Tới tận những năm gần đây, các nữ thiếu niên dường như không lo lắng lắm tới cơ quan sinh dục của mình. Hơn nữa, sự hiểu biết của chúng về lĩnh vực này còn hạn chế, chúng quan tâm nhiều hơn đến sự phát triển của bộ ngực, các kỳ kinh nguyệt và vóc dáng bên ngoài của mình.
Có thể thái độ này bộc lộ sự phụ thuộc văn hóa với người đàn ông. Hơn một nữa số câu hỏi của các bé gái thiếu niên thường bắt đầu bằng câu hỏi “cậu con trai sẽ nghĩ gì về bộ ngực của tôi, về thái độ, dáng đi và ngôn ngữ của tôi". Quy trình sinh sản biểu hiện hứng thú của các cô gái dưới một khía cạnh khác. Tất nhiên những lo lắng đưa đến những câu hỏi này vẫn còn rất dai dẳng. Phương pháp phòng tránh thai rất hiệu quả đã góp phần nhiều vào sự tự lập hóa chức năng nhục dục của người phụ nữ. Gần đây một số cô gái trẻ đã dám đề cập đến những vấn đề có liên quan đến giải phẫu học giới tính và vấn đề thủ dâm mà ngày trước cô ta vẫn im lặng hay che giấu chúng như một tội lỗi đáng xấu hổ.
Màng trinh:
Có rất nhiều cô bé thiếu niên hiểu sai về màng trinh. Chuyện màng trinh còn mang một ý nghĩa xã hội rất lớn. Khi thì các cô tưởng tượng nó như một vách ngăn kín nằm ngay trước cổ tử cung, lúc thì suy nghĩ hoặc tưởng tượng thấy ở xung quanh màng trinh “một dương vật” làm cho các bé gái này sự mình sẽ bị nam tính hóa. Thường thì hình dạng của màng trinh tương hợp với sự đi vào của một ngón tay. Nó cho phép phụ nữ sử dụng băng vệ sinh ở đó vào thời kỳ kinh nguyệt. Những khó khăn trong việc phá trinh được quy cho những phương pháp chuẩn bị hôn nhân. Màng trinh là rào chắc chắn không thể chiếm đoạt trước khi làm đám cưới (sau khi giao hợp). Tuy nhiên cũng có số ít trường hợp màng trinh không thủng sau khi giao hợp vài lần đầu hoặc trường hợp khi dương vật đi vào trong âm đạo gặp phải màng trinh rất cứng làm cho sự giao hợp rất đau đớn. Tất cả những khó khăn trong chuyện chăn gối gắn liền với sự co thắt của các cơ đáy khu chậu và các cơ thắt âm đạo. Trong những trường hợp như vậy cần chấp nhận như một quy luật tự nhiên. Nếu tham gia phẫu thuật là điều vô nghĩa.
Một điểm khác cũng hết sức quan trọng: màng trinh không nói lên được chủ nhân của nó còn trinh tiết hay không. Ví dụ một vết rách ngẫu nhiên ở màng trinh do quá trình chơi thể thao hoặc một số phụ nữ sau khi quan hệ tình dục nhưng màng trinh vẫn còn nguyên vẹn bởi màng trinh có thể kéo giãn một cách dễ dàng nhờ tính đàn hồi của nó.
Những quan sát này cũng đủ để làm giảm hoặc cho dừng lại sự không công bằng trong một số nền văn minh bắt buộc người phụ nữ phải chứng tỏ trinh tiết của mình thể hiện ở màng trinh. Sự phỏng đoán nổi lên qua màng ngăn vô ích này rằng: người phụ nữ là người sở hữu duy nhất màng trinh.
Các vấn đề về kinh nguyệt:
Trước hết cần phải đề cập tới 2 vấn đề với tất cả các nữ thiếu niên:
- Phải báo trước cho chúng biết có sự tiết thường xuyên chất trăng trắng ở âm đạo trong những tuần trước các chu kỳ kinh nguyệt. Hiện tượng này là rất bình thường không nên lo sợ nghĩ rằng đó là bị viêm nhiễm hay một sự chuyển đổi nam tính nào đó. Thực ra đây chính là một sự biến đổi hoóc môn, một dấu hiệu báo trước giai đoạn dậy thì.
- Dạy cho chúng biết cách rửa ráy, làm vệ sinh sạch những chất tiết kích dục tích tụ ở phần tận cùng của âm vật và phần mũ. Rất nhiều cuộc giao hợp hay thủ dâm rất đau đớn do hậu quả của sự kết dính này mang lại mà theo một số nhà tình dục học đó là nguồn gốc của sự lãnh cảm. Vậy không ngạc nhiên khi các thanh thiếu niên, các bậc phụ huynh thường hỏi ý kiến của bác sĩ phụ khoa về các kỳ kinh nguyệt của con mình. Ba vấn đề thường gặp là:
- Đau đớn và khó chịu.
- Kinh nguyệt không đều.
- Những hạn chế mà các cô gái trẻ phải tuân theo trong các kỳ kinh nguyệt:
+ Đau đớn và khó chịu:
Hình như đau đớn có quan hệ với sự co thắt ở tử cung, nhưng không phải lúc nào người ta cũng có thể khẳng định được điều này. Một nguyên nhân về cấu tạo các cơ quan trong cơ thể cũng có thể là nguyên nhân của sự đau đớn này: Cổ tử cung của trẻ con, màng trinh không thủng sẽ ngăn cản máu trong kinh nguyệt chảy ra ngoài, một viêm nhiễm nào đó ở khu vực âm đạo phải được xem xét kỹ lưỡng hay trong các trường hợp hiện tượng thống kinh xuất hiện sau nhiều năm không biểu hiện tống kinh ra ngoài. Những nguyên nhân gây ra đau đớn này thì những yếu tố tâm lý không bao giờ vắng mặt.
Một quan sát của Margaret Mead dường như đã kết luận cho chúng ta: chỉ một người phụ nữ duy nhất trong những người dân ở đảo Samoa bị đau đớn trong các kỳ kinh nguyệt, cô ta đã làm việc lâu năm trong một gia đình truyền giáo người Ailen, gia đình này đã kết tội cô khi thấy những kỳ kinh nguyệt của cô xuất hiện.
Các kỳ kinh nguyệt là biểu hiện nhân tố hạnh phúc, là bằng chứng của nữ tính và khả năng mang thai, các bậc cha mẹ cần đề phòng hiệu quả trước sự đau đớn của con cái trong thời kỳ kinh nguyệt. Họ phải cho các bé gái này biết trước ý nghĩa của:
- Sự đau bụng giữa chu kỳ kinh cho phép một số phụ nữ xác định được ngày rụng trứng.
- Một sự khó chịu nho nhỏ (mệt mỏi, chướng bụng, căng ngực, ưu tư) mà các bé gái hay bị nhầm lẫn với nguyên nhân khác. Điều quan trọng là chúng phải biết được trạng thái tâm hồn của mình đôi khi bị trầm uất, triệu chứng này quan hệ trực tiếp với sự biến đổi về trạng thái cân bằng hoóc môn.
+ Kinh nguyệt không đều.
Trong những năm đầu tiên tiếp theo thời kỳ dậy thì thì chu kỳ kinh nguyệt có thể thay đổi theo tỷ lệ nhạy cảm của mỗi người. Và đến khoảng 20 tuổi thì chu kỳ này mới có nhịp riêng của nó. Chu kỳ thường từ 26 đến 34 ngày, lý tưởng nhất là 28 ngày. Sự chảy máu kéo dài từ 2 đến 7 ngày, có những cục máu đông bằng hạt đậu là hiện tượng hết sức bình thường.
Sự dừng lại các kỳ kinh xuất hiện ở người phụ nữ có đời sống tình dục cao là biểu hiện của thai nghén một cách ngẫu nhiên. Những sự dừng kinh nguyệt còn có thể có những nguyên nhân khác: sự thay đổi của khí hậu, của đồ ăn thức uống, một cú sốc về tình cảm, sự lo sợ hay hứng thú với việc mang thai cũng có thể làm rối loạn sự điều hòa kinh nguyệt. Những yếu tố mang tính cảm xúc này giải thích cho sự thường xuyên mất kinh tâm lý ở những người phụ nữ trẻ.
+ Sự kiêng kị trong thời điểm kinh nguyệt:
Từ lâu nay, ở một số xã hội đã coi người phụ nữ đang có kinh là không trong sạch, bẩn thỉu. Trong kinh thánh và kinh Coran đã có ghi cấm quan hệ tình dục trong ngày có kinh và 2 ngày sau đó không phải để người đàn ông giữ gìn sự sạch sẽ mà là để anh ta sử dụng sức khỏe của mình cho mục đích sinh sản.
Có rất nhiều bộ lạc nguyên thủy vẫn tin vào những điều mê tín sau: người phụ nữ giao hợp trong kỳ kinh sẽ trở thành vô sinh còn người đàn ông giao hợp với cô ta sẽ mất đi sự nam tính của mình. Ngày nay với một số dân tộc được coi là văn minh những vẫn tồn tại những điều huyễn tưởng mà không dựa trên cơ sở khoa học nào. Tiến sĩ thuộc trường Peaboby có tên là Paulsen đã thu thập được một danh sách rất thú vị về hiện tượng này. Dưới đây là một số những điều huyễn tưởng đó:
- Một người phụ nữ có thể chịu đựng được những tấn công tình dục của người đàn ông khi mang băng vệ sinh.
- Một người đàn ông sẽ lấy lại được sức lực của mình khi quan hệ tình dục với người phụ nữ đang hành kinh.
- Sự thường trực về giới tính không diễn ra trong thời điểm kinh nguyệt.
- Đặt một miếng băng vệ sinh đã qua sử dụng xuống dưới gối có thể ngăn chặn được sự thụ thai.
Những quan niệm mê tín này phổ biến trong các học sinh của trường phổ thông cơ sở hiện đại chúng ta, cho thấy nguồn gốc của chúng từ sâu xa trong vô thức của cả cộng đồng.
Có thể tất cả các xã hội đều cảm nhận được sự cần thiết phải hướng xung năng tình dục của người phụ nữ tới những mục đích sinh sản. Khác với động vật nó chỉ tham gia vào quá trình giao hợp mạnh mẽ nhất ở thời kỳ động dục còn người phụ nữ lại có thể giao hợp trong tất cả các mùa. Tuy nhiên hứng thú tình dục của người phụ nữ thường theo chu kỳ. Có 2 thời điểm cao nhất tùy theo từng người, có thể vào thời kỳ rụng trứng hay khi đứng trước người đàn ông mình yêu thích. Đặc biệt, chỉ có người đàn ông có khả năng giao hợp với người phụ nữ không mong muốn (giống như một vụ hiếp dâm). Trong tất cả phần còn lại của thế giới loài vật thì quan hệ tình dục được quyết định rất chặt chẽ do sự tiết hoóc môn. Với loài người thì não bộ giữ vai trò kiểm soát bản năng tình dục.
Kinh nguyệt là một chức năng sinh lý cũng giống như chức năng sinh dưỡng và vận chuyển. Vì vậy nó không kéo theo bất cứ một hạn chế nào tới các hoạt động của các cô gái trẻ: trong khi bị hành kinh một cô gái vẫn có thể bơi, tắm, gội đầu, chơi những môn thể thao mà mình thích hay tiến hành các hoạt động nghề nghiệp bình thường. Người ta có thể chỉ ra rằng: nước không vào được trong âm đạo trong khi tắm. Chỉ có sự thay đổi nhiệt độ lớn có thể làm ngưng lại dòng máu kinh nguyệt do phản xạ co cơ.
Hình dáng bề ngoài
Một nữ thiếu niên có ham muốn được thỏa mãn tới điểm tối ưu của cô ta. Do vậy cô ta rất lo lắng về kích thước bề ngoài của mình: trứng cá và sự mọc lông làm cho cô ta rất lo lắng.
+ Trứng cá: Hiện tượng trứng cá bộc lộ một trong những lo lắng chủ yếu của các thiếu niên. Chúng tôi đã từng nói: một cô bé thiếu niên trong thời kỳ niên thiếu là thời điểm chưa có sự ấn định chắc chắn, đây cũng là thời điểm các bạn trẻ đang thử thiết lập bản tính và xác định vai trò của mình trong xã hội. Đó chính là thời gian xuất hiện mong muốn làm vui lòng người khác. Thế mà trong thời kỳ này của cuộc đời thì khả năng làm vừa lòng người khác lại phụ thuộc rất nhiều vào khuôn mặt điển trai, một hình thể đẹp hơn là sự thông minh hay thành công trong học tập. Trên quan điểm này thì trứng cá quả là một tai họa. Không chỉ có duy nhất một căn bệnh ở lứa tuổi thiếu niên như: cảm giác thiếu tin tưởng, bệnh nội tâm, hoặc các sự chịu đựng lớn hơn. Thực tế hiện tượng mụn trứng cá sẽ ngăn cản sự nhận thức về chính bản thân mình và làm nhầm lẫn các mối quan hệ với người khác ở mức độ hứng thú tình dục cũng như là cấp độ quan hệ xã hội. Trong tất cả các cuộc điều tra mới đây, để đánh giá những tiêu chí cảm giác về giá trị riêng của mỗi người được tạo lập xung quanh một cậu thiếu niên, trước nhất là khuôn mặt có khí chất, sau đó mới đến sự hài hòa cơ thể, đường nét của ngực và đôi chân.
Những phương pháp điều trị mới với hiện tượng trứng cá (đặc biệt là phương pháp Ro-Accutane) đã tạo ra những cải thiện đáng kể trong những năm gần đây. Sự không công bằng trong việc chữa trị mụn trứng cá thường chỉ dành riêng cho con gái đã được chấm dứt. Những phương pháp điều trị mới này có 2 kết quả rất quan trọng:
1. Những điều huyễn tưởng quy kết cho trạng thái không sẵn sàng về mặt tình dục hay việc thủ dâm của người phụ nữ gây nên hiện tượng trứng cá sẽ hoàn toàn được đặt vào dĩ vãng.
2. Trứng cá do bệnh lý mãn tính thường cho phép tạo ra một mối quan hệ đồng nhất giữa các thiếu niên và bác sĩ chữa bệnh. Mối quan hệ tương trợ này có thể dẫn tới việc điều trị về da hết sức đơn giản.
+ Sự mọc lông:
Cùng với các thực nghiệm mới có liên quan đến việc chống lại sự tạo thành hoóc môn giống đực như là muối, người ta có thể hy vọng một hiệu quả tốt nhất của việc điều trị bằng các đơn thuốc chống lại sự mọc lông với điều kiện phải tuân thủ sự kiểm soát của bác sĩ.
+ Vấn đề về ngực:
Nếu cần phải đưa ra một vài chú ý đặc biệt tới nguồn gốc lo lắng của cô bé thiếu niên, không lưỡng lự, cô bé này sẽ nói ngay nỗi lo nảy sinh do sự phát triển của bộ ngực. Sự lo lắng này thường dưới dạng ảo giác. Đường nét của cặp vú là dấu hiệu hiển nhiên nhất của nhục dục trong nền văn hóa của chúng ta – một dấu hiệu hiển nhiên và cũng gây kích thích nhất đến mức mà có rất nhiều bạn gái trẻ vẫn tin tưởng một cách trung thực rằng cặp vú nhỏ sẽ làm mất vẻ quyến rũ và mất tất cả nữ tính. Điều quan trọng họ phải biết rằng:
- Sự phát triển của vú phụ thuộc phần lớn vào các yếu tố như di truyền.
- Tuỳ theo từng trường hợp, sự phát triển này có thể diễn ra nhanh hay chậm.
- Các đầu mút dây thần kinh nhạy cảm và sự cương cứng của vú không tỉ lệ với đầu vú. Có thể một người có bộ ngực nhỏ nhưng lại có sự thụ cảm rất lớn (những điều này vẫn cần kiểm chứng lại).
Cuối cùng tất cả các phương pháp điều trị cục bộ được đề xuất nhằm làm tăng khối lượng của cặp vú (tập thể dục, tiêm hoóc môn…). Sự điều trị này cho thấy hoặc là không có hiệu quả hay sẽ gây nguy hiểm.
Duy nhất chỉ có phẫu thuật chỉnh hình với việc tiêm silicon cho phép điều chỉnh lại hình dạng và kích cỡ của cặp vú như mong muốn. Nhưng cũng chỉ nên tiến hành với những người phụ nữ quá tự ti về hình ảnh của cơ thể mình.
Một số sai lầm thông thường phổ biến về bản năng tình dục của phái yếu
- Người phụ nữ không có khoái cảm tột đỉnh vào ban đêm.
- Màng trinh còn nguyên vẹn là dấu hiệu của sự trinh tiết.
- Một cậu con trai có thể tưởng tượng ra một cô gái đang trong kỳ kinh nguyệt thông qua hình dáng bề ngoài của cô ta.
Sự tự khẳng định của lứa tuổi thiếu niên và hành vi thủ dâm
Các hoóc môn tăng đột ngột vào thời điểm dậy thì làm nảy sinh và thức tỉnh bản năng tình dục ở cả nam giới và nữ giới. Những thiếu niên ở giai đoạn này bộc lộ nhu cầu cần thiết hướng sự thúc đẩy diệu kỳ của bản năng tình dục vào trong nhân cách của mình thông qua các ảo ảnh và cách cư xử của chúng. Một ví dụ mới đây đã khẳng định điều này. Giữa những năm 1972 đến năm 1983 có 3000 trẻ em người Portoricain ở độ tuổi chưa đến trường đã có biểu hiện dậy thì sớm với sự phát triển của vú và xuất hiện kinh nguyệt. Tỷ lệ này tăng lên một cách đặc biệt (1 trên 50 so với 1 trên 10.000 ở những cộng đồng dân cư khác), nó giải thích cho chế độ ăn của con gà mái hay gà trống tơ có nhiều chất gây kích thích). Dù sao chăng nữa sự tăng vọt của thời kỳ dậy thì đã đặt ra một vấn đề khẩn thiết và bắt buộc người ta phải tìm các giải pháp cụ thể mà những giải pháp này thường chỉ là những sự thỏa thuận. Trước sự tăng cao của xung năng dục tính, các cô cậu thiếu niên phải nhìn nhận và tự tạo cho mình phương pháp tự vệ riêng đã được tạo ra nhờ gia đình và xã hội.
Bản năng tình dục của tuối thiếu niên - một sự thỏa hiệp?
Cách cư xử về khía cạnh tình dục của trẻ được phân chia theo các xu hướng đối lập nhau và vẫn tiếp tục phát triển với những bước tiến lớn. Từ năm 1938 Terman đã cho rằng có rất nhiều cô gái trẻ tiến tới hôn nhân vẫn còn trinh trắng. Tuy nhiên sự dự đoán này vẫn chưa được khẳng định chính xác bằng các con số thống kê. Vào thời đại của Kinsey có 80% nam nữ thiếu niên 18 tuổi đã có những hoạt động vuốt ve cơ quan sinh dục nhưng chỉ có 21% cậu con trai và 15% bé gái đi tới khoái cảm so với tỉ lệ 50% con gái ngày nay.
Tuy nhiên, cách xử sự trong tình dục của thanh thiếu niên vẫn chỉ thường là một sự thỏa thuận.
- Giữa những đòi hỏi của nhu cầu về mặt sinh học tăng lên do bầu không khí kích dục ngày càng phổ biến.
- Những gò bó của gia đình và xã hội ngăn cản chúng.
Vấn đề nên biết: liệu bọn trẻ có phải đẩy lùi lại xung năng tình dục của mình để xây dựng tốt hơn nền tảng của những nền văn minh hay ngược lại như Reich đã từng mong muốn: nên cho chúng làm chủ việc làm thỏa mãn bản năng của chúng? Với việc này, chúng được tùy ý sử dụng 3 hình thức sau:
1.Thủ dâm
2.Quan hệ đồng tính.
3.Quan hệ tình dục khác giới.
Sự thủ dâm:
Sự thủ dâm là hành vi tình dục thường gặp nhất ở mức độ tuổi thiếu niên tới mức mà một số nhà tâm lý học không hề lưỡng lự giới thiệu hành vi tự kích thích nhục dục như một đặc trưng cơ bản của lứa tuổi này. Trong những số liệu thống kê mới nhất của Masters tiến hành với 580 phụ nữ thì 75% trong số họ thú nhận là đã có hành vi thủ dâm khi còn nhỏ so với tỷ lệ 20% ở thời đại của Kinsey. Thủ dâm thường đi kèm với ảo ảnh và mơ ước tình dục. Và chỉ có 10% thiếu niên dù nam hay nữ khi thủ dâm đã khẳng định là không có hiện tượng đó. Những ảo ảnh do tưởng tượng có vai trò cơ bản ở độ tuổi này của cuộc đời. Nó chuẩn bị trong trí tưởng tượng một quan hệ tình dục trong tương lai thông qua sự lặp lại liên tục trong trí nhớ. Các nhà giáo dục muốn nhắc nhở rằng: ngày nay thủ dâm không phải là gây thiệt hại cả trên phương diện thể chất lẫn tâm lý. Như vậy, việc nghĩ xấu về thủ dâm đã từng tồn tại trong suốt 20 thế kỷ qua đáng phải bác bỏ. Tất nhiên, tất cả các tác giả đều đồng ý sẽ không quy kết tội cho hành vi thủ dâm nữa, nhưng như Jean Ormezzano lưu ý một cách hài hước rằng luôn luôn có một đoạn văn bắt đầu bằng từ “nhưng” còn ở đây cũng phải nói nhưng hành vi này không được kéo dài quá vì hiệuu quả của nó là đáng kể…
Sự lo sợ của các nhà giáo dục cũng như các bậc cha mẹ trước hành vi thủ dâm biểu hiện thông qua giọng điệu răn đe, phủ nhận những dự định của bọn trẻ hoặc thông qua những lời khuyên răn về bề ngoài rất thoải mái tự do, nhưng làm bọn trẻ sợ hãi, lo lắng về điều đó.
Lập luận của họ được chia ra làm 6 chủ điểm chính:
- Thủ dâm lặp lại sẽ gây mệt mỏi.
- Thủ dâm làm giảm đi hứng thú trong tương lai.
- Thủ dâm làm cho người ta trở nên nhút nhát thay vì phải xông pha chiến đấu nhưng lại chỉ thu mình trong trí tưởng tượng.
- Thủ dâm có chiều hướng giật lùi, đó là một sự xác định của chúng ơ-đíp.
- Thủ dâm buộc tội người chủ nhân. Làm cho họ lo lắng và không bao giờ hạnh phúc cả.
- Thủ dâm làm mất tính cách của chủ nhân, xé nhỏ nhân cách bởi người tiến hành hành vi thủ dâm lại vừa là tác giả, vừa là người cảm nhận và thực hiện những ảo ảnh do chính mình tạo ra. Những lập luận trên đây bị thiếu cơ bản những khiếm khuyết chính của hành vi thủ dâm, do đó làm đảo lộn cả nguyên nhân và hậu quả.
Thủ dâm không gây mệt mỏi cho con người là bao, nó chỉ tương đương với bài tập thể dục hay một công việc trí óc nào đó kéo theo sự tập trung cao độ. Mà ngược lại, thanh thiếu niên bị mệt mỏi có thể tìm thấy ở nó một lối thoát. Nó cũng không làm cho người ta trở nên nhút nhát và bất hạnh, ngược lại, nó được sử dụng để giảm nhẹ trạng thái cảm xúc và cả căng thẳng về tình dục nữa. Thủ dâm không làm cho người ta lo sợ, hành vi này giống như một loại ma túy thần diệu để người ta tự an ủi khi gặp những thất bại, chống lại buồn phiền hoặc sự thiếu thốn tình cảm và cần tránh những khó khăn khi tiếp xúc trong quan hệ tình dục khác giới. Người ta luôn có xu hướng làm giảm hành vi thủ dâm so với sự giao hợp.
Ferenczi đã từng lưu ý rằng sự giao hợp thông qua vuốt ve, ôm hôn đã kéo theo tất cả những vùng động dục của chúng ta trong khi sự thủ dâm chỉ cần tới những ảo ảnh và sự kích thích cơ quan sinh dục. Các bạn trẻ trong độ tuổi này thường bị thất bại trong khi giao hợp bởi có thể chúng chưa có thói quen hòa mình với thực tế của người khác. Ngược lại thủ dâm lại mở tất cả các cánh cửa của trí tưởng tượng, nó khiến cho người bạn tình (nam hay nữ) trở nên dễ bảo và rất phù hợp với mong đợi của mỗi người. Nó làm an lòng người ta về khả năng tình dục cũng như khả năng yêu và được yêu. Nó tôn vinh cảm xúc của sự hăng say khéo léo của những hình ảnh được nuôi dưỡng từ nguồn sâu sắc nhất của nhân cách con người. Những người có quan hệ tình dục đồng tính, cuồng dâm, loạn dâm, người hay phô bày cơ quan sinh dục, người có tình yêu một chiều tự bộc lộ một cách tự do thông qua hành vi này.
Thủ dâm không khác gì một hành vi quan hệ tình dục, chỉ có điều các kích thích nhục dục chỉ dừng lại ở trí tưởng tượng. Ở dưới nhiều góc độ, khi giao hợp của cặp vợ chồng bị rơi vào sự buồn tẻ thì cũng chỉ là sự thủ dâm đều đặn mà thôi.
Với một số chuyên gia phân tích tâm lý thì chính những tưởng tượng có nguy cơ trở thành có hại sẽ quyết định số lượng các lần thủ dâm. Chẳng hạn như các thanh thiếu niên biểu hiện xu hướng mạnh mẽ nhất theo hướng quan hệ đồng tính, thường xuyên tiến hành hành vi thủ dâm như để tự an ủi về bản tính nam riêng của mình. Nhưng đến đây không nên hòa trộn giữa nguyên nhân và kết quả. Thủ dâm không tạo bất kỳ một xu hướng lệch lạc đã tồn tại trước đó. Nó chỉ giúp cho việc định hướng xu hướng này thông qua sự tưởng tượng.
Vì vậy, thủ dâm là một ngôn ngữ có ý nghĩa theo hoàn cảnh một cách ngẫu nhiên. Một cái van an toàn giảm nhẹ sự căng thẳng tình dục và cảm xúc, làm chủ được khoái cảm để chuẩn bị cho việc học hỏi cách tiếp xúc trong thế giới tưởng tượng của những mơ ước làm thỏa mãn ham muốn của mình, băng bó cho vết thương của thói tự coi mình là trung tâm và lấp đầy những phần trống rỗng. Thủ dâm đối với thanh thiếu niên và rất nhiều người lớn cũng vậy, nó như một đặc ân về mặt tình dục, một giai đoạn rất tích cực trong sự hoàn thiện tâm sinh lý mà các bậc cha mẹ đã nhầm lẫn như đã nói ở trên và đã buộc tội cho con trẻ.
Thái độ của các bậc phụ huynh
Đầu tiên họ nên chấp nhận hoàn toàn hành vi thủ dâm và không đưa ra một sự hạn chế nào dù là nhỏ nhất. Có rất nhiều ông bố bà mẹ trong định kiến của họ ngầm hiểu đó như một sự chấp nhận về mặt nguyên tắc, thế nhưng vẫn tìm mọi cách để buộc con trẻ phải tránh hành vi này. Sự cấm đoán và trừng phạt chỉ làm tăng thêm điều không tốt mà họ khẳng định sẽ xua đuổi nó. Vậy tế nhị hơn một chút, họ nên hiểu rõ thủ dâm không nguy hiểm, với điều kiện không tiến hành hành vi quá thường xuyên và không kéo dài quá lâu hành động đó; với ý nghĩa này các bậc cha mẹ cũng giảng giải và dạy dỗ con cái.
Vấn đề ở chỗ đâu là nhịp độ bình thường? Bởi vì không hề tồn tại một cơ sở khoa học nào quy định số lượng của hành vi này cả. Nó thay đổi theo kinh nghiệm từng trải của mỗi người, theo bối cảnh và thời gian, những thời điểm kích thích và cả sự thất bại nữa.
Nếu hành vi thủ dâm thường xuyên đến nỗi chế ngự mọi hoạt động khác thì cha mẹ, các nhà giáo dục thay vì buộc tội hành vi này hãy nghĩ đó là một triệu chứng, nên cố gắng tìm ra những nguyên nhân chưa được bộc lộ và chính những nguyên nhân này làm nảy sinh hoạt động tự kích thích của bạn trẻ.
Những điều hạn chế của cha mẹ đối với con cái về số lần và độ dài của sự thủ dâm là những điều rất tế nhị, nếu không khéo nó gây ra hậu quả lo sợ và cảm giác tội lỗi của bọn trẻ. Các bậc cha mẹ phải hết sức ý thức về điều này, về khía cạnh thủ dâm mọi điều hạn chế phải được cân nhắc.
Hiện tượng đồng tính luyến ái ở thanh thiếu niên (homosexualité)
Vấn đề làm nảy sinh sự đam mê, sự không hiểu biết lẫn nhau và tình dục đồng giới vẫn còn là hiện tượng quá phức tạp mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về nó. Ngày nay, các bậc cha mẹ hay lo lắng, sợ hãi vấn đề này và tìm cách phát hiện ra những dấu hiệu của nó ở bọn trẻ nhà họ. Các nhà sinh học, nhà di truyền học, các nhà tâm thần học thử tìm những nguyên nhân của chứng tình dục đồng giới, trong khi đó một số hoạt động mang tính nghi kị xã hội và mang tính thiểu số ấy chưa tạo ra những người đi tiên phong đòi hỏi những tìm tòi của các nhà nghiên cứu về hiện tượng này. Theo báo cáo của Simon chỉ có 6% cánh mày râu và 3% phái nữ thừa nhận đã từng có cách cư xử đồng tính luyến ái. Thực ra thì những con số này cũng không nói hết được thực tế. Đó là chưa tính đến 11% những người không có chủ trương tham gia giúp các nhà nghiên cứu đã từ chối trả lời. Mặt khác cuộc điều tra không tiến hành với những người dưới 20 tuổi.
Những số liệu thống kê của Kinsey hơi cũ một chút: 33% cánh mày râu so với 13% phụ nữ đã có được khoái cảm khi tiến hành thử nghiệm tình dục cùng giới, trong khi một nửa số người được hỏi bộc lộ sự quyến rũ bề ngoài với một người đàn ông hay một người phụ nữ khác. Tóm lại, các cuộc điều tra chỉ ra rằng có sự giảm bớt các quan hệ đồng tính ở thanh thiếu niên: 14% theo điều tra của Hass vào năm 1979 so với 17% trong cuộc điều tra của Sorensen vào năm 1973.
Tình dục đồng giới nữ lại phổ biến hơn những gì người ta tin tưởng một cách chung chung. Bởi vì người phụ nữ rất ít khi thú nhận xu hướng đồng tính nữ của họ và họ che giấu điều này dưới vở kịch một tình bạn rất khéo khiến cho người ta không nhận ra.
Nên lắng nghe trước hết định nghĩa của tình dục đồng tính
Đồng tính luyến ái có thể được gói gém trong một hành vi. Trong hoàn cảnh chung đụng ở ký túc xã, những thanh thiếu niên và kể cả người lớn sống xa vợ con ở trong tù hay trên một con tàu biển nào đó có thể đôi khi quay về với hành vi thủ dâm mà không phải là người đồng tính. Ngược lại, các xu hướng tình dục đồng giới có thể được kiểm tra bằng sự cân nhắc về tôn giáo, đạo đức và xã hội. Dường như sự phân biệt này rất quan trọng với chúng tôi. Điều này còn hơn cả một sự vụng về, một khuyết điểm có hậu quả nặng nề, nếu điều trị cho những thiếu niên khi mắc chứng bệnh tình dục cùng giới tiến hành các hoạt động thủ dâm lẫn nhau, ngay cả một hành vi tình dục đồng giới tạm thời: ở các cậu con trai hành vi thủ dâm mang tính tập thể đáp ứng rất lớn các nhu cầu xua đuổi sự sợ hãi về điều bất thường của mình (sự phát triển dậy thì của giới tính) và tự làm yên lòng về bản năng nam tính của chúng. Các nhà giáo dục phải hết sức cảnh giác để tránh tạo ra mối lo sợ cho bọn trẻ nếu không khó bù đắp nổi nhân cách được đào tạo một cách đầy đủ. Sự phát hiện ra xu hướng tình dục đồng tính ở dạng không biểu hiện ra, xu hướng này chứng minh cho tính không rõ ràng về giới tính ở thiếu niên, phát triển này cho thấy một điều tồn tại. Freud đã viết: “khi gần đến tuổi dậy thì thì một người có biểu hiện đồng tính luyến ái hoặc ngược lại”. Những trò chơi đồng tính luyến ái rất thường xuyên trong thời điểm này không hề quyết định một chút nào tới việc định hướng giới tính về sau. Với một số người, những trò chơi này là 1 chặng chuyển giao về mặt sinh lý tới sự hoàn thiện về sinh lý của mỗi người.
Như Lebovici và Kneisler đã lưu ý điều này “chỉ có những thiếu niên sống buông thả với những hành vi tự kích dục bởi sở thích duy nhất theo phương thức lặp đi lặp lại phải kiểm định xem có phải là người bị đồng tính luyến ái hay không”.
Chính trong thời kỳ niên thiếu, một người đồng tính luyến ái có thể chắc chắn về sự khác biệt của mình.
Người ta trở thành người đồng tính luyến ái như thế nào?
Có rất nhiều cách thức khác nhau để một người trở thành đồng tính. Những người đến khám bệnh thường nói rằng do sự tình cờ, chẳng hạn như vào một thời điểm mấu chốt nào đó, một cuộc gặp gỡ với một người cùng tuổi hay lớn tuổi hơn mà họ rất ngưỡng mộ. Thực tế thời kỳ niên thiếu là một thời điểm hết sức nhạy cảm. Đó là thời kỳ mà ham muốn tình dục ở mức cao nhất và người ta rất dễ bị tổn thương. Sự hiểu chưa rõ ràng về khả năng giới tính, sự trút bỏ gánh nặng về cảm xúc và sự sợ hãi, tất cả những yếu tố trên góp phần đánh dấu những kinh nghiệm đầu tiên về tình dục như một dấu ấn không bao giờ phai. Dấu ấn đầu tiên này có thể định hướng một cô hay cậu thiếu niên tới những cách cư xử thuộc khía cạnh tình dục mà cậu ta sẽ bị ràng buộc vào đó. Từ các ý kiến tương tự với các nhà lâm sàng học hay các thầy thuốc được bệnh nhân xin ý kiến, nhiều người cho rằng trở ngại chính trái ngược với sự lệch lạc giới tính này vẫn là yếu tố quyết định tới hứng thú của người bị đồng tính luyến ai.
Người đồng tính luyến ái nam tiến hành những hành vi tình dục đồng tính rất sớm trung bình khoảng 14 tuổi, một độ tuổi rất nhạy cảm và còn sớm hơn một người có quan hệ tình dục khác giới. Trong khi những phụ nữ bị bệnh đồng tính chỉ có hành vi này vào khoảng 19 tuổi.
Tuy nhiên những thống kê của Kinsey và những thống kê gần đây khẳng định rằng: nếu gần 50% nam giới và nữ giới có quan hệ tình dục đồng tính thì chỉ có 8% trong số này tiến hành những quan hệ đó trong vòng hơn 3 năm. Điều này chỉ ra rằng khoái cảm đồng tính là không đủ. Trong mọi trường hợp, các số liệu thống kê đã mang lại sự công bằng với những tổn thất mà người ta đã gây ra cho những người bị đồng tính luyến ái, làm chuyển hướng những trẻ em vị thành niên: trong hơn 93% các trường hợp đồng tính khi bạn tình của người đồng tính luyến ái khuyến khích sự tiếp cận của họ hoặc không hề phản đối gì. Trên quan điểm này, người ta cũng không nên quên sự hiếu kỳ về tình dục và nhu cầu tình cảm của một số trẻ em đã tạo điều kiện thuận lợi cho những trục trặc kiểu như vậy.
Những nguyên nhân tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành chứng tình dục đồng tính
Nếu quy cho tình dục đồng tính một nguyên nhân chính xác thì sẽ là một sai lầm. Những giả thuyết về gien và hoóc môn cũng không phải là bằng chứng của luận điểm trên. Thực tế, những người phụ nữ có triệu chứng của cơ quan sinh dục nam và rất nhiều tính chất của phái nam thì có nhiều khả năng trở thành người đồng tính luyến ái nữ. Những nam giới có triệu chứng Klinefelter do sự biến đổi nhiễm sắc thể tạo ra sự teo tinh hoàn có nhiều cách xử sự của một người đồng tính nam. Thế nhưng những số liệu này chưa có minh chứng. Gần đây Dorner đã công bố một giả thuyết của “một trung tâm giao cấu kép ở vùng phía dưới”. Ở phôi nam, sự tiết các chất mang nam tính bị suy giảm trong thời điểm quyết định trước khi sinh sẽ có sự chế ngự của trung tâm giao cấu nam và dư lại các tính chất nữ. Ngược lại ở phôi nữ có sự sản xuất quá nhiều các tính chất của giống đực sẽ tạo điều kiện cho trung tâm giao cấu mang tính nam. Giả thiết này vẫn chưa được thừa nhận. Người mắc bệnh này phân ra sự tồn tại của tình dục đồng giới và tình dục đồng tính, họ phân biệt với nhau bởi lứa tuổi, văn hóa, những vấn đề tâm lý, đặc biệt là sự hòa nhập nhiều hoặc ít với sự thay đổi giới tính của họ.
Người đồng tính luyến ái thường nhận về mình vai trò của giới tính đối lập với mình. Theo Gide, những người đồng tính nam chỉ biểu lộ ham muốn tình dục với trẻ em hay thiếu niên. Những người bán thân nuôi miệng bị đồng tính luyến ái thường tặng cho khách hàng sự phục vụ của họ mà không lấy tiền công. Sự thủ dâm qua lại, giao cấu ở hậu môn, sự kích thích bằng miệng chủ động hay thụ động, vuốt ve có sự tham gia của miệng vào hậu môn. Những hoạt động này tạo ra một đội quân những người bị mắc chứng tình dục đồng tính ủy mị rất lớn.
Liệu có một điểm chung nào giữa tất cả những sự lệch lạc giới tính này không?
Đa số các tác giả và Nach cùng nghi ngờ bởi 3 yếu tố về mặt tâm lý mà người ta thường quan sát thấy ở người mắc chứng bệnh tình dục đồng giới:
- Lòng tự mê mà người ta có thể xác định như một sự lo lắng thái quá về bản thân và những người này thường che dấu một tình cảm không ổn định về giá trị riêng của bản thân. Người bị mắc thói tự mê luôn luôn cần một người khác như một tấm gương để họ có thể tự đánh giá được mình.
- Lo sợ sẽ đánh mất bản tính tình dục. Thực tế đối với rất nhiều thiếu niên thì vấn đề mấu chốt của chúng xoay quanh sự sử dụng dương vật. Như một người hay gán cho một bộ phận của người bạn tình khả năng kích dục, vậy đời sống tình dục của người này xoay quanh bộ quần áo, găng tay, chiếc giày. Thường thường người bị mắc chứng tình dục đồng giới sắp xếp cuộc tìm kiếm của mình xung quanh nền móng là dương vật. Trong những cuộc săn đuổi không ngừng của anh ta, anh ta không bao giờ tìm kiếm chính bản thân mình và những biểu hiện của một người nam nhi đang bị đe doạ.
- Sự gắn bó với người mẹ và thiếu vắng một hình ảnh người cha là điều kiện làm đứa con duy nhất trong gia đình rơi vào tình hình trầm trọng thêm (30% trong số những người đồng tính cùng giới là con độc nhất chỉ sống với mẹ so với 10% sống với cộng đồng chung). Người phụ nữ bất hạnh trong đời sống vợ chồng có quan hệ quá thân thiết với con trai, dành hết cả tình yêu cho nó. Bà ta coi đứa nó có vai trò thay thế người chồng của mình. Đứa con trai bị cảm giác tội lỗi do ham muốn loạn luân kể từ đây tự cấm mình có quan hệ với tất cả những người đàn bà khác. Những điều kiện mới về văn hóa xã hội cũng được coi là một nguyên nhân có xu hướng quy kết những vai trò có thể trao đổi lẫn nhau của mỗi cá nhân.
Tuy nhiên, tình dục đồng tính không có nghĩa chỉ bó hẹp ở mấy tiêu chuẩn này. Có rất nhiều người có đầy đủ 3 tiêu chuẩn trên nhưng họ vẫn không phải người đồng tính. Có rất nhiều trẻ em bị quyến rũ bởi một người mắc tình dục đồng giới những vẫn giữ gìn được hoạt động tình dục nguyên gốc của chúng. Tại sao trong cùng một gia đình có anh em trai hay hai chị em gái lại có những định hướng giới tính khác nhau? Cho tới ngày nay người ta cũng không thể trả lời được câu hỏi này một cách chắc chắn.
Những người mắc chứng bệnh tình dục đồng giới rất sẵn lòng cần đến hành vi thủ dâm tương hỗ và các kích thích bằng miệng qua lại, sự giao hợp, ở hậu môn hay sự giao cấu bằng đùi. Ngoài ra những người đồng tính luyến ái nữ lại có thêm kích thích ở vú, sự lướt nhẹ trên các phần cơ thể giữa người này và người kia và đôi khi họ sử dụng dụng cụ tình dục dành cho phái nữ. Tuy nhiên những người này có những biểu hiện phức tạp mang nhiều yếu tố nam tính ngày một tăng, họ tỏ ra ghê tởm khi phải sử dụng những dụng cụ có hình dạng của dương vật. Họ cư xử như một người phụ nữ bình thường trước mặt những người phụ nữ khác, họ rất sẵn lòng cần đến những kích thích bằng tay trên bộ phận sinh dục của cơ thể và chấp nhận tập trung sự chú ý vào các kích thích ở vùng vú. Không phải lạ lùng khi họ biết rằng trong những điều kiện này tỷ lệ 90% trong số đó đạt được khoái cảm tột đỉnh. Giống như những người có quan hệ tình dục bình thường khác, những hoạt động này cũng được tô vẽ bởi những ảo ảnh hay những hành vi bạo dâm, loạn dâm về thói nhìn trộm…
Đã hơi cổ điển khi phân biệt người mắc chứng tình dục đồng giới là chủ động hay thụ động, người ta thường hay gặp nhất là hai vai trò này trao đổi lẫn nhau. Trong tâm tưởng của phần lớn mọi người thì giao cấu ở hậu môn là hoạt động cơ bản của người đồng tính luyến ái. Tóm lại trừ một vài nền văn minh như Mehico chẳng hạn, những người đồng tính luyến ái lại không cần đến hoạt động giao cấu bằng những người có đời sống tình dục bình thường. Ở Mỹ và có thể ở châu Âu những vuốt ve có sự tham gia của miệng và cơ quan sinh dục thường thông dụng nhất. Thông thường thì những người đồng tính luyến ái cả nam và nữ đều dành thời gian kéo dài thời kỳ kích thích nhờ những trò chọc ghẹo và những trò chơi tình dục. Những đòi hỏi của người đồng tính luyến ái là rất lớn và thường bị ám ảnh tới mức mà chỉ có 19% trong số đó là bằng lòng với một người bạn tình. Gần đây từ khi đại dịch AIDS lan tràn vào thế giới của chúng ta thì một số người trong số này được giáo dục tốt đã biến đổi cách cư xử tình dục. Đặc biệt là ở Mỹ những người bị mắc chứng đồng tính đã từ bỏ hành vi được gọi là fisting (sự đưa bàn tay vào trong trực tràng), chối bỏ thói giao cấu ở hậu môn bởi chúng bộc lộ sự nguy hiểm, và rất nhiều người đã tìm thấy vẻ quyến rũ của một người bạn tình duy nhất.
Liệu các bậc cha mẹ có thể giúp con mình bảo đảm tốt hơn bản tính về tình dục của chúng?
Trong bối cảnh văn hóa hiện nay vấn đề này vẫn là một trong những chuyện làm nhiều bậc cha mẹ phải đau đầu nhức óc nhất để giải quyết nó, tốt hơn họ phải gạt bỏ một số thành kiến và tự sửa chữa những niềm tin mang tính nguy hiểm ấy.
Quan niệm về tình dục hai giới tính:
Không còn tồn tại ranh giới thực sự giữa tình dục đồng giới và khác giới. Kinsey đã thiết lập một thanh độ để đo cấp độ nam tính và nữ tính của mỗi cá nhân. Ở mức số 0 được xác định là người có quan hệ tình dục, ở cấp độ 6 là người có quan hệ tình dục khác giới với cấp độ lý tưởng nhất, họ có khả năng làm thỏa mãn một cách không xô bồ những căng thẳng về nhục dục. Cấp độ 4 thường biểu hiện với một người đàn ông đã lập gia đình, nhưng anh ta thường quan tâm đến quan hệ đồng giới hơn khác giới. Có rất nhiều người tự khẳng định mình có tâm hồn và giới tính rõ ràng mạnh mẽ nhiều người lại tự khẳng định mình dị tính có tâm hồn và giới tính thể hiện là người đồng tính. Gần đây Masters đã miêu tả một nhóm người mà ông ta gọi là giới tính không rõ ràng. Những người như thế này lựa chọn một cách rất hờ hững người bạn tình, họ là những người đàn ông hoặc phụ nữ theo nhu cầu về mặt thể chất mà không hề lo lắng về nhân cách của người kia. Nhưng kể từ khi chúng ta bước vào kỷ nguyên của đại dịch AIDS thì tình dục dị tính đang thoái lui rõ ràng.
Tình dục đồng tính hay tình dục khác giới là một vấn đề phức tạp. Một hay nhiều thử nghiệm trong thời kỳ niên thiếu không dẫn tới ngay lập tức tình trạng tình dục đồng tính vào tuổi trưởng thành, ngay cả khi những xu hướng tình dục đồng giới được biểu lộ trong niềm đam mê có sự vật vã đau khổ của sự ghen tuông, của ham muốn và sở hữu. Tuy nhiên thời kỳ niên thiếu vẫn là thời điểm quan trọng hơn thời kỳ trưởng thành. Một lần trải qua luật chơi có thể ấn định người trưởng thành theo hướng tình dục đồng giới hoặc khác giới. Những người có quan hệ tình dục khác giới cũng có thể có những quan hệ đồng giới theo từng giai đoạn không tạo ra thói quen với hành vi này.
Các bậc cha mẹ không nên hiểu những say mê và ái lực về tâm lý của thời kỳ dậy thì như một dạng tình dục đồng tính không biểu hiện. Tất cả những gì mà chúng tôi vừa nói chỉ ra rằng quan niệm này không mang bất cứ một ý nghĩa nào cả.
Họ cùng nên nhớ rằng tình dục đồng tính ở phái nam đồng nghĩa với sự nữ tính của một người con trai, tình dục đồng tính ở phái nữ đồng nghĩa với bản năng nam tính của một người phụ nữ. Cách cư xử của họ quan trọng hơn hình thức bên ngoài. Một người đồng tính luyến ái nam cũng có thể có chất nam tính như Bogart.
Dấu hiệu ở một cấp độ khác
Nó nằm trong sự đánh giá các mối quan hệ với giới tính đối lập và với quan hệ cùng giới tính. Tình dục đồng tính có thể phát triển khi các quan hệ với người khác giới bị thất bại. Sự sợ hãi bị thiếu thỏa mãn rất mãnh liệt luôn thường trực thúc đẩy những cách cư xử về khía cạnh tình dục, chúng có thể xuất hiện ngay cả vào tuổi trưởng thành, (nghiên cứu của Freud). Thất bại trong khi quan hệ với người khác giới có thể do nhiều yếu tố khác nhau: sợ hãi tiếp cận giới tính khác, cảm giác bất ổn về giá trị riêng của mình do một khiếm khuyết nào đó về mặt hình thể có thực hay do tưởng tượng. Một trong những bệnh nhân của chúng tôi bị mắc chứng béo phì từ ngày bé đã chạy trốn các cô gái với 2 lý do: anh ta tin rằng mình không có sự quyến rũ, lớp mỡ mà anh ta coi như một đặc trưng của phái nữ sẽ làm tăng sự khiếp sợ của anh ấy với chị em phụ nữ.
Cũng dễ dàng hơn nhiều đối với những thiếu niên tin rằng mình xấu xí khó hấp dẫn với người khác giới, cần tìm được tình bạn và tình cảm của người cùng giới tính. Cũng tương tự, có rất nhiều thiếu niên đau khổ về tình cảm cô đơn của chúng rằng liệu chúng có mắc chứng liệt dương trong quan hệ tình dục khác giới hay không. Tuy nhiên sự không thể hòa nhập vào một nhóm giới tính khác nhau hay vào một đám bạn nào đó có thể làm tăng cảm giác về sự khác biệt với mọi người của mình, và có nguy cơ đẩy nhanh chúng đến thử nghiệm tình dục đồng giới. Người ta cũng tìm thấy hiện tượng tương tự ở loài linh trưởng. Để thể hiện sự phục tùng của mình, con khỉ đực sau khi bị loại ra khỏi bầy phải thể hiện chức năng hoàn toàn như một con cái để con đực đầu đàn khác tiến hành giao hợp mang tính tượng trưng của nó. Nghi lễ này được biết nhiều ở trong chuyện thần thoại và đôi khi chúng được quan sát thấy ở trong các nhà tù.
Cha mẹ có vai trò tích cực đối với hiện tượng này, không phải để báo trước hiện tượng tình dục đồng tính hoặc khuyến khích tình dục khác giới mà để:
- Bậc phụ huynh cùng với con trẻ hòa vào cuộc sống giới tính thường gặp. Nếu ông ta muốn đứa bé hòa nhập với mình thì không nên tỏ ra quá nghiêm khắc hay quá yếu ớt.
- Cha mẹ có giới tính khác với trẻ không nên có thái độ tỏ ra quyến rũ, chán ghét, bạo ngược với người xung quanh cũng như với trẻ vì như vậy làm thay đổi hình ảnh mà vị phụ huynh ấy tạo ra giới tính của ông cho đứa con.
- Từ lúc mới lọt lòng các bậc cha mẹ phải chấp nhận một cách sâu sắc giới tính sinh học của trẻ như thế nào?
- Đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội chỉ ra rằng họ chấp nhận hoàn toàn và rất hạnh phúc với giới tính nam hay nữ của những đứa con. Sự đối nghịch ngay cả khi đã được ngụy trang hay một sự tiếc nuối đến não nùng đều gây ra hậu quả làm cản trở sự phát triển tâm sinh lý của trẻ và ép buộc chúng phải biến đổi cách xử sự của mình để đáp ứng tốt hơn mong muốn của cha mẹ.
- Luôn luôn nâng cao giá trị hình dáng bên ngoài và sinh lý của các cơ quan sinh dục nữ để làm mất đi sự mặc cảm tự ti của bé gái. Thực tế dương vật của các em trai nhìn thấy rõ ràng hơn. Bộ phận sinh dục của bé gái lại sở hữu một túi bên trong ở phía dưới bụng và cặp vú cho phép bé có một thử nghiệm tuyệt vời về khoái cảm và sự sinh sản. Cùng với thời gian bộ ngực đối với các cô gái cũng có tầm quan trọng tương tự như dương vật của con trai vậy.
- Trong khi đề xuất với trẻ về những hình mẫu nam giới hoặc nữ giới đủ để phân biệt giới tính giữa chúng. Trên quan điểm này chúng tôi thấy sự thiếu vắng người đàn ông hoặc người đàn bà trong môi trường gia đình là một điều đáng tiếc bao nhiêu.
Nhưng nếu những xu hướng tình dục đồng giới của thiếu niên được khẳng định thì cha mẹ phải biết rằng: tình dục đồng giới không phải là không tương hợp với sự phát triển của xã hội cũng như tình cảm nghề nghiệp và một hiệu quả trong sự sáng tạo. Dĩ nhiên với điều kiện rằng gia đình và xã hội không gây áp lực quá tiêu cực lên đứa trẻ.
Sự hiểu biết và tình yêu của cha mẹ đặc biệt giúp đỡ trẻ bị tình dục đồng giới loại bỏ những đặc điểm tính cách có tính chất loạn thần kinh vô dụng dẫn đến làm nhầm lẫn hạnh phúc của trẻ.
Một vài nhầm lẫn thông thường phổ biến về tình dục đồng giới:
- Tình dục đồng giới và tình dục đồng tính là 2 thế giới khác nhau hoàn toàn.
- Với những người mắc chứng bệnh tình dục đồng giới thì luôn nhận ra mình ở hình thức bề ngoài.
- Hành vi tình dục đồng giới đủ để xác định tình dục đồng tính.
- Người đàn ông không thể hiện khoái cảm của mình khi tự vuốt ve là một người bị tình dục đồng giới.
- Thói giao cấu ở hậu môn là hình thức nhục dục mà người tình dục đồng giới hay tiến hành nhất.
Có cần đến liệu pháp tâm lý để thực hiện chuyển đổi định hướng giới tính của độ tuổi thiếu niên?
Với người mẹ quá lo lắng về hiện tượng tình dục đồng tính của con trai, Freud đã có câu trả lời: “Tình dục đồng tính thực ra không mang lại một chút lợi ích gì cả thế nhưng cũng không phải là một tệ nạn, một sự tha hóa hay một căn bệnh mà người ta phải xấu hổ về nó. Có rất nhiều người trong đó có những người nổi tiếng nhất trên thế giới cũng mắc bệnh tình dục đồng giới như Platon, Michel Ange, Leonardo de Vinci. Quả là sự bất công và một hành vi độc ác khi ngược đãi những người không may bị mắc chứng bệnh này. Cứ như thể họ là những kẻ phạm tội vậy. Các bạn hỏi tôi những gì tôi có thể làm được để điều trị chứng bệnh này. Kết quả của việc điều trị có thể được đảm bảo. Nhưng nếu con trai của các bạn bị bất hạnh, bị rối loạn tâm thần, bị rắc rối bởi những mẫu thuẫn của nó, gặp trở ngại trong đời sống nghề nghiệp thì phép trị liệu bằng liệu pháp tâm lý sẽ mang lại cho nó trạng thái cân bằng, sự bình yên của tâm hồn ngay cả khi định hướng giới tính phải được giữ không đổi (Américan Journal of Psychiatry 1951).
Nói một cách rõ ràng hơn, thay vì biến đổi định hướng giới tính thì liệu pháp chữa bệnh bằng phương pháp tâm lý kết hợp với các phương pháp khác) có thể giúp trẻ bị tình dục đồng giới tự nhận ra chính mình và chấp nhận bản thân tốt hơn.
Chỉ mới đây thôi, trẻ em vị thành niên vẫn còn đang chuẩn bị giành nhiều năm cho sự tiếp xúc với giới tính khác thông qua những ảo ảnh. Ngày nay mọi cái diễn ra quá nhanh, giới trẻ ngày càng không chấp nhận làm chậm lại việc thực hiện những ham muốn ái dục của chúng.
Từ chiến thế giới lần 2, tuổi trung bình cho “thử nghiệm tình ái đầu tiên” đã giảm xuống đáng kể ở nữ giới. Năm 1953, Kinsey cho biết chỉ có 20% các cô gái trẻ ở tuổi 20 đã mất đi sự trinh tiết. Năm 1973 Sorensen cho biết 57% các cô gái trẻ tuổi ở từ 15 - 19 không còn trinh tiết. Năm 1979 thì có tới hai phần ba số trẻ em vị thành niên có quan hệ tình dục. Có nhiều yếu tố giải thích cho sự thay đổi này:
- Sự trộn lẫn các cô các cậu ở trường học hay ngoài môi trường xã hội đã phát triển đáng kể. Thời kỳ mũ trùm đầu với sự kèm cặp của những bà bảo mẫu đã qua rồi, giờ đây các cô gái một mình đối mặt với ham muốn của mình. Từ khi tránh thai bước sang một kỷ nguyên của sự an toàn tuyệt đối, các cậu con trai đã có những lý lẽ mạnh mẽ khiến cho bạn gái phải nhượng bộ. Nỗi sợ hãi mang thai, sự ám ảnh của biết bao thế hệ trước đây nay đã hoàn toàn bị đẩy lùi. Ngày càng đông những nữ sinh lớp 12 đến tham vấn bác sĩ về những thông tin giới tính và biện pháp tránh thai. Lần quan hệ đầu giờ đây không phải diễn ra trong khung cảnh của đêm tân hôn. Nhưng không vì thế mà nó chỉ mang tính “thủ tục” đơn thuần. Cái “lần đầu” này với những giấc mơ, hy vọng và cả sự nghi ngờ, sợ hãi tạo nên một “nghi thức” thực sự phải trải qua. Sự mất trinh tiết không bao hàm những ý nghĩa, những ảnh hưởng ở các cô và các cậu.
Lần đầu tiên
ở con trai:
Cậu con trai muốn mất đi sự trinh tiết của mình bởi khoái lạc thì ít mà bởi lòng hư vinh mà hành động của cậu đem lại cho cậu đối với bạn bè. Với cậu đây chính là nghi thức đánh dấu sự trưởng thành mà xã hội cho phép. Một cậu con trai vẫn còn trong trắng sẽ cảm thấy không chịu nổi giữa một đám bạn toàn bàn luận về những kinh nghiệm của họ. Có thể cậu sẽ chẳng nói gì, nhưng sự câm lặng làm cậu lo lắng, hoặc cậu sẽ tự bịa ra một câu chuyện phiêu lưu để có thể hòa nhập cùng đám bạn. Sau lần “thực tế” đầu tiên cậu bắt đầu khoe với lũ bạn và sử dụng những thuật ngữ “quân sự” để khẳng định quyền lực quyến rũ và sự dũng cảm đầy nam tính của mình. Từ đó cậu thường xuyên tấn công rồi khuất phục con mồi, chính con mồi này cũng thường xuyên cảm thấy hài lòng. Nhưng sự khoái lạc của cậu đôi khi chứng tỏ tính 2 mặt đối với cái dương vật được thèm muốn này mà bản thân cậu cũng chưa dám chắc chắn là đã chinh phục hoàn toàn được nó. Ví dụ sau lần quan hệ ấy cậu sẽ mắc phải một bệnh truyền nhiễm nào đó hoặc cậu đã làm cho bạn tình mang thai. Cần phải suy nghĩ kỹ trước các hành vi của mình.
Ở các cô gái trẻ:
“Lần đầu tiên” hiện hữu với các cô như một kinh nghiệm bên trong. Lần quan hệ đầu tiên này khẳng định được chính bản thân cô trong bản chất nữ tính dưới con mắt của gia đình. Nó cho phép cô hòa hợp cơ thể phụ nữ của mình với những ham muốn ái dục. Trẻ em vị thành niên, nhờ có những kinh nghiệm đầu tiên này, tuy thường xuyên có thất vọng những đã thực sự dấn thân vào thế giới của người lớn. Tuy nhiên “lần đầu” có ý nghĩa rất khác nhau ở cô bé này hay cô bé khác ví dụ như:
- Là phương tiện khẳng định quyền lực quyến rũ của mình và tái tạo giá trị bản thân về mặt hình thể hay ở trường học.
- Là lễ trừ tà cho nỗi ám ảnh tội lỗi gây ra bởi sự thủ dâm.
- Là một phương tiện khẳng định tính độc lập và sự tự do chống lại môi trường gia đình.
Lần quan hệ đầu, ở một cô gái trẻ, là ý định gắn bó với một đối tác được yêu và xây nên cùng anh ta mối quan hệ lâu dài. Một cuộc điều tra mới đây được tiến hành bởi một nhóm các nhà khoa học Nam Tư của bác sĩ Tekvcic cho biết 71% các cô gái trẻ chấp nhận mất trinh bởi họ yêu đối tác của mình và sợ rằng sẽ mất họ nếu cô từ chối. 16% lại cho sự tò mò là chính và chỉ có 4,6% nói đến sức ép của những ham muốn của bạn tình. Trái lại, phần lớn các cậu (75%) nghĩ rằng bạn gái của họ nhượng bộ là vì để thỏa mãn những nhu cầu tình dục của chính họ. Rõ ràng các cậu đã đi đến kết luận này bằng sự so sánh với bản năng tình dục của chính họ. Như vậy, tồn tại sự đối lập căn bản trong câu trả lời của 2 giới tính thực sự là chưa hiểu hết nhau, ngay cả khi mọi cái đã thay đổi rất nhiều. Sức mạnh bản năng giới tính và tình yêu đẩy một cô gái trẻ tới lần quan hệ đầu tiên. Trái lại, những xung năng thường xuyên không thể kiểm soát nổi của cậu con trai có thể buộc cậu phải làm thỏa mãn mình bằng bất cứ cô gái nào mà cậu có được. Như vậy quỹ đạo tình ái của 2 giới là khác nhau. Cậu con trai đi từ ham muốn tình dục để đạt tới tình cảm và những mối xúc cảm của tình yêu. Cô gái thì trái ngược từ yêu mến mới đi đến tình dục, mặc dù ngày nay, kỷ nguyên của các biện pháp tránh thai đã có biết bao sự thay đổi.
Cần biết rằng không phải lúc nào trẻ em vị thành niên cũng sẵn sàng thực hiện những quan hệ tình dục. Kinh nghiệm và sự chín chắn về tình cảm, tâm lý của trẻ em vị thành niên chỉ có được sau một thời gian dài đã chín chắn về mặt giới tính. Cho tới tận bây giờ, quan hệ tình dục được xem như một thách thức không chỉ đối với trẻ em vị thành niên mà cả với thế giới những người lớn, nó luôn là một thứ “lửa củi” của cảm xúc, thường xuyên có nguy cơ chỉ là một cứu giúp ảo tưởng để giải quyết những vấn đề “cấp bách” của nó. Trong thái độ tình dục với mục đích không phải là sự tái tạo nòi giống, thì người kia chỉ là một vật tiêu thụ mà họ sử dụng để:
- Chữa trị cho một sự thiếu hụt.
- Tái tạo giá trị của bản thân.
- Làm cho mình phù hợp với quy tắc cuộc chơi được cả nhóm áp đặt.
- Làm theo những lời khuyến khích của một quảng cáo đối với việc thỏa mãn ngay lập tức những ham muốn tình dục bản thân, đây là hành động dễ dãi và luôn thay đổi.
Trong mọi trạng thái của nguyên nhân, lần quan hệ đầu có thể diễn ra theo những cách rất khác nhau ở mỗi cô, cậu. Có thể do sự may mắn gặp nhau, một phát hiện trong sự thân mật sẻ chia, có thể xuất phát từ tình cảm 2 chiều về lỗi lầm, về sự thiếu hụt tình cảm và thất bại trong cuộc sống.
Có cần phải cấm hoạt động tình dục sớm?
Amado Levy Valensy viết “Cấm đoán tình dục cho dù giữ vai trò gì đi nữa, trong bản thể của, nó có chức năng làm “hợp thánh đạo” mối quan hệ với người khác. Một nỗi buồn chết người luôn rình bám theo ai đã phạm vào mọi điều cấm. Thời gian có thể làm bẵng đi, xóa sạch lỗi lầm đến mức có thể. Thật vậy, nếu người ta quá giam mình trong những điều cấm kị, tội lỗi thì có thể bị “đắm xuống ngay khi muốn ngoi lên từ miệng cống”. Amado L. Valensy đã kết luận điểm chung cho giới trẻ đua đòi quá trớn ngày nay có thể được tóm gọn trong cụm từ “không có khả năng để nói tới ngày mai nếu không chấp nhận nghe theo các lời cấm đoán của người lớn”. Dù cho thái độ cấm đoán của các nhà giáo dục tác động trở lại làm giảm đi thỏa mãn tình dục ngay tức thì, nhưng nhu cầu ham muốn của thanh thiếu niên vẫn luôn tồn tại.
Thật vậy, hệ thống giá trị ngày nay đã thay đổi. Với vấn đề tình dục, trẻ em vị thành niên đề cập tới như sự bình thường hóa hơn là những yếu tố đạo đức. Chúng nỗ lực ít nhiều về hạnh phúc, cố gắng làm phù hợp thái độ tình dục với nhu cầu sinh lý của chúng. Trước kia một cái liếc nhìn, hay cả “sự yêu quý sâu sắc” cũng đủ làm thỏa mãn thế hệ trước. Ngày nay, thiếu niên có xu hướng làm tình ngày càng sớm. Liệu chúng có khả năng đưa những kinh nghiệm tình dục sớm này vào trong bản thể tâm lý - tình cảm của chúng không? Mọi vấn đề nằm ở chỗ sự cấm đoán của người lớn nhằm giúp trẻ biết được bản chất non nớt của tuổi thiếu niên này cần phải tỉnh táo hòa nhập ra sao vào cái sức đẩy phi thường mang tính bản năng của tuổi dậy thì.