Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành
Chương 186: Thiên hạ náo nhiệt
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
Phí Vô Cực nói: "Cơ Quang ở Dĩnh Đô ta gây nhiều việc ác, phàm là người nước Sở, ai cũng nghiến răng thống hận, các đội quân cần vương từ các nơi đang lần lượt tới rồi, chờ đại quân tập hợp, tất sẽ thề sống chết một trận chiến, đuổi bọn giặc Ngô. Điện hạ cùng người Sở ta cùng chung mối thù, cũng có đại cừu hận với Hạp Lư, có một số việc, ta cũng không cần phải giấu diếm ngài. Thái hậu của quốc vương nước Sở ta là trưởng công chúa của nước Tần, trước khi lão phu bảo hộ Đại vương tới tránh ở Cửu Phượng cốc, đã điều đại phu Thân Bao Tư sang nước Tần cầu viện, nếu nước Tần chịu xuất binh tương trợ, hợp với lực lượng quân Sở, cũng đủ để đuổi đi quân Ngô. Nay lại kết minh với công tử, lại càng thêm nhiều viện trợ, chỉ có điều không biết đại quân của công tử khi nào thì có thể tới Sở quốc?"
Khánh Kỵ thầm nghĩ, Phí Vô Cực nói tin tức hắn sai sứ sang Tần cầu viện binh, là muốn tăng thêm cân lượng, tranh thủ thêm được nhiều lợi ích, chỉ có điều không biết hắn muốn nhiều ít bao nhiêu. Nang Ngõa, Phí Vô Cực, Yên Tương Sư ba người, đều nổi danh lòng tham không đáy, nếu là đòi ưu đãi cho cá nhân thì chẳng sao cả, chỉ sợ là có thêm yêu cầu về đất đai lãnh thổ, thì đó là vô cùng khó xử.
Khánh Kỵ đề khởi tinh thần, cẩn thận nói: "Không dối gạt Phí thiếu phó, Khánh Kỵ trước khi tới đây, cũng đã có chuẩn bị, sớm ấn định cho dù có tương trợ cho nước Sở hay không, đều phải tháng ba năm sau xuất binh phạt Ngô. Nay đã kết minh với nước Sở, ngày xuất binh đương nhiên càng sớm càng tốt, chỉ cần chính thức kí kết minh ước với Sở vương, có được ấn tỷ (đóng dấu) của Sở vương, Khánh Kỵ lập tức sẽ sai người điều binh, trong vòng hai mươi ngày, đại quân tiên phong của ta sẽ tới trước mặt thiếu phó."
" Tốt!" Phí Vô Cực ánh mắt sáng ngời, người Tần có chịu xuất binh hay không, trong lòng hắn thực không nắm chắc, hiện giờ đã có Khánh Kỵ tự mình đưa đến cửa, hắn cũng sẽ không nguyện ý cự tuyệt sự giúp đỡ cường đại này ngoài cửa, hai người đều có mưu mô, hắn lại hỏi: "Hai quân kết minh, kề vai chiến đấu, cũng cần phải có một vài hiệu lệnh thống nhất, cùng tiến cùng lui, thống nhất quản lí. Nếu không có sự chi phối, sẽ không khác gì năm bè bảy mảng. Tới khi... đại quân song phương hội hợp, ai sẽ là chủ soái thống lãnh toàn quân?"
Khánh Kỵ mỉm cười, thong dong đáp: "Khánh Kỵ mang danh vũ dũng, có điều do thân là vương tử Ngô quốc, nên những thủ hạ cứ cố tình thổi phồng ra mà thôi. Còn nữa, một kẻ vũ dũng cũng không nhất định có thể làm Thống soái ba quân, đã tác chiến ở nước Sở, đương nhiên phải lấy quân Sở làm chính. Về phần chọn người nào làm Thống soái ba quân, Khánh Kỵ nghe theo an bài của Sở Vương điện hạ."
Phí Vô Cực âm thầm thở phào nhẹ nhõm, danh vũ dũng của Khánh Kỵ truyền khắp thiên hạ, chính mình xưa nay cũng không sở trường về chính trị, nếu để Khánh Kỵ đảm nhận Thống soái toàn quân, đó cũng là điều mọi người hướng tới, có điều công lao của mình lại vơi đi phân nửa. Hắn muốn nghe theo an bài của Sở Vương, he he... Về phía Sở Vương còn không phải do tự ta định đoạt hay sao.
Nghĩ đến đó, trên khuôn mặt Phí Vô Cực lộ ra vẻ vui vẻ, trước tiên giải quyết ích lợi cá nhân, sau đó hắn mới bắt đầu suy nghĩ chỗ tốt cho nước Sở, trầm ngâm một lát rồi nói: "Đã kết minh, đương nhiên phải cùng tiến cùng lui, trợ giúp lẫn nhau. Chỉ có điều... Một khi đuổi quân Ngô ra khỏi biên giới, quân Sở ta có còn phải nhận nghĩa vụ trợ giúp điện hạ phục quốc không?"
Khánh Kỵ xúc động nói: "Điều này cũng không nhất định, có thể đánh bại quân Ngô, khiến cho danh vọng của Cơ Quang bị đè xuống, mất đi quân uy, đối với Khánh Kỵ mà nói, đã là một sự trợ giúp rất lớn. Nếu có một đội quân nhân nghĩa của nước Sở tương trợ phục quốc, đương nhiên là chuyện tốt cầu còn không được. Có điều trong lòng Khánh Kỵ cũng hiểu được, Ngô Sở bởi vì những năm qua tranh giành đất đai, lẫn nhau có nhiều khúc mắc, trên chiến trường chém giết giữa các sĩ tốt khó tránh khỏi kết thù kết oán, nếu cưỡng ép quân Sở giúp ta phạt Ngô, chỉ sợ các tướng sĩ cũng sẽ không hết mình. Còn nữa, phía Sở nếu chịu cắt quân trợ giúp, chỉ sợ các tiểu quốc phụ thuộc cũng sẽ rục rịch, lại cần đại quân trấn áp, mượn quân Sở mà phục nước Ngô... Khánh Kỵ sẽ không đề ra yêu cầu quá mức này."
"Ồ..." Một khi đuổi được Cơ Quang khỏi biên giới, điều Phí Vô Cực để ý chỉ là giúp Sở Vương về Dĩnh Đô, mượn danh Sở Vương phong thưởng bốn phương, khiến cho những thân tín của mình đều thay thế cho người của Nang Ngõa, từ lão Nhị nhảy lên thành lão Đại, nếm thử hương vị nở mày nở mặt. Giúp Khánh Kỵ phạt Ngô, cũng không có chỗ tốt nào, hắn cũng không muốn bị chuyện này ước thúc, nhỡ đâu chiến trận phạt Ngô kéo dài, chẳng phải cũng sẽ kéo theo mình mắc cùng một chỗ sao. Nếu Khánh Kỵ chỉ cần hắn ở trong biên giới Sở quốc mạnh mẽ đả kích lực lượng của Cơ Quang, vậy thì dễ dàng đồng ý rồi.
Khóe miệng Phí Vô Cực lộ ra một tia cười giả dối, nói: "Bốn đáp án này của điện hạ, rất hợp ý Phí mỗ, vẫn còn một chuyện cuối cùng muốn nói với điện hạ. Ngô Sở hai nước, mỗi bên chiếm cứ một phương, vốn bình an vô sự, chỉ có điều dân cư gia tăng, thành quách mở rộng, đồng ruộng rừng dâu cũng phải theo đó mà mở rộng, vốn ở giữa hai nước có những vùng hoang dã mênh mông không người ở, hiện giờ lại trở thành nơi bị tranh đoạt, thường xuyên xảy ra khiêu khích tranh chấp, chiến sự Ngô Sở hai nước, vốn là từ đó mà ra. Điện hạ nếu phục Ngô quốc, làm quân chủ Ngô quốc, sau này khi thứ dân hai nước lại nổi lên tranh chấp, thân là Ngô quốc Đại vương, điện hạ đương nhiên sẽ vì người nước Ngô mà phân xử, không thể để giữa Ngô và Sở lại nổi lên phân tranh. Hiện giờ điện hạ đã muốn kết minh với Sở quốc ta, chúng ta có nên nhân cơ hội này, phân chia rõ ràng vùng biên giới đang vướng mắc giữa hai nước hay không? Từ nay về sau hai nước hữu hảo, bình an vô sự, chẳng phải tốt sao?"
Khánh Kỵ hơi hơi trầm ngâm, hỏi: "Lời của thiếu phó rất đúng, chỉ có điều... Phân tranh biên giới hai nước đã tồn tại rất lâu, đúng đúng sai sai khó phân biệt, không biết theo thiếu phó thấy, những rừng núi ruộng đất vốn không rõ sở hữu bên nào, phải phân chia như thế nào đây?"
Phí Vô Cực cười nói: "Đang muốn thương lượng với điện hạ."
Hắn rút kiếm ra, lưỡi kiếm chống xuống đất, hơi hơi suy tư một lát, liền nhanh chóng vẽ ra trên mặt đất một bản đồ xen kẽ, Khánh Kỵ thấy bản đồ đó, không khỏi thầm cả kinh, trong ấn tượng của hắn vẫn nghĩ rằng Phí Vô Cực đại gian thần này hoàn toàn là vuốt mông ngựa của Sở Vương và Lệnh Duẫn Nang Ngõa mới có thể có được quyền vị hôm nay, không thể tưởng được người này hóa ra cũng không phải chỉ là một thần tử a dua, hắn nếu không có chí lớn, quyết không thể nhớ được rõ ràng tỉ mỉ địa hình phức tạp của biên giới Ngô Sở như vậy ở trong đầu, Phí Vô Cực này, hóa ra cũng có chút bản lĩnh.
"Điện hạ mời xem, Hà Điền, Đào Hoa Trùng, Vụ Nguyên, Bình Hương..., những khu này, từ trước khi Vũ Vương điện hạ Sở quốc ta xưng vương, vào thời điểm tổ tiên họ Hùng vẫn còn là tử tước, đã có những người dân nước Sở đầu tiên của chúng ta khai hoang làm ruộng nơi đây, thành lập thành trấn, cách nay đã gần năm trăm năm lịch sử. Những địa phương đó, từ xưa đã có người Sở ta sinh sống, cư trú, là một bộ phận không thể phân tách khỏi ranh giới nước Sở, có điều nước Sở ta đối với khu vực này lại không thể tranh cãi được chủ quyền, hy vọng điện hạ sau khi phục quốc, có thể trả những lãnh thổ mà nước Ngô đang giữ lại cho quốc gia của ta, giải quyết những phân tranh nọ kia, Ngô Sở hai nước mới có thể thành hai nước huynh đệ, thiên thu muôn đời, vĩnh viễn kết tình hữu hảo."
Chuyện khác đều có thể đáp ứng, chỉ có chuyện cắt đất chia đất, mặc kệ là lí do đường hoàng đến đâu, cũng tuyệt đối là một kẻ bại gia tử trong mắt tổ tông, kẻ bất lực trong mắt người đương thời. Khánh Kỵ nếu vừa mới phục quốc đã đem những vùng đất phì nhiêu này cho nước Sở, ở trong mắt người Ngô mình chẳng phải là một kẻ tiểu nhân vô sỉ bán đứng giang sơn tổ tông để đổi lấy vinh hoa bản thân hay sao, hắn sao có thể đáp ứng yêu cầu của Phí Vô Cực.
Khánh Kỵ khi đến Sở tranh thủ kết minh, cũng không tránh khỏi có nghĩ qua phải làm một chút hi sinh nhượng bộ, bởi vì có vài nơi, vốn quả thật không thể nói rõ là ranh giới của ai, mặc kệ là khảo chứng kĩ càng đến đâu, cùng lắm cũng chỉ chiếm được một chút thanh danh đạo nghĩa, còn thực tế nắm quyền những nơi đó, vĩnh viễn đều phải dựa vào thực lực quân sự để nói chuyện.
Những khu này trong những năm gần đây song phương tranh đoạt, ngươi tới ta đi, ta tiến ngươi lui, dần dần hình thành một thế lực phân bố kiểu cài răng lược, rất nhiều khu vốn dĩ là do người Sở nắm giữ. Khánh Kỵ hiện giờ không có tấc đất nào thuộc về mình, thực lực hữu hạn, càng thêm lo lắng tình huống thực tế. Muốn trở thành một chính trị gia thành thục, phải suy xét đánh giá về thực lực chân chính của địch thủ, cân nhắc về lâu dài giữa hai bên, toàn bộ ích lợi được mất, mà sẽ không bởi vì một vài câu khẩu hiệu hay hô hào của dân chúng mà đưa ra quyết định trên chính trị. Những tiểu dân này đứng trên góc độ của bọn họ, cũng không biết chân tướng đứng sau màn, chỉ biết dựa vào một bụng khí phách mà nói ba hoa chích choè thôi, cũng chẳng có khả năng làm nên cái gì thực tế. Nhưng mà hiện giờ Sở quốc Dĩnh Đô đã bị quân Ngô chiếm lĩnh, hành động của Cơ Quang gây nên ở Dĩnh Đô, đã kết một mối thù khó giải với người nước Sở, người Sở nhất định phải có một trận chiến với Cơ Quang, dưới tình hình như vậy, Khánh Kỵ đương nhiên sẽ không nhượng bộ quá mức.
Khánh Kỵ lập tức chỉ vào những mảnh đất trên bản đồ mà hai bên vẫn đang đan xen nhau, nói: "Lời ấy của Phí thiếu phó sai rồi, từ cuối triều nhà Thương, Tây Kỳ Chu Thái Vương có con trai cả là Thái Bá, con thứ là Trọng Ung cùng con thứ ba Quý Lịch. Con của Quý Lịch là Cơ Xương, cũng chính là Chu Văn Vương sau này, sớm thông minh trí tuệ, rất được Thái Vương sủng ái. Chu Thái Vương muốn truyền ngôi cho Xương, nhưng mà theo lễ pháp phải truyền ngôi cho con cả, Thái Vương bởi vậy mà buồn bực không vui. Thái Bá sau khi hiểu được ý tứ của phụ thân, liền cùng nhị đệ Trọng Ung lấy cớ đi hái thuốc cho cha cùng nhau đi vào Ngô quốc hiện nay, tự lập cơ nghiệp, thành lập nước cổ Câu Ngô. Sau khi nhà Thương diệt vong, Chu triều thành lập, Vũ Vương phong cháu thứ ba của Thái Bá là Chu Chương làm hầu, sửa quốc hiệu lại thành Ngô.
Mà Sở quốc tiên quân Hùng Dịch, lại là sau khi Chu triều thiên hạ thành lập, sau khi con của Vũ Vương lên kế vị, mới lấy thân phận tử tước tới Kinh Sở lập quốc. Lúc ban đầu lãnh thổ Sở có được không quá trăm dặm, cho đến sau này, mới dần dần lớn mạnh, có được quốc thổ rộng lớn hiện giờ. Ngô quốc ta thời gian thành lập còn sớm hơn Chu triều, dấu chân của người Ngô đã sớm bước qua những khu vực theo như lời Phí thiếu phó vừa nói, nếu truy theo nguồn gốc, những địa phương này toàn bộ đều vốn là của Ngô quốc ta."
Phí Vô Cực không vui nói: "Lời đó của điện hạ không khỏi cưỡng từ đoạt lý, Ngô quốc lập quốc mặc dù sớm, nhưng lúc đó người nước Ngô còn thưa thớt, không có lấy một tòa thành lớn, cái gọi là quốc gia, vào lúc đó cũng chỉ là một vài bộ lạc lớn quần cư trên bình nguyên mà thôi."
"Phí thiếu phó nói thế là sai rồi, nếu đã không được lấy thời gian làm chuẩn, vậy vì vùng đất cổ Tam Miêu này cũng là một vùng hoang dã chưa được khai phá, có phải là nếu Khánh Kỵ mang binh tới đó làm vài cái ruộng núi, chặt mấy cây đại thụ, là có thể cho rằng nó thuộc về Ngô quốc được luôn không?"
Hai người giương thương múa kiếm, tranh tới tranh đi, đều tự rút kiếm chỉ chỉ vẽ vẽ trên bản đồ, đến khi bản đồ đó bị vẽ đến mức bị phá thành mảnh nhỏ khó mà phân biệt, hai người liền đổi sang địa phương khác, Phí Vô Cực lại vẽ ra một bản đồ, hai người liền tiến hành tranh luận kịch liệt về mỗi một khoảng rừng dâu, mỗi một mảnh ruộng tốt, mỗi một tòa thành trấn.
Mặt trời chiều ngả về Tây, những đám mây đỏ hồng lơ lửng nơi chân trời, ánh tịch dương nhàn nhạt chiếu lên hai người trên sườn núi, vẽ ra hai cái bóng trên mặt đất, hai người còn đang bận tranh luận kịch liệt từng tấc đất, chỉ có điều thanh âm cả hai đã có chút khàn khàn.
Hôm sau, thời điểm mặt trời mới mọc, tiếng chim hót chào bình minh mới cất lên, Sở Vương lại tiếp kiến Khánh Kỵ, chính thức ký kết văn kiện kết minh với hắn. Văn kiện này một kiểu hai bản, viết lên lụa trắng, được hai người tự tay kí tên, đóng ấn tỉ của Sở Vương lên. Trong văn kiện viết vô cùng tường tận, những chữ nhỏ chi chít chẳng những viết rõ những quyền lợi, nghĩa vụ, lệ thuộc của song phương khi hợp binh phạt Ngô, cuối cùng còn tỉ mỉ viết rõ Khánh Kỵ một khi phục quốc, sẽ phải phân chia rõ ràng lãnh thổ với nước Sở.
Hôm qua, hai người Khánh Kỵ cùng Phí Vô Cực đối với từng khu đất mà hai nước đang tranh giành, biện luận phản bác về nguồn gốc sâu xa, văn hóa địa phương, kết cấu dân cư, bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh địa lý cùng nhiều phương diện khác, nói đến mức yết hầu khô cong, cuối cùng đạt được ý kiến nhất trí. Đối với những khu này phải tiến hành rõ ràng, theo sự phân chia của hai nước thì khu vực mà hai bên nhận được trên cơ bản là chia đều. Có điều thực tế nước Sở đoạt được nhiều rừng dâu và đồng ruộng hơn, xem như là bồi thường, Phí Vô Cực cũng cắt một vùng lãnh thổ ở phía Tây Nam ráp gianh nước Việt cắt nhường cho nước Ngô.
Khu vực này còn chưa được khai phá, là một vùng rừng rậm nguyên thủy, mà những khu vực rừng dâu, ruộng tốt, theo cách phân chia thì phần lớn đều đem cho nước Sở. Bởi vậy mặc dù diện tích mà hai bên đoạt được là ngang nhau, nhưng mà bên phía Khánh Kỵ đoạt được không phải núi cao thì cũng là hồ nước, những mảnh núi rừng trùng trùng điệp điệp trải dài phía Tây Nam chưa được khai phá, hiển nhiên là rất thiệt thòi, cho nên Phí Vô Cực đắc ý dào dạt, đã liệt việc này vào một đại công trạng sau khi đuổi Cơ Quang đi sẽ xin Sở Vương ban thưởng.
Sau khi song phương kí kết minh ước, Khánh Kỵ lập tức phái người phi ngựa chạy về Vệ quốc điều binh, đồng thời lập ra kế hoạch quân sự tỉ mỉ với Sở Vương, sau đó trở về biên giới nước Sở tiếp ứng cho nhân mã của mình, Sở Vương cũng lập tức ban hạ hơn mười chiếu thư, phái bí sứ phân phó các nơi điều binh.
Khánh Kỵ cũng không vì có được liên hệ với thượng tầng nước Sở mà lạnh nhạt với Phạm Lãi, thậm chí hai ngày này cứ rảnh rỗi là đều ở một chỗ với hắn. Sau yến hội đơn sơ mừng minh ước song phương, Khánh Kỵ quay trở về doanh của Phạm Lãi, nói với hắn về chuyện kết minh với nước Sở hôm nay. Dẫn binh tới cần vương, cho tới nay cũng chưa được Sở Vương tuyên chiếu tiếp kiến nên Phạm Lãi cũng không có tư cách tham gia những hội nghị trọng yếu như vậy, mãi tới khi Khánh Kỵ nói ra, Phạm Lãi mới biết được Sở Vương đã kết minh với Khánh Kỵ, không khỏi vui mừng khôn xiết. Nhưng mà khi nghe Khánh Kỵ nói đến chi tiết minh ước, Phạm Lãi lại trầm xuống trong lòng, có một chút suy nghĩ nổi lên.
Đối với minh ước hợp binh ở phần trước, Phạm Lãi cũng không có ý kiến, nhưng mà đối với một đoạn cuối cùng, song phương phân chia rõ ràng biên giới, lại khiến cho Phạm Lãi âm thầm cảnh tỉnh. Những khu vực Ngô quốc tiếp nhận, đều là những cửa ải hiểm yếu thủy bộ, lại chẳng chiếm một chút tiện nghi nào về canh nông, nhưng mà trên mặt quân sự, một khi hai nước phát sinh xung đột, cũng là những khu vực hiểm yếu mà một ngàn binh có thể ngăn cản cả vạn binh.
Và mảnh đất cằn cỗi sỏi đá mà Sở quốc cắt ra cho Ngô quốc nhìn thì như hẻo lánh, cũng không có nhiều giá trị trồng trọt khai phá, nhưng đó lại là một thông đạo trọng yếu nối liền Sở Việt, về mặt quân sự có ý nghĩa trọng đại, thế lực Ngô quốc một khi mở rộng đến tận đây, sẽ có thể nắm gần như một nửa Việt quốc trong lòng bàn tay, mặc dù vẫn lưu lại cho Sở Việt một con đường eo hẹp, nhưng lúc nào cũng có thể phái binh phong kín.
Khánh Kỵ chính là bị Phí Vô Cực uy hiếp bức bách mới phải nhận, hay là còn có dụng ý gì khác? Dụng ý khác đó, là tính cho Ngô quốc hay Sở quốc? Hiện giờ hắn vẫn còn là một công tử lưu vong, Ngô quốc còn chưa nắm giữ trong tay, hắn đã tính toán lâu dài như vậy sao?
Phạm Lãi càng nghĩ càng cảm thấy kinh hãi, đến lúc Khánh Kỵ nói xong cảm giác không chịu nổi chếnh choáng, ngã luôn vào cái giường được làm bằng gỗ tùng của hắn, hơi hơi phát ra tiếng ngáy, Phạm Lãi mới khiếp hãi thanh tỉnh, bàn tay hơi nắm chặt lại, chạy ra ngoài hướng chỗ núi cao đi tới.
Tiếng ngáy của Khánh Kỵ hơi hơi ngưng lại, con mắt nhẹ nhàng mở ra, hơi hơi lóe sáng, sau đó tiếng ngáy lại càng trở nên vang dội.
"Là Khánh Kỵ chính mồm nói cho ngươi nghe?"
"Vâng!"
"Lão phu nghe nói, Khánh Kỵ sau khi gặp được Văn Chủng, bàn về tình thế nước Sở ta hiện giờ, từng đề nghị các ngươi sang các nước khác mượn binh, Văn Chủng đã đi nước Tống mượn binh rồi à?"
"Vâng!"
"Hắc, Phạm Lãi à, Khánh Kỵ mặc dù là vương tử tôn quý, lão phu lại thấy hắn đối đãi đặc biệt với ngươi, không bởi vì chức vị ngươi thấp kém mà khinh mạn, ngươi và hắn ở một chỗ rất hòa hợp a."
"Vâng, nhưng thần dù sao cũng là thần tử nước Sở, mặc dù quan hệ cá nhân có chút thân cận, nhưng đề cập đến đại sự nước Sở, hạ quan cũng có chút suy nghĩ, không dám không nói."
"Ha ha ha ha..." Phí Vô Cực ngửa mặt lên trời cười to: "Phạm Lãi à Phạm Lãi, Văn Chủng lần này đi nước Tống, nếu có thể cầu được cứu binh, đó là một công lao to lớn. Ngươi vốn gặp Khánh Kỵ trước, là oán hận hắn đưa công lớn này cho Văn Chủng, không cho ngươi thu hoạch được gì sao?"
Phạm Lãi ngẩn ra, lập tức vẻ giận dữ đầy mặt: "Thiếu phó đại nhân sao lại nói thế, Phạm Lãi một mảnh công tâm, Khánh Kỵ dù rằng chưa có ý gây bất lợi cho nước Sở, nhưng vẫn phải có đề phòng."
Phí Vô Cực cười lạnh một tiếng, tay vuốt chòm râu trách mắng: "Như vậy theo ý của ngươi, lão phu nên đem rừng dâu ruộng tốt cắt cho Khánh Kỵ, lưu lại cho nước Sở ta một mảnh đất hoang núi vắng phải không? Thật sự là vớ vẩn! Ngô Việt ngay cả khi có phát sinh chiến sự thì đã làm sao? Hắc, bọn họ chinh chiến lẫn nhau, tiêu hao thực lực lẫn nhau, có lợi vô cùng lớn với nước Sở ta, những nơi hiểm yếu này cắt đi, nước Ngô ngay cả có muốn dựa vào, cũng chỉ có thể dùng để phòng thủ, chứ sao gây được trở ngại cho nước Sở ta? Quân tử lòng dạ rộng rãi, người trẻ tuổi, ngươi giỏi tâm kế như vậy, sợ rằng cũng không phải là chuyện tốt."
Phạm Lãi bị hắn nói một hồi đến mức tức giận sắc mặt tái mét đi, hắn chắp tay còn muốn nói nữa, Phí Vô Cực đã phất tay áo nói: "Tốt lắm, ngươi lui ra đi, việc này lão phu đương nhiên đã biết rồi, lão phu trong lòng đều đã lập kế hoạch, chớ nói nhiều lời nữa."
Phạm Lãi một câu lại bị nghẹn trở lại, hắn nhẫn nại đáp ứng, chắp tay rời khỏi trướng đi ra, ở ngoài trướng ngây ngốc đứng một lúc lâu, yếu ớt thở dài, lúc này mới bước rời đi.
Lúc này, ở trong thành Dĩnh Đô tình hình của Ngô Vương Hạp Lư cũng không có dễ chịu. Cơ Quang đối với nước Sở từ đáy lòng cũng không có sinh ra dã tâm, hắn chỉ nghĩ ở Dĩnh Đô làm mưa làm gió một phen, làm cho các thiên hạ chư hầu phải kinh sợ, đặt ra nền móng vững chắc cho hắn. Nhưng mà hai đại trọng thần Ngũ Tử Tư và Bá bên cạnh hắn, đều có mối thù diệt môn diệt gia với Sở Vương, Ngũ Tử Tư một lòng báo thù, cơ hồ vì báo thù mà phát cuồng, bình thường là một người rất khôn khéo, một khi nói đến báo thù, liền mất đi lí trí, như điên như cuồng. Bá lí trí hơn hắn một chút, nhưng Bá lại quá lí trí, tất cả hành vi đều lấy động cơ từ ích lợi cá nhân, chỉ biết lấy lòng, thuận theo Hạp Lư, lại càng không dám làm điều gì trái với quan điểm của hắn, cho nên ba người quân thần, những chuyện gây ra ở Dĩnh Đô có chút không hợp lòng người.
Lúc trước khi bọn họ đánh vào Dĩnh Đô, một đường thế như chẻ tre, quân đội nước Sở buông lỏng, dân chúng khoanh tay đứng nhìn, nhưng khi bọn hắn ở Dĩnh Đô gần nửa tháng, bất tri bất giác đã gây ra cho chính mình vô số địch nhân. Toàn bộ dân chúng Dĩnh Đô đều trở thành binh lính, quân Ngô rơi vào một trận chiến cuồn cuộn của nhân dân nước Sở.
Quân Ngô hành vi tàn bạo, sự phản kháng của người Sở lại càng mãnh liệt. Thậm chí có dũng sĩ nước Sở lợi dụng quen thuộc địa hình, tìm kiếm chỗ ở của Hạp Lư, muốn ám sát Hạp Lư, đến nỗi có một buổi chiều Hạp Lư tới mấy lần bị thích khách quấy rối, một đêm phải thay đổi chỗ ở an toàn tới năm lần. Sáng sớm hôm sau, Hạp Lư phái người đem tất cả những người Sở hắn cho rằng khả nghi ra xử tử cả đám, cuộc hành quyết đầy máu tanh khiến cho người nước Sở càng thêm mãnh liệt trả thù.
Người nước Sở nổi lên tranh đấu với quân Ngô, không có tướng lĩnh chỉ huy, liền tự đưa một người phụ trách thao luyện lên làm chỉ huy, ở chung quanh Dĩnh Đô thành lập một nhóm dân binh vũ trang quy mô nhỏ, công bố "Liều chết đánh lùi quân Ngô, khôi phục nước Sở." Đến nỗi người Ngô từ lớn nhỏ đến cả con ngựa cũng không dám ra ngoài đi lại.
Đúng vào lúc này, quân Ngô bố phòng ở chỗ hiểm yếu ngoài Dĩnh Đô lại bắt được một bí sứ được Sở Vương phái đi để triệu tập đội quân cần vương, biết được hành động triệu tập đội quân cần vương của Sở Vương, cùng với việc người Sở kết minh với Khánh Kỵ, lại thêm tin tức Sở Vương phái người sang nước Tần, nước Tống mượn binh, Ngũ Tử Tư lập tức ý thức được nguy cơ trong đó, lập tức vội vàng vào cung gặp Hạp Lư.
Hạp Lư đang ở trong Sở Vương cung ôm eo nhỏ của Sở nữ thưởng thức ca múa, Sở Vương cung vốn nguy nga tráng lệ giờ thành một đống bừa bãi, trong Sở Vương cung từ vàng bạc đồng cho đến tơ lụa tinh mỹ, ngay cả tài vật của công khanh đại phu, phú thương cường hào, thậm chí cả cành gai để làm tên, có thể cướp đều cướp, có thể chặt đều chặt, đóng gói cho vào trong xe chở về nước Ngô.
Những xe vận chuyển tài phú của nước Sở nối liền không dứt, hơn mười mấy ngày gần đây không ngày nào dừng, thậm chí trưng dụng cả xa mã của những người trong Dĩnh Đô mà cho đến giờ vẫn vận chuyển chưa xong. Những thứ chưa được vận chuyển, đều được gỡ ra đóng gói lại, tất cả chất đống một chỗ cho người trông giữ, chờ đợi áp tải về Ngô.
Vừa thấy Ngũ Tử Tư vào cung, Hạp Lư cười to nói: "Tướng quốc tới thật đúng lúc, mỹ nữ nước Sở xinh đẹp muôn vẻ, cũng không xinh đẹp hơn trong Sở Vương cung. Vài mỹ nữ này kỹ thuật nhảy quá duyên dáng, quả nhân ban thưởng các nàng cho tướng quốc, lát nữa mang theo hồi phủ mà tận tình hưởng dụng.
Ngũ Tử Tư nghiêm nghị nói: "Thần có chuyện quan trọng muốn bẩm tấu, xin Đại vương cho lui tả hữu."
Hạp Lư nao nao, thấy thần sắc của hắn nghiêm túc, liền theo lời khoát tay, cho lui cung nữ, nhạc công, trên đại điện nhất thời trở nên yên tĩnh, trong cung điện Sở Vương đã bị cướp chẳng còn gì lập tức có một vẻ trống trải.
Ngũ Tử Tư mang những tin tức tình báo hắn nhận được vội nói cho Hạp Lư, Hạp Lư nghe thấy vậy thì cũng không khỏi biến sắc, cả kinh nói: "Không thể tưởng được người Sở phản ứng nhanh chóng như vậy, Khánh Kỵ lại thừa dịp này nhảy vào, kẻ này, đúng là họa lớn trong lòng quả nhân, Ngũ tướng quốc, theo như ngươi thấy, quả nhân hiện giờ nên làm thế nào?"
Ngũ Tử Tư nghiêm nghị nói: "Trên đường đến đây, Ngũ Viên đã cẩn thận suy xét qua, theo như thần thấy, có hai lựa chọn."
"Mau nói."
"Một, quân Ngô ta lập tức lui về nước, thì Tần chắc chắn sẽ không phát binh, mà kết minh của nước Sở với Khánh Kỵ tám chín phần mười sẽ thất bại. Nước Sở bại trận, tuy hận nước Ngô ta đến tận xương tủy, nhưng cũng sẽ không tùy tiện phát binh phạt Ngô. Hai, nước Ngô ta cũng phái đi tín sứ, liên lạc với những quốc gia hữu hảo có cùng lợi ích, khắc chế viện binh của người Sở."
Hạp Lư trầm ngâm nói: "Biện pháp thứ nhất tuy rằng ổn thỏa, tuy nhiên vừa nghe thấy người Sở cầu cứu binh, quân Ngô ta đã lập tức lui về nước, như thế sao có thể gây uy danh với các nước khác, ngày sau sao có thể tranh hùng với các chư hầu? Theo biện pháp thứ hai của ngươi... nếu người Tần, người Tống, hơn nữa còn có cả Khánh Kỵ ký kết liên minh với người Sở, làm gì còn quốc gia nào có năng lực mà chống lại nữa?"
Ngũ Tử Tư thản nhiên cười, nói: "Việc này cũng không khó, người Tần muốn xuất quan tranh đoạt thiên hạ, lại bị người Tấn cản trở lối đi, người Tấn muốn Đông tiến tranh đoạt Trung Nguyên, lại vì sợ bị người Tần đâm vào lưng mà không dám vọng động. Hiện giờ người Tần muốn giúp người Sở, một khi thành công, thì sẽ mở ra một con đường thứ hai ven lưu vực Trường Giang, nếu kết minh với Sở, ký kết hữu hảo, hành động này sẽ gây ra bất lợi to lớn cho nước Tấn. Nếu cho một người có khả năng ăn nói tốt sang nước Tấn giải thích lợi hại, người Tấn đương nhiên sẽ đáp ứng xuất binh trợ chiến. Nước Tấn là nước lớn ở phương Tây, những tiểu quốc phụ thuộc có vô số, một khi tham chiến, trợ lực này không phải là nhỏ.
Ngoài ra, còn có đại quốc Tề quốc ở phương Đông, người nước Tề dã tâm bừng bừng, cũng có tâm muốn khuếch trương, tuy nhiên tiến về phía Bắc là vùng biên cương hoang vu, về phía Tây là một nước Vệ nho nhỏ làm trung gian, sau đó là nước Tấn, hai bên kiêng kị lẫn nhau, lấy nước Vệ làm hòa hoãn, cũng không có phát sinh xung đột. Nếu muốn tiến về phương Nam thì lại có cơ hội, phía Nam nước Tề ngoại trừ nước Ngô ta, thì còn có một bộ lạc Đông Di. Bộ lạc này vẫn chưa lập quốc, khu vực rộng lớn, vẫn là một khối thịt béo trong mắt người Tề, chỉ có điều người Tề sợ khi quân Tề đi xuống phía Nam, thì nước Lỗ, Từ, cùng nước Ngô ta sẽ kết minh phản kháng, cho nên chậm trễ không đưa ra hành động. Nếu chúng ta đáp ứng trợ giúp nước Tề thu hoạch vùng đất của Đông Di, người Tề tham lợi, cũng sẽ xuất binh. Nước Tề là nước lớn ở phương Đông, nếu như vậy, sẽ có Tề Tấn hai nước tương trợ, đủ để triệt tiêu lực lượng liên bang của người nước Sở."
Hạp Lư hai hàng lông mày nhíu lại, nói: "Tề Tấn đều là nước lớn, đều có vô số nước nhỏ phụ thuộc, bọn họ một khi tham chiến, toàn bộ thiên hạ sợ rằng đều sẽ chiến hỏa hừng hực."
Ngũ Tử Tư mỉm cười nói: "Vậy thì có sao? Nước Ngô ta chếch về Đông Nam, thiên hạ chư hầu đều là tranh đoạt vùng đất phì nhiêu ở Trung Nguyên, sẽ không đem nước Ngô ta làm mục tiêu. Nước Ngô ta hiện giờ cũng chưa có đủ thực lực để lên tới đỉnh thiên hạ, Trung Nguyên không loạn, Đại vương muốn mưu đồ trở thành bá chủ thiên hạ, vậy thì phải mất hơn mười năm khôi phục nguyên khí. Có điều, nếu chư hầu Trung Nguyên hỗn chiến không ngớt, đó chính là lúc cơ hội của nước Ngô ta tới."
Hạp Lư nhướng hai hàng lông mày, lập tức giãn mặt ra cười to: "Tướng quốc quả có diệu kế, thiên hạ chiến hỏa hừng hực, chính là cơ hội cho nước Ngô ta, ha ha... Tốt! Cứ theo lời tướng quốc nói, lập tức sai sứ, kết minh với Tề Tấn, mời phát binh trợ chiến."
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của Tiểu Mùi
Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành
Chương 187: Trống trận liên hồi
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
Ngũ Tử Tư mỉm cười nói: "Vậy thì có sao? Nước Ngô ta chếch về Đông Nam, thiên hạ chư hầu đều là tranh đoạt vùng đất phì nhiêu ở Trung Nguyên, sẽ không đem nước Ngô ta làm mục tiêu. Nước Ngô ta hiện giờ cũng chưa có đủ thực lực để lên tới đỉnh thiên hạ, Trung Nguyên không loạn, Đại vương muốn mưu đồ trở thành bá chủ thiên hạ, vậy thì phải mất hơn mười năm khôi phục nguyên khí. Có điều, nếu chư hầu Trung Nguyên hỗn chiến không ngớt, đó chính là lúc cơ hội của nước Ngô ta tới."
Hạp Lư nhướng hai hàng lông mày, lập tức giãn mặt ra cười to: "Tướng quốc quả có diệu kế, thiên hạ chiến hỏa hừng hực, chính là cơ hội cho nước Ngô ta, ha ha... Tốt! Cứ theo lời tướng quốc nói, lập tức sai sứ, kết minh với Tề Tấn, mời phát binh trợ chiến."
Ở trên vọng gác Bách Thành, Khánh Kỵ đứng hiên ngang một chỗ, nheo mắt nhìn về phía xa. Gió từ hướng Bắc tới, cuốn theo những bông tuyết bay đầy trời, cơn gió mạnh thổi chiếc áo khoác tung bay phần phật. Theo đúng như lộ trình đã dự tính thì nhân mã của hắn sẽ tới đây sau mấy ngày nữa.
- Chắc Tần quốc sẽ xuất binh...
Dù cho gió bên ngoài thổi lạnh thấu xương, nhưng Khánh Kỵ cũng không một chút bận tâm tới, hắn đứng ở trên thành, mang theo những suy nghĩ đang trôi bồng bềnh trên không. Đứng từ chỗ cao nhất quan sát sự biến động chính cục của toàn bộ Xuân Thu đại địa, đã đưa ra phán đoán này.
Từ khi Khuyển Nhung công phá Hạo Kinh, Chu U Vương Cơ Cung Tinh bị giết, Chu Bình Vương Cơ Nghi Cữu dời đô tới Lạc Ấp đến nay, cục diện thiên hạ trước đây nằm trong sự kiểm soát của Chu thiên tử đã dần dần được thay đổi, dẫn đến ngày này hai trăm năm sau - tức là hôm nay, từ từ hình thành nên hai tập đoàn thế lực: Tập đoàn Trường Giang và tập đoàn Hoàng Hà.
Tập đoàn Trường Giang do Sở Quốc đứng đầu, tập đoàn Hoàng Hà do Tấn quốc đứng đầu. Sở quốc tự lập vương hiệu, khinh rẻ sự thống trị của Chu thiên tử, Sở Trang Vương từng hỏi qua Chu thiên tử về Cửu Đỉnh*, thực sự dã tâm đã rõ rành rành. Còn Tấn quốc tuy có ý đồ tranh bá, là một chư hầu dòng giống họ Cơ, ngoài mặt thì vẫn duy trì Chu triều chính thống, đồng thời, do sự kỳ thị giữa các địa vực và xung đột về lợi ích với nhau, bọn họ đã nâng cao ngọn cờ bảo vệ Vương quyền, tự coi mình là những người hộ vệ cho Chu thiên tử.
(Chú thích: Cửu Đỉnh: tượng trưng cho quyền lực bá chủ)
Kỳ thực từ khi Tề Hoàn Công tạo khối liên minh chư hầu, tôn vương nhương di (tôn sùng giai cấp thống trị, bài xích ngoại bang), các nước ở phương Nam do nước Sở cầm đầu đã cùng với các nước bảo vệ thiên hạ Chu thị ở phương Bắc bắt đầu tiến hành liên tiếp các cuộc chinh phạt lẫn nhau, đến nay chỉ là Tấn thay thế Tề mà thôi.
Khi thiên hạ đang dồn hết sự chú ý vào cuộc chiến tranh tàn khốc giữa hai tập đoàn thế lực đó, thì Tần quốc ở Quan Trung đang lớn mạnh từng ngày. Thời gian từ khi thành lập Tần quốc rất ngắn, vị quốc quân đương nhiệm đầu tiên của họ vốn chỉ là một thủ lĩnh của bộ lạc nhỏ, do có công trong việc hộ tống Chu Bình Vương dời đô, được thụ phong làm chư hầu, cai trị một dải đất màu mỡ ở Quan Trung mà trước đây Vương đô của Chu thất đã tọa lạc, tính cho đến nay thì thời gian lập quốc vẫn chưa vượt quá hai trăm năm.
Thế nhưng trong suốt hai trăm năm nay, Tần quốc với lợi thế đất đai phì nhiêu màu mỡ vốn có của mình, chiến tranh ở Trung Nguyên hầu như không hề gây tổn hại tới thực lực của Tần quốc, dần dần họ trở thành một lực lượng lớn mạnh không dễ coi thường. Chỉ có điều, lực lượng hiện tại của họ vẫn chưa đủ lớn mạnh để có thể khiêu chiến với một nước lớn như Tấn quốc, cho nên họ cần phải duy trì sự cân bằng về thế lực giữa hai miền Nam Bắc, có như vậy thì Tần quốc mới có thể thu được lợi từ tình hình như vậy, tiếp tục trau dồi tích lũy lực lượng.
Trong những kiến thức lịch sử có hạn của Khánh Kỵ, hắn không nhớ được rằng khi Ngô quốc phạt Sở thì Tần quốc có phát binh đi tương trợ hay không. Hắn chỉ là kết hợp kiến thức hiểu biết của hai con người trong hắn, dựa theo tình hình thiên hạ hiện tại để đưa ra phán đoán như vậy. Hắn tin rằng, những lợi hại được mất trong đó, người Tần không thể nào không có một kẻ sĩ có tri thức không nhận ra được điều đó. Cho nên cuối cùng người Tần xuất binh cũng là điều tất nhiên.
Tần quốc Ung thành, cửa chính cung thành, các đại phu đang nối gót nhau đi vào trong.
Khi bọn họ bước qua cửa cung, đôi mắt đều không tự chủ được mà nhìn về bức tường cung phía bên cạnh, sát bức tường là một người tầm tuổi trung niên tóc tai rối bù, quần áo rách nát, trên đầu của hắn vẫn còn đeo một chiếc mũ quan của đại biểu sĩ đại phu, thế nhưng chiếc mũ đó cũng chẳng còn nguyên vẹn.
Thân hình hắn lảo đảo như muốn ngã, sắc mặt tiều tụy, mặt mũi tím tái, đôi môi nứt nẻ, hơi rơm rớm vết máu. Cặp mắt kia của hắn tăm tối vô cùng, không chút linh hoạt, thế nhưng hắn vẫn đang dùng âm điệu khàn khàn lẩm bẩm gì đó, không ai nghe thấy rõ điều hắn nói là gì.
Trông thấy hắn như vậy, ai ai cũng không khỏi động lòng trắc ẩn, dưới bức tường cung thành của Tần quân đương nhiên không cho phép ăn mày đứng, thế nhưng tên ăn mày này có đôi chút khác biệt, thứ hắn cầu xin không phải là lúa gạo, mà là viện trợ quân sự, điều đó đương nhiên là không giống với ăn mày bình thường. Người này chính là Thân Bao Tư, người được phụng lệnh đến Tần quốc cầu xin viện binh.
Lúc đầu khi mới đến Tần quốc, hắn cứ nghĩ rằng chắc chắn sẽ xin được viện binh từ Tần quốc, lúc bước lên Tần cung đại điện, trước mặt đông đảo công khanh triều đình vội vã nói rõ lý do đến Tần lần này của hắn cho Tần quân nghe, hắn nói:
- Ngô quốc Hạp Lư công phá Dĩnh đô, Sở vương tị nạn ở Tùy quốc. Hai nước Tần Sở vốn có quan hệ tốt đẹp với nhau, đương kim Sở thái hậu là bào muội (em ruột) của Tần quân, đương kim Sở vương là cháu ngoại của Tần quân, Tần Sở vốn là người cùng một nhà, bây giờ Sở quốc gặp nạn, vội đến Tần quốc cầu xin viện binh, khấn thỉnh Tần quân cứu Sở trong lúc nguy nan.
Nào ngờ Tần quân có dã tâm của hắn, thầm nghĩ rằng với sức mạnh của Ngô quốc, cho dù diệt được Sở quốc, cũng không thể đủ binh lực chiếm lĩnh lãnh thổ Sở quốc rộng lớn, đến lúc đó phát binh báo thù cho bào muội, vừa hay có thể thừa cơ bành trướng về Đông, chiếm lĩnh vùng đất Sở quốc núi cao sông dài. Một nữ tử nhỏ bé, dù là bào muội, nhưng hy sinh cho lợi ích của cả một quốc gia là Tần quốc thì cũng đáng, cho nên Tần quân không vội ra quyết định, lấy lệ bảo Thân Bao Tư tạm thời nghỉ ngơi ở dịch quán, để cho quân thần Tần quốc thương nghị một phen.
Thân Bao Tư luôn miệng khẩn cầu, Tần quốc quân chỉ đáp cho có lệ, Thân Bao Tư bất đắc dĩ, không muốn về dịch quán nghỉ ngơi, mà đứng bên ngoài dựa vào bức tường cung điện Tần quốc, không ăn không uống, tuyệt thực để tỏ rõ ý chí, từ sáng đến tối than khóc cầu xin, thời đó cung điện để cho chư hầu nghị triều không lớn lắm, Thân Bao Tư ở bên ngoài cung vừa khóc vừa la hét, ở trong đại điện nghe rõ mồn một, rên la van nài đến nỗi chẳng ai được yên ổn.
Thân Bao Tư và Ngũ Tử Tư đều là những người bạn tri giao hồi còn là thần Sở, hai người đều có một loại tính cách cứng cỏi, đó là không đạt được mục đích thì quyết không bỏ cuộc. Cứ như vậy suốt ba ngày, Thân Bao Tư không ăn không uống, đã khàn cả giọng, nhưng vẫn đứng trước bức tường cung điện Tần quốc, dường như có ý muốn tuyệt thực mà chết, động thái này của hắn khiến cho rất nhiều đại phu Tần quốc động lòng trắc ẩn, thầm đồng tình với hắn.
Tần quân thấy hắn không biết điều như vậy, trong lòng cảm thấy rất bực bội, gần như đã mất hết kiên nhẫn. Vào thời đó công khanh cứ mười ngày thì được miễn thượng triều một ngày, Tần quân vì muốn tránh mặt Thân Bao Tư, cho công khanh đại thần nghỉ một mạch ba ngày liền, mong chờ đến khi Thân Bao Tư chết bên ngoài cung mới thôi. Không ngờ được rằng tính mạng của Thân Bao Tư lại dai dẳng thần kỳ như thế, hôm nay, ba ngày nghỉ phép đã qua, quần thần thượng triều, đến lúc này Thân Bao Tư đã đứng bên ngoài cung ròng rã bảy ngày bảy đêm, không ăn không uống, không ngủ không nghỉ, thế mà vẫn chưa chết. Toàn bộ thần tử Tần quốc ai cũng phải cảm động, rất nhiều đại thần đã quyết định trong buổi thượng triều hôm nay sẽ nói đỡ cho Thân Bao Tư, khấn thỉnh Tần quốc xuất binh giúp Sở.
Không ngờ, chúng thần vào điện, Tần quân ngồi xuống đã mở miệng nói luôn:
- Ngô vương phạt Sở, vốn không phải là chiến tranh chính nghĩa. Tần Sở vốn là anh em, đương nhiên cần phải tương trợ lẫn nhau. Quả nhân thấy Thân Bao Tư trung nghĩa mà cảm động, quyết định phát binh cứu Sở, điều động chiến xa năm trăm chiếc, tinh binh bốn vạn người, do Tử Bồ, Tử Hổ làm tướng dẫn đầu, ra khỏi Vũ Quan, tới Sở quốc, thảo phạt quân Ngô.
Quần thần nghe vậy thì bàn tán xôn xao, sau đó nhất tề tiến lên lạy dài, cao giọng tán thán:
- Quốc quân nhân đức, chúng thần ủng hộ!
Tần quân và đại tướng Tử Bồ liếc nhìn nhau, vuốt râu mỉm cười không thôi. Tần quân cuối cùng đưa ra quyết định xuất binh, tuyệt đối không phải là do cảm động với những hành động trung nghĩa của Thân Bao Tư, mà đó là kết quả của việc cân nhắc lợi hại trong buổi thương nghị suốt mấy ngày của mấy vị quần thần tâm phúc với Tần quân.
Hơn ba mươi năm trước, hai nước Tấn Sở và một số nước chư hầu khác tiến hành "Chấm dứt binh đao, tụ hội kết minh" tại Tống quốc. Tấn Sở đại diện cho tập đoàn thế lực của hai miền Nam Bắc ký kết hiệp ước thành lập liên minh, đưa ra quyết định rằng ngoại trừ hai nước lớn là Tề, Tần ra thì toàn bộ các nước khác đều phải đồng thời triều cống cho hai nước Tấn Sở.
Từ đó đã nâng hai nước Tấn Sở lên vị trí đỉnh cao trong các chư hầu thiên hạ, trở thành bá chủ thiên hạ. Thực lực của Tần quốc và Tề quốc chỉ kém hơn đôi chút so với Tấn Sở, không bị hệ lụy bởi những hư danh kia, suốt ba mươi năm nay bế quan phát triển, quốc gia thái bình, sức mạnh đất nước ngày càng mạnh mẽ. Quân thần Tần quốc đã được nếm trải những mùi vị ngọt ngào như vậy.
Trải qua nhiều lần cân nhắc kỹ lưỡng, các vị trọng thần trong Tần triều cho rằng, quân Ngô tuy mạnh, nhưng sức mạnh tổng hợp của quốc gia suy cho cùng thì vẫn chưa đủ hùng hậu. Ngô Sở cùng tồn tại so với Ngô tồn Sở vong sẽ có lợi hơn trong việc tiết chế trục hoành ngăn không cho thế lực Tấn quốc ở phương Bắc Nam hạ (đi về phía Nam). Nếu như Sở quốc bị diệt vong mà dẫn đến việc lực lượng Bắc Nam mất hoành, như vậy thì Tấn quốc sẽ mạnh lên rất nhiều. Điều này đối với một quốc gia mong muốn lực lượng Nam Bắc cân bằng để có thêm thời gian và cơ hội tích lũy phát triển như Tần quốc mà nói thì cực kỳ bất lợi.
Hiện tại nếu như chiếm lĩnh một phần lãnh thổ của người Sở, thì kết quả sẽ là việc đơn độc phải gánh chịu sự bức bách của cường quốc tới từ phương Bắc là Tấn quốc, như vậy đối với lợi ích lâu dài của Tần mà nói, còn lâu mới bằng việc đưa Sở quốc lên trước làm lá chắn, còn bản thân Tần quốc thì bế quan tự thủ, nghỉ ngơi lấy sức, tích lũy quốc lực. Tần quân biết nghe lời phải, nghe mấy vị đại thần phân tích một hồi thì rất hài lòng, thế là cuối cùng đã đưa ra mệnh lệnh xuất binh cứu Sở.
Thân Bao Tư lúc này còn thoi thóp chút hơi tàn được đưa vào Tần cung, nghe được tin tức đó thì vô cùng mừng rỡ, liền dùng lễ trọng, khấu đầu ba lượt, Thân Bao Tư như quên hết tất cả, vùng vẫy lăn lộn quỳ mọp xuống dưới đất, khấu đầu tiếp chín lần để tạ ơn Tần quân, sau đó cơ thể rã rời, chìm vào hôn mê, được cấp tốc đưa vào dịch quán nghỉ ngơi tĩnh dưỡng lấy lại sức.
Tần quốc Ung Thành, hai vị đại tướng quân Tử Bồ, Từ Hổ bắt đầu điều phối lương thực, chiêu mộ quân sĩ, chuẩn bị xuất binh cứu Sở. Động tĩnh lớn như vậy đương nhiên khó có thể che được tai mắt của người khác, vùng Ung Thành đang gõ trống khua chiêng để chuẩn bị, những gian tế của Tấn quốc được cài cắm ở kinh đô nước Tần đều đã nhận được thông tin, thám báo không quản ngày đêm chạy về Dực Thành Tấn quốc báo tin, mặc cho ngoài trời đầy mưa giông bão tuyết cũng phải đem tin tức giao tới tận tay Tấn hầu Cơ Khí Tật...
Thiên hạ, lại sắp rơi vào cuộc đại loạn...
Cơn gió lạnh cuốn theo những bông hoa tuyết, thổi mạnh đến nỗi những chiếc đại kỳ trong thành đều không ngừng tung bay. Khánh Kỵ nhìn về phía Tây Bắc, từ đây nhìn về nơi đó trải dài cả vạn dặm, đang có hơn mười vạn đại quân Sở quốc đóng quân, đạo quân này dùng để phòng bị Tấn quốc xâm lược, thế nhưng người Tấn Nam hạ, chưa hẳn đã chỉ có duy nhất con đường này, chỉ có điều nếu chọn việc đi đường lớn, bắt buộc sẽ phải đi xuyên qua rất nhiều nước chư hầu, nếu vậy thì đám nước chư hầu kia sẽ đương nhiên phải đưa ra quyết định, lập trường, cuối cùng đem càng ngày càng nhiều các quốc gia bị cuốn vào trong vòng chiến loạn.
Để cổ vũ sĩ khí quân tâm, Phí Vô Cực đã công bố ra bên ngoài chuyện sứ giả đi tới Tần quốc xin viện binh, còn có cả việc Văn Chủng đi Tống quốc cầu viện, chỉ có điều là hắn trơ trẽn nói rằng những việc đó đều xuất phát từ chủ ý của hắn mà ra, lấy đó để cho thấy sự sáng suốt biết rõ tiên cơ của hắn.
Điều này đem lại cơ hội cho Khánh Kỵ, một thủ hạ tâm phúc của hắn theo đuôi một vị tín sứ nước Sở, rồi giả mạo làm một tiều phu mật báo lĩnh thưởng, tố giác vị tín sứ kia, khiến hắn bị người nước Ngô bắt được, từ đó Ngũ Tử Tư đã nắm được tin tức này, làm cho Cơ Quang cũng có sự phòng bị từ trước.
Khánh Kỵ hiểu rõ tính khí của vị vương thúc đó của mình, càng hiểu rõ rằng Ngũ Tử Tư quyết không chấp nhận tỏ ra yếu thế trước mặt người Sở, lựa chọn của Cơ Quang và Ngũ Tử Tư chỉ còn là lấy "gậy ông đập lưng ông", cũng mượn binh của các nước chư hầu khác, chỉ có như vậy thì mới có thể đạt được mục đích của hắn.
Nếu không, đợi đến khi quân đội Sở quốc cần vương tụ hội, xông thẳng tới Dĩnh Đô, Cơ Quang nghe được tin bất ngờ, lại hai ba vạn tinh binh của hắn cũng tham gia vào quân Sở, thêm cả việc Tần quốc cũng phát binh tương trợ, trong lúc cấp bách không có cách nào kháng cự, chỉ còn cách lui về Ngô quốc, nếu như vậy, người Sở đương nhiên đạt được mục đích, đối với hắn mà nói thì sẽ vô cùng bất lợi. Hắn buộc phải ngăn chặn Cơ Quang và quân Ngô lại, cố sống cố chết mà ngăn chặn tại Sở quốc, như vậy, đám kỳ binh mà hắn giữ ở Tề quốc mới phát huy tác dụng được.
Ngũ Tử Tư...
Khánh Kỵ cười lạnh:
- Vị thiên cổ danh nhân này, chẳng phải cũng bị ta đùa giỡn trong lòng bàn tay đó sao.
"Xuân Thu không có chiến tranh chính nghĩa", từ lúc Khánh Kỵ từ một linh hồn xuyên Việt với gốc gác là một thành viên trong đoàn làm phim phổ thông, dần dần trở thành một vị lãnh tụ của một đoàn thể chính trị, càng ngày hắn càng thấm hiểu sâu sắc ý nghĩa của câu nói này. Đâu chỉ có Xuân Thu không chiến tranh chính nghĩa, tự cổ chí kim, có cuộc chiến tranh nào với cờ hiệu đẹp đẽ, đường đường chính chính mà không phải là hướng về lợi ích của một vài cá nhân?
Mặc kệ là dùng loại cờ hiệu nào, mục tiêu cuối cùng cũng là một chữ "lợi". Giữa các nước với nhau chẳng bao giờ có tình hữu nghị mãi mãi, chỉ có quyền lợi mãi mãi mà thôi. Một lợi ích của giai cấp, đoàn thể, đương nhiên sẽ phải tổn hại đến lợi ích của một đoàn thể, một giai cấp khác để làm tiền đề. Cho dù là sử dụng thủ đoạn nào, chỉ cần khiến cho người của mình giảm thiểu những hy sinh đổ máu, giảm thiểu những cái giá phải trả là được, Khánh Kỵ bây giờ cũng đã bình chân như vại rồi. Hắn đã không còn nói những lời ba hoa bốc phét như ước mộng tuổi thiếu niên nữa.
Gió đã yếu bớt, tuyết lại càng thêm dày đặc. Khánh Kỵ một ngày mấy lần đi lên trên thành quan sát, chờ đợi đại quân của hắn mau đến. Lúc này đã là lần thứ ba trong buổi chiều hắn đi lên thành rồi, tuy nhiên phía xa vẫn là một màu trắng ảm đạm và lặng lẽ. Hắn vung vẫy những bông hoa tuyết trên vai, chà xát hai tay đã đông cứng vào nhau, đang định trở xuống dưới chân thành, ánh mắt bỗng tập trung vào một chỗ, nhìn về phía xa trong đám tuyết trắng xóa xuất hiện một đường đen uốn lượn.
Thần sắc Khánh Kỵ khẽ động, vội vàng nheo mắt che tay nhìn về phương xa, đường đen đang di động kia rõ ràng là một đoàn quân. Bọn họ đang tiến tới đây với vận tốc chậm rãi, làn gió tuyết khiến ngọn cờ tung cao phần phật, trên ngọn cờ xuất hiện hai chữ. Nhìn từ xa, lại thêm việc tuyết phủ trắng xóa che kín tầm mắt, chưa thể nhìn rõ chữ trên cờ hiệu là gì. Nhưng trông thấy cờ xí quen thuộc kia, Khánh Kỵ đã nhận ra đó là quân đội của mình.
Hắn mừng rỡ kêu lên một tiếng, rồi chạy một mạch xuống dưới cổng thành. Chỉ trong thoáng chốc, sĩ tốt người Sở đã đẩy cửa thành ra, Khánh Kỵ ngồi trên một chiếc chiến xa lao nhanh ra bên ngoài, bánh xe đi trên con đường đầy tuyết tạo nên hai hàng dấu vết thẳng tắp.
- Công tử!
Khi Khánh Kỵ thúc xe tới gần, thì đoàn quân kia bỗng đột nhiên dừng lại, đợi đến khi Khánh Kỵ đi tới trước mặt, trên chiếc chiến xa ở hàng trên nhất lập tức bước xuống một người, vẻ mặt vui mừng tiến tới.
Trên chiếc nón trụ của hắn tích đầy bông tuyết, thân hình cao lớn, râu ria xồm xoàm. Tà áo tung bay trong cơn bão tuyết, đúng là tả hữu luôn theo gót trung thành với hắn Lương Hổ Tử.
- Bái kiến công tử!
Đám sĩ tốt ở tiền phương đồng loạt thi hành quân lễ với Khánh Kỵ, tin tức nhanh chóng được truyền tới trận tuyến phía sau, toàn bộ đội ngũ xôn xao rầm rĩ.
- Các tướng sĩ suốt dọc hành trình đều phải đối mặt với mưa gió bão tuyết, vất vả rồi!
Khánh Kỵ chắp tay vái chào về mọi người xung quanh, sau đó ôm một cái thân mật với Lương Hổ Tử:
- Lương tướng quân, ta đoán được tính nóng vội của tướng quân, nhất định sẽ cầm đầu đoàn quân đi tiên phong, ha ha... Tọa chấn trung quân hẳn là Kinh tướng quân rồi.
Khắp mặt Lương Hổ Tử đầy vẻ phong sương, nhưng lại lộ rõ vẻ vui mừng trông thấy. Nghe Khánh Kỵ nói như vậy, không khỏi ha hả cười nói:
- Lần này thì công tử đoán sai rồi, tọa chấn trung quân là Yểm Dư công tử, Kinh Lâm tiểu tử lần này áp hậu trận phía sau.
Khánh Kỵ nghe vậy thì sững sờ:
- Yểm Dư vương thúc? Chẳng phải ta đã bảo vương thúc tọa chấn Ngải Thành sao? Tại sao người lại tới đây?
Lương Hổ Tử gượng cười nói:
- Yểm Dư công tử là vương thúc của công tử, ngài nhất định đòi đến đây, thuộc hạ cũng chẳng biết làm sao. Thuộc hạ cũng theo quân lệnh của công tử ngăn cản Yểm Dư công tử, thế nhưng ngài đã quát mắng té tát vào mặt thuộc hạ, ngài nói: "Cái gì mà tọa chấn Ngải Thành, ba quân đều đã xuất phát đi thảo phạt Cơ Quang rồi, để ta canh giữ một tòa thành trống để làm gì? Tên tiểu tử mất nết Khánh Kỵ, chẳng qua là muốn phòng khi hắn chẳng may thất bại, thậm chí chết nơi sa trường, để ta lại phải báo thù cho hắn mà thôi. Lúc này đây hắn đã gây dựng được cơ đồ như vậy, nếu như hắn đánh không lại Cơ Quang, thì cho dù ta có dốc hết chút hơi tàn của cái mạng này cũng chẳng thể nào mà đi báo thù cho hắn được. Chi bằng đi cùng nhau, cùng lắm là chú cháu ta kề vai sát cánh chiến đấu, chết trận oanh liệt nơi sa trường thôi.”
Khánh Kỵ nghe xong dậm chân nói:
- Ài, nếu nói như vậy, Chúc Dung vương thúc lần này đi Phí Thành Phi Hồ cốc chắc cũng theo đoàn quân xuất chinh rồi.
Lương Hổ Tử cười hắc hắc:
- Công tử đoán đúng rồi, Chúc Dung công tử trước khi đi tới Lỗ quốc quả đã nói như vậy. Công tử nói, thắng bại vinh nhục đều được quyết định trong trận chiến này, đại quân của công tử là hy vọng phục quốc cuối cùng, nếu như lại bại nữa, chỉ còn con đường chết theo mà thôi. Ngài đường đường là Ngô quốc công tử, nam nhi chí lớn, làm sao chịu để cho người khác ở nơi trận tiền liều mạng, còn mình tọa thủ ở một tòa thành bỏ trống như một kẻ ham sống sợ chết.
Khánh Kỵ nghe hắn nói vậy cũng không khỏi gượng cười, Lương Hổ Tử quay lại đưa mắt nhìn những sĩ binh lặn lội suốt một hành trình dai dẳng, nhưng tinh thần ai nấy đều tươi tỉnh, ý chí chiến đấu sục sôi, liền trầm giọng nói với Khánh Kỵ:
- Công tử cũng không cần hối tiếc, hai vị công tử nghĩ vậy, đám binh lính sĩ tốt trong ba quân của chúng ta cũng nghĩ vậy, Cơ Quang đã chiếm đoạt ngôi vị Ngô quốc đại vương hơn một năm nay, nếu cứ để tiếp diễn như vậy nữa thì chúng ta sẽ không còn cơ hội hạ bệ hắn, thắng bại vinh nhục, thật sự được quyết định trong trận đánh này. Ngay cả những người đầu bếp cũng nghĩ vậy, chịu đi theo công tử, ai nấy đều mang theo vũ khí tòng quân, Ngải Thành đã trở thành một tòa thành trống, tất cả chúng thuộc hạ đều tình nguyện vào sinh ra tử cùng công tử! Công tử chính là linh hồn của anh em tướng sĩ, bất luận là nguy hiểm thế nào, bất luận là kẻ địch thế nào, anh em ba quân tướng sĩ đều sẽ kề vai sát cánh, cùng sống cùng chết với công tử, quyết không nhụt chí!
Lời nói này thật có khí phách, được phát ra một cách dõng dạc giữa cơn gió tuyết rít gào, Khánh Kỵ nghe vậy mà cảm động trong lòng, nhịn không được cầm lấy bàn tay của hắn, nam chi ý chí kiên cường, lòng dạ bất khuất, hai bên cùng nhìn nhau rồi cười, tất cả đều không bộc lộ ra được trong lời nói.
Hắn thở một hơi thật dài, đón nhận những bông tuyết đang lao tới trước mặt, nhìn về phía đội ngũ đang xếp thành hàng nghiêm chỉnh trước mắt mình. Đôi mắt quét qua những khuôn mặt thanh niên, quen thuộc có, không quen thuộc có, có vài nét mặt còn thể hiện sự rầu rĩ tang thương khi phải xa nhà, bỗng nhiên, ánh mắt của hắn dừng lại trên người một chiến sĩ thân hình thấp bé.
Hắn khoác áo giáp nửa người, bên trong giáp là một bộ võ phục, một thanh trường kiếm vác trên vai, dải tua trên thanh kiếm bị gió thổi lên, quét qua mặt của hắn, nhưng dù bị che bởi những tua kiếm kia, thì khuôn mặt thanh tú, mỹ lệ như đào hoa kia vẫn không thể che giấu được, đích thị là Quý Tôn Tiểu Man. Nàng đứng bên cạnh một chiếc chiến xa, đang mỉm cười nhìn về phía mình.
Khánh Kỵ bất giác đi về phía nàng, Lương Hổ Tử đứng phía sau bỗng gọi:
- Công tử, thuộc hạ có chuyện này.... công tử...
Khánh Kỵ bỏ mặc không để ý, đi thẳng tới chỗ Quý Tôn Tiểu Man, kinh ngạc nói:
- Nàng... chiến trường là nơi nguy hiểm, nàng đến đây làm gì, chẳng phải ta đã nói nàng phải ở lại Ngải Thành sao?
Quý Tôn Tiểu Man liếc nhìn hắn, sẵng giọng nói:
- Ngải Thành đã là một tòa thành trống, ta ở lại đó làm gì? Đã không có nơi nào đi, vậy thì chỉ còn biết theo đến đây thôi.
Khánh Kỵ biết đó chỉ là lời nói biện cớ, thiên hạ lớn như vậy, nàng đi đâu chả được? Lúc trước bảo nàng ở lại bên cạnh chăm sóc thì nàng còn không chịu cơ mà. Bây giờ lại chịu kham chịu khổ theo tới Sở quốc, tấm lòng thiếu nữ lẽ nào hắn lại không biết?
Trong lúc xúc động, Khánh Kỵ vụt chốc nắm chặt lấy đôi tay nàng, đôi bàn tay nhỏ bé được ấp chặt trong bàn tay to lớn của hắn, cảm giác lành lạnh, Khánh Kỵ trông thấy khuôn mặt của nàng hơi tím tái, đôi bàn tay đông lạnh đến đỏ bừng, không khỏi có chút tức giận:
- Ngải Thành một năm nay tích lũy rất nhiều lương thực quân nhu, lẽ nào lại không thể chuẩn bị được cho nàng vài bộ quần áo dày dặn ấm áp ư? Nàng ăn mặc phong phanh như vậy, cơ thể thì lạnh cứng, nếu chẳng may sinh bệnh thì biết làm sao đây? Lương Hổ Tử!
Trong ánh mắt của Quý Tôn Tiểu Man hiện lên một ý cười ôn nhu, thanh âm cũng trở nên dịu dàng:
- Đừng trách Lương tướng quân, là do người ta không chịu mặc, những bộ quân phục đó mặc lên trông phì nộn cả người ra, khó coi chết đi được.
Khánh Kỵ nghe xong không biết nên khóc hay nên cười:
- Điều này quả đúng như câu xinh đẹp đến run người, muốn đẹp không muốn sống hay sao?
Quý Tôn Tiểu Man câng mặt lên:
- Vậy thì đã làm sao, dù sao thì càng đi về Nam càng ấm áp, đợi khi qua được sông thì đến cả bông tuyết cũng chẳng nhìn thấy nữa đâu.
Khánh Kỵ lắc lắc đầu, cởi áo khoác của mình xuống, chẳng nói chẳng rằng khoác lên trên vai nàng, buộc dây áo cho nàng, rồi nói:
- Thật chẳng thể hiểu được nàng nữa, được rồi, cứ mặc tạm áo khoác của ta đã, đợi đến Bách Thành...
Lương Hổ Tử chạy tới, vội nói:
- Công tử, thuộc hạ có...
Khánh Kỵ quay đầu sang, hừ một tiếng nói:
- Chuyện ta căn dặn ngươi, chẳng có chuyện nào là làm cho tốt cả, còn muốn... hả?
Hắn nhìn thấy Lương Hổ Tử hướng về phía mình nháy mắt ra hiệu vài cái, thần tình có chút quỷ dị, không khỏi khẽ chút giật mình, thuận theo ánh nhìn của Lương Hổ Tử nghiêng mắt ra xem, dùng khóe mắt kín đáo liếc về phía đó. Lúc này mới bị khiếp vía hồn bay phách lạc, nhìn lại lần nữa, quả nhiên là thật, người kia tuy rằng mặc một bộ giáp, chiều cao cũng chỉ tương đương với sĩ tốt bình thường, nhưng khuôn mặt rõ ràng là Thúc Tôn Diêu Quang.
Trong khoảnh khắc Khánh Kỵ dường như đang mơ hồ trong giấc mộng: "Diêu Quang... tại sao nàng ấy lại ở đây được chứ?"
Sau đó, ánh mắt của hắn khẽ chùng xuống, tâm tình cũng cụt ngủn không còn hứng thú. Hỏng rồi, hai tay của hắn vẫn đang dừng trước ngực của Quý Tôn Tiểu Man, ngón tay khẽ chạm vào chiếc cằm mỹ lệ lành lạnh của nàng, chiếc dây trên cổ áo khoác mới chỉ cài được một nửa, động tác này, nhìn thế nào cũng có chút ám muội.
Dường như gió tuyết có chút lạnh, vì Khánh Kỵ phát hiện da mặt của mình cũng hơi đanh lại. Khóe miệng của hắn hơi co lại, khẽ mấp máy, đón lấy cái nhìn từ cặp mắt trong trẻo của Quý Tôn Tiểu Man, cặp mắt to đẹp đó vẫn đang mang một sự vui vẻ hiền dịu, thế nhưng.... Khánh Kỵ bất giác cảm thấy trong đôi mắt đó hiện lên một chút gì đó của sự đắc ý.
Khánh Kỵ bỗng nhiên tự hận mình, tiểu cô nương đóng giả tiểu tử kia đã bao giờ có mùi vị nữ nhân đâu, lúc nãy làm sao nàng ta có thể vì sự quan tâm hỏi han của mình mà bộc lộ ra tình cảm như vậy? Động tác này của mình, lúc thường thì phản ứng của nàng ta phải là ngượng nghịu bất an, cảm giác không thoải mái mới phải. Nàng ta... rõ ràng là cố ý châm chọc ta.
Khánh Kỵ hung hăng trừng mắt nhìn nàng, Quý Tôn Tiểu Man đáp lại bằng ánh mắt thờ ơ, nụ cười trên vẻ mặt đóng kịch lại càng dương dương đắc ý hơn.
- Nàng đã đến đây rồi, ta cũng không thể đuổi nàng về được!
Ánh mắt của Khánh Kỵ không liếc nhìn về phía Thúc Tôn Diêu Quang nữa, cứ như thể hắn chưa từng nhìn thấy Thúc Tôn Diêu Quang vậy, giọng nói bỗng nhiên sang sảng vang vọng, thần thái nghiêm nghị, đường hoàng nghiêm trang nói với Quý Tôn Tiểu Man:
- Ta cùng Tam Hoàn thế gia quan hệ sâu sắc, Thúc Tôn Thị, Mạnh Tôn Thị, đều có cội nguồn chặt chẽ với ta, nàng là người của Quý Thị thế gia, một thân nữ tử lưu lạc bên ngoài, ta làm sao có thể nhìn mà không để ý chứ? Nên mới thu giữ nàng ở lại, nếu như nàng sinh bệnh ở chỗ của ta, há chẳng phải là do ta chăm sóc không chu đáo sao? Đợi khi vào Bách Thành, lập tức sẽ thay bằng quần áo dày ấm. Hừ, cái gì mà quân phục dày cộm phì nộn bất kham chứ, căn bản thì vẫn là một tiểu hài tử chưa trưởng thành, ai thèm để ý tới dung nhan đẹp xấu của nàng?
Quý Tôn Tiểu Man quay lưng về phía Thúc Tôn Diêu Quang, làm động tác dí dỏm thè lưỡi với hắn, mũi hơi nhăn nhăn trêu tức, đắc ý nói:
- Lêu lêu lêu, phản ứng của công tử Khánh Kỵ nhanh đấy nhỉ, lại lừa được ngay cô nương người ta rồi đấy nhỉ? Hi hi...
Khánh Kỵ toát mồ hôi, ngoài trời rất lạnh, gió thổi rất lớn, thế nhưng hắn lại cảm thấy trong người có cảm giác rất nóng rất nóng. Bản thân phải làm sao vừa tự nhiên vừa ngạc nhiên mà phát hiện ra Thúc Tôn Diêu Quang đang ở trong đội ngũ kia đây, còn phải làm ra một bộ mặt kinh ngạc, vui mừng, nếu không thì màn kịch lúc nãy chỉ phí công vô ích thôi...
Ánh mắt sát nhân đáng sợ của nàng... chết tiệt thật, Lương Hổ Tử đâu? Lúc nãy nhìn thấy ta, tại sao hắn không nói luôn là Diêu Quang cũng có ở đây...
Khánh Kỵ quay đầu lại tìm Lương Hổ Tử với ánh mắt cầu cứu, bỗng thấy nơi lúc nãy Lương Hổ Tử đứng đã không còn thấy ai. Ở phía xa truyền đến một tiếng nói như sấm sét ngang trời, cứ như thể sợ hắn không nghe thấy vậy. Khánh Kỵ nhìn về nơi phát ra tiếng nói, chỉ thấy tên Lương Hổ Tử lúc nãy còn đang nói vì hắn mà vào sinh ra tử, đổ máu nơi sa trường, bất luận thế nào cũng không chịu thoái bước kia đang dùng cánh tay còn lại vung vẩy, tay áo bồng bềnh, gân cuống họng lên cao hứng bừng bừng nói:
- Các huynh đệ, công tử đến đón chúng ta rồi, các huynh đệ, đã gặp được công tử nhà ta rồi!
Chỉ là, bước chân của hắn rất nhanh, dường như phía sau đít có con chó đang đuổi theo vậy, tình hình đó nhất định không phải là đang cổ vũ sĩ khí toàn quân, mà giống như là... bỏ chạy mất dạng vậy.
Bên tai vang đến tiếng cười khúc khích khe khẽ của Thúc Tôn Diêu Quang, Khánh Kỵ hung dữ trừng mắt nhìn về phía tên Lương Hổ Tử không biết nói lời nghĩa khí kia, đã tức đến nỗi không nói được gì...
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của Tiểu Mùi
Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành
Chương 188: Khói lửa chiến tranh
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
Khánh Kỵ quay đầu lại tìm Lương Hổ Tử với ánh mắt cầu cứu, bỗng thấy nơi lúc nãy Lương Hổ Tử đứng đã không còn thấy ai. Ở phía xa truyền đến một tiếng nói như sấm sét ngang trời, cứ như thể sợ hắn không nghe thấy vậy. Khánh Kỵ nhìn về nơi phát ra tiếng nói, chỉ thấy tên Lương Hổ Tử lúc nãy còn đang nói vì hắn mà vào sinh ra tử, đổ máu nơi sa trường, bất luận thế nào cũng không chịu thoái bước kia đang dùng cánh tay còn lại vung vẩy, tay áo bồng bềnh, gân cuống họng lên cao hứng bừng bừng nói:
- Các huynh đệ, công tử đến đón chúng ta rồi, các huynh đệ, đã gặp được công tử nhà ta rồi!
Chỉ là, bước chân của hắn rất nhanh, dường như phía sau đít có con chó đang đuổi theo vậy, tình hình đó nhất định không phải là đang cổ vũ sĩ khí toàn quân, mà giống như là... bỏ chạy mất dạng vậy.
Bên tai vang đến tiếng cười khúc khích khe khẽ của Thúc Tôn Diêu Quang, Khánh Kỵ hung dữ trừng mắt nhìn về phía tên Lương Hổ Tử không biết nói lời nghĩa khí kia, đã tức đến nỗi không nói được gì...
Hán Thủy, cứ điểm quan trọng bến sông Ngư Phản , tiếng chém giết rung trời.
Quân Ngô đang tấn công mạnh mẽ vào bến sông Ngư Phản, nơi đây, hiện tại vẫn là quân Sở chiếm giữ.
Đại tướng quân Ngô Vương Tôn Hùng chống mâu đứng trước trận tiền, hờ hững nhìn về phía doanh trại trước mặt, binh lính của hắn giống như một bầy kiến liều mạng, đang công kích về phía tòa doanh trại kia. Chòi quan sát, thành lũy trên doanh trại đều hướng ra phía ngoài để chống địch đến từ trước mặt, bây giờ kẻ địch lại đánh xốc ở phía sau lưng, thế địa lợi đã bị hạn chế. Lại thêm cả việc thành lũy doanh trại đều chủ yếu được xây dựng bằng gỗ, dưới những làn mưa tên xối xả công kích liên hồi, hiện tại đã có mấy khu vực lửa cháy phừng phừng, chuyện thất thủ đã không còn phải bàn cãi.
Cung nỏ của người Sở sắc bén lợi hại, tuy nhiên hiện tại tên đã bắn gần hết, hai bên đành phải bắt đầu áp vào nhau dùng vũ khí ngắn đánh giáp lá cà, kiếm thuẫn của người Ngô bắt đầu phát huy uy lực của mình. Kiếm quang lấp lánh, vung vẫy còn khiến người ta phải ớn rét thấu xương, vô số những thanh đoản kiếm chạm vào những chiếc thuẫn thủ, phát ra những tiếng "keng keng" ầm trời, chiến xa của người Ngô giống như một đám mây đen mù mịt, nuốt chửng trận địa của người Sở, những tiếng gầm rú háo hức rít lên đinh tai nhức óc.
Sở đại phu Khuất Vô Trần cầm kiếm đứng ở trên thành trại, lửa bốc cháy ngùn ngụt, bóng dáng cao gầy tựa cành cây khô đứng lẻ loi trong gió. Toàn thân ông khoác trên mình một bộ đồ trắng toát, đeo dây lưng bên hông, đầu quấn khăn trắng, cách ăn mặc như đang để tang vậy.
Ông mặc như vậy, chính là để tang cho mình, để tang cho thân nhân trong gia đình mình, để tang cho hàng nghìn hàng vạn binh sĩ trong doanh trại của mình. Khi quân Ngô phát binh đánh úp Ngư Phản, ông đã biết rằng tòa thành này nhất định sẽ không thể cầm cự được bao lâu. Khi ông đánh lui đợt tấn công lần thứ tư của quân địch, tận dụng thời gian quân sĩ đôi bên chỉnh đốn lại chiến trận, liền quay trở về nhà, cưỡng ép ra lệnh cho thê thiếp già trẻ lớn bé trong nhà, tổng cộng là mười bảy người, tất cả đều phải thắt cổ tự tử để tỏ lòng hy sinh vì tổ quốc. Sau đó mặc bộ đồ tang trở lại trận địa, ông đã quyết tâm chiến đấu tới người lính cuối cùng, cùng sống cùng chết với cứ điểm Ngư Phản.
Một dải hàng rào lay động vài cái, rồi sụp đổ ầm ầm. Doanh trại này tuy làm bằng gỗ, nhưng hàng rào đều được xây dựng bằng những khối gỗ to lớn chôn sâu xuống đất. Người Ngô khi công trại đã dùng dây thừng ngựa kéo nhưng cũng không làm cách nào đổ hàng rào cho được. Thế nhưng dưới những làn hỏa công mạnh mẽ, chẳng bao lâu sau chúng đã bị cháy rụi điêu tàn, cuối cùng những hàng rào kia cũng đã hoàn thành sứ mệnh của mình.
Khóe miệng Vương Tôn Hùng lộ ra một tia cười thỏa mãn, bàn tay của hắn nắm chặt dần thanh trường mâu, chậm rãi giơ nó lên không trung. Đầu mâu sắc bén lấp lánh phát ánh sáng chói lòa khi được ánh mặt trời chiếu sáng. Thanh trường mâu huơ trong không trung trong chốc lát, rồi sau đó dưới sự điều khiển của cánh tay vâm đô của Vương Tôn Hùng dũng mãnh lao lên phía trước.
- Giết!
Đội quân dự bị sau lưng Vương Tôn Hùng đồng loạt giơ trường mâu lên, giống như một rừng binh khí sắt thép, nhất tề chĩa về phía trước. Cả rừng trường mâu giống như dòng thủy triều ào ạt lao lên phía trước, toàn bộ đội ngũ xếp thành hình thế, thần tốc lao vào lỗ hổng vừa được tạo ra, tiến thẳng vào doanh trại.
Đôi mắt Khuất Vô Trần đỏ ngầu, giơ trường kiếm lên, khàn giọng hét lớn:
- Toàn quân xông lên, cùng chết với địch!
- Toàn quân xông lên, cùng chết với địch!
Những binh sĩ Sở đôi mắt cũng ngầu máu rời khỏi những lỗ châu mai phía trên doanh trại, lao xuống phía dưới vật lộn với đoàn quân Ngô. Kiếm thuẫn, trường mâu kết hợp , tạo thành một tiểu đội hoàn mỹ hợp tác tác chiến với nhau. Quân Sở còn lâu mới là đối thủ của đội quân Ngô quen dùng vũ khí ngắn này, máu tươi, chết chóc cứ không ngừng tăng lên...
Khuất Vô Trần thề sống mái với quân thù giống như kẻ điên, tay cầm trường kiếm của người Sở lao thẳng vào trong trận địa của quân Ngô, không màng sống chết đâm chém lung tung. Lưỡi kiếm gạt bỏ hết được những thanh trường mâu tạt tới, vận hết sức bình sinh, nhưng chỉ là phí công vô ích, đâm bổ mãi cũng chỉ chạm được vào những trận địa thuẫn được bố trí nghiêm mật.
- A!
Khuất Vô Trần ngửa mặt lên trời thét dài một tiếng, rồi khuỵu gối xuống vung kiếm quét một vòng, trong khoảnh khắc hàng thuẫn của quân Ngô có chút lơi lỏng, đã chặt đứt một chân của một viên binh sĩ, sau đó ông dùng chân đá bay tấm thuẫn kia, đạp ngã tên lính đã cụt một chân đang kêu rú thảm thiết ngã sóng xoài, lợi dụng lỗ hổng lao lên phía trước.
"Keng" một tiếng, một thanh trường mâu đột nhiên xuất hiện trước mặt, mũi mâu giao kích với trường kiếm, thanh kiếm vốn đã sứt mẻ nhiều chỗ giờ đây lại xuất hiện một vết nứt rỗ lớn, Khuất Vô Trần loạng choạng lùi lại, trước mặt là một vị tướng quân đang đứng ngạo nghễ.
Giáp nhẹ, trường mâu, đứng sừng sững hiên ngang, sát khí hầm hầm ngưng tụ trên đôi mắt của hắn.
- Sở nhân Khuất Vô Trần ở đây, ngươi là kẻ nào?
Người kia nhẹ nhàng nhấc trường mâu lên, đạo mạo nói:
- Ngô nhân Vương Tôn Hùng.
"Được!" Khuất Vô Trần cười khó khăn, trường kiếm dựng thẳng, đôi mắt đỏ ngầu chằm chằm nhìn đối phương.
Vương Tôn Hùng đứng nghiêng người, một tay cầm mâu, tay kia khẽ phẩy, sĩ tốt quân Ngô bốn bề lập tức dạt về phía sau, hình thành một bức tường vòng tròn, trong vòng tròn là Khuất Vô Trần và Vương Tôn Hùng người cầm kiếm kẻ cầm mâu, ngoài vòng tròn, là những binh sĩ Sở quốc và những tướng sĩ Ngô quốc giống như bầy hổ lang đang ngã xuống, số lượng càng ngày càng ít dần.
- Tướng quân xin hãy xuất chiêu đi!
Vương Tôn Hùng một tay cầm mâu, hướng mũi mâu về phía trước, quát giọng lanh lảnh.
- Ya!
Khuất Vô Trần xoay người lao tới, mượn tốc độ di chuyển nhanh chóng của bước chân và sức lực của cơ vai, liên tiếp bổ xuống mười mấy kiếm, giống như cuồng phong đâm bổ về phía Vương Tôn Hùng.
Vương Tôn Hùng cầm trường mâu, vung vẫy khiêu khích, lui dần về phía sau, binh khí hai bên va đụng vào nhau, tiếng va đập vang lên không ngớt, liên tiếp mười mấy kích, "Keng" một tiếng, thanh kiếm của Khuất Vô Trần không chịu nổi những đợt phản kích dữ dội uy lực, đã bị gãy ra thành hai đoạn, trường mâu của Vương Tôn Hùng chĩa về ngực ông, mũi mâu sắc bén đã tiếp giáp với áo bào, áp sát vào trước ngực, Vương Tôn Hùng cười nhạt, quát lớn:
- Hàng hay chết?
Sau tiếng "keng", một nửa thanh trường kiếm rơi xuống bãi cát, Khuất Vô Trần cười bi phẫn, cầm lấy nửa thanh kiếm còn lại trong tay, gọt một đường thẳng tắp trên cổ mình, máu tươi phun ra liên hồi, ứa ra chảy tràn khắp áo bào như hoa mai nở. Vương Tôn Hùng khẽ thở dài:
- Biết rõ là không địch lại được, tại sao còn cố chấp như vậy?
Hắn lắc tay, thu trường mâu lại, thân hình Khuất Vô Trần khẽ lảo đảo, thần thái trong mắt tiêu tan dần, khóe môi khẽ động đậy, dường như còn muốn nói điều gì, nhưng sau một hơi thở hắt ra, ông đã đổ người xuống đất.
Binh sĩ bốn bề quan sát trông thấy vậy thì giương cao binh khí trong tay, hoan hô hưởng ứng, có người đã cao giọng nói to:
- Tướng thủ thành Ngư Phản Khuất Vô Trần đã chết! Tướng thủ thành Ngư Phản Khuất Vô Trần đã chết!
Tiếng kêu truyền ra khắp doanh trại, lúc này đã là biển lửa, những tốp binh sĩ Sở tụm lại thành nhóm ba, năm người bị quân Ngô chia cách, từng hàng trường mâu và kiếm thuẫn bao bọc lấy những tướng sĩ Sở quốc còn lại, bọn họ giống như những chiếc lá héo tàn giữa phong ba bão tố, bị gió bão giày xéo, bảy nổi ba chìm. Cho dù bọn họ đã ôm lòng quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, nhưng nghe được thông tin này, quyết tâm thề chết đã bị dao động, những chiếc "lá rụng" kia đã bị cuồng phong dập nát.
Vương Tôn Hùng bước qua những tử thi và máu tươi lênh láng trên đường, trong tiếng chém giết sang sảng quát lớn:
- Kẻ nào không chịu đầu hàng thì giết chết không tha, nhanh chóng thu dọn chiến trường, thu nạp toàn bộ chiến thuyền lớn nhỏ, giữ lại ba mươi chiếc dự trữ, số còn lại gom lại rồi đốt hết!
Dĩnh Đô, một đội kéo dài nhìn mãi không thấy điểm tận. Những đội xe ngựa của các công khanh, thân sĩ từ Sở quốc lập thành một đội, được binh sĩ tinh nhuệ hộ tống, hành trình thẳng tới Ngô quốc. Một đội nhân mã tạm thời được điều về Ngư Phản, đem những vật trang tư dụng cướp bóc được theo đường thủy trở về nước.
Hạp Lư dường như muốn mang theo cả toàn bộ Sở quốc vậy, tất cả vật tư quân nhu, công cụ sinh hoạt, vàng bạc châu báu, binh khí sắt thép, bất kể là dùng được hay là không đều được vận chuyển cho bằng hết. Bây giờ hắn không lo là không có xe ngựa, mà hắn lo là không đủ người đi theo hộ tống hết chỗ xe ngựa chở đồ này. Tất cả những của cải vật chất của Sở quốc tích lũy suốt hơn năm trăm năm nay sắp bị Hạp Lư vơ vét thu vào túi riêng sạch sẽ.
- Tránh ra! Tránh ra!
Hơn mười viên đại hán cưỡi khoái mã, trên vai cắm lá cờ nhỏ, hẳn là tín sứ trong quân, một tay quất roi thúc ngựa, một tay soải ra đuổi tránh những đoàn quân đang chở của cải sang hai bên, khiến cho đoàn quân ngũ xiêu vẹo méo mó phải nhường ra một con đường, đoàn người tức tốc vọt lên thoát khỏi đám đông.
Bọn họ chính là những tín sứ được Cơ Quang phái đi, Cơ Quang có ý muốn cầm cự thêm ở Dĩnh Đô một thời gian nữa, chống đỡ những đợt tấn công của liên quân Khánh Kỵ với người Sở. Đợi đến khi Tề Tấn có phản ứng, đại cục thiên hạ xoay vần, nhưng thực sự thì hắn vẫn chưa thể yên tâm với Ngô quốc, liền phái người cưỡi khoái mã quay về, bàn mưu tính kế hợp mưu hành động với bào đệ Phu Khái và thái tử Phù Sai.
Cơ Quang lệnh cho bào đệ Phu Khái đề phòng nghiêm ngặt Việt quốc, nước trước nay luôn câu kết với Sở quốc làm điều gian "nhân lúc cháy nhà mà đi hôi của", lệnh cho thái tử Phù Sai phái thám mã, cùng với những trinh sát được mình phái đi giám sát nghiêm ngặt mọi con đường yếu đạo đi tới Ngô quốc, để đề phòng Khánh Kỵ chỉ Nam đánh Bắc, giả ý liên minh với Sở quốc, kỳ thực ngấm ngầm tập kích Ngô quốc.
Cùng lúc đó, hắn phái vài lộ đại quân chia ra cát cứ chiếm đóng ở những cửa ải hiểm yếu xung quanh Dĩnh Đô, định bụng thừa lúc quân đội cần vương của người Sở chưa kịp hội quân chiếm cứ toàn bộ những vùng yếu địa chiến lược, chiếm lấy ưu thế về địa lý.
Xung quanh Dĩnh Đô, tất cả những cửa ải hiểm yếu, nơi nào cũng có quân Ngô canh giữ, chiến hỏa phừng phừng...
- Nằm giữa hai ngọn núi, tòa thành lũy kia là nơi nào vậy?
Khánh Kỵ ẩn mình trong rừng rậm, phóng mắt quan sát trận địa, hỏi một binh sĩ Sở dẫn đường.
- À, tướng quân, tòa thành nhỏ kia chính là Na Xứ (dịch sang tiếng Việt là "chỗ đó")
- Đúng vậy, chính là tòa thành đó, nó tên là gì vậy?
- Ách... tướng quân, tòa thành nhỏ đó, tên gọi của nó chính là "Na Xứ"
- Gì cơ?
Khánh Kỵ khẽ ngẩn người ra, sau đó cười khẩy nói:
- Cái tên này thật khiến người ta cảm thấy kỳ lạ.
Hắn ngẩng đầu nhìn tiết trời, bóng tịch dương đã buông xuống, bầu trời còn hơi chút ửng đỏ, nhưng khí lạnh đã bắt đầu lan tỏa. Tuy rằng đây là vùng Giang Nam, mùa đông cũng chả được coi là lạnh lẽo cắt da cắt thịt, nhưng màu sắc của bầu trời lẫn mặt đất, vẫn khiến cho người ta cảm nhận được một sự ảm đạm thê lương, sầu não đến vô cùng.
- Căn dặn ba quân tướng sĩ tất cả ẩn vào trong rừng nghỉ ngơi, không được nhóm lửa, không được gây ra tiếng động lớn, coi chừng lũ ngựa thật tốt.
- Rõ.
A Cừu chắp tay vâng lệnh, vội vã lui ra.
- Diêu Quang...
Nhìn thấy viên lính dẫn đường cũng theo đó lui ra ngoài, Khánh Kỵ liền cười ôn hòa nói với Thúc Tôn Diêu Quang đang đứng kế bên:
- Đêm nay khi phát động cuộc tập kích với tòa thành đó, nàng chỉ được ở trận địa phía sau, tuyệt đối không được xung phung lên trước, khiến ta bị phân tâm.
- Dạ! Biết rồi, đánh trận, là chuyện của đàn ông mà...
Thúc Tôn Diêu Quang cười ngọt ngào, thái độ rất hòa nhã:
- Nhưng... chàng... chàng phải cẩn thận, nếu như chàng gặp phải một chút thương tổn nào, thì lần sau thiếp nhất định phải được sát cánh chiến đấu bên cạnh chàng.
- Được!
Khánh Kỵ mỉm cười.
Hôm đó khi phát hiện ra Thúc Tôn Diêu Quang ở trong đoàn quân, cho dù hắn cảm giác được rằng hành động "mừng rỡ bất ngờ ngoài ý muốn" của mình có chút vụng về, nhưng dường như Thúc Tôn Diêu Quang vẫn cho là thật, nàng trước sau chẳng thèm dò hỏi nghi ngờ lấy một câu, cũng không có một lời than vãn trách móc, điều này khiến cho Quý Tôn Tiểu Man vốn đang nghĩ sẽ được xem kịch hay có đôi chút thất vọng.
Còn Khánh Kỵ thì như đi guốc trong bụng với những biểu hiện của Thúc Tôn Diêu Quang, nàng không phải là không nhận ra điều gì, mà là bởi vì lúc này là lúc Khánh Kỵ đang lĩnh binh phạt Ngô phục quốc, là một thời khắc vô cùng vô cùng quan trọng, cho dù nàng chất chứa một bụng nghi ngờ, nhưng cũng không thể hiện ra ngoài, đề cập đến khiến Khánh Kỵ phân tâm trong thời khắc như vậy.
Việc khéo hiểu lòng người cùng phong độ biết rõ thời cuộc, công tư phân minh của Thúc Tôn Diêu Quang khiến cho Khánh Kỵ đã kính giờ còn càng thêm yêu nàng. Những ngày qua hai người sát cánh hành quân, bàn bạc việc quân, mặc dù đã không còn nhiều thời gian bàn chuyện phong hoa tuyết nguyệt như hồi ở Phí thành, nhưng tình cảm của hai người ngược lại càng thêm bền chặt keo sơn.
Chỉ là... sau trận đại chiến thì sao? Khánh Kỵ không hề quên, có một đêm hắn đưa Diêu Quang về trướng, muốn thừa cơ vui đùa với nàng một tí, không ngờ nàng nha đầu này đột nhiên nổi cơn ghen tuông nói:
- Đi đi đi, người ta bây giờ đang giúp chàng đánh trận vẫn chưa đủ sao? Muốn tìm nữ nhân à, đi mà tìm Ngải tướng quân của chàng ấy. Hứ, còn định già mồm cãi chối ư? Chàng dám nói việc cởi bào tặng áo hôm bão tuyết đó không có chút tình cảm nam nữ nào, chỉ là quân tâm thuộc hạ mà thôi sao? Hừ! Đợi khi chàng làm xong đại sự, thiếp sẽ lại tính sổ với chàng!
Đừng tưởng nàng ôn nhu hiền hòa như nước, sự đanh đá chua ngoa của nàng so với sự điêu toa giả dối của Tiểu Ngải còn trên một bậc, bây giờ nàng giấu đi nanh vuốt sắc bén, đợi khi đại cục đã định sẽ bắt đầu phát tác trở lại. E rằng sẽ khiến người ta phải kinh hãi muôn phần. "Đi một bước nhìn một bước, trước mắt hai a đầu này đang thầm tranh đấu gầm ghè lẫn nhau, toàn bộ công phu cao thấp đều dồn vào trong chiến sự, chưa hẳn đã là chuyện không tốt." Khánh Kỵ khẽ nhìn trộm dung nhan giảo mỹ của nàng, thầm nghĩ như vậy trong lòng.
Bóng tịch dương vàng vọt, nhuốm lên trên dung mạo đẹp đẽ của Thúc Tôn Diêu Quang một đường viền vàng vọt, tựa hồ như cảm thấy Khánh Kỵ đang nhìn mình, nàng liền liếc nhìn sang phía Khánh Kỵ. Khánh Kỵ vội thu lại ánh nhìn, nhìn thẳng về phía trước, hai người chầm chậm bước xuống bãi cỏ dưới sườn núi, đang muốn vượt qua một con suối, một chân Khánh Kỵ choạng vạng, suýt tí nữa thì chạm nước.
- Địa hình của tòa thành này thật hiểm trở.
Khánh Kỵ nén giọng nói xuống rất thấp.
Yểm Dư, Lương Hổ Tử, Kinh Lâm, còn cả A Cừu Tái Cừu, các tướng lĩnh thân thuộc chúm chụm lại thành vòng tròn, không có đống lửa nổi lên ở giữa. Màn đêm tối tăm, ánh trăng ảm đạm, nhìn không rõ mặt mũi mọi người, chỉ có thể nhờ vào ánh trăng sao lấp lánh chiếu lờ mờ, trong giọng nói và thân hình của mỗi người để nhận ra thân phận của họ.
Trong bóng tối, ngũ quan Khánh Kỵ khó nhìn rõ được, chỉ có đôi mắt sáng lóe phát ra ánh sáng rạng rỡ.
- Theo tình hình suốt chặng đường chúng ta dò la xem xét, vị trí địa lý của tòa thành này cực kỳ có lợi cho những hành động tiếp theo của chúng ta, vì vậy, ta muốn chiếm cho bằng được tòa thành này, biến nó thành đại bản doanh của chúng ta.
Yểm Dư công tử lên tiếng nói:
- Tòa Na Xử thành này không lớn lắm, là nơi trú chân cho ba vạn đại quân của ta e rằng hơi chật chội, bức bối, còn về ưu thế địa lý..., Khánh Kỵ, cháu hãy nói cho mọi người biết lý do và dự định tại sao lại chọn tòa thành này, cho mọi người thương nghị xem sao.
- Dự định của ta, mọi người đều biết rõ. Cơ Quang phạt Sở, điều động đại bộ phận quân tinh nhuệ Ngô quốc, mục đích của chúng ta chính là dẫn dụ hắn vướng vào trong cuộc chiến tranh với Sở quốc, nhân lúc trong nước không có vua quân coi giữ, chiếm lại quyền kiểm soát Ngô quốc. Hiện tại, những tuyến đường giao thông huyết mạch từ Ngô quốc sang Sở quốc đều nằm trong tay của Cơ Quang. Hàng vạn đại quân của ta hành quân, tuyệt đối không thể lọt qua được tai mắt của hắn, vì vậy, những con đường yếu đạo cả trên thủy lẫn trên bộ từ hướng Đông sang Ngô quốc chắc mẩm đã được bố phòng dày đặc mật thám của Cơ Quang, nếu chúng ta vứt bỏ Cơ Quang sang một bên, trực tiếp tập kích thẳng tới Ngô quốc, như vậy thì Cơ Quang có thể quay về nước nhanh hơn chúng ta một bước, đó là điều chắc chắn.
Cho dù chúng ta có thể tiến tới Ngô quốc đồng thời với hắn, hoặc thậm chí đi trước một bước, cũng chắc chắn phải đối mặt với sự chống cự quyết liệt từ phía quân thủ thành mà Cơ Quang để lại trong nước, bất kể chúng ta có công thành phá trại thế nào, đại quân chủ lực của Cơ Quang cũng sẽ trở về kịp, như vậy thì đại kế sách của chúng ta sẽ tan thành mây khói. Vì vậy, chúng ta phải dàn dựng như thể sẽ tạo ra một trận quyết tử với Cơ Quang tại Sở quốc, khiến hắn mơ hồ, đưa ra cái nhìn sai lầm về bố cục. Lợi dụng cơ hội đang kết minh với Sở quốc mà vây chặt hắn tại đây, nếu chuyện không thành, thì cũng phải tận lực tiêu hao binh lực của hắn, tạo điều kiện tiền đề thuận lợi cho chúng ta trong các cuộc đại chiến sau này trên lãnh thổ đất Ngô. Lực lượng mà ta dùng để tấn công thực sự vào Ngô quốc nằm ở Lỗ quốc, đó là đội quân hiện tại do Chúc Dung vương thúc, Tôn Vũ, cùng Anh Đào thống lĩnh, đó chính là đội kì binh phạt Ngô phục quốc của chúng ta.
Địa thế của tòa thành Na Xử kia rất hiểm yếu, là một trong ba tuyến đường bộ mà Cơ Quang lựa chọn để rút quân, hơn nữa lại là con đường ngắn, nhanh và tiện lợi nhất, là vùng đất mà trong binh gia buộc phải có được, đây chính là lý do quan trọng thứ nhất mà ta chọn nó. Thứ hai, nơi này nếu tiến về Nam, có thể công phá Dĩnh Đô, một khi đội quân cần vương của Sở quốc tề tụ đông đủ, chúng ta có thể mượn nơi này làm bàn đạp để tạo thành thế gọng kìm với Sở quân kẹp Cơ Quang lại; Nơi này nếu tiến về Bắc, chỉ hai mươi dặm xa đã đi tới Hán Thủy, chúng ta thủ tại nơi này, dựa vào địa lợi, khi thời cơ thích hợp, có thể rút lui quân đội bất cứ lúc nào, men theo dòng Hán Thủy Đông tiến, từ vùng nước Trường Giang giết trở lại Ngô quốc, rồi lại đi đường bộ, đây cũng là đoạn đường ngắn nhất.
- À...,
Yểm Dư trầm ngâm trong chốc lát, rồi vuốt cằm nói:
- Không sai, suy nghĩ của cháu thật thấu đáo, ta đồng ý với quyết định của cháu, có điều ta còn có một vài ý kiến nữa. Gần ba vạn đại quân của ta, tất cả dồn tụ đồn trú tại nơi này là không hợp lý, huống hồ tuy bảo nơi này là hiểm địa, nhưng nó cũng là tuyệt địa, đội quân cần vương của người Sở hiện tại đang lục tục đi về Tùy quốc, nhất thời không thể tới đây, nếu như chúng ta chiếm đóng tòa thành đó vào thời điểm này, Cơ Quang nhất định sẽ phái trọng binh đánh ngược trở lại, chẳng may để chúng bao vây trong tòa thành đó, đội quân cô độc của chúng ta sẽ trở nên "khéo quá hóa vụng" mất thôi.
Ta chinh chiến ở Sở quốc suốt một năm, có hiểu biết nhất định về địa hình địa lý ở nơi này. Ta còn nhớ từ nơi này hướng về phía Tây Bắc, khoảng chừng ba mươi dặm, có một chiếc hồ lớn dựa vào núi, hồ tên gọi là Bách Tân. Hồ Bách Tân thông sông Hán, nối sông Chương, chu vi vài trăm dặm, dựa núi tựa hồ, dễ thủ khó công. Theo ý kiến của ta, sau khi chúng ta hạ xong tòa thành này sẽ chia binh đồn trú ở hồ Bách Tân, tạo thành thế ỷ giốc với tòa thành này, tương trợ lẫn nhau. Như vậy sẽ tránh bị rơi vào tình thế hiểm nghèo cô lập.
Kinh Lâm khen ngợi:
- Lời công tử Yểm Dư nói quả là chí lý. Chuyện binh không thể khinh suất, nên dùng kế sách vẹn toàn này. Hơn nữa, chúng ta phạt Ngô sẽ có khả năng phải dùng tới đường thủy. Con đường đó đến từ Vệ quốc, chúng ta lại không có lấy nổi một còn thuyền. Hồ Bách Tân khuôn viên mấy trăm dặm, lại thông tới Hán Thủy, nhân mã của chúng ta đồn trú tại hồ Bách Tân có thể nhân tiện thu gom thuyền bè lại phòng khi sử dụng tới, một khi đến lúc sử dụng là có thể tùy ý huy động được ngay.
Mọi người bàn tán sôi nổi, ai nấy đều phát biểu bổ sung ý kiến, cho đến khi ánh trăng đã lên cao vời vợi, chiếu sáng mọi nơi, khiến cho bóng dáng của họ in trên nền đất che lấp khuôn mặt người đối diện, đám đông mới thôi bàn tán. Mọi người thống nhất, trước tiên đoạt lấy tòa thành này, chiếm đóng con đường bộ chính yếu để lui binh của Cơ Quang. Sau đó chia binh ra hồ Bách Tân, kết hợp với nhau chặt chẽ, đồng thời thu gom thuyền bè để sử dụng lúc về Ngô tác chiến. Trong màn đêm, tòa thành kia bốn bề yên ắng, đại đội nhân mã nấp sau cánh rừng rậm rạp, Khánh Kỵ chỉ cầm ba ngàn binh sĩ già dặn có kinh nghiệm tác chiến lâu năm, trườn sấp đi về phía trước, từ từ tiếp cận tòa thành. Tại một nơi trên sườn núi, Khánh Kỵ ra lệnh quân sĩ dừng lại, ngẩng đầu xem xét tỉ mỉ động tĩnh trong thành, tòa thành kia trong bóng đêm giống như một con quái thú cô hồn dạ quỷ, lẳng lặng thủ phục ở đằng kia.
Ghé tai nghe ngóng động tĩnh trong thành, Khánh Kỵ lặng lẽ đứng lên, nắm chặt thanh trường mâu trong tay:
- Xung trận đoạt thành! Ai lên thành trước được tấn thêm một bậc, giết tên đầu sỏ được tấn hai bậc, xuất phát!
Trong màn đêm yên tĩnh, phát ra một tiếng động, đó chính là âm thanh phát ra do ma sát từ những bộ giáp trụ của binh sĩ khi nhất tề đứng dậy. Sườn núi bỗng nhiên cao thêm một đoạn, kiếm kích sắc bén dưới ánh trăng tỏa sáng phát ra những ánh quang mang ớn lạnh. Những công cụ công thành thô sơ được các võ sĩ nhấc lên, bọn họ giống như dòng thủy triều đổ xuống sườn núi, tiếng bước chân rầm rập từ từ phát lớn, như voi dữ dậm chân, đất đai rung chuyển.
- Giết!
Khi bọn họ tiến tới dưới chân thành, có người phát ra một tiếng thét gầm giận dữ, giống như thể dòng đại hồng thủy tìm được lỗ hổng để xối xả, ba nghìn sĩ binh cùng lúc hô gào, một tiếng gầm đáng sợ phát ra trong đêm đen, quây lấy tòa thành trì nhỏ bé kia.
Chiến kiếm huy vũ, những công cụ đầu nhọn thô kệch công thành va đập vào chiếc cổng thành mỏng manh, một làn hỏa tiễn trong đêm như cơn mưa sao băng rót xuống tòa thành, ánh lửa và sắc máu tóe ra không ngừng.
Dưới sự công kích không ngừng, chiếc cổng thành không được dày dặn cho lắm đã bị đánh phá cho bầm dập gãy nát, trong ngoài thành ánh lửa bốn bề, quân trên thành và quân thủ thành của Ngô quốc bắt đầu triển khai chiến trận, hơn trăm chiếc thang gỗ thô sơ được gác lên tòa thành thấp nhỏ, binh sĩ trườn bò lên như bầy kiến, không ngừng có người kêu thảm rớt xuống dưới, không ngừng có người tiếp tục leo lên, quan binh thủ thành vội vã ứng chiến rất nhanh chóng bước vào giai đoạn giao chiến bằng binh khí ngắn.
- Quân địch không phải người Sở!
Có người nhìn thấy qua ánh lửa lập lòe, phát ra câu nói kinh hãi.
- Ngô quốc Khánh Kỵ, thảo phạt nghịch tặc Cơ Quang, kẻ nào hàng thì sống, chống cự thì chết!
Nhân mã của Khánh Kỵ thuận đà la lớn.
Khánh Kỵ rời nước mới được hơn một năm, trong đám sĩ binh người Ngô vẫn còn uy danh là "kẻ không thể đánh bại", vừa nghe tới đây là nhân mã của Khánh Kỵ, những quan binh Ngô quốc vốn đã trở tay không kịp nay lại càng thêm hoảng loạn.
Khánh Kỵ ngạo nghễ đứng trên trận tiền, có chút nhíu mày, Yểm Dư cầm mâu đứng kế bên, bèn hỏi:
- Đang nghĩ gì vậy?
Khánh Kỵ khẽ lắc đầu, hạ giọng nói:
- Sự phản kháng của quân Ngô mạnh mẽ hơn là ta tưởng.
Yểm Dư cũng thoáng gật đầu:
- Đúng vậy, hơn một năm nay, quân Ngô với ta đã nhiều lần đại chiến ở Sở quốc, ngu thúc (chỉ Yểm Dư) bất tài, nhiều lần bại trận, sự sợ hãi trong lòng của quân Ngô đã rất nhỏ nhoi.
Khánh Kỵ lắc đầu nói:
- Vương thúc cố nhiên binh bại tại Sở quốc, Khánh Kỵ lần trước phạt Ngô không thành, bại trận trở về, cũng khiến cho sự lo sợ của đám sĩ tốt giảm đi nhiều. Huống hồ, nguyên nhân quan trọng nhất chính là, trong thời gian hơn một năm qua, e là Cơ Quang đã thay thế toàn bộ tướng lĩnh trong quân đội rồi.
Hắn im lặng trong chốc lát, rồi bỗng nhiên cười nói:
- Cơ Quang thay thế tướng lĩnh quân đội, nhưng mới chỉ được có một năm có lẻ, trẻ con của Ngô quốc vẫn chưa trưởng thành, hắn không thể nào thay thế toàn bộ binh sĩ tướng lĩnh trong quân được. Binh lính Ngô quốc đã quên mất võ dũng của hai ta, vậy chúng ta hãy dùng sự thực, khiến bọn chúng lại lần nữa phải sợ hãi e dè!
Câu nói của Khánh Kỵ nhen nhóm ý chí chiến đấu trong lòng Yểm Dư, hắn nắm chặt trường mâu, cao giọng cười lớn:
- Chính xác, chúng ta hãy dùng sự thực bằng máu nóng, khiến cho chúng sợ hãi lần nữa.
Hai chú cháu nhìn nhau cười ha hả, tiếng trống trận kinh động lòng người vang lên dồn dập, xóa sạch tàn vết của những âm thanh khác trên chiến trường.
- Theo bản công tử công thành, trong thời gian ba nén hương phải chiếm cho được tòa thành này!
Khánh Kỵ và Yểm Dư cầm mâu xung phong, tám trăm binh sĩ tay cầm kiếm mâu theo sát phía sau, bọn họ đạp mạnh từng bước về phía trước, mỗi lần đi một bước, liền dùng sống kiếm đập lên bì thuẫn thật mạnh, phát ra tiếng "Coong" thật mạnh. Tám trăm người đồng thời dùng kiếm gõ thuẫn, tiếng động này giống như tiếng rít gào, còn đáng sợ hơn cả tiếng trống trận.
- Coong! Coong! Coong!
Khánh Kỵ và Yểm Dư soái lĩnh binh lính, đích thân xông lên phía trước.
Đôi bên đã bước vào giáp chiến, điều Khánh Kỵ không ngờ tới là, binh sĩ Ngô quốc cố sống cố chết kháng cự, thề chết không lui. Hắn điên tiết lên, sát ý nảy sinh. Binh sĩ Ngô quốc chết trong trường mâu của hắn đã đếm không xuể, toàn thân chiến bào đều nhuốm đỏ sắc máu. Toàn bộ tòa thành đã không còn những tiếng chỉ huy (đúng hơn là thét gào chỉ huy thế nào cũng chả ai nghe thấy), ai ai cũng chỉ lo chiến đấu vì bản thân mình. Đám hộ binh quây kín xung quanh Khánh Kỵ chuyển vào một hẻm nhỏ, trong căn hẻm tối tăm đột nhiên vang lên một hồi thanh âm.
- Cẩn thận đề phòng!
Khánh Kỵ hét lớn, đồng thời vứt bỏ thanh trường mâu lúc này đã không còn thích hợp khi chiến đấu trong ngõ hẹp, rút ra Thừa Ảnh kiếm của hắn. Hắn đã ý thức được rằng mình đang lâm vào một trận địa phục kích của địch. Một bóng đen trước mặt mang theo một luồng sát khí lao tới, Khánh Kỵ nghiêng người xoay chuyển, Thừa Ảnh kiếm linh hoạt quét một đường nửa hình tròn, chém đứt ngọt xớt đầu lâu của đối thủ, cùng lúc mũi kiếm chỉ về phía trước, khi tên địch thứ hai còn chưa kịp phản ứng, thì lưỡi kiếm đã xuyên thẳng qua ngực hắn.
"Cạch cạch cạch", tiếng bước chân phía sau vang lên dị thường, Khánh Kỵ không chút nghĩ ngợi, vặn người lại, kiếm quang bổ xuống, "keng" một tiếng, song kiếm giao thoa, đoản kiếm của người kia bị hắn một kiếm chém đứt, lưỡi kiếm của Khánh Kỵ bổ xuống chính giữa mặt hắn, từ mũi xuống cổ, rạch một đường máu thẳng tắp, găm lại tại vùng xương đòn trước ngực, Khánh Kỵ thu kiếm, phía sau vang lên một tiếng bình bịch của thân thể đổ xuống, toán quân Ngô đó đã bị tiêu diệt hoàn toàn.
"Phừng!" Một cây đuốc được thắp lên, Khánh Kỵ một tay cầm đuốc, một tay cầm Thừa Ảnh kiếm, đằng đằng sát khí soi rõ khuôn mặt tên quân Ngô vừa đánh lén hắn, tuy rằng tên đó nằm trong vũng máu, nhưng hắn vẫn chưa chết.
Ánh lửa lờ mờ, dường như có chút thân thuộc, có điều máu me khắp mặt, không dám khẳng định chính xác, Khánh Kỵ nguôi ngoai sát khí, quát rằng:
- Ta là vương tử Khánh Kỵ, ngươi là kẻ nào?
Người kia sửng sốt, sau đó cười buồn bã nói:
- Khánh Kỵ? Thì ra là ngươi...
Khánh Kỵ nghe thấy giọng nói đó, thân thể không khỏi chấn động, nghẹn ngào kêu lên:
- Sư phó?
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của Tiểu Mùi
Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành
Chương 189: Cuộc chiến thầm lặng
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
- Cát Hoa sư phó!
Khánh Kỵ vội vàng quăng kiếm, ngồi xổm xuống đỡ ông vào trong lòng. Đám lính đứng vây quanh cầm đuốc soi sáng, để bọn họ ở chính giữa, cây đuốc vang lên tiếng rít gào trong gió lạnh, nghe mà sởn hết gai ốc.
- Vương tử...
Cát Hoa muốn cười lắm, nhưng hắn bị một kiếm của Khánh Kỵ bổ từ trên trán xuống dưới hàm, đôi môi đều nứt cả ra, nụ cười trông vô cùng kỳ dị, lại thêm khuôn mặt máu me be bét, trông giống như quỷ dạ xoa hiển linh vậy.
- Hồi vương tử còn nhỏ, Cát Hoa luôn đau đầu nghĩ cách để thua vương tử, đến khi công tử trưởng thành, Cát Hoa muốn không thua cũng chẳng được nữa. Vương tử từ nhỏ chí lớn, Cát Hoa thua giả thua thật với người, trước sau đã có cả vài nghìn lần rồi, lần này... lần này có lẽ là lần cuối cùng rồi.
- Sư phó!
Khánh Kỵ không cầm được lòng bật khóc, nước mắt chảy ròng ròng, hai người động thủ trong bóng đêm, Cát Hoa không biết rằng người mà mình đợi sẵn ở đây mai phục chính là Khánh Kỵ, Khánh Kỵ cũng không hề biết rằng người mà hắn phản kích lại là ân sư dạy võ, võ công của Cát Hoa hiện tại đã không bằng hắn, nhưng cũng không thể một chiêu hạ thủ như vậy được, trừ phi kiếm của Khánh Kỵ quá sắc bén, nếu không thì Cát Hoa đã không dễ dàng táng mạng như vậy.
Từ thuở nhỏ, Khánh Kỵ đã được cha là Ngô Vương Liêu chọn lựa cho hắn bốn vị sư phó võ nghệ cao cường truyền dạy võ công, trong bốn người đó Cát Hoa là người truyền thụ kiếm thuật cho hắn, tính tình của ông là hiền hòa nhất, cũng bởi Khánh Kỵ là con cưng của Ngô Vương, nên Cát Hoa không khỏi có phần nuông chiều hắn. Khánh Kỵ hoặc là ham chơi, hoặc là lười biếng, Cát Hoa đều cố tình che giấu hộ hắn. Ông không phải là người thầy nghiêm khắc, nhưng trong lòng Khánh Kỵ thuở còn ấu thơ, luôn cảm thấy rằng ông là người sư phó tuyệt vời nhất. Giờ đây ông chết thảm dưới lưỡi kiếm vô tình của Khánh Kỵ, khiến hắn không cầm được lòng mình, kêu khóc thống thiết.
Cát Hoa thở dốc liên hồi, giọng nói yếu ớt:
- Vương tử, xin dung thứ... xin dung thứ cho tội kháng cự tập kích của Cát Hoa. Cát Hoa... Cát Hoa cũng là do bất đắc dĩ...
- Con không trách thầy, không trách thầy, sư phó, người đừng nói gì nữa, con lập tức đi tìm y sĩ...
Đôi mắt của Cát Hoa đã được che phủ bởi một tầng máu tươi, những gì ông trông thấy chỉ là một dải dài sắc máu, không còn nhìn thấy hình hài của Khánh Kỵ nữa. Cơ thể ông khẽ run rẩy, cảm giác càng lúc càng lạnh lẽo. Biết rằng mình đã không thể qua khỏi, liền nắm chặt lấy tay của Khánh Kỵ, gắng hết sức nói:
- Vương tử, Cát Hoa... đã không trụ nổi thêm được nữa rồi. Xin đừng oán hận Cát Hoa, cũng xin đừng... oán hận những sĩ tốt kia...
Thanh âm của ông ngày càng yếu ớt, cố gắng cầm hơi nói nhỏ:
- Đại vương... đại vương nghe nói vương tử đến Sở quốc, đã... đã hạ lệnh xuống ba quân tướng sĩ: Phàm là Ngô quân, chỉ cần đụng độ Khánh Kỵ, kẻ nào không đánh, tự ý rút lui... Giết! Vứt bỏ binh khí đầu hàng, giết... giết hết cả nhà. Cát Hoa... Cát Hoa bất đắc dĩ...
Khánh Kỵ phải hơi nghiêng tai mới có thể nghe rõ những tiếng thì thào yếu ớt của ông, Cát Hoa nói tới đây bỗng nhiên ngừng lại, Khánh Kỵ từ từ nâng đầu lên, chỉ thấy đầu của ông đã rủ xuống khuỷu tay của mình, bàn tay kia vẫn nắm chặt lấy cánh tay mình, chặt tới mức mảnh giáp che tay hơi lõm xuống.
Khánh Kỵ ngồi quỳ trên mặt đất rất lâu, cho đến khi thân thể đã cứng đờ, mới dùng tay gạt từng ngón tay của ông ra, từ từ đặt ông nằm ngay ngắn trên đất, cơ thể của hắn đã nhuốm đầy những giọt máu đã khô lại của Cát Hoa, từng cơn gió thổi qua, khiến cho da thịt trên cơ thể hắn khẽ rùng mình.
Tiếng chém giết bốn bề đã ngừng lại, nhiều đội sĩ tốt thắp đuốc tuần tra lùng sục khắp thành. Có người nhìn thấy Khánh Kỵ đang ở nơi này, Lương Hổ Tử cụt tay cầm theo thanh trường kiếm đang rỏ máu ròng ròng rảo bước về phía hắn.
- Thu liễm thi thể của ông, rồi chôn cất ông cho tử tế, để ông được yên nghỉ.
Khánh Kỵ khe khẽ căn dặn cho sĩ tốt đứng bên.
- Công tử!
Lương Hổ Tử chạy tới gần, chắp tay nói:
- Tòa thành đã hoàn toàn nằm trong quyền kiểm soát của chúng ta, thật kỳ lạ, lần này quân Ngô chống cự quyết liệt khác thường, biết rõ không địch nổi vậy mà có rất ít kẻ đào tẩu, gây tổn thất không ít cho các huynh đệ của chúng ta. Không biết trong thành có nhân vật quan trọng gì không, A Cừu và Tái Cừu đang thẩm vấn một số tù binh ít ỏi bắt được.
- Chẳng có nhân vật quan trọng nào ở đây hết.
Khóe môi Khánh Kỵ khẽ nhếch lên:
- Phân phó xuống dưới, thu dọn chiến trường, tiếp quản thành trì, đón đại quân vào thành. Phái hai nghìn người đêm nay phòng thủ thành trì, thám mã tỏa ra cách ngoài thành hai mươi dặm. Bố trí ổn thỏa cho những người thương vong, những người khác an bài nơi nghỉ ngơi, sáng sớm ngày mai tu sửa thành trì, dựa vào địa thế hiểm yếu nằm kẹp giữa hai dãy núi, biến nó thành một cứ điểm trọng yếu phong tỏa Dĩnh Đô.
- Rõ!
Lương Hổ Tử trông thấy Khánh Kỵ vẻ mặt đau thương, không khỏi nhìn xuống dưới lòng đất xem thi thể, rồi sau đó mới chắp tay bỏ đi.
- Cơ Quang..., thật là tên cáo già! Ngươi cứ cẩn thận... chơi với lửa có ngày chết cháy!
Trong mắt Khánh Kỵ ánh lên một tia nhìn dữ dằn, hai bàn tay dính máu nắm thật chặt, các khớp xương phát ra tiếng kêu răng rắc.
Trời sáng, trong thành ai nấy cũng đều tất bật, những cổng thành, tường thành bị hủy hoại đều được sửa chữa, gia cố lại. Trên thành chất đầy gỗ đá, hai đội nhân mã do A Cừu, Tái Cừu thống lĩnh, chia nhau ra đồn trú tại hai bên núi, giống như hai cái gọng kìm, hô ứng cho tòa thành Na Xử ở chính giữa.
Yểm Dư và Kinh Lâm lãnh một nửa quân, đi về vùng hồ Bách Tân ở phía Tây Bắc, đồng thời thu gom thuyền bè, rồi tận dụng các khu rừng nguyên sơ được hình thành từ hồi thượng cổ đến bây giờ để lấy gỗ xây dựng các chiến hạm to lớn.
Lương Hổ Tử ở lại cùng Khánh Kỵ coi giữ thành Na Xử, đôn đốc tu sửa thành trì, gia cố phòng ngự. Khánh Kỵ một mặt phái thám mã đi dò la tin tức Dĩnh Đô, một mặt sai người đi liên lạc với Sở vương và Phí Vô Cực, để xác định kế hoạch hành động, đồng thời nghe ngóng tin tức từ phía Lỗ quốc. Theo tính toán về lộ trình và thời gian, tín sứ của hắn chắc đã đến Lỗ quốc Phi Hồ cốc, Chúc Dung và Tôn Vũ chắc đã có động thái tiếp theo rồi.
Đồng thời, hắn còn điều động thêm vài đội nhân mã đi bố cáo từ trong thành Na Xử cho đến vùng dân dã xung quanh rằng "Na Xử thành" hiện đã nằm trong tay hắn, hơn nữa Khánh Kỵ đã ký kết hiệp ước đồng minh với người Sở, vì vậy nên người dân Sở quốc hãy ở nguyên tại nhà, không cần phải bôn ba tứ phía chạy nạn, đồng thời khuyên nhủ những cư dân trong thành Na Xử chui lủi trốn tránh trong rừng rậm trở lại thành trì.
Các đội quân nhận được chiếu thư cần vương của Sở vương đang lũ lượt hành quân tới Tùy quốc để hội quân cùng Sở vương, còn phía Dĩnh Đô không hề có bất cứ phản ứng nào trước việc Khánh Kỵ chiếm lĩnh được "Na Xử thành", khiến người ta bàn tán về những tính toán của Cơ Quang và Ngũ Tử Tư. Thám mã báo tin về, chỉ biết được rằng quân Ngô đã đẩy nhanh tốc độ vận chuyển của cải từ Sở quốc về, điều đáng chú ý là, đại tướng số hai thủ hạ của Cơ Quang là Bá không có động tĩnh gì trong thời gian này, không hề thấy bất cứ hành động nào của hắn ở Dĩnh Đô, Khánh Kỵ rất để tâm tới hành tung của hắn, chỉ tiếc là đã tìm đủ mọi cách nhưng vẫn không thể tìm ra được tăm hơi nào của hắn. Đại chiến sắp nổi lên, thành Na Xử tạm thời khôi phục lại vẻ yên bình. Rất nhiều người Sở trong thành Na Xử trở về gia viên, trong đó có một vài thương nhân, còn nhận được tiền đặt cọc của Khánh Kỵ, giúp hắn thu mua lương thảo. Những người bình dân dễ thỏa mãn chỉ biết được rằng mình đang có người bảo vệ, giống như một người bạn đáng tin cậy vậy. Ngô quốc Khánh Kỵ một năm trước là nỗi khiếp sợ của họ, giờ đây trở thành vị thần hộ mệnh trong mắt họ.
Tòa thành Na Xử sau khi đã dọn dẹp vết máu và lửa xém giờ đây như được hồi sinh trở lại, mang một sức sống hoàn toàn mới, bước chân của mọi người không còn thất thểu vội vã, phụ nữ và trẻ em cũng bắt đầu xuất hiện trên phố, rảo bước trên đường. Thỉnh thoảng còn nghe thấy từng trận cười rộ lên.
Chậm bước trên con phố trong thành, trong lòng Khánh Kỵ có một cảm giác rất kỳ lạ. Gian khổ từ việc sát phạt mà ra, hạnh phúc cũng từ việc sát phạt mà ra. Trường mâu và lợi kiếm của hắn đã giết hại không biết bao nhiêu người, khiến cho rất nhiều gia đình bị tan nát trong chiến tranh, người vợ thành góa phụ, người con mất đi người cha, gia đình vốn đang hạnh phúc trở thành tang thương. Ngược lại, cũng là trường mâu và lợi kiếm của hắn, lại có thể bảo vệ che chở cho một số phu quân của những người khác, gia đình hạnh phúc ngập tràn, tiếng khóc xưa kia nay đã thành tiếng cười rạng rỡ.
Giữa thị với phi, đúng với sai, vốn dĩ không hề có một ranh giới rõ ràng, càng không thể đúng với tất cả mọi người.
Khánh Kỵ đưa mắt nhìn về phía Đông, tuy là Giang Nam, nhưng trên đồng ruộng lại không thấy ai làm việc đồng áng, các chị em phụ nữ ngồi dưới mái hiên đan sọt, dệt vải, phía sau lưng là căn nhà được đắp bùn vừa mới xây xong còn tanh mùi bùn, mái hiên làm bằng cỏ tranh vẫn còn chút màu xanh tươi mới, bọn họ cười đùa trò chuyện, thản nhiên đón nhận những ánh mắt của nam nhân cầm giáo mác đi qua, nếu nhìn thấy một vài sĩ binh tướng mạo anh tuấn trẻ trung, họ còn mạnh bạo ngẩng đầu lên nhìn rồi cùng chị em bàn tán một phen suốt từ đầu đến chân anh chàng đó.
Trông thấy những cô nương dễ thương mạnh bạo kia, khóe môi Khánh Kỵ không giấu nổi một nụ cười vui vẻ.
- Mấy cô nương người Sở kia ngoại trừ eo ót cũng tạm được ra, còn có cái gì hấp dẫn nữa?
Quý Tôn Tiểu Man đứng ở cách đó không xa bất bình nói, nàng õng ẹo cái eo nhỏ của mình, khôi phục lại vài phần tự tin:
- Nếu không phải là mặc bộ áo giáp này, thì eo của ta cũng thon nhỏ như họ.
Thúc Tôn Diêu Quang đứng bên cạnh cũng mặc một bộ giáp y như nàng khẽ gườm nàng một cái, rồi hừ giọng:
- Nhìn cái gì mà nhìn? Ta còn chưa nổi cơn ghen đây, ngươi ngoa ngoắt như thế làm cái gì? Đợi khi chàng trở thành Ngô vương, khắp cung đều là nữ nhân, lúc đó ngươi sẽ phải ghen tức đến xịt máu mà chết mất.
- Xấc, ngươi không ghen, thế sao lông mày lại vểnh hết lên thế kia? Chẳng lẽ là vui quá hóa cuồng à?
- Ngươi...
Thúc Tôn Diêu Quang nắm lấy bảo kiếm bên hông:
- Quý Tôn Tiểu Man, ngươi đừng có quên ước định giữa hai chúng ta, khi nói chuyện với ta không được sấc láo.
- Hừ! Là ngươi lên mặt với ta đấy chứ.
Quý Tôn Tiểu Man cười chế giễu:
- Chàng còn chưa được làm đại vương Ngô quốc, vậy mà ngươi lại nói chuyện ngôi vị vương hậu rồi đấy.
Thúc Tôn Diêu Quang khẽ nhảy dựng lông mày lên, cố ý chọc giận nàng nói:
- Ngươi đừng có mơ hão, ta à, chắc chắn là sẽ được ngồi vào chiếc ghế Ngô quốc vương hậu, nếu ngươi còn biết khôn, thì từ bây giờ hãy bớt chọc giận ta đi, nếu không thì sau này sẽ không có tương lai tốt đẹp đâu.
Lương Hổ Tử đứng một bên mồ hôi vã ra như tắm, cười cười khuyên nhủ:
- Hai vị cô nương, đại cục làm trọng, đại cục làm trọng.
Quý Tôn Tiểu Man hừ lạnh một tiếng, vỗ bảo kiếm bên hông:
- Đừng có uy hiếp ta, bản cô nương ăn mềm không ăn cứng, nếu ngươi còn không phục, thì chúng ta dùng kiếm giải quyết, tìm cơ hội để múa máy tay chân. A.... đúng rồi, nói cho nhà ngươi biết, thanh Hàn Quang bảo kiếm của ta là do chàng đích thân tặng cho đấy.
Quý Tôn Tiểu Man cố ý cười e thẹn, quay người bỏ đi, cố ý bước đi như kiểu nam nhân, ưỡn ngực ưỡn bụng giống như một chú gà trống cao ngạo.
- Ngươi quay lại!
Quý Tôn Tiểu Man giả vờ không nghe thấy, Thúc Tôn Diêu Quang giận lắm, thân thể điên tiết đến phát run, Lương Hổ Từ mồ hôi mồ kê nhễ nhại khuyên bảo:
- Diêu Quang cô nương không nên tức giận, đại nghiệp của công tử quan trọng hơn, lúc này không thể để cho công tử phân tâm, đại cục làm trọng, đại cục làm trọng, a... nếu như cô nương thích, mạt tướng sẽ đi nói với công tử một tiếng, đem Thừa Ảnh kiếm đến dâng tặng cho cô nương...
- Bỏ đi!
Thúc Tôn Diêu Quang giận dỗi dậm chân:
- Chàng đang chinh chiến quyết liệt ngoài sa trường, đang vào lúc cần đến vũ khí sắc bén phòng thân...
- Đúng quá đúng quá, Diêu Quang cô nương nói thật chí lý, đại cục làm trọng, đại cục làm trọng.
- Hừ...
Thúc Tôn Diêu Quang khẽ hừ một tiếng từ trong lỗ mũi, cố nguýt dài giọng ra:
- Đúng vậy, đại cục làm trọng. Đợi khi đại cục hoàn thành, ta sẽ lại đi tính nợ với chàng!
Thúc Tôn Diêu Quang nói xong, hất mạnh tay áo, nhấc cằm lên, như chú chim khổng tước kiêu ngạo đi theo hướng ngược lại với Quý Tôn Tiểu Man...
Tấn quốc Dực Thành, quốc vương Cơ Khí Tật nhìn sáu mỹ nữ Ngô Việt đang đứng trước mặt, mặt mày hớn hở cười nói với Ngô quốc sứ tiết Úc Bình Nhiên Úc đại phu, khen rằng:
- Ngô oa Việt diễm, thanh thủy phù dung, quả nhiên không phải nói ngoa, ha ha, được, được, được.
Úc Bình Nhiên mỉm cười, khom người nói:
- Đây là tấm tâm ý của quốc quân tệ quốc đối với đại vương, chỉ cần đại vương yêu thích là được rồi.
Nói đến đây, hắn khẽ thở dài rồi nói:
- Tấn quốc là bá chủ trong thiên hạ, Ngô quốc chúng tôi hàng năm đi sứ, đời đời tấn cống, kính sợ Tấn quốc, coi như huynh đệ. Vậy mà, người Sở lại muốn mưu đồ chiếm đoạt Ngô quốc, cấu kết với bọn phản tặc trong nước Yểm Dư, Chúc Dung chờ thời phạt Ngô. Quân thượng chúng tôi bất đắc dĩ, đành phải xuất binh truy bắt đám phản nghịch Yểm Dư, Chúc Dung, thế nhưng bây giờ người Sở lại cầu cạnh sự giúp đỡ từ phía người Tần, Ngô quốc chúng tôi đang có nguy cơ bại vong, ài... lần này e sẽ là lần cuối cùng triều cống đại vương, ngày này năm sau... quân thần Ngô quốc chúng tôi không biết thân xác đã trôi dạt về nơi nào rồi.
Tấn hầu Cơ Khí Tật nghe xong ha hả cười nói:
- Úc đại phu không cần lo lắng như thế, Tấn quốc ta chính là Bá trưởng của chư hầu trong thiên hạ, theo lý phải chủ trì chuyện bất bình trong thiên hạ. Ừ... ngươi cứ tạm về dịch quán nghỉ ngơi, đợi quả nhân... quả nhân triệu tập quần thần, bàn bạc chuyện xuất binh tương trợ quý quốc.
Úc Bình Nhiên nghe xong, mặt mày rạng rỡ, vội vàng cung kính lễ độ quỳ rạp xuống, dập trán xuống đất, dùng đại lễ yết kiến:
- Ngoại thần Úc Bình Nhiên, tạ ơn đại vương.
Tấn quốc là nước hùng mạnh nhất trong các nước chư hầu, thế nhưng vị quốc quân của quốc gia lớn mạnh nhất trong thiên hạ này lại chỉ là một vị nguyên thủ trên danh nghĩa, cũng giống như Lỗ quốc quốc quân, khanh sĩ phân quyền, quốc quân không có quyền hành thực sự. Cơ Khí Tật vốn cũng muốn làm nên điều gì đó, hai năm trước, trước khi Sở quốc Thái Tử Kiến chạy trốn khỏi Trịnh quốc lập mưu làm phản với quyền thần Trịnh quốc, đã từng đến bái phỏng Tấn quốc, thăm dò thái độ của quốc quân Tấn hầu nước láng giềng, lúc đó hắn cũng thầm bày tỏ sự ủng hộ đối với hành động của Thái Tử Kiến, hy vọng Trịnh quốc đại loạn, thừa cơ xuất binh, mượn quân công gia tăng quân quyền của mình. Nào ngờ, hiền tướng Trịnh quốc Tử Sản quả thực là vô cùng lợi hại, đám Ngũ Tử Tư, Thái Tử Kiến còn chưa kịp hình thành kế sách tạo phản hoàn thiện, đã bị Tử Sản nắm được một vài tin tức hạ thủ trước, giải trừ mối họa, âm mưu tạo phản bị phá sản nhanh chóng, khiến quốc quân Tấn quốc buồn bực vô cùng.
Bây giờ lục khanh đã lớn mạnh, năm nay Triệu Giản Tử cấu kết với Tri thị, Hàn thị, Ngụy thị, Phạm thị, Trung Hành thị tiêu diệt lão công tộc Kỳ thị và Dương Thiệt thị. Thế lực của lục khanh lại càng lớn mạnh hơn nữa. Triệu Giản Tử càng được thể khí thế ngút trời, Cơ Khí Tật tự biết việc đã không thể thành được nữa, hùng tâm tráng chí thời niên thiếu đều triệt để hóa thành ảo mộng, sa đọa hoàn toàn vào tửu sắc. Người Ngô biết ý, dâng tặng những mỹ nhân Ngô oa, Bách Việt. Tấn hầu nhìn thấy mà không khỏi khấp khởi hưng phấn trong lòng.
Nơi người Tấn sinh sống nằm ở vùng đất Sơn Tây ngày nay, sát nách với Nhung Địch, dân tộc Nhung Địch nổi tiếng với việc sản sinh ra mỹ nữ, mỹ nhân trong thiên hạ nếu luận về sự gợi cảm yêu kiều, thì mỹ nhân Nhung Địch xếp hạng nhất. Những mỹ nhân vong quốc trong lịch sử, như Đát Kỷ, Bao Tự, Ly Cơ đều mang dòng máu Nhung Địch.
Tấn hầu là quân chủ của Tấn quốc, trong cung tuyệt đối không thiếu tuyệt sắc giai nhân, lại càng có nhiều mỹ nhân Nhung Địch, nhưng lòng tham của người này không biết bao nhiêu là đủ, mỹ nhân Ngô Việt có vẻ đẹp duyên dáng thùy mị của vùng đất quê hương mình, phong tình lại khác biệt với nữ tử Nhung Địch, hôm nay người Ngô biết ý dâng tặng, trong lòng Cơ Khí Tật mừng rỡ lắm lắm, quyết định triệu tập lục khanh, hắn lấy danh nghĩa là quân chủ một nước mà điều phái lục khanh phát binh tương trợ người Ngô.
Ban đêm, trong phủ thủ lĩnh lục khanh Tấn quốc, không miện chi vương (vị vua không đeo vương miện), Triệu Giản Tử.
Dưới ánh đèn, Triệu Giản Tử đang nâng niu thanh bảo kiếm trong tay.
Thanh kiếm có chuôi đen hoàn toàn, không một chút sứt sát, làm cho người ta cảm nhận được sự sắc bén của nó, tuy nhiên, thanh kiếm cầm trong tay, uy nghiêm tự sản sinh, nó giống như một vị trưởng giả hiền từ nhưng không mất đi vẻ uy nghiêm, khiến người ta không dám khinh thường. Ngón tay của Triệu Giản Tử khẽ mân mê thanh kiếm, một luồng lãnh ý từ đầu ngón tay xâm nhập vào trong lòng, thanh kiếm ẩn chứa thần vận mê người, giống như một đôi mắt thâm thúy, tinh thông quảng đại đang chăm chú quan sát vạn vật chúng sinh.
- Thần vật ắt có điều dạy bảo a...
Triệu Giản Tử nâng niu vuốt ve thanh bảo kiếm từng tí một, lẩm bẩm nói:
- Lấy ngũ kim chi anh, thái dương chi tinh để rèn đúc nên thanh kiếm này. Xuất ra có thần, thu vào có uy, sức mạnh vô địch, thần vận tiềm tàng, chính là Trạm Lư... Nhân đạo chi kiếm, nhân giả vô địch...
Hắn hơi nhắm hờ đôi mắt, ngón tay đặt lên trên thân kiếm, nghĩ tới lời nói của Úc Bình Nhiên khi tới gặp hắn.
- Đại phu lấy danh nghĩa sứ tiết đến Tấn quốc chúng ta, theo lý phải bái kiến quốc quân của chúng ta trước, tại sao lại đến gặp ta?
- Bởi vì người có thể cứu giúp được Ngô quốc chúng tôi, không phải Tấn hầu, dưới gầm trời này chỉ có đại phu.
- Hử? Nghe nói ngài mang đến sáu mỹ nữ Ngô Việt, muốn kính tặng cho quốc quân của chúng ta, tại sao lại tặng ta một thanh bảo kiếm?
- Bảo kiếm tặng anh hùng!
Triệu Giản Tử khục khặc cười, đôi mắt hắn đanh lại, tra kiếm lại vào vỏ, lẩm bẩm:
- Tần Sở kết minh, người Tần sẽ không còn phải lo lắng về sau, sau này xuất binh ra Hàm Cốc quan, Đông tiến mà giành thiên hạ, Tấn quốc ta chỉ còn biết đứng mũi chịu sào. Giúp đỡ Ngô quốc cũng chính là giúp đỡ chúng ta. Sáng mai, ta sẽ xin quốc quân xuất chỉ, mời thêm các nước Tào, Đài, Chu, Đằng, Tiết, Kỷ, Huân, Trịnh cùng xuất binh, cứu trợ Ngô quốc, phạt Tần Sở!
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của Tiểu Mùi
Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành
Chương 190: Loạn thế thiên hạ
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
- Hử? Nghe nói ngài mang đến sáu mỹ nữ Ngô Việt, muốn kính tặng cho quốc quân của chúng ta, tại sao lại tặng ta một thanh bảo kiếm?
- Bảo kiếm tặng anh hùng!
Triệu Giản Tử khục khặc cười, đôi mắt hắn đanh lại, tra kiếm lại vào vỏ, lẩm bẩm:
- Tần Sở kết minh, người Tần sẽ không còn phải lo lắng về sau, sau này xuất binh ra Hàm Cốc quan, Đông tiến mà giành thiên hạ, Tấn quốc ta chỉ còn biết đứng mũi chịu sào. Giúp đỡ Ngô quốc cũng chính là giúp đỡ chúng ta. Sáng mai, ta sẽ xin quốc quân xuất chỉ, mời thêm các nước Tào, Đài, Chu, Đằng, Tiết, Kỷ, Huân, Trịnh cùng xuất binh, cứu trợ Ngô quốc, phạt Tần Sở!
Yểm Dư và Kinh Lâm đóng quân tại hồ Bách Tân, đốn phạt cây rừng, tìm kiếm thợ thuyền, một mặt tích lũy quân lương, một mặt gia cố thành trì, đề phòng quân Ngô tấn công, đồng thời điều phái thám mã, liên tục giữ liên hệ với Sở vương, Phí Vô Cực, nghe ngóng tin tức quân Ngô, truyền đạt động thái các nước, thám mã đi đông như trảy hội, bên ngoài thì tòa thành giống như một vùng đất bình lặng, nhưng nhìn những chiến mã suốt cả ngày qua qua lại lại, đến cả người dân bình thường cũng có thể cảm thấy được một không khí vô cùng khẩn trương.
Mấy ngày này, vài vị khách thương mệt mỏi tới đây sau một hành trình mệt nhọc, sau khi quân thủ thành tra hỏi xong thì được cấp tốc đưa vào thành ở nhờ trong phủ đệ của Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ nghe nói người đến là Văn Chủng, vội vàng hạ giá nghênh đón, đón hắn vào trong phủ, mừng rỡ ra mặt gọi người lập tức đi chuẩn bị tiệc. Khánh Kỵ đối đãi với những người có địa vị thấp hèn hơn mình một cách trọng đãi như vậy khiến cho Văn Chủng vô cùng cảm kích, chỉ có điều bản tính của hắn vốn là người thâm trầm kỹ tính, trước mắt tuy Sở quốc và Khánh Kỵ hòa hợp như người một nhà, sau này là bạn là thù còn khó đoán định, là một vị đại phu Sở quốc, hắn không dám tỏ ra quá thành thật.
An tọa trên chiếc ghế dưới sảnh, Khánh Kỵ liền hỏi:
- Tử Cầm huynh, huynh vừa từ Tống quốc trở về có phải không?
Văn Chủng chắp tay nói:
- Dạ, được điện hạ nhắc nhở, Văn Chủng ngày đêm gấp rút đi tới Tống quốc, diện kiến Vệ quốc quân phu nhân Nam Tử, có thư tín của điện hạ trong tay, Nam Tử phu nhân tiếp kiến tại hạ, nghe tại hạ phân tích Sở quốc một khi bị diệt vong, thế lực Tấn quốc sẽ chắc chắn xuôi xuống miền Nam, vậy thì Vệ, Tống sẽ phải đứng mũi chịu sào, gánh chịu hậu quả khôn lường, Nam Tử phu nhân biết thế nên lập tức dẫn tại hạ đi gặp Tống công.
Tống quốc tuy nhỏ, nhưng lại là công tước nhất đẳng được Chu thiên tử lệnh phong, xưng công cho Tống quốc quốc quân. Văn Chủng uống một ngụm nước, cười rồi nói:
- Kỳ thực suốt mấy năm nay Tấn quốc luôn cố gắng xâm nhập sang miền Nam, lấn chiếm Vệ Tống, Tống quốc quốc quân đương nhiên đi guốc trong bụng. Sau khi tại hạ phân tích lợi hại, Tống công liền đồng ý tương trợ cho Sở quốc. Tống Vệ máu chảy ruột mềm, như môi với răng, xưa nay cùng tiến cùng thoái, Vệ quốc chịu áp bức của Tấn quốc sâu sắc hơn, một khi Tống quốc đã đứng về bên Sở quốc chúng ta, Vệ quốc đương nhiên không còn cần bàn cãi gì thêm nữa. Khi ta trở về, Tống công liền viết một lá thư, sai người cưỡi khoái mã mang sang Vệ quốc.
Văn Chủng nói đến đây, có chút tự mãn cười nói:
- Có được sự trợ giúp của hai nước Vệ Tống, Trịnh quốc nằm giữa Vệ, Tống, Tấn, Sở ắt hẳn sẽ không nằm ngoài cuộc. Vì vậy khi Văn Chủng quay về liền thuận đường bái phỏng Trịnh quốc quốc quân và thừa tướng Tử Sản đại nhân. Hai năm trước Công Tử Kiến, Ngũ Tử Tư âm mưu sát hại Trịnh quân và Tử Sản, hai bên vốn đã có mối thù không đội trời chung, bây giờ Ngũ Tử Tư được phong làm Ngô quốc tướng quốc, lại cộng thêm dã tâm nham hiểm của Tấn quốc cũng là không nhỏ. Trịnh quân và Tử Sản đại nhân xem xét thời cục, cũng đã đồng ý liên minh với Sở, Bắc chống Tấn quốc, Nam phạt Ngô quân. Trong mấy hôm nay chắc hẳn sứ thần của ba nước đã tới nơi rồi.
Khánh Kỵ nghe xong không khỏi lộ vẻ kinh ngạc, hắn vốn có ý định đưa Văn Chủng sang tấn kiến Tống quốc, là bởi vì giữa hắn và Nam Tử đã từng có một cuộc mật đàm, hắn từng đồng ý rằng nếu như có cơ hội, dưới tiền đề hai bên giúp đỡ nhau cùng có lợi, sẽ giúp đỡ Nam Tử phu nhân củng cố địa vị, khuếch trương thế lực của nàng, để nàng tự tay giết chết Công Tử Triều, xóa giải nỗi hận trong lòng.
Trong bức mật tín kia, hắn đã trình bày tỉ mỉ những điều lợi khi tận dụng thời cục đại loạn, tận dụng liên hệ với Nam Tử liên minh hai nước Vệ Tống tạo sự ràng buộc để hóa giải tình thế. Liệu đoán rằng sau khi Nam Tử gặp sẽ cố hết khả năng để giúp đỡ Văn Chủng, dựa vào trí thông minh cùng thân phận và ảnh hưởng đặc thù của nàng tại hai nước Vệ Tống thì đại sự gần như chắc chắn thành công. Chỉ không ngờ được rằng Văn Chủng, một viên tiểu tướng quân nhỏ bé, lại dám bạo gan đi tới Trịnh quốc diện kiến Trịnh quân và hiền tướng Tử Sản, cầu cạnh Trịnh quốc xuất binh.
Khánh Kỵ nghe được tin tức tốt lành như vậy không khỏi mừng ra mặt, khen tấm tắc:
- Tử Cầm huynh trong chuyến đi này đã nhìn rõ được đại cục thiên hạ, đạp gió cưỡi mây, cầu viện ba nước xuất binh cứu giúp, lập nên công lao to lớn không kể xiết, khi gặp Sở vương chắc chắn sẽ được trọng dụng, tấn phong làm thượng khanh, cấp phong thế hầu, chỉ còn là chuyện dễ như trở bàn tay thôi, chúc mừng, chúc mừng.
Văn Chủng như mở cờ trong bụng, lại khiêm tốn chắp tay nói:
- Văn Chủng có được công lao này, đều là được điện hạ ban tặng, Văn Chủng phải tạ ơn điện hạ mới đúng.
Hai người nói xong nhìn nhau cười khoái trá.
Vệ quốc Đế Khâu, Vệ hầu Cơ Nguyên đang cầm thư tín do nhạc phụ Tống quốc quốc quân gửi tới, cùng các cận thần thân tín Cừ Bá Ngọc, Công Thúc Bạt, Công Mạnh, Công Tử Kinh, Công Thúc Phát đang mật bàn với nhau. Bắc Cung Hỉ cũng ngồi đó, từ sau khi hắn được Vệ hầu đưa lên địa vị cao quý, giành lấy đại quyền của Tề Báo, Tề Báo với hắn đã nảy sinh hiềm khích với nhau. Bắc Cung Hỉ cô độc đơn côi, đành phải dần dựa dẫm vào Vệ hầu.
Tuy rằng hiện tại hắn không thể hoàn toàn tin tưởng vào Cơ Nguyên, và Cơ Nguyên cũng không thể nào tin tưởng hắn giống như tin tưởng Cừ Bá Ngọc, Công Thúc Bạt, Công Mạnh được, thế nhưng quan hệ qua lại giữa đôi bên vẫn êm dịu hơn rất nhiều, hôm nay hắn có thể được ngồi ở đây đã đủ thấy rằng sự coi trọng hắn như người một nhà của Cơ Nguyên. Đương nhiên, trong đó ẩn giấu những dụng ý thử lòng tin đối với hắn, dù sao thì hắn cũng đang nắm giữ lực lượng quân đội chủ lực của Vệ quốc, chỉ là mục đích này không đủ để nói cho người ngoài biết.
- Các ái khanh, bức thư của Tống công các ngươi đều đã xem qua rồi, chư vị cảm thấy thế nào?
Cừ Bá Ngọc nghiêm nghị nói:
- Quốc quân, Vệ quốc ta tiếp giáp với Tấn quốc, vị "láng giềng" khổng lồ này luôn có dã tâm chiếm đoạt thôn tính Vệ quốc chúng ta, bây giờ Ngô Sở tranh hùng, người Tần tham chiến, Tấn quốc dấy binh xuống miền Nam tiếp viện Ngô quốc, không kể đến chuyện hắn liệu có ý định giữa đường dẫn quân tấn công ngược trở lại, thừa cơ diệt Vệ quốc chúng ta, cho dù hiện tại mục tiêu của chúng là Sở quốc, đến khi Sở quốc bại vong, người Tần mất đi lá chắn, ắt phải lui quân quay lại Quan Trung, lúc đó Vệ quốc chúng ta khó lòng bàn tay xâm lược của người Tấn. Cho nên, thần nghĩ rằng trước mắt liên thủ với Tống, liên minh với Sở, ngăn cản người Tống tiến xuống phía Nam, chỉ cần Sở quốc ổn định, Tấn Sở tạo thế cân bằng, bên nào cũng không dám tự tiện manh động, thì Vệ quốc chúng ta sẽ được an toàn.
Công Tử Kinh nhíu mày nói: "Nói là vậy, nhưng... Vệ quốc ta cận kề với Tấn quốc, Tống quốc lại nằm sau lưng chúng ta, nếu như tuyên chiến với người Tấn, Vệ quốc chúng ta sẽ rơi vào cảnh đứng mũi chịu sào. Đạo lý môi hở răng lạnh đương nhiên ai ai cũng hiểu, thế nhưng một khi giao chiến với Tấn, người Tống sẽ chịu xuất ra bao nhiêu binh mã, chi ra bao nhiêu lương thực tiền bạc giúp đỡ còn chưa nói chắc được, ngộ nhỡ chiến cục Ngô Sở nảy sinh biến động, Tống quốc tính toán thế nào cũng rất khó dự liệu cho chính xác được. Chư hầu với nhau, lợi ích mới là điều kiện hợp tác duy nhất, một tờ minh ước, nói lập thì lập được, nói hủy thì cũng hủy được, chúng ta làm sao có thể dám chắc Tống quốc sẽ đồng tâm đồng lòng với Vệ quốc chứ.
Công Tôn Bạt trầm ngâm trong chốc lát rồi nói:
- Quân thượng, thần cho rằng, theo thế của Vệ quốc, việc dấy binh kháng Tấn là điều bắt buộc phải làm. Về liên minh Vệ Tống, mấy trăm năm nay hai nước luôn giao hỏa với nhau, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, đến thời khắc nguy hiểm này, người Tống chưa chắc đã có lòng ích kỷ, chỉ lo cho bản thân mình. Đương nhiên, đưa cả giang sơn xã tắc, nghìn vạn lê dân chỉ để trông chờ vào một lời cam kết của một kẻ quân tử quả thật là quá mạo hiểm. Thần nghĩ, tại sao quân thượng không thúc gọi quân phu nhân hồi quốc? Quân phu nhân là ái nữ của Tống công, giờ đây lại là phu nhân của Vệ quốc chúng ta, thân phận khác thường. Nếu như quân phu nhân trở về, có người bên cạnh, thì có thể đẩy mạnh mối liên hệ giữa hai nước Vệ Tống. Hơn nữa, quân thượng có thể bí mật gửi thư cho quân phu nhân, mời phu nhân quay về, rồi xin Tống công điều một đội đại quân hộ tống theo nàng trở về, tin chắc rằng với mối ràng buộc từ quân phu nhân, Tống công sẽ không dễ dàng ruồng rẫy Vệ quốc đâu.
Công Mạnh tán thưởng:
- Công Tôn đại phu nói chí phải, quân phu nhân là phu nhân của Vệ quốc chúng ta, vinh nhục sống còn của Vệ quốc có mối liên hệ mật thiết với quân phu nhân, Vệ Tống liên thủ cự địch, nếu như có quân phu nhân liên kết ở giữa, thì sẽ không còn gì phải lo lắng nữa.
Vệ hầu trầm ngâm nửa ngày, rồi khẽ gật đầu.
Đợi đến khi mọi người tản đi, con của Công Tôn Bạt là Công Tôn Mậu hộ tống Vệ hầu về cung, đi tới bên hồ Thanh Thủy, Vệ hầu dừng lại, nhìn xuống mặt hồ. Mặt hồ đóng băng, phía trên phủ một lớp tuyết trắng, phát ra ánh sáng chói lòa dưới ánh mặt trời. Những cành cây bên hồ đã héo khô, khẽ đong đưa trong gió, bốn bề tiêu điều u ám.
Vệ hầu bùi ngùi thở dài, từ từ khép đôi mắt lại, thầm nghĩ:
- Chẳng lẽ quả nhân lại phải cúi đầu trước ả tiện nhân đó sao?
Hắn suy tư thật lâu, nói khe khẽ:
- Chuyện nghị sự trong triều lúc nãy, ngươi đều đã nghe thấy cả, vậy ngươi có quan điểm thế nào?
Công Tôn Mậu khẽ phập phồng chiếc mũi, rồi nói:
- Quân thượng, người coi thần như kẻ tâm phúc, thần sẽ nói những lời của một kẻ tâm phúc cho người, nếu như có chỗ nào mạo phạm, dám mong quân thượng thứ tội. Thần cho rằng, lời của gia phụ là có lý. Tuy rằng quân phu nhân không được hòa hợp với quân thượng cho lắm, nhưng đây dù sao cũng là việc trong nhà, quân phu nhân lưu lạc tại Tống quốc, cũng không quá để ý tới chuyện tại Vệ quốc. Quân phu nhân trẻ đẹp mỹ miều, thân phận cao quý, lại không có tình ý gì với quân thượng, nếu như Vệ quốc đại bại thậm chí là vong quốc, đối với Tống quốc mà nói thì bất cứ lúc nào cũng có thể bám lấy Tề quốc hoặc Sở, Tần quốc. Đối với Nam Tử phu nhân, thì nàng có thể tái giá tùy ý, vẫn mang thân phận cao quý tôn nghiêm như cũ. Nếu như gả cho quân hầu trẻ tuổi, nói không chừng lại càng hợp ý của nàng hơn.
Vệ hầu Cơ Nguyên hừ lạnh một tiếng trong lòng, nhưng hắn biết rằng Công Tôn Mậu nói lời khó nghe như vậy thì quả đúng là một tâm phúc thành thực với hắn. Hơn nữa, tiểu tiện nhân kia chẳng có chút cảm tình nào với hắn, nếu thật sự muốn ả tái giá, nói không chừng ả lại thích quá ấy chứ.
Công Tôn Mậu thấy Vệ hầu không mở miệng trách mắng, tiếp tục nói:
- Tuy nhiên, quân phu nhân nếu như ở tại Vệ quốc, thì vinh nhục được mất của nàng lại hòa chung vào với Vệ quốc, với quân thượng. Tống công có ái nữ ở đây, cũng tuyệt đối không dám dễ dàng vứt bỏ đồng minh. Quân thượng vì giang sơn xã tắc, vì lê dân trăm họ tại Vệ quốc, cung thỉnh quân phu nhân trở về, điều đó thì đã làm sao? Huống chi nội tình bên trong, có mấy ai biết rõ thực hư đâu?
Vệ hầu khẽ thở dài, nói:
- Thôi được rồi, để quả nhân viết một bức thư, ngươi phái một kẻ thân tín đi làm tín sứ, mau chóng đi tới Tống quốc, giao cho phu nhân.
Tống quốc đô thành Thương Khâu, Nam Tử đứng dưới một gốc mai, khoác trên mình tấm áo lông chồn, đẹp đẽ kiêu sa, hoa nhường nguyệt thẹn.
Vị tín sứ kia vốn là gia tướng trong phủ Công Tôn Bạt, sau khi Công Tôn Bạt dẫn người vào Đế Khâu, được tuyển chọn vào cung làm thị vệ, là thân tín của con Công Tôn Bạt Công Tôn Mậu, đây là lần đầu tiên hắn được gặp quân phu nhân Nam Tử, tuy từ lâu đã biết tiếng mỹ miều của nàng, hôm nay được gặp tận mắt, không khỏi hơi hoa mắt choáng váng trước vẻ đẹp kiêu sa kia.
Hắn sợ thất lễ nên không dám nhìn nhiều, vội vã cúi thấp đầu, hai tay nâng cao bức thư tín của Vệ hầu gửi sang, đôi mắt chỉ dán xuống đất, nhưng trông thấy đôi giầy da hươu của Nam Tử thôi cũng đã thấy đẹp đẽ lạ thường, hít hà hương vị mê ly lạ thường của phụ nữ, không biết mùi vị của cặp giò kia tuyệt với tới mức độ nào, không khỏi khô rát cổ họng, nuốt nước bọt ừng ực không thôi.
Tuy rằng Nam Tử phải đi tới Tống quốc, trong khoảng thời gian này nàng không còn được ở bên cạnh cha mẹ, nhưng dù sao không còn phải nhìn thấy mấy bộ mặt đáng ghét của Vệ hầu và Công Tử Triều, những kẻ luôn khiến nàng phát ngán, cuộc sống trở nên tươi vui vô cùng. Dung mạo trước kia có chút tiều tụy, giờ đây đã khôi phục lại vẻ lung linh kiều diễm.
Nàng nhận lấy bức thư, bóc ra xem dưới ánh hoa mai, không khỏi bật nụ cười khanh khách.
Tiếng cười kinh động lũ chim khách trên cây, lũ chim vội bay tán loạn, khiến một vài bọt tuyết rơi xuống, những đám bọt tuyết phiêu bồng dưới ánh mắt trời, khẽ thoảng qua khuôn mặt với nụ cười hơi có phần thô lỗ của nàng, vị tín sứ kia nghe vậy ngẩng đầu nhìn cũng không khỏi sững sờ, tham lam cố níu kéo nhìn thêm chút nữa, rồi mới chịu cúi đầu xuống tiếp.
Nam Tử dứt nụ cười, rồi sau đó lại trầm ngâm trở lại:
- Cha ta mong được kết minh với Vệ, đây là chuyện quốc gia đại sự, đâu phải trò đùa trẻ con, đường đường là Tống công, nói xuất binh thì nhất định sẽ xuất binh, quốc quân lại không chịu tin, còn lén lút phái ngươi tới gặp ta? Nếu để cha ta biết được sẽ nổi trận lôi đình.
Vị tín sứ thấp thỏm không yên chắp tay nói:
- Quân phu nhân, việc này có mối liên hệ trọng đại, quốc quân không thể không cẩn thận cho được, kính mong quân phu nhân thông cảm cho.
Nam Tử hừ một tiếng, những bọt tuyết trắng xóa bám lên trên mặt lúc này đã hóa thành mấy giọt nước nho nhỏ, nàng lấy từ trong tay áo ra một chiếc khăn lụa, khẽ lau những bọt nước trên mặt, chậm rãi nói:
- Muốn xuất binh cần phải điều binh trước, điều binh phải có khiển tướng, rất nhiều chuyện cần phải chuẩn bị tới. Trong thời gian ngắn ngủi, lẽ nào người Vệ nhất định phải muốn binh mã của người Tống đến tận nơi thì mới chịu có gan đi đối địch với quân Tấn? Muốn ta trở về nước cũng không phải chuyện khó, chỉ có điều, không phải là vào lúc này, ngươi quay về đi, cứ nói với quốc quân rằng Nam Tử ở cung thành Vệ quốc toàn phải gặp mặt những kẻ đáng ghét, trong lòng không thấy thoải mái, hơn nữa, ta hiếm khi có dịp được quay về nước, bây giờ tiết trời đang rất lạnh, tuyết rơi đầy trời, làm sao có thể quay về đây? Ta phải ở Tống quốc thêm một thời gian nữa, đợi đến tháng ba năm sau, tết đến xuân về, trăm hoa đua nở, băng tuyết tan hẳn thì ta mới trở về.
Vị tín sứ cung kính nói:
- Quân phu nhân, tiểu nhân phụng mệnh đến đây, quốc quân có lời này muốn tiểu nhân bẩm báo cho phu nhân.
- Ồ? - Đôi mắt long lanh của Nam Tử khẽ xoay chuyển, khóe môi nhếch lên lộ ra hàm răng trắng tinh:
- Chuyện gì vậy?
- Quốc quân nói, đại địch trước mắt, lòng người lo lắng, phu nhân về nước có thể ổn định nhân tâm, dám mong phu nhân không ngại cực khổ, mau chóng về nước. Còn về điều mà phu nhân nói... quốc quân đã dặn rằng: nếu như phu nhân quay lại, quả nhân nhất định sẽ đáp ứng mọi yêu cầu của nàng, để nàng vui lòng quay về.
- Vui lòng quay về?
Đôi mắt to tròn như đào hoa của Nam Tử khẽ hấp háy, ẩn chứa trong đó sát khí uy vũ:
- Rất tốt, vậy ngươi cứ về trước đi, nói với quốc quân rằng, hai ngày nữa Nam Tử sẽ dẫn binh khởi hành, quốc quân để ta vui lòng quay về, ta cũng sẽ để quốc quân vui lòng nghênh đón.
Vệ quốc, Đế Khâu, phủ đệ Tề Báo.
Bên ngoài căn phòng tuyết rơi lạnh lẽo, trong căn phòng ấm áp sắc xuân.
Tề Báo, Trử Sư Phố, Bắc Cung Hỉ, Công Tử Triều cùng một số đại thần trong triều theo phe cánh của họ đang tề tựu đông đủ trong phòng.
Ghế trên có bốn người ngồi, rất nhiều vũ kỹ mặc y phục rực rỡ hoa lệ, bộ ngực trắng trẻo nõn nà, đang ấp vào trong lòng họ, gắp thức ăn rót rượu mời, tiếng cười rộn giã.
Tuy Bắc Cung Hỉ không hợp với Tề Báo, nhưng dù sao cũng là đồng phạm tru sát Công Mạnh Trập, tuy rằng hai người họ tranh đấu quyền lực rất gay gắt, nhưng Bắc cũng lo là một khi Tề Báo bị đổ, Vệ hầu sớm muộn gì cũng sờ gáy khai đao với hắn, vì vậy cho nên tuy Vệ hầu liên tục bày thiện ý, dụ dỗ lấy lòng, nhưng đại sự lớn đến như vậy, hắn vẫn phải thương nghị cùng Tề Báo.
Công Tử Triều chẳng hề quan tâm tới mỹ nhân đang khiêu khích nghịch ngợm trong lòng, nói nhanh với Tề Báo:
- Tề đại phu, cơ hội trời ban đó, đại phu cần phải nắm chặt lấy cơ hội này, xin quốc quân được dẫn binh xuất chinh, tóm lấy binh mã của bọn Công Tôn Bạt, Cừ Bá Ngọc trong tay, bất luận kết quả liên minh với Sở, chống hoành với Tấn thế nào đi chăng nữa, có đại quân trong tay thì chúng ta cũng được bảo đảm.
Hắn lại chắp tay về phía Bắc Cung Hỉ nói:
- Bắc Cung đại phu, chúng ta đều là những kẻ ngồi chung thuyền, được cùng được, mất cùng mất. Ngài nắm giữ quân đội trong triều, quân đội ngoài triều do Tề đại phu nắm giữ, như vậy thì chúng ta có thể nói là vững như bàn thạch rồi. Tề đại phu, Bắc Cung đại phu hết đời này sang đời khác đều là đại tướng của Vệ quốc, giờ đây Công Mạnh Trập đã chết, phóng tầm mắt về Vệ quốc, ngoại trừ hai vị ra thì còn có kẻ nào đủ tư cách dẫn binh xuất chinh đây? Chuyện này Bắc Cung đại phu cũng nên nói một tiếng tốt trước mặt quốc quân. Còn bản công tử cũng sẽ nói tốt cho Tề đại phu trước mặt quốc quân.
Mỹ nhân trong lòng nâng chén rượu, hồn nhiên đưa tới trước môi của hắn, bị Công Tử Triều bất nhẫn đẩy ra, tuy hắn có danh vị, nhưng rất nhiều chuyện đại sự Vệ hầu Cơ Nguyên đều không khiến hắn tham dự, sự tin tưởng còn lâu mới bằng Công Tôn Mậu. Tiềm lực của Tề Báo to lớn khủng khiếp, Bắc Cung Hỉ đang nắm giữ đại quyền, Trử Sư Phố tuy lực lượng thua kém hơn một chút, nhưng hắn lại là công khanh thế gia suốt mấy trăm năm nay của Vệ quốc, có những mối quan hệ dây mơ rễ má nhằng nhịt với rất nhiều thế tộc, lại thêm cả việc hắn đối với ai cũng vui vẻ hòa nhã, không đắc tội với bất kỳ ai cả, nhân duyên cũng khá tốt, tính ra thì căn cơ của hắn là yếu nhất, làm sao mà hắn không căng thẳng lo lắng vạn phần cho được.
Tề Báo có chút dao động trước chủ trương của hắn, hắn khẽ đưa mắt liếc nhìn Công Tử Triều, mỹ nhân ngồi trong lòng Công Tử Triều tuy rằng bị hắn lạnh nhạt thờ ơ, nhưng những vị đại nhân trên đại đường kia duy chỉ có mình Công Tử Triều là anh dũng đạo mạo, những vũ kỹ trong phủ Tề Báo lấy sắc đẹp để dâng tặng cho khách nhân, khi tiếp đãi khách nhân vốn không quan trọng chuyện già xấu ra sao, có điều nhìn thấy mỹ nam tử thì cũng nhiệt tình hơn một chút, lúc đó thấy Công Tử Triều không muốn uống rượu, liền nắm lấy cổ hắn, hôn nhẹ lên những chỗ nhạy cảm, đến cả áo bào cũng được nới lỏng ra, Tề Báo thoáng nhìn qua, thấy lấp ló qua cổ áo của hắn là một chiếc áo lót của nữ tử, nghĩ lại tin đồn về mối quan hệ của hắn với Vệ hầu Cơ Nguyên, Tề Báo không khỏi cảm thấy hậm hực, ngoảnh đầu nhìn về phía Bắc Cung Hỉ.
Bắc Cung Hỉ cầm lấy chén rượu, đang cúi đầu trầm ngâm. Tuy rằng bản thân hắn hiện tại đang nắm giữ quyền lực lớn nhất, thế nhưng căn cơ của tên Tề Báo với chức danh hiếm có là cả thái sư và thái phó còn thâm hậu hơn cả hắn, tiềm lực cũng vô cùng khủng khiếp, nếu thật sự phải đấu một trận, thì cũng chưa biết ai thắng ai thua đâu, đó chính là nguyên nhân vì sao Tề Báo dám tranh quyền cùng hắn. Hơn nữa, cho dù thế lực của hắn mạnh hơn Tề Báo, cũng không thể tru sát Tề Báo được, tự chặt tay của mình, tạo điều kiện cho Vệ hầu trừ khử hắn.
Nếu để cho Tề Báo nắm giữ bên ngoài, thế lực của hắn sẽ càng thêm lớn mạnh, thế nhưng quyền lực đó đã phải trải qua tay của đám Công Tôn Bạt, Cừ Bá Ngọc, Công Mạnh, giống như một thanh kiếm sắc bén treo lơ lửng trên đầu, khiến người ta cứ suốt ngày phải nơm nớp lo sợ. Vả lại, Tề Báo có được thực quyền chính trị của mình, những mâu thuẫn giữa hai người cũng sẽ không kịch liệt đến như vậy.
Nghĩ tới điều này, Bắc Cung Hỉ khẽ gật đầu nói:
- Tử Triều nói phải lắm, lão phu nắm nội quân, Tề đại phu nắm ngoại quân, Trử đại phu nắm quốc khố, sẽ không có ai chống lại chúng ta nữa. Chỉ có điều việc này cần phải thương thảo cho kỹ, quốc quân chưa chắc đã giao đại quân cho Tề đại phu, nhưng bất luận thế nào thì chúng ta cũng phải giúp đỡ Tề đại phu có một phần quyền lực trong đó. Đúng rồi, Tử Triều có kế hoạch gì chưa?
- Ta?
Công Tử Triều lúc này mới phát hiện ra mỹ nữ nằm trong lòng đã nới lỏng áo choàng của hắn, hắn vội nắm chặt vạt áo, che đi nội y của mình, thuận tay vỗ mông mỹ nhân kia một cái, bảo nàng tránh ra xa một chút, lúc này mới cười nói:
- Ta ở trong cung đấu pháp với Công Tôn Mậu, nhất thời chưa thể bỏ đi được. Vả lại, ta còn phụ trách việc điều phối quân nhu cho Khánh Kỵ, đến nay Vệ quốc chúng ta cũng muốn chiến tranh, việc này có chút rắc rối, ta cũng cần phải cân nhắc thật kỹ mới được.
Trử Sư Phố không đồng tình nói:
- Bây giờ là lúc nào rồi mà còn để ý đến tên Khánh Kỵ làm chi?
Công Tử Triều mỉm cười nói:
- Chuyện đã chấp thuận với người ta, thì phải làm cho xong. Hơn nữa Khánh Kỵ giờ đây cũng là quân đồng minh của chúng ta, hắn đánh bại được Cơ Quang, thì Tấn quốc mới từ bỏ dã tâm tiến xuống phía Nam của hắn. Một khi Khánh Kỵ phục quốc thành công, nhận được sự giúp đỡ của chúng ta từ trước, chẳng phải lúc đó sẽ trở thành một trợ lực to lớn cho chúng ta sao?
Trử Sư Phố lộ ra một nụ cười khinh khỉnh châm biếm trên khuôn mặt mập mạp, hắn đang định nói gì đó, bất chợt nhìn thấy trong ánh mắt Công Tử Triều có thần sắc kỳ lạ nào đó xuất hiện rồi vụt biến mất, trong lòng không khỏi chột dạ: "Tên Tử Triều này khuôn mặt chất chứa dã tâm, không biết hắn đang suy nghĩ gì vậy nhỉ?
Trử Sư Phố là người cẩn trọng chu đáo, trước nay không dễ dàng để đắc tội với người khác, hắn vô tình nhìn thấy thần tình quỷ dị của Công Tử Triều, lời nói giễu cợt đang định thốt ra bỗng không dám nói ra nữa, trong lòng dâng lên vài phần phòng bị.
Khánh Kỵ giữ Văn Chủng ở lại nghỉ ngơi một ngày, Văn Chủng vội vàng đem tin tức bẩm báo cho Sở vương. Ngày hôm sau liền cáo từ lên đường, Khánh Kỵ đích thân tiễn hắn ra khỏi thành, đến tận con đường mòn qua núi để tới Tùy quốc mới chịu thúc ngựa trở về thành.
Khi hắn vừa vào trong phủ, Quý Tôn Tiểu Man liền luống cuống chạy đến, vẻ mặt rạng rỡ nói:
- Mau lại đây mau lại đây, Lỗ quốc gửi thư tới rồi.
Khánh Kỵ mừng rỡ, vội vàng bước lên bậc, Quý Tôn Tiểu Man kéo một tay hắn dắt đi trong đại sảnh, Khánh Kỵ ngượng cười nói:
- Này này, bình tĩnh nào, không cần phải sốt sắng đến như vậy chứ.
Vào trong sảnh, Thúc Tôn Diêu Quang nhìn thấy Quý Tôn Tiểu Man nắm tay Khánh Kỵ, không khỏi đưa ánh mắt hình dao găm phóng về phía nàng, nếu như đôi mắt là con dao, e rằng con dao này đã cắt cụt cánh tay kia của họ. Khánh Kỵ khi bước vào phòng chỉ để ý tới vị tín sứ Lỗ quốc, không chú ý tới thần sắc của nàng. Quý Tôn Tiểu Man cứ như là oan gia mà ông trời sinh ra để đối nghịch với nàng, đôi mắt nhỏ nhắn nhìn thấy rõ biểu lộ của nàng. Quý Tôn Tiểu Man cười khúc khích đắc chí, lòe mặt quỷ dọa trước mặt nàng, dường như vô cùng vui vẻ.
Vị tín sứ kia chính là một thân binh Khánh Kỵ để lại tại Lỗ quốc Phí Thành Phi Hồ cốc, vừa thấy Khánh Kỵ hắn vội vàng bước lên trước quỳ gối nói:
- Nô tài bái kiến công tử.
- Mau đứng dậy đi, mau đứng dậy đi, tình hình Lỗ quốc thế nào rồi?
- Bẩm công tử, sau khi công tử đi, Phi Hồ cốc không thu nạp thêm tân binh nữa, Tôn Vũ tướng quân, Anh Đào tướng quân ngày đêm thao luyện, tổng cộng đã đào tạo được tám nghìn tinh binh. Khi Chúc Dung công tử đến, lại mang theo một nghìn nhân mã, vài ngày trước nghe tin công tử phát binh Sở quốc, Tôn tướng quân và Anh tướng quân lập tức chuẩn bị tập kích Ngô, khi nô tài khởi hành, bọn họ cũng đang nhổ trại, xé nhỏ ra từng tốp đi tới biên giới Ngô quốc rồi tập hợp tại nơi đã định, lúc này chắc là đã đến nơi rồi. Đây là thư của Tôn tướng quân, xin công tử xem qua.
Dứt lời đi tới ngồi xuống trước ghế thượng tọa giở thư ra xem, căn phòng trở nên yên tĩnh, lặng lẽ dõi theo những thay đổi trên nét mặt của Khánh Kỵ, Quý Tôn Tiểu Man không có việc gì, cũng không chịu ngồi im một chỗ, liền đứng đằng sau lưng Khánh Kỵ, kiễng người lên nhìn bức thư trong tay Khánh Kỵ.
Quý Tôn Tiểu Man đưa lại cái nhìn tinh nghịch, ngượng ngùng chắp tay đi ra, gằn giọng lầm bầm nói:
- Ta xem thì đã làm sao? Có phải là thư tình ngươi viết cho chàng đâu, nếu là mấy thứ vớ vẩn ngươi viết cho chàng, thì cầu xin ta ta cũng không thèm xem.
Khánh Kỵ đọc xong, không nhịn được cười lớn.
Lương Hổ Tử, Thúc Tôn Diêu Quang mắt nghếch như chuông đồng, đồng thanh hỏi:
- Thế nào rồi, có tin tức gì chưa?
Quý Tôn Tiểu Man lúc nãy bị Thúc Tôn Diêu Quang hục hặc, bây giờ giả bộ ngẩng mặt nhìn trời, ra vẻ ta đây không thèm nghe, nhưng đôi tai thì lại dỏng lên, nghe ngóng thanh âm của Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ vỗ bàn rầm một cái, cười khoái trá nói:
- Hay, hay lắm. Ha ha ha..., Tề quốc xuất binh rồi, ha ha ha...
- Thật ư?
Quý Tôn Tiểu Man đang giả ngơ không biết gì là người đầu tiên nhảy cẫng lên, chạy tới bên cạnh hắn, cầm lấy tay đưa đẩy, phấn khích đến nỗi khuôn mặt đỏ gay:
- Tề quốc xuất binh rồi? Hay quá là hay, nước lớn nhất ở phía Đông xuất binh tương trợ, Cơ Quang bị kẹp ở giữa, khó bề chống đỡ, hy vọng phục quốc của ngài đã thành công rồi.
Khánh Kỵ cười nói:
- Chưa hẳn, chưa hẳn, Tề quốc xuất binh là xuất binh, nhưng chưa hẳn đã là giúp ta, mà là nhận lời mời của Cơ Quang mà xuất binh, định xuống phía Nam tham chiến.
- Ách!
Quý Tôn Tiểu Man đẩy mạnh bả vai hắn, tức tối nói:
- Ngài bị ấm đầu sao? Người ta đến đánh ngài mà ngài còn vui mừng được?
Khánh Kỵ cười nói:
- Sao mà không vui cho được, hắn muốn tham chiến, cũng cần phải đến đó mới được. Tôn Vũ có mối quan hệ với Tôn thị gia tộc bên Tề quốc, thu được một số thông tin tình báo quan trọng, Cơ Quang muốn mua chuộc các tộc Đông Di cho Tề quốc hòng đổi lấy việc Tề quốc xuất binh, hai phe trong triều đình Tề quốc tranh luận kịch liệt, Điền Khất chủ trương xuất binh, Yến Anh phản đối xuất binh, hai bên tranh cãi loạn xị ngậu, cuối cùng phe xuất binh chiếm thế thượng phong, phe phản chiến uất ức lắm lắm, liền có người đem tin tức về điều kiện trao đổi để kết minh giữa Cơ Quang với Tề quốc rêu rao ra bên ngoài.
Trần quốc, Tào quốc, Lỗ quốc sát vách Đông Di lo lắng thế lực Tề quốc xâm phạm phía Nam, sẽ gây bất lợi cho họ, đã kết thành liên minh, cùng nhau chống lại Tề binh. Cả người Đông Di cũng tham chiến, quân Tề dù có mạnh cũng nhất thời không thể chiếm thế thượng phong dễ dàng được, hơn nữa những nước đó phát binh chính là sự che chắn tốt nhất cho những hành động của đám người Tôn Vũ. Thủy quân Ngô cho dù biết được, cũng nhất thời không thể đoán ra hướng đi và mục đích của họ, làm sao mà ta không vui được? Ha ha ha...
Giữa Tề và Ngô còn có một vùng đất rộng lớn, không có chính quyền nhà nước, lại có rất nhiều bộ lạc sinh sống, dân cư chủ yếu là do hai bộ lạc Hoài Di và Di Hổ . Người Đông Di vốn là chủ nhân của Tề quốc hiện tại, nhưng bọn họ giống như người Anh-điêng ở khu vực Bắc Mĩ, vùng đất này bị người Chu phong hầu xua đuổi ra khỏi vùng đất cố xưa, mấy trăm năm nay đã lui ra khỏi toàn bộ khu vực Sơn Đông, sau đó cùng với sự mở rộng của ranh giới Tề quốc, tiếp tục lui về hướng Đông Nam, cuối cùng bị đẩy về dưới hạ du sông Hoài, trở thành khu vực đệm giữa ba nước Tề Lỗ Ngô.
Nếu như tiếp tục bị Tề quốc lấn chiếm xuống phía dưới nữa thì vùng đất của con cháu người Đông Di sau này đến cả một khoảnh nhỏ cũng chẳng còn, bọn họ chỉ có thể đi xuôi theo thượng nguồn sông Hoài, chạy đến biển Hoàng Hải, chiếm cứ vài ngôi đảo nhỏ để sinh sống mà thôi.
Giờ đây ý đồ bành trướng xuống phía Nam của người Tề bại lộ, các nước xung quanh vô cùng bất an, đã ký kết đồng minh cùng nhau kháng Tề, đồng thời, các bộ lạc trong vùng Đông Di như Doanh, Tần, Từ, Hoàng, Giang, Lý cũng triệu tập cuộc họp liên minh các bộ lạc, uống máu ăn thề, tạo thành liên quân, quyết một trận sinh tử với Tề quốc vì vùng đất sinh tồn cuối cùng của họ. Binh mã Tề quốc đã bắt đầu điều động, vốn muốn phò Ngô phạt Sở, lấy lý do đường đường chính chính xuôi xuống phía Nam, nhân lúc họ không phòng bị mà khuếch trương xuống lưu vực Hoàng giang, lúc đó mới chính thức trở thành trợ Ngô phạt Sở, lúc đó sẽ ký kết liên minh với Ngô, vùng duyên hải nối thành một dải, các nước xung quanh nếu muốn phản kháng sẽ phải mạo hiểm giáp công Nam Bắc, nhưng bây giờ tin tức đã sớm bị tiết lộ, các nước phản ứng mãnh liệt, Tề quốc há miệng mắc quai, đành phải cắn răng tiếp tục tiến tới.
Nghe Khánh Kỵ nói nhân quả bên trong, Quý Tôn Tiểu Man và Thúc Tôn Diêu Quang mới hiểu rõ sự tình, không giấu nổi vẻ vui mừng. Sau đó Khánh Kỵ tiết lộ một phần về kế hoạch tập kích Ngô của Tôn Vũ, mọi người đang vui vẻ, bỗng tiếng bước chân rầm rập của một người bước vào điện, chắp tay nói:
- Báo! Công tử, nhận được tin tức từ Sở quốc, Sở vương bị ám sát tại Cửu Phượng cốc.
Khánh Kỵ nghe xong, sắc mặt bỗng trắng bệch, hắn muốn đứng dậy, nhưng tâm trí khiếp đảm nhất thời không thể nhấc nổi thân mình. Tình hình Sở quốc bây giờ, nếu như Sở vương bị ám sát, lập tức sẽ trở thành đống cát vụn, các công tử tranh đoạt vương vị, chưa biết liệu có ai toàn tâm toàn ý quyết chiến với Ngô không, và liệu có ai đủ năng lực hiệu triệu quân đội Sở quốc? Tất cả khổ tâm của mình đều tan theo dòng nước mất.
- Sở vương thế nào rồi, ngươi nói mau đi!
Trông thấy vẻ mặt Khánh Kỵ kinh hãi thất thần, Lương Hổ Tử vội bước tới dò hỏi thám tử.
- Sở vương không sao, tên thích khách đó đơn thương độc mã thâm nhập vào trong núi, lúc ra tay hành thích bị tướng quân Tử Kỳ của Sở quốc lao lên đỡ thay một kiếm cho Sở vương, Tử Kỳ tướng quân chết ngay tại chỗ, tên thích khách kia cũng tự vẫn mà chết.
Khánh Kỵ nghe được thì sững sờ, hắn chậm rãi hắt ra một hơi nhẹ nhõm, cơ thể đang đứng khom lưng dần dần ngồi xuống trở lại. Cảm giác vào lúc này... hắn rất muốn một tay bóp chết cái tên thám tử chết tiệt kia.
Lương Hổ Tử nghe xong cũng bốc giận trong người, hắn tung chân lên đá một cước vào đít của tên thám tử, quát lớn:
- Cút! Lần sau khi báo tin phải nói cho rành mạch rõ ràng, con bà nhà ngươi chứ.
Thám tử kia chẳng hiểu làm sao, lủi thủi lui ra ngoài.
Khánh Kỵ và Lương Hổ Tử nhìn nhau, trong mắt đối phương đều là sự phấn khởi đến cuồng nộ:
- Cơ Quang hành thích, Sở vương gặp nạn mà không chết, lần này mối thù càng lúc càng lớn thêm.
Đáng tiếc, bọn họ đoán đúng kết quả, nhưng lại không đoán đúng quá trình. Kẻ hành thích Sở vương không phải Cơ Quang, mà là một kẻ đã rơi vào quên lãng từ lâu trong con mắt bàn dân thiên hạ. Chỉ là, Ngô Vương Hạp Lư nổi tiếng với thủ đoạn sử dụng thích khách, trong thiên hạ không ai không biết, vụ này không đổ vào đầu hắn thì vào đầu ai?
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của Tiểu Mùi