Khi tôi bước chân vào phòng 505 của bệnh viện, Cassie ngồi bất động nhưng mắt dõi theo từng cử chỉ của tôi.
Tấm rèm cửa sổ đã được kéo lên để ánh sáng màu vàng xuyên qua cánh cửa hé mở của phòng tắm. Tôi thấy những chiếc quần áo ướt đang treo trên giá của nhà tắm. Những thang giường đã được hạ xuống. Căn phòng sực mùi băng cũ.
Một dây truyền nước có đánh thang độ được gắn vào cánh tay của Cassie. Những giọt nước trong suốt từ chiếc bình treo đang nhỏ xuống ống. Tiếng kêu của cái máy đo truyền nước có vẻ hơi to. Xung quanh Cassie toàn là những con LuvBunny. Trên mặt bàn là chiếc khay đựng đồ ăn sáng chưa ai đụng tới.
Tôi lên tiếng:
- Chào cháu gái.
Con bé nhoẻn miệng cười, mắt nhắm lại và lắc lư cái đầu như đứa trẻ mù.
Cindy từ nhà tắm bước ra.
- Chào bác sĩ Delaware.
Cái bím tóc của chị ta đã được vấn lên đỉnh đầu, tay áo vẫn chưa buông xuống.
- Chào chị. Tình hình chị thế nào?
- Vẫn ổn. Thưa bác sĩ.
Tôi ngồi xuống cạnh giường Cassie. Cindy đi lại và đứng cạnh tôi. Sức nặng của tôi khiến mắt Cassie mở ra. Tôi lại cười với con bé, chạm vào những ngón tay của nó. Bụng nó phập phồng nhưng rồi lại nhắm mắt lại. Đôi môi nó khô và thô ráp. Môi trên còn có một cái vẩy lớn chưa bong hẳn ra. Mỗi hơi thở của con bé đều làm cho môi động đậy.
Tôi cầm bàn tay không truyền nước của nó. Con bé không phản đối. Da nó ấm và mềm mại như da bụng cá heo.
Tôi nói:
- Cháu gái ngoan quá.
Và thấy mắt nó lay động bên dưới bờ mi.
Cindy nói:
- Đêm qua mẹ con tôi thật vất vả.
- Tôi biết rồi. Rất lấy làm tiếc vì điều đó đã xảy ra - Tôi nhìn xuống bàn tay đang nắm. Có rất nhiều vết tiêm cũ nhưng không thấy vết thương mới nào. Móng tay cái rất nhỏ, được cắt vuông ở đầu và hơi bẩn. Tôi ấn nhẹ, chỉ số trên máy đo truyền nước liền tăng lên,một lúc rồi lạ hạ thấp xuống kêu tí tách. Tôi làm lại như thế và kết quả tương tự xảy ra. Nhưng mắt con bé vẫn nhắm nghiền, mặt nó đã có vẻ dễ chịu hơn. Vài phút, con bé đã ngủ, nhịp thở đều đều như nhịp của những giọt nước trong ống truyền.
Cindy cúi xuống và xoa má con gái. Một con thú nhồi bông rơi xuống sàn nhà. Chị liền nhặt lên và đặt nó cạnh khay đồ ăn sáng. Cái khay ấy đặt xa hơn dự đoán của chị nên chút nữa đã làm chị mất thăng bằng. Tôi nắm lấy khuỷu tay chị và giữ chặt. Qua ống tay áo, tôi thấy cánh tay chị gầy và yếu đuối. Tôi bỏ ra nhưng chị cố nắm lấy tay tôi một vài giây.
Tôi nhận ra những đường nét đầy vẻ lo nghĩ quanh mắt và miệng chị, thấy tuổi tác đã bắt đầu có ảnh hưởng. Mắt tôi và mắt chị gặp nhau. Mắt chị đầy vẻ kỳ quái và lo sợ. Chị liền bước ra xa chỗ tôi, tới cái giường gấp và ngồi xuống.
Tôi hỏi:
- Có chuyện gì đã xảy ra vậy?
Hỏi thế chứ trước khi vào đây tôi đã đọc bệnh án rồi.
- Họ lại tiêm chọc và xét nghiệm - Chị nói - Họ làm chiếu chụp con bé rất nhiều. Con bé không được ăn uống gì cho tới tận khuya và đã không còn chịu đựng được nữa.
- Thật tội.
Chị cắn môi:
- Bác sĩ Eves nói rằng do con bé lo lắng hay phản ứng gì đó với chất đồng vị mà họ dùng trong quá trình chiếu chụp nên mới chán ăn.
- Chuyện đó đúng là đôi khi cũng xảy ra - Tôi trấn an - Nhất là khi có nhiều các cuộc xét nghiệm và chất đồng vị đã trở nên nhiều trong máu.
Chị gật đầu.
- Con bé khá mệt mỏi. Tôi nghĩ hôm nay thì bác sĩ không thể vẽ tranh với nó được rồi.
- Tôi cũng nghĩ vậy.
- Tệ quá. Thế là ông lại không có thời gian để hành sự rồi.
- Thế con bé chịu đựng việc điều trị ra sao?
- Thực ra, con bé đã quá mệt mỏi - nên nó im lặng.
Chị nhìn trở lại giường và quay đi rất nhanh. Dùng hai tay chống xuống ghế, chị đẩy mạnh để đứng lên.
Hai mắt chúng tôi lại bắt gặp nhau. Chị ta ngáp ngủ và nói:
- Ôi, cho tôi xin lỗi nhé.
- Vậy có gì cần tôi giúp đỡ nữa không?
- Cảm ơn bác sĩ. Hiện tôi chưa nghĩ ra điều gì cả.
Chị nhắm mắt lại.
Tôi nói:
- Tôi sẽ để chị nghỉ ngơi.
Nói rồi tôi bước ra cửa.
- Này bác sĩ Delaware.
- Có chuyện gì thế.
- Việc tới nhà chơi với con Cassie mà chúng ta đã bàn hôm trước ấy. Khi chúng tôi rời khỏi nơi này rồi, ông vẫn muốn tới thăm chúng tôi chứ?
- Tất nhiên rồi.
- Thế thì hay quá.
Có điều gì trong giọng nói của chị ta khiến tôi phải dừng lại chờ đợi. Nhưng rồi không thấy gì hơn ngoài việc chị ta ngoảnh mặt đi. Khi chị bắt đầu lấy tay vân vê bím tóc, tôi liền ra đi.
Không thấy Vicki Bottomley ở đâu. Người y tá trực là một người lạ mặt. Sau khi hoàn thành xong ghi chép của mình, tôi đọc lại những ghi chép của Stephanie, của bác sĩ thần kinh, và của bác sĩ nội tiết - một người có tên là Alan Macauley với nét chữ to và khoẻ khoắn.
Bác sĩ thần kinh không phát hiện ra điều bất thường nào sau hai lần chụp não con bé nên ông ta đã giới thiệu Macauley. Ông bác sĩ nội tiết này cũng không phát hiện dấu hiệu rối loạn nào của hệ trao đổi chất, mặc dù các thử nghiệm của ông ta vẫn còn đang được phân tích. Theo như kết luận y học, tuyến tụy của Cassie về cấu trúc và sinh hoá hoàn toàn bình thường. Macauley đề nghị làm thêm các xét nghiệm về gen và chụp X-quang để khẳng định không có u não. Ông ta còn đề nghị tôi tiến hành nhiều hơn các liệu pháp tâm lý với con bé.
Tôi chưa bao giờ gặp người đàn ông này và rất ngạc nhiên khi được ông ta viết tên mình vào trong đề xuất. Muốn hiểu rõ ý đồ của ông ta trong việc đề nghị tôi tiến hành "sâu" các liệu pháp tâm lý, tôi tra số điện thoại của bác sĩ này trong danh bạ điện thoại của bệnh viện và gọi tới.
- Macauley đây.
- Chào bác sĩ Macauley, tôi là Alex Delaware - bác sĩ tâm lý đang điều trị cho Cassie Jones.
- Hay quá. Thế ông đã tới khám bệnh cho con bé chưa?
- Mới cách đây ít phút.
- Tình hình nó thế nào rồi?
- Có vẻ mệt mỏi lắm - tôi nghĩ là do cơn co giật gây ra.
- Có lẽ vậy.
- Mẹ nó nói là nó không chịu ăn tối.
- Mẹ nó à? Vậy thì tôi có thể giúp gì được ông?
- Tôi đã đọc ghi chép của ông - về sự ủng hộ của ông đối với điều trị tâm lý liệu pháp. Tôi đang tự hỏi không biết ông có ý kiến nào nữa không?
Ông ta dừng lại rất lâu không nói. Rồi:
- Ông đang ở đâu thế?
- Tại bàn y tá của con bé.
- Vậy thì thế này, khoảng 20 phút nữa, tôi sẽ cùng người của khoa Điều trị đái đường tới. Tôi có thể đến sớm hơn chừng 5 phút. Hay là ông đến chỗ tôi đi. Tại tầng bốn nhà Đông.
Ông ta vẫy tay khi tôi đến và tôi nhận ra đã gặp ông ta ngày hôm trước trong buổi lễ tưởng niệm Ashmore. Đó là người đàn ông da đen, hói đầu đã nói về vấn đề súng ở Texas.
Lúc đứng đó đợi tôi, trông ông ta có vẻ to lớn hơn hôm trước, vai hơi thuôn, rộng, cánh tay khoẻ mạnh. Ông mặc chiếc áo cổ lọ màu trắng, quần jeans có ly và đôi ủng cao tới tận đầu gối kiểu miền Tây. Một tay ông cầm ống nghe còn tay kia thì làm động tác của chiếc máy bay trong khi nói chuyện với một chàng trai khoảng chừng mười bảy tuổi.
15 phút trước khi khoa Đái đường làm việc theo như kế hoạch, phòng chờ của khoa Nội tiết đã chật ních người. Trên bốn bức tường treo đầy các tấm áp phích về dinh dưỡng. Trên bàn xếp rất nhiều sách và tạp chí đã rách dành cho thiếu nhi cùng với sách hướng dẫn và những gói kẹo.
Macauley vỗ vào lưng chàng trai và tôi nghe thấy tiếng ông ta nói:
- Cậu cừ lắm - cứ thế nhé. Tôi biết nếu mà cứ để thế làm thì sẽ sướng nhưng mà dùng Mommy thì còn sướng hơn ấy chứ. Vì vậy bỏ quách nó đi cho sướng.
- Đúng đấy - Cậu con trai nói. Cậu ta có cái cằm và mũi to. Tai cũng to, mỗi bên đeo ba cái vòng màu vàng. Cậu ta cao phải tới một mét 8 nhưng đứng với Macauley thì vẫn có vẻ là thấp. Da cậu ta nhờn dầu và trên má đầy mụn trứng cá. Mái tóc thì được cắt theo kiểu trào lưu mới, đầy những góc cạnh chẳng khác gì quần của một nhà kiến trúc sau giấc mơ tiên - Vui vẻ nhé - Cậu ta lầm bầm.
- Chúc cậu cũng thật vui vẻ, chàng trai - Macauley nói - Nhưng nhớ là đừng có dùng đường đấy.
- Chết tiệt - Cậu ta nói.
- Được rồi, Kev. Cậu có thể làm gì tuỳ ý miễn là phải sử dụng bao nghe chưa.
Cậu thanh niên cười toét miệng.
Macauley lại vỗ vào lưng cậu ta và nói:
- Được rồi, đồ quỷ, hãy biến khỏi nơi đây đi. Tôi còn có bệnh nhân đang chờ đây này.
- Được rồi - Cậu ta lôi ra bao thuốc, nhét một điếu vào mồm nhưng không châm lửa.
Macauley nói:
- Này, chàng gà tây, phổi của cậu đang làm người khác nhức đầu đấy.
Cậu thanh niên cười và bỏ đi.
Macauley lại chỗ tôi.
- Những thanh niên ngỗ ngược đang bị tiểu đường. Khi chết, tôi biết mình sẽ lên thiên đường bởi vì tôi đã ở địa ngục mãi rồi.
Ông ta đưa cánh tay to khoẻ ra phía trước. Bàn tay ở cuối cánh tay ấy rất lớn nhưng cái bắt không được chặt. Khuôn mặt ông ta như con chó Ba xét với vài nét của chó bun: mũi to, môi dày, mắt đen, cụp và nhỏ. Cái đầu trọc và bộ quần áo màu tối khiến ông ta trông giống người đứng tuổi, nhưng tôi nghĩ ông ta chỉ từng 35 là cùng.
- Tôi là Al Macauley.
- Tôi là Alex Delaware.
- Vậy là những người có chữ cái đầu là Al đã gặp nhau - Ông ta nói - Nào, hãy đi khỏi đây trước khi nó biến thành một cái chợ.
Ông dẫn tôi đi qua những cánh cửa xoay giống như ở chỗ Stephanie, cũng những đám y tá, hộ lý, các bác sĩ nội trú, buồng điện thoại và những cái bút đang viết y hệt bên Stephanie. Cuối cùng chúng tôi tới một phòng khám được trang hoàng bằng biểu đồ tiêu chuẩn về đường trong cơ thể do một trong các hãng đường cung cấp. Tiếp đó là các tấm áp phích về năm nhóm thức ăn, trong đó món chiên và thịt được đề cập nhiều hơn cả.
- Tôi có thể giúp gì được cho ông? - Ông ta hỏi và ngồi xuống chiếc ghế xoay, xoay đi xoay lại thành những nửa vòng tròn.
- Ông có giả định nào về trường hợp của Cassie không? - Tôi hỏi.
- Giả định ư? Đó có phải là chuyên môn của ông không đấy?
- Trong một thế giới hoàn hảo thì đúng, ông Al ạ. Thật không may, thực tế luôn từ chối hợp tác.
Ông ta thở phì phò, tay đặt lên đầu, xoa xoa nơi tóc không tồn tại. Có ai đó để chiếc búa cao su dùng kiểm tra độ linh hoạt của chân trên mặt bàn. Ông ta cầm nó lên và sờ vào đầu gối mình.
- Ông đề nghị tôi điều trị tâm lý liệu pháp theo chiều sâu - Tôi nói - Tôi chỉ không hiểu...
- Ông định nói rằng liệu tôi có phải gã nhạy bén đặc biệt hay có nghi ngờ gì đó về vụ này phải vậy không? Câu trả lời là tôi có nghi ngờ về vụ này. Tôi đã đọc ghi chép của ông trong y bạ, hỏi mọi người về ông và biết ông là người tốt. Vì vậy, tôi mới giới thiệu ông.
- Ông bảo rằng vụ này đáng ngờ - Tôi hỏi - Phải chăng như là vụ có liên quan đến bệnh Munchausen thế thân?
- Ông muốn gọi nó là gì thì tuỳ - tôi là người chuyên nghiên cứu về nội tiết, không phải là bác sĩ tâm thần. Nhưng rõ ràng trong hệ trao đổi chất của con bé không hề có vấn đề gì cả. Điều này tôi có thể khẳng định với ông.
- Ông có chắc chắn là thế không?
- Nói thật, đây không phải là lần đầu tiên tôi gặp phải ca như thế này - Tôi đã từng tham gia vào ca bệnh này từ mấy tháng trước khi con bé đi ngoài ra máu. Chẳng có ai ngoài bà mẹ nhìn thấy phân có máu của nó cả, còn những vết máu trên tã của nó thì đâu đáng để tôi lưu tâm. Ngoài ra, tôi luôn cẩn thận đặc biệt trong nghề nghiệp. Tất cả các thí nghiệm nội tiết đều được làm bài bản.
- Nhưng lần co giật này thì có người khác nhìn thấy.
- Tôi biết - Ông ta đáp vẻ thiếu kiên nhẫn - Cô y tá và người trực phòng. Và lượng đường huyết thấp chính là lời giải thích cho cơn co giật. Nhưng điều không giải thích được là tại sao lại có hiện tượng hạ đường huyết. Con bé không hề có bất thường nào về gen hay trao đổi chất, không có rối loạn về tích trữ đường, tuyến tụy hoạt động hoàn toàn bình thường. Vào thời điểm nào, tôi không còn phải biết nói gì nữa ngoài việc viết nên những báo cáo thí nghiệm như thời còn ở trong trường đại học. Chúng ta đang có một đứa bé hai tuổi được xét nghiệm nhiều nhất tại bán cầu Tây. Có muốn đưa cho nó vào sách Guinness không?
- Thế liệu có khả năng đó là căn bệnh lạ, biến thể hiếm thấy của một căn bệnh đã biết?
Ông ta nhìn tôi, chuyển chiếc búa từ tay nọ sang tay kia.
- Mọi thứ đều có thể xảy ra.
- Nhưng ông không nghĩ như vậy đúng không?
- Điều tôi không bao giờ nghĩ sẽ xảy ra là các tuyến nội tiết của con bé có gì đó trục trặc. Đây là đứa bé hoàn toàn khỏe mạnh, nó bị hạ đường huyết ắt là có nguyên nhân khác.
- Phải chăng là có người đã cho nó uống thứ gì đó?
Ông ta tung cái búa lên và dùng hai ngón tay đỡ lấy. Lặp lại động tác này vài lần, ông ta mới nói:
- Ông nghĩ gì vậy? - Ông ta mỉm cười - Thực tình, thì đó chính là điều tôi nghĩ đấy. Điều đó rất hợp lý đúng không nếu ta xem xét lịch sử của gia đình họ - về đứa bé đã chết non ấy.
- Trong vụ ấy, ông có khám cho nó không?
- Không, mà tại sao tôi phải khám cho nó chứ? Ca đó hẳn liên quan tới đường hô hấp. Tôi nghĩ rằng ca đó không hẳn đã có gì mờ ám - trẻ con chết khi đang ngủ là chuyện thường xảy ra. Nhưng chắc ca ấy khiến cho ông phải suy nghĩ phải không?
Tôi gật đầu:
- Khi tôi nghe về vụ hạ đường huyết, điều đầu tiên tôi nghĩ tới là con bé đã bị đầu độc insulin. Nhưng Stephanie nói rằng không có dấu vết tiêm mới nào trên cơ thể con bé.
Ông ta nhún vai:
- Có thể là có đấy. Tôi không hề khám xét cơ thể con bé kỹ càng. Nhưng đúng là có nhiều cách để tiêm mà ít để lộ dấu vết, đó là sử dụng kim tiêm thật nhỏ - loại kim tiêm dành cho trẻ sơ sinh. Tiếp đó, chọn một nơi người ta dễ bỏ qua, chẳng hạn như khe bẹn, khúc gấp của đầu gối, kẽ chân, da đầu... Những bệnh nhân dùng ma tuý của tôi luôn sáng tạo ra cách tiêm mà không có dấu vết lộ ra ngoài. Ngoài ra, insulin nhanh ngấm vào da. Một vết tiêm nhỏ như thế thì sẽ liền dấu rất nhanh.
- Phải chăng ông nghi ngờ Stephanie?
Ông ta gật đầu:
- Đúng vậy, nhưng bà ta còn đang tìm kiếm cái gì đó rất khó hiểu. Nói thật nhé, tôi không hề có cảm giác bà ấy muốn nghe điều này đâu. Với tôi, chuyện này có nói với bà ta thì cũng chẳng sao cả. Tôi sắp không phải dính tới vụ này nữa. Tôi bỏ việc. Thế thôi.
- Ông bỏ bệnh viện sao?
- Đúng vậy. Một tháng nữa, sau đó tôi sẽ được tới nơi yên tĩnh hơn. Tôi cần thời gian để hoàn tất các ca bệnh còn lại. Chuyện sắp tồi tệ đến nơi rồi - có nhiều gia đình đang vô cùng tức giận. Vì thế tôi thật sự không muốn dính vào chuyện của nhà Chuck Jones khi mà tôi cũng không chẳng thể giúp gì được trong chuyện này.
- Phải chăng vì đây là chuyện gia đình của ông ta?
Ông lắc đầu.
- Có thể cho là như thế, nhưng chuyện này chính trị, chính em lắm. Tuy nhiên, bản thân ca bệnh này làm tôi thấy khó xử chứ không phải gia đình ông ấy. Con bé có thể là cháu gái của bất kỳ ai đi nữa thì chúng ta cũng đành bó tay vì không hề có dữ liệu nào rõ ràng cả. Hãy cứ để ý mà xem. Ông cũng biết có chuyện gì đang xảy ra. Tôi cũng biết. Stephanie cũng từng biết cho tới khi bà ấy gặp phải vụ hạ đường huyết. Nhưng biết thì có giải quyết được gì đâu, bởi vì chúng ta không thể làm gì được cả. Đó là điều tôi ghét nhất về cách cha mẹ xử tệ với con cái - nếu cha mẹ bị kết tội thì họ sẽ tìm tới bác sĩ khác. Và ngay cả khi ông chứng minh được điều gì đó thì ông cũng dính vào một đống luật sư, rồi giấy tờ, rồi nhiều năm ra toà khiến cho uy tín của chúng ta ra bã. Còn đây quả là vụ án thối nát nhất mà ngay cả ông cũng không thể làm gì được.
- Nghe như ông từng có kinh nghiệm ấy.
- Vợ tôi là công chức xã hội của tỉnh. Hệ thống đó đã quá tải rồi, ngay cả trẻ em bị gãy xương giờ cũng không được ưu tiên nữa. Nhưng giờ ở đâu mà chẳng thể - tôi từng có một ca ở Texas, một đứa trẻ bị bệnh đái đường. Người mẹ không cho nó dùng insulin và chúng tôi phải cố gắng lắm mới giữ được an toàn cho đứa bé đó. Mà mẹ nó lại là y tá nữa chứ. Y tá đỉnh nữa đấy.
- Lại nói về y tá - Tôi nói - ông nghĩ thế nào về y tá chính của Cassie?
- Ai vậy nhỉ? - À bà Vicki chứ gì. Tôi nghĩ bà ấy quả là người tận tuỵ hết sức, làm rất tốt công việc của mình - Đôi mắt cụp của ông ta nhướng lên - Mà, ôi chao, tôi không bao giờ nghĩ tới điều đó lâu. Bởi vì dường như nó khá vô lý. Nếu không có vụ co giật gần đây nhất thì chuyện toàn bắt đầu ở nhà họ thôi, phải vậy không?
- Vicki có tới gia đình họ, nhưng chỉ hai lần. Đúng là không đủ để gây hại gì.
- Ngoài ra - Ông ta nói - bệnh Munchausen thường là do những người mẹ phải không? Và người mẹ này thật là kỳ lạ - ít nhất thì trong ý nghĩ vô giáo dục của tôi.
- Nghĩa là sao?
- Tôi cũng không biết nữa. Bà ta đúng là quá tử tế. Nhất là trong những lần khám xét vụng về của chúng tôi với con bé. Tôi đã mất hết cả bình tĩnh, quát tháo ỏm tỏi. Nhưng lúc nào bà ta cũng nở nụ cười. Với tôi, bà ta cười hơi nhiều. Lúc nào cũng "chào bác sĩ, ông khoẻ không". Tôi chưa bao giờ tin tưởng những người cười nhiều, ông ạ. Một trong những người vợ cũ của tôi cũng là người cười nhiều. Những cái răng trắng luôn che giấu điều gì đó - ông có thể biết rất rõ về mặt tâm lý của hành động cười đó rồi đúng không?
Tôi nhún vai và nói:
- Thật là một thế giới hoàn hảo.
Ông ta phá lên cười:
- Ông thật là người biết đùa.
Tôi hỏi tiếp:
- Thế ông có ấn tượng nào về người bố không?
- Tôi đã bao giờ gặp ông ta đâu. Mà tại sao chứ? Hay ông ta cũng là người kỳ quái?
- Tôi không nhớ rằng ông ta có gì kỳ quái. Có điều ông ta là người mà ông sẽ cho rằng không phải là con trai của Chuck Jones. Râu quai nón, lại còn đeo khuyên tai. Dường như ông ta không hề thích bệnh viện chút nào.
- Thì chí ít ông ta và Chuck cũng có điều gì đó chung... Theo tôi hiểu, ca bệnh này đúng là một thất bại, và tôi đã chán ngấy sự thất bại lắm rồi. Đó là lý do tôi giới thiệu ông. Còn bây giờ, ông lại nói với tôi rằng ông cũng tuyệt vọng. Thật tồi tệ quá.
Ông ta cầm cái búa lên, tung lên rồi lại bắt lấy, cuối cùng gõ cái búa lên mặt bàn.
Tôi nói:
- Thế tình trạng hạ đường huyết có giải thích được biểu hiện nào trước đó của Cassie không?
- Có thể giải thích được hiện tượng đi ngoài phân lỏng. Nhưng con bé còn bị sốt nữa, vì vậy có lẽ hiện tượng ấy lại do vi khuẩn gây ra. Còn về vấn đề khó thở thì hạ đường huyết cũng có thể liên quan. Một khi đã có sự trục trặc xảy ra với hệ trao đổi chất thì điều gì cũng có thể xảy ra.
Ông ta cầm ống nghe lên và nhìn vào đồng hồ:
- Bây giờ tôi phải làm việc rồi. Ngoài kia còn có mấy đứa trẻ, đây là lần cuối cùng tôi khám cho chúng đấy.
Tôi đứng dậy và cảm ơn ông ta.
- Cảm ơn tôi vì cái gì? Vì tôi cũng đã tuyệt vọng hẳn với vụ này hả?
Tôi cười:
- Vì chí ít thì cũng có người có cùng cảm giác với tôi.
- Đúng là sự thất vọng của những người làm công tác tư vấn. Ông còn nhớ câu chuyện về con gà trống đạp gà mái vô độ, thường xuyên làm phiền những con gà mái trong chuồng chứ? Nó thường chạy theo lũ gà mái rồi nhảy lên lưng chúng, nhưng hoá ra nó lại làm hại chính mình, phải vậy không? Và chính vì thế nên người nuôi đã thiến nó đi và biến nó thành một "tư vấn viên". Bây giờ, nó chỉ ngồi trên bờ rào, quan sát và tư vấn cho những con gà trống khác. Vậy là ông hiểu người làm công tác tư vấn thường cảm thấy thế nào rồi chứ?
Tôi lại cười. Chúng tôi rời khỏi phòng khám, trở ra phòng đợi. Một y tá tới chỗ Macauley và đưa cho ông ta chồng bệnh án mà không nói thêm câu gì. Cô ta có vẻ rất tức giận khi bỏ đi.
- Xin chào cô em nhé - Ông ta nói, rồi quay sang phía tôi - Tôi là kẻ bị tẩy chay rồi. Mấy tuần tới sẽ là lúc tôi bị trừng phạt.
Ông nhìn vào đám người nhốn nháo ngoài phòng khám, khuôn mặt chó bun của ông trở nên buồn bã.
- Phải chăng ý ông là ông sẽ mở phòng mạch ư?
- Thực ra là cùng mở phòng mạch với một nhóm người. Tại một thị trấn nhỏ ở Colorado, không xa Vail lắm. Mùa đông tôi có thể trượt tuyết, còn mùa hè thì đi câu cá, phần còn lại của năm thì tìm tới những thú vui khác để tiêu khiển.
- Thế thì cũng không tồi đâu.
- Tất nhiên là vậy. Trong nhóm chúng tôi không ai khác chuyên về nội tiết vậy nên có lẽ tôi lại có dịp hành nghề nhiều hơn.
- Thế ông ở Bệnh viện Nhi đồng miền Tây được bao lâu rồi?
- Hai năm. Đúng ra là một năm và hơn một nửa năm dài nữa.
- Phải chăng ông buồn vì tình hình tài chính của bệnh viện?
- Đó chỉ là một phần của vấn đề chứ không phải tất cả. Khi tới đây, bản thân tôi cũng không phải là người lạc quan vĩnh viễn, thường tự nhủ rằng một bệnh viện ở giữa thành phố sẽ luôn phải vật lộn để đủ ăn. Nhưng thái độ của những người ở đây thực sự đã làm tôi phát ngán.
- Phải chăng là ông muốn nói tới lão già Chuck?
- Và cả những thằng con trai của ông ấy nữa. Bọn họ đang cố gắng biến nơi này thành một công ty và chúng ta phải sản xuất ra những thứ không tên mà họ quan tâm. Điều gây đau đớn nhất chính là đó - sự không hiểu biết của họ. Ngay cả kẻ du mục cũng hiểu thế nào là sự tồi tệ - Ông có hiểu ý tôi nói không?
- Có chứ.
Ông ta cười:
- Đúng ra thì ở đây tôi cũng được trả lương khá hậu hĩnh, còn nhiều hơn mức đáng lẽ tôi nhận được từ chính phủ. Nhưng có lần tôi đã điều trị cho một cậu bé chín tuổi, rất kháu khỉnh. Mẹ thằng bé là người phụ nữ xinh đẹp, có học thức và rất hiểu biết. Thường thì cô ta luôn tươi cười khi gặp tôi, luôn miệng khen ngợi tôi hết lời, nói rằng tôi đúng là bác sĩ do Chúa trời ban xuống. Nhưng lần gần đây nhất cô ta không nói không rằng với tôi. Kiểm tra tình trạng của đứa con cô ta, kết quả rất tốt. Khi tôi hỏi lý do, cô ta nói: "Nơi này có nhiều tiếng đồn xấu lắm, bác sĩ Al ạ". Rồi cô ta nheo mắt như một bà bói. Tôi hỏi ý cô ta là gì, cô ta không giải thích, chỉ chạm vào tay tôi mà nói: "Tôi rất quý bác sĩ, cả Anton cũng thế. Nhưng chúng tôi sẽ không trở lại đây nữa đâu. Có nhiều tai tiếng về nơi này lắm."
Ông ta lấy tay nâng chồng bệnh án như thể đang cân rồi chuyển sang tay kia.
- Có thấy mạo hiểm không?
Tôi nói:
- Có lẽ chúng ta nên hỏi ý kiến bà mẹ đó về trường hợp của Cassie.
Ông cười. Bệnh nhân tiếp tục xếp hàng đi vào mặc dù đã không còn đủ chỗ cho họ nữa. Một số người chào ông ta, ông ta đáp lại bằng những cái nháy mắt.
- Cảm ơn ông vì đã dành thời gian cho tôi.
Ông đáp:
- Rất tiếc là chúng ta không có được cơ hội để làm việc cùng nhau.
- Vậy tôi chúc ông gặp được nhiều may mắn ở Colorado.
- Vâng - Ông đáp - Thế ông có thích trượt tuyết không?
- Không.
- Tôi cũng thế... - Ông ta nhìn trở lại phòng đợi và lắc đầu - Thật là một nơi tồi tệ... Ban đầu, tôi định sẽ là bác sĩ phẫu thuật, nhưng vào năm học thứ hai, tôi mắc chứng đái đường. Biểu hiện thì không có gì nhiều, chỉ thấy sút đi vài kilogam. Tôi không nghĩ mình bị bệnh này vì quá trình ăn uống tôi giữ gìn cẩn thận. Rồi khi tới phòng thí nghiệm giải phẫu xét nghiệm, tôi đã suy sụp khi nghe tin dữ. Lúc đó là trước Giáng sinh. Khi về nhà, gia đình tôi đã cho tôi chén thịt nướng mật ong, không ai đả động gì tới chuyện của tôi. Tôi cũng xông vào chén, quên hết sự đời. Rồi cuối cùng tôi nghĩ đã tới lúc phải quên chuyện làm bác sĩ phẫu thuật và nghĩ tới mọi người. Đó là lý do tại sao nơi này lại quyến rũ tôi - được làm việc với lũ trẻ và gia đình chúng. Nhưng khi đến đây, tất cả những ước mơ của tôi đã tan thành mây khói. Đúng là có những tai tiếng ở nơi này thật. Đến cả người đàn bà lang thang ấy mà còn biết được điều đó ngay khi bước chân vào đây. Với ông thì có vẻ là điên rồ nhưng cô ta quả thật đã nói rất thật những gì tôi nghĩ bấy lâu nay. Đúng là Colorado sẽ rất buồn - nào là hắt hơi, xổ mũi suốt ngày, và ở đây tôi chưa làm đủ thời gian để được nhận lương hưu nên về tài chính thì hai năm làm việc đó coi như bỏ đi. Tuy vậy, chí ít thì tôi cũng không còn phải đậu trên hàng rào để làm tư vấn cho những con gà trống khác. Cúc cu.
Robin gọi vào lúc bảy giờ để thông báo rằng nàng đang trên đường qua chỗ tôi. Khoảng nửa giờ sau nàng đã có mặt ở cửa, mái tóc u sầu bện kiểu Pháp thả xuống làm nổi bật những ngấn cổ đầy ngọt ngào. Nàng đeo đôi khuyên tai màu đen hình giọt nước mắt, chiếc váy bằng vải bông màu phấn hồng ôm lấy mông. Và trên vai nàng là những chiếc túi kiểu Trung Quốc.
Khi chúng tôi bên nhau trên giường ngủ, tiếng Hoa được sử dụng như những lời nói ám hiệu. Trong những ngày quá khứ tươi đẹp, tôi thích được đưa nàng vào phòng ngủ. Những hai năm xa cách lại khiến bản năng trong tôi trỗi dậy. Tôi đón lấy những cái túi cho nàng và đặt chúng lên bàn ăn, hôn nhẹ lên đôi môi nàng.
Nàng dùng một tay ôm lấy tôi, ghì vào gáy tôi rồi hôn thắm thiết.
Khi cả hai đã ngộp thở, nàng nói:
- Em nghĩ thế này là ổn rồi - không cần ra ngoài đâu nhỉ?
- Ngày hôm nay anh đã ở ngoài quá nhiều rồi.
- Em cũng thế. Đưa Stealths tới khách sạn của những cậu nhóc. Chúng muốn em ở lại với chúng.
- Chúng cảm nhận mùi vị của phụ nữ còn tốt hơn cả âm nhạc ấy chứ.
Nàng cười và lại hôn tôi, rồi đẩy tôi ra và thở rất mạnh.
- Thế là đủ với hoóc-môn rồi rồi - Nàng nói - trước hết để em làm nóng căn phòng lên đã nhé và chúng ta sẽ có cuộc picnic ngay bên trong căn nhà này.
Nàng mang thức ăn vào bếp. Tôi chùn lại và quan sát cái cách mà nàng di chuyển. Gần đây, việc được ngắm nàng đi lại không hề làm tôi mệt mỏi và buồn chán.
Chiếc váy của nàng là sự trình diễn thời trang ngọt ngào - trên cầu vai có nhiều tua thuộc da và đăng ten kiểu cổ. Nàng đi giày cao cổ, tiếng giày dội vang trên nền của căn bếp. Hai bím tóc đu đưa mỗi khi nàng bước. Tôi biết rằng mình đang đắm nhìn không chỉ là bím tóc mà cả những thứ khác ở nàng. Mái tóc ấy ngắn hơn của Cindy Jones và có màu nâu vàng thay vì màu đen xám, nhưng lại khiến tôi nghĩ tới bệnh viện.
Nàng cất những chiếc túi vào tủ đựng đồ và bắt đầu nói điều gì đó, và khi nhận ra tôi đã không theo vào bếp, nàng ngoái lại qua vai nói:
- Có chuyện gì thế Alex?
- Không - Tôi dối nàng - đơn giản chỉ là đang chiêm ngưỡng em mà thôi.
Một bàn tay nàng luồn vào mái tóc và tôi nhận thấy nàng đang lo lắng điều gì. Điều đó lại khiến tôi muốn hôn nàng.
Tôi nói:
- Em trông tuyệt quá!
Nàng nhoẻn miệng cười khiến ngực tôi thắt lại và không thể nhượng bộ vòng tay của nàng. Tôi đi vào trong bếp.
Lúc sau, nàng nói âu yếm:
- Quỷ quyệt!
Nàng đang cố kết những sợi lông ngực tôi lại với đôi đũa.
- Anh cho rằng - Tôi nói - em đang chứng tỏ sự tận tình của em với anh bằng việc đan cho anh một chiếc áo len. Chứ không phải biến anh thành một...
Nàng cười.
- Thật là kẻ sành ăn đấy.
- Ngay lúc này, cát ẩm trên món bít tết cũng vẫn tuyệt.
Tôi vuốt ve khuôn mặt nàng.
Đặt đôi đũa xuống chiếc bàn ngay đầu giường, nàng di chuyển sát lại gần hơn. Sườn chúng tôi như dính lại với nhau và tạo nền nhưng âm thanh ướt át. Nàng biến đôi bàn tay mình thành những chiếc tàu lượn và lái chúng trên ngực tôi, vùng da trần nhạy cảm. Lấy tôi làm chỗ dựa cho mình, nàng lại chạm mũi nàng vào mũi tôi, hôn lên cằm tôi. Mái tóc của nàng vẫn bện thành bím. Khi chúng tôi ân ái, tôi thích được cầm lấy bím tóc ấy, luồn ái dây thừng êm ái này vào giữa các ngón tay, và cuối cùng bỏ chúng lại khi tôi không còn kiểm soát được bản thân, bởi tôi sợ sẽ làm đau nàng. Một vài sợi tóc quăn bị tuột ra cù vào mặt tôi. Tôi duỗi thẳng chúng trở lại và rúc vào dưới cằm nàng.
Đầu nàng ngẩng lên. Nàng xoa ngực tôi thêm chút nữa, dừng lại, thăm dò, ngoắc một ngón tay vào một sợi lông ngực và nói: "Hừm".
- Gì vậy em?
- Một cái màu hoa râm - chẳng đẹp tí nào.
- Nhưng đáng kính.
- Đúng thế Alex, nó nghĩa là anh đang trưởng thành.
- Gì đây, uyển ngữ của ngày hôm nay sao?
- Sự thật là, thưa bác sĩ, thời gian không công bằng giữa hai giới tính - Phụ nữ thì bị tàn phá còn đàn ông thì lại càng chín muồi. Thậm chí đàn ông không phải khi trẻ ai cũng khôn ngoan để chủ tâm có được viên đạn thứ hai nếu họ không để chúng ra đi hoàn toàn nhằm tạo giống. Có thể làm sáng tỏ điều này bắt đầu từ những người giống như anh, người đáng kính trọng của em.
Tôi bắt đầu thấy phấn khích.
- Em nói nghiêm túc đấy Alex. Anh có lẽ sẽ có tất cả sự sành sỏi và trí thông minh - như là anh biết hết mọi thứ trên đời vậy.
- Em quảng cáo anh đấy à?
Nàng kiểm tra từng thái dương của tôi, xoay đầu tôi một cách nhẹ nhàng bằng những ngón tay khoẻ mạnh và lùa chúng vào mái tóc tôi.
- Đây là nơi lý tưởng để khởi đầu cho việc nhuộm tóc - Nàng nói với ngữ điệu của một cô giáo - Anh cũng có chỉ số thông minh cao đấy. Hừm, không, em chẳng thấy cái nào cả ngoài một anh chàng nhỏ bé, ở đây.
Đặt một móng tay lên bộ lông ngực, nàng lại chải nhẹ qua cả núm vú của tôi.
- Quá tệ, anh vẫn chỉ là cậu thanh niên non nớt mà thôi.
- Này, cô bé, hai ta cùng tham gia nhé.
Nàng cúi đầu ngược xuống và mỗi lúc một thấp hơn.
- Ồ! Cũng có vài điều phải nói cho cậu con trai non nớt đấy - Nàng nói.
Chúng tôi vào phòng khách và nghe vài băng nhạc mà nàng mang theo, bản Warren Zevon mới như đang mang ánh sáng vào cuộc đời chúng tôi - nó như thể cuốn tiểu thuyết thu nhỏ. Một thần đồng âm nhạc ở bang Texas tên là Eric Johnson đã chuyển soạn bản nhạc này cho đàn ghi ta, nó khiến tôi muốn đốt hết những nhạc cụ của mình đi. Một phụ nữ trẻ tên Lucinda Williams với chất giọng mượt mà điêu luyện và ca khúc trữ tình được cô thể hiện bằng cả tâm hồn mình.
Robin cuộn mình gọn gàng trong lòng tôi, đầu nàng đặt lên ngực tôi, và thở nhè nhẹ.
Khi bản nhạc kết thúc nàng nói:
- Mọi thứ thật tuyệt phải không anh?
- Đúng thế. Nhưng sao vậy em?
- Anh như thể hơi mất trí vậy!
- Không có nghĩa là thật - Tôi nói và băn khoăn không hiểu tại sao nàng lại nói thế.
Nàng đứng dậy và gỡ bím tóc ra. Khi đã gỡ xong, nàng nói:
- Anh có tâm sự gì sao?
- Thật ra không có gì - Tôi nói - Chỉ là công việc thôi mà - một trường hợp khó nhai. Có lẽ anh đã để việc đó chiếm quá nhiều thời gian.
Tôi mong nàng gác lại chuyện ấy và nàng nói với một chút tiếc rẻ:
- Bí mật, phải không?
- Bí mật hạn chế - Tôi nói - Anh là bác sĩ tư vấn và điều này có thể liên quan tới cả hệ thống toà án xét xử.
- Ồ. Thật là tình huống hay.
Nàng vuốt ve khuôn mặt. Và chờ đợi.
Tôi kể cho nàng nghe câu chuyện của Cassie Jones, người đã để lại những cái tên và những đặc điểm nhận dạng.
Khi tôi kết thúc câu chuyện, nàng hỏi:
- Không làm được gì sao?
- Anh sẵn sàng nghe gợi ý - Tôi nói - Milo giúp anh tìm hiểu thông tin cần thiết từ bố mẹ và y tá, và anh đang cố gắng hết sức để có thể dò tìm được tất cả bọn họ. Vấn đề ở đây là, không có manh mối nhỏ thực tế nào cả, chỉ là lập luận, và lập luận thì không có giá trị gì nhiều lắm về phương diện pháp ý. Chỉ một điều mờ mịt, xa xôi là người mẹ nói dối anh về việc chị ta là nạn nhân của một đại dịch cúm khi còn ở trong quân ngũ. Anh đã gọi điện để xác thực thông tin và cuối cùng phát hiện ra ở đó chưa từng có đại dịch nào hết.
- Tại sao chị ta lại nói dối?
- Lý do thực sự là chị ta bị đuổi, vì thế có thể chị ta muốn giấu giếm điều gì đó. Hoặc nếu chị ta là bệnh nhân Munchausen, do vậy mà chị ta chỉ thích nói dối.
- Thật ghê tởm - Nàng nói - Làm sao mà người ta lại có thể làm điều ấy với máu mủ ruột rà của mình cơ chứ. Với bất kỳ đứa trẻ nào đó... Nó sẽ cảm thấy ra sao nếu phải trở lại bệnh viện?
- Thực tế là hơi buồn. Giống như gặp người bạn cũ mà anh ta cũng đang tuột dốc. Nơi đó có vẻ u sầu buồn bã, tiền thì thiếu mà quân thì đi hết - em có nhớ Raoul Melendez-Lynch không?
- Chuyên gia về ung thư chứ gì?
- Ừ, anh ta say mê bệnh viện. Anh đã được chứng kiến anh ấy liên tục bị khủng hoảng, buồn phiền. Thậm chí là ngay cả khi anh ta đi rồi - kiếm công việc khác ở Florida. Toàn các nhà vật lý có thâm niên dường như cũng đã bỏ đi. Những khuôn mặt mà anh gặp ở nơi làm việc đều mới cả, và còn trẻ nữa. Hay là anh đang về già.
- Trưởng thành - Nàng nói - Nhắc lại theo em: trưởng thành.
- Anh cứ nghĩ mình là chàng trai non nớt đấy.
- Trưởng thành và chàng trai non nớt. Điều bí mật về sức quyến rũ của anh.
- Hơn tất cả là, những vấn đề tội phạm đường phố ngày càng lộ rõ hơn. Y tá thì bị đánh đập và ăn cướp... Cách đây hai đêm đã xảy ra một vụ giết người ở bãi đỗ xe, nạn nhân là một bác sĩ.
- Em hiểu. Em có nghe tin này qua đài. Không biết có phải vì anh đang quay trở lại đó làm việc mà em cảm thấy bứt rứt không yên.
- Anh ở đó vào đêm vụ việc xảy ra.
Những ngón tay của nàng đan vào tay tôi, sau đó buông ra.
- Thế là ổn rồi, giờ em đã thấy yên tâm... Nhưng anh vẫn phải cẩn thận đấy, đồng ý với em như thế nhé? Như thể lời nói của em tạo ra một sự khác biệt.
- Ừ, anh hứa.
Nàng thở dài và dựa đầu vài vai tôi. Chúng tôi ngồi lặng im.
- Anh sẽ cẩn trọng - Tôi hứa với nàng - Anh hiểu điều đó mà. Những người đàn ông trưởng thành không có khả năng liều lĩnh.
- Được rồi - Nàng nói.
Một lúc sau:
- Vì thế mà đó là lý do anh buồn. Em nghĩ có thể là do em.
- Em ư? Sao lại thế?
Nàng nhún vai:
- Những thay đổi - mọi thứ đều có thể diễn ra.
- Không đời nào - Tôi nói - Em là điểm sáng của cuộc đời anh.
Nàng sát lại gần hơn và để yên một bàn tay lên ngực tôi.
- Anh từng nói - bệnh viện là nơi u buồn có phải không? Em vẫn luôn nghĩ về bệnh viện theo cách ấy.
- Bệnh viện Nhi đồng miền Tây thì khác, Rob ạ. Nó cần cho sự sống. Mọi thứ hoà hợp với nhau giống như cơ thể tuyệt vời này vậy.
- Em chắc Bệnh viện Nhi đồng miền Tây là như vậy, Alex ạ - Nàng nói êm ái - Nhưng bất kể cho nó là một bệnh viện cần cho sự sống như thế nào hay chu đáo ra sao thì nó vẫn luôn sẽ là nơi của cái chết, phải thế không? Mỗi khi nói tới từ "bệnh viện", điều xuất hiện trong đầu em là bố. Bố nằm ở đó, toàn bộ cơ thể ông bị gắn ống, kim tiêm và bất lực. Mẹ gào lên gọi y tá mỗi khi ông rên la vì đau đớn, nhưng không ai thực sự quan tâm cả... Thực tế là bệnh viện của anh chữa trị cho lũ trẻ, em nghĩ nó còn tồi tệ hơn bởi vì còn gì tồi tệ hơn khi lũ trẻ phải trải qua những cơn đau đớn? Em không thể hiểu được làm sao anh lại có thể ở đó lâu đến thế.
- Hãy tạo cho mình cái vỏ bọc vững chắc đi - Tôi nói - Chỉ nên để tình cảm xen vào công việc đủ để em có ích cho bệnh nhân. Giống như việc quảng cáo kem đánh răng vậy. Tạo ra cái vỏ bọc vô hình.
- Có thể điều đó thực sự đang làm phiền anh, quay trở lại vấn đề này nhé, sau vài năm nữa cái vỏ bọc của anh, không còn nữa.
- Có thể là em đúng - Tôi tỏ vẻ cau có.
- Vâng, em hơi tâm thần đấy - Nàng nói.
- Không, không. Nói về chuyện đó thì thật là tuyệt đấy chứ.
Nàng lại rúc vào tôi.
- Điều anh nói thật ngọt ngào, điều đó liệu đúng hay không. Và em rất vui vì anh đã nói cho em những suy nghĩ của anh. Anh thường chẳng bao giờ nói nhiều về công việc của mình cả. Mấy lần em đã thử gợi chuyện, anh lại chuyển chủ đề ngay. Vì vậy có thể nói là anh không thấy thoải mái khi nói về công việc của mình và em có bao giờ ép anh nói ra đâu. Em hiểu một phần công việc của anh là bí mật, nhưng em thực sự không muốn đi sâu vào chi tiết, Alex ạ. Em chỉ muốn biết anh đang phải chịu đựng những gì để em có thể chăm sóc cho anh. Em đoán là anh đang bảo vệ em.
- Có thể là anh phải chịu đựng - Tôi nói - Nhưng nói ra sự thật, thực sự anh chẳng bao giờ biết em muốn nghe.
- Tại sao lại như thế?
- Em như thể luôn hứng thú hơn với - anh có thể nói như thế nào nhỉ - với những góc và mặt phẳng.
Nàng khẽ cười.
- Vâng, anh nói đúng. Em chưa bao giờ cảm thấy tự ái cả. Thực tế là, lần đầu tiên chúng ta gặp nhau, một điều mà em không chắc là em thích về anh lại là anh là bác sĩ tâm lý. Không phải điều đó đã cản trở em theo đuổi anh, nhưng nó khiến em ngạc nhiên - Em lại bị một bác sĩ tâm thần mê hoặc. Em không biết tí gì về tâm lý cả, thậm chí em còn chẳng tham dự khoá học nào về nó trong trường đại học. Có thể là bởi vì cha em. Ông luôn chỉ trích các chuyên gia về tâm thần học điên khùng, những ông bác sĩ không thẳng thắn. Tiếp đến là vè ai đó không làm việc bằng đôi tay của mình thì không thể là người thẳng thắn thật thà. Nhưng khi em biết anh và chứng kiến anh đã nghiêm túc thế nào với công việc của mình, em mới thấy thư thái. Em đã cố gắng học - thậm chí em còn đọc một vài cuốn sách về tâm lý, anh có biết không?
Tôi lắc đầu.
Nàng mỉm cười.
- Ban đêm, em thường lẻn vào trong thư viện trong khi anh đang ngủ. Cuốn sách về những kế hoạch tăng cường. Lý luận nhận thức đó là những thứ lạ lẫm tuyệt vời cho một người đốn gỗ như em.
- Thế mà anh chẳng biết gì cả - Tôi nói giọng kinh ngạc.
Nàng nhún vai:
- Em chẳng biết tại sao. Không phải là em đang cố gắng để trở thành chuyên gia hay một cái gì đó. Chỉ đơn giản là em muốn gần anh hơn. Chắc là em đã không gửi đi một thông điệp rõ ràng... không đủ cảm thông. Em nghĩ là, hy vọng chúng ta có thể tiếp tục theo cách này. Hãy để cho chúng ta có thể hoà hợp với nhau hơn một chút.
- Chắc chắn là thế rồi - Tôi nói với nàng - Anh chẳng nghĩ là em không cảm thông, mà chỉ là...
- Lo lắng? Tự kỷ ám thị phải không?
Nàng ngước nhìn tôi với nụ cười như muốn đốt cháy lồng ngực tôi, để lộ những chiếc răng hàm trên trắng bóng. Tôi thích liếm vào những cái răng ấy.
- Tập trung cao độ -Tôi nói - Em là một trong những người có óc sáng tạo nghệ thuật. Cần tới sự tập trung cảm xúc mạnh.
- Tập trung cao độ à?
- Chính xác là thế đấy.
Nàng cười vang:
- Chúng mình thực ra là có một thứ chung đấy, bác sĩ Delaware của em ạ. Có lẽ đó là một chất hoá học - chất pheromones hay là chất gì đó.
- Đúng, đúng em ạ.
Nàng tựa đầu vào ngực tôi. Tôi vuốt mái tóc nàng và nghĩ về việc nàng vào trong thư viện đọc những cuốn sách của tôi.
- Chúng mình có thể thử lại không? - Tôi hỏi - Em sẽ trở lại phải không?
Nàng trở nên căng thẳng:
- Vâng - Nàng nói - Chúa ơi, vâng.
Nàng đứng lên, hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt tôi và hôn. Nàng trườn lên tôi, cưỡi lên tôi, cánh tay nàng quàng xuống qua vai tôi, ghì chặt.
Tôi đưa tay qua lưng và ôm lấy hông nàng. Tôi nâng mình lên trên nàng. Chúng tôi lại hợp nhất với nhau, cuốn lấy nhau, yên tĩnh và mải mê.
Sau đấy nàng ngả mình nghỉ ngơi. Tôi cũng phải thở dốc một lúc.
Tôi xoay người sang bên và ôm lấy nàng. Nàng ép bụng nàng vào bụng tôi, gắn chặt vào tôi.
Chúng tôi bên nhau một lúc. Khi nàng bắt đầu trở nên bồn chồn, nàng vẫn luôn như thế, và bắt đầu rời đi. Tôi không để nàng đi.
Robin ở lại đêm đó, và như thường lệ, nàng dậy sớm. Điều không giống như mọi khi đó là nàng dành một giờ nữa để uống cà phê và đọc báo. Nàng ngồi bên tôi ở bàn, một bàn tay đặt trên gối tôi, hoàn thành phần còn lại của bức vẽ trong khi tôi đọc lướt qua mục tỉ số thể thao. Sau đó, chúng tôi lại chỗ cái ao và ném những mẩu bánh mỳ nho nhỏ cho cá ăn. Hơi ấm mùa xuân đến sớm, bao phủ lên luồng gió biển và không khí có vẻ như là của một kỳ nghỉ hè vậy.
Thứ bảy, nhưng tôi lại cảm thấy muốn làm việc.
Nàng vẫn bên tôi. Chúng tôi gần nhau rất nhiều nhưng dấu hiệu bồn chồn của nàng bắt đầu xuất hiện: cơ uốn éo, thỉnh thoảng liếc nhìn, đối thoại ngập ngừng, đứt quãng - điều mà chỉ người yêu hay người mắc bệnh hoang tưởng mới nhận thấy.
Tôi nói với nàng:
- Em bận hay có kế hoạch gì à?
- Em đang dở chút việc. Thế còn anh?
- Anh cũng thế. Ngày hôm nay anh có ý định tới bệnh viện.
Nàng gật đầu, choàng hai cánh tay quanh eo tôi, và chúng tôi ôm lấy nhau, đi bộ vào nhà. Sau khi nàng lấy ví, chúng tôi đi tới bãi đỗ xe.
Một chiếc xe tải mới được để cạnh chiếc Seville. Chiếc xe tải Chevy màu xanh da trời của hãng Royal có một sọc trắng dọc thành xe. Phiếu đăng kiểm dán ở trên tấm kính chắn gió.
- Tuyệt đẹp - Tôi thốt lên - Em có nó khi nào vậy?
- Hôm qua. Chiếc Toyota động cơ bị hỏng nặng và em ước tính là mình đã đi được khoảng một, hai nghìn kilômét, nên em đã tự đối đãi tốt với bản thân đấy.
Tôi cùng Robin thả bộ tới chiếc xe tải.
Robin nói:
- Nếu bố còn sống chắc ông sẽ thích nó. Ông luôn ưa thích chiếc Chevy - cho dù nó không có nhiều công dụng lắm. Khi lái chiếc xe khác, thỉnh thoảng em có cảm giác bố đang nhìn qua vai em, quắc mắt và kể câu chuyện Iwo Jima.
Nàng vào xe, để cái túi xách lên chiếc ghế của khách và thò mặt ra cửa sổ để hôn tôi.
- Tuyệt - Nàng nói - Hãy sớm làm lại việc ấy nhé, anh yêu. Nhắc lại xem tên anh là gì? Flix phải không? Hay Ajax?
- Mr.Clean.
- Thật ra là thế nào - Nàng nói, cười vang và lái chiếc xe đi.
Tôi nhắn tin cho Stephanie, và nhân viên tổng đài đáp rằng bác sĩ Eves sẽ gọi lại. Tôi chờ máy, lôi ra cuốn Thomas Guide (Thomas hướng dẫn), và xác định địa chỉ của Dawn Herbert trên phố Lindblade. Tôi vừa mới xác định xong địa chỉ thì điện thoại reo.
- Steph đấy hả?
- Không, Milo đây. Tôi có cắt ngang gì không đấy?
- Chỉ là tôi đang đợi một cuộc gọi lại từ bệnh viện thôi.
-Và tất nhiên anh không có được cuộc gọi mong đợi rồi.
- Tất nhiên là thế.
Milo khịt mũi một tiếng dài như tiếng khịt của ngựa, lại bị loa của của điện thoại khuếch đại thành ra nghe như tiếng sấm.
- Thế anh đã thay cái đèn dầu bằng chiếc đèn điện của Edison chưa?
- Nếu Chúa đã muốn con người có điện, thì ngài sẽ đưa cho chúng ta những bình ắc quy.
Anh cười hô hố:
- Tôi đang ở Trung tâm. Gọi cho tôi ngay khi anh kết thúc cuộc gọi với Steph.
Anh ta gác máy. Tôi đợi thêm mười phút nữa thì Stephanie mới gọi tới.
- Chào Alex - Cô hỏi - Có việc gì thế?
- Tôi đang hỏi cô câu ấy đây.
- Có gì to tát đâu. Tôi gặp cô bé cách đây khoảng một giờ - Nó đang cảm thấy khá hơn rồi - tỉnh táo, cảnh giác và thét lên khi thấy tôi.
- Có tin gì mới về sự hạ đường huyết không?
- Người ta nói là không có vấn đề gì liên quan tới sự trao đổi chất cả, tuyến tuỵ của cô bé cũng đã được kiểm tra kỹ - hoàn toàn chẳng có vấn đề gì cả - và thế là mọi người lại quay sang kết luận là chứng Munchausen, vậy là có lẽ tôi phải quay lại từ đầu mất thôi.
- Cô dự định giữ con bé lai bao lâu?
- Hai hoặc ba ngày gì đó, sau đó sẽ để cô bé về nhà, nếu không có chuyện gì xảy ra. Tôi hiểu rằng thật nguy hiểm khi để cô bé đi, nhưng tôi có thể làm gì được đây, chuyển bệnh viện thành nhà nuôi dưỡng cô bé hay sao? Hay anh có gợi ý gì không?
- Không.
- Anh biết không, tôi thực sự nghĩ rằng đó chính là do vấn đề về trao đổi chất.
- Đừng tự gồng mình lên thế. Đó là một ca điên khùng. Thế còn Cindy và Chip thì phản ứng thế nào về cái nguyên nhân chưa xác định được chắc chắn này?
- Tôi chỉ trông thấy Cindy thôi. Vẫn cam chịu âm thầm như thường lệ.
Nhớ lại lời bình phẩm của Al Macauley, tôi hỏi Steph:
- Có thấy nụ cười nào không?
- Cười á? Không. Ồ, anh muốn nói tới sự rộng lượng mà chị ấy thỉnh thoảng vẫn thể hiện ấy à? Không. Không phải sáng nay. Alex, tôi phát ốm lên về trường hợp này rồi, để cho cô bé về thì khác nào kết án tử hình nó?
Chẳng biết an ủi thế nào tôi đành nói:
- Thì ít nhất để Cassie về nhà sẽ cho tôi cơ hội tới nhà thăm cô bé.
- Trong khi anh ở đấy, tại sao không thử tìm kiếm chút manh mối gì đó?
- Ví dụ xem nào?
- Những cây kim ở trong ngăn kéo tủ, thuốc insulin trong tủ lạnh. Tôi đang nói đùa ư - không, thực ra tôi chỉ nói đùa một nửa thôi. Tôi đang sắp phải đối mặt với Cindy đấy, hãy khiến cho gia đình Chips phải chịu thua. Lần sau nếu cô bé lại ốm, tôi có thể sẽ làm thế, và nếu họ phát khùng lên và tới nơi khác chữa, ít nhất thì tôi cũng sẽ biết rằng tôi đã làm mọi điều có thể - Ồ tiếc quá, tôi có tin nhắn, tôi phải đi đây Alex anh. Gọi lại cho tôi khi anh biết thêm điều gì đó, được không?
Tôi điện thoại lại cho Milo:
- Làm việc cả những ngày cuối tuần à?
- Tôi đã có cuộc trao đổi với Charlie. Vào những ngày thứ bảy thì tôi sẽ trực để kiếm thêm công việc ngoài giờ. Thế Steph thì sao rồi?
- Không phải bệnh về thể chất, lại bị quy về chứng Munchausen. Chẳng ai tìm ra lý do về thể chất nào cho việc giảm lượng đường huyết cả.
- Tệ thật. Trong khi chờ đợi, tôi đã có được vài thông tin về Reggie Bottomley, cậu quý tử hư hỏng của bà y tá. Cậu ta chết khoảng hai năm nay rồi. Vì lý do nào đó mà tên của cậu ta không có trong hồ sơ lưu trữ về bệnh án. Có thể là tự sát.
- Sự thể là thế nào?
- Cậu ta vào buồng tắm, cởi quần áo, ngồi xuống bệ xí, hút thuốc phiện, thủ dâm. Sau đó thì dùng súng bắn nát đầu. Thật ghê tởm quá. Một nữ thám tử - tên là Tujunga, thực ra tên là Dunn - nói Vicki ở nhà khi việc đó xảy ra, đang xem tivi ở phòng bên.
- Trời đất!
- Ừ. Cả hai bọn họ đã lời qua tiếng lại với nhau về lối sống buông thả của Reggie và thằng bé phát khùng lên, nó lôi đồ nghề trong tủ quần áo ra và cả súng nữa, khoá trái cửa, nhốt mình trong nhà xí, và nổ sung. Bà mẹ nghe thấy tiếng súng, nhưng không thể vào mở được cửa, bà ta cố gắng dùng một cái rìu và bất lực. Người ta thấy bà ta ngồi trên nền nhà, khóc, gào lên thuyết phục thằng bẻ anh ngoài. Người ta phá cửa và khi trông thấy sự việc đau lòng đó, họ đã cố gắng ngăn không cho bà mẹ trông thấy. Nhưng bà ấy đã nhìn thấy rồi. Sự kiện đó có thể giải thích về sự trầm tĩnh của bà mẹ.
- Có điều gì đó cần xem xét kỹ. Có điều gì về lịch sử gia đình dẫn tới vụ tự sát này không?
- Dunn nói trước đó chẳng có sự xúc phạm trẻ em nào cả - Cô ấy thấy về cơ bản đó là người mẹ tuyệt vời với đứa con hư hỏng, và bà ấy đã dành rất nhiều thời giờ cho Reggie, rất hiểu cậu bé.
- Thế còn người cha thì sao?
- Đã chết khi Reggie còn nhỏ. Tay nghiện rượu nặng, giống như anh đã nói. Ngay sau đó thì Reggie đã gặp rắc rối với cảnh sát, cậu ta sử dụng rồi chuyển sang buôn bán ma tuý. Dunn mô tả cậu ta như một tên ngớ ngẩn, gầy trơ xương, không có khả năng học tập, không thể có được một công việc. Còn là tên tội phạm bất tài - mỗi lần phạm tội hắn đều bị bắt, nhưng trông quá tội nghiệp đến nỗi mà quan toà dễ tính thường xử nhẹ tội cho. Cậu ta không còn hung bạo nữa cho tới gần cái ngày kết liễu cuộc đời - một vụ ẩu đả. Và thậm chí đó chỉ là vụ xô xát trong quán bar thôi. Cậu ta dùng một cây gậy bi-anh đánh vào đầu kẻ kia. Dunn nói rằng Reggie ngày càng trở nên nghiện ngập. Cái chết với hắn chỉ là vấn đề thời gian sớm hay muộn mà thôi. Theo như lời của cô ấy, bà mẹ đã chịu đựng quá lâu rồi, đã gồng mình hết sức rồi. Kết thúc của câu chuyện là thế. Câu chuyện có nói cho anh điều gì về bà mẹ như một đối tượng tình nghi không?
- Không, thật sự là không. Dẫu sao thì cũng xin cảm ơn anh.
- Thế bước tiếp theo là gì?
- Thiếu mọi thứ, tôi cho là nên có cuộc viếng thăm với Dawn Herbert. Tôi đã nói chuyện với vợ của Ashmore hôm qua, và cô ấy nói rằng ông ta thường thuê những sinh viên đã tốt nghiệp đại học. Vì vậy mà có thể Herbert có đủ hiểu biết để hiểu Ashmore đang tìm kiếm cái gì trong biểu đồ của Chad.
- Vợ của Ashmore à? Anh định làm gì thế, chi tiền cho một cuộc gọi buồn chán à?
- Đúng thế. Một phụ nữ tuyệt vời. Ashmore là người bạn khá thú vị.
Tôi kể cho anh về đôi ba lần tới Sudan, về hệ thống sòng bạc của Ashmore và những vụ đầu tư.
- Dùi cui của cảnh sát hả? Ắt hẳn phải rất thú vị.
- Cô ấy bảo ông ta là thiên tài toán học - phù thuỷ máy tính. Đạt đai nâu vài môn võ thuật cổ truyền. Chính xác là ông ta không dễ bị những tên giết người hạ gục đâu.
- Không dễ ư? Tôi biết anh từng học môn võ thuật tuyệt vờ ấy, và tôi không muốn làm anh vỡ mộng, nhưng tôi đã thấy nhiều tay võ sĩ dùng những miếng sắt ở đầu ngón chân. Nó là một thứ được dùng trong môn võ nào đó có tên là dojo, khom lưng, nhảy vòng quanh và gào thét như thể có một cái đinh trong ruột vậy. Nhưng khi trên đường phố thì sự việc lại hoàn toàn khác. Tình cờ tôi đến phòng cảnh sát Hollywood để lấy thông tin về vụ sát hại Ashmore thì họ cho rằng đây là vụ rất khó có khả năng giải quyết được. Hy vọng là bà quả phụ ấy không đặt hết hy vọng vào luật pháp.
- Bà quả phụ ấy vẫn bị luật pháp làm cho mê mẩn.
- Ừ...
- Gì thế?
- Ừ, tôi cũng đã suy nghĩ khá nhiều về vụ của anh - thứ tâm lý của toàn bộ cái gọi là chứng Munchausen - và tôi cho là chúng ta đã bỏ sót một nghi phạm tiềm năng.
- Ai thế?
- Cô bạn thân Steph của anh ấy.
- Stephanie ư? Sao lại thế được?
- Một phụ nữ có kiến thức về y học, thích quyền lực, muốn trở thành trung tâm của mọi việc.
- Tôi chẳng bao giờ nghĩ cô ấy là trung tâm của việc tìm kiếm đầu mối.
- Không phải anh đã từng nói với tôi rằng cô ta là người có quan điểm cực đoan về quá khứ, về chủ tịch hiệp hội các bác sĩ thực tập nội trú đấy chứ?
- Chính xác là thế, nhưng cô ấy có vẻ như rất chân thành. Một người theo chủ nghĩa duy tâm.
- Có thể. Nhưng hãy xem: cái cách cô ấy chữa trị cho Cassie khiến cô ấy trở thành nhân vật trung tâm đáng chú ý, và đứa bé càng ốm yếu thì Stephanie càng là người nổi bật. Và những thay đổi bất thình lình trong việc kết luận bệnh của cô ta - hôm nay là Munchausen, hôm sau lại là các bệnh về tụy, rồi lại trở về Munchausen. Anh bảo thế không điên lên sao được?
Tôi hiểu toàn bộ những sự việc đó.
- Có thể là có lý do nào đó khiến đứa bé nổi khùng lên mỗi khi cô ấy khám cho nó, Alex ạ.
- Nhưng cứ theo logic ấy áp dụng với cô bé như đã áp dụng với Vicki - Tôi nói - Cho đến tận lần nổi đoá cuối cùng này, toàn bộ rắc rối của Cassie bắt đầu từ nhà cô bé. Vậy làm sao mà Stephanie có thể liên quan tới việc này được?
- Thế cô ta từng tới nhà của cô bé chưa?
- Một hai lần gì đó để đặt máy gây ngủ.
- Rồi, cuối cùng việc này là thế nào chứ gì? Rắc rối trước tiên cô bé gặp là bệnh về thanh quản hay đại loại cái gì đó liên quan tới thanh quản. Stephanie chữa trị cho cô bé và thấy rằng vai trò bác sĩ của đứa cháu gái Chủ tịch là một cú hích. Một cuộc du ngoạn quyền lực - Anh đã chẳng nói với tôi rằng cô ấy có ý định trở thành trưởng khoa là gì.
- Nhưng nếu đó là mục đích của cô ta, thì việc chữa trị cho bé Cassie sẽ phải có kết quả tốt hơn mới phải chứ.
- Thế bố mẹ của cô bé không sa thải cô ta chứ?
- Không. Họ nghĩ cô ta thật vĩ đại.
- Anh biết không. Cô ấy khiến bọn họ phải phụ thuộc vào mình, và việc chữa trị qua loa cho Cassie thì tốt cho cả hai. Và chính anh cũng nói cho tôi biết là Cassie phát ốm ngay kh gặp bác sĩ là gì. Điều gì sẽ xảy ra nếu đó là bởi cái cách mà Stephanie đang làm với cô bé - kê thuốc quá liều cho cô bé và trả cô bé về nhà giống như thể một quả bom y học hẹn giờ?
- Cô ấy có thể làm gì được khi mà chính Cindy luôn có mặt trong phòng kiểm tra sức khoẻ?
- Làm sao mà anh biết được chị ta có ở đó không chứ?
- Bởi vì mẹ cô bé chẳng bao giờ để nó lại một mình cả. Vả lại còn có vài bệnh nhân khác và các bác sĩ - những chuyên gia đấy chứ.
- Anh có biết rằng cô ấy cũng chẳng khám cho đứa bé vào cùng một ngày với các chuyên gia khác không?
- Không. Tôi nghĩ là có thể kiểm tra biểu đồ bệnh án bệnh nhân ngoại trú xem có tìm ra điều gì không.
- Nếu như chính cô ta lập bệnh án. Có thể có sự quỷ quyệt trong đó - kiểm tra họng dứa bé và cơ hạ lưỡi của nó bị phủ một lớp gì đó. Bất kể đó là gì thì cũng phải xem xét đúng không?
- Bác sĩ đã gửi con bé về nhà cùng với vài que kẹo mút à? Thật là bậy bạ.
- Còn gì tệ hơn khi chính mẹ con bé đã đầu độc nó? Có lý do để anh nghĩ đó là động cơ trả thù: Cô ta ghét ông con bé bởi những việc mà ông ấy đang làm tại bệnh viện, vì thế mà cô ấy tới chỗ ông ta để chữa trị cho Cassie.
- Nghe ra thì anh có nhiều ý tưởng đấy.
- Chính những ý nghĩ điên rồ ấy đã giúp tôi kiếm ra tiền đấy, Alex ạ. Thực ra, tôi đến là để nói chuyện với Rick. Anh ta đã nghe được thông tin về căn bệnh Munchausen - loại ở người lớn. Anh ta nói rằng các y tá và bác sĩ có xu hướng mắc các triệu chứng Munchausen. Họ thường kê sai đơn thuốc, tất nhiên không phải ngẫu nhiên, sau đó lại là những anh hùng lao vào phòng cấp cứu - giống như người mắc chứng cuồng phóng hoả vậy.
- Chip đã kể về việc đó - Tôi nói - Những lỗi sai về thuốc thang, tính nhầm liều dùng. Có thể ông ta cảm thấy điều gì đó về Stephanie mà không phát hiện ra được... Vậy tại sao cô ấy gọi tôi? Để chơi tôi à? Chúng tôi chưa bao giờ làm việc gần nha. Tôi không có ý định nói rằng cô ta có vấn đề lớn về tâm lý.
- Gọi anh tới để chứng minh rằng cô ấy đang làm việc thấu đáo. Và anh là nhân chứng tốt - cô ấy sẽ gặp khó khăn thực sự nếu là bệnh nhân Munchausen, bởi làm gì còn có bác sĩ tâm lý nào ở lại nữa.
- Đúng thế, nhưng tôi không hiểu... Stephanie là thế nào cả?
- Chẳng có lý do gì để phải tranh luận về điều đó - chỉ là lý thuyết mà thôi, tôi có thể bóc trần cái lý thuyết ấy.
- Điều này khiến tôi rối tung, nhưng tôi sẽ thử bắt đầu quan sát cô ấy kỹ hơn. Thôi băn khoăn về chuyện ấy đi nhé vì chúng ta làm việc theo nhóm mà.
- Không phải luôn là cái cách đó đấy chứ? Một gã đang đi trên đường một mình.
- Ừ... trong khi chờ đợi điều tra, vấn đề này thì thế nào đây? Chúng tôi vẫn chẳng có tiến triển gì cả bởi đang phải tập trung vào một gã tồi tệ. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu có vụ cấu kết thông đồng nào đó đang diễn ra?
- Ai thế?
- Cindy và Chip là những người đáng nghi trước hết. Một ví dụ điển hình về người chồng bị mắc chứng Munchausen, ông ta được mô tả như một kẻ tiêu cực và không có ý chí. Việc đó không hợp với Chip chút nào cả. Ông ta là gã hiểu biết, thông minh, và kiên định. Vì thế nếu vợ ông ta lạm dụng bé Cassie, thì tại sao ông ta lại không biết? Nhưng cũng có thể là Cindy và Vicki.
- Cái gì? Có gì lãng mạn giữa bọn họ ấy à?
- Hay là chuyện khó hiểu giữa con gái và mẹ. Cindy thấy Vicki giống người dì đã mất của chị ta - một bà y tá cũng khá khó chịu. Và Vicki cũng có một đứa con gái đã chết và muốn có cô con gái thay thế. Có thể là họ có triệu chứng kỳ dị giống nhau. Thật là kinh khủng, có thể Cindy và Stephanie đang cùng nhau thực hiện âm mưu gì đó chăng. Và có thể nó thật hão huyền. Tôi không biết gì về đời tư của Stephanie cả. Trước đây cô ấy dường như sống một mình.
- Cứ như thể anh đang thổi phồng câu chuyện lên đấy, thế còn ông bố và Stephanie thì thế nào?
- Đúng thế. Ông bố và bác sĩ, ông bố và y tá - Vicki chắc hẳn đã hôn Chip nhiều. Y tá và bác sĩ, và các thứ khác kiểu như thế. Có thể là tất cả bọn họ, Milo ạ. Một nhóm người mắc chứng Munchausen - Có thể là một nửa thế giới chết tiệt này mắc chứng tâm thần.
- Một sự ước lượng quá dè dặt đấy.
- Rất có thể.
- Anh cần có một kỳ nghỉ đi, bác sĩ ạ.
- Tôi không thể. Quá nhiều bệnh nhân tâm thần và lại quá ít thời gian. Cảm ơn đã nhắc nhở tôi.
Anh cười:
- Rất vui khi tôi có thể làm anh tươi tỉnh lại. Anh có muốn tôi điều tra Stephanie qua hồ sơ không?
- Có chứ. Miễn sao anh tìm ra được chìa khoá của vấn đề này, tại sao không phải là Ashmore? Một người chết không thể kiện cáo được gì cả.
- Đúng rồi. Còn ai nữa không? Hãy lợi dụng tâm trạng vui vẻ của tôi và các máy móc kỹ thuật ở phòng cảnh sát Los Angeles.
- Thế còn tôi thì sao?
- Bất cứ lúc nào tôi cần. Mấy năm trước tôi đã nghĩ chúng ta có thể trở thành những người bạn rồi...
Tôi lái xe tới Culver, hy vọng Dawn Herbert có ở nhà vào sáng thứ bảy. Xe của tôi băng qua khu chung cư tồi tàn trên con phố Overland nơi mà trước đây tôi và nhưng sinh viên thực tập nội trú làm việc. Cửa hàng bên cạnh vẫn còn đó, nhưng toà nhà của tôi đã bị phá bỏ và thay vào đó là một bãi đỗ xe đã được sử dụng.
Tới Washington Boulevard, tôi lái về hướng Tây, nhằm tới Sepulveda, sau đó tiếp tục lái về hướng Bắc tới một dãy phố chạy ngang qua Culver. Tới cửa hàng cá nhiệt đới với bức họa dải san hô ngầm trên cửa sổ và lái xe xuống dãy phố, tìm địa chỉ mà Milo lấy ra từ hồ sơ lưu trữ.
Khu phố Lindblade là những ngôi nhà gỗ một tầng nhỏ, hình hộp với những mái vòm và bãi cỏ chỉ vừa đủ lớn cho trẻ chơi ô lò cò. Cấu trúc bề ngoài tự do; được sơn màu bơ. Những cây đu xoà bóng xuống đường phố. Hầu hết các ngôi nhà vẫn giữ vẻ gọn gàng ngăn nắp, mặc dù phong cảnh có vẻ như lộn xộn - vườn chim cũ, những cụm hồng khẳng khiu.
Nhà của Dawn Herbert là một hộp màu xanh nhạt, nằm ở góc phố. Một chiếc xe buýt cũ màu nâu hiệu VW đang đỗ ở đường lái xe vào nhà. Những tấm đề can về du lịch chồng chất ở các mép thấp của cửa sổ phía sau. Bức tranh tẻ ngắt màu nâu như thuốc súng.
Một người đàn ông và một phụ nữ đang làm vườn ở phía trước, hộ tống họ là con chó to màu vàng và một con chó lai nhỏ màu đen giống Spaniel (giống con chó lông mượt, tai to cụp).
Hai người chạc tứ tuần. Cả hai đều có nước da xanh xao của người ngồi bàn giấy nhiều. Phần cánh tay trên và vai của họ hơi rám nắng, mái tóc màu nâu nhạt, và họ mang kính không vành. Hai người mang theo nắp thùng đựng nước, mặc quần soóc và đi dép cao su.
Người đàn ông đứng ở chỗ bụi cây cẩm tú cầu, với cái kéo xén cây trong tay. Anh ta xén những búi hoa như mớ lông cừu màu hồng. Người đàn ông gầy gò gân guốc, tóc mai dài kéo xuống tận hàm, và chiếc quần của anh ta được giữ bởi hàng mớ những dây da lòng thòng. Một dải dây quấn quanh đầu anh ta.
Người phụ nữ không mặc áo nịt ngực và khi cúi xuống nhổ cỏ, ngực của cô như thể treo trên ngọn cỏ vậy, hai núm vú màu nâu lộ rõ. Cô có chiều cao của một người đàn ông - khoảng 1 mét 8 hay 1 mét 9. Nhưng có lẽ cô nặng cân hơn người đàn ông, bởi bộ ngực và bắp đùi. Một người trong già hơn so với tuổi.
Khi lái xe tới nơi, tôi nhận thấy hai người bọn họ trông quen quen nhưng không thể lý giải được tại sao.
Tôi xuống xe. Không ai trong bọn họ nhìn lên cả. Con chó bắt đầu sủa, người đàn ông quát:
- Ngòi xuống, Homer - và tiếp tục tỉa hoa.
Khẩu lệnh của ông chủ bảo con chó sủa nhỏ thôi. Nhưng con chó này càng sủa to hơn, con chó tai cụp kia đứng nhìn, sửng sốt. Người phụ ngừng nhổ cỏ và tìm hiểu nguyên nhân tại sao chúng làm ầm ĩ lên như thế.
Cô ta thấy tôi, và nhìn chằm chằm. Tôi ra khỏi xe. Con chó lai nhỏ đứng yên nhưng đầu cúi xuống ra vẻ ngoan ngoãn.
Tôi cất tiếng:
- Này, cu cậu - Rồi cúi xuống vuốt ve con chó.
Người đàn ông hạ kéo xuống. Giờ thì cả bốn bọn họ đều nhìn chằm chặp vào tôi.
- Xin chào - Tôi nói.
Người phụ nữ đứng dậy. Cô ta quá cao so với người đàn ông, mặc dù ông ta cũng rất cao. Khuôn mặt đẫy đà của cô run lên vì xúc động.
- Tôi có thể giúp gì cho ông? - Cô nói. Giọng của cô du dương và chắc chắn là tôi đã nghe giọng nói này rồi. Nhưng ở đâu?
- Tôi đang tìm nhà của Dawn Herbert..
Bọn họ liếc nhìn nhau làm tôi cảm thấy mình như một cảnh sát mật vụ vậy.
- Vậy sao? - Người đàn ông nói – Cô ta không còn sống ở đây nữa.
- Anh có biết cô ấy đang sống ở đâu không?
Họ lại liếc nhìn nhau như trao đổi điều gì. Trông họ có vẻ sợ sệt hơn là đề phòng.
- Không có gì đáng ngại cả - Tôi nói với họ - Tôi là bác sĩ, tới từ Bệnh viện Nhi đồng miền Tây ở Hollywood. Dawn trước đây làm việc ở đó và cô ấy có thể có thông tin về một bệnh nhân quan trọng. Đây là địa chỉ duy nhất của cô ấy mà tôi có thể có được.
Người phụ nữ di chuyển lên trước mặt người đàn ông. Đó như thể là cú di chuyển để tự vệ nhưng tôi không rõ ai là người bảo vệ.
Người đàn ông dùng bàn tay không cầm kéo phủi những cánh hoa khỏi chiếc quần soóc. Cái hàm xương xẩu thô cứng. Mũi anh ta sạm nắng, đầu mũi thô.
- Anh đi tất cả các con phố ở đây chỉ để hỏi thông tin đó sao? - Anh ta hỏi tôi.
- Thật phức tạp - Tôi đáp, trong đầu nhanh chóng dựng ên một câu chuyện có thể tin được - Một ca quan trọng - một đứa bé đang nguy kịch. Dawn kiểm tra bệnh án cho đứa bé ở bên ngoài bệnh viện và rồi không thấy quay trở lại viện nữa. Thường thì tôi phải tới chỗ cấp trên của Dawn. Một bác sĩ tên là Ashmore. Nhưng ông ấy đã mất. Ông ấy bị bóp cổ chết cách đây hai ngày ở bãi đỗ xe - anh có thể đã nghe tin này.
Một cái nhìn mới trên khuôn mặt họ. Một sự sợ hãi và đề phòng. Cái tin ấy khiến họ sửng sốt và họ không biết phải đáp lại thế nào. Cuối cùng họ ngờ vực, hai tay đan vào nhau và nhìn tôi chằm chặp.
Con chó nhỏ có vẻ không thích sự căng thẳng đó. Nó ngoái nhìn ông chủ và bắt đầu rên rỉ.
- Jethro - Người phụ nữ nói, và con chó thôi không rên nữa. Con chó lai đen vểnh tai lên và gầm gừ.
Cô ta nói:
- Yên nào, Homer - Giọng cô nghe như giọng hát ngâm nga.
- Homer và Jethro - Tôi nói - Bọn chúng dùng nhạc khí tự do hay sử dụng sự hỗ trợ?
Không thấy họ mỉm cười. Cuối cùng tôi cũng đã nhớ ra nơi mà tôi đã gặp hai người bọn họ. Năm ngoái, ở cửa hàng của Robin. Khách sửa chữa. Một chiếc guitar và một chiếc mandolin. Chiếc guitar có vẻ bị hỏng nặng. Hai người bọn họ rất gắn bó với nhau, họ có tài nhưng không có nhiều tiền. Họ đưa cho Robin vài đĩa hát mà họ tự sản xuất, một đĩa bánh xốp tự làm, và 75 đồng đôla tiền mặt thay vì phải trả nàng 50 đôla cho công việc nàng đã làm giúp họ. Tôi quan sát vụ giao dịch giữa họ từ buồng ngủ trên gác xép. Sau đó, Robin và tôi đã nghe hai đĩa hát của họ. Đó là các bài hát quần chúng, hầu hết là các điêu ballad và vũ điệu reel, được thể hiện một cách truyền thống và khá hay.
- Hai người là Bobby và Ben đúng không?
Bị tôi nhận ra, mối nghi ngờ của họ tan biến và lại trở nên bối rối.
- Robin Castagna là bạn của tôi - Tôi nói.
- Vậy sao? - Người đàn ông đáp lời tôi.
- Mùa đông năm ngoái cô ấy đã sửa nhạc cụ cho anh chị. Một chiếc trục bị rạn nứt, chiếc thì dây chùng, gập xuống, những phím đàn thì thật tệ và một cái cần đàn bị vỡ có đúng không? Ai đó đã nướng bánh xốp rất ngon.
- Vậy anh là ai? - Người phụ nữ hỏi.
- Thì như tôi đã giới thiệu với anh chị rồi đấy. Gọi cho Robin đi - bây giờ cô ấy đang ở cửa hàng đấy. Hỏi cô ấy về Alex Delaware. Hoặc là nếu anh chị không muốn bị làm phiền, làm ơn hãy nói cho tôi biết tôi có thể tìm Dawn Herbert ở đâu. Tôi không có ý định đến phiền cô ấy mà chỉ muốn lấy lại cái bệnh án thôi.
Họ không trả lời. Người đàn ông ngoắc ngón tay vào sau những dải dây quần.
- Đi gọi điện thoại đi - Người phụ nữ nói với người đàn ông.
Anh ta vào trong nhà. Cô ta ở lại, quan sát tôi, thở sâu, ngực lắc lư. Hai con chó cũng canh chừng tôi. Chẳng ai nói lời nào. Mắt tôi dõi theo những chuyển động từ hướng tây phía cuối dãy phố và bắt gặp một người cắm trại bên ngoài lối cho xe chạy vào nhà và một đống lộn xộn phía Spulveda. Có ai đó ở rìa phố đối diện đang treo lá cờ Mỹ. Bên ngoài, một người đàn ông lớn tuổi ngồi phịch xuống cái ghế ở bãi cỏ. Không chắc lắm nhưng tôi nghĩ ông ta cũng đang quan sát tôi.
Hẳn tôi là gã đẹp trai của thành phố Culver.
Người đàn ông với những dải quần lòng thòng quay trở lại sau vài phút, anh ta mỉm cười như thể vừa chạy tới chỗ đấng cứu thế vậy. Anh ta mang theo cái đĩa màu xanh nhạt đựng những chiếc bánh quy và bánh xốp.
Anh ta gật đầu. Cử chỉ đó và nụ cười của anh ta làm người phụ nữ kia thấy thoải mái hơn. Hai con chó bắt đầu vẫy đuôi.
Tôi đợi ai đó mời nhảy.
- Nào, Bob - Anh ta nói với người phụ nữ - Chàng trai này là bạn thân của cô ấy.
- Thế giới này thật nhỏ bé - Người phụ nữ nói. Cuối cùng thì cô cũng mỉm cười. Tôi nhớ giọng hát của cô trong đĩa, cao và trong, réo rắt và tinh tế. Giọng nói của cô cũng rất tuyệt.
- Cô ấy thật là một phụ nữ tuyệt vời - Cô ta nói như thể vẫn đang kiểm tra tôi - Anh có hay gặp cô ấy không?
- Hàng ngày.
Cô gật đầu, chìa tay ra và nói:
- Tôi là Bobby Murtaugh và đây là Ben. Anh cũng vừa giới thiệu những nhân vật này rồi.
Bọn chó chạy vòng quanh mừng rỡ. Tôi vuốt ve hai con chó và Ben đưa cái đĩa tới. Cả ba chúng tôi lấy bánh xếp ăn. Đó như là nghi lễ của một bộ lạc vậy. Nhưng thậm chí khi đang nhai bánh, trông họ vẫn có vẻ lo lắng.
Bobby ăn xong cái bánh xốp trước tiên, ăn tiếp chiếc bánh quy, sau đó là một cái khác, cô không ngừng nhai. Những mẩu bánh vụn rơi xuống ngực cô. Cô phủi chúng đi và nói:
- Hãy vào trong đi.
Hai con chó theo chúng tôi vào trong bếp. Một lát sau tôi nghe thấy tiếng chúng húp sùm sụp. Căn phòng phía trước có trần nhà phẳng, tối và u buồn. Phòng có mùi hôi của chó, mùi đường và ẩm ướt. Những bức tường màu nâu vàng và sàn nhà gỗ thông đã quá ọp ẹp, những giá sách tự làm không theo kích cỡ khoa học, vài cái hộp đựng nhạc cụ đặt ở nơi đáng lẽ kê bàn uống cà phê. Góc nhà là cái giá để bản nhạc được dựng lên, trên đó là một bản nhạc. Đồ đạc trong nhà cũng đều rất cũ. Trên những bức tường là chiếc đồng hồ kiểu Áo đã ngừng chạy ở hai giờ. Bức áp phích về cây đàn guitar của Martn được lồng vào khung kính, và vài tờ thông cáo tưởng nhớ tới Topanga Fiddle và Banjo Contest.
Ben nói:
- Mời ngồi.
Trước khi tôi kịp ngồi, anh ta nói tiếp:
- Xin lỗi phải nói với anh điều này, anh bạn, Dawn đã chết rồi. Ai đó đã giết cô ấy. Đó là lý do tại sao chúng tôi thấy hoang mang khi anh nhắc tới tên cô ấy, và một tên giết người khác. Tôi rất tiếc.
Anh ta nhìn xuống đĩa bánh xốp và lắc đầu:
- Chúng tôi vẫn không thể nào quên được chuyện này - Bobby nói - Anh có thể ngồi xuống nếu muốn.
Cô ngồi xuống chiếc ghế sô-pha cũ màu xanh. Ben ngồi cạnh cô, giữ cho đĩa bánh thăng bằng trên đầu gối.
Tôi ngồi xuống chiếc ghế thấp có diềm đăng ten và nói:
- Chuyện ấy xảy ra khi nào?
- Cách đây hai tháng - Bobby nói - Tháng Ba, vào một ngày cuối tuần - trung tuần của tháng, mồng mười, tôi nghĩ thế. À không, mồng chín - rồi nhìn Ben.
- Đại loại là như thế - Anh ta nói.
- Em không chắc hôm ấy là mồng chín, anh yêu ạ. Hôm ấy là ngày nghỉ ở Sonoma, anh có nhớ không? Chúng ta chơi nhạc vào ngày mồng chín và trở về Los Angeles ngày mười - anh có nhớ lúc đó đã muộn như thế nào không bởi vì chúng ta gặp trục trặc với chiếc xe tải ở San Simeon? Ít nhất thì đó phải là lúc mà anh ta thông báo chuyện đó - tay cảnh sát ấy. Mồng chín. Đúng là mồng chín.
Anh chồng nói:
- Ừ, em nói đúng.
Cô nhìn tôi:
- Chúng tôi ra khỏi thị trấn đến chơi nhạc cho một lễ hội ở miền Bắc. Chiếc xe gặp trục trặc, chúng tôi bị chôn chân ở đó và không thể quay về cho mãi tới cuối ngày mồng mười. Sáng sớm ngày mười một, thực ra là thế. Có một tấm thẻ của cảnh sát trong hộp thư và một số điện thoại liên lạc. Một thám tử. Chúng tôi không biết phải làm gì và đã không gọi cho anh ta, nhưng anh ta đã gọi lại cho chúng tôi. Anh ta kể cho chúng tôi nghe chuyện gì đó đã xảy ra và hỏi chúng tôi rất nhiều. Chúng tôi chẳng có gì để nói cho anh ta cả. Ngày hôm sau, anh ta và hai người đàn ông nữa tới xem xét kỹ lưỡng ngôi nhà này. Họ lấy được một chứng chỉ và mọi thứ... nhưng họ thì tốt.
- Thế là sao?
- Anh ta - thám tử - nói Dawn là.. - Cô vợ nhắm mắt lại và với lấy một cái bánh quy.
- Theo cảnh sát, đó là một người bị bệnh tâm thần - Ben nói - Anh ta nói rằng cô ấy thật ra là...
Anh ta lắc đầu.
- Thật là ghê tởm - Bobby nói.
- Họ chẳng tìm thấy bất cứ cái gì ở đây cả - Ben nói. Cả hai người run rẩy.
- Khiếp quá - Tôi đế theo
- Vâng, đúng thế - Bobby nói - Dawn khiến chúng tôi sợ hãi - cô ta lại là người mà chúng tôi biết - Cô ta với lấy chiếc bánh khác, mặc dù nửa chiếc kia vẫn ở trong tay.
- Cô ta ở cùng nhà với anh chị?
- Người thuê nhà - Bobby nói. Chúng tôi là chủ ngôi nhà này. - Anh ta nói với vẻ kinh ngạc - Chúng tôi chung nhau một phòng ngủ nhưng thường dùng làm phòng tập, ghi vài cái đĩa hát tại nhà. Sau đó tôi bị mất việc, nên đã quyết định cho thuê căn phòng đó để kiếm thêm chút tiền. Chúng tôi đã dán thông báo ở trường đại học bởi vì chúng tôi cho rằng một sinh viên có thể muốn thuê phòng. Dawn là người đầu tiên gọi tới.
- Việc này xảy ra cách đây bao lâu?
- Tháng Bảy.
Cô vợ ăn cả hai chiếc bánh. Ben đặt bàn tay lên đùi vợ và xiết nhẹ. Miếng phó mát tươi. Cô ta thở dài.
- Lúc nãy anh nói gì nhỉ? - Anh ta hỏi tôi - Về chuyện cái bệnh án ấy mà. Có phải nó chưa được ướp lạnh?
- Người ta đề nghị cô ấy trả lại.
Họ nhìn nhau.
- Cô ấy gặp trục trặc về "nói" phải không? - Tôi hỏi.
- Đúng - Anh ta nói, vẻ không được thoải mái.
- Ban đầu không phải thế - Bobby nói - Lúc đầu cô ấy là một người thuê nhà tuyệt vời - gọn gàng, luôn ghi nhớ công việc của mình. Thực tế là, chúng tôi không gặp gỡ cô ấy nhiều bởi vì chúng tôi đi làm cả ngày và thỉnh thoảng ra ngoài vào ban đêm để hát. Mỗi khi phải ra ngoài, chúng tôi đi ngủ rất sớm. Cô ấy vắng nhà suốt - thực ra là vào ban đêm. Đó thật sự là một sự sắp xếp khéo quá.
- Chỉ có một trục trặc - Ben tiếp lời - Đó là cô ấy về nhà bất cứ lúc nào, bởi vì Homer là con chó canh gác tốt và khi cô ấy vào nhà, nó thường sủa ầm ĩ và chúng tôi làm sao có thể nói cho cô ấy biết tốt hơn là khi nào thì nên về nhà và khi nào thì nên ra khỏi nhà phải không? Ngoài ra thì hầu như không có vấn đề gì cả.
- Thế cô ấy bắt đầu lấy các vật dụng từ khi nào?
- Hai tháng sau khi cô ấy tới ở - Bobby nói - Lúc đầu chúng tôi không để các vật dụng cùng với nhau. Chỉ là những thứ lặt vặt - cái bút, những dụng cụ chơi guitar. Chúng tôi không sở hữu những thứ có giá trị, ngoại trừ các nhạc cụ và những thứ khác đã mất có phải vậy không? Mấy cái băng đài, một lốc sáu lon bia - những thứ cô ấy hoàn toàn có thể lấy đi nếu hỏi chúng tôi một tiếng. Trong việc ăn uống chúng tôi cũng rất thoáng, thậm chí cô ấy nên tự mua thức ăn cho chính mình. Sau đó là những thứ quý giá - một đôi khuyên tai. Và những chiếc khăn rằn của Ben, thêm vào đó là đôi móc treo - thứ đồ cổ mà anh ấy có được ở Seattle. Những cái dây căng trống bằng da thật, rất đẹp và nặng, loại này chúng tôi không tự làm ra được. Cái cuối cùng mà cô ấy lấy đi là thứ khiến chúng tôi khó chịu nhất đó là một cây trâm cài đầu của Anh mà tôi được kế thừa từ người bà - bằng bạc và nạm ngọc hồng lựu. Mặt đá đã bị sứt nhưng nó có giá trị về mặt tinh thần. Tôi để cây trâm bên ngoài tủ quần áo và ngày hôm sau thì nó biến mất.
- Thế cô có hỏi cô ta về cái trâm đó không? - Tôi nói.
- Tôi không thể ra ngoài và kết tội cô ta được, nhưng tôi đã hỏi cô ấy có trông thấy nó hay đôi khuyên tai không. Cô ta nói là không thấy, với vẻ vô tình. Nhưng chúng tôi biết chính cô ấy đã lấy đi những thứ đó. Còn ai vào đây nữa? Cô ấy là người ngoài duy nhất bước chân vào đây, và mọi thứ chẳng bao giờ biến mất cho tới khi cô ta tới.
- Đó hẳn phải là vấn đề tế nhị rồi - Ben nói - Thói ăn cắp vặt hay đại loại là như thế. Cô ta không thể có nhiều tiền từ những thứ đồ đó. Không phải cô ta cần tiền. Cô ta có nhiều quần áo và chiếc xe mới toanh.
- Loại xe gì?
- Một chiếc xe bỏ mui nhỏ - hiệu Mazda, tôi cho là thế. Cô ấy có nó sau lễ Giáng sinh, lúc đầu đến đây ở cô ấy chưa có chiếc xe này. Thực tế là chúng tôi có thể đòi cô ấy trả tiền thuê nhà cao lên một chút. Chúng tôi tính giá cho cô ta tất tật chỉ có 100 đôla một tháng. Chúng tôi nghĩ rằng cô ấy là sinh viên rất nghèo.
Bobby nói:
- Cô ta hoàn toàn có vấn đề về đầu óc. Tôi phát hiện ra những thứ lặt vặt mà cô ta ăn cắp ở gara, giấu dưới ván sàn, trong cái hộp cùng với một bức tranh của cô ấy - như thể cô ta muốn đóng cọc nhận phần vậy, giống như cái tổ sóc nhỏ hay thứ tương tự như thế. Nói đúng ra, cô ấy quá tham lam - Tôi biết nói thế thì không nhân đạo nhưng đó là sự thật. Mãi sau này tôi mới hiểu rõ điều đó.
- Cô ta tham lam theo cách nào?
- Chiếm lấy những thứ tốt nhất cho bản thân. Giống như thể có cái bánh kem để trong tủ lạnh, anh quay lại và thấy rằng tất cả kẹo mềm đã bị đào hết và chỉ còn lại quả vani mà thôi. Hay một bát anh đào, tất cả những quả chín đều bị lấy đi.
- Cô ấy có trả tiền nhà đúng hạn không?
- Nhiều hơn hoặc ít hơn. Thỉnh thoảng cô tôi chậm một hoặc hai tuần. Chúng tôi chẳng bao giờ phàn nàn gì cả, và cô ta luôn luôn trả tiền, thực tế là thế.
Ben nói:
- Nhưng không khí giữa chúng tôi đã trở nên căng thẳng.
- Chúng tôi cũng nghĩ tới việc bảo cô ta chuyển đi chỗ khác - Bobby nói - Chúng tôi đã bàn tới chuyện này khoảng hai tuần trước khi chuyện tồi tệ đó xảy ra. Rồi sau đó chúng tôi có một hợp đồng biểu diễn ở Sonoma và bị trói chân ở đó. Khi chúng tôi trở về nhà thì...
- Thế cô ấy bị giết ở đâu?
- Ở đâu đó trong thành phố. Ở một câu lạc bộ.
- Một hộp đêm phải không?
Cả hai bọn họ gật đầu. Bobby nói:
- Từ những gì tôi thu lượm được thì đó là một trong những địa điểm của New Wave. Thế tên của nó là gì nhỉ Ben? Tên Ấn Độ có đúng không?
- Mayan - Người đàn ông đáp - The Moody Mayan. Hay tên gì đó gần như thế - Anh ta cười - Cảnh sát đã hỏi chúng tôi là có mặt ở đó lúc vụ việc xảy ra không?
- Thế Dawn có phải là hội viên của New Wave không?
- Lúc đầu thì không. - Bobby nói - Ý tôi là khi tôi gặp cô ấy, trông cô ta có vẻ rất nghiêm nghị. Thực tế là rất đứng đắn. Chúng tôi nghĩ cô ấy cho rằng chúng tôi quá dễ dãi. Sau đó dần dần cô ta trở nên đổ đốn. Một điều nữa tôi muốn nói với anh là cô ấy rất thông minh. Thường xuyên đọc sách, nghiên cứu môn toán sinh hay môn gì đó đại loại như thế. Nhưng đêm về cô ấy thường thay đổi - ăn diện và đi ra ngoài. Đó là điều Ben muốn nói về quần áo của cô ấy - quần áo kì cục, rất nhiều cái màu đen. Cô ấy thường bôi thuốc nhuộm lên mái tóc, thứ thuốc có thể gội sạch ngay được, giống như hoá trang vậy. Sáng hôm sau cô ấy lại chỉnh tề, và đi làm bình thường. Anh sẽ không thể nhận ra cô ấy được đâu.
- Thực tế thì cô ấy bị giết ở câu lạc bộ đó phải không?
- Tôi không biết - Ben đáp - Chúng tôi không được nghe chi tiết về việc này, chỉ muốn cảnh sát hãy sớm mang những thứ đồ đạc lủng củng của cô ấy ra khỏi chỗ của chúng tôi.
- Thế anh chị có nhớ tên vị thám tử kia không?
- Gomez - Họ đồng thanh.
- Ray Gomez - Bobby nói - Anh ta là fan hâm mộ của ban nhạc Los Lobos và thích thể loại nhạc doo-wop. Không phải là một anh chàng tồi đâu.
Ben gật đầu. Đầu gối của họ tì vào nhau và áp lực khiến chúng chuyển thành màu trắng.
- Đứa bé đang phải chịu đựng những gì từ việc Dawn ăn trộm bệnh án - Ben hỏi.
- Chúng tôi vẫn có thể làm việc được, có điều sẽ tốt hơn nếu có bệnh án này - Tôi đáp.
- Thật ngại quá - Ben đáp - Rất tiếc chúng tôi không thể giúp gì được cho anh. Cảnh sát đã lấy đi tất cả những đồ dùng của cô ấy và tôi chẳng thấy cái bệnh án nào cả.
- Thế còn những thứ mà cô ta lấy cắp thì sao?
- Không, cũng không có bệnh án nào ở đó cả. Chẳng phải cảnh sát đã tìm rất kỹ càng nhưng cũng không thấy được gì sao? Nhưng để tôi kiểm tra xem cho chắc chắn - có thể bên trong vành mũ hay ngóc ngách nào đó.
Cô ta đi vào trong bếp và lát sau quay trở lại cùng với chiếc hộp đựng giày và một mảnh giấy.
- Trống rỗng - đây là ảnh của cô ấy. Dawn để nó ở trên gác. Giống như cô ấy đang khăng khăng tuyên bố vậy.
Tôi cầm bức ảnh của Dawn lên. Ảnh chân dung đen trắng. Bốn phiên bản của gương mặt một thời xinh đẹp, nay bị phết đầy mỡ và bị sự nghi hoặc huỷ hoại. Mái tóc đen mượt, đôi mắt to đen. Đôi mắt đã bị thâm tím lại. Tôi đưa trả lại. Bobby nói:
- Anh cứ giữ đi. Tôi không cần nó.
Trước khi cho bức ảnh này vào túi, tôi cầm một bức khác lên. Bốn tư thế nhận dạng, nham hiểm và đề phòng.
- Buồn - Tôi nói.
- Đúng, cô ấy chẳng cười nhiều bao giờ - Bobby nói.
- Có thể cô ấy để nó trong văn phòng của mình ở trường đại học - ý tôi là cái bệnh án ấy - Bob nói.
- Thế chị có biết cô ấy học khoa nào không?
- Không, nhưng ở đó có một số máy lẻ mà cô ấy đã đưa cho chúng tôi, 2-2-3-8, đúng không nhỉ?
- Tôi cũng nghĩ thế - Bob nói.
Tôi lấy tờ giấy, cây bút ra khỏi cặp và ghi lại.
- Cô ấy là sinh viên y khoa có phải không?
- Khi thuê nhà, cô ấy nói học toán sinh hoặc khoa gì đó tương tự thế.
- Cô ta có từng nhắc tới tên của giáo sư hướng dẫn cô ấy không?
- Cô ấy có đưa cho tôi một cái tên tham khảo thôi, nhưng thú thực chúng tôi chẳng bao giờ gọi cả - Bobby nói và mỉm cười e lệ.
- Những thứ vụn vặt - Bob nói - Chúng tôi cần gấp một người thuê nhà, và cô ấy có vẻ đáng tin cậy.
- Ông chủ duy nhất của cô ấy từng nói tới là một người đàn ông ở bệnh viện - người đó đã bị giết. Nhưng cô ấy chẳng bao giờ nhắc tới tên ông ấy cả.
Ben gật đầu:
- Cô ấy không ưa ông ta lắm.
- Tại sao lại thế?
- Tôi không biết. Cô ấy không bao giờ đi sâu vào chi tiết - chỉ nói rằng ông ta là đồ bẩn thỉu, kiểu cách và cô ấy sắp nghỉ không làm việc chỗ ông ta nữa. Sau đó cô ấy không làm ở đấy nữa, lúc đó là tháng Hai.
- Thế cô ta có công việc nào khác không?
- Cô ấy không nói về việc ấy - Bobby nói.
- Vậy anh chị có biết cô ấy chi trả cho những hoá đơn của mình bằng cách nào không?
- Không, nhưng cô ấy luôn luôn có tiền để chi trả.
Ben cười mệt mỏi.
Bobby nói:
- Gì cơ?
- Cô ta và ông chủ của mình. Cô ấy ghét ông ta nhưng giờ họ lại cùng trên một chiếc thuyền của cảnh sát Los Angeles.
Biết được thông tin về vụ án mạng của Dawn Herbert và sở thích ăn cắp vặt của cô ta khiến tôi suy nghĩ rất nhiều.
Tôi cho rằng cô ta đã lén rút bệnh án của Chad cho Laurence Ashmore. Nhưng điều gì xảy ra nếu cô ta tự mình làm việc đó bởi vì cô ta biết được vài điều có thể đe doạ gia đình nhà Jones và định lợi dụng kiếm lời?
Và giờ đây cô ta đã chết.
Tôi lái xe tới cửa hàng cá, mua một gói thực phẩm sạch. Tôi gọi nhờ một cuộc điện thoại nội hạt. Đứa trẻ sau quầy thanh toán suy nghĩ giây lát, nhìn lên công tơ tổng và nói:
- Đằng kia ạ - Nó chỉ vào cái đồng hồ quay số tự động màu đen cũ trên tường. Bên cạnh nó là bể nước mặn lớn - nhà của một con cá mập nhỏ. Hai con cá vàng quẫy trên mặt nước. Con cá mập lướt đi một cách bình yên. Đôi mắt nó màu xanh, trông rất đẹp.
Tôi gọi cho Trung tâm Parker. Người đàn ông trả lời điện thoại nói rằng Milo không ở đó và anh ta không biết khi nào anh ấy mới quay trở lại.
- Charlie đấy hả? - Tôi hỏi.
- Không.
Dập máy.
Tôi quay số nhà riêng của Milo. Đứa bé sau quầy thanh toán đang quan sát tôi. Tôi mỉm cười và dùng ngón cái làm dấu "một phút thôi nhé", trong khi chờ chuông reo.
Nghe thấy cái giọng điều tra của Peggy Lee, tôi bảo:
- Dawn Herbert bị giết vào tháng Ba. Có lẽ là ngày mồng chín tháng Ba, ở nơi nào đó trong thành phố, gần một câu lạc bộ nhạc rock. Vị thám tử đang triều tra vụ này tên là Ray Gomez . Tôi sẽ ở bệnh viện trong vòng một giờ nữa - có thể gọi loa nhắn tin cho tôi nếu muốn nói chuyện về vụ này.
Tôi gác máy và đi ra ngoài. Tôi tình cờ liếc mắt thấy vệt bọt di chuyển nên đi về phía bể cả. Hai con cá vàng đã biến mất.
Một phần hoàng hôn ở Hollywood là ngày nghỉ cuối tuần - yên tĩnh. Các ngân hàng và trung tâm giải trí phía trước bệnh viện Row đã bị đóng cửa, những gia đình nghèo nằm rải rác, trên vỉa hè đầy những kẻ lang thang. Xe cộ thưa thớt - hầu như cuối tuần những công nhân và khác du lịch đều rời tới Vine. Tôi lái xe tới cổng khu đỗ xe dành cho các bác sĩ chỉ mất chưa đầy nửa giờ đồng hồ. Bãi đỗ xe lại hoạt động đúng chức năng của nó. Còn nhiều chỗ đỗ xe.
Trước khi lái vào thành phố, tôi dừng xe, vào quán cà phê.
Lúc này là cuối giờ ăn trưa nhưng trong quán gần như vắng tanh. Dan Kornblatt đang lấy tiền lẻ từ quầy thanh toán khi tôi bước tới để trả tiền. Vị bác sĩ chuyên khoa tim mạch cầm chiếc tách nhựa có nắp. Cà phê nhỏ từng giọt xuống và chảy thành dòng xuống thành cốc như dòng suối nhỏ màu bùn. Bộ râu ghi đông của Kornblatt rủ xuống và trông anh ta có vẻ lo lắng. Anh ta cầm tiền lẻ đút vào túi và nhìn tôi, khẽ gật đầu.
- Này, Dan. Chuyện gì vậy?
Nụ cười của tôi dường như làm phiền anh ta.
- Đọc báo sáng nay chưa? - Anh ta hỏi tôi.
- Thực ra tôi mới chỉ lướt qua - Tôi đáp.
Anh ta liếc nhìn tôi. Hoàn toàn nổi cáu. Tôi cảm thấy như thể mình đã đưa ra đáp án sai trong kỳ thi vấn đáp.
- Thế thì tôi có thể nói được điều gì - Anh ta ngắt lời và bước đi.
Tôi trả tiền và băn khoăn không biết trên báo viết gì khiến anh say mê đến vậy. Tôi tìm xung quanh xem có tờ báo nào bỏ lại không, nhưng không có. Tôi nhắp hai ngụm cà phê, đặt tách xuống, và tới phòng đọc của thư viện. Giờ này thư viện chưa mở cửa.
Nhà của Chappy Ward vắng vẻ, các phòng khác đều khép cửa chỉ có phòng của Cassie mở. Các đèn đều tắt, những chiếc giường trống trơn, bãi cỏ tràn ngập thuốc khử mùi hôi. Một người đàn ông trong bộ đồng phục bảo dưỡng màu vang đang hút bụi ở hành lang. Tiếng sáo điệu Vienne, chậm và não nùng.
Vicki Bottomley ngồi ở trạm trực đang đọc bệnh án. Chiếc mũ y tá của bà ta hơi lệch.
Tôi cất tiếng:
- Xin chào, có gì mới mẻ không?
Bà ta lắc đầu và đưa bệnh án cho tôi mà không ngước lên.
- Hãy tiếp tục và hoàn thành đi chứ - Tôi nói.
- Xong rồi - Bà ta phe phẩy cái bệnh án.
Tôi cầm lấy nhưng không mở ra xem. Đứng dựa vào bàn tiếp bệnh nhân, tôi nói:
- Cassie hôm nay ra sao rồi?
- Khá hơn chút ít.
Vẫn không nhìn tôi.
- Thế cô bé dậy vào lúc mấy giờ?
- Khoảng 9 giờ.
- Bố cô bé có mặt ở đây chưa?
- Tất cả đều ở đây - Bà ta đáp, vẫn cúi đầu xuống và chỉ vào bệnh án.
Tôi mở nó ra xem, chuyển tới trang của ngày hôm nay, và đọc những ghi chép tóm tắt của Al Macauley và của bác sĩ chuyên khoa thần kinh.
Bà ta lấy vài mẫu đơn và bắt đầu ghi chép.
- Đợt lên cơn gần đây nhất của Cassie - Tôi nói - xem ra có vẻ nặng.
- Tôi chưa từng chứng kiến ca nào như thế.
Tôi đặt bệnh án và đứng đó. Cuối cùng bà ta cũng ngước lên. Cặp mắt xanh dương chớp nhanh.
- Bà đã chứng kiến nhiều ca động kinh ở trẻ em chưa? - Tôi hỏi.
- Rất nhiều. Khi tôi còn làm việc ở khoa Ung thư. Tôi chăm sóc bọn trẻ có những khối u não - Bà ta nhún vai.
- Tôi cũng từng làm việc ở khoa Ung thư. Cách đây nhiều năm rồi. Phục vụ cho tâm lý xã hội.
- Thế à.
Nói rồi bà ta quay trở lại với những mẫu đơn.
- Tốt - Tôi nói- ít ra thì Cassie có vẻ như không có cái u nào cả.
Không lời đáp.
- Bác sĩ Eves đã bảo tôi rằng cô ấy có ý định cho cô bé về nhà sớm.
- Thế sao?
- Tôi nghĩ tôi nên ra ngoài và tới nhà thăm cô bé.
Chiếc bút của bà ta vẫn di chuyển trên giấy.
- Bà vừa ở ngoài đó đúng không?
Bà ta không đáp.
Tôi lặp lại câu hỏi. Bà ta dừng bút và nhìn lên.
- Nếu tôi vừa ra ngoài, thì có gì sai không?
- Không, tôi chỉ...
- Anh vừa ba hoa rằng anh đang làm gì đó đúng không?
Bà ta đặt bút xuống và quay đi, trên môi là nụ cười thiển cận và tự mãn.
- Hay là anh đang kiểm tra tôi đấy? Có muốn biết tôi ra ngoài và làm gì với cô bé không?
Bà ta lùi về phía sau xa hơn, đôi mắt vẫn nhìn tôi và mỉm cười.
- Tại sao tôi phải nghĩ thế? - Tôi đáp.
- Bởi vì tôi biết cái cách mà anh nghĩ.
- Đó là một câu hỏi đơn giản thôi mà, thưa bà Vicki.
- Vâng, đúng. Đó là tất cả những gì xảy ra từ đầu đến giờ phải không? Tất cả những cú điện thoại rườm rà. Anh đang kiểm tra tôi xem tôi có giống vị y tá nọ ở New Jersey không chứ gì?
- Vị y tá kia như thế nào?
- Một người giết những đứa trẻ. Họ viết một cuốn sách về việc này và tivi cũng đã đưa tin.
- Bà cho rằng bà đang bị nghi ngờ à?
- Không phải tôi sao? Không phải là những y tá thì luôn bị khiển trách à?
- Thế vị y tá ở New Jersey bị khiển trách nhầm à?
Bà ta gượng cười nhăn nhó.
- Tôi mệt mỏi với trò chơi này lắm rồi - Bà ta đáp, đứng dậy và đẩy cái ghế đi - Với các anh mọi người luôn là những trò chơi phải không?
- Bà muốn nói tới các bác sĩ tâm thần à?
Bà ta khoanh tay trước ngực và lẩm bẩm điều gì đó. Sau đó quay lưng lại phía tôi.
- Vicki này?
Bà ta không đáp.
- Tất cả việc này là thế nào? - Tôi nói, cố gắng giữ giọng - Tôi đang tìm hiểu điều quái quỷ gì đang xảy ra với cô bé Cassie.
Bà ta giả vờ đọc bản tin sau này.
- Sự nghỉ ngơi tạm thời của chúng ta thế là quá nhiều rồi - Tôi nói.
- Đừng bận tâm - Bà ta đáp, quay mặt nhanh về phía tôi, lên giọng, chao chát và cáu kỉnh.
- Đừng bận tâm - Bà ta lặp lại - Tôi sẽ không theo cách của anh đâu. Anh muốn điều gì đó chỉ cần yêu cầu. Bởi vì anh là bác sĩ. Và tôi sẽ không làm gì giúp cô bé tội nghiệp đó nữa - trái lại với những gì mà anh nghĩ, tôi quan tâm tới con bé, thế đã được chưa? Sự thật là thậm chí tôi sẽ xuống phố và dùng cà phê với anh nếu điều đó khiến anh vừa ý và lưu tâm tới con bé. Tôi không phải là một người theo thuyết nam nữ bình quyền nghĩ rằng tôi chẳng biết làm việc gì ngoài việc tiêm thuốc vào người bọn trẻ. Nhưng đừng có giả vờ là bạn của tôi có được không? Hãy để hai chúng ta chỉ làm công việc của mình mà không cần ba hoa, và cứ tiếp tục theo cách vui vẻ đó có được không? Và để trả lời cho câu hỏi của anh, tôi ra ngoài, tới nhà con bé chính xác là hai lần, cách đây mấy tháng. Thế đã được chưa?
Bà ta đi tới cuối trạm đối diện, tìm kiếm các mẫu đơn khác, cầm lấy và bắt đầu đọc. Liếc nhìn tôi. Bà ta cần kính để đọc. Lại mỉm cười thiển cận và tự mãn.
Tôi nói:
- Có phải bà đã làm gì với cô bé không, bà Vicki?
Đôi tay bà ta giật một cái đột ngột, tờ giấy rơi xuống đất. Bà ta cúi xuống nhặt tờ giấy thì cái mũ lại rơi khỏi đầu. Cúi thêm lần nữa, bà ta nhặt mũ và đứng thẳng người lên. Nhìn kỹ, mắt bà ta trang điểm khá nhiều, nhưng một bên mắt lộ rất rõ những đốm đen.
Tôi đứng nguyên đó.
- Không.
Bà ta cố đáp nhẹ như tiếng thì thầm.
Đột nhiên có những bước chân đi đến khiến cả hai chúng tôi đều phải ngoái đầu. Người bảo dưỡng đi từ trong ra ngoài sảnh, tay kéo lê máy hút bụi. Anh ta là người Tây Ban Nha, đôi mắt già trước tuổi và có bộ ria kiểu Cantinflas.
- Còn làm gì nữa không nhỉ? - Anh ta hỏi.
- Không - Vicki đáp - Anh về được rồi.
Anh chàng ném cái nhìn về phía bà ta, một bên mắt nhướng lên rồi giật mạnh cái máy hút bụi kéo về phía những cánh cửa gỗ tếch. Vicki nhìn theo anh chàng, hai bàn tay đan bẻ vào nhau.
Khi anh chàng ra khỏi tầm nhìn, bà ta mới lên tiếng:
- Câu hỏi của anh thật là ghê tởm! Tại sao anh lại có những ý nghĩ xấu xa đó - Tại sao anh khăng khăng cho rằng ai đó đang làm chuyện gì với con bé chứ? Đơn giản là con bé bị ốm thôi anh ạ.
- Tất cả các triệu chứng chẳng phải cho thấy con bé đang mang thứ bệnh gì đó huyền bí sao?
- Tại sao lại không chứ? - Bà ta đáp - Tại sao không? Anh nên nhớ đây là bệnh viện. Đó cũng chính là lý do chúng tôi tới đây để làm việc - chăm sóc những đứa trẻ bị ốm. Đó là việc mà các bác sĩ thực sự đang làm - điều trị và chăm sóc cho bọn trẻ.
Tôi lặng im.
Hai cánh tay bà ta bắt đầu giơ lên nhưng bà ta cố gắng kìm lại, giống như đang cố chống lại người làm thôi miên. Trên đầu, bộ tóc cứng đơ của bà ta đã bung ra như cái mái vòm có lẽ vừa khít cái mũ.
Tôi nói:
- Thế thì các bác sĩ thực sự có vẻ không gặp nhiều may mắn, thưa bà?
Bà ta hít một hơi dài.
- Cái này gọi là trò chơi - Bà ta đáp bằng giọng thì thầm - Luôn luôn là trò chơi trong mắt của các anh.
- Có vẻ như bà biết khá nhiều về những người như chúng tôi đấy nhỉ.
Bà ta có vẻ giật mình, mắt đảo ngay ra chỗ khác. Mascara bắt đầu chảy khỏi các vị trí cần thiết, các đốt ngón tay trở nên xám xịt nhưng bà ta không hề nhận ra. Mắt bà ta lại nhìn chằm chằm trở lại tôi.
Tôi bắt đầu gặp ánh mắt ấy và hiểu nó có ý nghĩa gì.
Nụ cười tự mãn đã trở lại trên khuôn mặt bà ta.
- Còn gì quý anh đây muốn biết nữa không nhỉ? - Bà ta vừa nói vừa gỡ cái trâm cài tóc ra khỏi đầu và kẹp lại mái tóc đã điểm bạc của mình.
- Bà đã nói cho gia đình nhà Jones biết cảm nghĩ của bà đối với các bác sĩ trị liệu tâm thần chưa? - Tôi hỏi.
- Tôi luôn giữ những cảm nghĩ ấy cho riêng mình thưa anh. Tôi là người chỉ biết làm công tác chuyên môn thôi.
- Thế bà đã bảo với họ rằng ai đó đang nghi ngờ có chuyện mờ ám trong ca bệnh của con bé chưa?
- Tất nhiên là chưa. Tôi đã nói rồi, tôi chỉ biết làm tròn công tác chuyên môn thôi.
- Đúng vậy - Tôi nói - Chỉ là bà không thích các bác sĩ trị liệu. Có nhiều người đúng là toàn hứa suông thôi nhưng khi có việc thì họ chẳng bao giờ ra tay cả.
Nghe câu này, đầu bà ta liền giật mạnh một cái ra phía sau, cái mũ vì thế mà bật lên khiến bà ta phải vội đưa tay ra giữ lại.
- Anh chẳng biết gì về tôi cả - Bà ta nói - Anh không biết bất cứ điều gì về tôi cả.
- Đúng thế, thưa bà - Tôi đáp - Và chính điều đó lại tạo ra vấn đề cho Cassie.
- Thật là vớ vẩn...
- Bà Vicki ạ, thật ra thì thái độ của bà đang gây khó khăn cho việc điều trị của con bé. Thôi, chúng ta không bàn bạc vấn đề này ở đây nữa - Tôi chỉ tay về phía phòng y tá ở đằng sau bàn trực.
Bà ta lấy hai bàn tay vỗ mạnh vào hông nói:
- Sao phải vào đó?
- Để bàn bạc.
- Anh không có quyền.
- Thật ra, tôi có đấy thưa bà. Để tôi cho bà hay, lý do duy nhất bà còn được tham gia ca điều trị này là vì ý tốt của tôi đấy. Bác sĩ Eves rất ngưỡng mộ trình độ chuyên môn của bà, nhưng thái độ của bà lại đang làm cho cô ấy rất khó chịu.
- Đúng.
Tôi nhấc điện thoại lên.
- Hãy gọi cho cô ấy đi.
Bà ta hít một hơi dài, tay chạm vào chiếc mũ trên đầu, liếm môi.
- Vậy anh cần gì ở tôi? - Giọng bà ta nhún nhường.
- Không phải ở đây thưa bà - Tôi đáp - Hãy vào đó, thưa bà Vicki.
Bà ta bắt đầu phản đối, miệng không thốt lên lời, môi run run nhưng nhanh chóng đưa tay lên che đôi môi đó lại.
- Thôi, xin anh bỏ quá cho những gì không nên không phải. Tôi thành thật xin lỗi, được không?
Đôi mắt bà ta ánh lên vẻ đầy sợ sệt. Nhớ lại cảnh bà ta chứng kiến cái chết khủng khiếp của đứa con trai và cảm thấy có gì đó không đàng hoàng cho lắm nên tôi lắc đầu.
- Tôi hứa sẽ không gây khó dễ cho anh nữa - Bà ta đáp - Tôi hứa thật đấy. Anh đúng rồi. Lẽ ra tôi nên biết giữ mồm giữ miệng. Thật ra là tôi cũng rất lo cho con bé, giống như anh. Tôi sẽ cư xử tốt với anh. Thành thật xin lỗi anh. Tôi sẽ không tái phạm sai lầm này nữa....
- Xin mời bà Vicki - Tôi đáp dứt khoát và chỉ tay về phía căn phòng y tá.
- Tôi xin thề đấy. Hãy bỏ qua cho tôi đi.
Tôi vẫn cương quyết.
Bà ta đi về phía tôi, hai bàn tay nắm chặt như thể sẵn sàng tấn công. Nhưng rồi bà ta lại buông ra, quay trở lại và đi về phía căn phòng. Bà ta đi chậm, hai vai hạ thấp, gần như lết chân chứ không phải bước đi.
Trong căn phòng có một chiếc giường, một chiếc ghế và cái bàn uống cà phê. Cái điện thoại nằm trên bàn cạnh chiếc máy pha cà phê đã rút điện mà chắc là không sử dụng đến hay không được lau chùi trong một thời gian dài. Những tranh chó mèo được dán đầy lên tường bên trên dòng chữ "Chăm sóc bệnh nhân tận tình, chu đáo".
Tôi đóng cửa lại và ngồi lên chiếc giường gấp.
- Ở đây mùi quá - Bà ta buột miệng nói - Anh không có quyền - tôi sẽ gọi điện cho bác sĩ Eves.
Tôi cầm máy điện thoại lên, quay số tới tổng đài và xin số của Stephanie.
- Khoan đã anh - Bà ta nói - Xin cúp máy đi.
Tôi huỷ lời nhắn và đặt ống nghe vào vị trí. Bà ta xoay xoay rồi ngồi phịch xuống chiếc ghế, hai tay mân mê cái mũ, chân đặt cả xuống nền nhà. Tôi chợt phát hiện ra chi tiết mà tôi chưa từng thấy bao giờ: một bông cúc nhỏ được vẽ bằng sơn bóng trên tấm thẻ nhân viên mới của bà ta, chỉ là phía trên tấm hình chụp. Nước sơn bắt đầu bong ra và bông hoa như thể bị cắt nhỏ.
Bà ta đặt hai tay trong bọc. Trên khuôn mặt của bà ta lấp đầy là cái nhìn của kẻ đã bị kết án.
- Tôi có việc phải làm, còn phải thay những tấm khăn trải giường, kiểm tra để chắc chắn rằng khẩu phần ăn tối đã được bố trí đúng chưa - Bà ta nói.
- Vị y tá ở New Jersey đã dạy cho bà điều gì? - Tôi hỏi.
- Vẫn nói về việc đó sao?
Tôi chờ đợi câu trả lời.
- Chẳng có gì to tát cả, tôi từng nói với anh rồi đấy, có một cuốn sách, tôi đã đọc nó, tất cả chỉ có thế. Tôi không thích đọc những loại sách đó nhưng ai đấy đưa cho tôi, vì thế tôi đọc nó. Thế đã được chưa?
Bà ta cười, nhưng đột nhiên hai mắt lại đầy nước. Bà ta quệt mắt, cố gắng lau khô bằng những ngón tay. Tôi nhìn quanh phòng. Không có khăn giấy. Khăn tay của tôi sạch và tôi đưa nó cho bà ta.
Bà ta nhìn nó, lờ đi. Khuôn mặt bà ta chan chứa nước mắt, mascara chảy thành những vệt đen như vết mèo cào.
- Ai đưa cho bà cuốn sách đó? - Tôi hỏi.
Khuôn mặt lộ vẻ đau đớn của bà ta khiến tôi cảm thấy như thể mình đang đâm dao vào bà ta vậy.
- Tôi chẳng làm gì với Cassie cả. Hãy tin tôi.
- Được rồi. Vậy chính xác vị y tá này đã làm gì?
Đầu độc đứa bé bằng thuốc giảm đau Lidocaine. Nhưng bà ta không phải là y tá. Những y tá đều yêu mến bọn trẻ. Những y tá thực sự.
Hai mắt bà ta hướng về phía hình người ngộ nghĩnh dán trên tường và bà ta khóc mỗi lúc một to hơn.
Khi bà ta không khóc nữa, tôi lại đưa cho bà ta khăn tay của tôi. Bà giả vờ như không thấy.
- Anh muốn gì ở tôi?
- Sự thật.
- Về cái gì?
- Tất cả hành vi thù địch, chống đối của bà đối với tôi.
- Tôi đã nói rằng tôi xin lỗi anh về điều đó.
- Vicki, tôi không cần lời xin lỗi. Danh dự của tôi không là vấn đề và chúng ta không phải là những người bạn thân để nói chuyện dài dòng. Nhưng chúng ta phải có sự phối hợp tốt trong việc chăm sóc cho Cassie. Và hành vi của bà đi ngược lại với mong muốn ấy đấy.
- Tôi phản đối.
- Vicki, đúng đấy. Và tôi biết có thể bà có điều gì đó thù địch với các chuyên gia tâm lý, và tôi cho là họ đã phạm lỗi gì với bà chăng?
- Anh đang làm cái gì thế? Phân tích tôi đấy à?
- Nếu như đó là việc tôi cần làm.
- Thật không lịch sự một chút nào.
- Nếu bà còn muốn tham gia vào ca này, hãy nói rõ lý do . Chúa biết được việc này khó khăn như thế nào. Cassie trở nên ốm hơn sau mỗi lần bà đến. Không ai biết cái quái quỷ gì đang diễn ra. Cô bé lên cơn nhiều như bà thấy, việc này có thể nguy hiểm, đe doạ nghiêm trọng tới não bộ con bé. Chúng ta không thể trở nên mất trí bởi những chuyện cá nhân bẩn thỉu.
Đôi môi bà ta run lên và mấp máy.
- Ở đây không có bí mật nào cả, tôi xin thề.
- Xin lỗi. Ngoài cái miệng thô lỗ của tôi, bà còn chống đối tôi về điều gì không?
- Chẳng có gì cả.
- Thật vớ vẩn, bà Vicki ạ.
- Thật sự là không có.
- Bà không ưa các bác sĩ tâm thần, và trực giác của tôi mách bảo là bà có một lý do tốt đấy.
Bà ta ngồi xuống.
- Vậy sao?
Tôi gật đầu.
- Có nhiều kẻ xấu ngoài kia vui mừng lấy được tiền của bà mà không phải làm gì cho bà cả. Tôi không phải là một trong số họ nhưng tôi không mong bà tin tôi chỉ bằng việc nói với bà như vậy.
Bà ta mím chặt miệng lại rồi thả lỏng. Nếp nhăn ở môi trên bà ta hằn rõ. Khuôn mặt đầy nếp nhăn và vết bẩn cộng thêm sự mệt mỏi. Tôi cảm thấy mình như một nhà điều tra quan trọng.
- Mặt khác, có thể bà không hài lòng về tôi - những việc mà bà làm với Cassie chứng tỏ bà có mong muốn trở thành bà chủ.
- Hoàn toàn không phải thế.
- Vậy là cái gì hả bà Vicki?
Bà không trả lời. Nhìn xuống tay. Vẻ mặt của bà ta vô cảm nhưng nước mắt không ngừng tuôn rơi.
- Tại sao không công khai lý do nếu nó không liên quan gì tới Cassie, con bé sẽ không rời khỏi phòng này - Tôi nói.
Bà ta khịt mũi và kẹp tay vào đầu mũi.
Tôi tiến về phía trước và mềm giọng:
- Nghe này bà Vicki, đây không phải là một cuộc chạy đua đường dài. Tôi không bóc trần bà theo bất kỳ cách nào cả. Tôi chỉ muốn làm sạch bầu không khí - công việc bên ngoài, một sự tạm nghỉ thật sự.
- Sẽ không rời khỏi phòng này ư? Tôi đã từng nghe điều này rồi. (Nụ cười tự mãn của bà ta đã trở lại).
Chúng tôi nhìn nhau. Bà ta chớp mắt. Mắt tôi vẫn không đổi hướng.
Bất ngờ hai cánh tay của bà ta đưa về phía trước, hai bàn tay như cái kéo, giật lấy cái mũ khỏi tóc, quăng đi. Chiếc mũ rơi xuống nền nhà. Bà ta định nhặt nó lên nhưng lại thôi.
- Anh là đồ chết tiệt!
Đầu bà ta lúc này là một cái tổ chim.
Tôi gấp chiếc khăn tay lại và đặt lên đầu gối. Thật là một cậu bé gọn gàng, một nhà điều tra.
Bà đặt hai bàn tay lên thái dương.
Tôi đứng lên và đặt bàn tay lên vai bà ta, thầm nghĩ chắc là bà ta sẽ hất ra. Nhưng không.
- Tôi xin lỗi - Tôi nói.
Bà ta nức nở và bắt đầu nói. Tôi chẳng thể làm gì ngoài việc lắng nghe.
Bà ta chỉ nói một phần của câu chuyện. Trong khi cố gắng đấu tranh để giữ cho được lòng tự trọng, những vết thương cũ bị xé toạc.
Reggie ác độc lại biến thành cậu bé linh lợi với các rắc rối ở trường học.
- Reggie là đứa bé thông minh nhưng lại chẳng thể tìm thấy điều khiến nó hứng thú và đầu óc nó vẫn thường vẩn vơ khắp nơi.
Cậu bé trở nên quá hiếu động và dường như không thể ngồi yên được.
Nhiều năm phạm tội giảm xuống thành "vài vấn đề nhỏ".
Vicki càng nức nở. Lần này bà ta cầm lấy khăn tay của tôi.
Bà ta vừa khóc vừa kể về việc đứa con trai duy nhất của bà ta đã chết ở tuổi 19 sau một vụ tai nạn.
Bà yên lặng một lúc lâu, lau khô mắt rồi lau mặt.
Người chồng nghiện rượu được bầu là anh hùng lao động. Chết ở tuổi ba mươi tám, nạn nhân của nồng độ cholesteron cao.
- Ơn Chúa, chúng tôi đã sở hữu một ngôi nhà, ngoài ra Jimmy còn để lại cho mẹ con tôi một thứ giá trị hơn bất cứ thứ gì khác, đó là chiếc xe máy cũ hiệu Harley-Davidson. Ông ấy luôn luôn sửa chữa, chắp và chiếc xe ấy, thật nhếch nhác, bừa bộn. Ông ấy cõng Reggie trên lưng và chạy xe qua nhà hàng xóm. Ông ấy thường gọi nó là "con lợn". Mãi tới khi Reggie lên bốn tuổi ông ấy mới nghĩ ra con lợn là gì.
Bà ta cười.
- Chiếc xe là thứ đầu tiên mà tôi đã bán đi, tôi không muốn Reggie có ý nghĩ rằng nó là tài sản thừa kế để lái ra ngoài đường và khoe khoang. Giống như cha nó. Vì vậy tôi đã bán nó cho một bác sĩ nơi tôi làm việc - ở tận Foothill General. Tôi đã làm việc ở đó từ trước khi sinh Reggie. Sau khi Jimmy chết, tôi phải trở lại đó.
Tôi nói:
- Khoa Nhi có phải không?
Bà ta gật đầu.
- Ở khu vực chung, họ không cho bọn trẻ ở đó. Tôi yêu trẻ con, nhưng tôi cần một nơi gần nhà để có thể gần Reggie - lúc đó thằng bé đã lên mười rồi nhưng vẫn không tự chăm sóc bản thân được. Tôi muốn ở nhà khi nó thức, nên tôi làm việc vào các buổi tối. Tôi thường cho nó đi ngủ lúc chín giờ tói, đợi cho tới khi nó buồn ngủ, tôi chợp mắt một lát khoảng một giờ, sau đó bỏ đi úc mười giờ bốn mươi lăm phút, vậy là tôi có thể vào ca làm lúc mười một giờ.
Bà ngừng lời đợi tôi phán xét.
Nhà điều tra không cưỡng bách.
- Nó toàn phải ở nhà một mình hàng đêm. Nhưng tôi cho rằng nó đang ngủ nên như thế cũng không sao. Bây giờ người ta gọi đó là latchkey (tự xoay sở khi ở nhà một mình). Tôi không còn lựa chọn nào khác - Tôi không có ai giúp đỡ. Không gia đình, không thể chăm sóc cho nó như trước đó. Anh chỉ có thể có được người trông trẻ con suốt đêm từ các trung tâm môi giới và họ thường lấy giá cao bằng tất cả số tiền mà tôi kiếm được.
Bà chấm chấm nhẹ vào mặt mình. Nhìn vào tấm áp phích lần nữa và lại nức nở:
- Tôi không bao giờ thôi lo lắng cho Reggie, nhưng khi lớn lên, nó buộc tội tôi là không quan tâm tới nó, nói tôi đã bỏ nó ở nhà bởi tôi không quan tâm tới nó. Nó thậm chí còn trách tôi về việc đã bán chiếc xe của bố nó - Tôi làm việc ấy thay vì những việc bần tiện khác bởi tôi hứng thú.
- Nuôi nấng một đứa trẻ một mình.
Tôi nói và lắc đầu với hy vọng thông cảm được với Vicki.
- Tôi thường lái xe nhanh về nhà lúc 7 giờ sáng, hy vọng thằng bé vẫn ngủ và tôi có thể đánh thức nó dậy và giả vờ như thể tôi đã ở bên nó suốt đêm. Ban đầu nó nghe theo nhưng dần dần nó hiểu ra và bắt đầu chống đối tôi. Giống như một trò chơi vậy - nó khoá trái cửa trong buồng tắm... - Bà bóp cái khăn tay và vẻ mặt tỏ ra ghê sợ.
- Thôi, tốt rồi, bà không cần phải...
- Anh chưa có con nên không hiểu đâu. Khi nó lớn hơn - trở thành một thiếu niên - nó ra ngoài cả đêm, chẳng gọi điện về, thỉnh thoảng còn đi cả hai ba ngày mới về. Khi tôi trừng phạt, nó trốn đi bất cứ lúc nào. Cho dù tôi cố gắng áp dụng hình phạt nào chăng nữa, nó chỉ cười. Khi tôi cố gắng nói chuyện với nó, nó cãi lại vào mặt tôi. Nó bảo tôi chỉ biết có công việc và luôn bỏ nó ở nhà một mình. Nó ăn miếng trả miếng, xúc phạm mẹ - "Mẹ ra ngoài và bây giờ con cũng phải ra ngoài". Nó chẳng bao giờ...
Bà ta lắc đầu, nói tiếp:
- Tôi không bao giờ dùng đòn roi, thậm chí là một roi... Các chuyên gia tâm lý các anh, các chuyên gia tư vấn, các chuyên gia đặc biệt, các anh đã đặt ra các cái tên đó. Tất cả mọi người đều là chuyên gia, trừ tôi. Bởi vì tôi có vấn đề phải không? Tất cả bọn họ đều chỉ giỏi khiển trách. Các chuyên gia thực sự ở lĩnh vực này. Không phải ai trong số chuyên gia các anh cũng có thể giúp con trai tôi - Nó không thể học được điều gì từ trường học. Nó học tập ngày một sa sút và tất cả những gì tôi có là sự trì hoãn. Cuối cùng, tôi đã mang nó tới một trong số các anh. Một anh hề đã làm tất cả mọi cách để đưa nó tới Encino.
Bà thốt ra một cái tên nào đó mà tôi không biết.
Tôi đáp:
- Tôi chưa bao giờ nghe về anh ta cả.
Bà đáp:
- Một phòng khám lớn, toàn hình ảnh núi non và những con búp bê nhỏ trên giá sách thay vì những quyển sách. Sáu mươi đôla cho một giờ, lúc ấy đó là một số tiền rất lớn. Đến bây giờ thì cũng... đặc biệt là là tổng thời gian lãng phí. Hai năm trời của những giả dối là những gì mà tôi nhận được.
- Thế bà tìm thấy anh ta ở đâu?
- Một bác sĩ ở Foothill giới thiệu cho tôi. Anh ta được giới thiệu là chuyên gia giỏi. Và ban đầu bản thân tôi cũng nghĩ anh ta thật tuyệt vời. Anh ta đã dành hai tuần cho Reggie, chẳng nói gì với tôi cả, sau đó gọi điện bảo tôi tới để trao đổi. Anh ta nói với tôi rằng vấn đề của Reggie nghiêm tọng bởi vì hoàn cảnh mà nó đã lớn lên. Anh ta nói sẽ phải mất một thời gian dài để chữa cho nó, nhưng anh ta sẽ cố gắng. Giá mà tôi đừng tạo ra các áp lực cho nó. Giá mà tôi tôn trọng thằng bé như một con người thực sự, tôn trọng những bí mật riêng tư của nó. Tôi hỏi trách nhiệm của tôi trong việc này là gì và anh ta trả lời tôi chỉ phải chi trả những hoá đơn và chuyên tâm vào công việc. Thế là tôi giao Reggie cho anh ta cùng với những bí mật của thằng bé. Hai năm tôi trả tiền cho kẻ lừa đảo đó và cuối cùng con trai tôi trở thành một đứa bé ghét mẹ của mình bởi tất cả những gì mà người đàn ông đó nhồi nhét vào đầu nó. Mãi sau này tôi mới phát hiện ra là anh ta lặp đi lặp lại những gì mà tôi đã kể cho anh ta nghe. Thổi phồng lên và càng làm cho mọi chuyện tồi tệ hơn.
- Thế bà không phàn nàn gì sao?
- Tại sao? Tôi là người ngu ngốc, bởi đã tin vào hắn. Anh muốn biết tôi đã ngu ngốc thế nào không? Sau khi... sau khi Reggie... Sau khi nó có... Sau khi nó đi - Một năm sau, tôi tới một chỗ khác. Bởi vì người giám sát của tôi nghĩ tôi nên đi tới chỗ đó - không phải là cô ấy sẽ trả tiền cho việc ấy. Không phải là tôi không thực hiện đúng công việc của mình, bởi vì tôi... Nhưng tôi không thể nào ngủ, ăn uống và tận hưởng bất cứ thứ gì. Tôi như thể không phải là đang sống. Vì thế cô ấy giới thiệu cho tôi một bác sĩ khác Tôi cho rằng có lẽ một người phụ nữ sẽ phán xét cá tính tốt hơn... Người hay pha trò ở Beverly Hills. Một trăm hai mươi đô la một giờ. Lạm phát có đúng không? Không phải là giá trị gia tăng. Ban đầu nơi này có vẻ tốt hơn nhiều so với nơi đầu tiên. Yên tĩnh và lịch sự. Một quý ông thật sự. Và anh ta có vẻ hiểu biết. Tôi cảm thấy... nói chuyện với anh ta, tôi cảm thấy tốt hơn. Tôi đã bắt đầu có thể làm việc trở lại. Và sau đó...
Bà ta dừng lại, mím môi. Bà đổi hướng sự chú ý từ tôi sang những bức tường rồi tới sàn nhà, tới cái khăn tay. Bà nhìn chằm chằm vào chiếc khăn tay thấm đẫm nước mắt với vẻ ngạc nhiên và khiếp sợ.
Bà ta thả chiếc khăn rơi xuống như thể nó là vật bẩn thỉu, tội lỗi.
Bà nói:
- Thôi bỏ nó đi.
Tôi gật đầu.
Bà ta ném chiếc khăn tay vào tôi và tôi bắt lấy.
Bà ta cười:
- Baseball Bob.
Tôi để cái khăn tay lên mặt bàn, hỏi:
- Baseball Bob nghĩa là sao?
Bà ta nói che đỡ:
- Chúng tôi thường nói thế. Jimmy và tôi, cả Reggie nữa. Khi Reggie còn nhỏ. Khi ai là người bắt tốt thì sẽ là Baseball Bob - thật ngu ngốc.
- Trong gia đình của tôi nói như thế có nghĩa là "Bạn có thể tham gia vào đội chúng tôi".
- Vâng, tôi có nghe nói.
Chúng tôi ngồi xuống, yên lặng, chịu đựng nhau, giống như các võ sỹ đấm bốc ở hiệp thứ mười ba vậy.
- Đó là bí mật của tôi. Anh thấy vui chứ?
Chuông điện thoại reo. Tôi nhấc máy. Nhân viên tổng đài nói:
- Làm ơn cho gặp bác sĩ Delaware.
- Tôi đang có công chuyện.
- Có một cuộc điện thoại của ông từ vị bác sĩ tên Sturgis. Anh ta đã nhắn tin cho bác sĩ khoảng mười phút trước.
Vicki đứng lên.
Tôi ra hiệu cho bà đợi.
Tôi đáp:
- Hãy bảo với anh ta là tôi sẽ gọi lại sau.
Tôi gác máy. Vicki vẫn đứng đó.
- Đó là chuyên gia trị liệu thứ hai, anh ta lạm dụng bà có đúng không? - Tôi hỏi.
- Lạm dụng?
Từ đó dường như làm cho bà ta thích thú.
- Cái gì cơ? Giống như kiểu những đứa trẻ bị lạm dụng á?
- Phần nhiều vẫn là một thứ có đúng thế không? - Tôi nói.
- Phá vỡ một niềm tin phải không?
- Phá vỡ niềm tin? Thế còn việc thổi phồng nó lên thì sao? Nhưng cũng tốt thôi. Tôi cũng có được bài học từ những việc ấy - Nó làm tôi mạnh mẽ hơn. Bây giờ tôi có thể tự lo cho mình được.
- Bà ta cũng chưa bao giờ phàn nàn về anh ta phải không?
- Không, tôi đã nói với anh rồi, tôi thật ngốc nghếch.
- Tôi...
- Chắc chắn thế - Đó là tất cả những gì tôi cần, lời lẽ của anh chống lại tôi. Còn những ai mà tôi tiếp tục tin tưởng ư? Sau anh ta còn có vài luật sư can thiệp vào cuộc sống của tôi và đào xới cuộc đời tôi - Reggie có lẽ đã trở thành chuyên gia khi nói rằng tôi là một người mẹ nói dối và suy đồi đạo đức... Tôi muốn con trai tôi được nghỉ ngơi trong sự tĩnh lặng, được không? Thậm chí...
Bà đưa cánh tay ra, úp hai bàn tay vào nhau.
- Thậm chí là gì hả Vicki?
- Thậm chí là thằng bé chẳng bao giờ để tôi yên - Bà nói to hơn và loạng choạng vì quá kích động.
- Đến tận lúc chết Reggie vẫn trách tôi. Nó chẳng bao giờ từ bỏ cái cảm giác mà tay bác sĩ trị liệu đầu tiên đã nhồi nhét vào đầu nó. Tôi cũng là một người mẹ tồi. Tôi đã không bao giờ chăm sóc được cho nó cả. Tôi đã khiến nó không học bài, không làm bài tập về nhà. Tôi không ép nó tới trường học bởi vì tôi đếch cần. Thằng bé bảo tại vì tôi nên nó đã bỏ học và bắt đầu chạy theo những ảnh hưởng xấu và chính tôi là toàn bộ những điều xấu đó, một trăm và năm...
Bà cất tiếng cười khiến tôi dựng tóc gáy.
- Muốn nghe một vài điều bí mật nữa không? - loại mà anh và các đồng nghiệp của anh muốn nghe ấy? Reggie chính là người đưa cho tôi quyển sách viết về con mụ đáng ghét ở New Jersey ấy. Món quà cho tôi nhân "Ngày của Mẹ". Tất cả được gói vào một cái hộp nhỏ với những dải ruy băng và chữ "Mẹ". Bằng chữ in, bởi vì nó không thể viết chữ thảo được, nó không biết viết kiểu chữ ấy - thậm chí chữ in cũng uốn cong - giống như chữ của đứa trẻ mới học lớp một. Bao năm nó có bao giờ tặng quà cho tôi đâu. Nhưng rồi món quà đó cũng đến, được bọc cẩn thận, bên trong là một cuốn sách bìa cứng hẳn hỏi viết về những đứa trẻ bị chết. Tôi suýt nữa là ném cuốn sách đó đi, nhưng tôi đã đọc, để xem nó viết gì, xem biết đâu Reggie định nói cho tôi biết điều gì đó. Nhưng rốt cuộc chẳng biết thêm được gì, chỉ thấy toàn nhưng chuyện kinh tởm. Mụ đàn bà trong chuyện là một con quái vật. Không phải là y tá thật sự. Và một điều tôi biết - một điều chắc chắn, không cần phải có sự giúp đỡ của chuyên gia - đó là mụ đàn bà ấy chẳng có liên quan gì đến tôi cả, được chưa? Mụ ta và tôi thậm chí không sống cùng một hành tinh. Tôi chăm sóc cho những đứa bé khỏi ốm, và rất mát tay trong việc này. Tôi không bao giờ làm chúng tổn thương, đúng vậy không? Không bao giờ. Và phần còn lại của cuộc đời này, tôi sẽ dành để giúp đỡ những đứa trẻ yếu đuối kia.
- Tôi có thể đi được chưa? - Bà ta hỏi - Tôi muốn đi rửa mặt.
Tôi đáp:
- Tất nhiên là được rồi.
Bà ta chỉnh lại cái mũ.
- Nghe này, tôi không muốn có thêm chút đau khổ nào nữa, được chưa? Vấn đê chính tôi quan tâm là làm sao cho con bé Cassie được chóng khoẻ, chứ không phải... - Nói đến đây bà ta đỏ mặt rồi đi thẳng ra cửa.
- Ý bà muốn nói bà không quan tâm tới cái phòng đó phải không? - Tôi hỏi lại.
- Ý tôi là việc này không hề dễ dàng chút nào. Nếu anh là người sẽ điều trị cho con bé thì tôi xin ngả mũ chào anh.
- Bà nghĩ thế nào về chuyện các bác sĩ bó tay không tìm ra bất cứ nguyên nhân gì dẫn đến bệnh tình của con bé?
Tay bà ta đặt lên núm cửa.
- Có vô khối thứ bệnh làm các bác sĩ bó tay đấy thôi. Nếu các bậc cha mẹ mà biết rất nhiều thứ gọi là chẩn bệnh chỉ là sự phỏng đoán thôi thì chắc hẳn họ... - Bà ta dừng lại. Đoạn nói tiếp:
- Thôi rồi, tôi lại sắp đưa chân vào rắc rối mất.
- Tại sao bà khẳng định là trong cơ thể con bé thực sự có bệnh?
- Bởi vì nếu không phải thế thì là cái gì nữa đây? Những người bên cạnh con bé không phải là những kẻ lạm dụng thân xác trẻ con. Cindy là một trong những bà mẹ tốt nhất mà tôi từng biết đấy anh ạ. Tiến sĩ Jones cũng là một quý ông thực sự. Cho dù họ là ai thì anh cũng sẽ không bao giờ biết được, bởi vì họ đâu có nói ra cho ai biết, đúng không? Theo tôi, đây mới thực sự là một giai cấp. Anh hãy tự đi tìm hiểu rồi sẽ hay - họ yêu con bé đó. Trước sau gì anh cũng sẽ biết thôi.
- Biết gì cơ, thưa bà?
- Biết được chuyện gì xảy ra với con bé vì có ai đó sẽ tìm ra. Tôi đã chứng kiến chuyện này nhiều lắm rồi. Khi các bác sĩ không thể tìm ra nguyên nhân căn bệnh thì lập tức sẽ gọi đó là bệnh tâm thần gì đó. Rồi đùng một cái, có người tìm ra nguyên nhân mà trừ trước đến nay không ai nghĩ tới và thế là thế giới lại có một phát hiện về căn bệnh mới. Người ta vẫn gọi đó bằng cái tên mỹ miều là sự tiến bộ của y học.
- Thế còn bà gọi đó là gì?
Bà ta nhìn tôi không chớp mắt:
- Thì tôi cũng gọi nó là tiến bộ y học.
Nói đoạn bà ta bước đi. Tôi ở lại và suy nghĩ. Tôi đã làm cho bà ta lên tiếng, nhưng phải chăng là chẳng biết thêm được điều gì?
Dòng suy nghĩ đột nhiên đưa tôi tới hình ảnh món quà độc ác mà con trai Vicki đã tặng cho bà ấy. Một ác ý? Hay thằng bé đó muốn nói cho mẹ điều gì?
Bà ta đã từng nói với tôi rằng đó là một phần của trò chơi? Phải chăng là đã nói cho tôi biết điều mà bà ta muốn tôi phải biết?
Đầu tôi tiếp tục vấn vương những suy nghĩ, nhưng rốt cục không tìm ra điểm gì sáng sủa cả. Tôi ngừng suy nghĩ và đi tới phòng 505.
Cassie đang ngồi trên giường bệnh, bộ quần áo ngủ màu đỏ san hô pha trắng ở cổ và cổ tay. Đôi má con bé lấm tấm đỏ còn mái tóc thì được buộc lại gọn gàng bằng chiếc nơ trắng. Bình truyền tĩnh mạch đã được rút ra, đặt ở góc nhà. Mấy cái bịch đường glucô đã hết vẫn lủng lẳng ở tay con bé. Dấu vết duy nhất chứng tỏ tĩnh mạch con bé đã bị đâm chọc là băng bông dán trên mu bàn tay và vết chất chống khuẩn ở bên dưới. Đôi mắt con bé sáng lên khi thấy tôi.
Cindy ngồi cạnh con bé, đang bón cháo cho nó. Cô ta mặc sơ mi có dòng chữ Hãy cứu lấy đại dương, váy vải bò và dép xăng đan. Bộ ngực cô rất mượt và nổi như những con cá heo đang vờn. Hai mẹ con trông thật giống nhau.
Khi tôi tới, Cassie miệng đầy thức ăn. Một vệt cháo vẫn còn dính trên môi con bé.
Cindy lấy tay lau vệt cháo đó đi.
- Con, ăn nhanh nào. Chào bác sĩ Delaware. Chúng tôi cứ nghĩ là ông sẽ không tới hôm nay đấy.
Tôi đặt ca táp xuống và ngồi xổm cạnh chân giường. Cassie có vẻ gì đó tò mò nhưng không hề sợ sệt.
- Sao chị lại nghĩ thế? - Tôi hỏi.
- Vì hôm nay là cuối tuần mà.
- Mẹ con chị ở đây nên tôi đến.
- Ông thật tốt bụng. Này con, bác sĩ Delaware từ xa đến đây thăm mẹ con mình cả vào ngày thứ Bảy đấy.
Cassie nhìn mẹ rồi lại nhìn tôi, vẻ mặt vẫn đầy bối rối.
Tôi muốn biết có chuyện gì sau cơn co giật không nên hỏi ngay:
- Mọi chuyện thế nào rồi hả chị?
- Ồ, tốt đẹp rồi bác sĩ ạ.
Tôi chạm vào tay Cassie. Con bé để nguyên một giây rồi từ từ rụt tay lại. Khi tôi nựng con bé, nó ngó mắt nhòm xuống tay tôi.
- Chào cháu Cassie - Tôi nói.
Con bé tiếp tục nhìn tôi không chớp mắt. Một ít thức ăn rớt khỏi miệng nó. Cindy vội lau đi và nhẹ nhàng lấy tay khép miệng con bé lại. Cassie bắt đầu nhai rồi há miệng nói:
- Chaaaao baaaac.
- Tốt lắm - Cindy nói - Chào bác! Con giỏi lắm.
- Chaaao.- Cháu hôm nay ăn ngoan lắm bác sĩ ạ. Sáng nay cháu uống nước hoa quả, ăn trái cây và ít kẹo. Đến trưa thì tôi cho cháu ăn cháo.
- Tốt lắm.
- Tốt thật đấy - Giọng của chị ta thật vui.
Nhớ lại lúc trước chị ta hơi căng thẳng khi nói chuyện với tôi - cảm thấy chắc chị ta sẽ nói cho tôi điều gì đó quan trọng nên tôi nói ngay:
- Chị có điều gì muốn bàn bạc với tôi không?
Chị ta chạm vào mái tóc của Cassie. Cassie bắt đầu vẽ.
- Có lẽ là không, thưa bác sĩ.
- Bác sĩ Eves nói với tôi rằng mẹ con chị sắp ra viện về nhà.
- Thì bà ấy nói thế - Chị ta chỉnh cái bím tóc của Cassie - Tôi cũng mong sớm được về nhà rồi.
- Chắc chắn vậy - Tôi nói - Không có bác sĩ là sướng nhất.
Chị ta nhìn tôi.
- Các bác sĩ ở đây rất nhiệt tình. Tôi biết họ đã làm hết sức mình rồi.
- Chị đã thấy một vài người làm việc tốt nhất - Tôi đồng tình - Như Bogner, Torgeson, Macauley, Dawn Herbert.
Không thấy có phản ứng gì.
- Chị đã có kế hoạch gì khi về nhà chưa?
- Chỉ là mong được trở lại bình thường thôi bác sĩ ạ.
Vẫn chưa rõ ý chị ta nên tôi hỏi:
- Có lẽ tôi sẽ về sớm một chút.
- Vâng, tất nhiên. Bác sĩ có thể ngồi vẽ một chút với bé Cassie. Cassie, mẹ con mình tìm cho bác sĩ cái ghế chứ nhỉ?
- Vâng.
- Đúng rồi.
- Vâng.
- Tuyệt quá, Cassie. Con có muốn bác sĩ Delaware cùng vẽ với con một chú gấu không?
Thấy Cassie không đáp, chị ta lại nói:
- Vẽ ấy, vẽ hình ấy. Cùng với bác sĩ Delaware.
Cassie nhìn chị ta rồi lại nhìn sang tôi sau cùng nó gật đầu và cười.
Tôi nán lại đó một chút, chơi đùa với con bé để xem có dấu hiệu tổn thương sau khi co giật không. Cassie có vẻ rất ổn, nhưng tôi biết các tác động đối với não bộ thường diễn ra rất chậm và khó mà đoán biết được. Đã hàng ngàn lần tôi tự hỏi không biết điều gì đang diễn ra trong người con bé.
Cindy cũng khá thân thiện, nhưng tôi không thể thoát khỏi ý nghĩ rằng sự hào hứng của chị ta với tôi đã dần dần biến mất. Chị ta ngồi trên giường và bắt đầu chải tóc trong khi dò tìm kênh tivi. Không khí bệnh viện khá mát mẻ và khô, mái tóc phát ra tiếng kêu lách tách mỗi lần chị ta chải. Ánh sáng phương Bắc lọt vào khe cửa sổ căn phòng, một tia nắng vàng rơm xuyên qua mây khói và tan trên nền giấy dán tường ố trắng. Tia nắng chạm vào những lọn tóc dài và tạo ra những luồng sáng xuyên qua lọn tóc ấy.
Tia nắng tạo ra một tác động thẩm mỹ khiến Cindy đột ngột trở nên thật xinh đẹp. Tôi không nghĩ chị ta hấp dẫn - chắc vì ý nghĩ chị ta là một con quỷ. Nhưng khi thấy sự lấp lánh của chị ta trong tia nắng vàng thì tôi mới biết, chị ta thật uổng phí sắc đẹp trời phú của mình.
Trước khi tôi kịp nghĩ sâu hơn về điều này thì cánh cửa bật mở, Chip vào phòng mang theo cốc cà phê trên tay. Ông ta mặc bộ quần áo rét màu xanh và đi giày thể thao, mái tóc vừa mới gội. Tai Chip còn có một viên kim cương lấp lánh.
Ông ta chào tôi rất thân thiện như hai ông bạn già gặp gỡ tại quán bia, nhưng bên trong cái vẻ thân thiện ấy là thứ gì đó sắt đá lạnh tanh - một sự phản kháng không khác so với Cindy. Tôi tự hỏi không biết hai người bọn họ đã bàn bạc gì về tôi không. Khi ông ta ngồi xuống giữa Cassie và tôi thì tôi đứng dậy nói:
- Thôi, hẹn ông hôm khác vậy.
Không ai phản đối việc tôi ra về mặc dù Cassie thì vẫn để mắt nhìn theo. Tôi cười với con bé. Nó nhìn tôi không chớp mắt trong phút chốc rồi lại tiếp tục vẽ. Tôi lượm đồ rồi ra cửa.
- Tạm biệt bác sĩ Delaware - Cindy nói.
Tôi nhìn qua vai Chip sang bé Cassie, đưa tay vẫy nó. Nó cũng giơ bàn tay lên và co mấy ngón tay lại. Cái bím tóc nó lại rối bời. Bất chợt tôi muốn cúi xuống và ôm nó về nhà với tôi.