Giờ tập vẽ. Trước mặt mỗi người học trò có một quả chuối để làm mẫu. Học trò vừa ngắm mẫu, vừa chăm chỉ vẽ vào vở. Thọ đi đằng sau các cậu, chỉ bảo các chỗ vẽ sai, uốn lại cách ngồi dạy cách ngắm mẫu, cách cầm bút chì, cách gọt bút chì. Các cậu chú ý nghe lời thầy khuyên, hết sức làm đúng lời thầy dạy. Thầy trò vui vẻ làm việc.
Khi gần hết giờ, học trò vẽ đã xong, Thọ đến chỗ từng người để chấm. Chấm đến bài của ai người ấy đứng dậy nhường chỗ cho Thầy.
Khi đang chấm bài của Quảng, Thọ nghe tiếng học trò sẽ khúc khích cười; chàng ngẩng lên, thấy mấy người nhìn lên đầu mình. Chàng sờ lên đầu, thấy có một sợi vỏ chuối nhỏ tí. Một cậu bé ngồi bàn dưới đứng dậy, khoanh tay nói:
- Thưa thầy, anh Quảng nghịch đấy ạ.
Mặt Quảng đỏ bừng, rồi tái đi. Nó vừa run vừa nói:
- Thưa thầy con chót dại, xin thầy tha cho con.
Thọ nghiêm nghị nói:
- Tôi chấm bài cho anh mà anh hỗn với tôi thế nghĩa là anh không cần tôi. Anh không cần tôi thì mời anh về.
Trưa hôm ấy, anh thằng Quảng, thầy nó, u nó, lần lượt đến nhà Thọ xin lỗi cho nó. Với ai, Thọ cũng nói:
- Tôi rất thương nó. Nhưng nếu tôi để nó học thì ở trong lớp, tôi không thể bảo được các trẻ khác. Tôi không đuổi nó đâu, vì nếu tôi đuổi, tất phải tư giấy lên ông thanh tra, nó sẽ không được vào học một trường công nào nữa. Tôi cho phép nó làm giấy xin thôi, trong sổ tôi sẽ biên tốt cho nó, như thế nó có thể xin vào học trường khác được. Một việc này có thể làm cho nó từ nay dở đi trở nên người rất có lễ phép.
Mấy người nằn nì nói mãi với Thọ, nhưng Thọ chỉ có bấy nhiêu lời đáp lại. Về sau, thấy Quảng lại đến nói:
- Thưa ông, con có người bà con thân ở Việt Trì, vậy ông làm phúc xin cho cháu hộ con lên học ở trường trên ấy.
- Nếu thế thì hay lắm. Tôi sẽ viết giấy lên cho ông Đốc ở trường trên ấy. Thế nào nó cũng được vào học.
Thế là đối với học trò Quảng vì nó vô lễ đã phải đuổi. Mọi người ai cũng chăm chỉ và kính trọng thầy. Thực ra, Quảng đã được vào học lớp nhất trường Việt Trì, lấy cớ rằng có người nhà lên buôn bán ở trên ấy. ở trường Việt Trì, nó là cậu học trò chịu khó và ngoan, đúng như Thọ đã biên trong sổ học của nó.
Một buổi tối mùa đông. Giời rét buốt. Bên ngoài, gió thổi vù vù. Cách dăm phút lại có luồng gió mạnh lùa qua khe cửa chớp, kéo dài ra, nhỏ dần, rồi lặng hẳn trong sự tịch mịch của đêm đông. Tuy mới tám giờ mà ngoài phố đã ít người qua lại. Qua một lần mây u ám, ánh giăng lờ mờ chiếu xuống, vừa đủ sức sáng cho ta nhìn thấy lối đi và hai dẫy nhà hai bên đường.
Trước lò sưởi, trên một chiếc ghế thấp, Thọ đang ngồi xem chuyện "Đoạn Tuyệt". Khi xem đến chỗ Loan vô ý giết chồng, chàng thở dài, đặt sách lên đùi, cằm tì vào hai bàn tay ấp lấy má, mắt đăm đăm nhìn những ngọn lửa nhấp nhô, lém dần những thanh củi khô màu trắng hay vàng nhạt. Lửa lém đến đâu, củi đen đến đấy, cháy dần, rồi những mảnh than hồng từ từ lở ra rơi xuống.
Thọ nghĩ "Nhất Linh khéo lôi thôi lắm. Cái tài của ông chỉ làm cho ta thêm buồn. Sự thực ở đời đã làm cho ta phải ngang tai chướng mắt, uất ức khó chịu. Nay xem truyện ông, tưởng để mua vui trong chốc lát, ai ngờ lại thấy vẽ ra trước mắt những cảnh ta muốn quên đi. Loan phải lấy Thân, ta đã ức thay. Loan bị mẹ chồng đay nghiến, chị em chồng diếc móc. Ôi! Mỉa mai! Những cảnh ấy ta đã thấy diễn ra nhiều lần trước mắt ta. Thế còn chưa đủ khổ ư? Còn phải ôn lại trong truyện nữa ư? Rồi.. vì Loan sơ ý mà chồng Loan chết... Chồng Loan chết! Loan mang tiếng giết chồng! Thân Loan rồi sẽ ra sao? Cuộc đời đầy giẫy những sự xấu xa. Ta chán nản. Ta muốn gặp trong truyện những cảnh êm đềm hơn, những tình cao thượng hơn, để quên trong chốc lát những cái thấp kém của cuộc đời thật... Nhưng nào có được! Các ông viết tiểu thuyết lại cứ muốn chụp lấy những cái thấp kém ấy...".
Bên ngoài có tiếng gõ cửa. Thằng nhỏ mở ra. Một luồng gió thổi mạnh vào, khiến Thọ rùng mình ngoảnh ra. Chàng ngạc nhiên nhìn hai thiếu nữ vừa tiến đến vừa lấy tay che mắt vì chói đèn. Hai thiếu nữ mặc quần cẩm nhung trắng, áo nhung đen. Thọ nhận ngay ra là hai chị em Nhung. Chàng bảo thằng nhỏ để hai cái ghế sát vào lò sưởi, mời hai nàng ngồi vào cho ấm, rồi hỏi:
- Giời rét thế này mà hai cô cũng chịu khó đi chơi.
Phượng nói:
- Thưa ông, vì việc cần nên chúng tôi phải đi.
- Việc gì mà cần thế ạ.
- Thưa ông, chúng tôi mới nhận được giây thép ở Hà Nội gửi lên, nói bác chúng tôi yếu nặng. Tôi đến xin phép ông cho em Nhung nghỉ mấy ngày, vì mai chúng tôi phải về Hà Nội sớm.
- Vâng.
Thọ bảo pha cà phê và với hộp thuốc lá trên bàn mời chị em Nhung. Trong khi ấy, Nhung ngẩng nhìn bức tranh than vẽ chân dung một thiếu nữ treo trên lò sưởi. Thọ nhìn Nhung và nói:
- Em gái tôi đấy, hiện đang học năm thứ hai trường nữ sư phạm.
- Vâng. Con trông giống thầy lắm.
Phượng cũng ngẩng lên nhìn rồi nói:
- Cô ấy tươi nhỉ! Chắc là vui tính lắm?
- Cũng vui tính như cô.
Phượng cười, rồi cúi xuống cho thêm củi vào lò sưởi. Củi nỏ, bén lửa ngay, nổ lách tách, những mảnh than hồng nhỏ tí bay lên.
Một tuần lễ sau, cũng vào khoảng tám giờ tối, Thọ đang ngồi chấm bài thì Quảng đến. Thọ hỏi:
- Hôm nay thứ hai, sao anh lại ở đây? Anh nghỉ học ư?
- Thưa thầy, con xin phép nghỉ một ngày, vì con có một việc phải trình thầy.
Thọ chỉ vào một chiếc ghế, bảo Quảng:
- Anh ngồi chơi. Có việc gì thế?
Quảng thong thả lấy ở túi ra một phong thư, đặt lên bàn, trước mặt Thọ:
- Thầy xem thư này thì rõ đầu đuôi câu chuyện.
Thọ lấy thư ra xem:
Anh Quảng,
Tôi thấy anh phải đuổi, tôi rất thương. Tôi cũng toan xin cho anh, nhưng vì ông giáo Thọ không phải là người tốt, nên tôi lại thôi. Ông ấy dạo này rất ê chệ: ai lại thầy giáo đi chim học trò bao giờ.
Tối hôm nọ, hai chị em con Nhung đến chơi nhà ông ấy lâu lắm. Chúng nó hư cả nút.
Tôi muốn báo thù hộ anh. Vậy khi anh còn học ở Vĩnh Yên, anh thấy Thọ và Nhung đối với nhau thế nào, anh kể rõ cho tôi biết. Khi đã có chứng từ trong tay, tôi sẽ viết bài đăng báo, thế nào "anh" cũng phải đổi đi nơi khác, mà "chị" cũng xấu hổ.
Nếu việc thành, tôi sẽ thưởng tiền cho anh sau. Anh viết thư về cho tôi thì đề:
Monsieur Nguyễn Đức Hùng
Secréiaire des Résidences
Vĩnh Yên
Xem xong thư, Thọ sẽ thở dài. Chàng không ngờ lại có chuyện ấy, nhất là thấy Hùng đối với mình vẫn vui vẻ hòa nhã như thường. Lạ! Nào Thọ có làm gì mất lòng Hùng đâu? Chắc hẳn chỉ vì ghen. Thấy Nhung không yêu mình, cho là Nhung yêu Thọ, nên Hùng muốn bêu xấu hai người cho bõ ghét.
Thọ hỏi Quảng:
- Thế anh đã giả nhời ông Hùng chưa?
- Thưa thầy, đã. Hôm qua con nhận được thư thì con giả nhời ngay. Con nói vắn tắt: chị Nhung là người học trò chăm chỉ đứng đắn, thầy là một ông giáo đáng được mọi người kính trọng, ông phán Hùng ở ngoài không biết, không được nghi ngờ. Sau con lại sợ ông ấy tìm cách khác, nên con phải xin phép về báo thầy biết trước để thầy đề phòng.
- Anh tốt lắm. Tôi đuổi anh, mà anh vẫn nghĩ đến tôi, tấm lòng anh rất đáng quý. Tôi cảm ơn anh. Nhưng anh cứ yên tâm. Họ không làm gì nổi tôi đâu, vì sự thực bao giờ cũng vẫn thắng.
Quảng vui vẻ chào Thọ lui ra.
Thọ cất phong thư của Quảng mới đưa cho vào ngăn kéo, rồi lấy thuốc lá hút. Chàng buồn cười về cái cử chỉ của Hùng. Nhưng chàng sẽ không lấy làm lạ, nếu chàng được rõ câu chuyện của Hùng và Bình nói với nhau trên đường Tam Đảo, ngay buổi chiều hôm sau khi Nhung đến nhà chàng.
Buổi chiều hôm ấy, sau khi ở tòa ra, Hùng rảo bước trên con đường Tam Đảo, Bình đã đứng đợi ở dốc Định Trung. Hai người sánh vai nhau đi, nhưng không ai nói gì. Đằng xa dãy núi Tam Đảo bị mây phủ kín: hai bên cánh đồng trơ trụi gốc rạ lởm chởm; ngang trời, vài con chim bay uể oải đến một nơi xa. Buổi chiều đông gợi trong tâm hồn ta một nỗi buồn khó tả.
Bình và Hùng rẽ vào một con đường nhỏ bên phải, khuất khúc trong những bụi cây con cằn cỗi. Đến cửa chùa Hà Tiên, hai người ngồi nghỉ trên bờ giếng. Nước giếng chùa Hà có tiếng là trong và ngọt. ở vùng đấy đã có câu ví: "Trong như nước giếng chùa Hà". Tuy giếng ấy cách tỉnh l� những ba cây số, mà các nhà phong lưu và cầu kỳ cũng cho người lấy nước về để pha chè, vì họ cho rằng: pha chè bằng nước ấy thì hương chè tăng lên bội phần.
Bình và Hùng cùng nhìn xuống giếng. Trên mặt nước im lặng và trong vắt, bóng hai người lồ lộ. Hùng mơ màng tưởng tượng như đứng bên cạnh Nhung, Bình ước ao bóng Hùng hóa ra bóng Thọ. Nàng sẽ thở dài, rồi mỉm cười chua chát, hỏi Hùng:
- Tối hôm qua anh có biết chuyện gì không?
- Không. Chuyện gì thế em?
- Buồn cười lắm. Tối hôm qua, chị em con Nhung đi ô tô đến nhà Thọ.
- Nhung con cụ Tuần ấy à?
- Phải. Nhung con cụ Tuần, đến nhà ông giáo Thọ, lúc ấy đã khuya.
Hùng lộ vẻ bực tức.
Chàng lẩm bẩm một mình:
- Hừ! Thế thì lạ thực!
Bình chăm chú nhìn Hùng:
- Người ta yêu nhau mặc người ta, việc gì đến mình mà phải hậm hực.
- Vẫn là mặc người ta. Nhưng ai lại nhố nhăng như thế. Một cô con gái cụ Tuần.
- Và một ông giáo...!
Hai người lặng im một lúc, mỗi người nhìn về một ngả. Lúc ấy giời đã gần tối. Cảnh chiều rất tịch mịch. Bỗng trong chùa Hà Tiên, tiếng chuông vang động, thong thả, ngân nga, dứt tiếng nọ đến tiếng kia, rồi dần dần liên tiếp nhau đổ hồi. Bình hỏi:
- Anh định làm thế nào? Ai lại để họ tự do quá như thế được.
- Làm thế nào? Chỉ có một cách là đăng báo để bêu xấu họ... Nhưng...
- Nhưng làm sao?
- Nhưng nếu cụ Tuần biết thì khốn!
- Biết thế nào được. Ai dại gì mà đăng báo nói xấu người ta lại ký tên thật.
Rồi như chợt nghĩ ra một ý kiến gì hay, Bình vui vẻ nói tiếp:
- Phải rồi. Thằng Quảng mới bị Thọ đuổi, bây giờ học ở Việt Trì. Anh viết thư lên hỏi nó về cách cử chỉ của Thọ và Nhung ở trong lớp. Nó ghét Thọ, chắc có gì nó chẳng nói ra cho hết. Dù không có gì, nó cũng sẽ bịa đặt ra. Anh hứa sẽ cho nó tiền và bảo nó viết thư giả lời anh. Chứng cớ đã nắm chắc trong tay, dù cụ Tuần có biết cũng chẳng làm gì nổi...
Hùng gật đầu khen phải. Hai người dắt tay nhau về. Giới đã tối. Những làng xóm, cây cối, và những dẫy núi đằng xa còn lờ mờ in bóng lên nền trời trắng xám.
Buổi tối hôm ấy, cơm xong. Hùng viết ngay thư cho Quảng. Chàng vui vẻ gập thư lại, bỏ vào phong bì. Chàng yên trí rằng thế nào chàng cũng đạt được mục đích: bức thư trả lời của Quảng sẽ kể rõ cho chàng biết bao cái xấu xa của Nhung và Thọ.
Hùng nghĩ: Thọ phải đổi, cô ả tuyệt vọng, biết đâu không phải là một dịp tốt cho mình. Thọ đi, Nhung sẽ buồn tẻ, chán nản. Biết đâu nàng sẽ không bị lời đường mật của ta cám dỗ, và âu yếm ta như khi nàng âu yếm Thọ: Phải! trong lúc chán nản, người ta dễ siêu lòng lắm. Biết đâu rồi bao cái "biết đâu" ấy đưa lại trong trí tưởng tượng của Hùng những hình ảnh êm dịu: nào khi cùng Nhung sánh vai trên đồi Định Trung, mơ màng nhìn những áng mây chờn vờn trên đỉnh núi, mà lặng lẽ yên hưởng những phút đầm ấm man mác của tình yêu; nào khi cùng ai ngồi trên bờ giếng chùa Hà, soi gương mặt nước, rồi âu yếm đặt môi lên trên má phơn phớt hồng của người mình hằng mơ tưởng...
Hùng lại nghĩ đến món tiền hồi môn của Nhung, món tiền có thể lên tới hàng vạn được. Chàng sung sướng với những ý nghĩ của mình.
Nhưng Hùng sẽ thấy những sự mơ tưởng chỉ là những sự mơ tưởng, nghĩa là không bao giờ thành sự thực được, khi chàng đã nhận được thư giả lời của Quảng. Chàng sẽ thất vọng, sẽ thấy mình khổ sở đau đớn trong cảnh vui của người khác.
Cũng đêm ấy, Bình thấy băn khoăn. Bao ý nghĩ vẩn vơ bận tâm hồn nàng. Sau khi Hùng đã đăng báo, có lẽ Thọ phải đổi thực. Lúc ấy nàng sẽ vì nhớ Thọ mà đau khổ hơn bây giờ. Thà rằng Thọ không yêu nhưng ngày nào nàng cũng được trông thấy mặt, thấy dáng điệu của người mình mơ tưởng. Rồi nàng lại lẩm bẩm một mình: "Thôi, đi cho khuất mắt...".
Trong lớp Thọ có một người học trò tên là Thanh, mặt mũi sáng sủa nhanh nhẹn. Thanh ít khi thuộc bài. Nhưng Thọ biết Thanh không phải là người kém trí khôn, vì mỗi khi Thọ bắt Thanh đứng học bài trong lớp, thì chỉ một lúc là Thanh thuộc ngay. Thọ thường mắng nhiếc Thanh là người lười biếng; Thanh chỉ đứng cúi mặt rơm rớm nước mắt. Mà Thanh lại hay nghỉ và lần nào nghỉ cũng không xin phép.
Một hôm Thanh nghỉ học, Thọ hỏi thăm học trò trong lớp xem có ai biết rõ nhà Thanh không. Một người đứng lên nói:
- Thưa thầy, nhà anh Thanh nghèo lắm. Anh ấy chỉ còn có mẹ đã ngoài sáu mươi tuổi. Mẹ anh ấy bán bún. Đêm nào anh ấy cũng phải xay bún đến tận 12 giờ khuya. Sáng ngày anh lại phải dậy sớm để giúp mẹ. Bởi thế nên không mấy khi anh thuộc bài vì không có thì giờ học. Những khi anh nghỉ học là nhà anh có phường buôn đến trọ, anh phải ở nhà bận việc.
Thọ thấy Nhung nhìn mình, sẽ thở dài, có lẽ Nhung ái ngại cho tình cảnh của Thanh.
Hai ngày hôm sau, lúc cụ Thanh đang lúi húi thổi cơm trong bếp, một người đàn ông vào khoảng ba mươi tuổi, mặc quần áo nâu, vào chào cụ. Cụ Thanh quay ra:
- Tôi không dám. Bác hỏi gì thế?
- Thưa cụ, con là Ba, con đến xin ở giúp việc cụ.
- Nhà tôi có việc gì đâu, mà làm gì có tiền để giả công bác.
- Thưa cụ, con không dám lấy tiền công. Con chỉ đến giúp việc cụ để cậu Thanh có thì giờ học tập. Những lúc nhàn rỗi, con sẽ vào rừng kiếm củi về bán, để thêm tiền giúp cụ làm hàng.
Cụ Thanh rất lấy làm lạ, không hiểu sao lại có người rỗi công việc đến thế. Lúc Thanh ở trường về, thấy mẹ nói chuyện, cũng ngạc nhiên Thanh suy nghĩ một lúc rồi hỏi anh Ba:
- Chắc có ai thuê tiền anh để đến ở nhà tôi.
Ba cười:
- Cậu nói dở. Tôi thấy cậu bận học, không có ai giúp, chứ ai lại thừa tiền thuê người đến làm công cho người khác bao giờ.
Thanh lặng im, nghi ngờ.
Thực ra Ba đã nói dối Thanh và đã giữ trọn lời hứa với Thọ vì trước khi cho Ba đến ở với cụ Thanh, Thọ đã dặn hắn không được nói rõ cho ai biết là chàng thuê hắn. Mỗi tháng Thọ...