Giống như chú chó con đang mọc răng không có cái gì để cắn, tôi quay xe và lái ra khỏi bãi đậu lên phía Hillhurst hướng về nhà hàng ở đỉnh của dãy phố mà Milo từng quảng cáo nhưng tôi thì chưa từng tới đó một mình. Thức ăn theo trường phái cổ, các bức ảnh tự chụp của những vĩ nhân, bờ tường màu đen đầy mẩu thuốc lá.
Một cái biển đặt ở hành lang nói rằng nhà hàng sẽ không phục vụ trong vòng 30 phút nữa những quầy cocktail thì vẫn nhận đơn đặt hàng sandwich.
Một phụ nữ trung niên có mái tóc màu đỏ đang làm việc sau quầy bar. Một số thực khách đang ngồi ở vòng chân ngựa có đêm nhai kẹo cao su và ăn vài thứ đồ miễn phí trong khi mắt dán vào màn hình tivi chiếu cảnh đua xe. Chiếc tivi được đặt trên kệ tường, làm tôi nhớ tới cái đã nhìn thấy trong phòng con bé Cassie.
Bệnh viện... luôn ngự trị trong suy nghĩ của tôi hàng bao năm trước. Tôi tháo cà-vạt, ngồi xuống, gọi một chiếc sandwich và cốc bia. Khi người phục vụ quay sang chuẩn bị, tôi bèn ra chiếc điện thoại công cộng ở sau quầy bar và gọi tới Trung tâm Parker.
- Trung tâm lưu trữ đây - Giọng Milo.
- Tiến sỹ Sturgis đó phải không?
- Á, ước gì tôi không phải là ông tiến sỹ Khó gần đó. Thôi, hãy vào việc luôn đi.
- Thật xin lỗi vì đã chậm gọi cho anh - Tôi nói - Nhưng tôi có chút vướng mắc phải giải quyết với Vicki Bottomley, rồi sau đó lại đến thăm Cassie và bố mẹ con bé.
- Có gì mới không?
- Không nhiều, ngoại trừ việc gia đình nhà Jones có vẻ lạnh lùng.
- Có vẻ anh đã làm cho họ cảnh giác. Anh đã tiếp cận họ quá gần.
- Tôi chẳng hiểu tại sao. Chẳng hạn như tôi và Vicki, thì chúng tôi đã có một màn kịch - tôi cố gắng phá vỡ sự yên lặng của bà ta, còn bà ta thì cho rằng tôi đã nghi oan bà ta làm hại con bé Cassie. Thế là tôi hỏi thẳng luôn có phải bà ta làm gì hại tới con bé không, dẫn đến một cuộc chiến hạt nhân gay gắt. Kết quả, bà ta đã kể cho tôi câu chuyện hoàn toàn mới toanh và trong sáng về đứa con trai của mình, và cho tôi biết thêm một điều mà tôi chưa từng biết: Reggie đã tặng bà ta một cuốn sách nhân "Ngày của Mẹ". Cuốn sách nói về những y tá ở New Jersey giết hại trẻ em.
- Quà tặng. Anh có nghĩ bà ta ngầm nói với anh điều gì chăng.
- Tôi chịu thôi. Có thể tôi sẽ bảo Stephanie loại bà ta ra khỏi vụ này để xem chuyện gì xảy ra. Nếu Stephanie là người đáng tin. Thêm nữa là chuyện của Dawn Herbert. Ngoài việc bị giết ra, cô ta còn là một kẻ ăn cắp vặt.
Tôi nói cho anh về giả thuyết của tôi.
- Anh nghĩ sao?
- Ừ - Milo đáp - Câu hỏi của anh thì hay thật nhưng những thông tin anh đưa ra lại không có trong cơ sở dữ liệu của chúng tôi rồi.
- Nghĩa là nói chuyện lúc này chưa hợp lắm?
- Đúng thế - Một vài giây sau Milo hạ thấp giọng - Mấy gã sếp cảnh sát đang tới thăm. Có vẻ như sắp có một cuộc họp vào cuối tuần này. Tôi sẽ nghỉ trong vòng 5 phút nữa. Vậy chúng ta cùng ăn trưa hoặc ăn tối sớm nhé - khoảng nửa tiếng nữa được không?
- Thôi, tôi đánh chén trước đây - Tôi nói.
- Bạn bè thế đấy. Anh đang ở đâu thế?
Tôi nói cho Milo biết chỗ tôi đang gọi điện về.
Với giọng nhẹ nhàng anh nói:
- Tốt. Hãy gọi cho tôi một súp đậu với xương đùi, một gà nhồi ngũ cốc kèm gia vị.
- Ông ơi, người ta đang làm bánh mỳ kẹp thịt thôi.
- Thì đến lúc tôi tới, họ sẽ làm xong. Nói với họ là món đó dành cho tôi. Anh nhớ tới thực đơn của tôi chưa?
- Súp xương, và gà nhồi, tôi nhớ rồi.
- Họ sẽ trình diễn kiểu nấu nướng theo ba mươi chín bước đấy, anh nên cho bộ nhớ của mình hoạt động một chút bằng cách tính toán vừa đủ thời gian cho họ làm để mọi thứ không bị nguội lạnh.
Tôi quay lại quầy rượu, truyền đạt thực đơn yêu cầu của Milo cho người phục vụ, và bảo cô ta tạm dừng món sandwich của tôi cho tới khi anh đến. Cô ta gật đầu, gọi món gà sau đó lấy bia cho tôi cùng món quả hạnh ngọt. Tôi hỏi xem cô có tờ báo nào không.
- Xin lỗi - Cô ta nói và nhìn về phía những người đang uống rượu - ở đây không có ai đọc báo. Ông thử ra ngoài xem có không.
Tôi đi ra ngoài và ngó thấy bốn chiếc máy bán báo tự động nhưng có tới ba chiếc đã hết nhẵn. Chiếc duy nhất còn lại thì toàn loại báo khổ nhỏ đăng những chuyện lặt vặt như tình dục an toàn, những cô gái mại dâm...
Tôi quay vào trong hội trường lớn.
Khoảng hơn nửa tiếng sau thì Milo xuất hiện. Anh vừa đi qua chỗ quầy bar vào khu vực ăn uống vừa vẫy tay gọi tôi. Tôi cầm ly bia của mình và đi theo anh. Hôm nay anh bỏ cà-vạt của mình vào trong dải dây lưng vốn đã không rộng rãi gì cho lắm so với vòng bụng của anh. Có mấy người xung quanh ngẩng lên nhìn anh nhưng Milo không nhận ra. Nhưng tôi biết anh rất vui khi thấy mình còn ra dáng một tay cớm.
Phòng ăn chính vẫn vắng tanh, chỉ có một người đang lau chùi mấy tấm thảm. Nhân viên phục vụ đã có tuổi xuất hiện mang theo mấy ổ bánh mỳ, đồ uống của Milo, một dĩa hạt tiêu anh đào và hạt ô liu nhồi.
- Mang luôn cho anh ta đi - Milo nói với nhân viên phục vụ.
- Vâng, thưa ngài Sturgis.
Khi nhân viên phục vụ đi khỏi, Milo cầm ly bia của tôi và bông đùa vài câu rồi chúng tôi đi vào chủ đề chính.
Milo hỏi:
- Làm thế nào anh phát hiện ra cái chết của Dawn Herbert?
- Tôi moi từ chủ nhà cũ của cô ta - Tôi trả lời và tóm tắt lại câu chuyện của tôi với Bobby và Ben Murtaugh.
- Họ có đáng tin cậy không?
Tôi gật đầu và nói:
- Họ có vẻ vẫn còn khá xúc động:
- Nếu vậy thôi thì vẫn chưa có gì mới về trường hợp này cả. Hồ sơ của cô ta có ghi một đơn vị bên quân đội. Tuy nhiên, cũng chỉ là những thông tin về con người bạo dâm thôi, không có chứng cớ về ngoại hình của cô ta.
- Lại là một trường hợp khó nữa đây.
- Đúng thế. Hay nhất là thằng khốn nào đó đã giết cô ta lại gây ra thêm một vụ nữa và bị bắt. Cô ta bị đập đầu, cắt cổ họng và còn có một vật gì đó bằng gỗ cắm vào chỗ kín nữa. Nhân viên pháp y còn tìm thấy những mảnh vụn. Đó là tất cả những gì họ có được về bề ngoài. Vụ giết người xảy ra gần câu lạc bộ rock bên ngoài một công ty dệt may ở quận Union cách Trung tâm hội nghị không xa.
- Trung tâm hội nghị Moody Mayan.
- Đúng, anh nghe ở đâu điều đó?
- Ở gia đình Murtaughs.
- Họ đúng một nửa. Đó là hàng cầm đồ Mayan đã ngừng hoạt động vài tuần trước đó.
- Vì vụ giết người?
- Không, mà nếu có ảnh hưởng thì cũng chỉ làm cho công việc kinh doanh của họ tốt lên thôi. Chúng ta đang nói chuyện về bọn chuyên đi mò mẫm ban đêm. Bọn trẻ con đổ đốn từ Bretwood và Beverly Hills đến đây gào thét nhảy nhót. Máu me hay ruột gan ai đó văng ra ngoài chỉ làm cho chúng chú ý nhiều hơn thôi.
- Điều đó phù hợp với những gì mà gia đình nhà Murtaughs nói về Herbert. Ban ngày là sinh viên đại học nhưng ban đêm thì lại đi kiếm ăn. Cô ta dùng loại thuốc nhuộm tóc có thể gội sạch ngay sáng hôm sau.
- Canh bạc Los Angeles đây. Không gì có thể bấu víu vào cả. Tuy nhiên, hãng cầm đồ đó bị đóng cửa có lẽ là vì bọn chơi bời cảm thấy chán nhanh quá. Chúng thích di chuyển liên tục từ chỗ này sang chỗ khác. Đúng là một ẩn số của cuộc sống.
Tôi làm động tác đồng ý như kiểu kịch câm. Milo cười.
Tôi hỏi:
- Anh có biết câu lạc bộ này không?
- Không, nhưng nói chung là giống nhau cả thôi. Chỉ dựng lên tạm bợ vài đêm, không có giấy phép hành nghề, không có giấy phép pha rượu. Có khi bọn họ chiếm ngay một ngôi nhà bỏ hoang nào đó chẳng thèm trả tiền thuê và cứ thế hoạt động. Nếu chủ nhà phát hiện ra hay bên cứu hoả đến để dẹp thì họ đã chuồn sạch rồi.
Milo nâng ly uống một hơi mạnh khiến bọt tràn cả lên mép. Đưa tay lên lau nhanh mép, Milo tiếp:
- Theo đơn vị bên quân đội, một người phục vụ quầy rượu nhìn thấy cô ta rời câu lạc bộ vào khoảng hai giờ sáng cùng với một gã nữa. Anh chàng nhận ra Herbert vì cô ta đã đến khiêu vũ nhiều lần và là một trong số ít cô gái mà bọn họ hào phóng cho vào. Nhưng anh không thể miêu tả gì thêm về gã đó ngoài việc hắn trông có vẻ dong dỏng và lớn tuổi hơn cô ta. Giờ này phù hợp với giờ mà bên pháp y đưa ra về thời điểm cô ta bị giết. Nhân viên pháp y còn tìm thấy cocain và cồn trong máu cô ta.
- Có nhiều không?
- Đủ để làm cô ta mất tỉnh táo.
- Người chủ nhà nói cô ta khá đàng hoàng - nghiên cứu sinh về sinh toán.
- Đúng, đúng. Cô ta tươm, khá tươm. Vụ giết người xảy ra cách câu lạc bộ vài dãy nhà trong chiếc Mazda nhỏ của cô ta, chìa khoá vẫn còn cắm trong ổ.
- Cô ta bị giết trong xe?
- Ngay trên ghế tài xế. Cô ta ngã gục cả sang bên ghế bên cạnh. Mãi đến sáng, hai người đi trực ca đêm về mới phát hiện ra xác cô ta. Máu rỉ từ trong xe xuống đường phố thành vũng.
Nhân viên bồi bàn mang cho tôi ly bia, một bát súp lườn gà và cho Milo súp đậu. Ông ta chờ cho đến khi Milo nếm thử và khen ngon mới gật đầu đi ra.
Có lẽ đang đói nên anh cắm đầu cắm cổ húp thêm vài thìa nữa mới ngẩng lên nói tiếp:
- Mui của chiếc Mazda lúc đó dựng lên những lại không có chút màu nào trên đó cả vì vậy nhân viên pháp y cho rằng khi vụ việc xảy ra mui xe cụp xuống. Vết máu bắn ra cũng cho thấy hung thủ giết cô ta đứng ở ngoài xe bên phía ghế ngồi của tài xế chỉ có thể hơi chéo với cô ta về phía sau. Hắn đập vào đầu cô ta. Khám nghiệm xương sọ cho thấy cú đánh đó có thể làm cô ta bắn ra ngoài hoặc có thể giết chết ngay cô ta. Sau đó hắn dùng một vật gì đó cắt cổ cô ta. Rồi có thể cô ta đã chết và hắn làm động tác hiếp dâm.
- Có vẻ như hắn giết cô ta nhiều lần, hành động của kẻ điên cuồng.
- Hoặc có thể hắn rất cẩn thận. Hắn còn đủ bình tĩnh để dựng mui xe lên cơ mà.
- Cô ta có khiêu vũ với ai trong câu lạc bộ không?
- Không ai biết về việc này. Lý do duy nhất mà người phục vụ quầy bar nhớ cô ta đã rời khỏi câu lạc bộ vì anh chàng đứng ngay ở chỗ hút thuốc ngay bên ngoài.
- Anh ta không bị nghi ngờ sao?
- Không. Có điều này tôi cần nhắc nhở anh: Hung thủ có sự chuẩn bị trước, anh hãy nghĩ đến những thứ vũ khí mà hắn dùng. Chúng ta đang nói chuyện về một tay giết người. Có thể ai đó dò xét hoặc rình mò câu lạc bộ vì ở đó có rất nhiều đàn bà. Hắn đợi chính xác đến lúc người mình cần xuất hiện. Có thể hắn tính toán trước, hoặc có thể hắn may mắn chọn đúng thời điểm là đêm đó. Vụ việc xảy ra ở góc phố yên ắng tối om trong khi mui xe lại cụp xuống. Có khác nào đó là sự chuẩn bị sẵn điều kiện thuận lợi cho hắn hành sự.
- Có thể thế.
- Cô ta là sinh viên phải không? Cô ta không biết cả đến trật tự logic một rồi đến hai. Tôi không có ý đổ lỗi cho nạn nhân nhưng có vẻ bản năng tự vệ của cô ấy không cao. Cô ta đánh cắp cái gì?
Tôi vừa ăn súp vừa kể cho anh nghe câu chuyện:
- Gia đình nhà Murtaughs nói cô ta có khá nhiều tiền ngay cả khi đã bỏ việc. Và anh lại vừa nói cô ta có cocain trong máu. Có thể có liên quan đến tống tiền, phải không? Cô ta biết chuyện một đứa bé nhà Jones chết và đứa khác liên tục nhập bệnh viện vì những căn bệnh không rõ lý do. Cô ta đánh cắp chứng cứ và cố gắng khai thác nó. Và bây giờ thì cô ta cũng thiệt mang như Ashmore.
Milo chậm rãi đặt chiếc ly của mình xuống bàn:
- Có vẻ đó là bước tiến lớn từ những căn cứ lặt vặt đấy, Alex. Nhưng cũng không loại trừ yếu tố tâm lý đã gây ra kết cục bi thương của cô ta. Cô ta có tiền từ đâu, chúng ta vẫn chưa biết gia đình cô ta có chu cấp hay không. Có thể đó là một tài sản chứ không phải cô ta đi vay, cũng có thể chính cô ta buôn ma tuý.
- Nếu được gia đình cấp tiền thì tại sao cô ta phải đi thuê căn phòng hẹp rẻ tiền của gia đình nhà Murtaughs?
- Sự đóng giả nghèo khổ thôi. Chúng ta đã biết cô ta thích đóng kịch mà. Những thứ cô ăn cắp của chủ nhà cũng không hợp lý, nó không phải vì mục đích lợi nhuận. Có thể đó là điều mà chúng ta phải làm rõ. Đối với tôi thì dường như cô ta là con người vô tổ chức chứ không phải là người có thể nghĩ ra và thực hiện một kế hoạch tống tiền bài bản.
- Không ai nói là cô ta thành thạo trong chuyện đó cả. Cứ xem kết cục của cô ta thì biết.
Anh nhìn quanh căn phòng trống không như thể bất chợt nhân ra mình bị nghe lén, uống cạn cốc bia rồi ve vẩy chiếc thìa trong bát súp như trẻ con chơi thuyền trong ao vậy.
- Kết cục của cô ta? Vậy ai giết cô ta? Ông bố? Bà mẹ? Hay ông nội?
- Sao anh lại không nghĩ đến bàn tay một kẻ được thuê làm chuyện đó? Những người như họ sẽ không trực tiếp làm chuyện bẩn thỉu thế đâu.
- Thuê giống như một triệu chứng tâm lý mà sẽ không ai phát hiện ra nếu nó không lặp lại. Khỉ thật, có thể Ashmore cũng liên quan và có thể kẻ nào đó được thuê làm tất cả chuyện này.
- Anh có vẻ khéo tưởng tượng đấy. Anh chỉ ngồi tán gẫu, chơi đùa với bọn trẻ con mà nghĩ ra được điều đó à?
Anh tiếp tục ăn súp rồi mới trả lời:
- Nghe này Alex, tôi đã biết anh đủ lâu để hiểu đầu óc của anh làm việc thế nào. Tôi không cho rằng anh chỉ tưởng tượng mà có được những suy luận này đâu.
- Có thể thế - Tôi nói - nhưng dù sao thì cũng rất tội nghiệp cho Cassie vì chúng ta chưa làm được gì cho con bé cả.
Phần thực đơn còn lại của chúng tôi được mang lên. Tôi quan sát Milo chậm rãi xẻ thịt như một bác sĩ phẫu thuật - động tác mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Anh nói tiếp:
- Công việc về tâm lý dởm và cô ta cũng chỉ là trợ lý dởm cho Ashmore thôi.
- Ashmore là chủ của cô ta. Ông ta sở hữu máy tính và đã tiến hành kiểm tra chất độc đối với Chad Jones. Việc ông ta biết những gì Herbert làm là hoàn toàn logic. Thậm chí ngay cả khi ông ta không biết thì kẻ giết cô ta cũng sẽ quan tâm đến ông ấy.
- Tại sao ông ta lại có thể liên quan đến việc tống tiền? Ông ta vốn là người giàu có cơ mà?
- Ông ta đầu tư vào bất động sản và rồi bị thua lỗ. Điều gì sẽ xảy ra nếu ông ta lâm vào tình trạng khốn cùng? Có thể ông ta đã không chấm dứt trò chơi này như vợ ông ta nói đâu. Thua lỗ và cần có tiền để bù lại. Người giàu như Rockerfeller cũng có thể trở thành nghèo, một canh bạc mà.
- Nhưng tại sao ông ta lại cần Herbert làm đối tác?
- Ai nói là ông ta cần? Có thể chính cô ta tự tìm hiểu trong máy tính của ông ta và âm thầm làm việc riêng của mình.
Anh không nói gì, lặng lẽ lau miệng mặc dù chưa ăn chút thịt gà nào. Tôi tiếp:
- Tuy nhiên, có một vấn đề đó là Ashmore bị giết hai tháng sau khi Herbert chết. Nếu hai vụ này có liên quan thì tại sao khoảng cách lại lâu như vậy?
Anh gõ gõ ngón tay lên mặt bàn:
- Đó cũng là một cách nghĩ. Ashmore lúc đầu không biết Herbert làm gì nhưng sau đó thì phát hiện ra từ những dữ liệu mà cô ta lưu trong máy tính. Và hoặc ông ta đã lợi dụng kiếm tiền hoặc đã tiết lộ nhầm với ai đó.
- Có một sự ăn khớp với những điều mà tôi chứng kiến sáng hôm đó. Huenengarth - người phụ trách an ninh - đã lấy đi chiếc máy tính của Ashmore, ngay sau cái chết của ông ta. Ấn tượng đầu tiên của tôi là gã ta đã nắm được những bí mật của Ashmore. Nhưng cái gì đằng sau Huenengarth thì chưa rõ. Những số liệu. Gã ta làm việc cho Plumb thì cũng có nghĩa là gã làm việc cho Chuck Jones. Một kiểu tay sai trong làm ăn mà. Hơn nữa, khi tôi nói chuyện với bà Ashmore hôm qua, cái tên Huenengarth cũng xuất hiện. Gã là người đã gọi điện đến để bày tỏ sự cảm thông của bệnh viện. Việc làm rất lạ đối với người phụ trách an ninh đúng không? Vậy thì rất có thể ý đồ của gã ta là xem Ashmore để máy tính ở nhà không và nếu có thì sẽ đến lấy đi.
Milo nhìn xuống đĩa thịt của mình và cuối cùng thì cũng phải ăn một cách miễn cưỡng. Tôi biết anh đã ăn đủ và hơi tự trách mình vì đã làm hỏng bữa tối của bạn.
- Sự vận động ngầm nhưng vẫn còn là giả thuyết.
- Tôi đồng ý nhưng chúng ta nên nghỉ ngơi một chút đi.
Anh đặt chiếc dĩa của mình xuống và nói:
- Có một sai lầm cơ bản Alex ạ. Nếu ông nội Chuck Jones biết người đã giết Chad, bỏ tiền ra để mua sự im lặng và thuê tên giết người thì tại sao ông ta lại để cho Cassie được đưa vào bệnh viện đó?
- Có thể khi Herbert hay Ashmore tống tiền ông ta thì ông ta mới biết.
- Ngay cả như vậy thì tại sao ông ta lại không đưa Cassie đến một nơi nào khác để chữa bệnh? Tại sao ông ta lại muốn cô bé gặp phải những bác sĩ đã chữa trị cho Chad và để cho họ có cơ hội làm lại phi vụ tống tiền như lần trước? Rõ ràng là gia đình này có vấn đề. Tình trạng của Cassie vẫn chưa cải thiện chút nào. Chính anh nói là Jones con đã đề cập đến chuyện có sai lầm về y tế. Cũng có thể ông bố bà mẹ là những người gây chuyện và ông nội đứng ra bảo vệ họ. Nhưng nếu ông nội Chuck Jones biết Cassie bị đầu độc thì tại sao ông ta lại không ngăn chặn?
- Có thể ông ta cũng chẳng tốt đẹp gì.
- Anh muốn nói đến vấn đề tâm lý của cả gia đình?
- Anh nghĩ mọi chuyện xuất phát từ đâu?
- Tôi không biết.
- Có thể ông bố Chuck Jones là tay lạm dụng và ông con Chip Jones cũng học theo. Những việc hắn làm đối với bệnh viện đã chứng minh điều này.
- Tham vọng tiền bạc là một chuyện, Alex ạ. Nhưng nhẫn tâm nhìn cháu gái mình chịu đựng những cơn co giật lại là chuyện khác.
- Đúng. Có thể tất cả chỉ là chuyện tưởng tượng. Nhưng anh nên ăn một chút nữa đi.
Milo cười, cầm chiếc dĩa lên nhưng cả hai chúng tôi đều hiểu không ai muốn ăn thêm nữa.
Milo nói:
- Huenengarth, có thể không có nhiều cái tên như thế trong hồ sơ. Tên thật là gì?
- Presley.
Anh lại cười:
- Tôi sẽ nghiên cứu lại Ashmore và Stephanie xem thế nào. Nói chung thì cả hai người bọn họ đều tốt chỉ trừ việc ông ta không kịp trả tiền phạt giao thông trước khi chết, còn cô ta thì cũng mới chỉ bị phạt vì tội lái xe trong khi say rượu mấy năm trước đây thôi.
- Lái xe trong khi say rượu?
- Đúng. Cô ta gây ra tai nạn nhưng không có thương vong gì, sau đó cô ta bị gửi đi thử thách hình như ở AA hay một trung tâm điều trị gì đó.
- Đó là lý do cô ta thay đổi.
- Cô ta thay đổi thế nào?
- Mảnh mai hơn. Bắt đầu dùng đồ trang điểm, ăn diện hơn. Cô ta còn có cả máy pha cà phê trong phòng làm việc riêng. Có vẻ là tay nghiền cà phê đấy.
- Có thể. Cà phê là chất thay thế sau khi từ bỏ hơi cồn.
- Anh thấy có gì đáng chú ý không?
- Cái gì? Vụ phạt lái xe? Anh có thấy cô ta còn uống không?
- Không, nhưng tôi cũng chưa kiểm tra.
- Có quan hệ rõ ràng nào giữa việc dùng rượu và hội chứng Munchausen không?
- Không, nhưng cho dù thế nào đi nữa thì dùng rượu cũng chỉ làm mọi việc xấu đi thôi. Và nếu cô ta có triệu chứng Munchausen lạm dụng, loạn luân, bệnh hoạn - thì tôi có thể hiểu tại sao cô ta lại đập phá chai lọ.
Anh nhún vai:
- Thế thì anh tự trả lời câu hỏi của mình rồi, ít nhất thì cô ta cũng có những điều muốn quên, cũng giống như hầu hết chúng ta thôi.
- Tôi sẽ tìm hiểu về Dawn Herbert. Thế còn anh, sau đây anh làm gì?
- Về nhà.
- Khỉ thật, khi ra ngoài anh có thể tò mò tọc mạch vào chuyện của người khác còn tôi thì không. Anh có vỏ bọc thật hoàn hảo.
- Đó chính là những gì Stephanie đã nói. Cô ta đã gợi ý cho tôi lục lọi tủ thuốc của họ.
- Tại sao không? Anh có thể vào đó sục sạo mà không cần giấy phép.
Trên đường về nhà tôi dừng lại ngang chỗ nhà Ashmore, trong lòng vẫn tò mò về nhân vật Huenengarth và muốn biết bà goá phụ bây giờ thế nào. Một vòng hoa đen đặt trước cửa. Tôi nhấn chuông nhưng không có ai trả lời.
Tôi quay xe lại, bật nhạc thư giãn trên suốt quãng đường về nhà cố quên đi những chuyện bệnh tật chết chóc.
Tôi bật máy nhắn tin, Robin nhắn lại nàng sẽ về lúc khoảng sáu giờ. Tờ báo buổi sáng trên bàn ăn được gấp lại cẩn thận. Robin vẫn thường làm như vậy hàng ngày.
Nhớ lại những lời nhận xét cáu kỉnh của Dan Kornblatt trong quán ăn, tôi giở báo thử tìm xem tại sao ông ta lại có vẻ thất vọng như vậy. Không có gì ở trang đầu nhưng có một bài ở trang thứ hai trong mục kinh doanh.
Tôi không mấy khi xem mục này nhưng thậm chí có xem thì cũng không nhận ra bài đó. Chỉ là một mục nhỏ ở góc dưới ngay cạnh mục về tỷ giá.
Đầu đề của bài báo ghi: Chăm sóc sức khoẻ ở khu vực tư nhân: Những số phận lạc quan. Ý của bài báo muốn đề cập những lợi ích mà bệnh viện tư nhân mang lại. Dẫn chứng trên một số bệnh viện, tổ chức y tế và chuyên gia tài chính mà một trong số họ là George Plumb, cựu giám đốc điều hành của Hãng tư vấn sức khoẻ MGS với cái tên Pittsburgh và hiện là giám đốc điều hành của Bệnh viện Nhi đồng miền Tây Los Angeles.
Pittsburgh... hệ thống máy tính BIO-DAT dữ liệu sinh học - trang bị cho thư viện cũng từ Pittsburgh.
Liệu đây có phải là một người kiêm nhiệm nhiều việc?
Tôi tiếp tục đọc.
Người được phỏng vấn ở trên chủ yếu phàn nàn về việc chính phủ nên hạn chế thu phí và đề cập những khó khăn của các cơ sở y tế tư nhân, giá cả các công nghệ mới tăng vọt, nhu cầu lương của bác sĩ và y tá...
Một nhà quản lý y tế ở khu vực phía Đông phàn nàn:
- Một bệnh nhân mắc AIDS có thể tiêu tốn của chúng ta hàng triệu đôla và chúng ta thì vẫn chưa thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Không ai biết mình mắc bệnh này khi làm các hợp đồng với bệnh viện. Chính phủ đã thay đổi luật lệ giữa cuộc chơi.
Còn nhiều ví dụ khác về HIV được các nhà điều hành y tế trích dẫn ra cứ như nó là hiện thân của cái chết không được đền đáp.
Đóng góp đặc biệt của Plumb là ở chỗ ông ta đã đề cập đến những khó khăn khi điều hành các bệnh viện nội bộ thành phố. Do những khó khăn về "nhân khẩu và các vấn đề xã hội ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ sở y tế. Ngoài ra, sự xuống cấp nhanh chóng của các nhà máy sản xuất dụng cụ y tế, ngân sách ngày càng hạn hẹp và đôi khi khách hàng lại không muốn ký hợp đồng điều trị..."
Đề cập các giải pháp, Plumb cho rằng làn sóng tương lai nên đi theo hướng phi tập trung hoá - thay thế các cơ sở y tế lớn bằng các cơ sở nhỏ dễ quản lý và các đơn vị y tế bố trí chiến lược ở những khu vực ngoại ô có tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, cần có sự phân tích kỹ lưỡng về kinh tế trước khi hoạch định là cái gì. Các vấn đề phi tài chính cũng cần phải tính đến.
Thật kinh khủng - thăm dò ý kiến công luận trước khi đề nghị một ca mổ: bán đứt các nhà máy sản xuất thiết bị y tế và hướng ra khu vực ngoại ô. Và nếu có bị sờ đến thì Plumb lại vẫn có thể né tránh vì coi những nhận xét của mình chỉ là những phân tích mang tính chuyên môn.
Tất nhiên, Plumb chỉ là kẻ đưa lời, nói thay người mà tôi đoán có thể là tên sát nhân và lạm dụng trẻ em.
Tôi còn nhớ những lời Stephanie nói về quá khứ của Chuck Jones. Trước khi trở thành Chủ tịch Bệnh viện Nhi đồng miền Tây, hắn đã quản lý hoạt động đầu tư của bệnh viện. Ai biết được về tài sản của bệnh viện - bao gồm cả đất đai - hơn một người nắm giữ trong tay những con số?
- Liệu có phải tình trạng tài chính tồi tệ của bệnh viện là do vấn đề nhân khẩu học và thụt giảm ngân sách? Có phải Jones đã gây ra tình trạng khủng hoảng tài chính của bệnh viện và rồi bây giờ muốn bù lại những mất mát bằng việc bán bất động sản?
Bố trí chiến lược ở những điểm ngoại ô có tiềm năng phát triển.
Cũng giống như năm mươi lô đất mà Chip Jones có ở khu vực Thung lũng phía Tây?
Chỉ là một tay người làm...
Nhưng để làm rõ chuyện này thì cần phải kín đáo. Gia đình nhà Jones và cộng sự của họ có vẻ sẽ gắn bó với con khủng long ngoại ô cho đến khi trút hơn thở cuối cùng.
Việc đưa cháu gái của Chủ tịch ra khỏi bệnh viện không liên quan đến vấn đề này.
Tuy nhiên, ngay lúc này cần có những bước đi để đẩy nhanh cái chết của con khủng long.
Chấm dứt các hoạt động của bệnh xá. Không khuyến khích hoạt động nghiên cứu, giữ tiền lương và không chịu tuyển thêm bác sĩ.
Khuyến khích các bác sĩ có chuyên môn sâu ra đi và thay thế họ bằng những người chưa có kinh nghiệm để những nhà vật lý tư nhân mất lòng tin và sẽ không tham khảo bệnh nhân.
Khi mọi người thắc mắc thì nói vài lời cảm thông và đổ tội cho những vấn đề xã hội và nhấn mạnh sự cần thiết phải dũng cảm hướng tới tương lai.
Xoá sổ bệnh viện để cứu nó.
Nếu Jones và những người đồng sự của ông ta làm rõ chuyện này thì họ lại được coi là những người có tầm nhìn xa, biết cách thoát ra khỏi tình trạng khốn khó và thay thế bệnh viện bằng một nơi an toàn lành mạnh để điều trị cho người dân thuộc tầng lớp trung lưu.
Bề ngoài quả là rất hào nhoáng.
Huenengarth đã tịch thu máy tính của Ashmore.
Liệu ông ta có số liệu về triệu chứng đột tử trẻ em hay những đứa trẻ bị ngộ độc?
Ashmore không hề quan tâm đến việc điều trị bệnh nhân mà chỉ quan tâm đến tiền. Liệu có phải ông ta đã phát hiện ra ý đồ và động cơ của Plumb và Jones - vì vô tình nghe được điều gì đó ở dưới tầng hầm hoặc vô tình phát hiện ra những số liệu?
Nếu như thế thì liệu có phải ông ta đã tranh thủ kiếm tiền bằng những điều mình phát hiện ra?
Đây sẽ là bước nhảy lớn nếu Milo biết tin này.
Tôi đã hé nhìn được vào văn phòng của Ashmore trước khi Huenengarth đóng cửa.
Loại nghiên cứu chất độc nào được tiến hành mà lại không cần đến ống nghiệm hay kính hiển vi?
Ashmore sở hữu những con số và chết vì nó...
Tại sao Dawn Herbert lại lấy đi cuốn bệnh án của một đứa trẻ nhỉ? Và tại sao cô ta lại bị giết hai tháng sau Ashmore?
Họ có những kế hoạch khác nhau hay họ đồng loã?
Thật khó hiểu... Mà giả sử đúng là họ đồng loã và cùng bị giết trong một âm mưu đi nữa thì nó có gì liên quan tới những bệnh tình của Cassie?
Tôi gọi điện tới bệnh viện và yêu cầu được nối máy tới phòng 505. Không ai trả lời. Tôi gọi lại và yêu cầu nối máy với bàn y tá trực của phòng Cassie. Người y tá trực ở đó có giọng nói như kiểu Tây Ban Nha. Cô ta thông báo rằng gia đình nhà Jones đã rời khỏi phòng và đang đi dạo.
- Có gì mới không? - Tôi hỏi - Về tình trạng con bé ấy mà.
- Tôi không biết đâu - ông nên hỏi người phụ trách chính ấy. Tôi nghĩ đó là bác sĩ...
- Eves phải không?
- Đúng rồi, bác sĩ Eves. Tôi chỉ là một người trực ca, không biết nhiều về ca bệnh này đâu.
Tôi gác máy, nhìn ra ngoài cửa sổ lên những ngọn cây đã ngả màu dưới ánh nắng mặt trời. Lần này tôi nghĩ nhiều hơn tới khía cạnh tài chính.
Phải tìm ra một ai đó có thể tư vấn cho tôi về các vấn đề tài chính. Đó là Lou Cestare, từng một thời là tay buôn bán cổ phiếu, chứng khoán kiệt xuất, bây giờ đã được công nhận là cựu chiến binh của cuộc khủng hoảng Ngày thứ hai Đen tối.
Cuộc khủng hoảng ấy đã làm cho ông ngã rất đau nhưng ông vẫn đang cố gắng xoá bỏ những vết hoen ố trong danh tiếng lẫy lừng của mình. Tuy nhiên, ông vẫn là người được tôi xếp vào danh sách hạng A.
Những năm qua, tôi đã dành dụm được ít tiền, làm việc 80 giờ mỗi tuần và không tiêu pha gì hết. Lou đã đem lại cho tôi sự an toàn về tài chính bằng cách đầu tư tiền vốn của tôi vào bất động sản, chứng khoán và trái phiếu miễn thuế. Ông tránh đầu cơ bởi vì biết rằng tôi không bao giờ có thể giàu nhờ vào nghề tư vấn tâm lý và cũng không thể để tôi bị tổn thất nhiều.
Thu nhập từ những đầu tư này vẫn chảy về đều đặn, chậm nhưng rất đều. Tôi không có đủ tiền để mua những bức tranh trường phái ấn tượng của Pháp nhưng nếu tiếp tục cuộc sống điều độ như bây giờ thì tôi sẽ không phải làm việc nữa.
Ngoài ra, Lou vẫn là một người rất giàu có cho dù đã mất hầu như toàn bộ tài sản và khách hàng. Ông thường sống giữa một bên là chiếc thuyền ở Nam Thái Bình Dương và ngôi nhà ở Willamette Valley.
Tôi gọi Oregon và nói chuyện với vợ ông. Giọng bà toát lên vẻ điềm đạm. Chúng tôi nói chuyện với nhau một lát rồi bà bảo Lou đang ở Washington, đi leo núi cạnh ngọn Rainier với con trai và phải đến tối mai hoặc sáng thứ Hai mới về. Tôi nói với bà về ý định của mình nhưng chắc bà không quan tâm lắm bởi bà và Lou ít khi nói chuyện về tiền bạc.
Tôi chúc bà mạnh khoẻ, cảm ơn và gác máy.
Xong xuôi, tôi uống một cốc cà phê nữa, chờ đợi Robin trở về và giúp tôi quên đi ngày hôm nay đen đủi.
Nàng xách trên tay hai chiếc va ly với dáng vẻ rất vui. Chiếc thứ ba để ở trong con xe tải mới của nàng. Tôi giúp nàng mang đồ vào nhà sau đó quan sát nàng mở chúng ra và nhặt từng chiếc quần áo cất vào cái tủ tôi đã để trống hơn hai năm qua.
Sau khi ngồi xuống giường, nàng mỉm cười và nói:
- Của anh đây.
Chúng tôi hôn nhau một lúc lâu rồi quay sang ngắm cá. Sau đó chúng tôi cùng ăn tối ở một nhà hàng tại Brentwood. Khách hàng ở đây toàn người cao tuổi và có lẽ chúng tôi là những thực khách trẻ tuổi nhất. Ăn xong, chúng tôi nhanh chóng trở về nhà và dành toàn bộ phần còn lại của buổi tối để nghe nhạc, đọc sách và đánh bài rummi. Buổi tối ấy thật lãng mạn, có chút gì đó mặc cảm về tuổi tác nhưng dù sao tôi cũng vẫn hài lòng. Sáng hôm sau, Robin và tôi đi dạo trong thung lũng, đóng vai những người đi ngắm chim muông, cây cảnh và tự đặt tên cho những con vật biết bay mình nhìn thấy.
Ngày Chủ nhật, chúng tôi ăn trưa thật đơn giản, chỉ có bánh hamburger và trà đá. Sau bữa ăn, Robin chăm chú vào trò ô chữ của Ngày Chủ nhật. Tôi nằm thư giãn ngay trên ghế dưới hàng hiên nơi chúng tôi vừa ăn trưa. Khoảng hơn hai giờ chiều một chút, nàng có vẻ thất vọng vì không hoàn thành trò chơi. Đặt ô chữ xuống, nàng nói:
- Chán quá, có quá nhiều từ Pháp.
Robin nằm bên cạnh tôi. Chúng tôi cùng thư giãn, cảm nhận cái ấm áp của ánh nắng nhưng rồi chẳng bao lâu đã thấy nàng cứ trở mình không yên.
Tôi nhỏm dậy hôn lên trán nàng.
- Có việc gì đấy anh?
- Không, cảm ơn.
- Thật chứ?
- Ừ thật... - Tôi ậm ờ cho qua chuyện.
Robin cố ngủ nhưng không được.
Tôi nói:
- Hôm nay anh muốn tới bệnh viện một lát.
- Ồ, thế hả... Vậy thì trong lúc anh đi, em có thể sẽ tới cửa hàng nào đó để mua mấy thứ lặt vặt.
Phòng của Cassie trống rỗng, ga và đệm giường đã được lột bỏ. Trên thảm nền nhà vẫn còn vết máy hút bụi. Phòng tắm sạch bóng tiệt trùng.
Tôi bước ra khỏi phòng thì nghe thấy một giọng nói:
- Xin dừng bước!
Đối mặt với tôi là một nhân viên bảo vệ, đeo kính râm, khuôn mặt nhọn sạch bóng, môi thâm nghiêm. Đó chính là nhân viên an ninh mà ngày đầu tiên vào đây tôi đã gặp, người bắt tôi phải làm phù hiệu mới.
Anh ta đứng chắn giữa cửa ra vào, tư thế sẵn sàng lao vào cuộc chiến.
Tôi hỏi:
- Có chuyện gì thế?
Anh ta không hề cử động. Khoảng cách giữa tôi và anh ta đủ để tôi có thể nhận thấy tấm phù hiệu trên cánh tay của anh ta ghi dòng chữ: Sylvester A.D.
Anh ta cũng nhìn vào phù hiệu của tôi và lùi lại một bước nhưng vẫn không đủ khoảng trống để tôi bước ra.
- Anh thấy không, tôi đã có phù hiệu mới rồi đây này - Tôi nói - Rất long lanh và có ảnh màu hẳn hoi đây này. Bây giờ thì xin nhường lối để tôi còn đi làm việc.
Anh ta nhìn lên nhìn xuống một vài lần, so sánh khuôn mặt tôi với tấm hình trên phù hiệu rồi bước sang một bên và nói:
- Phòng này đã đóng cửa rồi.
- Tôi thấy rồi. Nhưng đóng cửa bao lâu rồi?
- Cho tới khi nào được mở.
Tôi rảo bước qua ta về phía cánh cửa làm bằng gỗ tếch.
Anh ta hỏi tôi:
- Ông tìm gì phải không?
Tôi dừng lại và quay mặt về phía anh ta. Một tay anh ta đặt lên bao súng ngắn và tay kia giữ chiếc gậy baton.
Cố kiềm chế cơn giận đến phát điên lên, tôi nói:
- Đúng rồi, anh bạn. Tôi tới thăm một bệnh nhân, họ vẫn thường điều trị ở đây.
Tôi sử dụng điện thoại công cộng gọi cho bộ phận làm thủ tục ra vào viện và được biết Cassie đã được ra viện một giờ trước đó. Tôi đi cầu thang bộ xuống tầng một và mua một ly nước ở máy bán tự động. Cầm trên tay ly nước, tôi ra ngoài, bắt gặp George Plumb và Charles Jones đi ngang qua hành lang ra vào của bệnh viện. Họ vừa bước nhanh cùng với nhau vừa cười nói gì đó khiến đôi chân ngắn của Jones phải vất vả mới theo kịp.
Họ đi đến cánh cửa đúng lúc tôi xuất hiện. Jones nhìn thấy tôi trước, miệng và toàn thân ông ta cứng đơ lại có vẻ như ngạc nhiên lắm. Plumb cũng dừng lại ngay sau lưng ông chủ của mình. Da dẻ của ông ta trở nên hồng hào, sống động hơn bao giờ hết.
- Bác sĩ Delaware, chào anh - Jones nói, giọng khàn khàn khiến tôi có cảm giác như lời càu nhàu giận dữ.
- Vâng, xin chào ông Jones.
- Anh có rảnh không, thưa bác sĩ?
Trước câu hỏi bất ngờ, tôi trả lời:
- Có, thưa ông.
Liếc qua Plumb, ông ta nói:
- Tôi sẽ gặp lại anh sau, George.
George gật đầu và vẫy tay tạm biệt rồi bước đi.
Khi chỉ còn lại chúng tôi, Jones hỏi:
- Cháu gái tôi thế nào rồi?
- Lần cuối cùng tôi gặp thì tình trạng sức khoẻ của con bé có vẻ tốt lên.
- Vậy thì tốt rồi, tôi cũng đang trên đường đến thăm nó đây.
- Nó đã ra viện rồi.
Cặp lông mày của ông ta nhướng lên không đều nhau, búi tóc cứng như thép dường như dựng ngược. Bên dưới lông mày ông ta là những vết sẹo nhỏ. Đôi mắt trở nên nhỏ đi một cách bất thường. Đó là lần đầu tiên tôi nhận thấy mắt ông ta có màu nâu ướt.
- Vậy sao? Từ khi nào? - Ông ta thốt lên kinh ngạc.
- Một giờ trước.
- Chết tiệt - Ông ta nhăn mũi và đưa đẩy cặp môi - Tôi đến thăm nó vì hôm qua tôi không ghé qua được, họp hành suốt ngày. Nó là đứa cháu gái đáng yêu duy nhất của tôi.
- Vâng, thưa ông. Con bé rất dễ thương nếu nó khoẻ mạnh.
Ông ta nhìn tôi trừng trừng, hai tay lặng lẽ đút vào trong túi áo, chân dậm lên sàn nhà. Hành lang không còn ai và tôi nghe rõ tiếng bước chân của ông ta vọng lên. Ông ta cứ lặp đi lặp lại hành động như vậy. Cử chỉ của ông ta không có vẻ gì là gượng gạo cứng nhắc nhưng đột nhiên ông ta đứng thẳng lên rất nhanh. Cặp mắt ướt của ông ta chùng xuống:
- Chúng ta đi chỗ khác nói chuyện.
Ông ta bước đi trước dọc hành lang một cách tự tin có chút gì đó nóng nảy của một người tự thấy có trách nhiệm đối với người khác mặc dù bản chất của ông ta không phải như vậy. Chúng tôi vừa đi vừa nói chuyện:
- Tôi không đặt văn phòng ở đây. Trong vấn đề làm ăn kiếm tiền tôi thường bị coi là người nhanh ẩu đoảng.
Đúng lúc chúng tôi đến chỗ thang máy thì có một chiếc đến nơi. Thật may. Chúng tôi bước vào và bấm nút tầng trệt như thể đã đặt trước thang máy vậy.
Ông ta hỏi tôi khi thang máy đang đi xuống:
- Thế phòng ăn thì sao?
- Cũng đóng cửa rồi.
- Tôi biết mà - Ông ta nói - Tôi là người hay lãng phí thời gian.
Thang máy mở cửa, ông ta bước ra và đi về phía quán tự phục vụ đã đóng cửa. Rút chùm chìa khoá ra khỏi túi quần, ông ta chọn một chiếc và vừa mở cửa vừa nói:
- Nếu chúng ta để ý thì sẽ thấy vào giờ này trong ngày không có nhiều người sử dụng căn phòng đó. Đặc quyền đặc lợi của những người cầm quyền mà. Không phải là quá dân chủ nhưng dân chủ không hề có giá trị ở những nơi như thế này.
Tôi bước vào. Căn phòng tối om. Tôi lần theo tường tìm công tắc bật đèn nhưng ông ta đã kịp bước đến bật đèn trước tôi.
Ông ta chỉ vào chiếc ghế dài để giữa phòng mời tôi ngồi rồi đi ra phía sau quầy lấy ly nước lạnh và thả vào đó một lát chanh. Tôi nhận thấy ông ta lấy thứ gì đó bên dưới quầy và bỏ lên một cái đĩa. Đó là miếng phomát Đan Mạch. Ông ta đi lại và hành động tự nhiên như ở trong bếp nhà mình vậy. Jones vừa ăn uống có vẻ rất hài lòng vừa tiếp tục câu chuyện:
- Lẽ ra nó phải khoẻ mạnh. Tôi thực sự không hiểu tại sao số phận nó lại hẩm hiu đến thế. Tôi cũng chưa hiểu câu chuyện thực sự như thế nào.
- Ông đã nói chuyện với bác sĩ Eves chưa?
- Rồi, tôi đã nói chuyện với tất cả bọn họ rồi nhưng cũng không ai biết gì cả. Anh có biết chuyện gì đã xảy ra không?
- Tôi e là không.
Ông ta dướn người về phía trước:
- Điều tôi không hiểu là tại sao họ lại gọi anh vào. Không liên quan gì đến cá nhân. Và tôi cũng không thấy cần thiết phải có sự hiện diện của một bác sĩ tâm lý ở đây.
- Thực sự là tôi không thể nói gì về điều đó, thưa ông Jones.
- Hãy gọi tôi là Chuck. Ông Jones là tên bài hát do gã tóc xoăn Bob Dylan biểu diễn đúng không? - Ông ta nhếch mép cười - Anh ngạc nhiên khi tôi biết điều đó phải không? Bài hát đó thuộc thé hệ của anh chứ đâu phải thế hệ của tôi đúng không. Thật ra đó là một câu chuyện gia đình thôi. Hồi còn đi học, Chip thường hay đùa tôi, hay cãi lại tôi đủ thứ. Tất cả mọi thứ đều như thế này.
Ông ta vừa nói vừa khép hai bàn tay lại với nhau xiết chặt và kéo ra như thể chúng gắn liền với nhau vậy.
- Đó là những ngày đã qua - Ông nói và bất chợt mỉm cười - Nó là đứa con trai duy nhất của tôi nhưng cũng giống như bao đứa khác về tính nổi loạn. Bất kỳ khi nào tôi muốn Jones làm gì đó mà nó không thích, nó liền chạy trốn và nói rằng tôi hành động giống như trong bài hát của Dylan Thomas - cái gã chả biết điều gì đang xảy ra quanh mình cả - đó chính là ông Jones. Nó thường bật to bài hát này. Tôi không bao giờ nghe nhạc điệu bài hát đó nhưng tôi hiểu được nó muốn nói gì. Cho đến bây giờ thì nó và tôi đã là những người bạn tốt nhất. Chúng tôi thường cười với nhau mỗi khi nhắc lại kỷ niệm đó.
Tôi mỉm cười.
Ông ta chuyển chủ đề và nói:
- Thằng Jones nhà tôi là đứa cứng cỏi. Nhìn tóc tai nó là anh cũng đủ thấy rồi. Mà nó lại đang là giáo sư trường đại học đấy, anh biết không?
Tôi gật đầu.
- Bọn trẻ mà nó dạy cũng ảnh hưởng tính cách đó. Nó là giáo viên tốt và từng giành được nhiều giải thưởng trong nghề nghiệp.
- Thật sao?
- Rất nhiều. Anh sẽ không bao giờ nghe Jones tự nói về mình. Nó luôn như vậy. Rất khiêm tốn. Tôi buộc phải phô trương thay nó. Nó đã từng đoạt giải từ khi còn là sinh viên. Rồi nó vào trường đại học Yale làm giảng viên và chỉ có niềm đam mê duy nhất là dạy học, làm gia sư cho bọn trẻ chậm tiến bộ, giúp chúng lên lớp.
Bàn tay mập mạp của ông ta vẫn nắm chặt lấy nhau. Nhưng cuối cùng ông ta cũng thả tay ra đặt lên bàn và vô thức cào cào lớp phoóc-mi-ca.
Tôi nói:
- Có vẻ như ông khá tự hào về con trai mình.
- Có thể nói như vậy. Cả Cindy nữa. Con bé thật dễ thương, không hề tham vọng gì cả. Chúng nó đã cho tôi Cassie dễ thương. Tôi biết là tôi không được khách quan cho lắm nhưng phải khẳng định con bé thật đáng yêu, xinh xắn và duyên dáng.
Đôi mắt của ông lơ đãng chậm chạp.
- Anh biết không, trước đó chúng tôi đã mất một đứa. Đó là một câu bé cũng rất đáng yêu. Họ thực sự vẫn chưa biết điều gì đã xảy ra, có phải không?
Tôi lắc đầu.
- Khỉ thật. Thật bất ngờ. Mới ngày nào nó vẫn còn ở đây vậy mà bây giờ... Tôi thật sự không hiểu tại sao không ai có thể giải thích cho tôi về việc này.
- Thực sự thì không ai biết gì cả - Tôi cũng chép miệng tỏ vẻ chia sẻ với ông ta.
Ông ta phẩy tay:
- Tôi vẫn không hiểu tại sao anh lại quan tâm đến việc này. Anh đừng có nghĩ gì nhé, nhưng chắc anh biết tại sao chúng tôi lại xoá bỏ bộ phận tâm lý trong bệnh viện này. Nhưng thực sự thì những lý do để xoá bỏ nó lại nằm ngoài chuyện ủng hộ hay không ủng hộ việc điều trị tâm lý. Bản thân tôi rất ủng hộ việc điều trị tâm lý - mà sa lại không ủng hộ chứ? Vẫn còn có nhiều người cần đến nó. Nhưng sự thực là những chị em làm việc tại khoa Tâm lý không biết thu xếp vấn đề chi tiêu của bộ phận mình như thế nào cho hợp lý chứ chưa nói gì tới chuyện có làm tốt được chuyên môn hay không. Theo các bác sĩ khác thì họ là những người thiếu khả năng làm việc. Còn tôi vẫn cho rằng họ là những thiên tài nhưng chúng tôi buộc phải chấm dứt hoạt động của trung tâm điều trị tâm lý đó.
Ông ta đảo mắt và nói tiếp:
- Không có vấn đề gì cả. Hy vọng là ngày nào đó chúng tôi lại có thể lập ra một khoa Tâm lý khác tốt và vững mạnh hơn, đưa vào đó những bác sĩ đầu ngành. Anh cũng từng là bác sĩ phải không? - Ông ta quay sang hỏi tôi.
- Nhiều năm trước rồi.
- Thế anh có bao giờ nghĩ là mình sẽ trở lại nghề xưa không?
Tôi lắc đầu.
- Tại sao anh lại bỏ nghề?
- Có rất nhiều lý do.
- Sự tự do, thích làm ông chủ của chính mình?
- Đó chỉ là một phần lý do.
- Vậy thì nếu quay trở lại anh sẽ khách quan mà hiểu được ý tôi muốn nói gì về tính hiệu quả, tính thực tế. Nói chung, tôi cho là bác sĩ làm việc cho khu vực tư nhân hiểu rõ hơn bởi vì làm một công việc gì đó thì luôn luôn phải mang lại lợi nhuận. Nhưng không sao. Quay trở lại chủ đề tại sao anh lại quan tâm đến cô cháu gái của tôi. Chắc là phải có lý do chứ?
- Tôi thực sự không thể nói chi tiết được.
- Giời ạ. Tại sao không?
- Đó là một bí mật.
- Nhưng Chip và Cindy không giấu tôi chuyện gì cả.
- Tôi cần phải nghe điều đó từ chính họ. Đó là quy định.
- Anh quả là người cứng rắn, phải không?
- Cũng không hoàn toàn như vậy - Tôi mỉm cười.
Ông ta cũng cười, lại đan tay vào nhau và uống nước.
- Được thôi, đó là công việc của anh và anh phải có những nguyên tắc riêng. Tôi đoán là tôi cần phải có văn bản từ vợ chồng Chip cho phép tôi được nghe anh nói chuyện về con bé?
- Tôi cũng cho là vậy.
Ông ta cười to hơn để lộ hàm răng thưa màu nâu không đều.
- Trong khi chờ đợi, tôi có được phép nói chuyện với anh không?
- Chắc chắn rồi.
Ông ta nhìn chăm chú vẻ mặt tôi với thái độ có chút gì đó tò mò, hoài nghi:
- Tôi nghĩ là không ai cho rằng các vấn đề của Cassie thuộc lĩnh vực tâm lý vì nếu thế thì quả là điều hết sức nực cười.
Ông ta dừng lại. Đánh giá phản ứng của tôi. Chắc ông ta hy vọng tôi sẽ để lộ ra phản ứng gì đó chăng?
Tôi cố gắng không có động tĩnh gì.
Ông ta lại nói:
- Vì vậy điều duy nhất có thể giải thích được về sự quan tâm của anh đó là người ta cho rằng Cindy hay Chip có gì đó không ổn. Nhưng tất cả điều này đều nực cười.
Ông ta lấy lại tư thế ngồi và tiếp tục dò xét. Vẻ tự đắc thoáng qua trên nét mặt ông ta. Tôi cố không chớp mắt và tự hỏi liệu ông ta có thực sự chứng kiến điều gì đó rồi hay đây chỉ là ông ta bắt nọn tôi.
Tôi nói:
- Ông Chuck ạ, các chuyên gia tâm lý được mời đến không chỉ để phân tích, mà chúng tôi còn giúp đỡ cả những người bị căng thẳng thần kinh nữa.
- Anh là người vợ chồng Chip thuê à? - Ông ta lại hếch mũi, đứng dậy và mỉm cười - Thế là xin anh hãy là bạn tốt. Chúng đều là những đứa con tốt. Cả ba bố mẹ con cái nhà chúng nó.
Tôi lái xe đi nhưng vẫn phân vân không hiểu ông ta muốn gì và liệu tôi có cho ông ta thứ ông ta cần chưa. Phải chăng ông ta muốn tôi thấy ông ta là một người ông quan tâm đến cháu mình?
Ông ta nói: "Chip và Cindy không giấu tôi điều gì cả".
Vậy mà, Chip và Cindy lại không thông báo cho ông ta biết là Cassie đã ra viện. Tôi nhận ra rằng trong toàn bộ quãng thời gian gặp họ, tôi không hề nghe thấy họ nhắc đến tên ông ta.
Một người đàn ông què luôn nghĩ đến công việc ngay cả trong mấy phút ngắn ngủi tôi gặp ông ta.
Ông ta đã không hề bỏ phí một giây tranh luận với tôi và cũng không hề cố gắng làm thay đổi ý kiến của tôi.
Tôi quyết định kiểm tra lại cuộc hội thoại.
Ngay cả địa điểm gặp gỡ cũng được tính toán trước. Ông ta đã đóng cửa phòng ăn chính và bây giờ sử dụng nó như gian triển lãm của riêng mình. Tự lấy đồ uống cho mình mà không hề mời tôi.
Giương ra một chùm chìa khoá để tôi biết ông ta có thể mở bất kỳ cánh cửa nào của bệnh viện.
Ông ta đã cố tình khơi gợi sự căm phẫn trong tôi đối với ông ta khi bàn tới lý do xoá bỏ khoa Tâm lý, rồi sau đó lại xoa dịu bằng việc giả vờ đút lót tôi một cách tế nhị rằng sẽ lập lại khoa Tâm lý mới, coi đây chỉ là một cuộc nói chuyện bình thường.
Đúng là ông ta đã nói: "Hy vọng là một ngày nào đó chúng ta xây dựng lại một khoa Tâm lý vững mạnh hơn, tốt hơn. Đưa những người có chuyên môn hàng đầu đến đó làm việc... Anh có bao giờ nghĩ là sẽ quay trở lại làm việc không?"
Kh tôi có ý kiến phản đối, ông ta bác bỏ ngay. Nhấn mạnh tôi có cái lý của mình nhưng rồi lại dùng chính nó để bảo vệ cho ý kiến của ông ta.
Đúng là ông ta vừa đấm vừa xoa rất khéo.
Tôi tin rằng mặc dù cuộc gặp của chúng tôi diễn ra bất ngờ nhưng nếu chúng tôi không tình cờ gặp nhau thì sớm muộn gì ông ta cũng sắp xếp một cuộc gặp rồi.
Tôi là cái gì để ông ta quan tâm xem tôi nghĩ gì về ông ta chứ? Ngoại trừ việc ông ta muốn biết ý nghĩ của tôi về Cassie, Chip và Cindy.
Phải chăng ông ta muốn kiểm tra xem tôi đã biết được gì về gia đình ông ta? Nghĩa là họ có cái gì đó muốn che giấu và ông ta thì không biết tôi đã phát hiện ra chưa.
Tôi lại nghĩ đến mối lo của Cindy: "Chắc mọi người nghĩ rằng tôi bị điên".
Liệu trong quá khứ của cô ta có gì bất ổn không?
Cả gia đình họ đều sợ những cuộc kiểm tra tâm lý chăng?
Nếu để tránh bị kiểm tra, cách tốt nhất chẳng phải là điều trị ở một bệnh viện không có khoa Tâm lý hay sao?
Thêm một lý do nữa giải thích việc không thuyên chuyển Cassie.
Và như vậy Stephanie đã làm hỏng việc của họ vì đã đưa một bác sĩ tâm lý là tôi tới.
Tôi còn nhớ như in sự ngạc nhiên của Plumb khi Stephanie giới thiệu tôi là ai.
Bây giờ thì chính ông chủ của anh ta tự mình kiểm tra tôi.
Ông ta cố gắng nặn, vẽ một hình ảnh tốt đẹp về Chip và Cindy, mà chủ yếu là Chip - tôi nhận ra là ông ta đã dành rất ít thời gian nói về Cindy.
Niềm tự hào của người làm cha? Hay chỉ là cố tình đánh lạc hướng suy nghĩ của tôi khỏi cô con dâu của ông ta bởi vì càng nói ít về cô ta thì càng tốt?
Tôi dừng lại ở chỗ đèn đỏ giữa đường Sunset và La Brea. Tay gắn chặt trên vô lăng và tôi chợt nhận ra là mình đã đi mấy dặm theo cảm tính.
Tôi về đến nhà trong tâm trạng nặng nề và thầm cảm ơn trời vì Robin đã không ở nhà nếu không thì cô ấy lại phải hứng chịu tâm trạng của tôi.
Nhân viên trực tổng đài của tôi nói:
- Không có gì đâu, thưa bác sĩ. Thật tốt phải không?
- Đúng vậy - Chúng tôi chúc nhau một ngày tốt lành.
Không thể xua được ý nghĩ về Ashmore và Herbert ra khỏi đầu, tôi lái xe đến trường đại học, đi thẳng vào đầu phía bắc của khuôn viên sang Trung tâm Y tế.
Một cuộc triển lãm về lịch sử của ngành y đang diễn ra tại hành lang dẫn đến thư viện Biomed. Phòng đọc chính mở cửa thêm hai giờ nữa. Cô thủ thư tóc nâu xinh xắn đang ngồi phía sau bàn làm việc.
Tôi lần tìm trong danh mục các bài viết của Ashmore và Herbert và tìm được bốn bài của hai tác giả này. Tất cả đều được viết từ mười năm trước.
Bài mới nhất được đăng trên tạp chí Sức khoẻ Cộng đồng của Tổ chức Y tế thế giới tóm tắt công việc phòng chống bệnh lây lan tại miền Nam Xu-đăng, nhấn mạnh những khó khăn của công việc nghiên cứu trong điều kiện chiến tranh. Phong cách viết nhẹ nhàng nhưng cũng bộc lộ được thái độ nóng lòng của tác giả.
Ba bài còn lại được đăng trên các báo sinh học. Một trong số này viết về thảm hoạ Kênh đào Tình yêu (Love Canal, New York) của tác giả Ashmore được Viện Y tế quốc gia tài trợ. Bài thứ hai viết về những ứng dụng sinh học trong cuộc sống được một quỹ của Liên bang tài trợ. Trong đó lời kết Ashmore viết: "Còn có những lời nói dối, những lời nói dối bẩn thỉu và những con số thống kê".
Bài cuối cùng của Ashmore phân tích quan hệ giữa loại thuốc trừ sâu bảo vệ đất và tỷ lệ bệnh bạch cầu - chỉ có u não và ung thư gan ở trẻ em. Kết quả thật tồi tệ - chỉ có sự liên quan nhỏ giữa hoá chất và bệnh tật. Nhưng Ashmore nói, cho dù chỉ cứu được sinh mạng của một người thì kể như công việc nghiên cứu cũng được đền đáp.
Không tìm được gì đáng kể trong các tác phẩm khoa học, tôi kiểm tra nguồn tài trợ. Viện nghiên cứu hoá chất Ferris Dixon, thành phố Norfolk, bang Virgnia. #37958.
Có vẻ như bài báo thiên về lĩnh vực công nghiệp mặc dù quan điểm của Ashmore không đủ rõ ràng để có thể coi ông ta là người ủng hộ nhiệt thành cho ngành công nghiệp hoá chất. Tôi phân vân tự hỏi liệu có còn bài báo nào đề cập việc Viện này đã cắt nguồn viện trợ tài chính cho ông ta?
Nếu đúng như vậy thì ai đã thanh toán cho những khoản chi phí của ông ta ở Bệnh viện Nhi đồng miền Tây.
Tôi đi đến chỗ cô thủ thư và hỏi xem liệu có nguồn viện trợ nào cho nghiên cứu khoa học từ các công ty tư nhân hay không?
- Chắc chắn là có rồi. Khoa học đời sống hay vật lý? - Cô thủ thư trả lời và hỏi lại tôi luôn.
Cũng không rõ công việc của Ashmore thuộc loại gì, tôi đánh liều trả lời:
- Cả hai.
Cô ta đi đến chỗ giá để tài liệu tham khảo và rút ra hai cuốn sách dày, bìa mềm:
- Đây, thưa ông. Đây là hai cuốn viết gần đây nhất. Nếu muốn tìm thêm các cuốn xuất bản trong năm nay thì ông có thể tìm ở giá ngay cạnh đây. Còn nếu muốn tìm các cuốn được Liên bang tài trợ thì ông có thể tìm ở giá bên phải đằng kia.
Tôi cảm ơn cô ta, mang hai cuốn sách ra bàn và đọc phần bìa.
Mục lục các nghiên cứu được tư nhân tài trợ: cuốn I: sinh hoá và khoa học đời sống.
Cuốn II: Kỹ thuật toán học và khoa học vật lý.
Tôi mở cuốn thứ nhất và tìm mục tài trở ở cuốn sách.
Cái tên Laurence Ashmore nằm ở giữa. Tôi gấp chỗ đó lại.
Viện nghiên cứu hoá học Ferris Dixon Norfolk, Virginia.
Viện này chỉ tài trợ cho hai công trình nghiên cứu trong năm nay.
#37958: Ashmore, Laurence Allan. Bệnh viện Nhi đồng miền Tây, Los Angeles, California. Đất nhiễm độc, yếu tố trong nghiên cứu sinh chất bệnh nhi: Nghiên cứu mới nhất. Nguồn tài trợ: 973.652,75 đôla trong vòng 3 năm.
#37960: Zimberg, Walter William. Đại học Maryland, Baltimo, MD. Thống kê không giới hạn về sự tương thích Pearson trong chẩn đoán khoa học; Giá trị điều tra chẩn đoán và quyết định phân bổ mẫu. Nguồn tài trợ 124.761 đôla trong 3 năm.
Nghiên cứu thứ hai có vẻ hơi tâng bốc nhưng rõ ràng Ferries Dixon không được chi trả nhiều còn Ashmore thì lại được tài trợ đến 90% chi phí.
Gần một triệu đôla trong vòng ba năm.
Con số rất lớn cho nghiên cứu của một người mà cũng chỉ là sự xào xáo nhào nặn các con số thống kê.
Tôi lại tự đặt câu hỏi xem làm thế nào mà Ferris Dixon có thể gây ấn tượng được với những người quen của mình.
Nhưng hôm đó là Chủ nhật và cũng như mọi người, tôi cần nghỉ ngơi đôi chút.
Tôi trở về nhà, thay quần áo và cố tìm lại ý nghĩa của ngày cuối tuần. Đến sáu giờ chiều, không còn kiên nhẫn được nữa, tôi gọi điện đến nhà Jones. Trong khi đầu dây bên kia chưa có người nhấc máy thì ở phía trước cửa nhà tôi, Robin bước vào. Nàng vẫy tay, hôn tôi và đi thẳng vào nhà tắm. Ngay khi nàng biến mất trong nhà tắm thì tôi nghe thấy giọng nói của Cindy ở đầu dây bên kia.
- Alô?
- Alex Delaware đây.
- Ồ, chào bác sĩ Delaware, ông khoẻ không?
- Tôi khoẻ, xin cảm ơn chị, thế còn chị?
- Nói chung là khoẻ - Giọng chị ta nghe có vẻ hơi bực dọc.
- Có chuyện gì vậy, Cindy?
- À... không, xin ông cầm máy chờ cho một lát được không?
Chị ta bịt ống nghe và khi nói chuyện trở lại tôi thấy giọng chị ta có vẻ nghèn nghẹn, bối rối. Nhưng tôi vẫn nhận ra một giọng nói khác đang trả lời, đó là Chip.
- Xin lỗi, xong rồi. Em nghĩ... Cassie đang ngủ.
Rõ ràng là đang bực tức.
Tôi hỏi:
- Con bé vẫn mệt sau chuyến về nhà à?
- À... vâng, nhưng cũng hồi phục đôi chút. Nó đã ăn tối được kha khá, còn ăn cả món tráng miệng nữa. Nó vừa ngủ thôi. Ngay bây giờ thì tôi đang ở cách nó một căn phòng, tôi vẫn để tai nghe ngóng... ông biết rồi đấy.
- Tôi hiểu - Tôi nói.
- Để có thể thường xuyên theo dõi nó, tôi đã để cửa phòng nó mở thông sang phòng tắm chung và phòng vợ chồng tôi, và để cả đèn ngủ.
- Như thế thì chị ngủ thế nào được?
- Ồ, tôi phải cố gắng ngủ thôi. Nếu mệt thì tôi có thể chợp mắt khi nó đã ngủ. Ở với nhau nhiều hình như chúng tôi đã quen với giờ giấc của nhau.
- Chị và Chip có thay ca nhau không?
- Không, tôi không thể làm thế - học kỳ này anh ấy bận lắm. Ông sẽ đến thăm chúng tôi chứ?
- Ngày mai có được không?
- Ngày mai ạ, được đấy. Thế... khoảng bốn giờ chiều có được không?
Nghĩ tới tình trạng hay tắc nghẽn của đường 101, tôi nói:
- Tôi nghĩ là sớm hơn đi, hay hai giờ nhé?
- Ồ được... nhưng tôi lại có chút việc phải làm, thế hai rưỡi được không?
- Đồng ý.
- Vâng, Delaware. Chúng tôi rất mong gặp ông.
Tôi đi vào buồng tắm, suy tư mãi về thái độ hồi hộp khác thường của Cindy ở nhà so với ở bệnh viện. Phải chăng có điều gì đó không ổn ở nhà khiến chị ta có những biểu hiện của hội chứng Munchausen?
Cho dù Cindy vô can thì cũng phải có điều gì đó ám ảnh ở nhà khiến chị ta sợ hãi. Đối với Cindy thì ở nhà dường như là điều tồi tệ.
Robin đang nằm trên giường trong chiếc váy đen dài mà tôi chưa từng nhìn thấy bao giờ.
Tôi kéo khoá áo của nàng, đặt một nụ hôn vào khoảng trống ấm áp giữa hai vai rồi làm nốt những công việc vợ chồng còn lại.
Chúng tôi đến nhà hàng Glen của người Ý ngay cạnh Mulholand. Do không đặt trước nên chúng tôi phải đợi mất nửa giờ mới tóm được tay bồi bàn chỉ chực biến mất giữa dòng thực khách. Chúng tôi ăn món bê, uống rượu vang trong khoảng một tiếng đồng hồ và ra về. Mặc dù có chút men nhưng Robin và tôi cũng nhanh chóng hoà hợp với nhau trong những giờ phút thăng hoa tuyệt vời. Mọi việc xong xuôi, Robin đi tắm, và đúng lúc cô gọi tôi lại giúp cởi áo thì chuông điện thoại reo.
- Bác sĩ Delaware, tôi là Janie đây, ông có điện thoại của ông Chip Jones.
- Cảm ơn, cho tôi nói chuyện với ông ấy.
- Bác sĩ Delaware đấy à?
- Chào ông Chip, có chuyện gì vậy?
- Không có gì cả - nhờ trời không có gì liên quan tới bệnh tật. Không biết tôi gọi có quá muộn không?
- Không, không sao.
- Cindy vừa gọi cho tôi nói với bác sĩ sẽ đến nhà vào chiều mai. Tôi gọi điện để hỏi xem bác sĩ có muốn tôi ở nhà ngày mai không?
- Có ông ở nhà thì còn gì bằng nữa.
- Hừm.
- Có vấn đề gì không?
- Tôi e là có đấy. Tôi có giờ lên lớp lúc một rưỡi, sau đó hẹn gặp một số bạn học. Không có gì đặc biệt cả, chỉ là chuyện thường ngày ở trường thôi nhưng tôi không thể vắng được.
- Không sao. Tôi sẽ gặp ông lần sau cũng được.
- Tuyệt quá - nếu có chuyện gì bác sĩ cứ gọi điện cho tôi. Tôi đã cho bác sĩ số ở trường rồi phải không?
- Tôi có rồi.
- Vậy thì được rồi. Tôi chỉ muốn nói thế thôi.
Tôi gác máy, hơi phiền lòng vì cuộc gọi từ ông ta nhưng cũng không hiểu tại sao. Robin gọi từ trong phòng tắm và tôi đi vào. Dưới ánh sáng mờ mờ, nàng đắm mình trong xà phòng, đầu gác lên thành bồn tắm.
Một vài hạt bọt xà phòng lấm tấm trên mái tóc dài mượt. Cặp mắt vẫn hờ khép ngay cả khi tôi bước vào.
Vừa đưa tay che ngực, nàng vừa làm bộ:
- Sợ quá... sợ quá, không phải tên giết người Norman Bates đấy chứ?
- Tên giết người Norman Bates thích tắm vòi hoa sen cơ.
- Thế thì chắc là em trai của tên giết người đó rồi.
- Đây là anh trai muốn tắm của hắn - tên tôi là Merman.
Nàng cười thích thú. Tôi cũng nằm vào bồn tắm nhắm mắt lại. Robin gác chân lên chân tôi. Trầm mình trong nước ấm, tôi thấy người ấm áp trở lại và đưa chân mát xa chân Robin nhưng trong đầu vẫn nghĩ về cuộc hội thoại vừa rồi của Chip.
Anh ta nói: Cindy vừa gọi điện cho tôi nói là bác sĩ sẽ đến vào chiều mai.
Có nghĩa là anh ta không có nhà khi tôi gọi điện.
Và có nghĩa là người đàn ông mà tôi nghe thấy trong điện thoại khi gọi tới nhà Cindy không phải là anh ta.
Sự khó chịu của Cindy là...
Robin hỏi:
- Có chuyện gì vậy? Vai anh dúm lại này.
Tôi kể cho nàng nghe.
- Có thể anh quá bận tâm vì chuyện đó. Có thể một người họ hàng nào đó đến thăm cô ta - bố hay mẹ cô ta chẳng hạn.
- Cô ta không còn bố mẹ.
- Vậy thì có thể là một người anh em họ hay chú bác gì đó. Hoặc cũng có thể thợ ống nước hay thợ điện hoặc ai đó...
Tôi nói:
- Những người đó lại có thể đến vào một buổi tối Chủ nhật được sao?
- Họ giàu có và người giàu thì luôn đòi đáp ứng ngay những gì mình muốn.
- Có thể như vậy nhưng anh vẫn không hiểu tại sao chị ta lại có vẻ hồi hộp như thể anh bắt quả tang đang làm chuyện xấu xa vậy.
- Thì có thể là cô ta đang làm chuyện hủ hoá. Anh đã chả nghi ngờ cô ta đầu độc con mình là gì? Ngoại tình cũng là tội gần giống như vậy.
- Hủ hoá khi vừa ra khỏi viện ư?
- Thì ông chồng đã chẳng ngại ngần gì đến văn phòng ngay ngày đầu tiên đó thôi. Nếu ngày nào ông ta cũng thế thì có thể cô ta bị cô đơn. Ông ta không cho vợ những gì cô ta muốn thì cô ta phải tự xoay sở để có được chứ. Nhưng chuyện ngoại tình thì có liên quan gì đến hội chứng Munchausen không?
- Bất cứ chuyện gì khiến cho một người có khuynh hướng bệnh này cảm thấy vô nghĩa đều có thể dẫn tới bộc lộ bệnh. Nhưng còn cần đến nhiều thứ khác nữa chứ không chỉ có chuyện thất vọng trong quan hệ vợ chồng, Robin ạ. Nhưng nếu Cindy đúng là đang ngoại tình thì chuyện này có thể là một động cơ - đó là tìm cách loại bỏ ông chồng và dứa con để được tự do với người tình.
- Có nhiều cách dễ dàng hơn để thoát khỏi gia đình đấy chứ.
- Chúng ta đang nói chuyện về một người bệnh.
- Thì đúng là có bệnh.
- Anh không được trả tiền để chữa trị cho người khác.
Nàng dướn mình lên chạm vào mặt tôi.
- Chuyện này chắc đã làm anh đau đầu lắm.
- Đúng vậy. Cassie còn quá nhỏ trong khi mọi người thì cứ làm cho nó quặt quẹo.
- Thì anh cũng đã làm hết sức mình rồi.
- Anh cũng nghĩ thế.
Chúng tôi tiếp tục ngâm mình trong nước. Tôi cố gắng thư giãn nhưng cũng không quên khen Robin đẹp khi đắm mình trong nước xà phòng.
Chúng tôi trở lại phòng ngủ và đọc báo. Tôi đọc chăm chú xem có thông tin gì liên quan đến Bệnh viện Nhi đồng miền Tây hay Laurence Ashmore nhưng không có gì. Chuông điện thoại reo lúc mười giờ bốn mươi lăm. Robin trả lời:
- Chào anh Milo.
Anh chàng nói điều gì đó khiến nàng bật cười. Rồi Robin nói:
- Được ạ.
Nói rồi nàng đưa cho tôi ống nghe và trở lại với trò chơi ô chữ của mình.
- Thật vui khi lại nghe giọng cô ấy. Cuối cùng thì anh cũng đã biết đưa ra quyết định đúng đắn.
- Anh đang ở đâu?
- Ngay sau cửa hàng đồ da thôi, không xa lắm, đang phải kiểm tra xem có trộm cắp gì không. Tôi có làm gián đoạn việc gì không đấy?
- Chỉ là chuyện âu yếm thường ngày thôi mà - Tôi trả lời và vuốt ve cánh tay Robin. Nàng đang quá chăm chú với trò chơi ô chữ, miệng vẫn cắn bút chì nhưng tay cũng giơ lên để chạm vào tay tôi. Chúng tôi lồng những ngón tay vào nhau.
- Tôi có mấy chuyện thú vị cho anh đây. Ông Huenengarth của anh có vấn đề đấy. Số bằng lái và an ninh xã hội hợp lý nhưng địa chỉ trên bằng lái xe thì lai liên quan đến một địa chỉ ở Tarzana và ông ta cũng không có số điện thoại hay thẻ tín dụng gì cả. Không có cả mã số của hạt. Cũng không có thông tin nào đề cập đến thời gian quân ngũ của ông ta và danh sách nộp thuế địa phương. Có thể là do lỗi máy tính hay tôi đang yếu về kỹ thuật. Mai tôi sẽ bảo Charlie kiểm tra xem sao.
- Đúng là bóng ma của bệnh viện. Tôi thấy sáng tỏ ra nhiều khi biết anh là người phụ trách an ninh.
Robin ngước nhìn lên rồi lại nhìn xuống trò chơi.
- Chắc anh phải ngạc nhiên lắm khi biết rằng rất nhiều kẻ điên khùng muốn vào ngành an ninh - cảnh sát. Tất nhiên là chúng khó qua được vòng kiểm tra tâm lý. Hiện thời, anh đừng tiếp cận ông ta vội để tôi thu thập thêm thông tin đã. Tôi cũng đang xét hồ sơ của Herbert và định sẽ xuống phố để gặp người phục vụ quầy bar đã chứng kiến sự việc xem sao.
- Anh ta có gì mới cho anh à?
- Không, nhưng Gomez và đồng sự của ông ta không làm tôi hài lòng lắm. Gã đó có lịch sử nghiện ngập nên họ cho rằng không thể là một nhân chứng đáng tin cậy. Họ đã có số điện thoại của anh ta, gọi điện tới nhà và nói chuyện được với cô bạn gái anh ta. Được biết anh ta đã tìm việc ở một quán rượu khác tại Newton Division. Tôi sẽ đến gặp anh ta nói chuyện. Có thể anh sẽ quan tâm đến chuyện đó nhưng anh hãy cứ làm việc của mình đi.
Robin ngẩng mặt lên và tôi nhận thấy mình đã xiết tay nàng quá chặt nên vội nới lỏng ra.
- Khi nào anh đi?
- Khoảng một giờ nữa. Tôi sẽ đi sau nửa đêm khi cảnh diễn bắt đầu, tôi muốn bắt quả tang anh ta nhưng trước khi anh ta quá phê. Dù sao thì anh hãy cứ vui vẻ với Robin đi.
- Chờ một lát đã, có mấy điều cần cho anh đây. Có thời gian không?
- Rất nhiều là đằng khác, tôi chỉ ở đây với bọn mèo thôi mà. Có gì vậy?
- Tôi đã gặp ông nội Chuck hôm nay ngay khi chuẩn bị rời bệnh viện. Ông ta đã có một bài thuyết với tôi về cái gia đình tốt đẹp của ông ta - bảo vệ niềm tự hào của gia tộc, giống như chúng ta từng nói chuyện với nhau. Theo tôi thì ngụ ý ông ta muốn nhắn với tôi là hãy biết cách cư xử, đừng nên dấn sâu thêm nữa làm gì.
- Nói thế thì thật không tế nhị.
- Thực ra, ông ta đã tìm ra một cách rất tế nhị để thể hiện ý đồ của mình đấy. Cho dù có ghi âm được những lời ông ta nói thì cũng không đủ để buộc tội ông ta.
Tôi kể lại bài phỏng vấn trên báo của Plumb và những giả thuyết về tài chính đã khiến tôi cố đi sâu tìm hiểu công việc nghiên cứu của Ashmore. Khi tôi kể đến Viện Ferris Dixon thì Robin đặt báo xuống và lắng nghe chăm chú.
- Virginia à - Milo nói - Tôi đã từng tới đó một hai lần để dự các cuộc huấn luyện do Liên bang tổ chức rồi.
- Viện này đã lập danh sách phân công các hãng tư nhân. Tôi cho rằng đó là một loại công việc kinh doanh.
- Thế họ tài trợ cho công việc gì?
- Thuốc trừ sâu trong đất. Ashmore phân tích những số liệu cũ. Nhưng tôi cho là họ đã chi quá nhiều tiền vào việc đó. Tôi sẽ gọi điện cho Viện này vào ngày mai xem có thêm được thông tin gì không. Ngày mai tôi cũng sẽ liên lạc với cô Ashmore để xem nhân vật bí mật Huenengarth của chúng ta có ghé qua không.
- Như tôi đã nói, Alex, hãy giữ khoảng cách.
- Đừng lo, tôi sẽ chỉ gọi điện thôi. Buổi chiều tôi sẽ tới nhà Cindy và Chip để làm công tác tư vấn. Có vẻ như bọn họ không được vui vẻ với nhau lắm.
Tôi kể cho Milo nghe cuộc nói chuyện với Cindy lúc chiều, về chuyện cô ta bịt ống nghe và những ngờ vực của tôi về lời nói nghe được qua điện thoại.
- Anh nghĩ sao, hả Milo?
- Có thể họng cô ta bị khò khử, hoặc cô ta đúng là một Hester Prynne của thung lũng San Fernando. Nói thật nhé, nếu cô ta định cắm sừng bố con nhà Chip thì chắc là cô ta đã quá ẩu, đúng không nào? Bởi vì cô ta đã lỡ để anh nghe được tiếng tình nhân của cô ta trong điện thoại.
- Có lẽ là chị ta không muốn thế nhưng vì tôi gọi bất ngờ nên bị sơ hở. Nghe giọng Cindy có vẻ như rất hồi hộp và chị ta đã bịt ngay điện thoại lại. Những gì tôi nghe được chỉ là giọng nói rất thấp. Nếu như chị ta đúng là người mắc chứng Munchausen thì việc tham gia vào một mối nguy hiểm khác lại đúng với tâm lý của chị ta đấy.
- Giọng thấp à? Anh có chắc đó không phải là tiếng ti vi không?
- Không, đó là cuộc nói chuyện giữa người với người thực sự. Cindy nói chuyện với gã đàn ông trả lời. Tôi cho rằng đó là Chip. Nếu ông ta không gọi cho tôi sau đó thì cứ nghĩ như vậy.
- Hừm. Như vậy có nghĩa thế nào và điều đó liên quan gì đến Cassie?
Tôi nhắc lại giả thuyết của mình cho Milo nghe.
Anh nói:
- Đừng quên món tiền mà Chip có. Đó cũng là một động cơ.
- Và nếu như chuyện này lộ ra ngoài và xảy ra một cuộc ly hôn thì cũng thật là điều sỉ nhục với gia đình họ. Đây có thể cũng chính là điều mà Chuck cố giấu tôi. Ông ta nói chuyện về Chip và Cindy, cố tạo ra điều gì đó thuyết phục, gọi Cindy là cô gái rất đáng yêu mặc dù chị ta hoàn toàn không phải là cô gái mà người như ông ta muốn lựa chọn làm con dâu của mình. Mặt khác, nhìn màu răng của ông ta thì có vẻ ông ta từng trải qua khó khăn gian khổ và không hoàn toàn là một kẻ khinh người.
- Màu răng?
- Răng của ông ta không đều và bạc màu. Cử chỉ của ông ta có vẻ hơi thô lỗ.
- Quả là con người tự lập và thành đạt. Có thể ông ta đánh giá cao Cindy vì đã làm điều tương tự.
- Ai biết được điều này. Có tin gì về việc chị ta rời quân đội không?
- Chưa có. Charlie sẽ kiểm tra vào ngày mai.
- Nếu anh có thêm thông tin gì từ người phục vụ quầy bar thì hãy gọi điện ngay cho tôi nhé.
Có chút gì đó căng thẳng trong giọng nói của tôi. Vai tôi lại chùng xuống.
Robin đặt tay lên vai tôi và hỏi:
- Chuyện gì vậy?
Tôi bịt ống nghe và quay sang chỗ nàng:
- Anh ấy đã phát hiện ra vài điều có thể có mà cũng có thể không liên quan gì đến vụ này.
- Và anh ấy gọi để mời anh cùng đi?
- Đúng vậy nhưng...
- Và anh cũng muốn đi?
- Không, anh...
- Có gì nguy hiểm không?
- Không, chỉ là phỏng vấn một nhân chứng thôi mà.
Nàng đẩy nhẹ tôi một cái:
- Vậy thì anh hãy đi đi.
- Em đâu cần phải làm thế, Robin.
Nàng mỉm cười:
- Anh đi luôn đi.
- Anh không cần đi đâu hết. Ở đây với em thích hơn.
- Để âu yếm nhau ư?
- Đúng thế - Tôi nói và quàng tay ôm nàng.
Nàng hôn tay tôi và rồi lại bỏ xuống:
- Đi đi, anh Alex, em không muốn nằm đây nghe anh nịnh nữa đâu.
Tôi ôm Robin đặt lên giường và ra ngoài phòng khách chờ. Milo gõ cửa nhẹ nhàng ngay trước lúc nửa đêm. Anh mặc áo khoác bên ngoài áo len cao cổ, quần vải chéo và có cả áo gió. Tất cả đều màu đen. Trông anh giống hệt tay mê nhạc jazz lập dị của Los Angeles.
Tôi nói:
- Để lẩn vào bóng đêm à, Zorro?
Milo không trả lời câu nói đùa của tôi mà vào việc luôn:
- Chúng ta sẽ đi xe của anh. Tôi không mang chiếc Porsche đến đây.
Tôi lái con Seville ra, Milo đưa túi đồ vào cốp xe và nói:
- Đi thôi.
Tôi theo hướng dẫn của anh, đi vào đường Sunset về phía Tây xuống đường 405 phía Nam, hoà vào dòng xe tải và xe khách đang hướng ra sân bay. Tới ngã tư giao với đường Santa Monica, tôi chuyển hướng đi về Los Angeles và rẽ sang phần đường cao tốc. Đêm đã về khuya nên đường vắng vẻ hơn và thoáng chút hơi ẩm.
Milo hạ kính cửa sổ xuống, châm một điếu xì gà nhỏ và nhả khói ra thành phố. Anh có vẻ mệt mỏi như thể cuộc nói chuyện qua điện thoại với tôi làm cho anh đứt hơi. Tôi cũng thấy hơi mệt và cả hai cùng không nói gì với nhau. Tới gần La Brea, một chiếc xe hơi thể thao dáng dấp bám đuôi chúng tôi, xi nhan và vượt qua với tốc độ chóng mặt. Milo ngồi bật dậy như phản xạ của một tay cớm, nhìn chiếc xe biến mất trước khi ngả người trở lại và lơ đãng nhìn qua kính chắn gió.
Tôi nói để phá vỡ sự im lặng:
- Đã ba phần tư đêm rồi đấy.
- Bảy phần tám mới đúng. Giờ này thì những kẻ điên đã ra đường hết rồi. Cứ đi theo đường số 10 qua chỗ giao nhau và rẽ vào đường Santa Fe.
Anh tiếp tục chỉ đường cho tôi bằng giọng khàn khàn như càu nhàu đến một khu rộng rãi yên ắng toàn nhà kho và các cửa hàng đại lý. Không có đèn đường, không có người đi lại, phương tiện duy nhất chúng tôi nhận ra đó là một chiếc xe đỗ tít bên trong hàng rào cơ quan an ninh. Bây giờ chân trời đã quang đãng hơn và có chút ánh sáng. Chắc là do chúng tôi đã ở cách xa biển hơn.
Milo hướng dẫn tôi liên tục rẽ vào các khúc cua gấp và hẹp của những con phố và hẻm như lạc vào ma trận mà tôi chưa từng chứng kiến trong đời. Anh đã dập tắt điếu xì gà nhưng mùi vị của nó thì vẫn còn phảng phất trong xe. Milo kéo kính xe lên và tôi cũng kịp nhận ra có mùi gì đó rất nặng như mùi khét của quần áo bị cháy xộc vào xe của chúng tôi. Mặc dù cửa kính đã được kéo lên nhưng thứ mùi đó vẫn xuyên vào xe cùng với những tiếng ồn ào nghe lạnh và chát chúa như những bàn tay thép khổng lồ vỗ vào nhau.
- Hướng nhà chế biến và đóng gói thịt hộp phía đông Los Angeles đường đi Vernon - Anh nói - Ngày đầu tiên vào ngành, tôi lái một chiếc Cruiser xuống khu vực này tuần tra ban đêm. Hồi đó người ta hay làm thịt lợn và ban đêm và co thể nghe thấy rất rõ tiếng chúng kêu eng éc. Bây giờ thì tôi nghĩ họ thịt lợn mà không làm chúng kêu nữa. Mà, đây rồi, rẽ phải sau đó rẽ trái luôn. Đi qua một khối nhà và anh có thể dừng ở bất cứ đâu cũng được.
Khu phố chúng tôi đến nhẵn nhụi và được bọc rào hai bên. Cỏ mọc trùm lên những đoạn đường trải nhựa như tóc trên đầu người ta vậy. Xe hơi đỗ dọc theo hai bên phố sát với bờ rào.
Tôi cho xe táp vào khoảng trống đầu tiên mà tôi nhận ra ngay trước một chiếc BMW cũ. Chúng tôi ra khỏi xe, không khí đã mát mẻ trở lại nhưng mùi lò mổ ban nãy thì vẫn còn phảng phất. Có thể gió đã đổi hướng nhưng tôi không nhận ra. Có thể gió đã đổi hướng nhưng tôi không nhận ra. Tiếng kêu của động cơ không còn mà thay vào đó là tiếng nhạc pha lẫn giữa đàn organ điện tử, tiếng bass trầm và đàn guitar.
- Đang diễn ra dạ tiệc à? Điệu khiêu vũ của tuần là gì? - Tôi hỏi Milo.
- Felony lambada. Đi nhẹ nhàng theo tôi - Milo nói, cho tay vào túi áo và tiến về phía trước.
Chúng tôi bắt đầu đi dọc theo con phố đến chỗ toà nhà không có cửa sổ ở cuối đường. Tường của ngôi nhà không được sơn cẩn thận để lộ phần gạch bên trong đã chuyển thành màu hồng dưới ánh sáng đèn. Cửa chính của toà nhà ba tầng làm bằng thép và có các cửa chớp. Khi gần đến toà nhà tôi nhìn thấy dòng chữ: "Công ty phân bón và kali Baker".
Tiếng nhạc nghe rõ hơn. Một giọng hát trầm, khoẻ vang lên. Bây giờ tôi đã có thể nghe được giọng hát xen lẫn trong tiếng nhạc. Tôi nhìn thấy một nhóm người đang xếp hàng trước cửa ra vào.
Chúng tôi đi qua hàng người đó, những khuôn mặt lạ lẫm quay sang nhìn chúng tôi không ngớt như nhìn người ngoài hành tinh. Nhóm người này mặc đồng phục đen, mặt rầu rĩ như đưa đám. Ánh sáng đèn từ ngôi nhà mờ mờ như ánh trăng. Một giọng phê bình thô thiển nổi lên giữa tiếng đàn organ và tiếng ai đó cười. Nghe giọng tôi đoán người này khoảng mười tám đến hai mươi tuổi.
Cánh cửa mà nhóm người kia chờ phía trước bám đầy bụi, và đang cài then. Một thanh niên mặc áo len cao cổ không tay, đi ủng cao đang đứng trước cửa. Anh ta khoảng ngoài hai mươi, trông có vẻ đần độn, mắt mơ màng. Tôi nhận ra trên mặt anh ta còn sót vài vết lấm tấm, hậu quả của một đợt điều trị hoá học trị liệu.
Mấy đứa trẻ ở phía trước hàng người đang nói chuyện với anh ta. Anh ta không trả lời bọn trẻ và cũng không nhận ra chúng tôi đang đến hoặc cố tình lờ đi.
Milo đến sát anh ta và nói:
- Chào anh.
Anh ta vẫn tiếp tục nhìn đi nơi khác.
Milo nhắc lại. Lần này thì anh ta quay mặt lại và càu nhàu với dáng vẻ rất tức cười. Mấy người ở phía trước hàng để ý đến chúng tôi và có ai đó nói:
- Đúng là kung-fu hảo hạng.
Gã thanh niên mỉm cười khoanh tay quay đi chỗ khác và ngáp. Milo tiến đến sát anh ta, giơ cái phù hiệu cảnh sát vào bộ mặt đầy thịt. Không biết anh lấy cái phù hiệu từ trong túi ra lúc nào.
Gã thanh niên vẫn càu nhàu nhưng có vẻ chịu nhún. Tôi ngoái sang bên cạnh, một cô gái tóc đỏ hung đang nhìn về phía tôi, tay đung đưa bím tóc. Tay thanh niên đang xoa ngực cô ta nhổ bãi nước bọt và nhìn tôi hằn học.
Milo xoay tấm phù hiệu ra trước mặt gã thanh niên. Gã đó nhìn theo nó như bị thôi miên. Milo vẫn giơ tấm phù hiệu, gã đó chăm chú đọc.
Có tiếng ai đó chửi đổng. Người khác lại hú lên như chó sói trong tiểu thuyết của Jack London.
Milo nói:
- Mở cửa ra Spike, nếu không tôi sẽ kiểm tra giấy tờ.
Tiếng hát đồn thanh vang át cả tiếng nhạc. Gã thanh niên cau mày nhăn mặt như bị đau. Cuối cùng gã ta cười và lùi lại phía sau.
- Ông mở cửa đi.
- Chìa khoá đâu?
Milo lùi lại một chút để lấy chỗ cho gã to lớn và quan sát gã ta. Gã thanh niên lấy chìa khoá ra, nhấc ổ khóa lên mở cửa và rút thanh chốt.
Cửa hé mở. Hơi ấm, tiếng ồn và ánh sáng từ trong ùa ra.
Gã thanh niên đi lên phía trước. Đám đông phía sau lùi lại nhưng một số người la lên phản đối. Gã thanh niên giơ tay lên cao khua khua vài động tác. Ánh sáng từ bên trên rọi xuống khiến tròng mắt của anh ta biến thành màu đỏ.
- Chó má! - Anh ta chửi đổng.
Milo nói:
- Ấn tượng đấy, Spike.
Gã thanh niên vẫn nhìn hàng người phía sau, miệng thở hổn hển. Tiếng ồn vẫn phát ra từ khe cửa đã hé.
Milo đặt tay lên cái chốt cửa khiến gã thanh niên chú ý.
Có tiếng ai đó chửi bới phía sau.
Milo nói:
- Chúng ta sẽ đi vào, cứ để bọn người đó ở ngoài.
Gã thanh niên đã ngậm miệng lại và thở bằng mũi.
Một bên mũi của anh ta sủi cả bọt.
- Tôi không phải là Spike, tôi là James - Anh ta giải thích.
Milo cười nhẹ:
- Được, anh làm tốt đấy James. Đã bao giờ làm việc tại hiệu cầm đồ Mayan chưa?
Gã thanh niên dùng tay gạt nước mũi.
- Hả? - Gã có vẻ suy nghĩ.
- Thôi, coi như tôi chưa nói gì - Milo nói.
Gã thanh niên có vẻ bị tổn thương:
- Ông định nói gì thế? Đề nghị ông nghiêm túc cho.
- Tôi nói cho anh có tương lai tươi sáng James ạ. Anh có thể ra ứng cử chức phó tổng thống.
Căn phòng bên trong rộng, ánh sáng lờ mờ, nền láng xi măng, những chỗ tường mà tôi có thể nhìn thấy được sơn màu gạch. Trần nhà đầy những đường điện, đường ống nước và các thiết bị.
Phía xa, bên trái là quầy bar đầy chai lọ, đồ uống, nắp chai. Trên giá vẫn còn lưng xô đá.
Hai người đàn ông phục vụ liên tục lau những tấm kính bám đầy nước.
Phần còn lại của gian phòng là sàn nhảy với những đọi trai gái đang quấn chặt vào nhau uốn lượn.
Milo đi qua những cặp đang khiêu vũ hướng về phía quầy bar. Tôi cũng đi theo anh. Chúng tôi đi thẳng ra phía sau quầy. Cả hai người chủ quầy đều gầy, đen, râu quai nón. Người ở gần phía Milo đầu hói.
Milo đi đến chỗ người hói. Anh này tưởng chúng tôi đến uống rượu, tự động rót côca pha với rượu Rum. Milo tóm cổ tay anh ta. Người phục vụ kinh ngạc vội đặt can côca xuống và cố giằng tay ra.
Milo giữ chặt và đưa tấm phù hiệu ra một cách bí mật không để người khác nhận ra ai trên tấm phù hiệu và thì thầm với người phục vụ quầy. Hai bên trao đổi qua lại gì đó và cuối cùng người phục vụ chỉ vào người còn lại. Milo thả tay anh ta ra. Người hói đi đến chỗ bạn mình hỏi gì đó với rồi quay lại chỗ Milo tỏ vẻ đồng ý.
Tôi theo hai người vào lối đi trơn trượt đầy nước quanh sàn nhảy tới cuối căn phòng và đi qua cánh cửa gỗ bên trên ghi "Nhà vệ sinh". Phía bên trong nữa là một phòng dài vắng vẻ nền cũng làm bằng xi măng. Chỉ có vài đôi đang tình tự trong bóng tối. Cuối căn phòng này lại có một cánh cửa khác làm bằng kim loại như cánh cửa bên ngoài mà gã thanh niên to lớn đứng gác.
Người phục vụ hói đầu hỏi bằng giọng the thé:
- Bên ngoài ấy đấy, các ông tự ra được chứ?
- Phía ngoài ấy là gì thế, Robert?
Người phục vụ gãi cằm:
- Là khu hậu.
Milo đẩy cánh cửa ra ngoài và tóm lấy cánh tay của người phục vụ. Cả ba chúng tôi đi ra khu đỗ xe nhỏ có hàng rào ở bên ngoài. Chỉ có một chiếc xe tải nhỏ cùng với ba chiếc xe hơi đậu ở đó. Milo đưa người phục vụ đến một chỗ khá sạch sẽ ở giữa bãi.
Anh nói với tôi:
- Đây là Robert Gabray, người pha cocktail xuất chúng.
Quay sang Robert:
- Anh có đôi bàn tay thật tài tình, Robert.
Robert lắc ngón tay và nói:
- Tôi đang phải làm việc.
- Nguyên tắc cũ của người Tin lành hả?
Vẻ mặt anh ta lơ đễnh:
- Anh thích làm việc lắm à, Robert?
- Buộc phải làm thôi. Họ ghi chép mọi thứ.
- Họ là ai?
- Những người chủ.
- Họ ở đó giám sát anh à?
- Không, nhưng họ có người giám sát.
- Cứ như CIA ấy nhỉ.
Robert im lặng.
- Ai trả lương cho anh, Robert?
- Vài người.
- Người đó là ai?
- Họ là chủ ngôi nhà.
- Tên họ ghi trên séc trả lương cho anh là gì?
- Tôi không được trả bằng séc.
- Họ trả anh bằng tiền mặt à?
Anh ta gật đầu:
- Hãy nói đi, đừng chối quanh. Họ là ai?
- Là một vài người A rập.
- Tên?
- Fahrizad, Nahrizhad, Nahrishit.
- Nghe như là người I ran ấy chứ không phải là người A rập.
- Gì thì gì, tôi không biết.
- Anh làm việc ở đây bao lâu rồi?
- Vài tháng.
Milo lắc đầu:
- Tôi không nghĩ vậy, Robert. Anh có thể nói lại được không?
- Cái gì? - Gabray có vẻ ngạc nhiên.
- Nghĩ xem vài tháng trước anh thực sự ở đâu?
Gabray khẽ nhún vai.
- Anh lạnh à?
- Không sao, không sao, vậy thì tôi mới làm ở đây được vài tuần thôi.
- A... như thế tốt hơn rồi đó.
- Thế nào cũng được.
- Nghĩa là tháng và tuần đối với anh đều như nhau cả à?
Gabray không trả lời.
- Có vẻ như là nhiều tháng rồi phải không?
- Thế nào cũng được.
- Khi rong chơi thì thời gian thường trôi qua nhanh phải vậy không?
- Tôi nghĩ thế.
Milo tiếp:
- Hai tuần có vẻ phù hợp hơn, Robert. Anh chỉ nhầm thôi chứ anh không định nói dối tôi, phải không?
- Đúng vậy.
- Anh quên là hai tháng trước anh không làm việc ở đâu cả vì anh đang ở trong nhà giam của hạt vì tội quấy rối.
Robert lại nhún vai.
- Rõ ràng rồi đó, Robert. Anh đã vượt đèn đỏ và trong xe chở con người đó.
- Nhưng đó không phải là lỗi của tôi.
- Vậy à.
- Đúng là như vậy đấy, thưa ông.
- Thế ra anh đã nhận tội thay cho ai đó à?
- Đúng.
- Anh quả là người tốt, người anh hùng thực sự đấy nhỉ.
Gabray lại nhún vai, tay đưa lên gãi gãi cái đầu hói.
- Anh ngứa à?
- Không, không sao.
- Anh không bị lạnh vì thèm thuốc đấy chứ?
- Không, thưa ông.
Milo nhìn tôi:
- Anh Robert đây vừa hoà chất bột và chất lỏng như một nhà hoá học nghiệp dư đấy. Co phải vậy không Robert?
Lại nhún vai.
- Anh làm việc ban ngày à?
Robert lại lắc đầu.
- Viên cảnh sát hỏi cung anh có biết anh làm việc ở đây không?
- Tại sao tôi lại không làm ở đây được?
Milo tiến lại gần hơn và mỉm cười lặng lẽ:
- Bởi vì anh nên tránh những ảnh hưởng không tốt và những người trong kia không có gì là tốt đẹp đâu.
Gabray cắn môi nhìn xuống:
- Ai nói với ông là tôi làm ở đây?
Milo nói:
- Tôi không thể trả lời câu hỏi đó.
- Có phải con chó đẻ đó không?
- Chó đẻ nào?
- Ông biết mà.
- Làm sao tôi biết được?
- Chắc hẳn ông phải biết mụ ta thì ông mới tìm được tôi ở đây chứ?
- Anh giận cô ấy lắm phải không?
- Hừ...
- Không à?
- Tôi chỉ không phát điên thôi.
- Không phát điên thì làm sao?
- Không sao thưa ông.
- Thế anh định trả thù à?
Gabray nói:
- Tôi có thể hút thuốc được không?
- Cô ta bảo lãnh cho anh. Và đối với tôi thì hành động đó rất đáng ghi nhận - Milo nói.
- Tôi sẽ lấy cô ta. Tôi có thể hút thuốc không?
- Chắc chắn rồi, anh là người tự do mà, ít nhất là đến lúc anh bị kết án. Và tự do vì con chó đẻ đó trả tiền bảo lãnh cho anh.
Gabray rút một bao Kools ra khỏi túi quần, Milo đã bật sẵn lửa.
- Thế ba tháng trước anh ở đâu Robert?
Robert hút thuốc với ánh mắt thờ ơ.
- Một tháng trước khi anh bị bắt ấy. Đó là tháng Ba.
- Ông muốn biết gì, thưa ông?
- Hãng cầm đồ Mayan.
Gabray hút thuốc và nhìn lên trời.
- Còn nhớ không, Robert?
- Cái gì cơ?
- Cái này - Milo lấy thứ gì đó trong túi áo sơ-mi ra. Đó là một chiếc bút bật lửa và một tấm ảnh màu. Anh giương tấm hình ra trước mắt Gabray và soi đèn. Tôi bước ra phía sau Gabray và nhìn qua vai anh ta.
Cùng một khuôn mặt như trong tấm hình chụp nhanh mà Murtaughs đã cho tôi xem. Trán người đó hẹp đến nỗi có cảm tưởng như nó không đủ để chứa bộ não ở trong. Trên da đầu chỉ còn một búi tóc pha giữa màu đen và đỏ. Màu da như màu vỏ trứng. Người đó đeo một chiếc vòng cổ cũng như màu đen và đỏ như màu tóc, đôi mắt đỏ tía như trứng đánh rượu.
Gabray hỏi:
- Thế là sao?
- Còn nhớ cô ta không?
- Tôi ư?
- Tên cô ta là Dawn Herbert. Cô ta bị sát hại gần hiệu cầm đồ Mayan và anh đã từng nói với cảnh sát là anh nhìn thấy cô ta cùng với một vài gã đàn ông khác.
Gabray nhướng mày và cười nhẹ:
- Chuyện chỉ có thế thôi sao? Vâng, có thể là tôi đã nói với họ như thế.
- Có thể ư?
- Vâng, đã lâu lắm rồi thưa ông.
- Ba tháng.
- Đó là khoảng thời gian dài, thưa ông.
Milo tiến gần hơn đến chỗ Gabray và nhìn trừng trừng gã đàn ông không hề nhỏ hơn anh.
- Anh có giúp chúng tôi chuyện này hay không? - Milo hăm doạ và phe phẩy tấm hình trước mặt Gabray.
- Thế có chuyện gì đã xảy ra với mấy tay cớm kia à? Tôi nghĩ một trong số họ là tay tống tiền.
- Họ đã nghỉ hưu sớm rồi.
Gabray cười:
- Ở đâu? Ở Tia Wanna à?
- Hãy nói chuyện với tôi đi, Robert.
- Tôi không biết gì cả.
- Anh nhìn thấy cô ta cùng với một gã đàn ông?
Nhún vai.
- Thế anh đã nói dối những cảnh sát tội nghiệp, tận tuỵ với công việc đó à?
- Tôi ư? Không bao giờ.
- Cho tôi biết những gì anh đã nói với họ.
- Thế họ không ghi cuộc nói chuyện đó lại hay sao?
- Dù sao thì tôi cũng muốn anh nói lại cho tôi nghe.
- Lâu lắm rồi.
- Ba tháng.
- Đó là khoảng thời gian dài, thưa ông.
- Có thể thế. Tổng số là chín mươi ngày và tôi nghĩ thế này: Trí nhớ của anh dù có tồi tệ đến đâu thì cũng có thể nhớ được mọi chuyện xảy ra cách đây thậm chí đến cả chín tháng.
Gabray nhìn tấm ảnh rồi quay đi và lại hút thuốc.
- Đó không phải là tôi.
Milo cười:
- Đó có phải là sự chống chế của anh không?
Gabray cau mày vo vo điếu thuốc và hút:
- Ông nói ông có thể giúp tôi phải không?
- Điều đó còn tuỳ thuộc và anh.
- Tôi đã nhìn thấy cô ta.
- Với một người đàn ông?
Gật đầu.
- Kể cho tôi nghe toàn bộ câu chuyện đi Robert.
- Chỉ có vậy thôi.
- Hãy kể như một câu chuyện có mở đầu có kết thúc.
Gabray cười khẩy:
- Ồ được thôi. Một hôm... tôi nhìn thấy cô ta cùng với một người đàn ông. Hết.
- Ở trong câu lạc bộ?
- Ở ngoài.
- Chỗ nào ở ngoài?
- Cách đó khoảng một dãy nhà.
- Đó là lần duy nhất anh nhìn thấy cô ta?
Gabray trầm ngâm:
-Có thể tôi có nhìn thấy cô ta một lần nữa ở trong câu lạc bộ.
- Cô ta có thường xuyên đến đó không?
- Tôi cũng không rõ.
Milo thở dài và vỗ vai người phục vụ.
Gabray chùn vai mỗi lần Milo vỗ vào anh ta.
- Robert ơi là Robert.
Mỗi lần nghe gọi đến tên mình, Robert lại giật mình đánh thót một cái:
- Chuyện gì vậy?
- Đó không giống như một câu chuyện chút nào.
Gabray châm một điếu thuốc khác. Anh ta chờ Milo châm lửa cho nhưng khi thấy Milo không đưa bật lửa ra, anh ta lấy bao diêm trong túi và tự châm cho mình.
- Tôi có nhìn thấy cô ta một lần nữa. Vậy thôi, tôi mới chỉ làm việc ở đây có vài tuần.
- Anh có gặp khó khăn để duy trì công việc ở đây không, Robert?
- Tôi thích di chuyển.
- Quả là con người thích ngao du.
- Thế nào cũng được.
- Hai lần đến câu lạc bộ trong vài tuần. Có vẻ cô ta cũng thích chỗ đó.
- Mẹ kiếp! Tất cả bọn họ chỉ đến chơi bời đàn đúm rồi cuốn gói lên xe của mình.
- Dawn Herbert xuất hiện ở đây như một người giàu có?
- Tất cả bọn họ đều như vậy, thưa ông.
- Anh đã bao giờ nói chuyện với cô ta chưa?
Có vẻ gì đó hoảng hốt trong con mắt người đứng quầy bar:
- Không, tôi nói tôi chỉ nhìn thấy cô ta một hai lần gì đó thôi. Tôi không thân quen cô ta. Tôi cũng chẳng liên quan gì đến cô ta và chuyện đó cả.
- Anh có chắc không?
- Chắc chắn rồi, đó đâu phải là chuyện của tôi.
- Thế anh nhìn thấy cô ta cùng với một người đàn ông như thế nào?
- Như tôi đã nói, có một lần tôi đang hút thuốc và có một lần tôi đi lấy thuốc lá thì nhìn thấy cô ta. Lý do duy nhất mà tôi nhớ đó là người đàn ông. Ông ta không phải là một trong số họ.
- Trong số những người nào?
- Những tay chơi bời. Cô ta là người như vậy nhưng ông ta thì không. Ông ta dường như khác hẳn.
- Khác hẳn thế nào?
- Nghiêm nghị.
- Ông ta là doanh nhân à?
- Không.
- Thế thì là cái gì?
Gabray nhún vai không nói gì.
- Ông ta có mặc com-lê không?
Gabray rít mạnh điếu thuốc và nói:
- Không, ông ấy mặc gần giống như ông hôm nay, áo jacket của hãng Sears Roebuck.
- Ông ta có mặc áo gió à?
- Vâng.
- Màu gì?
- Tôi nghĩ là màu đen, lâu rồi.
- Thế ông ta còn mặc những gì nữa?
- Quần, giầy. Trông ông ta cũng như ông hôm nay vậy.
- Giống thế nào?
- Tôi không rõ.
- To cao chắc chắn?
- Vâng.
- Cùng tầm tuổi với tôi?
- Vâng.
- Cũng cao như tôi?
- Vâng.
- Màu tóc giống tôi?
- Vâng.
- Anh có hai "chim" à?
- Hả?
- Hãy thôi ngay cái trò vớ vẩn của anh đi. Tóc ông ta thế nào?
- Ngắn.
- Hói hay không hói?
Gabray cau mày sờ lên đầu mình nói miễn cưỡng:
- Ông ta có tóc.
- Ông ta có để râu hoặc ria không?
- Tôi không rõ, lúc đó tôi ở xa quá.
- Nhưng anh không nhớ chút gì về nét mặt ông ta à?
- Không.
- Ông ta khoảng bao nhiêu tuổi?
- Tôi không rõ, khoảng bốn mươi, năm mươi gì đó.
- Anh mới hai mươi chín tuổi và ông ta già hơn anh rất nhiều?
- Tôi hai mươi tám, tháng tới tôi mới sang tuổi hai mươi chín.
- Chúc mừng sinh nhật. Ông ta có già hơn anh không?
- Già hơn rất nhiều.
- Có đáng tuổi cha anh không?
- Có thể.
- Có thể sao?
- Không, ông ta không già đến thế, chỉ tầm bốn mươi hoặc bốn mươi lăm thôi.
- Tóc ông ta màu gì?
- Tôi không rõ, hình như màu nâu thì phải.
- Có chắc không?
- Có thể.
- Nâu nhạt hay nâu đậm?
- Tôi không rõ, lúc đó là ban đêm mà.
- Thế còn tóc của cô ta màu gì?
- Ông có ảnh ở đó rồi còn gì?
Milo chìa tấm ảnh ra cho anh ta xem và hỏi:
- Trông cô ta có giống như trong bức ảnh này không?
Gabray ngả người ra và liếm môi:
- Ơ... tóc của cô ta khác.
- Chắc chắn rồi. Lúc này đầu cô ta đâu có bị làm gì.
- Không. Tôi muốn nói màu tóc cơ. Tóc cô ta màu vàng, vàng thực sự như lòng trứng vậy. Ông rất dễ nhận ra dưới ánh sáng.
- Cô ta đứng dưới ánh sáng à?
- Vâng, tôi nghĩ thế. Hai người họ đứng dưới ánh đèn đường một thoáng và khi họ nghe thấy tiếng tôi đến thì họ tách ra.
- Anh không nói với các cảnh sát khác về chuyện ánh sáng?
- Họ không hỏi.
Milo cất bức ảnh đi. Gabray hút thuốc và nhìn đi nơi khác.
Milo hỏi tiếp:
- Cô Herbert và người đàn ông đẹp trai này làm gì dưới ánh sáng?
- Họ nói chuyện.
- Tóc của ông ta màu vàng à?
- Tôi nói với ông là tóc của cô ta mới màu vàng, ông có thể nhận ra được mà. Màu nó giống như màu vỏ chuối - Gabray bật cười trong họng.
- Còn tóc của ông ta màu nâu?
- Đúng vậy. Nếu điều quan trọng thì sao ông không ghi lại?
- Anh còn nhớ gì về ông ta không, Robert?
- Vậy thôi.
- Trạc tuổi trung niên, áo gió màu đen, tóc nâu đen. Như thế chưa đủ để trao đổi, Robert.
- Tôi đã kể cho ông những gì tôi thấy.
Milo quay sang nhìn tôi:
- Chúng ta đã cố giúp anh ta rồi.
Người trông quầy bar hỏi lại:
- Phải chăng ông đã bắt được kẻ nào đó?
Milo không quay lại và hỏi:
- Anh muốn nói gì?
- Muốn nói một gã tội phạm nào đó. Tôi không muốn nói với ông chuyện gì để rồi bị kẻ tội phạm nào đó tìm giết.
- Anh chưa nói gì nhiều với tôi cả, Robert ạ.
- Phải chăng ông đã bắt được một kẻ phạm tội?
Milo từ từ quay mặt về phía anh ta.
- Kẻ mà tôi bắt được chính là anh đấy, Robert ạ. Anh đang cố quanh co, lừa dối tôi, cố gắng che đậy những bằng chứng về cái gã anh đã chở trên xe. Tôi cứ nghĩ là sáu tháng - hoá ra lại không phải, anh nói với tôi toàn chuyện cách đây cả năm rồi.
Gabray chìa tay ra:
- Tôi chỉ không muốn có kẻ bám theo để giết tôi thôi. Người đàn ông này đúng là...
- Là gì?
Gabray im lặng.
- Người đàn ông ấy là gì, Robert?
- Một kẻ phạm tội - được chưa? Trông gã ta có vẻ nghiêm trọng. Một kẻ tàn nhẫn.
- Anh có thể nhận ra điều đó từ xa?
- Tôi có thể nhận ra điều đó. Cách ông ta đứng... giầy của ông ta cũng to và cũ như giầy của ông đang mang hôm nay.
- Anh có thể nhìn thấy giầy của ông ta sao?
- Không rõ lắm nhưng giầy của ông ta to, tôi chưa từng thấy đôi giầy nào to như thế bao giờ. Ông muốn gì ở tôi, tôi đang sẵn sàng giúp các ông đây.
- Đừng lo Robert. Hiện tôi chưa hề bắt giam ai cả.
-Chuyện gì xảy ra nếu như... - Gabray ấp úng.
- Nếu như cái gì?
- Nếu như tôi nói cho ông nghe và có thể ông bắt giữ ông ta. Nhưng biết đâu ông ta lại được thả ra khỏi nhà tù và tìm đến giết tôi thì sao?
Milo lại đưa tấm hình ra:
- Hãy nhìn xem ông ta đã làm gì, Robert. Chúng tôi có nên để ông ta tự do không?
- Điều đó chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi cả. Tôi không tin vào ngành của các ông.
- Vì sao?
- Vâng, tôi đã chứng kiến nhiều quý ông làm những điều tồi tệ mà vẫn nhởn nhơ bên ngoài đó thôi.
- Đừng bi quan quá, Robert. Một khi chúng tôi tìm thấy ông ta thì ông ta sẽ không trốn được nữa. Anh giúp chúng tôi tìm ra ông ta, anh cũng sẽ được tự do.
Gabray vẫn hút thuốc và chau mày.
- Thế nào, Robert?
- Tôi đang suy nghĩ.
- Ồ vậy thì ta nên giữ im lặng một lát nhỉ - Milo nói với tôi.
Robert nói tiếp:
- Tôi có nhìn thấy mặt của ông ta nhưng chỉ thoáng qua thôi.
- Thế hả? Ông ta có giận dữ hay có thái độ gì à?
- Không, chỉ nói chuyện với cô ta thôi.
- Thế cô ta làm gì?
- Nghe tôi nói đây. Lúc tôi nhìn thấy họ, tôi nghĩ: con điếm này lại nghe cái lão mặt lúc nào cũng nghiêm nghị kia nói chuyện thì thật vô lý quá.
- Gã trông giống như là tội phạm kia mà.
- Đúng thế, nhưng cũng vẫn không hợp cảnh. Tất cả những gì người ta có thể nhìn thấy lúc đó là những kẻ quái đản, bọn buôn ma tuý và cớm. Lúc đầu tôi nghĩ ông ta là một tay cớm nhưng sau đó tôi nhận ra lão ta đúng là một tên tội phạm.
- Họ nói về chuyện gì?
- Tôi không nghe rõ thưa ông, lúc đó...
- Ông ta có cầm cái gì đó không?
- Ví dụ như?
- Gì đó chẳng hạn.
- Ý ông là muốn nói cái gì có thể đánh cô ta phải không? Tôi không nhìn thấy gì ả. Ông cho rằng chính ông ta giết cô gái?
- Mặt ông ta như thế nào?
- Mặt hình chữ nhật... À không, hơi vuông - Gabray đưa điếu thuốc lên miệng và làm động tác miêu tả khuôn mặt của người đàn ông.
- Nước da ông ấy thế nào?
- Ông ấy da trắng.
- Có xanh xao hay ngăm đen không?
- Tôi không rõ, có lẽ là người da trắng.
- Cùng màu da với cô ta?
- Cô ta trang điểm nhưng có vẻ ông ta không trắng bằng cô ta.
- Mặt ông ta màu gì?
- Lúc đó tôi ở quá xa để có thể nhận ra điều đó, thưa ông.
- Bao xa?
- Tôi không rõ, khoảng một nửa dãy nhà.
- Thế mà anh có thể nhận ra giầy của ông ta?
- Có thể gần hơn... Tôi nhận ra giầy của ông ta nhưng không nhận ra màu mắt của ông ta.
- Ông ta cao bao nhiêu?
- Cao hơn cô ta.
- Có cao hơn anh không?
- Có thể nhưng không nhiều.
- Anh cao bao nhiêu?
- 1,75 mét.
- Vậy thì ông ta cao khoảng 1 mét 78 hay 1 mét 80 phải không?
- Khoảng đó.
- Ông ta có to lớn không?
- Có, nhưng không béo lắm, ông biết đấy.
- Nếu tôi biết thì tôi đã không làm phiền anh.
- Trông ông ta to khoẻ như dân lao động vậy.
- Có cơ bắp không?
- Có.
- Liệu anh có nhận ra ông ta nếu gặp lại không?
- Tất nhiên rồi. Tôi có trí nhớ tốt. Không tin ông cứ đưa ông ta vào một hàng người, tôi vẫn nhận ra.
- Anh thúc giục tôi à, Robert?
Gabray cười nhún vai:
- Chỉ quan tâm đến việc đó thôi.
Milo nói:
- Vậy thì hãy quan tâm đến người này xem sao.
Chúng tôi đưa Gabray đi qua một khu đất phía sau đầy mẩu cao su ở phía đông ngôi nhà và vòng ra đường. Đám đông ở phía trước ngôi nhà vẫn còn đó. Lần này thì gã thanh niên gác cửa nhận ra chúng tôi khi chúng tôi đi qua.
Gabray lí nhí câu nói tục gì đó với gã thanh niên.
Milo hỏi:
- Gã đàn ông ấy có to bằng James không?
- Không, không.
Milo đẩy anh ta lên phía trước và vẫn tiếp tục hỏi trong suốt quãng đường đến chỗ xe của chúng tôi.
- Xe đẹp quá nhỉ. Ông tịch thu được nó à? - Gabray hỏi khi chúng tôi đi đến chỗ chiếc Seville.
- Không, bằng lao động đấy. Đúng như nguyên tắc cổ của người theo đạo Tin lành.
- Tôi là người theo đạo Thiên chúa. Tôi cũng từng theo đạo Tin lành nhưng tất cả các loại tôn giáo đó chỉ là chuyện phù phiếm.
Milo nói:
- Đủ rồi Robert, lên xe đi.
Anh mở cửa xe và hai người cùng ngồi vào ghế sau, cửa sau vẫn mở cho sáng. Tôi đứng ở ngoài và quan sát anh mở chiếc vali trong đó có cuốn sách ghi Indentikit. Milo cho Gabray xem các mảnh ghép hình mặt người ở trong. Gabray chọn một số cái và đặt chúng lại với nhau. Khi anh ta hoàn thành công việc thì khuôn mặt của một người Cáp-ca điển trai hiện lên.
Milo nhìn kỹ khuôn mặt, viết cái gì đó và yêu cầu Gabray đánh dấu một vài điểm trên bản đồ thành phố. Sau vài câu hỏi, hai người ra khỏi xe.
- Xong chưa thưa ông?
- Hôm nay thì xong, Robert. Tôi không muốn nhắc anh điều này nhưng anh không nên đổi địa chỉ. Hãy ở nơi tôi có thể tìm anh.
- Không có gì - Gabray nói và bước đi.
Milo khoác vai anh ta và nói:
- Tôi sẽ viết ba lá thư, một lá cho viên cảnh sát cai quản anh nói anh đang làm việc ở đây mà không nói với ông ta, một lá cho ông Farizad và những người bạn của ông ta nói anh tố cáo họ và lá thứ ba cho cơ quan thu thuế địa phương nói anh đã nhận rất nhiều tiền mà không khai báo nộp thuế.
Gabray nhăn mặt vặn mình:
- Ôi... ông...!
- Và một bản báo cáo tới công tố viên về những tật xấu của anh, cho họ biết anh đã cản trở, không hợp tác. Tôi không thích viết thư chút nào, Robert, nhưng để quan tâm đến anh thì tôi không những sẽ viết mà còn đích thân đưa tận tay họ. Nếu anh biết điều thì tôi sẽ xé chúng đi, anh hiểu không?
- Ôi, làm thế thì thật ác độc. Tôi đã thành thực mà.
- Không sao, anh nên tự biết cách xử sự, Robert.
- Vâng, chắc chắn rồi.
- Anh sẽ thực hiện chứ?
- Vâng, vâng. Tôi có thể đi được chưa? Tôi phải làm việc.
- Anh có nghe tôi không đó, Robert?
- Tôi nghe rồi thưa ông. Không thay đổi địa chỉ, làm tay do thám bẩn thỉu, không hé răng, không có ý đồ xấu gì. Tôi có thể đi được chưa?
- Còn một điều nữa, Robert, đó là người đàn bà của anh.
- Ồ, vâng, cô ấy thì sao? - Giọng của Gabray nặng trịch vẻ thất vọng.
- Cô ta chuồn rồi. Đừng nghĩ đến chuyện bám theo cô ta. Và quan trọng là không được làm tổn thương cô ta vì cô ta đã nói chuyện với tôi nếu không tôi sẽ lập tức đến tìm anh và anh cũng chẳng có gì để phàn nàn kêu ca với cô ta cả.
Mắt của Gabray mở trừng trừng:
- Chuồn rồi à? - Ý ông là gì?
- Chuồn rồi, Robert. Cô ta muốn thoát khỏi anh.
Milo tiếp:
- Lúc tôi đến nói chuyện với cô ta thì cô ta đang chuẩn bị hành lý. Cô ta có vẻ khá sợ hãi vì anh đấy.
Gabray không nói gì.
- Cô ấy chịu đựng thế là đủ rồi đó, Robert.
Gabray vứt mẩu thuốc lá xuống chân và di nát:
- Cô ta nói dối. Con chó đẻ đáng ghét.
- Cô ta bảo lãnh cho anh mà.
- Cô ta nợ tôi, cô ta vẫn còn nợ tôi.
- Bỏ qua chuyện đó đi. Robert, hãy nghĩ về những bức thư.
- Vâng, tôi biết chuyện đó rồi. Tôi biết sống như thế nào mà.