đã chết. Cô không cho rằng mẹ tôi sẽ vứt hết quần áo của tôi đi chứ, Suzie?” Cô ta mở mắt ra. “Cô có nghĩ thế không?”
Tôi hét lên: “Nhắm mắt vào đi chứ!”
Nhưng đã quá muộn. Cô ta trông thấy rồi. Ôi, trời ơi, cô ta thấy mất rồi. Cô ả nhìn vào những làn khói đỏ quấn quanh mình và bắt đầu gào thét.
Không phải vì sợ. Ôi không. Heather không hề sợ. Cô ta nổi giận. Thực sự nổi điên rồi.
“Con khốn kiếp!” cô ta ré lên. “Mi không làm cho ta trở lại! Mi không hề làm thế! Mi đang tống khứ ta đi!”
Và rồi, khi tiếng sấm rền lên to nhất, Heather bước ra khỏi vòng tròn.
Chỉ thế thôi. Cô ta chỉ bước ra khỏi vòng tròn. Cứ như thể nó chả xi nhê gì hết. Cứ như thể nó chỉ là cái ô trong trò chơi nhảy lò cò vậy. Những làn khói đỏ lúc trước còn quấn quanh người cô ta giờ tan biến. Tan biến như thể chưa có gì. Và cái hố phía trên đầu Heather khép lại.
Thôi được rồi. Phải thừa nhận. Tôi nổi cáu lên rồi đây.
Này, tôi mất bao nhiêu công sức để làm việc đó đấy.
“Ôi, không được,” tôi gầm gừ. Tôi lao đến bên Heather và tóm lấy cô ta. Chắc là tóm vào cổ, tôi e là thế.
“Quay lại đó,” tôi nói giữa hai hàm răng nghiến chặt. “Quay lại đó ngay lập tức.”
Heather chỉ cười. Tôi tóm lấy cổ cô ta, thế mà cô ta chỉ cười.
Đằng sau cô ta, những ngăn tủ lại bắt đầu rên lên. To hơn bao giờ hết.
“Mi,” cô ta nói, “tiêu đời rồi. Mi tiêu rồi Simon ạ. Mi biết không? Ta chắc chắn sẽ khiến cho tất cả bọn chúng đi theo mi. Tất cả lũ bạn quái đản nhỏ bé của mi. Và cả bọn anh em của mi nữa.”
Tôi bóp chặt cổ cô ta hơn nữa. “Tôi không nghĩ thế đâu. Tôi cho là cô sắp quay lại chỗ cũ và biến đi như một con ma bé nhỏ ngoan ngoãn thì có.”
Cô ta lại cười. “Cứ thử xem,” cô ta nói, đôi mắt xanh sáng rực lên điên loạn.
Ờ. Nếu cô thích thế.
Tôi đấm cô ta thật mạnh bằng tay phải. Rồi trước khi cô ta có cơ hội hồi phục, tôi đấm tiếp bằng tay trái. Nếu cô ta cảm nhận được những cú đấm thì cô ta lại không có phản ứng gì. Không, không phải thế. Tôi biết cô ta cảm nhận được những cú đánh, vì những cánh cửa tủ đồ đột nhiên bắt đầu mở ra và đóng lại. Không hẳn là đóng lại. Mà là sập lại. Mạnh. Mạnh đủ để làm rung chuyển cả cái lối đi.
Tôi nói thật đấy. Cả cái mái che lối đi đang chồm lên chồm xuống cứ như thể bên dưới đó là những đợt sóng biển thực thụ vậy. Những cột trụ bằng gỗ dày đỡ cái mái rung lắc dưới mặt đất nơi đã giữ chúng đứng đó khoảng ba trăm năm trời. Ba trăm năm với những trận động đất, hoả hoạn, lụt lội, và giờ đây hồn ma của một thành viên đội cổ vũ khiến cho chúng đổ nhào cơ đấy.
Nói cho bạn hay, việc làm cầu nối cho hồn ma này chẳng vui vẻ cái khỉ mốc gì hết đâu.
Và rồi những ngón tay cô ta bóp lấy cổ tôi. Tôi chả biết bằng cách nào. Chắc là tôi bị phân tán bởi tất cả những tiếng rung lắc đó. Không ổn rồi. Tôi nắm lấy cẳng tay cô ta, bắt đầu cố đẩy cô ta về phía sau, hướng về phía vòng tròn nến. Vừa làm tôi vừa lẩm nhẩm thầm thì câu chú tiếng Bồ Đào Nha, nhìn chằm chằm vào những thanh gỗ đỡ mái nhà trên đầu, hi vọng rằng cái hố dẫn đến vùng đất u tối đó sẽ lại mở ra.
“Câm mồm,” Heather nói khi cô ta nghe thấy cái điều tôi đang thì thào. “Câm mồm lại! Mi sẽ không đuổi được ta đi đâu hết. Ta thuộc về nơi này! Hơn mi nhiều!”
Tôi cứ tiếp tục niệm. Tôi cứ tiếp tục đẩy.
“Mi nghĩ mi là cái thá gì chứ?” Mặt Heather đỏ lên vì cơn điên loạn. Qua khoé mắt, tôi trông thấy cái chậu trồng đám hoa phong lữ đang bay lơ lửng khoảng hơn chục phân khỏi hàng chấn song bằng đá mà lúc trước nó trụ ở đó. “Mi chẳng là cái gì hết. Mi mới đến ngôi trường này được hai ngày. Hai ngày! Mi nghĩ chỉ cần đến đây và thay đổi mọi thứ chắc? Mi nghĩ mi có thể đơn giản là thế vào chỗ của ta chắc? Mi nghĩ mi là ai chứ hả?”
Tôi đá một cái, kéo đôi cánh tay tôi đang nắm cùng lúc lôi chân cô ta ra, khiến cho cả hai đập người vào sàn đá cứng ngắc. Cái chậu hoa đổ theo, không phải vì bọn tôi va vào mà là vì Heather điều khiển nó văng đi trong không trung về phía tôi. Tôi cúi xuống trong gang tấc, và cái chậu nặng nề bằng đất nung đâm sầm vào hàng cánh tủ, vỡ tan cùng với đất bồi, hoa và những miếng vỡ. Tôi nắm đầy tay một mớ tóc vàng dài bóng mượt của Heather. Chơi thế này có vẻ không hay ho cho lắm, nhưng mà này, cái chậu hoa phong lữ đó cũng có thèm chơi đẹp quái đâu nào.
Cô ta gào rú, đấm đá, quằn quại như con lươn trong khi tôi nửa lôi xềnh xệch, nửa xô đẩy cô ta trở lại vòng tròn nến. Cô ta bắt đầu khiến các đồ vật khác bay lên. Những ổ khoá bay ra khỏi cái cốt trên cánh tủ, lao như gió về phía tôi như những cái đĩa bay vậy. Rồi một cơn xoáy lốc lao đến, kéo theo tất cả những thứ trong các ngăn tủ ra ngoài trên lối đi, để cho sách giáo khoa và những cái cặp giữ giấy bay về phía tôi từ cả bốn phía. Tôi cúi đầu xuống, nhưng không nới lỏng tay nắm lấy cô ta ngay cả khi có một cuốn sách Lượng giác của ai đó đập mạnh vào vai tôi. Tôi tiếp tục niệm những câu chú mà tôi biết sẽ mở lại cái hố đó một lần nữa.
“Tại sao cô lại làm việc này?” Heather ré lên. “Sao cô không để mặc kệ tôi?”
“Bởi vì...” Người tôi thâm tím, thở không ra hơi, mồ hôi nhỏ tong tỏng, và tất cả những gì tôi muốn làm là mặc kệ cô ta.
Nhưng tôi không thể.
Thế nên, thay vào đó, tôi đá vào chính giữa ngực cô ta, lôi cô ta trở lại tâm vòng tròn nến. Và giây phút cô ta ngã lăn trên cái tấm ảnh của chính mình mà cô ta đã tặng cho Bryce, cái hố trước đây từng mở ra phía trên đầu cô ta giờ tái xuất hiện. Và lần này, làn khói đỏ cuộn chặt lấy cô ta tựa như một tấm chăn dày. Cô ta không thoát ra được nữa. Không dễ thế đâu.
Làn sương khói màu đỏ bện lấy cô ta quá dày đặc, tôi không còn nhìn thấy cô ta nữa, nhưng chắc chắn là vẫn nghe tiếng. Tiếng gào rú của cô ta còn có thể dựng dậy cả người chết cơ mà – trừ việc dĩ nhiên cô ta là người chết duy nhất quanh đây. Sấm nổ ầm ì phía trên đầu cô ta. Phía bên trong cái hố đen mở ra phía trên đầu, tôi chắc là có thấy những vì sao lấp lánh.
“Tại sao?” Heather gào lên. “Tại sao cô làm thế với tôi chứ?”
“Bởi vì,” tôi đáp. “Tôi là cầu nối của hồn ma.”
Và rồi có hai điều to tát xảy ra cùng lúc. Màn khói đỏ quấn quanh Heather bắt đầu bốc trở lại cái hố đang xoay tròn, kéo theo cả Heather.
Và những cái cột trụ chắc chắn đỡ cái mái lối đi phía trên đầu tôi đột ngột chẻ ra làm đôi, gọn ghẽ cứ như thể chúng chỉ dày có sáu phân chứ không phải sáu mươi phân.
Và rồi cả cái mái phía trên lối đi đổ ụp xuống đầu tôi.
Tôi không biết mình đã nằm dưới một đống những khúc gỗ và ngói nung của cái lối đi bị sập trong bao lâu nữa. Nghĩ lại, tôi nhận ra rằng hẳn lúc đó tôi đã bất tỉnh rồi, cho dù chỉ có vài phút.
Tất cả những gì tôi còn nhớ được là có vật gì đó sắc cạnh đập vào đầu tôi, tiếp sau đó, tôi mở mắt để thấy mỗi bóng tối bao phủ, có cảm giác mình ngạt thở.
Cái trò mà bọn yêu tinh rất khoái bày ra là ngồi lên ngực nạn nhân của chúng khi người ta vừa tỉnh dậy, khiến cho con người đáng thương đó có cảm giác như mình bị ngạt thở mà chẳng biết tại sao. Tôi không tài nào hiểu nổi vì sao, và trong một hay hai giây tôi nghĩ rằng mình đã thất bại và rằng Heather vẫn còn quanh quẩn trên trái đất này, đang ngồi lên ngực tôi, hành hạ tôi, trả thù vì những gì tôi đã cố làm với cô ta.
Rồi tôi lại nghĩ, Có khi mình chết rồi cũng nên.
Tôi không biết tại sao. Nhưng điều đó đang xảy ra với tôi. Có lẽ chết là cảm thấy như thế này đây. Lúc đầu là thế này. Hẳn là Heather đã cảm thấy điều đó khi cô ta tỉnh dậy trong quan tài. Cô ta hẳn cũng cảm thấy như tôi đây: bế tắc, ngạt thở, sợ hãi vô cùng. Chúa ơi, chẳng trách lúc nào cô ta cũng khó chịu đến như thế. Chẳng trách cô ta lại khao khát trở lại cái thế giới cô ta từng được sống trước khi chết. Điều này thật khủng khiếp. Hơn cả khủng khiếp ấy chứ. Nó chính là địa ngục.
Nhưng rồi tôi cử động bàn tay – phần duy nhất của tôi còn có thể cử động được – và cảm thấy có cái gì đó nặng nề và man mát đang đè lên tôi. Đó là lúc tôi biết được chuyện gì đã xảy ra. Cái lối đi đã bị sập. Heather đã sử dụng nốt chút ít năng lực điều khiển vật chuyển động còn lại để khiến tôi bị thương vì dám đuổi cô ta đi. Và cô ta đã thành công quá sức, vì giờ tôi nằm đây, bất động, mắc kẹt dưới cái đống mà ai biết được nó nặng bao nhiêu cân gỗ với lại mái ngói kiểu Tây Ban Nha chứ.
Cảm ơn nhé Heather. Cảm ơn cô cả đống luôn.
Lẽ ra thì tôi phải thấy sợ mới đúng. Ý tôi muốn nói là, tôi đang bị ghim chặt ở đây, hoàn toàn không thể cử động nổi, trong bóng tối mù mịt. Nhưng trước khi tôi có thời gian để mà sợ thì tôi nghe thấy có tiếng người gọi tên mình. Lúc đầu tôi nghĩ có lẽ mình điên mất rồi cũng nên. Đâu có ai biết rằng tôi lén đi đến trường, dĩ nhiên là trừ Jesse, và tôi đã bảo anh ấy chuyện gì có thể sẽ xảy đến nếu anh ấy dám thò mặt ra. Anh ấy đâu có ngốc chứ. Anh ấy biết tôi sắp làm lễ trừ ma. Có thể nào anh ấy quyết định xuất hiện không nhỉ? Giờ đã an toàn chưa? Tôi chẳng biết nữa. Nếu anh ấy mà xuất hiện để rồi bước vào cái vòng tròn nến cùng với máu gà đó, thì liệu anh ấy có bị lôi vào trong cái vùng đất u tối đã cuốn Heather theo không?
Giờ tôi mới bắt đầu thấy hoảng sợ.
“Jesse!” tôi kêu lên, đẩy cái thanh gỗ đè lên mặt, làm cho bụi và những miếng gỗ rơi xuống mặt. “Đừng mà!” Tôi ré lên. Bao nhiêu là bụi khiến cho tôi phát tức thở, nhưng tôi mặc kệ. “Quay lại đi! Không an toàn đâu!”
Thế rồi cái đống nặng trịch được nhấc lên khỏi ngực tôi, và đột ngột tôi nhìn được. Phía trên là bầu trời đêm, xanh mượt mà điểm xuyết những ngôi sao. Và giữa những ngôi sao ấy lơ lửng một khuôn mặt lo lắng nhìn tôi.
“Chị ấy đây rồi,” Tiến Sỹ gọi, giọng nó run rẩy trong cả âm lượng lẫn độ cao. “Anh Jake, em tìm thấy chị ấy rồi!”
Gương mặt thứ hai xuất hiện cùng với gương mặt đầu tiên, được bao phủ bởi mái tóc vàng dài quá độ. “Trời đất thánh thần ơi,” Ngái Ngủ dài giọng khi liếc thấy tôi. “Em không sao chứ Suze?”
Tôi gật đầu một cách mụ mị. “Giúp em đứng dậy với,” tôi nói.
Hai người bọn họ xoay xở nhấc những tấm gỗ to nhất ra khỏi người tôi. Rồi Ngái Ngủ bảo tôi quàng tay qua cổ anh ấy, tôi làm theo, trong khi David đỡ lấy eo tôi. Với hai người kéo, tôi thì dùng chân đấy, cuối cùng cũng xoay xở thoát khỏi đống gạch ngói đổ nát.
Chúng tôi đứng trong bóng tối của cái sân khoảng một phút, dựa vào gờ cái bậc trên đó đặt bức tượng không đầu của Junipero Serra. Chúng tôi cứ đứng đó, thở hổn hển và nhìn chằm chằm vào cái đống đổ nát từng là trường học. Ờ, như thế chắc là hơi bị lố quá nhỉ. Phần lớn ngôi trường vẫn còn đó. Thậm chí phần lớn lối đi vẫn còn chưa bị sập. Chỉ có cái chỗ tủ để đồ của Heather và lớp học của thầy Walden là sụp xuống thôi. Cái đống gỗ ngổn ngang đã che giấu gọn ghẽ bằng chứng của những việc tôi làm lúc đêm hôm, trong đó có nến, rõ ràng đã cháy hết. Không có dấu hiệu nào của Heather cả. Màn đêm tĩnh lặng đến hoàn hảo, chỉ trừ có tiếng thở của bọn tôi. Và tiếng bọn dế nữa.
Điều đó khiến cho tôi biết rằng Heather đã đi thật rồi. Bọn dế lại bắt đầu kéo đàn.
“Chúa ơi,” Ngái Ngủ lại nói, vẫn còn thở khá mệt nhọc, “em chắc chắn là mình không sao đấy chứ Suze?”
Tôi quay qua nhìn anh ấy. Anh ấy chỉ mặc mỗi chiếc quần jeans và áo khoác kiểu quân đội, quàng quấy quá lên người không. Tôi liếc thấy Ngái Ngủ cũng có cơ bụng sáu múi gần giống như Jesse.
Làm thế nào mà gần ngạt thở đến chết rồi mà chỉ mấy phút sau tôi vẫn còn có thể đứng đó nhìn những thứ kiểu như cơ bụng của ông anh con dượng được nhỉ?
“Vâng,” tôi nói, kéo vài sợi tóc cho khỏi vướng mắt. “Em không sao. Có lẽ chỉ hơi trầy vi tróc vảy tí thôi. Nhưng không có cái xương gãy nào hết.”
“Có lẽ chị ấy nên đến bệnh viện kiểm tra thôi.” Giọng David vẫn còn hơi run. “Anh không nghĩ là chị ấy nên đến bệnh viện kiểm tra sao, Jake?”
“Không,” tôi nói. “Không có bệnh viện bệnh viếc gì hết.”
“Chị có thể bị chấn động chứ,” David nói. “Hay bị nứt sọ chẳng hạn. Có thể chị sẽ rơi vào hôn mê trong khi ngủ và không bao giờ tỉnh lại nữa. Ít nhất thì chị phải đi chụp X-quang đi. Hay là chụp cộng hưởng từ. Chụp cắt lớp thì cũng không đau đớn gì đâu – ”
“Không.” Tôi dùng hai tay phủi quần và đứng dậy. Cơ thể tôi hơi oải, nhưng còn nguyên vẹn. “Thôi nào. Chuồn khỏi đây thôi trước khi có người đến. Họ ở quanh đây nên có thể đã nghe được rồi cũng nên.” Tôi hất đầu về phía toà nhà nơi các linh mục và các bà xơ ở đó. Một vài ô cửa sổ bật đèn sáng. “Em không muốn kéo mọi người vào rắc rối đâu.”
“Ờ,” Ngái Ngủ nói, đứng dậy. “Ừm, trước khi chuồn ra ngoài thì hẳn em phải nghĩ đến điều đó rồi chứ, hả?”
Bọn tôi ra về theo lối đã đến. Giống tôi, David đã bò bên dưới cánh cổng trước, rồi mở khoá từ bên trong cho Ngái Ngủ vào. Cả bọn chuồn ra khẽ khàng hết sức có thể, lao đến chỗ chiếc Rambler mà Ngái Ngủ đã đỗ trong bóng tối, ngoài tầm chiếc xe cảnh sát. Cái xe cảnh sát vẫn đỗ chỗ đó, chủ nhân của nó hoàn toàn không chú ý gì đến cái điều vừa mới xảy ra chỉ cách đó có vài mét. Dù sao tôi cũng không muốn mạo hiểm bằng cách lẻn qua trước mặt ông ta, lấy lại cái xe đạp đâu nhé. Bọn tôi cứ để nó đấy, hi vọng không ai trông thấy.
Suốt cả quãng đường về nhà, Jake, ông anh mới của tôi, thuyết giáo tôi một bài. Hiển nhiên anh ấy nghĩ rằng việc tôi lẻn đến trường giữa đêm hôm khuya khoắt là một phần của cái chuyện tập toẹ băng đảng gì đó. Tôi không nói đùa với bạn đâu đấy. Anh ấy rõ ràng là rất ghét điều đó. Anh ấy hỏi xem tôi nghĩ cái bọn đó là loại bạn bè kiểu gì khi chúng để mặc tôi chết ngoẻo dưới cái đống gạch ngói đó chứ. Anh ấy nêu ý kiến rằng nếu tôi chán đời hay cần một trò vui gì đó, thì tôi nên đi lướt sóng, và trích dẫn: “Nếu bạn sắp làm cho đầu mình rách da chảy máu, thì đi lướt tí sóng rồi rách đầu vẫn tốt hơn chứ bồ tèo.”
Tôi lắng nghe bài thuyết giáo của ông anh một cách ngoan ngoãn hết mức có thể. Dù sao, tôi cũng chả thể nói cho anh ấy cái lý do thật sự vì sao tôi lại đến trường mấy tiếng sau giờ học. Tôi chỉ ngắt lời Jake có đúng một lần trong suốt cái bài thuyết giáo nho nhỏ chống lại vụ tụ tập băng đảng, để hỏi xem làm thế nào anh ấy và David biết được mà đi theo tôi.
“Anh chả biết,” Jake nói khi bọn tôi leo lên con đường dốc. “Tất cả những gì anh biết được là, đang kéo bễ khò khò thì đột ngột Dave tìm đến, bảo anh rằng bọn anh phải đi đến trường tìm em. Mà làm sao em biết chị ấy ở đó hả Dave?”
Gương mặt David trông trắng xác một cách khác thường, ngay cả dưới ánh trăng. “Em không biết,” nó khẽ khàng đáp. “Em chỉ có cảm giác thế thôi.”
Tôi quay qua nhìn nó chằm chằm. Nhưng nó không nhìn tôi.
Thằng bé này, tôi thầm nghĩ. Thằng bé biết đấy.
Nhưng sau đó tôi quá mệt không hỏi han được gì về chuyện đó. Cả bọn chuồn vào nhà, nhẹ cả người vì cái kẻ tỉnh dậy khi bọn tôi vào chỉ là con Max, nó vẫy đuôi và cố liếm bọn tôi khi bọn tôi trở về phòng. Trước khi chui vào phòng mình, tôi liếc qua David có đúng một lần, để xem nó có muốn – hay cần – nói gì với tôi không. Nhưng nó chả nói gì cả. Nó chỉ đi về phòng và đóng cửa lại, thằng bé sợ. Trái tim tôi chùng xuống.
Nhưng chỉ trong một giây thôi. Tôi quá mệt không còn nghĩ được nhiều nhặn gì ngoài cái giường – ngay cả Jesse cũng không. Để sáng mai, tôi tự nhủ khi cởi bỏ bộ quần áo đầy bụi bặm. Mai mình sẽ nói chuyện với anh ấy.
Thế nhưng tôi lại không nói. Khi tỉnh dậy, ánh sáng phía bên ngoài cửa sổ trông thật lạ. Khi tôi ngóc đầu dậy nhìn đồng hồ thì mới hiểu tại sao. Đã 2 giờ chiều rồi. Sương sớm đã tan hết, mặt trời toả nắng chang chang cứ như là tháng Bảy chứ không phải tháng Giêng.
“Ê, đồ ngủ nướng.”
Tôi nhìn về phía cửa ra vào. Dượng Andy đang đứng đó, dựa vào cái khung giường, khoanh tay trước ngực. Dượng cười toe toét, thế có nghĩa là tôi không gặp rắc rối gì rồi. Tôi đang làm gì trên giường vào lúc 2 giờ chiều một ngày đi học nhỉ?
“Con đỡ hơn chưa?” Dượng Andy hỏi.
Có cần giả vờ ốm không nhỉ? Ờ, mà giả vờ cũng chả khó lắm. Tôi có cảm giác như ai đó đã đập cả tấn gạch vào đầu mình ấy.
Mà, theo một cách nào đó, thì họ đã làm thế thật.
“Ưm,” tôi nói. “Chưa đỡ lắm ạ.”
“Dượng sẽ lấy cho con mấy viên aspirin. Chắc là con vẫn còn váng vất hả? Chuyến bay dài chuyển nhà ấy. Sáng nay khi mọi người không tài nào đánh thức nổi con, thì mọi người để con ngủ tiếp. Mẹ con chuyển lời xin lỗi, nhưng mẹ phải đi làm. Mẹ đổ cho dượng chăm con. Hi vọng con không ngại.”
Tôi cố ngồi dậy. Thật khó khăn. Mọi cơ bắp trên người tôi có cảm giác như thể tôi bị giã một trận vậy. Tôi gạt vài sợi tóc ra khỏi mắt và chớp mắt nhìn dượng. “Dượng đâu cần phải làm thế,” tôi nói. “Ý con là ở nhà chăm con ấy.”
Dượng Andy nhún vai. “Có gì to tát đâu. Từ khi con đến dượng hầu như chưa có cơ hội nói chuyện với con, thế nên dượng nghĩ chúng ta nên tranh thủ. Con muốn ăn trưa không?”
Cái lúc dượng ấy nói câu đó, dạ dày tôi gào lên. Tôi đói chết đi được ấy.
Dượng nghe thấy và cười toe. “Không vấn đề. Thay quần áo rồi xuống nhà nhé. Chúng ta ăn trưa ở ngoài. Hôm nay trời đẹp lắm.”
Tôi cố gắng lết cái thân xác ra khỏi dường. Tôi mặc bộ đồ ngủ. Tôi không cảm thấy thích thay quần áo cho lắm. Thế là tôi chỉ đi đôi tất, mặc cái áo choàng, đánh răng, và đứng cạnh cái cửa sổ trong khoảng một phút, nhìn ra ngoài trong khi cố gắng gỡ những chỗ tóc rối. Mái vòm đỏ của nhà thờ Trường Truyền Giáo rực lên dưới ánh mặt trời. Đằng sau đó tôi có thể thấy mặt biển đang nhấp nháy. Đứng đây thì chẳng thể nào dám nói rằng đêm qua nó là hiện trường của vô số đổ nát.
Không lâu sau đó thì có một mùi thơm đến phát thèm dậy lên từ trong bếp, mời gọi tôi xuống dưới nhà. Dượng Andy đang làm món sandwich Reuben. Dượng vẫy vẫy tôi ra khỏi căn bếp, đi đến chỗ căn nhà gỗ rộng rãi mà dượng đã xây phía đằng sau ngôi nhà. Mặt trời đang toả nắng chang chang, và tôi nằm duỗi người trên một trong số những chiếc ghế gập trải đệm, vờ như mình là ngôi sao điện ảnh một tí. Rồi dượng Andy đi ra mang theo sandwich và một bình nước chanh, tôi chuyển sang chiếc bàn có một cái ô màu xanh lá cây che phía trên và đánh chén. Đối với một người không phải là dân New York chính cống, dượng Andy quay món Reuben thật đúng điệu.
Và đó chưa phải là tất cả những gì dượng quay đâu nhé. Dượng ấy dành cả nửa giờ liền để quay tôi từ trong ra ngoài… nhưng không phải về chuyện xảy ra đêm qua đâu. Tôi thật ngạc nhiên là Ngái Ngủ và Tiến Sỹ đã kín miệng cơ đấy. Dượng Andy hoàn toàn không biết tí ti gì về chuyện xảy ra hết. Tất cả những gì dượng muốn biết là tôi có thích ngôi trường mới không, tôi có vui không, vân vân và vân vân…
Chỉ trừ có một điều. Dượng ấy có nói với tôi, khi hỏi xem tôi thích California đến mức nào và nó có khác với New York nhiều lắm không – ừ hứ – rằng: “Vậy, dượng đoán là con ngủ tít mít không biết gì về cơn động đất đầu tiên rồi.”
Tôi suýt nữa thì phát nghẹn món khoai tây chiên. “Sao cơ ạ?”
“Thì trận động đất đầu tiên ấy. Có một trận vào đêm qua, khoảng 2 giờ sáng. Cũng chẳng to tát lắm, thật đấy – chỉ khoảng 4 độ thôi – nhưng nó đánh thức dượng. Không có thiệt hại gì, trừ có Trường Truyền Giáo, hiển nhiên rồi. Cái lối đi bị sập. Nhưng mà đối với họ thì cũng có gì đáng ngạc nhiên đâu nào. Dượng đã cảnh báo họ về chuyện gỗ ấy hàng mấy năm nay rồi. Tuổi của nó tương đương với tuổi của Trường Truyền Giáo. Tất nhiên là nó không thể đứng vững mãi mãi được.”
Tôi nhai một cách cẩn thận hơn. Ái chà. Nếu như tất cả mọi người ở Thung lũng, thậm chí cả ở trên đồi, đều cảm nhận được thì vụ nổ chào từ biệt của Heather hẳn là một cú ra trò đây.
Tôi nhai một cách cẩn thận hơn. Ái chà. Nếu như tất cả mọi người ở Thung lũng, thậm chí cả ở trên đồi, đều cảm nhận được thì vụ nổ chào từ biệt của Heather hẳn là một cú ra trò đây.
Khi tôi vừa mới lên gác, đang ngồi trên chiếc ghế cạnh cửa sổ liếc qua một tờ tạp chí thời trang chán òm, băn khoăn không biến Jesse đã biến đi đâu rồi, và tôi còn phải đợi bao lâu nữa trước khi anh ấy hiện ra thuyết giáo tôi một bài trong vô số bài của anh ấy, và liệu còn có cơ may nào anh ấy gọi tôi là querida nữa không, thì bọn con trai đi học về. Ngu Ngơ bước rầm rầm bỏ qua phòng tôi – cậu ta vẫn còn đổ lỗi cho tôi vì tôi mà cậu ta bị cấm túc – nhưng Ngái Ngủ thì thò đầu vào, nhìn tôi, thấy rằng tôi vẫn ổn, rồi bỏ đi, lắc lắc đầu. Chỉ có David là gõ cửa, khi tôi bảo nó vào đi, thằng bé ngượng ngùng bước vào.
“Ừm,” nó nói. “Em mang bài tập về cho chị đây. Thầy Walden đưa cho em để mang về cho chị. Thầy ấy nói rằng thầy hi vọng chị đã khoẻ lên rồi.”
“Ô,” tôi nói. “Cảm ơn em, David. Em cứ để trên giường được rồi.”
David làm như lời tôi bảo, nhưng nó không đi ra. Nó chỉ đứng đó nhìn chằm chằm vào cái cột giường. Tôi đoán là nó muốn nói chuyện, thế nên tôi quyết định để nó nói, bằng cách im lặng không nói gì hết.
“Cee Cee gửi lời chào chị,” nó nói. “Và một người khác nữa. Adam McTavish.”
“Bọn họ thật tốt bụng,” tôi nói. Tôi chờ đợi. David không có vẻ thất vọng.
“Mọi người đều đang bàn tán về chị, chị biết đấy,” nó nói.
“Bàn tán về cái gì cơ?”
“Chị biết mà. Trận động đất ấy. Rằng Trường Truyền Giáo hẳn đã phạm phải một lỗi lầm trước kia chưa ai từng nghe nói, bởi vì tâm chấn dường như… dường như nằm ngay cạnh lớp học của thầy Walden.”
Tôi nói: “Hả,” và lật giở tờ tạp chí.
“Vậy là,” David nói. “Chị sẽ không bao giờ nói cho em biết, phải vậy không?”
Tôi không nhìn vào nó. “Nói cho em biết cái gì cơ?”
“Chuyện gì đang diễn ra. Tại sao chị lại đến trường vào giữa đêm hôm khuya khoắt. Làm sao cái lối đi đó lại sập xuống. Bất kỳ điều gì.”
“Tốt hơn hết là em không nên biết điều gì cả,” tôi nói, giở trang báo. “Hãy tin chị.”
“Nhưng chuyện này không dính dáng gì tới… tới cái điều anh Jake đã nói. Dính dáng tới băng đảng ấy. Phải không ạ?”
“Ừ,” tôi đáp.
đang toả nắng qua khung cửa sổ, làm cho gương mặt nó trở nên hồng hào. Đứa trẻ này – đứa trẻ có mái tóc đỏ và đôi tai vểnh – đã cứu mạng tôi. Dù sao đi nữa tôi cũng nợ nó một lời giải thích.
“Em thấy nó, chị biết mà,” David nói.
“Thấy cái gì?”
“Nó. Con ma ấy.” Nó đang nhìn tôi chằm chằm, mặt trắng bệch và chăm chú. Trông nó quá là nghiêm trang đối với một đứa mười hai tuổi.
“Con ma nào?” Tôi hỏi.
“Con ma sống ở đây ấy. Trong căn phòng này này.” Nó nhìn quanh, như thể chờ đợi Jesse hiện ra từ một trong những góc của căn phòng tràn ngập ánh nắng của tôi. “Đêm qua nó đến tìm em,” nó nói. “Em thề đấy. Nó lay em dậy. Nó kể cho em nghe về chị. Thế nên em mới biết. Thế nên em mới biết chị đang gặp rắc rối.”
Tôi há hốc miệng nhìn nó chằm chằm. Jesse ư? Jesse đã nói cho nó ư? Jesse đã đánh thức nó dậy ư?
“Nó chẳng để cho em yên,” David nói, giọng run rẩy. “Nó cứ… chạm vào em. Vào vai em. Nó lạnh lẽo và phát sáng. Đó chỉ là một thứ lạnh lẽo, phát sáng, và bên trong đầu em là một giọng nói bảo em rằng em phải đi đến trường và giúp chị. Em không nói dối đâu Suze. Em thề là chuyện đó có thật mà.”
“Chị biết, David ạ,” tôi nói, gấp tờ tạp chí lại. “Chị tin em mà.”
Trước đó nó đã mở miệng định thề thốt rằng chuyện đó có thật thêm một lần nữa, nhưng khi tôi nói rằng tôi tin nó, thằng bé ngậm ngay miệng vào. Nó chỉ mở miệng lần nữa để nói giọng băn khoăn: “Chị tin thật chứ?”
“Thật,” tôi nói. “Đêm qua chị không có cơ hội để nói, nên giờ chị sẽ nói. Cảm ơn em, David. Em và anh Jake đã cứu mạng chị.”
Thằng bé đang run rẩy. Nó phải ngồi xuống giường tôi, không thì ngã lăn ra mất.
“Vậy là…” nó nói. “Vậy là nó có thật. Có đúng là… con ma không?”
“Đúng vậy.”
Nó không thích điều đó. “Thế tại sao chị lại đến trường?”
“Chuyện dài lắm,” tôi nói. “Nhưng chị hứa với em, chuyện đó không liên quan gì đến băng đảng nào cả.”
Nó chớp mắt nhìn tôi. “Thế có liên quan tới… con ma không?”
“Không phải con ma tới tìm em đâu. Nhưng đúng, chuyện có liên quan tới một con ma.”
Môi David mấp máy, nhưng tôi không nghĩ rằng nó nhận biết được bản thân mình đang nói. Điều nó thốt ra là một câu đầy kinh ngạc: “Có hơn một con ma cơ ạ?”
“Ơ, rất nhiều là đằng khác,” tôi đáp.
Nó lại nhìn tôi chằm chằm hơn nữa. “Và chị… chị có thể nhìn thấy chúng sao?”
“David này,” tôi nói. “Đây không phải là điều mà chị có thể thoải mái thảo luận cho lắm – ”
“Chị đã nhìn thấy con ma đêm qua chưa? Cái con đánh thức em dậy ấy?”
“Có, David ạ. Chị đã gặp anh ta rồi.”
“Chị có biết anh ta là ai không? Ý em là sao anh ta lại chết ấy?”
Tôi lắc đầu. “Không. Em còn nhớ không? Em đang tìm hiểu giúp chị mà.”
Mặt David tươi tắn lên. “Ơ, phải rồi! Em quên béng mất. Hôm qua em xem được mấy quyển sách – chị chờ tí nhé. Đừng đi đâu đấy.”
Thằng bé chạy ra khỏi phòng, tất cả cơn sốc mới đây đã biến mất. Tôi ở nguyên chỗ cũ, chính xác như nó bảo. Tôi băn khoăn không biết Jesse có đâu đó gần đây, đang lắng nghe hay không. Tôi đoán nếu anh ấy có ở đây thì đáng đời lắm.
David quay lại tức khắc, mang theo một đống sách to quá cỡ phủ đầy những bụi. Trông chúng cực kỳ xưa cũ, và khi nó ngồi xuống cạnh tôi, hăm hở mở chúng ra, tôi thấy rằng những cuốn sách đúng là cũ thật, giống như vẻ bề ngoài của chúng. Không có cuốn nào xuất bản sau năm 1910 hết. Cuốn cũ nhất được xuất bản vào năm 1849.
“Chị nhìn này,” David nói, lật giở một cuốn to, bọc da, có tên là Vùng Monterey Của Tôi. Vùng Monterey Của Tôi được viết bởi Đại tá Harold Clemmings. Ông đại tá này có lối kể chuyện thật khô khan, nhưng còn có những bức ảnh để xem, chúng cũng có ích, cho dù là ảnh đen trắng.
“Chị nhìn này,” David lại nói, quay qua bản sao của bức ảnh ngôi nhà chúng tôi đang ở. Chỉ có ngôi nhà là trông rất khác, không có hành lang cũng như chỗ đỗ xe. Hơn nữa, những cái cây quanh đó lại nhỏ hơn nhiều. “Nhìn này, đây là ngôi nhà hồi còn là khách sạn đấy. Hay là nhà trọ như hồi đó người ta gọi nó thế. Ở đây có viết rằng ngôi nhà này có tiếng tăm khá là tệ. Rất nhiều người bị mưu sát ở đây. Đại tá Clemmings đi sâu vào kể chi tiết về tất cả bọn họ đấy. Chị có nghi là con ma đến tìm em đêm qua là một trong số người đó không? Ý em là một trong số những người chết ở đây ấy?”
“Ờ,” tôi nói. “Có thể lắm.”
David bắt đầu đọc to lên – nhanh và chính xác, không vấp váp khi gặp những từ ngữ dài dòng lỗi thời – những câu chuyện về những người đã chết ở cái nơi mà Đại tá Clemmings gọi là Ngôi nhà trên Đồi.
Tuy vậy, không có ai tên là Jesse hết. Thậm chí không có ai trong số họ giống anh ấy, dù một tí tẹo. Khi David đọc xong, nó nhìn tôi đầy hi vọng.
“Có thể con ma là người Trung Quốc làm nghề giặt giũ,” nó nói. “Cái người đã bị bắn chết vì anh ta không giặt sạch thật kỹ những cái áo của công tử bột đó chăng.”
Tôi lắc đầu. “Không. Con ma của chúng ta không phải người Trung Quốc.”
“Ô.” David lại chăm chú vào cuốn sách. “Thế còn người này? Cái người bị giết bởi những nô lệ của ông ta ấy?”
“Chị không nghĩ vậy,” tôi đáp. “Ông này cao có hơn mét rưỡi thôi.”
“Ờ, thế còn người này? Cái người Hà Lan bị bắt quả tang chơi bài gian lận và bị bắn chết?”
“Anh ta không phải người Hà Lan,” tôi nói, kèm một tiếng thở dài.
David cắn môi. “Ờ, thế anh ta là người nước nào? Con ma ấy?”
Tôi lắc đầu. “Chị không biết. Ít nhất là có mang dòng máu Tây Ban Nha. Và…” Tôi không muốn nói đến điều đó ngay tại đây, trong căn phòng của tôi, nơi mà Jesse có thể nghe trộm. Bạn biết đấy, về đôi mắt lóng lánh, những ngón tay dài màu nâu, và tất tần tật.
Ý tôi muốn nói là, tôi chả muốn anh ta nghĩ tôi thích anh ta hay gì đó đâu đấy.
Rồi tôi chợt nhớ ra chiếc khăn tay. Nó đã biến mất khi tôi thức dậy vào buổi sáng hôm sau, sau khi tôi giặt sạch vết máu của mình trên đó, nhưng tôi vẫn còn nhớ những chữ cái đầu tiên. MDS. Tôi nói cho David. “Những chữ cái đó có gợi lên cho em điều gì không?”
Trông nó đăm chiêu trong khoảng một phút. Rồi nó gập cuốn sách của Đại tá Clemmings lại, cầm lên một cuốn khác. Cuốn này còn cũ hơn và bụi hơn nữa. Cũ đến nỗi cái tựa đã bị tróc ra khỏi gáy. Nhưng khi David mở ra, tôi trông thấy trang bìa thì cuốn sách tên là Cuộc sống ở Bắc California, 1800 – 1850.
David xem lướt phần phụ lục ở đằng sau, rồi kêu lên: “À há.” “À há cái gì?” Tôi hỏi. “À há, em đã nghĩ thế mà,” David đáp. Nó giở về phía cuối sách. “Đây,” nó nói. “Em biết mà. Có một bức ảnh của cô ấy đây.” Nó đưa cho tôi cuốn sách, và tôi trông thấy cái trang sách được phủ một tờ khăn giấy bên trên. “Gì thế này?” Tôi hỏi. “Có cả khăn giấy trong quyển sách.” “Không phải khăn giấy đâu. Đó là giấy lụa đấy. Người ta từng sử dụng loại đó phủ lên những bức ảnh trong sách để bảo vệ chúng. Chị nhấc lên đi.”
Tôi nhấc tờ giấy lụa lên. Bên dưới đó là một bản copy bức tranh vẽ bằng mực đen trắng trên loại giấy bóng. Bức tranh là chân dung của một người phụ nữ. Bên dưới bức chân dung đề những chữ: Maria de Silva Diego, 1830-1916.
Miệng tôi há hốc ra. MDS! Maria de Silva!
Cô ta trông giống như loại người sử dụng kiểu khăn tay đó. Cô ta mặc đồ màu trắng xếp nếp – hay ít nhất thì trông nó có vẻ như màu trắng trong bức ảnh đen trắng – với mái tóc đen óng loăn xoăn hai bên, và một món đồ trang sức trông to, cũ kỹ và đắt tiền treo lủng lẳng dưới sợi dây chuyền vàng đeo quanh chiếc cổ dài thon. Một người phụ nữ đẹp, trông đầy kiêu hãnh, cái nhìn của cô ta toát ra từ bức tranh với một vẻ bạn chỉ có thể gọi là… ờ… vẻ khinh người mà thôi.
Tôi nhìn David. “Cô ta là ai thế?” Tôi hỏi.
“À, chỉ là cô gái nổi tiếng nhất California vào quãng thời gian ngôi nhà này được xây dựng.” David lấy lại cuốn sách từ tôi, giở ra. “Cha cô ta, Ricardo de Silva, hồi đó sở hữu hầu hết vùng Salinas. Cô ta là con gái độc nhất, và ông ta dành cho con gái một đống của hồi môn khá lớn. Tuy thế, đấy chưa phải là lý do người ta muốn cưới cô ta. Ờ, không phải là lý do duy nhất. Hồi đó, người ta coi những cô gái trông như thế này là xinh đẹp.”
Tôi nói: “Cô ta rất đẹp.”
David liếc tôi với nụ cười mủm mỉm trêu chọc. “Vâng,” nó nói. “Phải lắm.”
“Không. Cô ta đẹp thật mà.”
David thấy tôi có vẻ nghiêm túc, và nhún vai. “Ừm, sao cũng được. Cha cô ta muốn cô ta kết hôn với người chủ trại giàu có này – một người anh họ của cô ta, yêu cô ta điên cuồng – nhưng cô ta lại mê người này, tên là Diego.” Nó chúi vào cuốn sách. “Felix Diego. Tên này không hay ho gì đây. Hắn ta là một nô lệ bỏ trốn. Hay ít nhất thì hắn cũng kiếm sống bằng việc đó trước khi đến California rồi giàu lên nhanh chóng nhờ các mỏ vàng. Cha của Maria, ông ta không chấp nhận nô lệ cũng như dân đào vàng. Thế nên Maria và cha cô ta có một cuộc cãi vã ầm ỹ về chuyện này – ý em là chuyện cô ta sẽ lấy ai, người anh họ hay là tên nô lệ bỏ trốn – đến phút cuối, cha cô ta nói rằng ông ta sẽ cắt hết cái đống của hồi môn đó nếu cô ta không lấy người anh họ. Điều này khiến cho cô ta im miệng khá nhanh bởi lẽ cô ta là người rất mê tiền mà. Cô ta có hình như đâu sáu chục bộ váy áo trong khi đa phần những người phụ nữ chỉ có hai bộ, một bộ để làm việc, một để đi lễ nhà thờ – ”
“Rồi chuyện gì xảy ra?” Tôi ngắt lời. Tôi đâu thèm quan tâm một người phụ nữ sở hữu bao nhiêu bộ váy áo chứ. Tôi muốn biết chuyện Jesse ở đâu ra cơ.
“Ơ.” David xem xét cuốn sách. “Điều nực cười ở đây là, rốt cuộc, Maria lại giành phần thắng đấy.”
“Sao lại thế?”
“Người anh họ không bao giờ xuất hiện ở lễ cưới.”
Tôi chớp mắt nhìn nó. “Không bao giờ xuất hiện ư? Ý em là sao, anh ta không bao giờ đến à?”
“Thế đấy. Anh ta không bao giờ xuất hiện. Không ai biết chuyện gì đã xảy ra với anh ta hết. Anh ta rời khỏi trang trại của mình vài ngày trước lễ cưới, chị biết đấy, để có thể đến đó đúng giờ hay sao ấy, nhưng rồi chẳng ai còn nghe thấy tin gì của anh ta cả. Không bao giờ. Hết chuyện.”
“Và…” Tôi đã biết câu trả lời, nhưng dù sao vẫn phải hỏi. “Và chuyện gì xảy ra với Maria?”
“À, cô ta kết hôn với tên nô lệ bỏ trốn kiêm kẻ đào vàng. Ý em là, sau khi bọn họ đã chờ đợi một thời gian cho phải phép, thế thôi. Ngày trước cũng có những điều luật về những chuyện kiểu này. Cha cô ta đã vô cùng thất vọng, chị biết đấy, vì hoá ra ông anh họ đó lại là người bội tín, đến nỗi mà cuối cùng thì ông ta đành bảo với Maria rằng cô ta có thể làm bất cứ việc gì cô ta thích, cô ta sẽ bị nguyền rủa. Thế là cô ta làm thôi. Nhưng mà không bị nguyền rủa. Cô ta và tên nô lệ bỏ trốn đó sinh được mười một đứa con và thừa kế tài sản của cha cô ta sau khi ông ta qua đời, chăm lo cái gia sản đó khá tốt – ”
Tôi giơ một bàn tay lên. “Chờ đã. Tên của người anh họ đó là gì?”
David xem xét cuốn sách. “Hector.”
“Hector ư?”
“Vâng.” David lại cúi xuống. “Hector de Silva. Nhưng mẹ anh ta gọi anh ta là Jesse.”
Khi ngẩng lên, nó hẳn phải thấy trên mặt tôi có biểu hiện gì đó, vì nó nói, giọng nhỏ rí: “Đó có phải con ma của chúng ta không?”
“Đó,” tôi nói nhỏ, “chính là con ma của chúng ta đấy.”
Một lát sau thì điện thoại reng. Ngu Ngơ gào vọng xuống rằng điện thoại của tôi đấy. Tôi nhấc máy và nghe thấy tiếng Cee Cee ré lên ở bên kia đường dây.
“Thưa chị Phó Chủ tịch,” cô nàng nói. “Thưa chị Phó Chủ tịch, chị có bình luận gì không ạ?”
Tôi đáp: “Không, mà sao cậu lại gọi mình là chị Phó Chủ tịch hả?”
“Bởi vì cậu đã thắng trong cuộc bầu cử chứ sao.” Tôi nghe tiếng Adam gào chen vào: “Chúc mừng cậu!”
“Cuộc bầu cử nào cơ?”
“Bầu chức phó chủ tịch chứ còn cái gì nữa!” Cee Cee có vẻ khó chịu. “Dào ôi!”
“Làm sao mà mình thắng được?” Tôi nói. “Thậm chí mình còn chả đến cơ mà.”
“Không vấn đề. Cậu vẫn chiếm hai phần ba số phiếu bầu của lớp 10.”
“Hai phần ba á?” Thừa nhận nhé. Điều đó khiến tôi bị sốc đấy. “Nhưng, Cee Cee – Ý mình muốn nói là, sao mọi người lại bầu mình chứ? Bọn họ còn chẳng biết gì về mình nữa mà. Mình là ma mới.”
Cee Cee đáp: “Biết nói gì đây nhỉ? Thì ở cậu phát tiết ra sự tự tin của một nhà lãnh đạo bẩm sinh.”
“Nhưng mà – ”
“Với lại chuyện cậu đến từ New York nữa, mà ở quanh đây ấy à, mọi người đều khoái tất tần tật những thứ liên quan đến New York.”
“Nhưng mà – ” “Và dĩ nhiên, cậu nói cực nhanh nữa chứ.”
“Thế á?”
“Chứ sao. Điều đó khiến cho cậu có vẻ rất thông minh. Ý mình muốn nói là, mình nghĩ là cậu thông minh ấy, nhưng cậu cũng có vẻ thông minh vì cậu nói cực nhanh. Và cậu mặc rất nhiều đồ đen, mà màu đen thì, cậu biết rồi đấy, sành điệu.”
“Nhưng – ”
“À, lại còn chuyện thực là cậu đã cứu Bryce thoát khỏi cái khúc gỗ bị rơi ấy nữa. Mọi người khoái những chuyện kiểu đó.”
Hai phần ba cái bọn học sinh lớp 10 trung học của Trường Truyền Giáo, tôi thầm nghĩ, có lẽ đã bầu béng cho con thỏ Easter Bunny nếu có người đề nghị nó ra ứng cử rồi. Nhưng mà tôi không nói ra điều ấy. Thay vào đó tôi lại nói: “Ờ. Cũng hay đấy. Mình nghĩ vậy.”
“Hay á?” Cee Cee có vẻ bị sững sờ. “Hay á? Đấy là tất cả những điều cậu nói à, hay? Cậu có biết chúng ta có gì bây giờ không, rằng chúng ta có quyền sờ tay vào tất cả số tiền đó ấy? Những thứ hay ho mà chúng ta có thể làm được ấy?”
Tôi nói: “Mình nghĩ điều đó thực sự… tuyệt vời.”
“Tuyệt vời ấy à? Suze ơi, chuyện này đỉnh của đỉnh ấy! Bọn mình sắp có một học kì đỉnh cao, đỉnh cao đây! Minh tự hào về cậu biết bao! Và để mình nghĩ xem, mình biết cậu từ lúc nào thế nhỉ!”
Tôi cúp máy, cảm thấy hơi bị áp đảo một tí. Đâu phải ngày nào cũng có chuyện một đứa con gái được bầu làm phó chủ tịch cái lớp mà nó mới vào học chưa được một tuần cơ chứ.
Tôi còn chưa kịp đặt cái máy điện thoại vào đế trước khi nó lại reng lần nữa. Lần này là giọng một đứa con gái tôi không nhận ra, xin gặp Suze Simon.
“Tôi đây,” tôi nói, và Kelly Prescott ré vào tai tôi.
“Ôi Chúa ơi!” cô ta kêu lên. “Cậu biết tin chưa? Cậu có năng lực siêu nhiên không? Bọn mình rồi sẽ có một năm học vui đến phát rồ lên cho xem.”
Vui đến phát rồ lên. Thôi được rồi. Tôi nói bình thản: “Mình rất mong được làm việc với cậu.”
“Nghe này,” Kelly đột ngột đổi giọng nghiêm chỉnh. “Bọn mình phải bàn bạc sớm và còn chọn nhạc chứ.”
“Nhạc để làm gì?”
“Cho buổi khiêu vũ chứ còn nhạc gì nữa.” Tôi có thể nghe thấy tiếng cô ta lật giở quyển sổ kế hoạch. “Mình có một DJ sẽ tham gia. Anh ta đã gửi cho mình danh sách bài hát rồi, và bọn mình phải chọn các bài cho anh ta chơi. Tối mai thì thế nào? À mà cậu bị làm sao thế? Hôm nay cậu không đi học. Cậu không bị bệnh truyền nhiễm đấy chứ?”
Tôi đáp: “Ừm, không. Nghe này Kelly, chuyện buổi khiêu vũ ấy. Mình không biết nữa. Minh đang nghĩ rằng có thể sẽ vui hơn khi để dành tiền tổ chức… ờ… vụ gì đó như ăn uống ngoài bãi biển chẳng hạn.”
Cô ta nói bằng một giọng cực kỳ đều đều: “Một bữa ăn uống ngoài bãi biển.”
“Ừ. Với lại bóng chuyền, đốt lửa, vân vân.” Tôi xoắn cái dây điện thoại vào ngón tay. “Tất nhiên là sau buổi tưởng niệm Heather rồi.”
“Cái gì Heather?”
“Lễ tưởng niệm ấy. Này, mình đoán là cậu đã đặt phòng ở quán Carmel rồi, đúng không, cho buổi khiêu vũ ấy? Nhưng thay vì đến đó nhảy nhót, mình nghĩ bọn mình nên có một lễ tưởng niệm Heather. Cậu biết đấy, mình thực sự nghĩ là cậu ấy như thế.”
Giọng Kelly không một tí ngữ điệu. “Cậu còn chưa bao giờ gặp Heather.”
“Ừm,” tôi đáp. “Có lẽ thế. Nhưng mình có một cảm giác mình biết cậu ấy là týp con gái như thế nào. Và mình nghĩ là một lễ tưởng niệm tại quán Carmel chính là điều mà cậu ấy muốn.”
Kelly không nói năng gì trong suốt một phút. Ờ, tôi đoán là cô ta có lẽ không khoái những lời gợi ý của tôi cho lắm, nhưng cô ta cũng đâu có thể làm gì được, đúng không? Dù sao đi nữa, tôi là phó chủ tịch cơ mà.
“Này Kelly?” Khi cô ta không đáp, tôi nói: “Ừm, nghe này Kell, đừng lo chuyện đó bây giờ vội. Chúng ta sẽ nói chuyện. À, mà cái buổi tiệc bể bơi của cậu vào thứ Bảy ấy. Hi vọng cậu không phiền, nhưng mình đã mời Cee Cee và Adam đến rồi. Cậu biết đấy, buồn cười thật, nhưng mà họ nói là họ không được mời. Nhưng đối với một lớp nhỏ như lớp ta, thì thật không công bằng tí nào khi không mời tất cả mọi người, cậu hiểu ý mình chứ? Nếu không, những người không được mời có thể cho rằng cậu không thích họ. Nhưng mình tin chắc rằng, trường hợp của Cee Cee và Adam chỉ là do cậu quên mất, phải vậy không?”
Kelly đáp: “Cậu có bình thường không đấy?”
Tôi chọn cách không thèm đáp câu đó. “Hẹn gặp ngày mai, Kell,” là câu trả lời của tôi.
Chỉ mấy phút sau, điện thoại lại reo. Tôi nhấc máy, vì có vẻ như tôi đang trên con đường dành cho người chiến thắng. Và tôi không hề nhầm. Đó là Cha Dominic.
“Susannah,” ông nói bằng giọng trầm trầm dễ nghe. “Ta thực lòng hi vọng rằng con không ngại vì ta làm phiền con ở nhà. Nhưng ta chỉ gọi để chúc mừng con thắng cử lớp 10 – ”
“Đừng lo mà Cha Dom,” tôi nói. “Không có ai nghe đâu. Chỉ có con thôi.”
“Con,” ông nói bằng một giọng khác hẳn, “đã nghĩ gì thế hả? Con hứa với ta rồi cơ mà! Con hứa với ta rằng con sẽ không quay lại sân trường một mình cơ mà!”
“Con xin lỗi,” tôi nói. “Nhưng cô ta đã đe doạ sẽ làm David bị thương, và con – ”
“Ta không quan tâm nếu cô ta có đe doạ cả mẹ cô đi chăng nữa, cô trẻ ạ. Lần sau, cô phải đợi ta. Cô có hiểu không hả? Không bao giờ cô được cố làm cái điều cực kỳ ngu ngốc và nguy hiểm như một buổi lễ trừ ma mà không có người giúp đâu đấy!”
Tôi đáp, “Ơ, được thôi ạ. Nhưng con hơi bị hi vọng rằng sẽ không có lần sau nữa.”
“Không có lần sau nữa ư? Cô có tỉnh táo không đấy? Chúng ta là những cầu nối của hồn ma, nhớ không. Chừng nào còn những linh hồn, chừng đó chúng ta còn có lần sau cô trẻ ạ, đừng có quên.”
Cứ làm như tôi quên được ấy. Tất cả những gì tôi phải làm là liếc quanh phòng mình gần như bất cứ lúc nào, và lại còn có một người nhắc nhở riêng tôi nữa, trong hình dạng của một tên cao bồi bị giết ngoẻo.
Nhưng tôi thấy kể cho Cha Dominic chuyện đó chả để làm gì. Thay vào đó, tôi nói: “Con xin lỗi về chuyện cái lối đi, Cha Dominic. Lũ chim chóc tội nghiệp của Cha nữa.”
“Mặc kệ chúng đi. Con không làm sao, điều đó mới quan trọng. Khi ta ra viện, con và ta sẽ phải ngồi xuống nói chuyện lâu đấy, Susannah, về những phương pháp giao tiếp với hồn ma cho phù hợp. Ta không hề biết con có thói quen chỉ cần ngủ dậy và đi đấm vào mặt những linh hồn tội nghiệp.”
Tôi bật cười và nói: “Vâng. Con đoán là những cái xương sườn hẳn phải khiến Cha đau đớn lắm ạ?”
Ông nói bằng giọng nhẹ nhàng hơn: “Cũng có. Làm sao con biết?”
“Vì Cha mới nhẹ nhàng làm sao.”
“Ta xin lỗi.” Cha Dom có vẻ thật sự xin lỗi. “Ta – ừ phải, mấy cái xương sườn của ta đang hành hạ ta đau lắm. À, Susannah. Con đã nghe tin tức chưa?”
“Tin nào cơ ạ? Rằng con đã được bầu làm phó chủ tịch học sinh lớp 10, hay là tin đêm qua con đập phá ngôi trường?”
“Không phải. Trường trung học Robert Louis Stevenson có một suất học cho Bryce đấy. Cậu ta sẽ chuyển đến đó ngay khi cậu ta có thể đi lại được.”
“Nhưng – ” Thật kỳ cục, tôi biết chứ, nhưng tôi thật sự cảm thấy mất tinh thần. “Nhưng bây giờ Heather đã đi rồi mà. Anh ta đâu cần phải chuyển đi.”
“Có thể Heather đã đi rồi,” Cha Dominic nói nhẹ nhàng, “nhưng ký ức về cô ta vẫn còn tồn tại rõ nét đối với những người bị… ảnh hưởng bởi cái chết của cô ta. Tất nhiên con không thể đỗ lỗi cho cậu ta vì muốn bắt đầu lại ở một ngôi trường mới, nơi mà không ai xì xào gì về cậu ta hết, phải không?”
Tôi đáp, không được nhẹ nhàng lắm, nghĩ đến mái tóc vàng mềm mại của anh ta: “Chắc vậy.”
“Họ nói thứ Hai là ta đủ khoẻ để quay trở lại làm việc được rồi. Ta sẽ gặp con ở văn phòng nhé?”
“Con chắc vậy,” tôi nói, hào hứng như trước. Cha Dominic hình như không nhận thấy. Ông nói: “Ta sẽ gặp con nhé.” Ngay trước khi tôi cúp máy, tôi nghe ông nói: “À, và Susannah này. Trong thời gian chuyển tiếp này, con cố gắng đừng có phá phách nốt cái phần còn lại của ngôi trường nhá.”
“Ha ha,” tôi đáp, và cúp máy.
Ngồi trên cái ghế cạnh cửa sổ, tôi tựa cằm lên đầu gối, trông xuống thung lũng, nhìn ra bờ vịnh cong cong. Mặt trời đang bắt đầu hạ xuống phía tây. Chưa chạm mặt nước, nhưng rồi sẽ sớm thôi. Phòng tôi rực lên sắc đỏ và vàng, nền trời xung quanh mặt trời trông như những đường sọc vậy. Những đám mây thật nhiều sắc màu – xanh dương, tía, đỏ và da cam – như những dải ruybăng tôi từng trông thấy bay bay trên đỉnh cây cột vào lễ hội thời Phục Hưng. Tôi cũng ngửi thấy mùi biển qua cánh cửa để ngỏ. Cơn gió nhẹ mang mùi muối mặn mòi đến với tôi, cho dù tôi có đang ở trên đồi cao đi nữa.
Tôi tự hỏi, liệu Jesse có ngồi bên chiếc cửa sổ này, ngửi mùi biển như tôi lúc này đây, trước khi anh ấy chết không? Trước khi – như tôi chắc chắn rằng đã diễn ra – người tình của Maria de Silva, Felix Diego, lẻn vào phòng và giết anh ấy?
Và cứ như thể đọc được những suy tưởng của tôi, Jesse đột ngột hiện hình cách tôi không xa.
“Giời ạ!” tôi nói, đặt một tay lên trái tim mình, nó đang đập mạnh đến nỗi tôi tưởng vỡ tung mất. “Anh có cần phải tiếp tục làm thế không hả?”
Anh ấy đang dựa vào một trong những cái cột giường, có vẻ thờ ơ, tay khoanh trước ngực. “Tôi xin lỗi,” anh ấy nói. Nhưng chả có vẻ gì thế cả.
“Nghe này,” tôi nói. “Nếu anh và tôi cùng sống chung – mà đúng thế thật – chúng ta cần phải đặt ra một số quy định. Và quy định số một là anh phải thôi cái trò rình rập tôi thế đi.”
“Và cô gợi ý xem tôi nên thể hiện sự có mặt của mình thế nào đây?” Jesse hỏi, đôi mắt anh ấy hơi bị sáng đối với một con ma.
“Tôi không biết,” tôi đáp. “Anh không thể giật giật vài sợi dây nào đó hay sao?”
Anh ấy lắc đầu. “Tôi không nghĩ vậy đâu. Còn điều số hai là gì?”
“Điều số hai…” Giọng tôi cứ đuối dần khi nhìn anh ấy. Thật chẳng công bằng gì cả. Không công bằng gì hết. Những anh chàng đã chết không nên đẹp trai như Jesse thế chứ, đang dựa vào cột giường của tôi với ánh mặt trời xiên xiên, hắt lên gương mặt đẹp hoàn hảo… Anh ấy nhướn mày, cái bên có một vết sẹo ấy. “Có chuyện gì sao, querida?” anh ấy hỏi.
Tôi nhìn anh ấy chăm chăm. Rõ ràng anh ấy chẳng biết cái điều tôi biết. Ý tôi là chuyện về MDS ấy. Tôi muốn hỏi anh ấy chuyện đó, nhưng mặt khác, tôi lại không muốn biết. Có điều gì đó còn đang níu giữ Jesse ở lại thế giới này, chứ không phải thế giới anh ấy thuộc về nơi đó, và tôi có cảm giác rằng cái điều đó liên quan trực tiếp đến chuyện anh ấy mất mạng. Nhưng vì anh ấy không hề có vẻ muốn nói về chuyện đó tí nào, nên tôi quyết định rằng đó không phải việc của mình.
Đó là lần đầu tiên. Phần lớn các lần thì bọn ma toàn đến nhờ tôi giúp đỡ. Nhưng Jesse thì không.
Hay ít nhất là bây giờ thì không.
“Để tôi hỏi cô điều này,” Jesse nói đột ngột đến nỗi tôi thoáng có ý nghĩ có khi anh ấy đọc được ý nghĩ của mình.
“Gì cơ?” Tôi cảnh giác hỏi, ném cuốn tạp chí xuống và đứng lên.
“Đêm qua, lúc cô cảnh báo tôi đừng có đến gần trường học vì cô sắp tiến hành buổi lễ trừ ma…”
Tôi nhìn anh ấy. “Ừ?”
“Sao cô lại cảnh báo tôi?”
Tôi cười nhẹ cả người. Chỉ có thế thôi sao? “Tôi bảo anh bởi vì nếu anh đến đó anh cũng sẽ bị cuốn đi như Heather thôi.”
“Nhưng đó chẳng phải là cách tốt nhất để thoát khỏi tôi hay sao? Rồi cô sẽ có được căn phòng cho riêng mình, đúng như cô mong muốn.”
Tôi hoảng sợ nhìn anh ấy. “Nhưng như thế… như thế là hoàn toàn không công bằng!”
Anh ấy đang cười. “Tôi hiểu rồi. Đi ngược lại quy định chứ gì?”
“Đúng vậy,” tôi đáp. “Đại khái là thế.”
“Thế thì không phải cô cảnh báo tôi – ” Anh ấy bước một bước về phía tôi. “ – bởi vì cô bắt đầu thích tôi hay đại loại thế chứ hả?”
Thật lạ, tôi có cảm giác mặt mình bắt đầu nóng bừng lên. “Không hề,” tôi bướng bỉnh nói. “Chả có gì đại loại thế cả. Tôi chỉ đang cố chơi theo luật thôi. Mà nói luôn, cái luật anh đã vi phạm khi đánh thức David ấy.”
Jesse tiến thêm một bước nữa tới gần tôi. “Tôi phải làm thế thôi. Cô đã bảo tôi không được tự đi đến trường còn gì. Tôi còn lựa chọn khác đâu nào? Nếu tôi mà không bảo em cô đến giúp cô,” anh ấy nói, “thì giờ cô cũng đã chết dí rồi.”
Tôi thấy không thoải mái khi nhận ra rằng điều đó đúng. Tuy thế, không thể để lộ ra là mình đồng ý với anh ta đâu nhá. “Vớ vẩn,” tôi nói. “Tôi hoàn toàn kiểm soát được mọi thứ. Tôi – ”
“Cô chả kiểm soát được thứ gì sất.” Jesse cười. “Cô cứ đâm đầu đến đó mà chả có kế hoạch gì, chả có – ”
“Tôi có kế hoạch chứ.” Tôi tức mình tiến thêm một bước về phía anh ta, và bất thình lình bọn tôi đang đứng gần như mũi–chạm–mũi. “Anh nghĩ anh là ai chứ hả, dám bảo tôi không có kế hoạch cơ đấy? Tôi làm việc đó hàng mấy năm rồi, nghe chưa? Hàng năm rồi. Và tôi chưa bao giờ cần sự giúp đỡ, từ bất cứ ai hết. Mà tất nhiên không phải từ một người như anh.”
Anh ta đột ngột thôi cười. Giờ trông anh ta cáu rồi. “Một người như tôi? Ý cô là – cô gọi tôi là gì nhỉ? Một tên cao bồi chứ gì?”
“Không,” tôi đáp. “Ý tôi là từ một người đã chết rồi ấy.”
Jesse khựng lại một cách đột ngột, như thể tôi vừa đánh anh ta vậy.
“Thế thì điều luật thứ hai là từ giờ trở đi, tôi tránh xa việc của anh ra, và anh cũng sẽ tránh xa việc của tôi,” tôi nói.
“Được lắm,” Jesse đáp cụt lủn.
“Được lắm,” tôi nói. “Và cảm ơn.”
Anh ta vẫn còn giận. Anh ta sưng sỉa hỏi: “Vì cái gì?”
“Vì cứu mạng tôi.”
Đột ngột anh ta thôi không có vẻ cáu giận nữa. Đôi lông mày, vốn đang nhíu lại, giờ giãn ra.
Điều tiếp theo tôi biết là, anh ta giơ tay ra, đặt hai tay lên hai vai tôi.
Nếu anh ấy có dùng cái dĩa xỉa tôi đi nữa, tôi cũng không nghĩ mình sẽ lấy làm ngạc nhiên cho lắm. Ý tôi là, tôi đã quen với việc đấm vào mặt cái bọn ma. Tôi lại không hề quen với việc chúng cúi nhìn tôi cứ như thể…
Ơ, như thể chúng sắp hôn tôi vậy.
Nhưng trước khi tôi có thời gian quyết định xem mình sẽ làm gì – nhắm mắt lại và để anh ấy làm vậy, hay là dẫn ra điều luật thứ ba: không được động chạm gì hết – thì tiếng mẹ tôi vọng lên từ dưới cầu thang. “Susannah ơi?” mẹ gọi. “Suzie, mẹ đây. Mẹ về rồi đây.”
Tôi nhìn Jesse. Anh ấy rụt tay lại. Một giây sau, mẹ mở cửa phòng tôi, và Jesse biến mất.
“Suzie,” mẹ gọi. Mẹ tiến đến vòng tay ôm lấy tôi. “Con thế nào rồi? Mẹ hi vọng con không khó chịu vì dượng và mẹ đã để con ngủ. Trông con có vẻ mệt quá mà.”
“Không ạ,” tôi nói. Tôi vẫn còn hơi bị sững sờ vì chuyện vừa xảy ra với Jesse. “Con không thấy phiền mà.”
“Mẹ đoán là cuối cùng nó cũng xảy đến với con. Mẹ đã nghĩ là có thể thế rồi. Con ở nhà với dượng Andy ổn chứ? Dượng ấy bảo đã nấu bữa trưa cho con.”
“Dượng nấu cho con một bữa trưa ngon lắm,” tôi nói một cách tự động.
“Và mẹ cũng nghe kể David mang bài tập về cho con.” Mẹ thả tôi ra và tiến về phía chiếc ghế cạnh cửa sổ. “Mọi người đang nghĩ tối nay sẽ ăn mì Ý. Con thấy sao?”
“Có vẻ ngon đấy ạ.” Tôi đi vòng qua đủ thấy rằng mẹ đang nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ. Rồi tôi nhận ra mình chẳng thể nhớ được rằng có bao giờ mẹ tôi trông… thanh thản đến như thế.
Có thể đó là do từ hồi chúng tôi chuyển đến miền tây này, mẹ đã bỏ uống café rồi.
Có lẽ, đúng hơn, đó là do tình yêu.
“Mẹ đang nhìn gì vậy ạ?” Tôi hỏi.
“Ơ, có gì đâu con yêu,” mẹ nói với nụ cười nhẹ. “Chỉ là hoàng hôn thôi mà. Đẹp biết bao!” Mẹ quay sang vòng tay ôm tôi, và cả hai mẹ con đứng đó ngắm mặt trời chìm dần xuống biển Thái Bình Dương trong ánh sáng rực rỡ ánh đỏ, tía và vàng. “Chắc chắn con sẽ không thấy được hoàng hôn như thế này ở New York đâu,” mẹ nói. “Giờ con thấy rồi chứ?”
“Không,” tôi đáp. “Mẹ mới không thấy ấy.”
“Thế thì,” mẹ nói, ôm lấy tôi. “Con nghĩ sao? Chúng ta cứ ở đây thật lâu chứ?”
Mẹ đang nói đùa, tất nhiên rồi. Nhưng một mặt nào đó thì không.
“Chắc chắn rồi,” tôi đáp. “Chúng ta cứ ở đây.”
Mẹ mỉm cười với tôi, rồi quay lại ngắm hoàng hôn. Quả bóng màu cam sáng rực giờ đã biến mất bên dưới đường chân trời. “Mặt trời lặn rồi đây,” mẹ nói. “Và,” tôi đáp, “mọi việc đều tốt đẹp.”
Chẳng ai nói cho tôi hay về cái cây sồi độc cả. À, người ta có nói với tôi về những cây cọ. Phải, họ kể cả đống chuyện về những cây cọ ấy chứ. Nhưng chưa có ai từng nói với tôi một từ nào về cái loại cây sồi độc đó.
“Vấn đề là, Susannah ạ – ”
Cha Dominic đang nói chuyện với tôi. Tôi cố lắng nghe, nhưng mà để tôi nói bạn hay: cây sồi độc gây ngứa kinh khủng.
“Là những người giao tiếp với hồn ma – như chúng ta đây, ta và con, Susannah – chúng ta phải có trách nhiệm chứ. Chúng ta phải có trách nhiệm giúp đỡ, làm yên lòng những linh hồn bất hạnh đang phải chịu đựng khổ sở trong khoảng không gian giữa thế giới của người đang sống và của người đã chết.”
Ý tôi muốn nói là, cây cọ ừ thì đẹp thật. Cũng hay ho khi bước xuống máy bay và thấy đâu đâu cũng có cọ, nhất là kể từ lúc tôi nghe nói rằng ban đêm ở Bắc California thì lạnh lắm. Nhưng còn chuyện với cái cây sồi độc thì thế nào? Sao chả có ai thèm báo trước cho tôi về cái của đó cơ chứ?
“Con thấy đấy, là những cầu nối của hồn ma, Susannah, chúng ta có nghĩa vụ phải giúp những linh hồn đang lầm đường lạc lối đi đến nơi mà họ cần phải đến. Chúng ta là những người dẫn đường chỉ lối, thế đấy. Những người dẫn đường cho linh hồn của họ, giữa kiếp này và kiếp sau.” Cha Dominic chạm tay vào bao thuốc lá chưa mở trên mặt bàn, và liếc tôi bằng đôi mắt to già nua, xanh biếc như mắt trẻ con. “Nhưng khi người dẫn đường của một linh hồn lại bẻ đầu của linh hồn đó và phang vào cánh cửa tủ đồ thì… ờ… con có thể thấy rằng hành động kiểu đó không gây dựng được niềm tin mà chúng ta muốn có với những anh chị em đang gặp khó khăn đâu.”
Tôi rời mắt khỏi cái chỗ phát ban trên hai tay để ngước nhìn. Phát ban. Thậm chí cái từ đó còn chưa miêu tả chính xác đâu. Nó như thể bị sùi da vậy. Thậm chí còn tệ hơn cả một vết sùi nữa kìa. Đó là một khối u cơ đấy. Một cái mầm khối u mà, theo thời gian, sẽ lan ra từng centimet một trên làn da vốn mịn màng không tì vết của tôi, bao phủ khắp da những vết sưng đỏ đóng thành vảy ấy. Tiện thể nói luôn, rồi nó còn rỉ nước ra nữa cơ.
“Vâng,” tôi nói, “nhưng nếu những anh chị em đang gặp khó khăn còn gây rắc rối to đùng cho ta, thì con chả hiểu tại sao đó lại là một tội ác khi mà con chỉ lôi xềnh xệch và thụi họ vào chỗ – ”
“Nhưng con không hiểu sao, Susannah?” Cha Dominic siết lấy bao thuốc. Tôi mới quen ông chưa lâu, nhưng cứ khi nào ông bắt đầu âu yếm những điếu thuốc của mình – những điếu thuốc ông chưa bao giờ thực sự hút cả – thế có nghĩa là ông đang buồn phiền chuyện gì đó.
Chuyện gì đó ấy, vào cái thời điểm hiện tại, hình như là tôi thì phải.
“Thì thế,” ông giảng giải, “nên con mới được gọi là cầu nối của hồn ma chứ. Con có nghĩa vụ mang đến sự thoả mãn tâm nguyện cho những linh hồn đang gặp khó khăn – ”
“Cha Dom này,” tôi nói. Tôi giấu hai bàn tay đang chảy nước đi. “Con chả biết thời gian gần đây Cha đương đầu với cái thể loại ma mị gì, nhưng những cái loại mà từ trước đến giờ con gặp, hình như chúng muốn tìm kiếm sự thoả mãn tâm nguyện giống như kiểu con đi kiếm được một mẩu pizza đúng chuẩn kiểu New York ở cái xứ này ấy. Chuyện đó sẽ bất thành thôi. Những tên đó rồi sẽ xuống địa ngục, hoặc lên thiên đàng, hoặc đầu thai sang kiếp sau thành con sâu bướm ở Kathmandu ấy, nhưng dù Cha có xử lý thế nào đi nữa, lắm khi chúng cần phải bị tẩn cho một trận thì mới đến được cái nơi đó cơ…”
“Không, không, không.” Cha Dominic rướn người về phía trước. Ông chả thể nào rướn xa lắm bởi vì khoảng một tuần trước, một trong những linh hồn đang gặp khó khăn của ông đã quyết định từ bỏ việc khai sáng tâm hồn mình và cố bẻ gãy chân ông thay vào đó. Cô ta cũng làm cho ông gãy mấy cái xương sườn, khiến ông bất tỉnh hơi bị khéo, rồi làm tan tác ngôi trường hơi bị giỏi, và, để xem nào, còn gì nữa không nhỉ?
Ô, phải rồi. Cô ta còn cố giết cả tôi nữa cơ đấy.
Cha Dominic đã trở lại trường, nhưng ông bị bó bột đến tận ngón chân, không mặc được bộ áo chùng dài màu đen, ai mà biết được trong bao lâu chứ? Mà tôi ấy à, tôi không thích nghĩ đến điều đó đâu.
Tuy thế, ông đang dần dần sử dụng đôi nạng một cách khéo léo hơn rồi. Ông có thể đuổi theo bọn nhóc đi học muộn dọc theo các hành lang nếu cần. Nhưng vì ông là hiệu trưởng, với lại những nữ tu mới có trách nhiệm ghi giấy phạt đi học muộn nên ông cũng chẳng cần phải làm cái chuyện đó. Hơn nữa, Cha Dominic là người rất hay ho, và chẳng bao giờ làm một việc kiểu như thế kể cả khi ông có thể đi nữa.
Tuy vậy, nếu bạn hỏi ý tôi, thì này, ông ấy coi chuyện với bọn ma đó hơi bị nghiêm túc quá mức rồi.
“Susannah,” ông mệt mỏi nói. “Con và ta, dù tốt xấu thế nào đi nữa, cũng đều được sinh ra với một tài năng phi thường này – khả năng có thể nhìn thấy và nói chuyện được với người đã chết.”
“Cha lại thế rồi,” tôi nói, đảo tròn con mắt, “lại chuyện tài năng đó. Con nói thật nhé, Cha à, con chả hề nghĩ như thế đâu.”
Làm sao tôi có thể nghĩ như thế được cơ chứ? Từ hồi hai tuổi – hai tuổi đấy nhá – tôi đã bị quấy rầy, bị oánh đập, bị tai hoạ bởi vô số những linh hồn rồi. Mười bốn năm trời tôi đã phải chịu đựng sự đày đoạ của chúng, giúp đỡ chúng khi tôi có thể, thụi chúng khi tôi không thể, luôn luôn lo sợ có ai đó phát hiện ra bí mật của mình và lột mặt nạ của tôi rằng tôi là một kẻ quái đản về mặt sinh học mà tôi luôn biết bản thân mình là như thế, nhưng đã phải cố gắng đến cùng cực để che giấu điều đó với người mẹ thân yêu đã phải chịu nhiều đau khổ.
Rồi mẹ tôi tái hôn và lôi tôi đến sống ở California – vào giữa năm lớp 10 đấy, cảm ơn mẹ cả đống luôn – cái nơi mà, bất ngờ trong số những điều bất ngờ, tôi đã thực sự gặp được một người cũng phải chịu lời nguyền tai ương khủng khiếp đó: Cha Dominic.
Chỉ có Cha Dominic là không chịu xem xét cái “tài năng” của chúng tôi dưới cùng một quan điểm như tôi. Đối với ông, đó là một cơ hội tuyệt vời để giúp đỡ những người đang gặp khó khăn. Ờ, cũng được thôi. Thế cũng tốt cho ông ấy. Ông là một linh mục mà. Ông đâu phải là đứa con gái mười sáu tuổi, cái đứa mong muốn có được cuộc sống bình thường ấy. Nếu mà bạn có hỏi, thì này, “tài năng” nào mà chẳng có mặt tốt của nó chứ. Như kiểu sức mạnh siêu phàm hay khả năng đọc được ý nghĩ chẳng hạn. Nhưng tôi lại chả có được cái gì trong cái đống tài năng hay ho đó hết. Tôi chỉ là một đứa con gái mười sáu tuổi bình thường – ờ thì, với vẻ bề ngoài trên mức bình thường, nếu mà tôi có tự nhủ với bản thân cái câu trên – đứa tình cờ có khả năng giao tiếp được với người đã chết. Trúng quả lớn há.
“Susannah,” giờ thì ông nói rất nghiêm chỉnh. “Chúng ta là những cầu nối. Chứ chúng ta không phải… kẻ huỷ diệt. Trách nhiệm của chúng ta là can thiệp giúp cho những linh hồn và dẫn dắt họ đi đến cái đích tận cùng. Chúng ta làm việc đó bằng cách hướng dẫn và chỉ bảo tận tình, chứ không phải đấm vào mặt họ hay tiến hành những lễ trừ ma theo kiểu Brazil đâu.”
Ông lên giọng ở mấy từ những lễ trừ ma, cho dù ông hoàn toàn hiểu rõ rằng tôi chỉ sử dụng đến việc trừ ma như là một hạ sách cuối cùng mà thôi. Đâu phải lỗi của tôi khi mà một nửa ngôi trường sụp xuống trong khi nó đang diễn ra. Ý tôi là, đúng ra mà nói, thì đó là lỗi của con ma, chứ không phải của tôi.
“Thôi được rồi, được rồi mà,” tôi nói, giơ cả hai tay lên trong một cử chỉ như kiểu Tôi-là-kẻ khốn-khổ. “Từ giờ trở đi con sẽ cố gắng theo cách của Cha. Con sẽ hành xử theo kiểu tình-thương-mến-thương. Giời. Những người ở cái vùng West Coast này thật là. Mọi người chỉ biết có mỗi việc vỗ lưng động viên nhau với lại ăn bánh sandwich bơ thôi chắc?”
Cha Dominic lắc đầu. “Và con gọi những phương pháp thương thuyết với ma của con thế nào ấy nhỉ, Susannah? Dùng đầu húc và dùng cẳng tay chẹn cổ à?”
“Vui thật đấy Cha Dom,” tôi đáp. “Giờ con về lớp được chưa ạ?”
“Chưa đâu.” Ông bận bịu với những điếu thuốc, gõ nhẹ cái bao thuốc như thể ông sắp mở thật đấy. Rồi thế nào cũng sẽ có ngày. “Cuối tuần của con thế nào?”
“Vui lắm ạ,” tôi nói. Tôi giơ cả hai tay lên, hướng những đốt ngón tay về phía ông. “Cha thấy gì đây không?”
Ông nheo mắt lại. “Trời đất ơi, Susannah,” ông nói. “Cái gì thế kia?”
“Cây sồi độc đấy ạ. Thật hay là chả ai thèm nói con biết nó mọc khắp chốn quanh đây hết.”
“Nó đâu có mọc khắp chốn,” Cha Dominic nói. “Chỉ trong khu vực cây cối um tùm thôi chứ. Con có đến cái vùng cây cối um tùm đó vào cuối tuần vừa rồi không đấy?” Đôi mắt ông mở to đằng sau cặp kính. “Susannah! Con không đến nghĩa địa đấy chứ hả? Không được đến một mình. Ta biết con tin là bản thân mình hiên ngang bất khuất lắm, nhưng đối với một cô bé như con lén lút khắp nghĩa địa thì điều đó cũng không hề an toàn tí nào hết, ngay cả khi con có là cầu nối với hồn ma đi chăng nữa.”
Tôi hạ tay xuống và nói với vẻ chán ghét: “Con đâu có bị dính cái này ở nghĩa địa. Con không hề lo công việc. Con bị dính nó ở bữa tiệc bể bơi của Kelly Prescott tối hôm thứ Bảy đấy ạ.”
“Bữa tiệc bể bơi của Kelly Prescott ư?” Cha Dominic trông có vẻ không hiểu. “Làm thế nào mà con lại gặp được cây sồi độc ở đó chứ?”
Quá muộn rồi, tôi nhận ra rằng lẽ ra mình nên kín mồm kín miệng mới phải. Giờ thì tôi sắp phải giải thích – cho ông hiệu trưởng trường tôi, người đồng thời cũng tình cờ là một linh mục, không hơn – về chuyện làm thế nào mà cái tin đồn lan đến bữa tiệc đang giữa chừng rằng ông anh em con dượng tên Ngu Ngơ và đứa con gái tên Debbie Mancuso đang làm gì đó ở ngôi nhà bên bể bơi ấy.
Tất nhiên tôi loại bỏ khả năng đó vì tôi biết Ngu Ngơ đang bị cấm túc. Bố của Ngu Ngơ – cha dượng mới của tôi ấy, người mà, so với phần lớn đàn ông California tính tình dễ chịu, hoá ra lại là người khá nghiêm khắc – đã cấm túc Ngu Ngơ vì cái tội dám gọi một người bạn tôi là kẻ pêđê.
Vì thế, khi cái tin đồn lan khắp bữa tiệc rằng Ngu Ngơ và Debbie Mancuso đang làm cái trò bậy bạ gì đó trong ngôi nhà cạnh bể bơi, tôi khá tin chắc rằng có người nào đó đã lầm lẫn. Tôi vẫn đinh ninh rằng Brad – mọi người, trừ tôi, đều gọi Ngu Ngơ là Brad, tên thật của cậu ta, nhưng mà tin tôi đi, cái tên Ngu Ngơ hợp với cậu ta hơn nhiều – đang ngồi nhà nghe nhạc của Marilyn Manson bằng tai nghe, vì bố cậu ta đã tịch thu mất bộ loa stereo rồi còn đâu.
Nhưng rồi có người bảo: “Cậu tự đến đó mà xem,” và tôi mắc phải một sai lầm khi làm thế, nhón chân đến chỗ cái cửa sổ mà bọn họ chỉ ấy, và ghé mắt nhòm vào trong.
Tôi chả bao giờ thèm quan tâm lắm cái việc nhòm ngó bất cứ ai trong số những người anh em khi họ không mặc gì hết nhé. Mà không phải họ xấu mã hay gì đâu. Ngái Ngủ, ông anh lớn nhất, thật ra còn được hầu hết bọn con gái ở Trường Truyền Giáo Junipero Serra, nơi mà anh ta là học sinh lớp 12 còn tôi học lớp 10, coi là anh chàng sát thủ tình trường nữa kia. Nhưng như thế không có nghĩa là tôi khoái ngắm anh ta ưỡn ngực đầu ngẩng cao đi hiên ngang quanh ngôi nhà mà không mặc quần đùi đâu nhá. Và dĩ nhiên là Tiến Sỹ, đứa nhỏ nhất, mới mười hai tuổi, trông cực kỳ đáng yêu với mái tóc đỏ hoe và đôi tai vểnh, nhưng bạn sẽ không gọi nó là bé yêu được đâu đấy.
Còn về phần Ngu Ngơ thì… hừm, tôi đặc biệt không bao giờ muốn nhìn Ngu Ngơ khi cậu ta đang trần như nhộng hết. Mà thật ra ấy à, Ngu Ngơ là kẻ cuối cùng trên đời tôi muốn nhìn thấy không mặc quần áo thì có.
May mắn thay, khi nhìn qua cửa sổ, tôi nhận thấy những lời thông cáo rằng người anh em của tôi đang trong tình trạng không một mảnh vải – cũng như năng lực hấp dẫn giới tính của cậu ta – đã được phóng đại một cách quá lố. Cậu ta và Debbie chỉ đang hôn hít vớ vẩn thôi. Thế nhưng tôi không bảo là mình không thấy kinh tởm tí nào đâu nhé. Ý tôi là, tôi không hẳn tự hào rằng người anh em của tôi đang ngồi đó nâng lưỡi với kẻ ngu si thứ nhì trong lớp tôi, xếp sau chính cậu ta.
Dĩ nhiên, tôi quay mặt đi chỗ khác ngay lập tức. Ở nhà cũng có trình diễn rồi, vì Chúa. Tôi đã chứng kiến đầy lần những nụ hôn kiểu Pháp. Tôi không đứng đó nhòm trộm trong khi người anh em của mình đang tiến hành đâu. Vả lại, về phần Debbie Mancuso, hừm, tất cả những gì tôi có thể nói được là, cô ta phải bỏ cái món nước sốt đi thôi. Cô ta không thể mất thêm tế bào não hơn số tế bào mà cô ta có đâu, cái thứ mà cùng với thứ đồ xịt tóc cô ta trét cả đống lên đầu trong WC nữ giữa các tiết học ấy.
Đúng vào lúc tôi đang chuồn khỏi chỗ cửa sổ trong nỗi kinh tởm, cái cửa sổ phía trên một con đường nhỏ rải sỏi, thì tôi tin rằng tôi đã vấp phải một cái cây sồi độc nào đó. Tôi không nhớ là mình có lúc nào dính dáng gì đến cây cối vào cuối tuần vừa rồi không nữa, tôi hầu như toàn ru rú ở nhà mà.
Và để tôi nói bạn hay, tôi đã va phải những cái cây đó thật đấy. Đang cảm thấy đầu mình quay cuồng vì cái cảnh tượng kinh hoàng tôi vừa mới chứng kiến – bạn biết mà, chuyện lưỡi liếc và gì đó ấy – cộng với đôi guốc, thế là tôi như bị mất thăng bằng vậy. Những cái cây mà tôi bám vào đã cứu tôi khỏi bị mất mặt nếu ngã ập xuống cái sàn bể bơi bằng gỗ.
Tuy thế, điều tôi kể với Cha Dominic lại là một phiên bản bị rút gọn. Tôi bảo rằng chắc chắn mình đã va phải cây sồi độc nào đó khi đang cố chuồn ra khỏi cái bồn tắm nước nóng nhà Prescott.
Cha Dominic có vẻ chấp nhận lý do đó và nói: “Hừm, ít thuốc hydrocortisone có thể làm xẹp chỗ đó đấy. Sau đây con nên đến gặp y tá đi. Nhớ đừng có gãi kẻo nó sẽ lan rộng ra đấy.”
“Vâng, cảm ơn Cha. Con cũng sẽ nhớ nín thở luôn thể. Việc đó cũng dễ dàng chả kém đâu ạ.”
Cha Dominic không thèm để ý đến câu châm chọc của tôi. Thật buồn cười là cả hai người chúng tôi đều là cầu nối của hồn ma cơ đấy. Tôi chưa từng gặp một người nào khác như thế – thật ra, 'chưa bao giờ' cho đến một vài tuần trước đây thôi – tôi cứ nghĩ rằng tôi là người duy nhất có thể liên lạc với người chết trên cõi đời này.
Nhưng Cha Dom bảo còn có những người khác nữa. Ông không dám chắc có bao nhiêu người, hay thậm chí là làm thế nào một số ít người quý báu như chúng tôi đây có thể được nổi tiếng bởi sự nghiệp lẫy lừng – mà tôi đã nói là vô lương vô thưởng chưa ấy nhỉ? – của mình. Tôi đang nghĩ đến việc có lẽ bọn tôi nên bắt đầu với bản tin nội bộ hay gì đó. Tờ Tin Tức Người Giao Tiếp Với Hồn Ma. Và phải có cả hội nghị nữa chứ. Tôi có thể chủ xị một buổi thảo luận về đề tài: năm cách đơn giản nhất để tẩn một con ma mà không làm đầu tóc rối tung.
Dù sao đi nữa, cái chính là tôi và Cha Dom. Đối với hai người có cùng một khả năng quái dị là giao tiếp với người đã khuất, chúng tôi lại khác nhau một trời một vực. Ngoài vấn đề về tuổi tác ra, Cha Dom sáu mươi còn tôi mười sáu, bản thân ông ấy là một Quý Ông Tốt Bụng, trong khi đó tôi thì…
Ờ, không phải.
Không phải là tôi không cố gắng đâu nhé. Chỉ có cái là, điều tôi đã học được từ tất cả những chuyện này là, chúng ta đâu có nhiều thời gian sống trên đời. Thế thì tại sao lại cứ phải lãng phí nó với những chuyện lẩm cẩm dở hơi của những kẻ khác cơ chứ? Nhất là những kẻ đã chết rồi ấy.
“Ngoài chuyện cây sồi độc,” Cha Dominic nói. “Còn có điều gì đang xảy ra với con mà con nghĩ ta nên biết không?”
Còn điều gì khác đang xảy ra với tôi mà tôi nghĩ là ông ấy nên biết à. Để xem nào…
Về cái chuyện rằng tôi mười sáu tuổi, và từ trước đến giờ, khác với người anh em Ngu Ngơ của tôi, tôi chưa từng được hôn, được rủ đi chơi cũng ít thì sao nhỉ?
Chẳng phải là vấn đề to tát quan trọng lắm – nhất là với Cha Dom, người đàn ông đã có lời thề ‘giữ gìn’ ba chục năm trước khi tôi ra đời – nhưng hổ thẹn, như nhau cả thôi. Có hàng đống chuyện hôn hít diễn ra ở bữa tiệc bể bơi của Kelly Prescott – mà thậm chí còn có cả chuyện nặng đô hơn cơ – nhưng chưa có ai hôn tôi hết.
Tuy thế, một tên con trai tôi không quen có mời tôi một điệu slow. Và tôi nói đồng ý, nhưng chỉ vì Kelly đã hét vào mặt tôi sau khi tôi làm cho cậu chàng phải thất vọng khi cậu ta mời tôi lần đầu tiên thôi đấy. Rõ ràng tên con trai đó là người mà cô nàng bồ kết được một thời gian. Làm thế nào mà chuyện tôi nhảy điệu slow với cậu ta lại khiến cho cậu ta thích Kelly được thì tôi không biết, nhưng sau khi tôi làm cho cậu chàng thất vọng lần đầu tiên, cô ta đã dồn tôi vào góc phòng ngủ của cô ta, cái nơi tôi đã vào để xem tóc tai mình có ổn không, cô ta khóc thật đấy, và bảo với tôi rằng tôi vừa mới phá hoại buổi tiệc của cô ta rồi.
“Phá hoại bữa tiệc của cậu á?” Tôi thực sự ngạc nhiên. Cho đến lúc đó tôi mới sống được ở California có hai tuần, thế nên tôi rất ngạc nhiên rằng mình đã thành kẻ sống ngoài lề xã hội trong cái khoảng thời gian ngắn ngủi đến thế. Tôi biết Kelly đã nổi cáu với tôi bởi vì tôi đã mời những người bạn của mình là Cee Cee và Adam đến bữa tiệc, những người mà cô ta và gần hết bọn lớp 10 ở Trường Truyền Giáo coi như những kẻ quái đản. Giờ đây tôi lại còn đổ thêm dầu vào lửa bằng cách từ chối nhảy với một tên con trai mà tôi thậm chí còn chả quen biết.
“Chúa ơi,” Kelly nói, khi cô ta nghe được điều đó. “Anh ấy là học sinh lớp 11 trường Robert Louis Stevenson đấy biết chưa? Anh ấy là ngôi sao nổi nhất trong đội bóng rổ trường. Anh ấy thắng trong cuộc thi chèo thuyền năm ngoái ở bãi biển Pebble, và là tên con trai hấp dẫn nhất ở Thung lũng này, xếp sau Bryce Martinson. Suze, nếu cậu mà không nhảy với anh ấy, mình thề không bao giờ nói chuyện với cậu nữa đâu.”
Tôi đáp: “Thôi được rồi. Thế rốt cuộc thì vấn đề nho nhỏ của cậu là gì?”
“Mình chỉ,” Kelly nói, quẹt nước mắt bằng một ngón tay sơn màu, “mong muốn mọi thứ diễn ra thật tốt đẹp. Mình đã để ý đến anh chàng này lâu rồi, và – ”
“Ờ, phải rồi Kel,” tôi nói. “Bắt mình nhảy với anh ta thì chắc chắn sẽ khiến anh ta thích cậu đấy.” Khi tôi chỉ ra cái ý nghĩ sai lầm trong dòng suy tưởng của cô ta, tất cả những gì cô ta nói lại là: “Cứ làm đi,” chỉ có điều là chả giống với cái cách người ta nói câu đó trong quảng cáo giày Nike tí nào. Cô ta nói giống như Mụ Phù thuỷ Độc ác sống ở phía Tây nói với những con khỉ có cánh khi mụ ta sai chúng đi giết Dorothy và những con cún của cô ấy thì có.
Tôi sợ quái gì Kelly chứ, nhưng mà nói thật, có ai lại muốn gặp rắc rối bao giờ đâu?
Thế nên tôi trở ra bên ngoài, đứng đó trong bộ áo bơi một mảnh Calvin Klein – với một chiếc váy xà-rông thắt hờ hững qua eo – hoàn toàn chẳng biết rằng mình vừa mới lao phải một bụi cây sồi độc, trong khi Kelly tiến đến với anh chàng trong mơ và bảo anh ta mời tôi nhảy một lần nữa.
Và trong khi đứng đó, tôi cố gắng không nghĩ rằng cái lý do duy nhất anh ta muốn nhảy với tôi lúc ban đầu là vì tôi là đứa con gái duy nhất trong bữa tiệc lại đi mặc áo bơi. Trước đó tôi chưa bao giờ được mời đến một bữa tiệc bể bơi nào trong đời, tôi đã sai toét khi tin rằng người ta thực sự bơi, nên cứ thế mà mặc.
Mà rõ ràng không phải vậy. Ngoài người anh em của tôi, kẻ rõ ràng là trở nên nóng bức quá mức trong vòng tay ôm ấp đầy đam mê của Debbie Mancuso và đã cởi tuột cả áo của cậu ta ra, tôi là đứa mặc ít vải nhất trong số những người ở đây.
Bao gồm cả người tình trong mộng của Kelly nữa. Vài phút sau, anh ta chậm rãi tiến tới, đeo một bộ mặt nghiêm trang, mặc chiếc quần bằng vải cotton dày và áo lụa đen. Rất 'chất Jersey', nhưng đây là West Coast cơ mà, làm sao anh ta biết được nhỉ?
“Em có muốn nhảy không?” Anh ta hỏi tôi bằng một giọng rất nhỏ nhẹ. Tôi hầu như chả nghe thấy anh ta nói gì trên nền nhạc của Sheryl Crow đang phát ra ầm ầm từ những cái loa cạnh bể bơi.
“Này anh,” tôi nói, đặt lon Coke dành cho người ăn kiêng xuống. “Em thậm chí còn không biết tên anh.”
“Là Tad,” anh ta nói.
Và rồi, không nói thêm lời nào nữa, anh ta vòng tay qua eo tôi, kéo tôi về phía anh ta và bắt đầu xoay theo điệu nhạc.
Ngoại trừ cái lần tôi lao vào Bryce Martinson để xô anh ta ra khỏi lối đi khi một con ma đang cố gắng làm cho anh ta vỡ sọ bằng một khúc gỗ, đây là lần đầu tiên tôi ở gần với thân thể của một tên con trai – một tên con trai còn sống hẳn hoi, người vẫn còn đang thở ấy.
Và tôi nói cho bạn nghe điều này nhé, áo sơ mi lụa đen không hề tệ, tôi thích thế đấy. Tên con trai này được lắm. Anh ta thật ấm áp – mặc áo bơi của tôi thì rét; tất nhiên là thế rồi, tháng Giêng mà, lẽ ra là phải rét đến mức không mặc được đồ bơi ấy chứ, nhưng dù sao đây là California – và toả ra mùi thơm như của một loại xà phòng cực kỳ thượng hạng và đắt tiền ấy. Điểm cộng nữa là anh ta chỉ cao hơn tôi vừa đủ để hơi thở của anh ta như thể lướt nhẹ lên má tôi theo một cách khơi gợi và lãng mạn.
Nói bạn biết nhé, tôi nhắm mắt lại, vòng tay qua cổ anh ta và xoay cùng anh ta trong hai phút dài nhất, hạnh phúc nhất trong đời.
Thế rồi bài hát chấm dứt.
Tad nói: “Cảm ơn em,” theo cái giọng nhỏ như trước, và buông tôi ra.
Và tất cả chỉ có thế. Anh ta quay lại, trở về chỗ nhóm con trai đang tụ tập cạnh cái thùng bia mà bố Kelly đã mua cho cô ta với điều kiện cô ta không để cho ai say xỉn mà lái xe về, một điều kiện mà Kelly đã tuyệt đối tuân thủ bằng cách không uống tí nào và đi đâu cũng mang theo cái di động với số của hãng taxi Carmel sẵn sàng gọi lại.
Và cho đến hết bữa tiệc, Tad tránh tôi. Anh ta không nhảy với ai khác nữa. Nhưng anh ta cũng không nói chuyện lại với tôi.
Trò chơi kết thúc, đấy là nói theo cách của Ngu Ngơ.
Nhưng tôi không nghĩ là Cha Dominic lại muốn nghe kể về những công cuộc hẹn hò khó nhọc của tôi đâu. Thế nên tôi nói: “Không ạ. Không có gì hết.”
“Lạ nhỉ,” Cha Dominic nói, trông ông có vẻ trầm tư. “Ta cứ tưởng sẽ có một vài hành động siêu linh gì đó chứ – ”
“Ồ,” tôi đáp. “Ý Cha muốn hỏi là có chuyện ma mị nào xảy ra không chứ gì?”
Giờ trông ông không còn trầm tư nữa. Ông có vẻ bực bội. “Ờ, phải, Susannah ạ,” ông đáp, gỡ cặp kính xuống và nắm nắn sống mũi bằng ngón cái và ngón trỏ như thể ông bị một cơn đau đầu đột ngột vậy. “Tất nhiên đó là điều ta muốn nói.” Ông lại đeo kính lên. “Sao thế? Có chuyện gì đó xảy ra à? Con đã gặp một người à? Ý ta là, kể từ sau cái tai nạn không may dẫn đến hậu quả ngôi trường bị phá huỷ ấy?”