Ở phía đầu phòng xử án, kê một cái ghế bành cao để quan Chánh thẩm ngồi. Ở dưới chân bục, có một cái bàn để cho các ông lục sư, bên phải và bên trái bàn đó kê nhiều chiếc ghế nữa. Một số những ghế này gom lại thành một nhóm riêng và được rào lại: chỗ đó dành cho đoàn phụ thẩm nhân dân khi nào cần. Đối diện bàn đó có mấy cái ghế và bàn cong theo hình bán nguyệt để cho các luật sư ngồi. Sau hình bán nguyệt đó, là cái ghế dài cho các bị cáo ngồi, với một lối đi đưa tới một cầu thang xuống hầm. Từ dưới hầm người ta dẫn những người bị xử lên. Phía cuối phòng xử có mấy dãy ghế, dãy sau cao hơn dãy trước để công chúng ngồi, người Âu ngồi các dãy bên mặt, người không phải gốc Âu thì ngồi các dãy bên trái đúng theo tục lệ.
Trong phòng xử không được hút thuốc, không được nói lớn hoặc thì thầm hay cười. Ăn bận phải đàng hoàng; đàn ông phải bỏ nón ra, trừ khi theo một tôn giáo không cho phép bỏ nón. Như vậy để tỏ thái độ tôn trọng quan Chánh thẩm, tôn trọng Anh Hoàng đã trao quyền cho quan Chánh thẩm, tôn trọng Luật pháp mà quan Chánh thẩm thi hành và tôn trọng Quốc dân đã đặt ra Luật pháp. Khi quan Chánh thẩm bước vô thì mọi người phải đứng dậy, đợi ông ngồi xuống thì mới được ngồi. Khi quan Chánh thẩm bước ra, mọi người cũng đứng dậy đợi ông ra khỏi rồi mới được ra. Như vậy để tỏ thái độ tôn trọng quan Chánh thẩm và Luật pháp mà ông thi hành.
Vì quan Chánh thẩm có một nhiệm vụ rất quan trọng: phán quyết và tuyên án, cả những án tử hình. Vì quyền cao chức trọng đó mà người ta gọi các vị Chánh thẩm đó là Ngài và trong các buổi lễ lớn, được đứng trước ngồi trên các người khác. Các vị đó được mọi người cả da trắng lẫn da đen tôn kính. Trong cái xứ có không khí sợ hãi này, một vị Chánh thẩm phải là một người vô uý, thì việc xử án mới được chính trực, đúng Pháp Luật được. Một vị Chánh thẩm phải rất mực thanh liêm.
Các vị Chánh thẩm không làm Luật, Quốc dân mới làm Luật. Có khi một đạo Luật có thể bất công, nhưng bổn phận của các vị Chánh thẩm là phán quyết đúng theo Luật, áp dụng Luật pháp dù nó bất công.
Bổn phận của vị Chánh thẩm là phán quyết theo Luật, chỉ có Quốc dân làm Luật mới có bổn phận phải công bằng. Do đó, nếu một vụ án xử đúng Luật mà không công bằng thì trách nhiệm không về Chánh thẩm mà về Quốc dân, nghĩa là về người da trắng, vì chính người da trắng làm ra Luật, chứ không phải người da đen.
Ở Nam Phi người ta rất hãnh diện về các vị Thẩm phán, vì người ta tin rằng các vị đó thanh liêm. Ngay những người da đen cũng tin ở sự công tâm của các vị đó mặc dầu không tin vào sự công bằng của Pháp luật. Trong một xứ có cái không khí sợ hãi thì đức liêm khiết như một ngọn đèn đặt trên một cái bệ cao chiếu sáng chung cho mọi người trong nhà.
Có lời yêu cầu yên lặng và mọi người đứng cả dậy. Dù trong phòng này có bị nào chức lớn hơn ông Chánh thẩm thì vị đó cũng đứng dậy, vì sau ông Chánh thẩm còn có Luật pháp đáng tôn trọng hơn bất kỳ người nào. Ông Chánh thẩm bước vô với hai ông Phụ thẩm: họ ngồi xuống và công chúng ngồi xuống theo. Phiên toà bắt đầu.
Từ dưới hầm người ta dẫn lên ba người bị đem ra xử trong phiên toà đó và mọi người chăm chú nhìn họ….Có người thấy rằng họ có bộ mặt sát nhân, lại còn thì thầm với nhau như vậy nữa, mặc dù ở đây cấm thì thầm. Có người không thấy họ có bộ mặt sát nhân chút nào. Có người lại thấy tên này có vẻ sát nhân, tên kia không.
Một người da trắng đứng dậy, tuyên bố rằng ba người đó bị buộc tội cố sát Arthur Trevelyan Jarvis, trong nhà ông này ở đường Planlation, Parkwold, Johannesburg, ngày thứ ba mùng tám tháng mười, năm 1946, vào lúc xế trưa. Bị cáo thứ nhất tên là Absalom Kumalo, bị cáo thứ nhì là Matthew Kumalo, bị cáo thứ ba là Johannes Pafuri. Người ta hỏi họ nhận tội hay không nhận tội. Bị cáo thứ nhứt nhận có giết nhưng không cố ý giết. Bị cáo thứ nhì bảo mình không có tội và bị cáo thứ ba cũng vậy. Mỗi lời tuyên bố và câu hỏi đều dùng bằng tiếng Anh và tiếng Zulu để cho ba bị cáo hiểu. Vì tuy Pafuri không phải là người Zulu nhưng bảo rằng hiểu tiếng Zulu.
Vị luật sư, người da trắng vì Chúa mà biện hộ cho chuyện này, bảo rằng Absalom Kumalo sẽ nhận tội sát nhân chứ không cố sát vì không có ý muốn giết người. Nhưng ông Chưởng lý bảo không thể như vậy được: đây không phải là vụ xử tội sát nhân vì bị can bị buộc tội là cố sát. Như vậy thì Absalom Kumalo cũng bảo rằng không có tội, như hai bị can kia.
- Rồi khi đã lập chương trình hành động rồi, anh quyết định ngày mồng tám tháng mười sẽ thi hành hả?
- Dạ.
- Tại sao anh lựa ngày đó?
- Johannes bảo ngày đó trong nhà không có ai.
- Johannes nào? Phải, Johannes Pafuri không?
- Dạ phải, Johannes Pafuri bị cáo cùng với tôi đây.
- Và lựa giờ đó: một giờ rưỡi trưa hả?
- Dạ.
- Lựa giờ đó không bậy sao? Giờ đó người da trắng thường về nhà dùng bữa trưa mà?
Bị cáo làm thinh.
- Tại sao anh lại lựa giờ đó?
- Chính Johannes lựa giờ. Nó bảo rằng có một tiếng nói xúi nó lựa giờ đó.
- Tiếng nói nào?
- Cái đó, tôi không biết.
- Tiếng nói của tội ác hả?
Bị cáo lại làm thinh không đáp.
- Rồi cả ba người đi lại phía cửa sau của ngôi nhà hả?
- Dạ.
- Anh và cả hai người bị cáo kia nữa, phải không?
- Dạ, tôi với chính hai người đó.
- Rồi sao nữa?
- Rồi chúng tôi buộc khăn mùi xoa để che phía miệng.
- Rồi sao nữa?
- Rồi chúng tôi vô nhà bếp.
- Lúc đó có ai trong nhà bếp?
- Có người bồi trong đó.
- Phải Richard Mpiring không?
- Tôi không biết tên anh ta.
- Phải người này không?
- Dạ, chính người đó.
- Rồi sao nữa? Kể hết cho toà nghe đi.
- Người đó sợ. Chú ta thấy cây súng sáu của tôi. Chú ấy đứng dựa vào chỗ rửa chén, chú ấy đương rửa chén thì chúng tôi vô. Chú ấy hỏi: “ Các người muốn gì? ”. Johannes bảo: “ Muốn tiền bạc quần áo ”. Chú ấy bảo: “ Không được làm cái trò đó ”. Johannes bảo: “ Mày muốn chết không? ”. Chú đó sợ rồi bỗng la lớn lên: “Ông chủ, ông chủ! ”. Rồi Johannes vung cây gậy sắt thu thu ở sau lưng đập lên đầu chú ta.
- Đập mấy cái?
- Một cái thôi.
- Rồi người đó có la lên nữa không?
- Không la một tiếng nào nữa.
- Rồi các anh làm gì?
- Chúng tôi làm thinh, Johannes bảo phải im.
- Các anh làm gì nữa? Nghe ngóng chứ?
- Chúng tôi nghe ngóng.
- Nghe thấy gì không?
- Thưa không.
- Cây súng lục của anh lúc đó ở đâu?
- Ở trong tay tôi.
- Rồi thì sao?
- Rồi thì một người da trắng tới hành lang.
- Rồi sao nữa?
- Tôi sợ, tôi nổ súng.
- Rồi sao nữa?
Tên bị cáo ngó xuống sàn nói:
- Người da trắng gục xuống.
- Rồi sao nữa?
- Johannes vội vàng bảo: “ Phải dông đi thôi ”, và chúng tôi hấp tấp rút lui.
- Ra cửa sau.
- Dạ.
- Rồi băng qua con đường, vô sở trồng cây?
- Dạ.
- Lúc đó cùng chạy với nhau không?
- Không, tôi chạy theo phía tôi.
- Anh gặp lại người kia hồi nào?
- Ở nhà Baby Mkize.
Nhưng viên Chánh Thẩm ngắt lời
- Ông Chưởng Lý, xin ông cho tôi hỏi bị cáo thứ nhất một vài câu đã, rồi ông sẽ tiếp tục lấy khẩu cung.
- Xin vâng ý ngài.
- Tại sao anh mang theo khẩu súng lục đó?
- Để doạ người bồi trong nhà.
- Nhưng tại sao anh lại có được súng lục?
Làm thinh.
- Phải trả lời câu hỏi của tôi chứ.
- Người ta bảo tôi nên có súng lục.
- Ai bảo anh?
- Không, người ta bảo tôi rằng Johannesburg là nơi nguy hiểm.
- Người ta là ai?
Lại làm thinh.
- Phải người ta đó là hạng người chuyên làm cái việc ăn trộm ăn cướp đó không?
- Thưa không phải.
- Thế thì là ai?
- Tôi không nhớ rõ. Có lần ở một chỗ nào đó tôi nghe thấy nói vậy.
- Có phải muốn nói rằng trong một cuộc hội họp đông đảo nào đó có người bảo: Johannesburg là một nơi nguy hiểm, phải có súng lục mới được, phải anh muốn nói vậy không?
- Dạ thưa phải, tôi muốn nói vậy.
- Và anh biết rằng súng của anh nạp đạn sẵn rồi chứ?
- Dạ tôi biết.
- Nếu anh mang súng chỉ để doạ người ta thôi thì tại sao lại nạp đạn sẵn.
Thanh niên đó làm thinh.
- Vậy là anh sẵn sàng để bóp cò hả?
- Thưa không, tôi không có ý định muốn bắn một người đàng hoàng. Tôi định chỉ khi nào người ta bắn tôi, tôi mới bắn lại.
- Một cảnh sát trong khi thi hành phận sự mà bắn anh thì anh có bắn lại không?
- Không, tôi không bắn cảnh sát.
Viên Chánh Thẩm làm thinh. Mọi người im lặng. Rồi ông nghiêm nghị hỏi:
- Thế người da trắng mà anh bắn đó không phải là một người đàng hoàng sao?
Bị cáo lại ngó xuống sàn, rồi đáp nho nhỏ:
- Lúc đó tôi sợ quá, tôi sợ quá. Tôi không bao giờ có ý muốn giết ông ấy cả.
- Anh kiếm cây súng lục đó ở đâu?
- Tôi mua của người ta.
- Ở đâu?
- Ở Alexandra.
- Người đó là ai? Tên là gì?
- Tôi không biết tên người đó.
- Nhà người đó ở đâu?
- Tôi không biết.
- Anh có thể tìm lại người đó được không?
- Tôi có thể rán tìm xem.
- Khi mua, súng có nạp đạn sẵn không?
- Có nạp sẵn hai viên.
- Khi anh lại ngôi nhà đó thì trong súng có mấy viên?
- Còn một viên.
- Thế còn viên kia đi đâu?
- Tôi đem súng lại một sở cây, trên đồi phía sau Alexandra và tôi bắn một phát.
- Bắn vào cái gì?
- Bắn vào một thân cây.
- Có trúng không?
- Thưa trúng.
- Và anh nghĩ bụng: “ Bây giờ mình biết dùng súng lục rồi ”, có phải vậy không?
- Thưa phải.
- Ai cầm cây gậy sắt?
- Thưa, Johannes cầm.
- Anh biết rằng y cầm không?
- Thưa biết.
- Anh biết rằng khí giới đó nguy hiểm, có thể giết người được chứ?
Thanh niên đó cấm tiếng lớn:
- Không phải giết ai, đập ai. Chỉ để doạ thôi.
- Nhưng anh đã có một khẩu súng để dọa rồi mà?
- Dạ, nhưng Johannes bảo sẽ cầm theo cây gậy. Hắn bảo gậy đó đã được ban phước lành.
- Gậy đã được ban phước lành?
- Hắn bảo vậy.
- Johannes nói, vậy là nghĩa làm sao?
- Thưa tôi không biết.
- Có nghĩa là một mục sư đã cầu phước cho cậy gậy, phải vậy không?
- Tôi không biết.
- Anh không hỏi ư?
- Thưa tôi không hỏi.
- Thân phụ anh là một mục sư phải không?
Thanh niên đó lại nhìn xuống sàn, đáp nho nhỏ:
- Dạ.
- Thân phụ anh có cầu phước cho một cây gậy như vậy không?
- Thưa không.
- Anh không bảo Johannes: “ Đừng mang cây gậy đó đi ” ư?
- Thưa không.
- Anh cũng không hỏi hắn: “ Làm sao một vật như vậy có thể được ban phước được hả ”.
- Thưa không.
- Xin ông Chưởng lý tiếp tục lấy khẩu cung.
- Và khi hai người đó khai rằng ở trong nhà Baby Mkize, không có bàn bạc gì về vụ giết người đó, là họ nói dối hả?
- Họ nói dối.
- Và khi họ bảo rằng sau khi gặp họ ở nhà Mkize, anh mới bịa ra chuyện đó, thì họ cũng nói dối nữa hả?
- Họ nói dối.
- Và khi Baby Mkize bảo họ không nói chuyện giết người đó ở trước mặt y thị, thì là thị nói dối.
- Thím ấy nói dối. Thím ấy sợ, bảo chúng tôi đi ra khỏi nhà thím ấy đi, đừng trở lại nữa.
- Rồi cả ba người cùng đi ra một lượt?
- Không, tôi đi trước.
- Đi đâu?
- Lại một sở cây.
- Làm gì ở đó?
- Lại chôn khẩu súng lục.
- Phải khẩu súng lục đặt ở kia không?
Người ta chìa cho bị cáo một khẩu súng lục. Bị cáo xem xét nó, rồi đáp:
- Chính khẩu súng này.
- Làm sao người ta kiếm được nó?
- Không, chính tôi chỉ chỗ cho Cảnh sát kiếm.
- Chôn xong khẩu súng anh làm gì?
- Tôi cầu nguyện ở đó.
Viên Chưởng lý có vẻ hơi sững sờ; viên Chánh thẩm hỏi:
- Anh cầu nguyện điều gì?
- Cầu nguyện được tha tội.
- Rồi gì nữa?
- Thế thôi, tôi không cầu nguyện gì khác.
- Rồi hôm sau anh trở lại Johannesburg hả?
- Dạ.
- Và anh đi lẫn trong đám người tẩy chay xe buýt?
- Dạ.
- Anh có nghe thấy họ còn bàn tán về tên sát nhân không?
Thưa, họ có bàn tán. Có người bảo rằng thế nào nó cũng bị bắt.
- Rồi sao?
- Tôi sợ hãi.
- Sợ thì anh làm gì?
- Tối đó tôi lại ngủ ở Garmiston.
- Trong ngày hôm đó anh làm gì? Có lẩn trốn nữa không?
- Không, tôi mua một chiếc áo sơ-mi, ôm gói áo đi lang thang.
- Tại sao làm vậy?
- Để người ta cho tôi là một người đi giao hàng.
- Còn làm gì khác nữa không?
- Thưa không.
- Rồi anh trở lại Germiston? Tới chỗ nào?
- Tới nhà Joseph Bhengu, số 12 đường Maseru khu đất chia lô cho mướn.
- Rồi sao nữa?
- Trong khi tôi đang ở đó thì cảnh sát tới.
- Rồi xảy ra chuyện gì?
- Cảnh sát hỏi tôi có phải là Absalom Kumalo không. Tôi đáp phải, và tôi sợ hãi, hôm đó tôi đã có ý muốn lại thú tội với Ty cảnh sát và lúc đó tôi thấy rằng tôi ngu dại mà chần chừ.
- Cảnh sát bắt anh tức thì chứ?
- Thưa không. Họ hỏi tôi có biết Johannes ở đâu không, tôi bảo không, tôi không biết, nhưng không phải Johannes giết ông da trắng mà chính tôi đã giết. Con Johannes đập người bồi té bất tỉnh. Và toi bảo rằng Matthew cũng có ở đó. Và tôi bảo họ rằng tôi sẽ chỉ chỗ tôi chôn cây súng lục. Và tôi bảo rằng hôm đó tôi đã có ý lại ty cảnh sát thú tội, nhưng tôi đã ngu dại chần chừ, vì tôi sợ.
- Rồi anh làm tờ khai trước mặt ông Andries Coetzee Phó hành chánh ở Johannesburg?
- Tôi không biết tên ông ấy.
- Phải đây là tờ khai của anh không?
Người ta đưa tờ khai cho hắn, hắn coi rồi đáp:
- Phải đây chính là tờ khai của tôi.
- Lời khai nào cũng đúng cả chứ?
- Thưa lời nào cũng đúng hết.
- Không có lời nào khai man chứ?
- Không có lời nào khai man vì tôi nghĩ bụng: “ Từ nay mình không nói dối nữa, suốt đời không nói dối nữa, không làm cái gì ác nữa ”.
- Tóm lại là anh đã hối hận hả?
- Dạ, tôi đã hối hận.
- Vì anh đương ở trong cảnh nguy hả?
- Dạ, vì tôi đương ở trong cảnh nguy.
- Anh hối hận còn vì lý do nào khác không?
- Thưa, không có lý do nào khác.
Khi phiên thẩm vấn dời lại, viên Chánh thẩm và các viên Phụ thẩm bước ra thì mọi người đứng cả lên, rồi đi ra cửa ở sau các dãy ghế dài kê thành từng cấp, người Âu đi một cửa riêng, người không phải gốc Âu đi một cửa riêng, theo tục lệ.
Kumalo và Msimangu, Gertrude và bà Lithebe cùng ra với nhau và họ nghe có người bảo:
- Thân phụ của người da trắng bị giết kia kìa.
Kumalo đưa mắt kiếm và thấy đúng ông đó là thân phụ người bị giết, ông chủ điền có cái trại ở trên các đồi cao, phía trên Ndotsheni, người mà ông ta thấy đã có lần cưỡi ngựa đi ngang qua giáo đường. Và Kumalo run lên, quay mặt đi. Vì làm sao nhìn một người như vậy.
Ít ai chú ý tới vụ xử ba tên bị cáo phạm tội giết ông Arthur Jarvis ở Parkwold vì lúc đó người ta mới tìm thêm được mỏ vàng, mỏ vàng rất phong phú. Có một cái làng nhỏ tên là Odendaalsrust ở tiểu bang Orange Free State[1]. Mới trước làng đó còn vô danh, thì hôm sau đã được khắp thế giới biết tên.
Vàng ở đó không kém thứ vàng tốt nhất mà từ trước người ta đã tìm được ở Nam Phi, không kém thứ vàng hạng nhất tìm được ở Johannesburg. Nhiều người dự đoán rằng một Johannesburg nữa sẽ mọc lên ở đó một châu thành lớn, nhà cao ngất trời và đường phố đông nghẹt người. Những kẻ trước kia rầu rĩ lo rằng các mỏ vàng ở Johannesburg một ngày kia sẽ cạn, bây giờ đây mừng rỡ hớn hở. Họ bảo là được hưởng thêm một kỳ hạn sinh hoạt nữa.
Ở Johannesburg không khí thật phấn khởi. Ở thị trường Chứng khoán, người ta như phát điên, la, hét, tung nón lên trời, vì những cổ phần người ta mua chỉ để cầu may, tức những cổ phần về các mỏ chưa tìm ra, những cổ phần đó bây giờ giá tăng lên vùn vụt, ngoài sự mơ ước của họ.
Trước kia, ở Orange Free State chỉ có những đồng cỏ bằng phẳng, gợn sóng, chỉ có những bầy bò và cừu, với những kẻ bản xứ chăn bò, chăn cừu; chỉ có cỏ và phượng vĩ và xa xa mới có một ruộng bắp. Không có gì ra vẻ là một cái mỏ, trừ mấy cái máy khoan, mấy kỹ sư kiên nhẫn dò xét những bí mật trong lòng đất; không ai lại coi họ làm gì, trừ một bộ hành bản xứ, một trẻ chăn bò, một chủ trại gà nói tiếng Afrikaans cưỡi ngựa đi ngang, ngó họ mà tỏ vẻ khinh miệt hoặc sợ sệt hoặc hy vọng tuỳ tính tình mỗi người.
Này, ông coi này, giá cổ phần Tweede Vlei lên kinh khủng không này. Trước kia có hai mươi si-linh rồi lên bốn mươi, rồi sáu mươi và bây giờ - ông có thể tin được không? – lên tới tám mươi si-linh rồi!
Biết bao người đã khóc vì đã bán cổ phần lúc mười hai giờ trưa, chứ không phải lúc hai giờ; hoặc vì họ đã mua lúc hai giờ chứ không phải lúc mười hai giờ trưa. Và người bán sáng mai mới tiếc hơn nữa vì giá cổ phần sẽ lên tới một trăm si-linh.
Thật lạ lùng! Nam Phi là một xứ lạ lùng. Khi nào chúng ta đi ngoại quốc sẽ tha hồ vênh mặt và thiên hạ sẽ bảo: “ A! Các ông ở Nam Phi thì giầu quá xá mà ”.
Odendaalsrust, cái tên có ma lực, thích quá. Ấy vậy mà ở thị trường Chứng khoán đã có kẻ bảo rằng - những kẻ này nói tiếng Afrikaans chẳng lấy gì làm hay lắm – có kẻ bảo rằng phải kiếm một tên giản dị hơn, chẳng hạn Smuts hay Smutsville; một tên dễ đọc hơn, chẳng hạn Hofmeyr – nhưng đã có một nơi khác mang tên Hofmeyr rồi - với lại, cái tên này nó cũng làm sao ấy, nghe không thú.
Thật là tai hại, sao mà tên những cái mỏ ấy không sao phát âm nổi. Đáng tiếc rằng một kỹ nghệ lớn do những bộ óc như vậy điều khiển, được một kế hoạch như vậy thúc đẩy, mà bị những tên kỳ quái như vậy làm trở ngại: nào là Blyvooruitzicht, Welgedacht, Langlaagte, bây giờ lại thêm Odendaalsrust nữa. Nhưng những cái đó chúng ta nên nói nhỏ với nhau thôi, nói trong câu lạc bộ, nói riêng với nhau thôi, vì hầu hết chúng ta đều ở trong đảng Đại đoàn kết chủ trương hợp tác với nhau, hiểu biết lẫn nhau, coi nhau như bạn bè, anh em. Nhưng nếu những người Afrikaaner chịu hiểu rằng chính sách dùng hai ngôn ngữ chính thức là điên khùng, thì có phải tiết kiệm được vô số tiền bạc không?
Vàng, vàng, vàng! Xứ này lại sắp phong phú trở lại. Giá cổ phần từ hai mươi si-linh lên một trăm si-linh, bạn thử tưởng tượng rồi cảm ơn Thượng Đế đi. Nói thực ra, cũng có một số không biết cảm ơn Thượng Đế. Nhưng phải nhận rằng họ không có nhiều cổ phần, có kẻ lại chẳng có một cổ phần nào cả. Vài kẻ trong đó hô hào, diễn thuyết; quả thực là lý thú, hào hứng mà nhận thấy rằng về điểm đó, nhiều khi những kẻ không có cổ phần lại là những kẻ nói năng rất hùng hồn, cơ hồ như có số phận, bản tính hoặc sinh lực, hoặc cái năng lực gì đó điều khiển, cho họ có tài ăn nói để đền bù họ. Tôi nói như vậy chẳng phải vì mến họ hay mỉa mai họ đâu, chỉ là khách quan nhận xét vậy thôi, bạn hiểu cho chứ. Nhưng đó chẳng qua chỉ là một ý ngông, ngược đời, đừng nói ra thì hơn. Những kẻ đó hùng hồ nhưng lại thiếu thế lực về tài chánh đó, hầu hết diễn thuyết trong những tổ chức nhỏ như các câu lạc bộ thiên tả, các đoàn thể tôn giáo và các hội đề cao tình thân ái, tình huynh đệ. Họ cũng viết bài đăng báo nữa, hầu hết là những tờ báo nhỏ như tờ Xã hội mới hoặc là tờ Nhân loại đang tiến tới , hoặc trên cái tờ kỳ cục Thánh giá ở ngã tư đường, một tờ báo tám trang nhỏ, chẳng ai biết tới, mỗi tuần ra một số, chủ nhiệm là cha Beresford, một con người kỳ dị, lúc nào cũng như nhịn đói đã mấy tuần. Ông ta nói tiếng Anh sao mà hay thế, đúng là cái giọng Oxford chứ không phải cái giọng mà người ta nghe được ở Rhodes, ở Stellenbosch; chính nhớ cái giọng đó mà ông được tiếp đón, mặc dầu đầu tóc ông lúc nào cũng bù xù, quần thì nhăn nheo không bao giờ ủi. Ông có vẻ là một người cải tà theo đạo Ki Tô, mắt long lanh tia lửa; mà sự thực là trong cánh rừng của đêm tối lòng ông bừng lên khi viết tờ báo kỳ cục của ông. Ông là nhà truyền giáo và nhiệt liệt tin ở Thượng Đế; nhưng trên đời có người thế này thì phải có người thế khác chứ.
Vậy có những kẻ cho rằng nếu giữ giá cổ phần hai mươi si-linh còn tám chục si-linh kia thì chẳng hạn để dùng vào công việc đại quy mô chống sự xói mòn của nước mà cứu đất đai trong xứ. Cũng nên trợ cấp các hội thanh niên, các hội thiếu nữ, các cơ quan cứu tế xã hội, cất thêm dưỡng đường, cũng nên tăng tiền lương cho thợ mỏ nữa.
Ai cũng thấy rằng những ý kiến đó thật lộn xộn vì giá cổ phần mà liên quan gì tới vấn đề tiền công; giá đó chỉ đơn thuần tuỳ thuộc về những phí tổn khai mỏ và giá vàng trên thị trường. Nhân đây mới sực nhớ tới, người ta bảo rằng hiện trong mỏ có vài ông lớn không có một cổ phần nào cả thì có đang phục không chứ, vì sự quyến rũ chắc phải mạnh lắm mà sao họ chống lại nổi nhỉ?
Dù sao, chúng ta cũng không nên rầu rĩ quá, khi nghĩ rằng tám chục si-linh đó sẽ không làm cho tình trạng thay đổi là bao nhiêu. Ta thử đứng vào một khía cạnh khác mà xét. Này nhé, khi giá cổ phần tăng từ hai mươi si-linh lên một trăm si-linh thì tất có một số người nào đó được hưởng tám mươi si-linh lời. Nhưng không nhất định là một người duy nhất được hưởng trọn số đó, vì nếu như vậy chẳng hoá ra đẹp đẽ quá ư, mà một người như vậy tất có phép thần thông về tài chánh, chánh quyền còn đợi gì mà không mời làm cố vấn. Vậy có phần chắc chắn rằng tám chục si-linh đó sẽ chia cho nhiều người, vì người có cổ phần thấy giá mới lên, ham quá, mất bình tĩnh, vội đem bán ngay. Dĩ nhiên là những người đó chẳng thực sự làm lụng gì nghĩa là không phải đổ mồ hôi, làm chai tay ra, mà cũng được hưởng số lời. Nhưng cái đức làm liều, cái tài tiên đoán của người ta cũng đáng được thưởng chứ, và cũng không nên quên rằng tinh thần người ta căng thẳng, cũng mệt lắm chứ. Cái số tám chục si-linh đó, họ đem ra tiêu dùng và nhờ vậy mới có thêm công việc cho người khác, rốt cục là cái xứ này được giầu thêm tám chục si-linh nữa. Và có nhiều người trong bọn họ rộng rãi quyên cho các hội Thanh niên, hội Thiếu nữ, các cơ quan cứu tế xã hội, các dưỡng đường. Các nơi xa xôi như Bloemfontein, Grahamstown và Beaufort West, người ta chê trách rằng Johannesburg chỉ nghĩ tới tiền, là nói bậy. Ở đây tôi cũng thấy có nhiều người chồng, người cha tốt như ở các châu thành khác, và một thân hào của chúng ta sưu tập rất nhiều tác phẩm nghệ thuật, nhờ vậy mà các nghệ sĩ mới có công việc mà nghệ thuật mới khỏi chết; lại có vài ông có những đồn điền lớn ở phía Bắc để tới nơi đó săn bắn, hoà mình với thiên nhiên.
Khi đã có thêm các công việc cho người khác thì người ta sẽ tiêu một phần trong số tám chục si-linh đó đi. Dĩ nhiên là không tiêu hết. Vì những người bán cổ phần theo giá mua một trăm si-linh phải giữ lại một số tiền để mua lại cổ phần khi nó hơi xuống giá. Nhưng các chủ điền có thể sản xuất thêm thực phẩm, các nhà kỹ nghệ có thể sản xuất thêm hoá phẩm, và chính phủ có thể tuyển thêm nhân viên, mặc dầu chúng ta có thể tự hỏi có cần tăng thêm các công chức nữa không, nhưng đó là vấn đề khác không thể bàn ở đây được. Và tụi bản xứ sẽ không phải chết đói trong khu đất riêng dành cho họ nữa. Họ có thể lại mỏ kiếm việc, người ta sẽ cất cho họ những trại rộng lớn hơn, nhiều tiện nghi hơn, thức ăn của họ sẽ có đủ sinh tố hơn. Nhưng phải coi chừng đấy, một nhà chuyên môn mới thấy rằng thợ thuyền có thể bị cái bệnh quá dư sinh tố. Đó là một trường hợp của cái luật Giảm năng xuất.
Và có lẽ một châu thành lớn sẽ dựng lên, một Johannesburg thứ nhì với một Parktown thứ nhì, một Houghton thứ nhì, một Parkwold thứ nhì, một Kensington thứ nhì, một Jeppe thứ nhì, một Vrededorp thứ nhì, một Pimville thứ nhì và một Shanty Town thứ nhì, tóm lại là một châu thành lớn làm hãnh diện cho tất cả Odendaalsrust. Nhưng cái tên đâu mà kỳ cục.
Nhưng có người bảo rằng không nên như vậy. Tất cả các người lo việc cứu tế xã hội, cha Beresford đó và bọn Kafferboetie khác bảo rằng không nên như vậy, nhưng phải nhận rằng hầu hết họ chẳng có một tấm cổ phần nào cả. Và họ hoá ra bạo dạn lên khi thấy ngài Ernest Oppenheimer, một nhân vật ở mỏ cũng nghĩ rằng chẳng nên như vậy. Ông Oppenheimer bảo rằng đây là một cơ hội cho chúng ta thí nghiệm chính sách cho thợ mỏ sống trong gia đình, làng xóm với vợ con, chứ không sống tách biệt trong trại nữa. Và người ta cũng nói rằng Chính phủ đương tính thành lập một cơ quan gì như ở thung lũng Tennessee để kiểm soát sự phát triển của khu mỏ tại Free State.
Nói cho họ nghe đi, ngài Ernest Oppenheimer. Có người vỗ tay khen ngài đấy, lại có người cảm ơn Thượng Đế vì ngài đã nói, cảm ơn trong thâm tâm họ và cả trong lúc họ cầu nguyện ở đầu giường của họ nữa. Vì mỏ là để phụng sự người dân chứ không phải để làm ra tiền. Mà tiền không đáng cho người ta vì nó mà phát điên, tung nón lên trời. Tiền là để mua thức ăn, quần áo, để có thêm tiện nghi, để đi coi hát bóng. Tiền là để làm cho đời sống trẻ em được sung sướng. Tiền là gây sự an lạc, mơ mộng, hy vọng, và dự trù kế hoạch.Tiền là để mua những sản phẩm của đất đai trên quê hương xứ sở của mình.
Không, không cần có một Johannesburg thứ nhì nữa trên trái đất. Một Johannesburg thôi cũng đủ rồi.
[1]Orange Free State, tiểu bang ở trong Liên bang Nam Phi, thành lập từ 1836 ở phía bắc sông Orange, được tự trị từ năm 1854.
Jarvis muốn trở lại thăm ngôi nhà của con trai một lần nữa. Đi cửa sau, qua bếp, qua chỗ có vết trên sàn rồi leo lên cầu thang lên phòng ngủ của con như vậy kỳ cục thật, nhưng ông cũng theo lối đó. Ông không vô phòng ngủ của con mà vô phòng làm việc đầy sách vở. Và ông lại đi một vòng coi các sách, qua cái tủ đầy sách về Abraham Lincoln, cái tủ đầy sách về Nam Phi, cái tủ đầy sách viết bằng tiếng Afrikaans, cái tủ đầy sách về tôn giáo, xã hội học, về vấn đề phạm pháp, về tội nhân, và cái tủ đầy thơ, tiểu thuyết và Shakespeare. Ông ngó hình chúa Ki Tô trên thánh giá, hình Abraham Lincoln, hình ngôi nhà Vergelegen và bức tranh vẽ rặng liễu mùa đông. Ông ngồi ở chiếc bàn viết la liệt những thư mời làm việc này việc khác, hoặc dự mời buổi họp này buổi họp khác, và những bản thảo nói về điều gì có thể chấp nhận được và điều gì không thể chấp nhận được ở Nam Phi.
Ông kéo các hộc ở bàn giấy con ông ra và thấy ngăn thì chứa các chi phiếu, ngăn thì chứa giấy và bao thư, viết mực viết chì, lại có ngăn chứa những chi phiếu đã đóng dấu rồi, ngân hàng gởi trả lại. Sau cùng có một ngăn sâu chứa những bài văn đã đánh máy, ghim lại gọn ghẽ với nhau đặt chồng lên nhau. Có một bài nhan đề là “ Cần có những cơ quan cứutế xã hội ”, một bài nữa về “ Các loài chim trong một côngviên Parkwold ”, một bài nữa về “Ấn Độ và Nam Phi ”. Đây là một bài nữa nhan đề là “ Tâm sự của một người Nam Phi ”. Ông lấy ra đọc:
“ Sanh ra ở Nam Phi thật là đau khổ. Có thể sanh ra là người Afrikaaner, hay người Nam Phi nói tiếng Anh, hay là người da màu[1], hay là người Zulu. Người ta có thể cỡi ngựa, như tôi hồi nhỏ, đi khắp các miền đồi xanh và các thung lũng lớn. Cũng như tôi hồi nhỏ, người ta có thể thăm các khu dành riêng cho người Bantu ở, mà không thấy được những gì xảy ra ở đó cả. Người ta có thể nghe nói như tôi hồi nhỏ, rằng ở Nam Phi có rất nhiều người Afrikaaner hơn là người nói tiếng Anh, vậy mà chẳng biết chút gì hết, chẳng thấy cái gì hết. Người ta có thể như tôi hồi nhỏ, đọc những sách về Nam Phi đẹp đẽ, cái xứ có mặt trời chói lọi, có nhiều thắng cảnh không bị các cơn dông tố trên thế giới tàn phá[2], mà cảm thấy vinh hãnh, yêu mến non sông của mình, vậy mà vẫn chẳng biết gì về xứ đó cả. Mãi đến sau này lớn lên, người ta mới biết rằng ở xứ này còn có nhiều cái khác nữa, ngoài ánh nắng mặt trời, mỏ vàng và vườn cam. Lúc đó người ta mới thấy những niềm oán ghét, những nỗi sợ hãi của xứ này. Tới lúc đó, lòng yêu quê hương của ta mới sâu sắc, nồng nhiệt như một người đàn ông yêu một người đàn bà vừa thành thực vừa gian xảo, vừa lạnh lùng vừa âu yếm, vừa tàn ác vừa sợ sệt.
“ Tôi sinh ra trong một trại ruộng trong một gia đình nền nếp, được cha mẹ chiều chuộng, cung cấp cho đủ, không thiếu thốn thèm khát thứ gì cả. Cha mẹ tôi là người ngay thẳng, hiền từ, trọng pháp luật; các người dậy tôi đọc kinh cầu nguyện, và dắt tôi tới giáo đường, không bỏ buổi nào; các người không bao giờ làm mất lòng gia nhân, và ba tôi không bao giờ thiếu thợ. Các người đã dạy cho tôi tất cả những điều cần biết về danh dự, nhân ái, bao dung. Nhưng về Nam Phi thì tôi chẳng học được chút gì cả…”
Jarvis đặt xấp giấy xuống, trong lòng bực tức, thấy bị xúc phạm. Trong một lúc ông gần như phát giận, rồi ông dụi mắt, nén được giận. Nhưng ông vẫn còn run run không đọc tiếp được nữa. Ông đứng dậy, cầm lấy chiếc nón, xuống cầu thang, đi tới chỗ cái vết trên sàn. Thầy cảnh sát sắp chào ông thì ông quay trở lại, trở lên cầu thang, lại ngồi xuống bàn. Ông cầm xấp giấy lên, đọc cho hết. Có lẽ ông thưởng được cái đẹp của lời văn, vì đoạn cuối làm cho ông cảm động. Có lẽ ông cũng thưởng được cái đẹp của ý tưởng nữa.
“ Cho nên tôi sẽ hy sinh đời tôi, thời giờ của tôi, sức lực của tôi, tài năng của tôi để phụng sự Nam Phi. Tôi sẽ không tự hỏi việc nay việc nọ có tiện lơi hay không nữa mà chỉ tự hỏi nó có công bằng hay không. Tôi sẽ hành động như vậy không phải vì tôi cao thượng, không vị lợi, mà vì đời sống trôi đi và trong quãng đường còn lại tôi cần có một ngôi sao dẫn đúng đường cho tôi, một la bàn dẫn đúng hướng cho tôi. Tôi sẽ làm như vậy không phải vì tôi yêu người da đen và ghét người đồng chủng với tôi, mà vì tôi tự xét lòng, thấy không thể làm gì khác được. Nếu tôi còn cân nhắc cái nay với cái kia thì tôi là con người bỏ đi, nếu tôi còn tự hỏi việc mà tôi làm có nguy hiểm không thì tôi là con người bỏ đi; nếu tôi con tự hỏi những người khác, da trắng hay da đen, Anh hay Afrikaaner, người dị giáo hay Do Thái giáo có tán thành tôi không, thì tôi là con người bỏ đi. Vậy tôi sẽ rán làm cái gì công bằng và nói cái gì đúng sự thực.
“ Tôi hành động như vậy vì tôi không phải can đảm và thành thực, mà vì chỉ có cách đó mới dẹp tan xung đột mạnh mẽ trong tâm hồn tôi. Tôi làm như vậy bởi vì tôi không có thể tiếp tục để cho một phần bản ngã của tôi hướng tới cái gì cao thượng nhất còn phần kia thì phản đối lại nó. Thà chết chứ tôi không muốn như vậy. Bây giờ tôi hiểu được những người chịu chết vì tín ngưỡng mà cho chết như vậy là đẹp đẽ, can đảm hoặc cao thượng. Họ chết như vậy còn hơn là sống, thế thôi.
“ Nhưng tôi sẽ không thành thực nếu bảo rằng tôi hành động như vậy chỉ vì một lòng phản tự kỷ. Có cái gì không tùy thuộc tôi thúc đẩy tôi làm việc công bằng, bất kỳ là phải trả giá thế nào. Về điểm đó tôi sung sướng được người vợ đồng tâm đồng ý rán tự chế ngự được nỗi sợ hãi oán ghét của nàng. Nhờ nàng mà nguyện vọng của tôi thực hiện rõ ràng. Các con tôi còn nhỏ quá không thể hiểu được. Tôi sẽ khổ tâm lắm nếu lớn lên chúng sinh ra oán ghét tôi, hoặc sợ tôi, hoặc cho tôi là phản quyền lợi của chúng tôi. Nếu trái lại lớn lên, chúng suy nghĩ như vợ chồng tôi thì tôi sẽ vui mừng vô hạn. Nỗi vui mừng đó mới thật là kích thích, phấn khởi đáng cho tôi cảm ơn Thượng Đế. Nhưng cái đó không thể trả giá được. Thượng Đế cho thì được hưởng hay không được hưởng thì chúng ta cũng phải giữ đạo công bằng ”
Jarvis ngồi hút thuốc một hồi lâu. Ông không đọc thêm nữa, xếp tập giấy trả lại vô chỗ cũ và khép hộc lại. Ông ngồi đó cho tới khi hút xong cối thuốc rồi cầm nón xuống cầu thang. Tới chân cầu thang, ông quẹo mà đi ra phía cửa trước, không phải vì sợ bước ra cái vết trên sàn, chỉ vì không muốn đi ngã sau, thế thôi.
Cửa trước chỉ khép chứ không khoá, ông bước ra ngoài. Do thói quen của một lão nông ông ngửng lên ngó trời, nhưng vòm trời nơi xa lạ này không tỏ ra một dấu hiệu gì cả. Ông bước xuống sân ra cửa rào. Thầy cảnh sát đứng cạnh ở cửa sau nghe thấy tiếng cửa trước khép lại, gật gật đầu tỏ ý hiểu. Thầy nghĩ bụng: “Ông ấy không thể nhìn cái đó được nữa, tội nghiệp ông già, ông ấy không thể nhìn cái đó được nữa”
Bà Margaret Jarvis có một người cháu gái mà bà rất mến tên Barbara Smith, có chồng ở Springs. Một hôm không có phiên toà, hai ông bà lại chơi suốt ngày với người cháu đó. Ông nghĩ rằng như vậy đầu óc bà sẽ được khuây khỏa vì cái tang đó làm cho bà đau khổ hơn là ông ngại. Trong khi Margaret và Barbara nói chuyện với nhau về dân chúng ở Ixopo, Lufafa, Highflats và Umzimkulu, ông đi dạo ngoài vườn vì ông là nhà nông. Được một lát, họ gọi ông, hỏi ông có muốn đi cùng với họ ra thành phố không. Ông đáp thích ở nhà coi báo hơn, và ông ở nhà coi báo.
Báo đăng đầy tin tức về mỏ vàng mới kiếm được ở Odenlaalsrust và về sự phấn khởi quá độ vẫn chưa hề giảm ở thị trường chứng khoán. Một nhà có kinh nghiệm, uy tín về vấn đề đó khuyên người ta coi chừng, đừng mua với giá mỗi ngày một cao lên nữa, vì không có gì chứng tỏ rằng giá hiện thời không quá đáng rồi, có thể rằng ít ngày nữa giá sẽ hạ, gây ra nhiều vụ bại sản. Báo cũng đăng nhiều vụ phạm pháp mới nữa, hầu hết là những người da đen hành hung người da trắng, nhưng không có vụ nào khủng khiếp làm cho người ta không dám mở báo ra đọc.
Đương đọc thì ông nghe tiếng ai gõ cửa sau, ông lại mở cửa và thấy một mục sư bản xứ đứng trên phiến đá lát đằng sau nhà, dưới chân ba bậc thềm đưa lên nhà bếp. Mục sư đó già, bộ đồ đen đã bạc thành màu xanh, cổ cồn đã vàng vì cũ quá hoặc vì dơ bẩn. Ông mục sư dỡ nón, để lộ mớ tóc bạc. Có vẻ hoàng hốt sợ sệt. Ông ta lóng ngóng.
Ông Jarvis nói thao tiếng Zulu nên chào bằng tiếng đó:
- Chào Umfundisi.
Ông mục sư giọng run chào lại:
- Kính chào Umnumzana.
Và Jarvis ngạc nhiên thấy ông ta ngồi bệt ngay xuống dưới bực thềm thấp nhất, như thể đương đau hay đói lả vậy. Jarvis biết rằng thái độ đó không phải là vô lễ, vì ông già đó có vẻ khúm núm, lễ phép, vì vậy ông bước xuống, hỏi:
- Umfundisi có đau không?
Ông lão làm thinh, vẫn run lẩy bẩy, ngó xuống đất thành thử Jarvis không thể nhìn thấy mặt ông ta. Muốn nhìn thì phải đưa tay nâng cằm ông ta lên, mà việc đó không thể làm một cách khinh xuất được.
- Umfundisi có đau không?
- Thưa Umnumzana, một lát rồi sẽ hết.
- Có muốn uống nước không? Có muốn ăn cái gì không? Có đói không?
- Thưa không, Umnumzana, một lát rồi sẽ hết.
Jarvis đứng ở phiến đá lát, dưới bực thềm thấp nhất, nhưng ông lão vẫn chưa thấy dễ chịu hơn, vẫn còn run, vẫn nhìn xuống đất. Rất ít khi một người da trắng mà lại đứng đợi như vậy trước một người da đen, nhưng Jarvis kiên nhẫn đợi vì thấy ông lão rõ ràng là đau yếu, suy nhược lắm. Ông lão rán sức chống gậy đứng lên, chiếc gậy tuột ra, rớt trên phiến đá, vang lên một tiếng. Jarvis lượm lên trả ông lão, nhưng ông lão đặt nó xuống như thể nó chỉ làm bận mình, đặt cả chiếc nón xuống nữa, rồi hai bàn tay chống vào bực thềm, rán đứng dậy. Gắng sức mà không được, ông ta lại ngồi xuống, lại run lẩy bẩy. Jarvis muốn đỡ ông ta nhưng lại ngại có vẻ khinh xuất[1]; lượm cây gậy thì được. Ông lão lại chống tay lên bực thềm và lần này đứng dậy được. Lúc đó ông ta mới ngửng mặt lên nhìn Jarvis, và Jarvis thấy nét mặt ông ta khổ sở vô cùng chứ không phải đau hay đói. Jarvis bèn cúi xuống lượm chiếc nón và cái gậy, gión tay cầm chiếc nón vì nó cũ và dơ quá, đưa trả hai vật đó cho mục sư.
- Tôi xin đa tạ Umnumzana.
- Umfundisi có thật không đau không?
- Thưa Umnumzana, tôi đã khá rồi.
- Umfundisi có chuyện gì đây?
Ông lão lại đặt chiếc nón và cây gậy xuống bực thềm, tay run run móc một cái bao nhỏ trong túi chiếc áo bạc phếch ra; giấy má rớt cả xuống đất vì tay ông ta vẫn còn lẩy bẩy.
- Tôi xin lỗi Umnumzana.
Ông ta cúi xuống lượm giấy má lên, và vì già nên ông phải quỳ xuống, mà giấy má lại cũ kỹ, bẩn thỉu, lượm được mấy tờ giấy này rồi thì trong khi lượm các tờ khác, mấy tờ trước lại rớt xuống, và hai bàn tay ông run bần bật lên. Jarvis nửa thương hại nửa bực mình, ngượng ngùng đứng ngó ông già.
- Tôi xin lỗi Umnumzana, đã làm mất thì giờ Ngài đứng chờ.
- Có sao đâu Umfundisi.
Sau cùng ông lão lượm xong các tờ giấy, cất lại trong cái túi nhỏ, trừ ra một tờ ông chìa cho Jarvis. Tờ đó ghi địa chỉ và tên người chủ ngôi nhà hiện họ đương đứng ở cửa.
- Đúng là nhà này, Umfundisi.
- Thưa Umnumzana người ta nhờ tôi lại đây. Có một người tên là Sibeko ở Ndotsheni.
- Ndotsheni tôi biết. Chính tôi cũng ở Ndotsheni.
- Thưa Umnumzana, người đó có một đứa con gái đi ở cho một người da trắng tên là uSmith ở Ixopo.
- Phải.
- Và sau cô con gái ông uSmith đó có chồng da trắng tên người chồng ghi trên miếng giấy này đây.
- Đúng.
- Cặp vợ chồng đó lại Springs này ở, và đứa con gái của Sibeko cũng lại đây giúp việc nhà cho họ. Đã mười hai tháng nay Sibeko không được tin tức gì của con gái, cho nên đã nhờ - đã cậy tôi - hỏi thăm giùm xem đứa con gái đó ra sao.
Jarvis quay vô nhà rồi trở ra với một người đầy tớ trai còn trẻ, bảo:
- Đây, hỏi thăm anh này.
Rồi lại quay vô nhà. Nhưng khi vô rồi, ông bỗng nhớ ra người lạ đó chính là ông muc sư già ở Ndotsheni, nên lại trở ra.
- Umfundisi hỏi được tin tức không?
- Thưa Umnumzana, anh này không biết nó, vì khi lại đây thì nó đã đi làm nơi khác rồi.
- Cô chủ nhà, người con gái ông uSmith đi khỏi, nhưng cũng sắp về, ông muốn đợi một chút thì đợi.
Jarvis bảo người bồi thôi, không có việc gì cả và đợi cho anh ta vô rồi mới hỏi ông lão:
- Tôi biết ông, Umfundisi.
Vẻ đau khổ trên nét mặt ông lão làm cho Jarvis động lòng, bảo ông ta ngồi xuống. Như vậy ông lão có thể nhìn xuống đất mà khỏi phải nhìn mặt Jarvis, và Jarvis cũng khỏi phải nhìn ông ta, mà thấy khó chịu trong lòng. Ông lão ngồi xuống, Jarvis nói mà không nhìn ông ta:
- Ông và tôi như có cái gì với nhau mà tôi nghĩ không ra.
- Thưa Umfundisi.
- Ông sợ tôi mà tôi không hiểu tại sao. Ông đừng sợ tôi.
- Thưa Umnumzana đúng vậy. Ngài không biết được đâu.
- Tôi không biết nhưng tôi muốn biết.
- Tôi ngại không thể nói được quá, thưa Umnumzana.
- Ông phải nói cho tôi biết chứ. Có nghiêm trọng không?
- Rất nghiêm trông thưa Umnumzana. Nghiêm trọng nhất trong đời tôi.
Ông lão ngửng mặt lên và Jarvis chưa bao giờ thấy một vẻ mặt đau khổ nhường ấy.
- Ông lão hãy nói đi, nói cho vơi lòng đi.
- Tôi sợ quá, Umnumzana.
- Tôi biết, và tôi không hiểu tại sao lại như vậy. Nhưng tôi đã nói rồi, ông đừng nên sợ, tôi không nổi giận đâu. Tôi không có gì giận ông lão đâu.
- Vậy, cái điều nghiêm trọng nhất trong đời tôi đó cũng chính là cái điều nghiêm trọng nhất trong đời ngài.
Jarvis ngó ông lão, mới đầu ngơ ngác rồi bỗng nẩy ra một ý nghĩ, bảo:
- Chỉ có thể là điều đó thôi, chỉ có thể là điều đó thôi, nhưng tôi vẫn chưa hiểu.
Ông lão nói:
- Con trai tôi đã giết con trai ngài.
Cả hai đều im lặng. Jarvis bỏ đi, bước vô vườn cây, ngừng lại ở bức tường và nhìn ra cánh đồng cỏ ở xa và những đống khoáng chất ở mỏ, cao như những ngọn đồi dưới ánh nắng. Khi ông ta quay trở lại thì thấy ông lão đã đứng dậy, một tay cầm nón, một tay cầm gậy, đầu cúi xuống, mắt nhìn xuống đất. Jarvis trở lại bên ông lão bảo:
- Đã nghe ông nói, đã hiểu điều lúc nãy tôi không hiểu. Lòng tôi không phẫn nộ.
- Thưa Umnumzana.
- Cô chủ nhà đã về, cô con gái ông uSmith. Ông muốn gặp cô ấy không? Ông đã dễ chịu chưa?
- Thưa Umnumzana, chính vì việc đó mà tôi mới lại đây.
- Tôi hiểu. Và ông đã xúc động mạnh khi thấy tôi, ông không ngờ gặp tôi ở đây. Mà làm sao ông biết tôi?
- Tôi đã thấy Ngài cưỡi ngựa đi ngang qua Ndotsheni, trước giáo đường tôi.
Jarvis lắng tai nghe tiếng trong nhà, rồi hạ giọng hỏi:
- Vậy chắc ông cũng thấy con tôi chứ? Nó cũng thường cưỡi ngựa đi ngang qua Ndotsheni, cưỡi con ngựa mình hồng mà mặt trắng. Nó thường đeo những cây súng gỗ, ở dây lưng này, như mọi đứa trẻ khác.
Mặt ông lão nhăn nhó. Ông ta vẫn nhìn xuống đất và Jarvis thấy mấy giọt nước mắt rơi xuống đất. Chính Jarvis cũng xúc động, muốn cho cảnh đó phải chấm dứt, nhưng chưa biết nên nói sao.
- Thưa tôi nhớ, Umnumzana. Trông cậu ấy có cái gì rực rỡ.
Jarvis nói:
- Đúng, đúng, trông nó có cái gì rực rỡ.
- Thưa Umnumzana, thực khó nói quá. Nhưng lòng tôi thực đau xót cho ngài, cho Inkosikazi[2] và thiếm Inkosikazi[3] và cho các cô cậu.
Jarvis bảo:
- Được, được - giọng mạnh bạo - để tôi vô gọi cô chủ nhà ra.
Ông ta trở vô dắt nữ chủ nhân ra, nói tiếng Anh với cô này:
- Ông già này lại hỏi thăm người con gái một người bản xứ tên là Sibeko, trước có giúp việc nhà cho cháu ở Ixopo, vì gia đình bặt tin từ lâu rồi.
Cô con gái của Smith đáp:
- Cháu đã đuổi nó đi rồi. Mới đầu nó rất ngoan ngoãn và cháu hứa với ba nó là sẽ coi chừng nó cho. Nhưng rồi nó đổ đốn, nấu rượu lậu trong phòng nó. Nó bị bắt giam một tháng. Dĩ nhiên, sau đó cháu không thể cho nó trở lại làm được nữa.
Jarvis hỏi:
- Cháu có biết nó đi đâu không?
Cô ta trả lời bằng tiếng Anh:
- Làm sao biết được, mà cũng chẳng cần biết làm gì.
Jarvis nói bằng tiếng Zulu:
- Cô ấy không biết.
Nhưng không nói thêm rằng cô ấy không cần biết làm gì.
Ông lão đáp lại bằng tiếng Zulu:
- Xin đa tạ, xin chúc Umnumzana ở lại mạnh giỏi.
Ông ta cúi đầu chào thiếu phụ, nàng khẽ gật đầu đáp lại.
Ông ta đội nón lại, đi xuống con đường ra cửa sau theo tục lệ[4], người con gái của Smith trở vô nhà còn Jarvis đứng nhìn theo ông lão. Ông lão mở cửa bước ra khi quay lại để khép cửa, thấy Jarvis nhìn theo mình, ông ta cúi đầu chào.
Jarvis bảo:
- Umfundisi đi mạnh giỏi.
- Umnumzana ở lại mạnh giỏi.
Ông lão cất nón lên chào rồi lại đội xuống. Rồi ông chậm chạp bước đi, tiến lại phía con đường ra ga. Jarvis nhìn theo cho tới khi ông ta khuất bóng. Ông vừa quay lại trở vô nhà thì thấy bà vợ đi ra đón ông, và lo lắng nhận thấy rằng vợ mình đi lòm khòm như người già rồi.
Ông tiến về phía vợ, và bà đưa cánh tay ra khoác tay chồng.
- Có cái gì mà anh xúc động như vậy? Hồi nãy lúc anh trở vô nhà, anh xúc động mạnh lắm là làm sao?
Ông chồng đáp:
- Một chuyện đã qua bây giờ hiện lên. Nó hiện lên thình lình quá em à.
Bà không hỏi là chuyện gì mà đáp:
- Em biết.
Rồi ghì chặt cánh tay chồng hơn nữa bảo:
- Barbara mời chúng mình vô nhà ăn trưa đấy.
Giọng bò mộng vang lên trong công viên. Có nhiều cảnh sát cả da trắng lẫn da đen. Nhìn thấy họ đứng đó, hô hào một đám đông như vậy, thì dĩ nhiên là thấy mình có uy lực lắm, vì giọng bò mộng gầm thét, lên cao rồi hạ xuống.
Có người chỉ nghe cái giọng đó thôi cũng đủ xúc động. Có người nhớ lại lần đầu tiên nghe giọng đó, tưởng đâu như mới hôm qua, nhớ lại sự kích động của mình, nhớ lại cảm giác kỳ dị chạy khắp thân thể như bị điện giựt. Vì giọng đó có một ma lực, có cái gì hăm dọa như chính châu Phi dồn chứa trong đó. Có tiếng sư tử gầm trong đó, trên những ngọn núi u ám.
Dubula và Tomlinson đứng nghe, nửa khinh bỉ, nửa ganh tị. Vì giọng đó có thể kích động hàng ngàn người, nhưng thiếu đầu óc ở phía sau nên không biết nên nói cái gì, mà dù có biết nên nói gì thì không đủ can đảm để nói.
Bọn cảnh sát đứng nghe, một người bảo bạn:
- Thằng cha này nguy hiểm.
Người kia đáp:
- Công việc của mình không phải là suy nghĩ về chuyện đó.
John Kumalo hô hào:
“ Chúng ta không đòi hỏi cái gì quá lố không chấp nhận được. Chúng ta chỉ đòi được cái phần xứng với công khó nhọc sản xuất của chúng ta thôi. Người ta mới tìm thấy thêm được mỏ vàng và Nam Phi lại phong phú lên. Chúng ta chỉ đòi cái phần của chúng ta thôi. Vàng đó sẽ nằm nguyên trong lòng đất nếu chúng ta không đào nó lên. Tôi không bảo rằng đó là vàng của chúng ta, tôi chỉ bảo rằng chúng ta phải được hưởng cái phần của chúng ta. Đó là vàng của mọi người, da trắng, da đen, da màu và Ấn Độ. Nhưng ai sẽ được hưởng cái phần lớn nhất đây, ai? ”
Tới đây cái giọng bò mộng gầm lên trong họng. Một làn sóng lao xao nổi lên trong lòng quần chúng. Cảnh sát ngửng lên canh gác cẩn thận hơn, trừ nhưng nhân viên đã nghe quen rồi, và biết rằng gã Kumalo này chỉ hăng tới mức đó thôi chứ không dám tiến xa hơn nữa. Sẽ xảy ra sao nhỉ nếu giọng đó gào lên những lời nó vẫn gào trong nhà riêng của nó, cứ gào lớn lên hoài, lớn lên nữa mà không hạ xuống, và nếu quần chúng cũng nổi lên theo, bị giọng đó làm cho như điên, như cuồng, mà có những tư tưởng phản loạn, chế ngự, biểu lộ uy lực và đòi chiếm hữu? Sẽ ra sao nhỉ nếu giọng đó miêu tả hình ảnh một châu Phi thức tỉnh, một châu Phi phục sinh, một châu Phi hắc ám và man rợ? Có khó gì đâu, chẳng cần có một bộ óc khác thường cũng nghĩ ra được những ý đó. Nhưng con người đó nhút nhát, nên tiếng sấm gầm lên rồi tắt dần, và quần chúng rùng mình, trở lại bình tĩnh.
John Kumalo cất tiếng hỏi:
“Đòi thêm tiền có phải là một cái tội không? Chúng ta được lãnh ít quá. Chúng ta chỉ đòi cái phần của chúng ta thôi, đủ để nuôi vợ con khỏi chết đói. Vì chúng ta được trả công ít quá. Uỷ ban Landsown bảo rằng chúng ta được lãnh ít quá. Uỷ ban Smith bảo rằng chúng ta được lãnh ít quá ”
Tới đây giọng lại gầm lên và quần chúng lại bị kích động, Kumalo nói tiếp:
“ Chúng ta biết rằng chúng ta được lãnh ít quá. Chúng ta chỉ đòi được những cái mà thợ thuyền trên khắp thế giới chiến đấu cho được, tức là cái quyền được bán sức lao động của chúng ta cho đúng giá, được nuôi vợ con một cách đàng hoàng.
Người ta bảo rằng tăng tiền công lên thì sở mỏ phải đóng cửa. Nếu vậy thì kỹ nghệ khai mỏ ích lợi gì đâu? Nếu nó chỉ sống được trên sự khốn cùng của chúng ta thì duy trì cho nó sống làm gì? Người ta bảo nó làm cho xứ này giầu có lên, nhưng chúng ta thấy sự giầu có đó ở đâu? Chúng ta phải chịu nghèo khổ để cho người khác được giầu có ư? ”
Đám đông lao xao lên như có một cuồng phong thổi vào. Này, John Kumalo, đã tới lúc cái giọng bò mộng đó nên vang lên, bay vút lên tới chín từng mây đấy. Đã tới lúc nên dùng những tiếng phẫn nộ, những tiếng man rợ, quá khích để thức tỉnh quần chúng, làm cho họ nổi xung, khởi loạn lên rồi đấy. Nhưng Kumalo biết rồi. Hắn biết rằng hắn có một năng lực rất lớn, một năng lực mà hắn sợ. Và giọng hắn hạ xuống; tiếng tan dần trên núi và âm hưởng mỗi lúc một nhỏ đi.
Người cảnh sát lúc nãy lặp lại:
- Tôi cho rằng thằng cha này nguy hiểm.
Người cảnh sát kia đáp:
- Bây giờ nghe hắn nói tôi mới thấy anh nói có lý. Còn đợi gì mà không tóm cổ thằng chó ghẻ này hả?
Người thứ nhất nói:
- Còn đợi gì mà không cho nó ăn đạn?
- Ừ, cho nó ăn vài viên đạn đi.
Người thứ nhất nói:
- Chính quyền chỉ giỡn với lửa.
- Đúng đấy.
Kumalo lại nói:
“ Chúng ta chỉ đòi hỏi sự công bằng thôi. Ở đây chúng ta không đòi được bình đẳng, tự do, không đòi bỏ chính sách phân biệt màu da. Chúng ta chỉ đòi hỏi cái kỹ nghệ phong phú nhất thế giới này trả thêm tiền công cho chúng ta thôi. Kỹ nghệ đó không có sức lao động của chúng ta. Chúng ta thôi không làm việc nữa thì kỹ nghệ đó sẽ chết. Và tôi bảo này, thà thôi làm còn hơn là làm với số tiền công như vậy.”
Các cảnh sát bản xứ lanh lẹ hơn, canh gác cẩn thận hơn. Họ đứng ở chỗ của họ như lính chiến. Ai mà biết được họ nghĩ gì về lời kêu gọi quần chúng đó: họ có suy nghĩ gì không ai mà biết được. Cuộc mít-tinh này yên lặng có trật tự. Và nếu nó cứ yên lặng có trật tự như vậy thì để mặc nó. Nhưng hễ hơi thấy có dấu hiệu hỗn loạn là họ sẽ tóm cổ John Kumalo, thẩy hắn lên xe cây, đem hắn đi. Và tiệm thợ mộc mỗi tuần lời được tám, mười hai bảng sẽ ra sao? Còn những cuộc thảo luận trong tiệm với những người từ mọi nơi tới nghe hắn thuyết nữa không?
Có những người mong được tuẫn đạo, có những người biết rằng vô khám thì uy thế của mình tăng lên, có những người sẵn sàng vô khám chẳng hề nghĩ rằng uy thế của mình tăng hay giảm. Nhưng Kumalo thuộc những hạng người đó. Trong khám có ai mà vỗ tay khen mình.
….[1]
John Kumalo nói:
“ Tôi không giữ anh chị em lại lâu hơn nữa đâu. Đã trễ rồi và còn một diễn giả nữa đã ghi tên, và phải để anh chị em về nhà chứ nếu không thì sẽ có nhiều người bị chuyện lôi thôi với cảnh sát. Tôi thì không sao nhưng có những bạn buộc phải có giấy thông hành thì điều đó quan trọng đấy. Và chúng ta không muốn làm phiền ty cảnh sát. Tôi nhắc lại: chúng ta bán sức lao động và con người có quyền bán sức lao động cho đúng giá. Chiến tranh vừa rồi sở dĩ phát sinh là để binh vực quyền tự do đó. Nhiều lính Phi châu của chúng ta đã chiến đấu cho quyền tự do đó.”
Giọng nói lại như gầm lên. Sắp có cái gì đây.
“ Không phải chỉ riêng ở đây mà ở khắp cả Phi châu, cái lục địa mênh mông mà hiện người Phi chúng ta đương sống đây ”
Quần chúng cũng gầm lên. Câu đó có hai ý nghĩa, vô hại, một ý nghĩa nguy hiểm. John Kumalo nói theo cái nghĩa kia mà nghĩ qua cái nghĩa này.
“ Vậy chúng ta phải bán sức lao động của chúng ta cho đúng giá. Nếu một kỹ nghệ không thể mua sức lao động của chúng ta đúng giá được thì cho nó dẹp đi, chứ chúng ta đừng nên bán rẻ sức lao động để cho kỹ nghệ sống bất kỳ là kỹ nghệ nào ”
John Kumalo ngồi xuống và quần chúng hò hét vỗ tay hoan hô, như một làn sóng vĩ đại. Họ là những người chất phác, không biết rằng con người hô hào họ đó có thể trở thành một nhà hùng biện bậc nhất trong xứ nếu có thêm được một điều kiện nữa, điều kiện duy nhất mà hắn thiếu. Họ chỉ nghe cái giọng bò mộng, hăng tiết lên một lúc rồi thì xẹp, nhưng con người đó sau khi làm cho họ xẹp rồi lại có thể kích thích cho họ hăng lên được nữa.
Msimangu bảo:
- Bây giờ huynh đã nghe ông ta hô hào rồi chứ?
Stephen Kumalo gật đầu:
- Tôi chưa bao giờ được nghe thấy như vậy. Ngay như tôi đây – là anh chú ấy – mà chú ấy cũng đã bắt tôi theo ý muốn của chú ấy.
- Quả là một sức mạnh. Tại sao Thượng Đế lại cho một người có sức lôi cuốn mạnh như vậy, điều đó chúng ta không thể hiểu được. Nhưng nếu người đó là một nhà thuyết giáo thì cả thế giới sẽ theo ông ta.
Kumalo lập lại:
- Tôi chưa bao giờ được nghe thấy như vậy.
Msimangu có giọng nghiêm nghị:
- Có lẽ chúng ta nên cảm ơn Thượng Đế rằng ông ta đồi bại, vì nếu không vậy ông ta có thể làm cho xứ này ngập máu. Ông ta đồi bại vì ông ta giầu, sợ mất của cải của mình, và sợ mất cái uy thế của mình. Chúng ta không bao giờ hiểu được cái đó. Huynh muốn về chưa hay muốn nghe diễn giả Tomlinson này?
- Tôi muốn ở lại nghe.
- Vậy thì chúng ta lại gần nữa đi, ông này nói khó nghe.
- Thưa bác, đã muốn về chưa, bác Jarvis?
- Ừ về thôi cháu John.
- Thưa bác nghĩ sao?
Jarvis đáp cụt ngủn:
- Không ưa cái trò đó.
- Cháu không muốn hỏi vậy. Cháu muốn nói rằng chúng ta đã chứng kiến một biến cố, phải vậy không bác?
Jarvis càu nhàu:
- Bác không ưa cái đó. Thôi về câu lạc bộ của cháu đi.
John Harrison nghĩ bụng:
- Bác ấy già quá rồi để đương đầu với cái đó. Chẳng nên trách làm chi. Mà ba mình cũng vậy.
Cậu lên xe, cho xe chạy. Và cậu điềm tĩnh nghĩ thầm: “ Nhưng mình thì mình phải đương đầu ”.
Viên đại uý chào thượng cấp.
- Tôi xin báo cáo, đại tá.
- Sao việc xảy ra sao, đại uý.
- Thưa không có chuyện lộn xộn. Nhưng tên Kumalo đó nguy hiểm. Hắn lôi cuốn quần chúng tới một mức nào đó, rồi thì lùi lại. Nếu không có bọn chúng ta ở đó thì chắc có lắm chuyện.
- Vậy chúng ta phải có mặt ở đó, thế thôi. Thật lạ lùng, lời báo cáo nào cũng giống nhau: nó tiến tới một mức nào đó rồi thì ngừng. Tại sao ông bảo rằng nó nguy hiểm?
- Thưa đại tá, tại cái giọng của nó. Tôi chưa nghe thấy cái giọng nào như vậy, như một đại phong cầm. Người ta thấy cả một đám đông dao động lên. Chính tôi cũng cảm thấy vậy. Cơ hồ như lúc đó hắn thấy cái gì xảy ra rồi và hắn tự ghìm lại.
Viên đại tá chỉ đáp:
- Nhát gan. Tôi đã nghe người ta nói như ông. Để hôm nào tôi phải đi nghe cái giọng nó mới được.
- Thưa đại tá, sẽ có đình công không?
- Tôi cũng tự hỏi vậy. Có thể gây chuyện bực mình đấy. Mà chúng mình lúc này bù đầu rồi. Thôi khuya rồi đại uý về nghỉ đi.
- Kính chào đại tá.
- Chào ông. À, ông Harry!
- Dạ.
- Nghe nói ông sắp được thăng chức?
- Cảm ơn đại tá.
- Như vậy một ngày kia ông sẽ thay tôi. Lương cao chức lớn, uy danh này. Và đủ các nỗi lo lắng trên đời nữa. Người ta có cảm giác ngồi trên một hoả diệm sơn. Không biết có bõ không? Thôi chào ông.
- Kính chào đại tá.
Viên đại tá thở dài, kéo xấp giấy lại gần, cau mày ra vẻ suy tư. Ông ta nói:
- Lương cao, chức lớn, uy danh này.
Rồi cúi xuống làm việc.
Nếu có cuộc đình công thì tình thế sẽ nghiêm trọng. Vì có ba trăm ngàn thợ mỏ da đen ở Witwatersrand. Họ tới đây từ các miền Transkei, Batusoland, Zuzuland, Bechuanaland, Seukuniland và từ cả những xứ ở ngoài Nam Phi nữa. Họ là những người chất phác, thất học, những dân quen sống trong bộ lạc, dễ bị bọn dẫn đạo lôi cuốn. Mà khi họ đình công thì họ nổi điên lên, nhốt nhân viên trong phòng giấy, liệng ve chai, gạch đá, và nổi lửa đốt hãng. Đành rằng có tới cả trăm mỏ cất trại cho họ ở, và như vậy dễ kiểm soát họ. Nhưng họ có thể phá phách dữ dội, làm nguy tánh mạng nhiều người và làm tê liệt kỹ nghệ lớn nhất của Nam Phi, kỹ nghệ làm cơ sở cho Nam Phi, định đoạt sự sinh tồn của Nam Phi.
Có tiếng đồn đáng ngại rằng cuộc đình công sẽ không hạn chế trong các mỏ mà lan ra mọi kỹ nghệ, tới sở hoả xa, sở hàng hải. Người ta còn đồn rằng, mọi người da đen, đàn ông cũng như đàn bà sẽ đình công hết ráo; trường học, giáo đường sẽ đóng cửa. Họ sẽ ở không, cau có, lang thang trên mọi đường phố trên mọi châu thành, mọi làng xóm, trên mọi đường cái, và trong mọi trại ruộng. Tám triệu người da đen. Nhưng cái đó vô lý không tin được. Họ đâu được tổ chức để đình công như vậy, họ sẽ phải khốn khổ ghê gớm, sẽ chết đói. Tuy nhiên chỉ nghĩ tới cái điều vô lý đó cũng đủ đâm hoảng rồi, và bây giờ người da trắng mới nhận thức được đời sống của mình tùy thuộc sức lao động của người da đen tới mức nào.
Thời này, thật toàn những ưu tư, ai cũng nhận vậy. Có những biến cố kỳ dị xảy ra trên thế giới, thế giới không bao giờ để cho Nam Phi được yên.
Cuộc đình công phát ra và đã chấm dứt. Nó không lan ra ngoài các mỏ. Nó phát mạnh nhất ở Driefontein; người ta phải kêu lực lượng cảnh sát tới dùng áp lực buộc thợ mỏ da đen trở vô mỏ làm việc. Có cuộc ẩu đả và ba thợ mỏ da đen bị giết. Nhưng theo báo cáo thì bây giờ mọi sự đều yên rồi.
Hội nghị hằng năm giáo khu Johannesburg trước kia có biết chuyện mỏ miếc gì đâu. Nhưng thời đại đã thay đổi và hình như bây giờ họ không còn hạn chế hoạt động trong vấn đề tôn giáo nữa và một vị mục sư đã diễn thuyết về cái chuyện mỏ đó. Ông ta bảo rằng tới lúc phải thừa nhận Nghiệp đoàn thợ mỏ châu Phi, và còn báo trước rằng nếu không thừa nhận thì sẽ có cuộc đổ máu đấy. Có lẽ ông ta muốn nói rằng phải coi nghiệp đoàn là một tổ chức có trách nhiệm, được quyền thương lượng với chủ nhân về điều kiện làm việc và tiền công. Nhưng một người gọi là phát ngôn viên vạch ra rằng tụi thợ mỏ da đen vốn chất phác, biết quái gì về thương với lượng, chỉ để cho bọn khuấy rối vô lương tâm xỏ mũi thôi. Dù sao thì ai cũng biết rằng hễ tăng phí tổn khai mỏ lên thì sẽ nguy cho sự sinh tồn của mỏ, mà nguy cho cả sự sinh tồn của Nam Phi nữa.
Vấn đề rắc rối đó có nhiều khía cạnh quá. Người ta cứ ương ngạnh bàn về tình trạng xói mòn đất đai, về sự suy tàn của bộ lạc, về cái tội thiếu trường, số phạm pháp tăng lên, như thể tất cả những cái đó đều liên quan tới vấn đề mỏ cả. Cứ suy luận thêm chút nữa đi rồi sẽ đưa cả vấn đề Cộng Hoà vô, rồi vấn đề hai sinh ngữ chính thức, vấn đề kiều dân ngoại quốc, cả vấn đề Palestine nữa, có mà Trời mới biết cho hết được. Cho nên, tốt hơn là đừng suy nghĩ tới nó nữa.
Trong khi chờ đợi, cứ biết rằng cuộc đình công chấm dứt rồi, số người thiệt mạng ít một cách không ngờ. Mọi sự yên cả rồi, người ta báo cáo vậy, yên hết rồi.
Ở ngoài cảng vắng tanh, nước vẫn vỗ vào bờ đá. Trong khu rừng âm u và tịch mịch, một chiếc lá rụng. Sau những tấm ván đánh bóng, mối vẫn đục gỗ. Có cái gì yên đâu, trừ phi đối với bọn điên.
[1]Trong bản dịch tiếng Pháp của nhà Albin Michel năm 1950, ở đây còn một đoạn độ 15 hàng nữa, mà bản tiếng Anh của nhà Charles Scirbners Sons – 1959 không có, chắc là tác giả đã cắt bỏ.