Quyển 5: Khai Hoa Thập Trượng Ngẫu Như Thuyền
Chương 236:Xuất sư biểu
Tác giả: Nguyệt Quan
Nguồn: Sưu tầm
Công chúa Vĩnh Khánh cười lạnh lùng một tiếng rồi đứng dậy nói: “Dương Hạo đã tiếp ý rồi? Không sợ bị cưỡng ép sao? Chẳng lẽ gia quân hoàng bào binh biến Trần Kiều là từ bút của cha mà ra ư?”
Công chúa Vĩnh Khánh nói câu đó làm mặt của Triệu Khuông Duận ngay lập tức chuyển từ mặt Quan Công trở thành mặt Bao Công. Công chúa Vĩnh Khánh vẫn chưa thôi, mà nói tiếp: “Mọi người đón năm mới đàng hoàng là thế, mà cha lại đá cho cả nhà một phát làm cho mọi người mất vui. Đúng là việc tốt nhỉ. Sao cha không mang cả rồng ra để làm cho mình thêm chút uy phong?”
Triệu Khuông Dận tức đến độ gân trên trán đã bắt đầu rồng rắn nổi lên. Có lẽ sắp từ Bao Công trở thành Tế Công điên mất rồi. Hoàng hậu Tống Thị thấy thế sợ rằng quan gia tức giận đánh trọng thương công chúa liền vội vàng mắng: “Vĩnh Khánh, sao con lại ăn nói thế với cha? Còn không mau xin lỗi cha đi à?”
Công chúa Vĩnh Khánh hừ một tiếng rồi quay đầu đi không chịu nhận lỗi. Thấy Triệu Khuông Dận đã bắt đầu đùng đùng cơn giận, hoàng hậu Tống Thị vội vàng xin lỗi hoàng đế một câu rồi đứng lên kéo Vĩnh Khánh đi. Hai vị hoàng tử Triệu Đức Chiêu, Triệu Đức Phương một người giờ đã 21, một người 12 tuôi. Hai người đó không thể đanh đá như công chúa Vĩnh Khánh. Vừa thấy hoàng hậu nương nương kéo công chúa rời đi cũng vội vàng lui ra ngoài.
Triệu Khuông Dận như một con dã thú đang lên cơn điên phẫn nộ đi đi lại lại trong cung điện. Cuối cùng đi đến đằng sau thư án, ngồi xuống, một tay đặt lên ngực, nghĩ ngợi rất kỹ, rồi tức tối giơ tay khua tất cả đồ đạc trên bàn xuống đất làm cho những Tiểu Hoàng Môn quỳ ở dưới đất kinh sợ vội vàng đi nhặt đồ.
“Đi ra! Cút hết ra!”
Triệu Khuông Dận thấy không còn đồ gì có thể ném được nữa bèn thuận tay cầm chiếc đệm ngồi dưới mông lên ném về phía đám Tiểu Hoàng Môn, làm cho bọn họ vội vàng lui ra ngoài đại điện. Triệu Hoàng Dận tức đến độ hai con mắt long sòng sọc, toàn thân run lên. Hắn đã bị một câu chất vấn của con gái làm cho tức giận không thôi, nhưng không biết phải tìm ai để trút giận.
Mỗi người đều có nghịch lân của mình. Nghịch lân của thiên tử càng không thể động chạm vào. Nhưng thật sự đã có người động vào nó, mà ông ta lại không biết trút giận lên ai. Dù ông ta là người đứng đầu một nước có bốn biển thì lúc này trong lòng cũng khó tránh khỏi dâng lên một cảm giác bi thương.
Đúng vậy, mọi người trong thiên hạ đều nói ông đã vẽ ra sách lược binh biến Trần Kiều, Hoàng Bào Gia Thân, đuổi cô nhi đó xuống đài. Triệu Khuông Dận anh hùng oai phong một đời,mà giờ đây điều này lại trở thành vết nhơ trên đường của ông ta. Nhưng ông ta biết rằng điều đó không phải do ông ta làm, Triệu Phổ, Cao Hoài Đức, Thạch Thủ Tín cũng biết đó không phải do ông ta, nhưng người nhà của ông ta đều biết điều đó là do ông gây nên. Nhưng vậy thì đã làm sao, có thể nói cho ai biết? Giờ đây ông ta đã ngồi lên Long Kỷ, đó là điều không thể chối cãi.
Triệu Khuông Dận ngồi trên chiếc ghế, lắc đầu bất lực.
Thực ra hạ thủ không được cho phép trở thành quan đã trở thành điều có tiền lệ. Điều này đã được nói từ thời của Đường Huyền Tông trong lần tạo phạn An Lục Sơn rồi. Nói đến thời đại đó, triều đình Đại Đường đã không còn đủ sức để khống chế tất cả mọi người khắp bốn phương, nên đã bị đánh đổi lại bằng giang sơn Đại Đường.
Các vị quan trong triều đều có thể phế truất con cháu của Lý Thế Dân, các quan địa phương sử dụng quân đội tư nhân và quốc thổ. Họ có thể không phục tùng triều đình mà tự mình lập thành một vương quốc độc lập. Thiên tử Đại Đường tức là Chu Thiên Tử cuối thời Xuân Thu trở thành cộng chủ trên danh nghĩa, trở thành một con rối trong tay cái tiết độ sử.
Mỗi lần có tiết độ sử chết đi, hoàng đế Đại Đường vẫn sẽ phái nha sai đến tuần tra, nhưng những tiết độ sử mới không nằm trong tay thiên tử lựa chọn. Những người của tiết độ sử đó sẽ tiến cử ra một người mới có thể đại diện cho lợi ích của họ. Thiên tử Đại Đường chỉ có thể làm ngơ, cho họ “danh chính ngôn thuận” mà thôi.
Thế là tiết độ sử ở các nơi để nắm quyền lực trong tay không ngừng tiến hành cách cuộc phế truất, thường thường là giết lẫn nhau. Đâu đâu cũng thấy màn kịch đó.
Những tiết độ sử đã từng ép thiên tử Đại Đường đến bước đường cùng đã nếm phải rượu đắng chính họ làm ra, cũng trở thành những con cờ trong tay các đại tướng nắm số đông quân binh.
Tình thế này đến thời ngũ đại đã từ đại tướng phế truất tiết độ sử trở thành đại tướng phế truất hoàng đế. Những quân nhân thích dùng đại tướng lập để, là do mỗi vị tướng có hoàng đế mới lập công, sẽ được thăng quan phát tài, nếu sự việc bại sẽ có những người đại đầu đứng ra gánh đỡ. Loại thăng quan tiến chức này mạo hiểm nhỏ hơn nhiều so với việc đánh nhau với quân địch trên chiến trường, nên họ đương nhiên rất đồng ý thực hiện.
Trước kia, Triệu Khuông Dận không hề muốn xưng đế mà có bị bộ hạ ép xưng, lai lịch của những người này, có thể trở thành bằng chứng Triệu Khuông Dận không hề làm ra binh biến Trần Kiều. Nhưng, những người truyền bá ngôn ngữ này, vốn đã không có thiện ý với ông ta, có ai đứng lên để nói những ví dụ thực tế ảnh hướng đến tính chân thực của lời đồn cơ chứ?
Khi Thạch Kính Đường làm tiết độ sử của Hà Đông, bộ hạ của ông ta đã đột nhiên giở mặt khi ông ta xuất binh ra trận, hô hào vạn tuế trước mặt ông ta, ý muốn để ông ta thành hoàng đế, những tướng hiệu này giống hệt với những thủ đoạn tướng lĩnh của Triệu Khuông Dận dùng. Lúc đó Thạch Kính Đường vô cùng ngạc nhiên, vội vàng hạ lệnh hơn ba mươi tướng lĩnh đứng đầu, để biểu thị lòng trung thành của mình. Sau này ông ta thực sự đã trở thành hoàng đế, nhưng lúc đó ông ta đã có lòng tự lập, cũng vì chuẩn bị không đủ mà rơi vào tăm tối, điều này có thể nhìn thấy được từ phản ứng lúc đó của ông ta, những tướng sĩ này, những người tướng sĩ đã làm nên “hoàng bào gia thân” hoàn toàn không xuất phát từ mục đích của ông ta.
Về sau nữa khi đến đời Hậu Tấn đại tướng Dương Quang Viễn thống soái binh đến Hoạt châu, cũng có tướng đột nhiên phong ông ta làm hoàng đế, Lão Dương phẫn nộ mắng họ: “Thiên tử chẳng lẽ là đồ để các ngươi đem ra mua qua bán lại hay sao?”. Râu tóc bay lên, thần sắc nghiêm nghị, mới có thể ngăn chặn hành động của họ. Khi đại tướng Phù Ngạn Nhiêu thủ ở Ngõa Kiều, cũng có bộ tướng muốn lập ông làm hoàng đế. Lão Phù giả vờ đồng ý, nhưng sau đó lại âm thầm sai người giết hết những tên đó đi.
Khi đến đời Hậu Đường, lúc Dương Nhân xuất quân đánh địch, các binh sĩ nhao nhao muốn lập ông làm hoàng đế, Lão Dương này cũng là một trung thần, kiên quyết không lên ngôi, bộ hạ của ông ta đã không còn đường rút lui, nổi dã tâm lên, giết cả ông, rồi đưa ra một tướng quân có hi vọng lên làm đế, tướng quân đó cũng không đồng ý lên ngôi, thế là giết tiếp, sau đó mang đầu của hai người tướng quân này đến trước mặt vị tướng quân thứ ba Triệu Tại Lễ và cho ông hai sự lựa chọn: “Hoặc là làm hoàng đế, hoặc là làm ma!” Triệu Tại Lễ không còn cách nào khác, đành phải xưng đế, nhưng đội quân yếu, không vượt qua được quân của triều đình, cuối cùng không thành công, nếu không ông cũng trở thành một Triệu Khuông Dận thứ hai rồi.
Còn có Lý Tự Nguyên của đời Đường Minh Tông, khi ông dẫn binh đến thành Ngụy Châu, tất cả hạ bộ liền phản lại, đồng loạt bắt ông phải xưng đế, Lý Tự Nguyên lúc đầu không phản đối, còn âm thầm chạy trốn khỏi quân trại của mình, chỉ là lúc đó sự đã thành, có chạy về triều đình biểu lộ lòng trung quân cũng khó tránh khỏi cái chết, thế là đã xưng đế dưới sự khuyên giải của toàn bộ tướng lĩnh.
Những sự thực xảy ra trước Triệu Khuông Dận, mặc dù không thể chứng minh Triệu Khuông Dận không có lòng tự lập, nhưng có thể chứng minh tướng hiệu không thương lượng với chủ sư, tạo việc đã thành ép chủ sư tự lập, binh biến Trần Kiều nhất định chẳng phải là việc thế này sao?
Các biểu hiện trước và sau của binh biến, đã đủ để chứng minh ông ta không phải là chủ mưu của “binh biến Trần Kiều”. Đầu tiên, Sài Vinh chết sớm, con trai của ông ta là Sài Sùng Quát kế vị ngôi của ông ta mới bảy tuổi, lúc đó thiên hạ vẫn chưa thống nhất, các chư quốc tàn sát lẫn nhau, một thiên tử trẻ tuổi thế này thì làm được gì? Các đại tướng óc thể yên tâm khuất phục trước ông ta ư? Vì thế bọn họ có mưu đồ lập chủ mới là điều rất dễ hiểu. Chứ không phải là người chủ sư tay cầm binh mới có thể mưu đồ tạo phản.
Ngoài ra, lúc đó Triệu Khuông Dận nắm trong tay quân đội tinh nhuệ nhất, cả thành Khai Phong vốn nằm trong tay ông ta quản lý, huynh đệ kết nghĩa của ông ta đều là đại tướng quân của Hậu Chu, nếu ông ta muốn dùng vũ lực để xưng đế là điều vô cùng dễ dàng. Nếu ông ta muốn uy hiếp tiểu hoàng đế thoái vị nhường ngôi cũng dễ như trở bàn tay. Với thực lực của ông ta, ông ta thậm chí có thể giết tiểu hoàng đế một cách nhẹ nhàng thần không biết quỷ không hay, làm cho Sài Thị không còn người nối dõi, sau đó mình được đưa lên làm hoàng đế.
Tấm vải che đậy như vậy, càng cao minh hơn việc phái người đi nói dối về quân tình, sau đó dẫn binh ra cầu giết, làm ra một màn kịch “hoàng bào gia thân” vô cùng mất mặt. Triệu Khuông Dận tài trí như vậy, chẳng lẽ lại chọn hạ sách nhạt nhẽo đó ư?
Hơn nữa, không ai có thể phủ nhận, Triệu Khuông Dận rất coi trọng tình thân. Trước khi làm hoàng đế là vậy, sau khi xưng đế ông vẫn vậy.
Nếu nói rằng trước kia ông ta giả tạo như vậy để được lòng người, thì sau khi ông ta đã làm hoàng đế rồi, không cần thiết phải tiếp tục như vậy nữa, ông là một vị hoàng đế thực sự xem trọng gia đình và người thân.
Nhưng, khi binh biến Trần Kiều xảy ra, người nhà của ông đang ở đâu?
Trên ông có mẹ già, dưới có vợ con, già già trẻ trẻ tất cả đều ở trong thành Khai Phong, hơn nữa đang ở trong miếu thắp hương, tin binh biến vừa truyền đến thành, đại nhân tể tướng trung thành với tiểu hoàng đế bèn phái người bắt cả nhà ông ta, nếu không phải là những người hòa thượng trong miếu thương xót họ mà giấu họ đi, thì cả nhà Triệu Khuông Dận đã bị giết chết từ lâu rồi. Nếu Triệu Khuông Dận đích thân bày ra lần binh biến này, thì ông ta có nhất thiết phải mạo hiểm đưa cả người nhà của mình vào hay không?
Nhưng, đế vương có sự tôn nghiêm của đế vương. Ông ta có thể bỏ qua lòng tự trọng của mình, khi việc ông xưng đế đã trở thành sự thật, giải thích tất cả những điều này cho mọi người không? Và có ai sẽ tin tưởng những câu nói đó của ông ta? Mặc dù bộ hạ của ông ta vì phú quý vinh hoa đã làm trò “tiền trảm hậu tấu", mặc dù việc này không phải ý của ông ta, nhưng ông ta là người được lợi nhiều nhất từ việc này, có thể nói gì được nữa?
Ông ta thấy người đã cho ông ta vác cái oan to đùng này rất được, thời thế loạn lạc, một đứa bé như Sài Tống Ngọc làm sao có thể quản nổi gia nghiệp này. Không có Triệu Khuông Dận, nhất định cũng sẽ xuất hiện một Lý Khuông Dận, Liễu Khuông Dận, người khoác áo hoàng bào là Triệu Đại cũng được coi là người ăn ở phúc đức, không giống như những người xưng đế khác, giết sạch gia tộc của hoàng đế, cũng không giống như những hoàng đế khai quốc khác chơi trò giết tất cả công thần, ông ta hậu đãi người của Sài Thị, mời rượu binh sĩ, hậu đãi những người đã lập công lớn, cho họ có thể về nhà hưởng phúc. Ông ta muốn trị nước, mười năm trước đánh đông dẹp tây, giờ đã trở thành Đại Tống chính trị ổn định, kinh tế phát triển, quân đội mạnh mẽ, đã vượt qua cả Nam Đường của Hậu Chu, trở thành thiên hạ thống nhất có hi vọng nhất, làm lão bách tính an cư lạc nghiệp.
Nhưng, ông có thể thay đổi thiên hạ, có thể htay đổi con đường của hàng vạn người dân, chỉ có nỗi oan này của chính mình ông không thể thay đổi được, cũng chỉ có thể cắn răng chịu đựng, để cho nỗi oan ấy truyền đi đến hàng nghìn, hàng vạn năm sau, để cho chân tướng thật sự của sự việc bị chìm vào dòng chảy lịch sử.
Đế vương, cũng có nỗi bi ai của riêng mình.
Nhưng còn tên Dương Hạo thì sao?
Hắn ta thật sư không biết cảm ơn?
Việc này thật sự là một vở kịch mà bộ hạ của hắn ta làm ra ư?
Nghĩ đến những điều mình đã trải qua, Triệu Khuông Dận đột nhiên trở nên do dự.
Nếu màn này là do một mình Dương Hạo tạo nên, thì tên này đáng chết.
Nếu hắn ta bị oan, thì....
Mắt Triệu Khuông Dận ánh lên, lúc thì suy nghĩ, lúc lại sờ trán, sát khí đó vẫn còn, nhưng nộ khí đã dần biến mất...
Đêm mông lung, Dương Hạo nhẹ lướt trên xe, đi qua Chu Tước Môn, đến ngõ Tự Mạch Sảo rẽ trái, dừng lại ở một ngôi nhà hào hoa ở Bảo Khang Môn. Đây là trước cửa nhà của Tam Tư Phúc Sử La Công Minh.
Tin Dương Hạo đến đã được truyền vào trong, quà tặng là một bộ tứ bảo văn phòng, một bộ bàn cờ và con cờ ngọc thạch, ngoài ra còn một ít đặc sản miền Tây.
Tam tư sử là quan lớn nhất quản tài chính của đại tống, quản tài chính quốc gia, địa vị chỉ ở dưới Trung Thu, Xu Mật, có danh hiệu “Kế Tỉnh”, còn Tam Ti được mệnh danh là “Kế Tương”, địa vị chỉ thấp hơn tham dự chính sự, La Công Minh là Tam Ti Phó Sử, thật ra chức quyền đã rất cao rồi.
Chức quan của Dương Hạo rất thấp, hơn nữa thái độ của triều đình với hắn ta giờ đây hơi tốt, theo lý mà nói, một vị quan lớn như vậy, muốn gặp ông ta ta có lẽ sẽ phải do dự, nhưng tất cả vượt ra ngoài dự tính của hắn, cánh cửa lớn rất nhanh đã mở ra chào đón. Người ra đón là con trai thứ của La Công Minh La Khắc Tiệp, La Khắc Tiệp hơn ba mươi tuổi, diện mạo giống với La Khắc Địch, chỉ là đã già dặn hơn nhiều. Thân phận của anh ta giống như Dương Hạo, mặc dù vẫn chưa nhập sĩ, nhưng anh ta ra đón, có thể thấy rằng La Phó Sử đã tiếp kiến với tình bạn cũ, hai người biết tên của nhau, hàn huyên một hồi, rồi La Khắc Tiệp dắt Dương Hạo vào trong hậu đường.
Nơi ở của La Gia không lớn lắm, nhân khẩu của Đông kinh thành nhiều, nhà cửa san sát nhau, dinh cơ của La Gia nhỏ hơn nhiều đại viện của Đinh Gia, nhưng rõ ràng đã được thiết kế dưới bàn tay của cao thủ, từng cành cây ngọn cỏ, từng lối rẽ tường hào đều được thiết kế cẩn thận, sử dụng hợp lý từng mét đất, tất cả đều xây dựng thành nơi ở.
Lúc đó trời đã muộn, Dương Hạo cũng không có tâm tư thưởng thức, hai người gia nhân đằng trước xách đèn lồng, La Khắc Tiệp và Dương Hạo vừa đi vừa nói chuyện, đi qua một đình viện, bèn đến một phòng sách rất nho nhã ở phía Tây Bắc.
La Khắc Tiệp đứng ở hành lang phòng sách, cung kính nói: “Phụ thân, Dương Hạo đại nhân Phòng Ngự Sử Hòa Châu, Hựu Vũ Đại Phu đã đến rồi.”
Trong phòng rất yên lặng, vang lên một âm thanh: “Mời vào”
La Khắc Tiệp mỉm cười với Dương Hạo, rồi giơ tay nhường đường, Dương Hạo đi vào trong phòng, chỉ thấy một người già mặc áo bào đang đứng dậy từ đống thư án, Dương Hạo không kịp nhìn kỹ, vội vàng bước lên một bước, kính cẩn nói: “Vãn bối Dương Hạo, tham kiến La Công.”
“Hiền chất không phải câu nệ lễ nghi, nào đến đây, ngồi xuống mau.”
Dương Hạo vừa hành lễ xong, lúc này mới ngẩng đầu lên, chỉ thấy La Công mặt rất thanh tú, tinh thần sảng khoái, râu màu hoa râm, mặt rất đoan chính, hai mắt hơi lộ ra vẻ già, nhưng ánh mắt không hề thất thần.
La Công Minh cũng đang dò xét Dương Hạo, nhìn từ trên xuống dưới một lượt, trong mắt ông ta lộ ra vẻ đau thương, ông ta lại để Dương Hạo ngồi vào chỗ của khách, gọi người mau chóng đưa trà lên, La Công Minh lúc này mới thương cảm nói: “Lão phu chưa từng gặp mặt với hiền chất, nhưng đã nghe thấy tin của hiền chất từ lâu....”
Ông ta ngừng một chút rồi nói tiếp: “Chuyện di dân Tây BẮc, hiền chất đã nói trong bản tấu, lại còn tuyên dương con trai nhỏ của ta, nó có người bạn như ngươi, lão phu thật lấy làm cảm kích.”
Nhắc đến La Khắc Địch, hai mắt Dương Hạo cũng hơi ướt, hắn và La Khắc Địch cùng đảm nhận trọng trách, kể về việc La Khắc Địch dẫn ba trăm tử sĩ đi đánh lại ba nghìn thiết kỵ, mắt La Công Minh đã hơi ướt, rồi ông quay đi rơi hai hàng lệ.
Nói xong việc này, sự xa cách giữa hai người đã không còn nữa, La Công Minh cũng thân mật với hắn hơn, sau đó bèn nói đến việc Dương Hạo tiếp tục dẫn quân đi đến phía tây, nói đến việc của Lô Lĩnh Châu, La Công Minh vô cùng chăm chú.
Lần này Dương Hạo đến, chỉ là bái kiến người lớn trong nhà La Khắc Địch, để tận lễ của cháu trai. La Công Minh đã lừng danh thiên hạ, người này làm quan nhất định phải tránh hung, cực kỳ cẩn thận. Thân phận mình giờ đây vô cùng mỏng manh, ông ta không ghét bỏ, mà còn mở cửa tiếp đón, đã là một việc vô cùng quý báu, Dương Hạo không muốn làm ông ta khó xử, thăm dò chút thái độ quan gia từ phía ông ta, hoặc là để tận lễ của người bề dưới.
Vì thế sau khi hai người nói chuyện khoảng 1 tiếng đồng hồ, Dương Hạo thấy La Công Minh đã hơi mệt, bèn đứng dậy cáo từ. La Công Minh thấy hắn ta cáo từ vui vẻ thế, có chút ngạc nhiên, ông nhìn Dương Hạo một cách cẩn thận, rồi lộ ra vẻ cười, đứng dậy nói: “Hiền chất đã đi đường xa mệt, vừa đến kinh thành, về sớm để nghỉ ngơi cũng được.
Về sau người cùng làm quan với ta, thời gian ở cạnh nhau còn dài”
Ông ta ngừng lại một lúc rồi nói tiếp: “Quan gia xuất thân từ binh sĩ, rất thích những ai khí phách hào hùng, hiền chất cũng xuất thân từ binh sĩ, ở Tây Bắc, đã nhập triều, phải được quan gia ưu ái. Nhưng ở trong triều không thể bằng Tây Bắc, hiền chất còn trẻ, vẫn đang sục sôi khí thế, muốn đạt lên chức vị cao, khó tránh khỏi bị những kẻ tầm thường ghen ghét, từ nay về sau trên quan trường, hiền chất vẫn phải hết sức cẩn thận, làm việc gì cũng phải xem xét kỹ trong ngoài, vừa có thể vừa lòng người mà lại vừa được lòng mình. Như thế, mới có thể an thân lập mệnh được, ha ha.”
Dương Hạo giật mình, hắn biết được những câu này mới là những lời quan trọng nhất, chỉ là lão hồ ly này nói thật hàm hồ, rất khó có thể nắm được ý nghĩa thật sự của câu nói ấy, hắn chỉ đành lưu nó lại trong đầu, rồi hành lễ, cáo từ một lần nữa, La Công Minh đích thân tiễn hắn ra đến cửa thư phòng, rồi lại để La Khắc Tiệp tiễn hắn ra ngoài.
Dương Hạo ngồi trong xe, nghĩ đi nghĩ lại về những điều La Công Minh nói, nghĩ ngợi cả đường đến nơi ở của mình, vừa xuống xe, bèn có một tên thị vệ đến nói bên tai hắn vài câu, đưa cho hắn một bước mất thư. Dương Hạo nhận bức thư rồi về phòng, mở ra xem dưới đèn, ngay lập tức toàn thân toát mồ hôi.
Do mạng lưới thông tin của hắn giờ chủ yếu bố trí ở khu Tây Bắc, càng về Trung Nguyên, mạng thông tin của hắn càng yếu, hơn nữa hắn đi đến đây, không thể nắm vững được tông tích cụ thể của hắn, vì thế tin tức mà “bay” mang đến, đề cập đến việc “đảo trình”, mà giờ mới đến tay hắn.
Dương Hạo hiểu rất rõ về tâm lý của đế vương, nhưng lần này hắn đã thu thập một số lượng lớn tư liệu về mặt đối nhân xử thế của Triệu Khuông Dận, hiểu rõ tính cách của Triệu Khuông Dận hơn nhiều so với những quan chức ở Lô Lĩnh Châu. Kế hoạch này thật sự có thể đuổi Trình Đức Huyền đi, dù là nó có hàng trăm lỗ hổng, nhưng chính vì lỗ hổng của nó nhiều, ý đụng dao kiếm quá rõ, rất khó có thể tưởng tượng sau khi Triệu Khuông Dận biết sẽ nghĩ thế nào, không biết sẽ có cách nhìn gì về mình.
Đối thủ này thật là lớn mạnh, không giống với Chiết Ngự Huân, không giống với Lý Quang Nghiễm, cũng không giống với những người đứng đầu của Hoành Sơn Chư Khương, giờ đây mình đang ở trong thành Khai Phong, bản thân mình là một thần tử của Đại Tống, nếu Triệu Khuông có nảy ý giết hắn, có một trăm lý do, một cách làm cho hắn chết không được sống không xong. Thiên tử đã muốn, thậm chí không cần hạ lệnh, sẽ có vô số người đứng lên thực hiện, bao nhiêu sát thủ sẽ rình rập trên thân người Dương Hạo.
Ngày thứ hai, Dương Hạo rất vui, hắn không đem theo Mẫu Y Khả đi thăm thú kinh thành, hắn ru rú trong nhà cả ngày, u ám trong phòng, ngồi trước bàn nghĩ ngợi đăm chiêu, khi Mẫu Y Khả bê trà và cơm đến, chỉ thấy hắn đang nắm một tờ giấy trên bàn, viết mấy chữ, rồi lại vo vào vất đi viết lại, làm cho cả căn phòng bề bộn những giấy. Mẫu Y Khả không biết lão gia có chuyện gì mà phiền não đến vậy, sợ đến độ không dám thở lớn, chỉ âm thầm nhặt giấy lên, trên đó chỉ thấy mấy chứ tính tình..., tính cách..., sở thích...., hai người biết chữ mà không biết dấu ba chấm, nên ngơ ngác.
Chạng vạng tối ngày hôm sau, Dương Hạo cuối cũng đã phấn chấn lên, trong phòng cũng không còn đồ đạc vất lung tung nữa, nhưng đèn vẫn rất muộn mới tắt, cách một cánh cửa sổ, Mục Vũ và Mẫu Y Khả đứng ở hành lang nhòm vào, chỉ thấy Dương Hạo đi đi lại lại trong phòng, thỉnh thoảng ngước đầu nhìn trăng sáng, thính thoảng cúi đầu trầm tư không nói gì, ở ngoài gió to bão tuyết, một màn trắng xóa, trong lòng hai người cũng là một màn trắng xóa, không biết lão gia rốt cuộc có chuyện gì phiền não.
Sáng ngày thứ ba, Mẫu Y Khả không yên tâm được, sáng sớm đã đến mở cửa phòng Dương Hạo, đẩy cánh cửa ra làm nàng giật nảy mình, chỉ thấy Dương Hạo đã dậy từ lâu, không những rửa xong mặt mũi, mà con đang mặc quần áo. Trên giường có một đống chăn, cuộn trong chăn là một bộ triều phục.
Vừa thấy nàng bước vào, Dương Hạo vui vẻ, vội nói: “Nguyệt Nhi, đến đây, mau đến đây giúp ta mặc triều phục, mấy thứ quần áo này thật phiền phức.”
Mẫu Y Khả thấy lão gia đã phục hồi lại trạng thái bình thường, trong lòng chợt thấy nhẹ nhõm hẳn đi, vội vàng bước vào phòng giúp hắn mặc quần áo và chải tóc. Hôm nay là lần đầu tiên Dương Hạo lên điện gặp mặt vua, phải mặc quần áo long trọng nhất. Triều phục của hắn là màu hòng, ở trong mặc áo màu trắng, ở ngoài có một thắt lưng lớn, trên người có đeo ngọc bội, dưới chân là giày đen tất trắng.
Tất cả quần áo của quan lại trong triều đều thế này, chức vụ cao thấp khác nhau chủ yếu phụ thuộc vào sự phối hợp quần áo để nhận biết. Chủ yếu là dựa vào có hay không có thiền y (trung đơn) và trên áo có những hình gì. Ngoài ra sự khác biệt còn ở chỗ mũ trên đầu có mấy hàng, dùng dải gì.
Sau khi đã ăn mặc gọn gàng tươm tất, lại treo thêm cổ tròn, thắt lưng, mũ quan, hai người đều mệt đến độ đổ mồ hôi. Nhưng ăn mặc thế này làm người ta cảm thấy thật uy nghiêm, Dương Hạo có thể nhận ra điều ấy từ ánh mắt nhìn khác lạ của Mẫu Y Khả. Đồng thời trong quá trình mặc quần áo này, có thể nhận thấy quá trình đó đã tạo nên ám thị trong lòng hắn, làm hắn cảm thấy kính cẩn trước hoàng quyền và hoàng đế đang sắp phải gặp.
Bước ra ngoài phòng, Dương Hạo mới nhận ra tối qua đã đổ một trận tuyết lớn. Làn không khí thanh mát từ ngoài lan tỏa vào, Dương Hạo cảm thấy tinh thần phấn chấn: “Thò đầu ra cũng là một đao, thụt đầu vào cũng là một đao, bộp bộp bộp, mở rộng lòng mình, xông lên phía trước. Sống thì sống chết thì chết, xem xem Triệu đại quan có thủ đoạn gì!”
Dương Hạo ngồi lên xe, đi thẳng đến Ngự Nhai, dừng lại trước một tòa nhà tráng lệ, nói rõ thân phận của mình, rồi đi vào trong triều, ở đây, ngoài La Công Minh, Dương Hạo không quen biết một ai, lúc này cũng không tiện đến nói chuyện, chỉ đành hai tay chắp lại với nhau, mắt nhìn mũi, mũi tim, giống như một, La Công Minh cùng những người khác cười cười nói nói, thấy bộ dạng của Dương Hạo cũng rất bình tĩnh, coi như không có gì xảy ra.
Thời khắc đến, các quan thần đến điện nghe chính sự của hoàng đế, ở trên đường chỉ gặp thú tốt, vệ trạm đứng thẳng hàng, trên các bức tường, đâu đâu cũng là những hình điêu khắc tinh xảo, mãi đến cung điện của hoàng cung.
Bách quan đã lần lượt đến chỗ nghe tấu của hoàng thượng, đứng vào một chỗ quần áo chỉnh tề, Dương Hạo lúc này mới nhìn về phía vị quan đứng đầu. Hắn biết rằng những vị quan này đều là người nổi danh trong lịch sử, nhưng lúc này lại không nhận ra, cũng không biết chức vụ cụ thể của họ, nhưng người đứng đầu nhất định là Triệu Phổ, nhìn về phía đó xem rốt cuộc vị Triệu Phổ lừng lẫy trong lịch sử có dáng bộ thế nào. Đáng tiếc là, Triệu Phổ cũng đứng thẳng nhìn về phía hoàng đế, nên nhìn từ góc độ này cũng chỉ thấy được đằng sau mũ của ông ta, chứ không nhìn được mặt.
“Hoàng đế bệ hạ giá đáo, bách quan tấn kiến!”
Sau khi lời nói vang lên, tất cả các quan thần đều đứng thẳng dậy, Dương Hạo không dám chậm trễ, vuốt thẳng áo bào rồi quỳ xuống đất, đợi có người hét “vạn tuế” là cũng gân cổ hét theo. Giờ đây hắn là quan võ, đứng ở trong hàng lớp võ tướng, mấy võ tướng ở hai bên trái phải thấy hắn đột nhiên thấp đến nửa, đều cảm thấy rất lạ lùng, bên cạnh có một quan võ râu dài nhỏ giọng nói: “Này, lão đệ à, lần đầu tiên đi gặp quan gia phải không?”
“Đúng vậy!” Dương Hạo ngẩng đầu, trong lòng còn có chút buồn bực: “Sao những người này không quỳ xuống vậy?”
Người râu dài đó nói: “Ta còn tưởng ngươi sợ đến ngã lăn ra rồi cơ, mau đứng đậy, nếu không ngươi thất lễ trước mặt vua bây giờ.”
“A?” Dương Hạo ngạc nhiên kêu lên một tiếng, sao...sao gặp hoàng đế mà lại không phải quỳ xuống ư?
Theo lý thường mà nói, những người quan lại vừa được phong chức đều có những quan lại lễ tiết dạy dỗ cho họ cách hành xử cho đúng mực, thật ra Dương Hạo chẳng hiểu gì cả, có điều hắn cũng làm quan được kha khá rồi, hồ đồ chạy đến trước cung này, cơ bản không nghĩ đến việc đi học lễ nghĩa, nên có vị quan cũng đã bỏ qua bước này.
Vốn dĩ những quan lại thời Tống khi lên gặp hoàng thượng còn có cả chỗ ngồi, mặc dù giờ không còn chỗ ngồi nữa nhưng cũng không phải hành lễ, cảnh tưởng chỉnh đốn trang phục quỳ rạp xuống, đó là do đời Minh Chu Nguyên Chương quy định, hơn nữa lúc đó cũng chỉ có tiểu triều là làm lễ, còn những đại triều thì lúc có lúc không, sau đó nữa thì đến đời Thanh, quỳ đã trở thành việc hết sức thông thường, hơn nữa thời gian quỳ không được ngắn, vì vậy đầu gối của các vị quan đều phải lót một tấm vải mềm.
Lúc này Dương Hạo lại hành lễ quỳ thế này, khó tránh khỏi làm các quan khác cảm thấy nực cười. Sau khi Dương Hạo đã nghĩ thông lễ tiết, mặt đỏ tía tai, vội vàng đứng thẳng dậy, rất nhiều quan chức thấy vậy ôm miệng cười. La Công Minh đứng ở hàng ngũ quan văn, thấy Dương Hạo làm như vậy, hàng lông mày trắng hơi động đậy, trong ánh mắt lô ra nụ cười: “Đúng là Nho tử có học.”
Lúc đó trong lòng ông ta chỉ thầm tán dương Dương Hạo, chứ không ngờ Dương Hạo làm vậy chỉ là vô tình mà thôi.
Triệu Khuông Dận nghiêm mặt ngồi trên long sàng chờ các quan đến tấu, Dương Hạo đột nhiên làm ra trò này, ông ta nhìn thấy rất rõ ràng từ trên long sàng, vừa thấy cảnh đó, miệng ông ta cũng động đậy một chút. Chỉ là lúc đó khoảng cách khá xa, ấn tượng trước kia cũng không rõ lắm, ông ta vẫn chưa nhớ ra viên quan không hiểu phép tắc này là ai.
Dương Hạo bò dậy, cùng làm lễ với bách quan, hô ba lần vạn tuế, lúc này mới trở về hàng đứng ngay ngắn, Trương Đức Quân nhìn vào bản danh sách quan viên từ Ngọ Môn gửi đến có chú thích hôm nay một quan viên mới đến, mấy người này phải ưu tiên xử lý trước, bèn bước lên trước một bước, cao giọng nói: “Quan tân nhiệm Hòa Châu Phòng Ngự Sử Dương Hạo về kinh gặp mặt hoàng đế, lên trước kiến giá, đội ơn hoàng thượng.”
Dương Hạo vội vàng đứng ra ngoài, những viên quan hai bên trái phải vừa nhìn thấy đã nói: “Ồ, không ngờ là một người trẻ thế này!”
Dương Hạo làm lễ trước long sàng, rồi cao giọng nói: “Thần Dương Hạo....phụng chỉ hồi kinh, khấu tạ thiên ân.”
Lúc này, hắn đáng lẽ hắn phải quỳ xuống rồi, nhưng khi miệng Dương Hạo nói câu “Khấu tạ thiên ân”, hắn lại chỉ đứng mà khom vai, không quỳ xuống. Những quan văn võ hai bên nhìn thấy, rất nhiều người quay đầu đi cười, sợ rằng cứ nhìn hắn thì sẽ cười thành tiếng mất.
Triệu Khuông Dận vốn nghe nói là hắn ta, ngay lập tức mắt trợn tròn lên, nhưng khi thấy hắn lúc không cần quỳ lại quỳ, lúc cần quỳ lại không quỳ, hình như không hiểu chút lễ nghi nào cả, nên dở khóc dở cười, ông ta ngẩn người ra một lúc rồi xua tay ngụ ý ngăn Trương Đức Quân đang định trách móc, dịu giọng nói: “Dương Hạo, Trẫm đã thân chinh ngự giá đến Hán, di rời năm trăm lão bách tính của Hán, để tiêu hủy cái gốc rễ của Hán đi. Ngươi không phụ lòng tin của Trẫm, làm cho năm vạn dân tử này có cuộc sống ấm no, Trẫm cũng yên lòng. Sau khi Lô Lĩnh được xây dựng lên, tăng cường sức lực, mở cửa xây dựng tri phủ, là công lớn. Trẫm phong người làm Hòa Châu Phòng Ngự Sử kiêm Hựu Võ đại phu, mong rằng về sau ngươi vẫn cố gắng như trước kia, tận tâm tận lực.”
Dương Hạo vừa nghe lời nói đó, vô cùng cảm kích, hắn khom lưng, chắp tay lớn tiếng nói: “Đa tạ hoàng thượng, thần xuất thân áo vải, cày cấy ở Phách Châu, hiến tính mạng mình cho Tây Bắc, không mong được ghi danh trong triều đình. Quan gia không khinh bỏ thần chỉ là loại thường dân, mà còn cho thần trọng trách đi di dân, thật là cảm kích....”
Trò linh tinh gì đây chứ? Mắt Triệu Khuông Dận càng ngày càng mở lớn, đột nhiên nghĩ đến những con chữ gà bới của hắn trong bản tấu lúc đầu, giờ lại nghe hắn đọc lại “Xuất Sư Biểu”, nộ khí và sát khí đã ngay lập tức hóa thành tiếng cười lớn, lập tức ôm bụng cười ngặt nghẽo, rồi nhìn lại những viên quan trái phải, ai nấy đã cười nghiêng ngả cả rồi, liền nói:
“Ngay cả ‘Xuất Sư Biểu’ mà cũng dám ngại, thật là không biết thì không sợ!”
Đã có 9 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Thinhbobo
Quyển 5: Khai Hoa Thập Trượng Ngẫu Như Thuyền
Chương 237: Tái diện quân
Tác giả: Nguyệt Quan
Nguồn: Sưu tầm
Ra tháng giêng, bước đi của mùa xuân mỗi ngày một gần, núi non xanh mướt, nước sông dâng lên, vạn vật như bừng tỉnh sau một cơn ngủ say, trăm hoa đua nở, gió nhẹ thổi qua không chút lạnh, những nhành tơ liễu đung đưa theo gió, khiến người ta phiền não vô cùng. Cơ cấu chính trị khổng lồ hoạt động, bắt đầu chuẩn bị tiến hành thảo phạt Nam Hán, Dương Hạo đã dần dần nhạt trong đề tài câu chuyện sau mỗi bữa cơm trà của mọi người.
Tây thành Khai Phong, Cấm quân đại doanh.
Nha môn phòng ngự nghiêm ngặt, áo giáp của sĩ tốt sáng lấp lánh, nhìn không chớp mắt, một loạt sĩ tốt đứng thẳng như một đường thẳng, giống như tường đồng vách đá. Có rất nhiều tướng lĩnh mặc áo giáp đội mũ vây quanh một người mặc áo bào rộng, đầu đội mũ mềm đi từ trong nha môn đi ra.
Người này khoảng bốn mươi tuổi, dáng người rắn chắc, tai to mặt lớn, da ngăm ngăm đen, lông mày rậm trên đôi mắt uy nghi lẫm liệt, hắn luôn dương dương tự đắc, song vào lúc này hắn vô cùng vui vẻ, cười cười nói nói với các tướng lĩnh hai bên, không ai khác chính là Quan Gia Đại Tống Triệu Khuông Dận.
Trước quân doanh có một cỗ xe ngựa dừng lại, không có cờ, xe ngựa cũng không có gì đánh dấu, thoạt nhìn giống như cỗ xe ngựa bình thường của hộ gia đình giàu có, nhưng lại có những người đàn ông vạm vỡ bảo vệ xung quanh xe ngựa, họ không phải người mà những hộ gia đình bình thường dùng, những người đàn ông này khá giống nhau, song không phải là dáng dấp họ, mà là phong độ của họ.
Những người đàn ông này dựa theo tiêu chuẩn hiện giờ thì mỗi người đều cao khoảng một mét chín, khôi ngô cao lớn, vô cùng phong độ. Hai người đàn ông đứng ở hai bên càng xe là hai người khổng lồ cao cỡ hai thước, thân hình cao lớn, cơ thể rắn chắc, đeo chặt chiếc đai đen.
“Có thần”. Một người mặc áo giáp sắt tiến lên một bước, cúi người chắp tay, tiếng lá sắt kêu leng keng, thực là một tướng quân uy phong.
Triệu Khuông Dận cười nói: “Quân đội luyện tập của ngươi rất tốt, ta vô cùng hài lòng, song không được lơ là binh khí mà binh tốt dùng. Mới vừa rồi tập luyện võ nghệ, mười cái thì có đến ba bốn cái là không dùng được, một khi lâm trận thì dùng thế nào đây? Đây không phải là những binh khí khó làm, chúng ta hoàn toàn có thể tự chế tạo được, cho nên mới ủy thác cho ngươi bảo quân thợ đi làm, ngươi có thể tăng cường giám sát quân thợ rèn chứ?”
Vị Lão Đảng đó chính là mã bộ quân đô chỉ huy sứ Đảng Tiến, khuôn mặt đỏ đen tim tím, cười ha ha nói: “Vâng…thần…thần biết rồi ạ”.
Triệu Khuông Dận thấy yêu bộ dạng lúng túng của hắn, lại cười hỏi: “Lão Đảng à, giờ đã là tiết xuân ấm áp, trăm hoa đua nở, chuẩn bị thêm mấy ngày nữa thì phát binh chinh phạt Nam Hán rồi, trong doanh này ngươi có bao nhiêu binh rồi?
Có chỗ trống nào không? Binh khí trang bị là gì? Có thiếu sót gì không, chắc ngươi cũng hiểu?”
“Ách…” Đảng Tiến nhìn xung quanh, hai mắt trợn tròn, đứng trước mặt Quan Gia, đám phụ tá thuộc hạ của hắn không dám thì thầm với hắn, khiến hắn quýnh lên, mặt mũi mồ hôi nhễ nhại, khuôn mặt đen của hắn méo xệch, im lặng khá lâu không nói được lời nào. Bên cạnh Triệu Khuông Dận còn có những văn võ trọng thần như Triệu Phổ, Phan Mỹ, Tào Bân…, thấy tướng quân Đảng Tiến xưa nay lâm trận dũng mãnh, chỉ tiến chứ không lùi có bộ dạng khó xử, họ đều che miệng cười trộm.
Hơn nữa lại không có ai tiến lên phía trước giúp hắn giải vây, Đảng Tiến dù dụng binh đánh giặc giỏi, song đó chỉ là bản lĩnh chiến trường được tôi luyện. Hắn một chữ bẻ đôi cũng không biết, việc trị quân, quản lý lương thảo, khí giới ngày thường lại không làm, hỏi hắn những việc này là làm khó cho hắn. Các quan văn võ đều chê cười hắn là một loại đầu to óc bằng quả nho, song chỉ có phó chỉ huy sứ kiêu hùng Hô Diên Tán là thân với hắn nhất, thấy vị tướng quân ngậm tăm, Hô Diên Tán bèn giúp hắn giải vây. Hắn nhìn xung quanh không ai chú ý, bèn chỉ chỉ vào bụng mình.
Đảng Tiến đang lo lắng, đôi mắt trâu của hắn nhìn xung quanh, bỗng nhiên nhìn thấy vị cứu tinh, thấy động tác của Hô Diên Tán như vậy, đột nhiên liền sờ vào đai lưng, sờ phải tấm gỗ, tấm gỗ này dùng để nhớ vài việc quan trọng cấp bách, tương đương với tác dụng của đệ bản mà triều thần sử dụng, nó cũng là bản ghi nhớ.
Triệu Khuông Dận xuất thân từ quân đội, không muốn cả ngày ở trong Cấm cung, thỉnh thoảng lại đi ra ngoài xem xét tình hình, quân doanh là nơi mà hắn thích đến nhất. Tướng lĩnh cấm quân phần lớn đều không biết chữ. Họ đề phòng Quan Gia hỏi, đều chuẩn bị một bản ghi nhớ những số liệu mấu chốt. Đảng Tiến nhìn thấy Hô Diên Tán mách nước như vậy, song vấn đề là chữ mà các tướng lĩnh biết thì rất ít. Hắn lại là loại một chữ bẻ đôi cũng không biết, những con số mà các phụ tá giúp hắn ghi lại, hắn cũng chỉ có thể giương mắt nhìn…
Triệu Khuông Dận lại cười nói: “Làm sao, mang lại đây”.
Đảng Tiến cắn răng cắn lợi, trừng mắt hằn học nhìn tấm bản như kẻ thù giết cha mình. Hắn nhìn một lúc lâu, một chữ vẫn không thể đọc ra nổi, đành đem tấm bản đó lên cho Triệu Khuông Dận, cao giọng nói:
“Số binh của thần, đều đã viết ở đây, mời Quan Gia xem, chữ như gà bới thế này, thần nhìn không ra”. Triệu Khuông Dận vốn có ý trêu hắn, nghe thấy những lời này không chịu nổi cười to. Đám người Triệu Phổ, Tào Bân cũng cười ầm lên, Đảng Tiến mặt đỏ tía tai, xấu hổ vô cùng.
Triệu Khuông Dận đập tay vào ngực cười nói: “Cái thằng nhãi này cũng biết xấu hổ là gì sao, ha ha, ha ha ha, lâu lâu không làm khó ngươi… thôi thôi, mấy việc này ngươi có thể giao cho các phó tá làm cũng được, nhưng điều độ hành quân, xông vào trận địa, ngươi không thể lơ là được đâu đấy”.
Triệu Khuông Dận vẻ mặt tươi cười nói xong, xua xua tay xoay người lên xe, Đảng Tiến khom người lớn tiếng nói: “Thần Đảng Tiến cung tiễn Quan Gia”.
Xe Triệu Khuông Dận chuyển bánh, các quan lại còn lại cũng lên kiệu, đoàn xe vừa đi, Đảng Tiến liền thẳng lưng dậy, quay sang bên cạnh hung hăng đá một cú vào phụ tá, tức giận mắng cho một trận:
“Nuôi các ngươi cũng chẳng có tác dụng gì cả, thấy ta khó xử, sao lại không nhắc một câu nào hả?”
Đảng Tiến xưa nay là người hiền lành, thuộc hạ vốn không sợ hắn, hắn không mắng còn may, khi mắng xong rồi, thì các tướng lĩnh, phụ tá đều không chịu nổi cười ầm lên, Đảng Tiến tức giận mặt mày đỏ sẫm như hoa mào gà.
Đảng Tiến lớn tiếng, đến Triệu Khuông Dận ngồi trong xe vẫn còn nghe rõ, lắc đầu cười, nói: “Cái tên này, cương trực, đáng yêu thật”. Nói đến đây, mắt Triệu Khuông Dận nhắm lại, nghĩ đến Dương Hạo, tay gõ nhẹ vào chiếc kỷ trà trong xe, hắn ngẩng đầu hỏi: “Thế Dương Hạo, giờ làm gì vậy hả?”
Trong mấy thị phó đi theo,Cố Nhã Ly lên tiếng đáp: “Quan Gia, Dương Hạo giờ mỗi ngày đều an phận ở các quán xa, sau khi ra tháng giêng hắn thu xếp mua một cái nhà không nhỏ tí nào, lại còn giao phó cho mẹ mìn mua ca kỹ nữ về nữa, hầu gái và gia quyến. Vì vài việc này mà hắn bận suốt, hai ngày nay mới nhàn nhã được một chút, hôm qua đi dạo ở chùa Đại Tướng Quốc”.
“Ồ…” Triệu Khuông Dận khẽ lên tiếng.
Cố Nhã Ly nhìn sắc mặt của hắn, lại nhỏ giọng nói:“Quan Gia, nô tì được quan gia sai đi Lô Lĩnh Châu. Nô tì tưởng rằng, quan sứ ở Lô Lĩnh Châu sở dĩ đều trung thành với Dương Hạo, hắn nói gì thì nghe nấy, là vì họ được Dương Hạo ủy nhiệm, vài người này lấy tiền đồ của mình dựa vào Dương Hạo. Quan Gia hậu đãi bọn họ, bọn họ tự nhiên hướng triều đình.
Hơn nữa, Dương Hạo rời cương vị này, lâu dần, tầm ảnh hưởng sẽ suy giảm đi. Khi Lô Lĩnh xây dựng châu ở giữa các thế lực, tạp hồ xâm lược, nhiệm vụ chính đầu tiên là thành lập quân đội, mở rộng quân bị, hơn nữa phải làm cho dân chúng Lô Lĩnh giàu có, nào có chuyện không cần bạc, hắn tiêu một đống tiền của vào xây châu phủ nha môn nguy nga tráng lệ. Tuy nói Dương Hạo ở tây bắc kết giao với thế lực Chiết gia, lại dựa Hồ trị Hồ, tấn công tiểu bộ lạc người Khương Hoành Sơn, cho thấy người này có trí mà thiếu nhận thức, vui mừng quá lớn. Hắn vốn xuất thân hàn vi, không biết đến phú quý. Giờ ở lại chốn Khai Phong phồn hoa này, có nhiều gái đẹp, vinh hoa phú quý, bản tính chưa từng có dã tâm, cũng dần dần mất đi”.
“Ừ!” Triệu Khuông Dận vẫn không đưa ra ý kiến gì, ngồi tựa vào ghế, nhắm mắt, Cố Nhã Ly thấy vậy, liền ngậm miệng lại không nói gì thêm nữa.
Ngày đó Kim Lê đọc diễn văn trên điện Dương Hạo chẳng ra gì, giọng nói lại còn âm vang, vô cùng nghiêm túc, khiến các văn võ bá quan đều phì cười, Triệu Khuông Dận cũng không kiềm chế được, cười đau cả bụng.
Song tuy nói thái độ của hắn đối với Dương Hạo có thay đổi, sau khi nghe báo cáo là để Dương Hạo lại, gọi đến Văn Đức điện, đưa tấu biểu của Lô Lĩnh tri phủ cho xem. Dương Hạo nhìn thấy thì mặt mũi biến sắc, không phủ nhận có liên quan đến mình, cũng không tìm mọi cách đùn đẩy trách nhiệm, chỉ khấu đầu tạ tội.
Chính hắn bị giữ lại và đưa đến điện Văn Đức. Triệu Khuông Dận cũng đã lạnh nhạt nhìn hắn, dò xét hắn. Khi lệnh cho hắn ở lại, hắn vô cùng vui mừng, đến khi đọc được một nửa thì mặt hắn biến sắc.
Hắn không biện bạch gì cho bản thân mình, điều đó phù hợp với tính cách của hắn, lúc đầu trên tấu biểu của hắn, đẩy công lao cho đám ba người La Khắc Địch, Hách Long Thành, Lưu Hải, ngay cả Trình Đức Huyền không hợp với hắn sao hắn không nói, chính bởi vì hắn là người trọng nghĩa. Nếu hắn có ý đồ gì thì không thể phản ứng như vậy.
Nghĩ đến đây, liên tưởng đến oan uổng hắn tự chịu, Triệu Khuông Dận không khỏi dao động chút ít. Hắn nói trấn an một phen, nói thẳng rằng mình tín nhiệm hắn, tin tưởng không phải hắn trù tính việc nhỏ này, khiến hắn yên tâm ở tại kinh thành, xây nhà, mua hầu gái, ca kỹ nữ qua ngày. Tuy chưa vì việc này mà giận cá chém thớt hắn, lại bảo hắn từ giờ ở Khai Phong lâu dài, làm một viên quan an nhàn, không quyền mà vẫn có bổng lộc.
Triệu Khuông Dận tự an ủi mình, và hắn cũng có mục tiêu của hắn, nếu như cần, hắn sẽ không tự tiện động sinh sát. Nắm chính quyền, thực không dễ, hắn chinh chiến khắp nơi, trong mấy năm đã diệt được Kinh Hồ, Hậu Thục, xâm chiếm sang lãnh thổ to lớn Bắc Hán, những nơi này không phải dụng binh đánh, mà vẫn cắm được cờ Đại Tống vào đầu thành, và nó đương nhiên thuộc về lãnh thổ của quốc gia, chính là do chinh phục được lòng dân, quán triệt thể chế thống trị. Nhiều chuyện không phải dùng vũ lực có thể giải quyết được. Giờ dụng binh xâm chiếm Nam Hán, khu tây bắc thực sự không nên tái sinh sự cố, để Dương Hạo ở kinh thành.
Còn về Dương Hạo cuối cùng có dã tâm hay không, hắn cũng không quan tâm đến nữa. Sau khi Dương Hạo đi, hắn liều gọi đến, vị trí Vũ Đức Tư làm quan, tự mình căn dặn, lệnh hắn phái vài tên thân tín kín đáo điều tra động tĩnh của Dương Hạo.
Sáng sớm ngày thứ hai, một gã người hầu thân cận lặng lẽ rời đi kinh thành đi hướng tây bắc, mấy tên Vũ Đắc Tư, thân tín lập tức âm thầm phối hợp, khi đợi người mang tin tức đến Bạch Sa trấn, một tên binh, cho thuốc mê vào rượu, nhân cơ hội đó ăn cắp và sao chép thư từ của hắn sao lại, thư gốc vẫn do hắn cầm, rồi chuyển thư kia về kinh thành.
Thư của Dương Hạo chữ nghĩa như gà bới, chọn lọc từ ngữ không gãy gọn. Có hai bức thư, khác nhau ở chỗ một bức viết cho Lô Lĩnh Châu đoàn luyện phó sứ Kha Trấn Ác và bức thư kia là viết cho một cô gái họ Đường.
Thư cho Kha Đoàn Luyện, Dương Hạo nói mình vào kinh thành nhận ưu đãi của Quan Gia, phong cảnh vô cùng đẹp, và nói từ nay sẽ ở kinh thành lâu dài, sau này sẽ được Quan Gia trọng dụng, thực là cơ hội khó có được, từ nay về sau yên tâm làm việc. Ít ngày nữa Quan Gia sẽ phái tân đoàn luyện sứ đi điều động binh, gọi họ cùng phối hợp, chớ nên tham quyền, lợi ích mà xảo trá, tránh để người ngoài hiểu lầm mình.
Bức thư viết cho cô gái họ Đường, viết quan lại nhìn Lô Lĩnh Châu ánh mắt ngu ngốc, thiển cận như ếch ngồi đáy giếng, kế sách thô bỉ như vậy xa lánh Trình Đức Huyền, suýt nữa hại người hại cả mình. Hắn còn kèm theo vài lời oán trách, còn xen lẫn với mấy câu nói nhà quê. Phía sau hắn viết về một tình yêu có tương lai, còn chép mấy câu thơ tình trong thơ Đường vào, khiến Triệu Khuông Dận không cười không được. Cuối thư lại nói giờ tuy ở kinh thành, vị trí chưa định, gia đình chưa yên, trong lòng sợ hãi phân vân, sau khi an cư lạc nghiệp thì sẽ trở về tây bắc đến nhà nàng cầu thân, đón nàng vào kinh thành hôn.
Xem xong hai bức thư, sự nghi ngờ của Triệu Quan Gia đối với Dương Hạo là một chuỗi dài lê thê. Nói ra, hắn rất tán thưởng Dương Hạo, người này có thể bao vây chặn đường thiết kỵ Khiết Đan, dẫn ba nghìn binh, dẫn năm vạn dân bình yên mang đến tây bắc, thực có tài cán chân chính. Cần biết, một mình mang năm vạn dân thường khó khăn vô cùng so với hơn ba nghìn sĩ binh. Nếu là một viên danh tướng, thống lĩnh ba nghìn binh sĩ sát nhập thảo nguyên, trong mười vạn đội quân tinh nhuệ thì vô cùng đơn giản, nhưng người có thể dẫn năm vạn già yếu phụ nữ và trẻ em, làm được việc đó lác đác không có mấy ai.
Dương Hạo có thể làm những việc mà người khác không thể làm, trong những tháng ngày khó khăn hắn vẫn dẫn binh trở về kịp thời, có thể hãm chân Khiết Đan, cũng đủ để chứng minh hắn là người có gan có mưu. Sau khi bình yên đến tây bắc, Dương Hạo trong tấu biểu của đặc biệt được tán thưởng. Dương Hạo người này vô tài học mà có tài cán, đặt hắn trong văn quan thì võ công xuất chúng, đặt trong hàng võ tướng thì văn tài lại xuất chúng, đặc biệt người này tính tình cương trực được mọi người yêu thích, thực không phải là một nhân tài dễ có.
Không ngờ lúc này Trình Đức Huyền mặt xám mày trở về kinh thành ở bên hai thế lực Chiết Lân một năm, đi tây bắc, giờ lại về Khai Phong, vẫn làm khai phong phủ áp nha quan.
Triệu Quang Nghĩa mang theo vị áp nha quan xui xẻo đi gặp Quan Gia, trước mặt Quan Gia, chính mồm Trình Đức Huyền thuật lại tấu biểu tương đối cụ thể. Triệu Khuông Dận lại là có tình có lý, trong lòng hoài nghi, địa vị của Dương Hạo trong tâm hắn lập tức đã thay đổi…
Mấy ngày nay Dương Hạo không có hành động gì, dường như đều bị hắn quên.
Đang nghĩ đến đây, thì nghe ngoài xe vọng lại một tiếng thét kinh hãi, Triệu Khuông Dận chau mày, Cố Nhã Ly lập tức xoay người đi ra ngoài, một lúc sau, Cố Nhã Ly quay về xe, hoang mang bẩm báo:
“Quan Gia, trong thành bị cháy rồi, khói lửa mù mịt, xem ra đám cháy ở chỗ khu nhà ở”. Triệu Khuông Dận vừa nghe xong tin này, mặt biến sắc, vội vàng chạy ra khỏi khoang xe, nhìn về phía đầu thành Khai Phong, chỉ nhìn thấy khói đặc đen cuồn cuộn, không khỏi kinh hãi nói:
“Vào thành, vào thành ngay”. Lập tức quất roi thúc ngựa đi nhanh hơn, bay nhanh về phía thành.
Đám cháy thực sự là không nhỏ.
Dân số thành Khai Phong rất đông, trừ những con đường chủ đạo, là những ngõ ngách, hai bên đường là nhà của những nhà giàu: Biệt thự Tinh La, Phòng vô quảng hạng, Thị bất thông kỵ. Mấy năm nay Đại Tống mở rộng đất đai, chiếm được một vài quốc gia, quân vương của những quốc gia đó giờ đang định cư Khai Phong, người thì mang theo phi tần, người thi di chuyển cả nhà, Triệu Khuông Dận khoan dung độ lượng, rất ưu đãi với họ, cho phép bọn họ mua nhà rầm rộ, xây dựng đủ mọi loại phòng xá lầu các, khiến kiến trúc của Khai Phong càng thêm dày đặc.
Hơn nữa Triệu Khuông Dận lại còn cổ vũ các quan lại mua đất xây dựng nhà cửa, chế độ nhân sinh, cho nên dân đến các quan từ chức ở ẩn, rất nhiều tài sản do làm quan mà có cũng không tiếc tiền của xây dựng nhà cửa cấp cao, khi sống thì chính mình hưởng thụ, khi mình chết đi thì để cho con cháu, vì vậy các công trình kiến trúc được xây ngày càng nhiều ở Khai Phong, kiến trúc nhiều đến nỗi từ trước đến giờ chưa từng có.
Lại thêm lúc này Phật Đạo thịnh hành, đền chùa, đạo quan khắp nơi, cả ngày hương khói không ngừng, tín đồ ngày càng nhiều, ở nhà cũng thường thắp hương bái Phật, vô ý một cái, lửa cháy là chuyện thường. Lúc này kết cấu của nhà cửa đều theo một kiểu, kiểu toàn đá không lưu hành nữa, nên một khi cháy thì sẽ tạo nên tổn thất vô cùng lớn.
Trước đó, thành Khai Phong đã nhiều lần cháy hụt, thời điểm nghiêm trọng nhất chính là lúc mọi nhà nổi lửa, chính là trong hoàng cung cũng nổi lửa quá cung điện, Triệu Khuông Dận biết rõ sự lợi hại của ngọn lửa, thấy như vậy song cũng không ngờ có ngày hôm nay.
Xe của hắn phi thẳng vào trong thành, vội vàng đi qua cầu Kim Lương thì thấy khói lửa đã nghi ngút đến tận trời, khói đen cuồn cuộn, hơi nóng đập vào mặt, vô số dân chúng kêu khóc thê thảm, xa xa nhìn lại, giống như kiến song lúc này cũng không phân biệt rõ, vì kiến trúc dày đặc, dân cư xung quanh và nhà sít lại với nhau, đứng trên đỉnh nhà như bước một bước thì có thể bước qua nhà khác, đám lửa bị gió thổi tới, lửa cháy càng mạnh và lan sang xung quanh, giờ khói lửa đã luồn lách vào trong những ngõ nhỏ, và chuẩn bị tư thể tiếp tục lan tràn ra xung quanh.
Thấy tình hình hỏa hoạn nghiêm trọng như vậy, Triệu Khuông Dận ngẩn người, lập tức dặn dò:
“Mau, mau truyền ý chỉ, lệnh Đảng Tiến điều cấm quân vào thành dập lửa!”.
Phái người đi điều binh, Triệu Khuông Dận nhảy xuống xe đi về phía trước, sợ Quan Gia gặp nguy hiểm, một tên vạm vỡ lập tức đi theo bảo vệ hắn, đi được không xa lắm, dân chúng chạy toán loạn ngăn trở đường đi của hắn, chỉ thấy dân tráng trên đường đang đi lấy nước, chạy qua chạy lại, hò hét om sòm
“Có gì thì dùng nấy, mau mau dập lửa đi. Người nhàn rỗi thì mau tránh ra, đừng có gây trở ngại cho việc dập lửa”.
Một tên vô lại đấy chiếc xe nhỏ, khó khăn lắm mới đến được cái giếng cạnh sông, khuôn mặt tươi cười hướng Na Phường Chính hỏi:
“Phường Chính, ngươi mau mau nói, dùng nước nóng hay dùng nước lạnh, dùng nước ngọt hay dùng nước đắng để dập lửa đây?”
Na Phường Chính giận giơ chân, thổi râu, trừng mắt nói: “Mạc Đạo Bắc, đám cháy vô tình, lửa cháy không nương tay chút nào, sao ngươi còn chặn đường, còn không mau tránh ra?”
Tên vô lại kia trợn mắt, dứt khoát để xe nhỏ dừng lại, ngồi xuống phía càng xe, cười nhạt nói: “Bảo ta nhường đường thì dễ thôi, nói vài câu dễ nghe đi”.
Dân chúng xung quanh tức giận nói: “Lật đổ cái xe của hắn đi!”
“Ai dám?”
Mạc Đạo Bắc trừng mắt, nhìn xung quanh, dân chúng im bặt không nói gì.
Triệu Khuông Dận tức giận , hắn nghiến chặt răng, căm giận mà nói: “Đi, bắt hắn đem đi chém cho ta!”
Hai người đàn ông vạm vỡ lập tức xông đến tên vô lại đó, hai thị vệ cấm quân cũng nghe mệnh lệnh từ Quan Gia. Dù đây không phải là đầu đường xó chợ. Tên vô lại đó dang diễu võ dương oai, hai người đàn ông ra một đòn, giống như diều hâu xách con chim nhỏ, xóc hắn lên vai rồi quăng hắn xuống “Rầm” một tiếng, người đó rơi xuống mặt đất.
Còn không đợi tên vô lại ra giọng mắng chửi, một thị vệ bèn rút đao lao đến, lưỡi đao sáng loáng vung lên, một cái đầu rơi lăn lóc, đầu người lăn trên mặt đất còn nhe răng há mồm, máu ở cổ phun ra cao hơn hai thước, dân chúng xung quanh tuy hận cái tên vô lại táng tận lương tâm ấy, nhưng khi nhìn thấy cảnh giết người như vậy, sợ tới mức mặt cắt không còn hột máu.
Triệu Khuông Dận thấy những người đàn ông gánh nước cũng sửng sốt, khi hắn đang muốn thúc giục bọn họ mau mau hắt nước dập lửa, không ngờ âm thanh gần đó lặng xuống, xa xa một giọng nói truyền vào tai hắn.
“Bà con, lửa cháy lớn như vậy, hắt nước vào cũng không ăn thua gì, không thể dập lửa như vậy được, phải dỡ nhà xung quanh, dỡ nhà đi. Mau dỡ nhà đi, nếu không thì, đám cháy sẽ thiêu trụi toàn bộ mọi thứ”.
Triệu Khuông Dận nghe thấy những lời đó đột nhiên bừng tỉnh. Ta thực là một cái đầu ngốc nghếch, sao lại còn phải dập lửa, lửa cháy thế này còn muốn dập sao? Việc cấp bách, mau chóng chặn tuyến lửa lại, chớ để đám cháy tiếp tục lan ra, tạo thành tổn thất nặng nề mới đúng.
Hắn vội vàng chạy về phía trước, thì nhìn thấy căn nhà phía trước có rất nhiều người cầm thùng nước còn đang hắt nước, có một người chạy qua chạy lại, không ngừng hô hào nên dỡ nhà cửa xung quanh xuống, đáng tiếc lại không có ai để ý tới hắn. Chỉ cần lửa còn chưa cháy đến nhà mình, thì ai chả ôm hy vọng? Dỡ nhà mình xuống làm gì?
Không liều mạng mới là lạ, hơn nữa, người chỉ huy tổ chức cứu hỏa chính là Phường Chính. Thì ai dám gánh trách nhiệm này? Nhưng lại không một ai chú ý đến hắn.
Triệu Khuông Dận trầm giọng nói: “Triệu Phổ, ngươi đi gọi Na Phường Chính lại đây, nói rõ thân thế của ngươi, bảo hắn lệnh cho người dỡ các nhà xung quanh đám cháy xuống đi”
“Tuân chỉ!”
Triệu Phổ lập tức cất bước về phía trước, Triệu Khuông Dận lại nhìn người đó, khen ngợi:
“Người này cũng có chút kiến thức đấy”.
Người đó hét khàn cả giọng, chạy đi chạy lại một hồi, dừng lại thở gấp, lau mồ hôi trên mặt, năm ngón tay đen xì hằn lên má của hắn. Hắn nhìn về phía đám cháy, tiếc thở dài “Thành Khai Phong không những nhà cửa dày đặc, mà lại còn không dùng đá và gốm sứ xây dựng, lại còn dùng loại kiến trúc tận dụng tre gỗ, một khi lửa cháy, không biết bao nhiêu gia đình sẽ bị tổn thất….”
Triệu Khuông Dận lúc này mới nhìn rõ mặt hắn, không khỏi kinh ngạc kêu lên: “Dương Hạo!”
Last edited by Minh Huệ; 25-03-2011 at 05:25 PM.
Đã có 8 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Minh Huệ
Quyển 5: Khai Hoa Thập Trượng Ngẫu Như Thuyền
Chương 238: Diễm ngộ
Tác giả: Nguyệt Quan
Nguồn: Sưu tầm
Triệu Phổ là tể tướng, chức vụ khá cao, lúc này trực tiếp xuất hiện nhưng không thể hạ lệnh cho dân chúng được, vì không có ai nhận ra hắn, dù hắn có đi tìm Na Phường Chính, thì Na Phường Chính cũng không nhận ra hắn, nên không dám tuân lệnh lung tung. May mà một vị quân tuần phán quan của tả quân tuần viện phủ Khai Phong đưa người đi qua nơi lửa cháy mạnh đến tận trời này. Thấy tình hình như vậy chạy một mạch lại, hắn lại nhận ra Triệu tướng công, đến lúc này mới thay Triệu Phổ giải vây.
Triệu Phổ giờ ở Đại Tống là chức gì? Mệnh lệnh mà Hoàng Đế ban cho chỉ cần ra khỏi quan môn, cho dù lớn nhỏ đều là thánh chỉ, nhưng không qua nhị phủ đóng dấu thì vô hiệu, mà lệnh Triệu Phổ nói không phải là thánh chỉ, mà là quân dụ của tể tướng đại nhân, chỉ cần hắn viết ra, thì lúc nào cũng đều có thể truyền lệnh, không ai là không tuân lệnh, thậm chí còn nhanh và có hiệu quả hơn cả thánh chỉ. Trong tâm của dân chúng của thành Khai Phong, Đương kim Triệu tướng công và nam nha trực quản Khai phủ Triệu đại nhân, tầm ảnh hưởng còn mạnh hơn cả Quan Gia, Na Phường Chính vừa nghe thấy người phía trước này là Triệu tướng quân đương triều, vội khấu đầu và hiệu triệu dân chúng dỡ nhà ở dập lửa.
Có Triệu tướng công chịu trách nhiệm, nên không ai dám chần chừ nữa, xô chậu, dây thừng gậy gộc, tất cả những thứ có thể dùng thì đều tận dụng hết, không đợi Đảng Tiến dẫn cấm quân doanh trung đại nhân người ngựa đến. Lúc này tốc độ dỡ nhà nhanh chưa từng thấy. Điểm thuận tiện của những căn nhà được dựng bằng tre gỗ chính là đây. Muốn đốt thì cũng dễ, muốn dỡ bỏ thì cũng dễ, binh sĩ, dân chúng mỗi người một tay một chân, rất nhanh đã cách ly được khu xung quanh đám lửa, đám cháy này cuối cùng cũng có thể khống chế được.
Còn về chỗ lửa cháy, sớm đã đổ nước vào để dập, căn nhà bị cháy khiến mọi người đều khẩn trương cứu những người trong đó ra, cố gắng lấy lại một số đồ châu báu, còn những cái khác thì kệ cho lửa thiêu vậy. Trước mắt tình hình hỏa hoạn đã được khống chế, Dương Hạo mới rời khỏi hiện trường bị cháy, người đầy mồ hôi, người bụi mù ngồi ở một tảng đá lớn dưới gốc cây.
Mấy ngày nay, hắn giấu kín chuyện gì đó rất khó hiểu, an phận sống qua ngày, trong lòng hắn hiểu rõ, Quan Gia vì “Sự kiện đổ Trình” đã nghi ngờ hắn, sự nghi ngờ này chưa chắc sẽ hắn khéo léo mà tiêu trừ. Hắn ở trong triều không có ai, La Công Minh ngay cả có lòng giúp hắn, cũng chỉ có thể tìm lúc thích hợp mới giúp đỡ, mà nam nha Triệu Quang Nghĩa thì lại hoàn toàn không có loại kiêng kỵ này.
Con người hắn bị xa lánh, hắn làm sao có thể không giận được chứ? Dương Hạo tin tưởng lòng dạ của Triệu Khuông Dận, lại không tin Triệu Quang Nghĩa cũng có lòng dạ của đại ca hắn. Còn nhớ Cận tống thái tông sau khi làm Hoàng đến, nhìn thấy dân chúng hoan hô thái tử của hắn thì vừa ghen ghét vừa oán hận. Suýt chút nữa thì phế truất Thái tử. Ghen với cả con trai mình, chứng tỏ lòng dạ có rộng lớn đến mấy thực ra cũng chỉ có hạn, giờ mình lại đắc tội hắn, hắn bình thường lại có thể gặp Hoàng đế, rất bất lợi với mình.
Dương Hạo hết cách hiểu được suy nghĩ của Quan Gia hiện giờ, chỉ cố gắng làm ra bộ dáng an tâm định cư Khai Phong, chỉ cầu mong làm tan cơn tức giận trong lòng Quan Gia. Do bản thân hắn thực sự cũng muốn định cư lâu dài ở Khai Phong, làm một vị quan thái bình vô ưu vô lo, không cần phải giả bộ làm chuyện gì. Giờ nhà đã mua rồi, người hầu kẻ hạ cũng có rồi, còn thu xếp mua vài ba cô gái ca hát, làm bộ ở Khai Phong lâu dài.
Từ lúc tới Khai Phong, hắn vẫn chưa từng đi dạo cái thành phố này, giờ mùa xuân ấm áp, sắc hoa đua nở, ánh mặt trời ấm áp thích hợp cho việc đi dạo, mọi việc trong nhà cũng hòm hòm rồi, triều đình không làm gì hắn, dường như Quan Gia đã lãng quên con người hắn rồi, Dương Hạo giống như ẩn mình trốn trong hang động, cảm thấy thoải mái vô cùng, muốn ra ngắm cảnh tượng của Khai Phong một chút.
Kết quả là vừa ra thì hắn gặp phải hỏa hoạn, ban đầu là theo người ta cứu người dập lửa, nhưng hắn cũng không nghĩ đến lửa cháy nhanh đến vậy, mạnh đến vậy, tốc độ lan ra kinh khủng đến vậy. Trong tiềm thức của hắn, hắn rất có ấn tượng với lửa, đợi hắn hiểu ra nguyên nhân trong đó chính là kiến trúc tre gỗ, thì đám lửa đã cháy lan tràn ra xung quanh. Dù có dập tắt thế nào đi nữa, cũng chỉ mất một khắc thì có thể nuốt chửng một tòa dân cư, hắn lúc này mới nghĩ đến việc ngăn cách mồi lửa.
Giờ hỏa hoạn đã được khống chế, hắn mới đến bên cây nghỉ ngơi. Triệu Khuông Dận lặng lẽ không nói lời nào đứng bên một cây khác, nhíu mày nhìn đám cháy. Đám cháy hừng hực, tiếng tre gỗ sập xuống ầm ầm. Thỉnh thoảng vang lên một tiếng ầm dữ dội, đó chính là sập nhà ốc, nó vừa sập thì vô số đốm lửa bay lên cao đến bảy tám trượng, giống như cây pháo hoa, sau đó nhanh chóng biến mất trong không trung, hóa thành bụi tàn bay múa.
Mục Vũ thở hổn hển chạy đến trước mặt Dương Hạo. Lúc nãy hắn cũng được Dương Hạo bảo giúp đỡ cứu hỏa. Mặt Dương Hạo bám đầy bụi tro, ngoài hai con mắt và răng ra, tất cả đều đen xì, giống như cái côn lôn nô. Hắn bị kích động nói:
“Đại nhân, đám cháy đã khống chế được rồi”.
Dương Hạo cười khổ nói:
“Haiz! Đám lửa này tuy được cứu kịp thời, ít nhất cũng có ba bốn trăm hộ gia đình bị cháy trụi rồi, lửa lan tràn với tốc độ chóng mặt. Rất nhiều người vì trận cháy kinh khủng này mà táng gia bại sản, không còn người thân mà nhờ cậy, vô số nghệ nhân chỉ sợ phải bán giấy mực tìm con đường sống.
Mục Vũ nói:
“Ai bảo họ không nghe lời khuyên của đại nhân sớm, không chịu tháo dỡ nhà mình, kết quả là hại người hại cả mình, cũng coi như là tự làm tự chịu. Cũng may họ cuối cùng cũng nghe lời đại nhân, nếu không thì, tôi thấy đám lửa sẽ cháy vào mấy cái ngõ nhỏ, Biện môn sẽ bị cháy sạch sành sanh”.
Dương Hạo lắc đầu nói:
“Không phải nghe lời của ta, mà là nghe lời của đương triều Triệu tướng công”.
Hắn nhìn về phía xa, những tướng lĩnh thủ thành đang lục tục chạy tới, nam nha tuần quan, các quan lại địa phương nói chuyện, Triệu Phổ khen:
“Vị Triệu tướng công này đúng lúc qua nơi này, may mà có hắn ở đây, may mà hắn cũng nghĩ ra cách, nếu không thì thiệt hại của dân chúng ít nhất cũng lớn gấp mấy lần so với bây giờ”.
“Thế vị quan đó chính là Triệu tướng công sao?”
Mục Vũ cũng nhìn về phía Triệu Phổ, nói:
“Thế thì chả trách, tôi từ bên kia lại đây, nghe hắn nói, người bị thương phải cố gắng mà chữa trị. Người ta không còn gia sản mà lại còn bị dỡ bỏ nhà, triều đình đều sẽ bổ trợ ngân quỹ làm nhà mới cho họ, và trợ cấp một chút lương thực vải vóc. Ta nghe giọng nói người này quả quyết, thì hiểu đó là quan lớn, song không biết hắn có phải là Triệu tướng công nổi tiếng lẫy lừng không”.
Dương Hạo vui vẻ nói: “Triều đình sẽ cứu trợ dân chúng? Quá tốt rồi, ha ha, đương nhiên là hắn rồi, nếu không phải là hắn, thì vị đại thần triều đình nào chưa nhận chỉ thị, mà dám tự tiện đưa ra chủ trương, lập tức ban bố phương pháp an dân như vậy? Triệu tướng công quả nhiên là một bậc nhân kiệt, triều đình lập tức sẽ nam chinh, thành Đông Kinh này không thể loạn được. Lần này hành động, thì có thể làm cho lòng dân ổn lại. Mà triều đình trợ cấp bạc vì bọn họ xây dựng nhà ở sao?”
“Vâng. Vừa rồi chính tai tôi nghe được”.
Dương Hạo nghiêng đầu nghĩ ngợi, bỗng nhiên nói:
“Tiểu Vũ à, chúng ta mấy ngày nay bố trí mua nhà, lại còn mua người hầu, tỳ nữ, tiền bạc mang từ Lô Châu đến đều tiêu sắp hết rồi.
Mục Vũ nhếch việc, lộ ra một chiếc răng trắng nói:
“Không có gì đáng ngại cả, chỗ Nguyệt Nhi vẫn còn có tiền, khi chúng ta đến thành Đông Kinh, Đường cô nương giao hết tiền riêng cho Nguyệt Nhi giữ, nói là để lại cho đại nhân người dùng đấy”.
Dương Hạo lắc đầu nói: “Không được, ta giờ vẫn chưa lấy cô ấy, nào có thể dùng tiền của cô ấy.
Mục Vũ nói: “Haiz, vậy thì còn ra cái gì nữa, lão gia sớm muộn chả lấy Đường cô nương”.
“Không giống nhau”.
Dương Hạo nói: “Ăn người miệng mềm, cầm người tay ngắn, giờ dùng tiền riêng của cô ấy, sau này đại lão gia ta ở trước mặt cô ấy còn có thể ngẩng đầu lên lớn tiếng nói chuyện sao?”
Triệu Khuông Dận nghe đến đây không khỏi bật cười, thì nghe thấy Dương Hạo lại nói:
“Ngươi nghe ta nói đây, mau đi về, mang vài người, đem số tiền còn lại đến. Tập hợp cách sườn núi mười dặm, nhưng chú ý là những vật liệu xây dựng như tre trúc, vật liệu gỗ, gạch ngói, cỏ lau có thể mua bao nhiêu thì mua bấy nhiêu”.
Mục Vũ ngạc nhiên nói: “Đại nhân, người muốn dựng thêm nhà sao?”
Dương Hạo cười nói: “Thêm nhà cái gì. Ngươi vận chuyển những vật liệu đó đến đây, sau đó xây ba bốn trăm cái nhà. Nếu vật liệu xây dựng ở Ngõa Pha Tập một chốc một lát sao vận chuyển đủ đến được. Vật liệu thiếu, giá cả tất sẽ tăng lên, mua vào bán ra, chúng ta có thể kiếm được một món kha khá, kinh tế sẽ dư dật hơn nhiều”.
Triệu Khuông Dận vừa nghe đến đây suýt ngất, sự tương phản quá lớn, vừa nãy còn là một vị quan hiền lương yêu nước yêu dân, sao lại trong nháy mắt đã trở thành một tên đại gian thương thế này?
Mục Vũ lúng túng nói:
“Đại nhân, kiếm những đồng tiền của nạn dân, thuộc hạ cảm thấy…cảm thấy chi bằng dùng tiền của Đường cô nương, hơn nữa, chẳng phải ngài nói, vật liệu xây dựng bằng tre gỗ dễ cháy sao, sao lại còn bán. Chúng ta chi bằng bán đá chuyên xây dựng, để họ có một nhà tử tế ở?”
“Ngốc lắm!”
Dương Hạo gõ một cái vào đầu hắn, cười nói:
“Tiền này là tự ngươi đi kiếm lấy. Ngươi không kéo giá tự có người kéo giá, nếu như thế, tại sao lại không kiếm chứ? Tiền chúng ta kiếm được đâu phải những đồng tiền nhơ bẩn, còn về dùng đá, ngươi xem kiểu tóc truyền thống của người Khương thế nào? Đỉnh đầu trống trơn, còn gì mát mẻ hơn. Qua vài ngày nữa thời tiết nóng bức, ngươi khuyên dân chúng người Hán ta đều đi cắt tóc đi, ngươi xem họ có chịu hay không?”
Mục Vũ nghĩ đến kiểu tóc quái dị kia, không nhịn được cười nói:
“Đương nhiên là không chịu rồi, bảo tôi tôi cũng không làm”.
“Thấy chưa, ngươi cần biết, khó thay đổi nhất chính là thói quen và cách nghĩ của con người, có vài chuyện không phải ngươi cảm thấy có lợi thì có thể thực hiện, dân chúng nơi đây quen dùng tre gỗ, ngươi có mỏi mồm bảo họ ở nhà đá, cũng không ai thèm quan tâm đến ngươi. Để họ nhận thức được lợi ích của việc dùng đá xây dựng thì phải có triều đình ra lệnh, khích lệ ầm ĩ, nhanh nhất cũng phải mất khoảng thời gian ba đến năm năm, giờ thì không được đâu.
Hơn nữa, ở đây lượng đá để dùng rất ít, lượng hàng có hạn, ít thời gian thì mua đâu cho được. Chẳng lẽ giờ đi ra ngoài đặt hàng à? Đợi đến lúc có hàng, đã là mấy tháng rồi. Những lời không đâu vào đâu thì nói ít thôi, mau đi đi, ngươi mau về phủ, mang tiền bạc đến rồi đi Ngõa Pha Tập, nếu những thương nhân khác cũng nghĩ tới điều này, thì chúng ta không kịp nữa đâu”.
“Đại nhân thì sao?”
“Ta tự trở về, ngươi thông minh lanh lợi, mau mau về đi”.
“Vâng, thế thuộc hạ đi đây”. Mục Vũ đáp, rồi xoay người chạy như bay.
Triệu Khuông Dận mỉm cười, xoay người đi, đi được hơn mười bước, thì dừng lại nói với thị vệ rằng:
“Ngươi đi nói với Triệu Phổ, không cần thánh chỉ, liên chuẩn. Mà thêm một điều nữa, trong lúc cứu tế xây dựng nhà cửa, vận chuyển buôn bán tre gỗ đá vào thành, miễn tất thuế cho ta”.
Tên thị vệ nhận chỉ, chỉ nghe rầm một tiếng, lại là một ngôi nhà lớn đổ xuống, khiến dân chúng la hét ầm ĩ, Triệu Khuông Dận nhắm nghiền mắt, nghĩ thầm :
“Về triều phải gọi các đại thần đến bàn bạc, Khai Phong ta phồn hoa là thế, dân cư lại đông đúc, nhà cửa san sát, hỏa hoạn liên tiếp sẽ xảy ra thì không được. Hỏa hoạn lần này tuy không thể tránh, nhưng dù sao cũng cần đưa ra những biện pháp, để giảm bớt tổn thất của hỏa hoạn mới được”.
Dương Hạo sai Mục Vũ đi xong, thì men theo sông Biện Hà dần dần đi đến gần ngõ giết lợn. Trên đường thì thấy trên Biện hà có hàng trăm người, thuyền vô số, có hồ thuyền, phi bồng thuyền, đủ loại kiểu dáng, đủ các công dụng đưa vải vóc, châu báu Quảng Đông, chè xanh Thục Trung, rượu, táo, gỗ Giang Lăng, nước sơn Trần Hạ, sợi đay Tề Lỗ, gạo Khương Quế, tơ lụa…đều được đưa vào Đông Kinh.
Ven Biện Hà có rất nhiều cửa hàng, buôn bán nhiều mặt hàng phong phú, muôn màu, da lông ngọc của tộc Hồi Hất, lương thực của Giang Hoài, thủy sản của các nơi duyên hải, trâu bò của nước Liêu, quạt của Nhật Bản, hương liệu và trân châu của Đại Lương và rượu đến từ các nước, hoa quả, trà, lụa, giấy, sách,… cái gì cần cũng có. Còn có một vài tiệm nhỏ bán đồ ăn vặt, đầu dê chín, kẹo, và các thứ khác.
Dân chúng không vì Biện môn bị cháy mà nhốn nháo, xung quanh mọi người buôn bán bình thường. Dương Hạo đứng ở cửa một tiệm gương, phát hiện ra trên má mình có vài vệt đen bụi, lúc này mới hiểu tại sao người trên đường luôn chỉ chỉ trỏ trỏ vào hắn, nguyên nhân nhỏ con, liền đi đến bờ Biện Hà.
Loại kiến trúc cổ kính so le, đan xen vào nhau chằng chịt, bức tranh điêu lan tao nhã hợp lòng người treo ở rèm cửa sổ nhỏ, giống như một khu biệt thự của nhà giàu, rất yên tĩnh. Các kiến trúc đình viện lầu các gần nước, cánh cửa ở một bên, còn bên đối diện gần nước là của sổ của hậu viện.
Dương Hạo đến bờ sông, ngồi xổm xuống rửa sạch mặt mũi, rồi cong lưng đứng dậy. “Boong” một tiếng.
Hắn ngây ra một lúc, ngẩng đầu giận quát: “Đúng là đồ không có mắt, oh, hóa ra là cô nương?”
Nhìn thấy nửa người trên lầu là một thiếu nữ, một tay nàng chống vào cửa sổ, mái tóc dài qua eo được gió thổi càng thêm quyến rũ, đuôi tóc còn có ít giọt nước, chắc vừa gội đầu xong.
Cô gái nhìn thấy dưới lầu có một người thanh niên, liền che miệng cười khúc khích nói:
“Ôi, thực sự là rất xin lỗi, em nhỡ tay làm rơi thanh cửa sổ, công tử chớ trách”.
Khuôn mặt của cô gái này vừa mừng vừa lo, nụ cười tuyệt đẹp, ánh mắt giận rỗi cũng trở thành đại từ đại bi, cơn giận của Dương Hạo bỗng chốc biến mất, liền cười nói:
“Không có gì đáng ngại, không có gì đâu, là ta không cẩn thận, không nên đứng dưới lầu cô nương”.
Cô gái kia cười nói: “Mời công tử ném hộ cái thanh kia lên, được không?”
“Á? Được được”.
Dương Hạo bỗng cảm thấy có gì đó rất quen, nhìn xung quanh hai bên, rất đang tiếc, không có cửa hàng nào bán nước trà bên bờ Biện hà của Vương bà, nếu không thì đây rõ ràng là cảnh lần đầu Tây Môn Khánh gặp Phan Kim Liên.
Hắn cầm lấy cái thanh kia lên, lau đất bám vào thanh lan can đó rồi tung lên cho cô gái, cô gái cười nói:
“Đa tạ công tử”.
“Không có gì”.
Nhìn thấy cô nương đó đóng của sổ lại, Dương Hạo nhớ đến một bài từ mà không thể nào nhớ nổi tên nó là gì, nhớ được câu nào thì nói câu ấy: “Cái dáng người, ngọn gió nào đưa nàng đến đây, nàng yêu kiều, nụ cười nàng tỏa nắng…”
Đọc đến đây thì không nhớ gì cả, cẩn thận ngẫm lại, vẫn không nhớ được. Ôi chao, Dương Hạo đang tiếc nuối lắc đầu, muốn bước đi, thì trên cửa sổ có một tiếng “Két” phát ra, một cô gái nhô đầu ra, đôi mắt to tròn nhìn Dương Hạo, đột nhiên hỏi:
“Bài từ này, là công tử làm sao?”
“À” Dương Hạo thầm nghĩ: “Là bài từ của ai đây? Ta cũng quên mất rồi, không thể nói là một người ăn mày gọi là Hồng Thất ở quê Phách Châu làm”.
Cô nương đó nghĩ là hắn làm, liền vui mừng, vội nói:
“Ta làm thương công tử, theo lý thì nên mời trà đền tội, mời công tử đến trước viện, có được không ạ, em lập tức sẽ đón ở trước cửa?”
“Chao ôi, Tây Môn Khánh đóng vai công tử, Tiểu Phan lại chủ động thông đồng với hắn phải không?”
Dương Hạo thầm tự trêu mình, lắc đầu nói: “Ta còn có chút việc, cô nương không cần khách khí”.
“Cái gì công…”
“Nếu như vậy kẻ đứng trên lầu người dưới lầu thì sao nói chuyện được, công tử, mời đến trước phủ đi, em còn có có cơ hội chuộc tội với chàng?”
“Cái này, được rồi”. Dương Hạo cũng không biết cô ấy rốt cuộc là có chuyện gì, liền thấy hiếu kỳ, dù sao thì cũng đang nhàn rỗi, liền đồng ý.
Cô gái thấy hắn đi về phía trước nhà, không khỏi vui mừng nói:
“Bài từ của vị công tử này làm quá tuyệt, xem chừng có thể giải vây cho tiểu thư nhà ta, hihi, nghĩ đau hết cả đầu, ngủ gà ngủ gật, thì có người mang gối cho, tiểu thư nhà ta may thật đấy”. Nói rồi đóng cửa sổ lại.
Khu nhà thật nho nhã, chủ nhân nơi đây chính là Liễu Đóa Nhi đang pha trà cho khách.
Trong nhà vô cùng tao nhã, trên vách tường treo mấy chữ. Có hai cái bàn con. Trên bàn có hoa quả, cửa có một cái bếp nhỏ, trên bếp là một ấm nước đang sôi.
Trong nhà không có ghế tựa, chỉ có cái thứ giống như cái giường thấp thấp.
Lúc này ghế dài vừa mới vào Trung Nguyên, nhà những người Trung Nguyên có loại ghế này vẫn chưa nhiều lắm. Hầu hết các nhà, đặc biệt là những nhà giàu có đối với những thứ không phải truyền thống của Trung Quốc đều không quan tâm lắm, bình thường đãi khách vẫn ngồi trên chiếu, có chiếc kỷ trà là được.
Mỹ nhân như ngọc, đi qua tấm rèm là một mùi hương thơm thoang thoảng, mát mẻ, gió làm rung chiếc chuông treo ở hành lang, khiếu thẩm mỹ thực khác.
Khách đến khoảng sáu mươi tuổi, khuôn mặt thanh lịch, râu dài, đầu có tóc trắng. Đang suy nghĩ gì đó. Hắn mặc một áo bào màu xanh nhạt có hoa văn. Bên hông đeo một tấm ngọc, tóc được búi lại, nhất phái tiên phong đạo cốt khiến người ta vừa nhìn đã nghiêm túc kính cẩn.
Vị này nếu Dương Hạo thấy nhất định sẽ quen, chính là một đại anh sĩ ở Quảng nguyên Lục Nhân Gia.
Người con gái ngồi đối diện chính là chủ nhân của Như Tuyết Phường Liễu Đóa Nhi, là một trong những tứ đại hành thủ tổ chức âm nhạc của Khai Phong, nổi tiếng nhờ ca múa hay, xem ra nàng không quá mười tám mười chín tuổi. Mặt một bộ quần áo màu xanh ngọc, áo lót lưới, tà áo và tay áo được may bằng vải mỏng, chiếc váy dài bó sát với eo thon, tóc được bện thành hình chim Trấm.
Liễu Đóa Nhi đang tuổi thanh xuân, chiếc áo lót mỏng nàng mặc để lộ khe rãnh của bộ ngực trắng nõn mê người, nàng ngồi đối diện, không chỉ có bộ ngực trắng nõn có thể thấy được qua lớp vải mỏng ấy, mà còn nhìn thấy làn da mịn màng của hai cánh tay nàng. ;
Áo lót lưới che lấy nửa bộ ngực, cánh tay ngọc. Lục Nhân Gia tuy cúi mặt xuống, song nhìn thấy một giai nhân mỹ lệ như vậy, mắt không khỏi sáng lên.
Cô gái này quả không hổ thẹn là một trong những tứ đại hành thủ, dáng người như vậy, mắt ngọc mày ngài, một mỹ nhân yểu điệu. Nụ cười như ngọn gió mùa thu thổi vào mặt, mắt đang lúc long lanh, thì bị một cử chỉ khiến cho hắn giật mình tỉnh lại.
“Định am tiên sinh, mời dùng trà”.
Hai tay Liễu Đóa Nhi dâng trà, cung kính đưa tới trước mặt Lục Nhân Gia, Lục Nhân Gia vội đưa tay đón lấy. Tay phải vừa đỡ, vừa mỉm cười nói:
“Ái khanh không cần đa lễ”.
Từ ái khanh giờ không phải là từ chuyên dụng cho hoàng đế. Những cô gái lầu xanh có thân phận địa vị quen thuộc cũng dùng cách xưng hô thân thiện này được, giống như thời cổ người người đều dùng những liên tự tự xưng với nhau. Lục Nhân Gia xưng hô với Liễu Đóa Nhi như vậy cũng phù hợp, song hôm nay hắn vào đây không phải đến tìm mùi thơm, mà là được Liễu Đóa Nhi mời đến giúp nàng soạn một bài từ, xưng hô như vậy, không khỏi có chút suồng sã, Liễu Đóa Nhi nghe hơi ngại.
Cô nương này dung nhan đoan trang, khi xấu hổ, thì bộ dạng của cô càng làm trái tim người ta dao động.
Lục Nhân Gia chớp chớp mắt, cười nói:
“Ái khanh không hổ danh là hành thủ Khai Phong, quả nhiên đẹp quá khiến trái tim người ta rung động”.
Liễu Đóa Nhi cúi mặt xuống, mỉm cười nói:
“Định am tiên sinh khen nhầm rồi, thiếp phong trần, dung nhan đâu có gì, sao tiên sinh khen như vậy. Thiếp từ thuở nhỏ thích nghiên cứu thơ từ, hôm nay mời định am tiên sinh tới, mong chỉ điểm nhiều hơn nữa cho thiếp, thường xuyên bàn bạc chuyện văn chương, thiếp vô cùng cảm kích”.
Lục Nhân Gia biết vị cô nương này giờ đang cạnh tranh lên đệ nhất hành thủ với Ngô Oa Nhi. Giờ lạc gió, mới tìm hắn, muốn mượn bài từ của hắn để tổng hợp, thế là hắn vuốt râu dài, cười ha ha nói:
“Lão phu vốn thích ca vũ, ái khanh có tố chất như lan tâm, khiến người ta thích thú. Nếu có thể thường xuyên cùng với ái khanh đối thơ từ, cũng là một chuyện hay, chẳng qua…”
Liễu Đóa Nhi hiểu ý, thản nhiên cười nói:
“Định am tiên sinh yên tâm, nếu bài từ của tiên sinh hay, thiếp xin có tiền thù lao dâng ngài. Một bài từ của tiên sinh, thiếp xin đưa năm lượng, ý tiên sinh thế nào?”
Hai lượng bạc một bài từ, giá cũng không phải là thấp, nhưng với một danh sĩ Trung Nguyên như Lục Nhân Gia, thì cái giá này cũng không phải là cao. Lục Nhân Gia cười nói:
“Ái khanh, lão phu không thiếu bạc, số bạc này không cần đâu, nhưng tứ đại hành thư của Khai Phong, có nhiều bài từ danh sĩ. Từ trước đến nay thường có bạc tạ ơn, nếu như lão phu chào giá thấp thì không hay cho lắm”.
Liễu Đóa Nhi vốn muốn để hắn trả giá, vừa nghe thì cười nói:
“Thế, không biết định am tiên sinh định giá nhuận bút là bao nhiêu?”
Lục Nhân Gia giơ một ngón trỏ ra: “Gấp đôi”. >”<
Liễu Đóa Nhi hơi do dự, liền nói: “Thế cũng được ạ”.
Lục Nhân Gia mỉm cười, lắc đầu nói: “Lão phu nói là vàng”.
Ánh mắt của Lục Nhân Gia nhìn say đắm vào bộ ngực trắng nõn của nàng, lại cười nói:
“Song, nhuận bút có đáng là bao, thực ra cũng không phải là không thể thương lượng với nhau, mà ta cũng phải xem ý ái khanh thế nào chứ”.
Nhà vườn của hộ này không vuông vắn, đầu ngói cao cao thấp thấp lượn sóng, đi qua song cửa gạch, nhìn qua khe hở, chỉ thấy trong vườn hoa lá xum xuê, bươm bướm lượn lờ.
Dương Hạo càng thêm hiếu kỳ, không biết thiếu nữ nhà người ta tìm hắn có chuyện gì. Hắn đi vòng qua đến cửa chính, thấy cửa được mở rộng ra, trên cánh cửa đề ba chữa Như Tuyết Phường. Nhìn cái tên này không giống với nhà dân, Dương Hạo không khỏi ngây người.
“Công tử, em ở đây”.
Một giọng nói vọng từ xa tới, Dương Hạo nhìn vào trong cửa, thì thấy người thiếu nữ vừa nãy gặp ở bờ sông chạy tới. Cô mặc một chiếc áo màu xanh biếc ngắn, bó sát lấy cánh tay. Một chiếc váy màu vàng bó chặt chiếc eo nhỏ nhắn, mái tóc vẫn ướt, nước rơi theo từng bước chạy của nàng.
Áo của nàng là thân đối, không có cúc. Ở ngực có một cái nơ con bướm được buộc lại, xiêm y tinh xảo màu đỏ che đôi nhũ hoa mới lớn, ăn vận như vậy vào đầu thời Tống là không hiếm thấy, yếm mỏng, nhìn xuyên qua được, che để lộ nửa bộ ngực.
“Hì hì, công tử đi thật nhanh, mời đi theo em vào trong nhà dùng trà”.
Dương Hạo thấy nhà cô này ban ngày ban mặt mà đến một người canh cửa cũng không có, nghĩ đến cái tên trên cửa, thì lại nhìn cô nương thoải mái không chút câu nệ này nghĩ: “Nhà này không phải là lầu xanh đó chứ?”
Hắn chần chừ nói:
“Cô nương có chuyện gì thì nói ở đây cũng được, một mình ta là đàn ông không quen không biết cô, tự tiện vào nhà, e rằng không hay”.
Cô nương đó che miệng cười nói: “Chúng em ở đây là Như Tuyết Phường, chính là nơi mà những chàng trai không thân không quen vô cớ đến mới tiện. Thôi đi, giả vờ cũng không giống, mau đi theo em”.
Nói rồi không ngại ngần gì, thò tay kéo cánh tay hắn, nếu như bị cô ta kéo ở cửa viện, để cho người ta nhìn thấy thực không đâu vào đâu, hơn nữa cái cô nương này tuy thoải mái, nhưng lại không giống với dâm dê, còn sợ cô ấy kéo mình vào trong cưỡng dâm sao?”:d
Dương Hạo miên man suy nghĩ, đi từng bước chậm chạp theo nàng, trên đường chỉ thấy đình đài lầu các, hành lang uốn khúc, lan can được khắc hoa, tao nhã vô cùng. Xem ra còn giống với một hộ nhà giàu có. Chẳng những lịch sự tao nhã, mà còn có không khí trong lành, mát mẻ. Cách nghĩ vừa rồi của Dương Hạo hơi dao động: Nơi này không giống với lầu xanh.
Thiếu nữ kia dẫn hắn vào một cái lầu nhỏ. Ngồi ở trong sảnh, thản nhiên cười nói với hắn:
“Công tử cứ ngồi chơi, em đi pha chè”.
Dương Hạo cúi người cười nói:
“Không dám làm phiền, ta còn chưa biết tên của cô nương là gì?”
Cô nương đó cười nói: “Công tử cứ gọi em một tiếng Diệu Diệu là được rồi, công tử tên họ là…?”
Dương Hạo khẽ mỉm cười nói:
“Ta ấy à, ta họ Dương tên Hạo. Không biết đây là nơi nào, cô nương mời ta đến có ý gì?”
“Hi hi, không vội, không vội, Dương công tử cứ ngồi đây, em đi pha trà cái đã, sau đó sẽ từ từ nói cho công tử nghe”.
Last edited by Minh Huệ; 25-03-2011 at 05:26 PM.
Đã có 7 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Minh Huệ
Quyển 5: Khai Hoa Thập Trượng Ngẫu Như Thuyền
Chương 239: Cái đẹp trong suy nghĩ
Tác giả: Nguyệt Quan
Nguồn: Sưu tầm
Diệu Diệu nhanh nhẹn, đi pha trà một lúc rồi đến, mang theo chiếc kỷ trà, rót cho hắn một chén, ngồi đối diện với hắn, lúc này mới nói rõ cho hắn.
Không ngoài dự đoán của Dương Hạo, hóa ra nơi này chính là một lầu xanh. Trong suy nghĩ của Dương Hạo. Lầu xanh phải là nơi có nhà xung quanh bốn mặt, trong lầu là những căn nhà nhỏ, có khách làng chơi vào, thì con chim kêu: “Các chị em trên lầu, ra gặp khách đi!” Thế là rất nhiều cô gái cùng đi ra, nhiều đến nỗi chỉ thấy người là người.
Dương Hạo ở Phủ Cốc chưa từng đi lầu xanh, huống chi nói đến những lầu xanh cao cấp, vượt xa so với sức tưởng tượng của hắn, nhưng Như Tuyết Phường tuyệt đối không như những lầu xanh thường thấy. Qua lời giới thiệu của Diệu Diệu cô nương, viện lớn thế này, bên trong chỉ có một cô nương tên Liễu Đóa Nhi ở, những người khác đều là người hầu hạ cả, những cô gái giống Diệu Diệu cô nương là người bên cạnh hát đệm, bạn nhảy của cô.
Như vậy, Liễu Đóa Nhi cô nương giống như một ngôi sao ca nhạc hiện đại, bên cạnh có MC, lái xe, vệ sĩ, người hóa trang, đội hát nhảy có chuyên môn. Nuôi đến hàng mấy trăm người, thực không thể hiểu nàng là vật báu tuyệt thế như thế nào mà làm người ta phải điên đảo. Vì thế, Dương Hạo thực không khỏi ngẫm nghĩ.
Kỳ thực đây là do sai lầm trong cách suy diễn của Dương Hạo, hắn còn tưởng rằng “Phường” là một chữ cổ, thì nhất định là nơi buôn bán da thịt, mà không biết kỹ nữ ở cái thời đại này không phân biệt gì thì đều có thể gọi là bạn bè, hai loại đó lại không giống nhau “Một đôi tay ngọc nghìn người gối, chút ít môi đỏ vạn người thơm”, còn ưu điểm của hạng người này là bán tài nghệ chứ không bán thân, cho nên nhân phẩm cũng cao hơn.
Nếu chỉ đơn thuần dựa vào nhan sắc mà sung sướng, thì rất khó nổi tiếng được lâu. Mà những lầu xanh Dương Hạo biết, dù là cao cấp đến mấy, song cũng chỉ là buôn bán da thịt, đương nhiên là nó không thể so sánh với viện mà Liễu Đóa Nhi cô nương này. Khu ở cũng là những căn nhà yên tĩnh, có đến ba bốn nhà, đình viện còn có hoa, có non bộ, có đá tựa, còn có rèm che giường nữa. Tuy là dựa vào nhan sắc mà vui, song lại không đụng tới giường chiếu.
Người mà các nàng tiếp đón phần lớn là những nhân vật giàu có cao quý. Thân thế và địa vị, văn hóa, tố chất của những người này rất cao, trong nhà cũng không thiếu những thê thiếp xinh đẹp. Trong nhà họ càng có những thê thiếp xinh đẹp thì càng muốn đến những kỹ viện tiêu tiền. Họ đến lầu xanh, phần lớn là để giải trí nghe nhạc uống trà, hoặc là cùng là những người bạn đến bàn bạc chuyện làm ăn, uống rượu vui vẻ rồi về, không có chuyện quan hệ, cái này khác biệt khá xa so với những kỹ viện ngày nay của chúng ta.
Những người ở chốn quan trường, sĩ lâm đến đây, cho nên danh kỹ tiêu chuẩn vào bậc nhất, một điều kiện hàng đầu chính là thoải mái, tự nhiên, biết cách ăn nói, có thể chăm sóc chu đáo cho những vị khách vào những trường hợp vui vẻ, ngoài ra còn phải cầm kỳ thi họa, giỏi ca múa, rồi mới đến yêu cầu về ngoại hình.
Đương nhiên các nghệ sĩ đều không phải nhất định phải có cơ thể đẹp như ngọc, thanh sắc trong phường lại là các ngành các nghề mới làm siêu lòng các chàng trai ưu tú. Bản lĩnh, có tài, có học mới leo lên cái ngôi vị quyền quý. Ngưỡng mộ, tình đầu ý hợp cùng nhau nhập sổ, thì chân thành nói chuyện với nhau, điều này chỉ là cùng nhau vui vẻ mà thôi.
Kỹ nữ nhất phẩm đi đến các yến tiệc của những nhà quyền quý. Những cô nương như vậy mới đáp ứng được lời mời đánh đàn, ca múa. Và những cô nương như thế mới xinh đẹp muôn phần, có sở trường về ca múa. Còn về những cô gái gió mưa cùng khách, kiếm tiền để bôi bôi trát trát đủ thể loại mỹ phẩm lên mặt thì lại là hạng dưới, khách hàng của họ là đủ thể loại người, vô hạn không đếm xuể.
Có người không thể trở thành kỹ nữ hạng nhất, mà lại còn nuôi bao nhiêu người thế thì nàng ta có thể kiếm được bao nhiêu tiền? Kỳ thực, tiền kiếm được nhờ tên tuổi với thu nhập của kỹ nữ bán thân thực không thể so sánh được.
Những nhân vật lớn nhiều tiền luôn cần một nơi thích hợp để nói chuyện, rất nhiều việc không tiện bàn bạc trong nhà, hoặc không tiện để người khác thấy họ lén lút qua lại với nhau, thế là họ tìm đến đây. Bình phẩm trà và nghe hát thư giãn, nói chuyện buôn bán với những người bạn của mình, thế nên nơi này đã trở thành nơi tốt nhất của quan trường, thương trường, cùng nhau cấu kết, cùng hiểu nhau.
Có trường hợp, giữa bọn họ có thể là đã quá quen, có thể là có vài lời không tiện nói thẳng, có thể là có vài chuyện không tiện giáp mặt đưa ra điều kiện, lúc này cần có người khéo léo, nhanh nhẹn xe chỉ luồn kim, phối hợp quan hệ, giảm bớt mâu thuẫn, thúc đẩy liên minh chính trị, hợp tác trên thương trường.
Người này chính là kỹ nữ nổi tiếng lầu xanh hạng nhất, thủ đoạn kiếm tiền của cô ấy chính là từ đây mà có. Cho nên nghề nghiệp kiếm tiền của kỹ nữ nổi tiếng lầu xanh hạng nhất là làm các “hạng mục”, cũng chính là quan hệ xã hội. Đó là quan hệ xã hội chân chính ý nghĩa, mà không phải dựa vào cửa buôn bán da thịt, đi tấn công phía dưới của người đàn ông.
Tần Hoài Bát Diệm, Trại Kim Hoa đời sau của Mạt Thanh có tầm ảnh hưởng rất lớn trong xã hội, cũng chính là vì cơ duyên, vì họ nắm được nguồn tài liệu quan trọng về các lĩnh vực của chốn quan trường, thương trường, sĩ lâm, mà không phải là dung nhan, cơ thể hay là cách họ lên giường giỏi hơn những kỹ nữ khác.
Nhưng sao họ lại có được nguồn tại liệu quan trọng ấy? Đương nhiên là cần phải nhờ vào những câu nói nhã nhặn, bản lĩnh giao tiếp, cầm kỳ thi họa, giỏi ca múa, cùng với đội ngũ phục vụ khổng lồ dưới tay nàng, cung cấp những món ăn và rượu ngon tao nhã, tìm được khung cảnh thích hợp để lấy được những thông tin then chốt từ các nhân tài kiệt xuất đủ mọi lĩnh vực của xã hội khi họ đến đây.
Liễu Đóa Nhi cô nương vốn là đệ nhất hành thủ của lầu xanh Tuyền châu, cô có thể nói văn hoa, xã giao, bình phẩm nhân vật, biết cách trả lời. Khi ở Tuyền Châu thì những tài tử đến đều là người có học thức uyên thâm, năng lượng thực không nhỏ”.
Dương Hạo không ngờ trong lầu xanh lại còn đòi hỏi nhiều học vấn, nghe đến đây, cảm thấy hiếu kỳ, bèn hỏi:
“Tuyền Châu ta cũng biết, ở đó làm ăn buôn bán đường biển phát triển, có nhiều khách đến, nếu nói phồn hoa thì không kém thành Biện Lương giờ. Liễu cô nương sống ở Tuyền Châu ung dung tự tại, tại sao nàng lại lặn lội ngàn dặm xa xôi đến Khai Phong?”
Diệu Diệu nghe xong, nhắm mắt thở dài đáp:
“Chao ôi! Còn không phải vì cái tên thối tha đáng chết đó”.
Nàng nhìn Dương Hạo một cái, vội nói:
“Em không phải nói chàng”.
Dương Hạo giơ ống tay áo lên, cười nói: “Cũng may không có mùi thối, đương nhiên không phải nói ta rồi”.
Diệu Diệu cười ồ lên, lúc sau lại buồn bã nói:
“Chuyện này cũng không dấu chàng làm gì, cô nương nhà ta từ bỏ rất nhiều người quen biết, bỏ lại cơ ngơi để đến Khai Phong là do nỗi khổ trong lòng bất đắc dĩ mà thôi, tất cả nguyên do đều là Trần hải tiết độ sứ Trần Hồng Tiến gây nên. Tuy là tiết độ sứ, nhưng thực ra là một vị Hoàng Thượng vùng Chương Tuyền, hắn…”
Dương Hạo nghe cô ấy nói mấy câu, thì cảm thấy đầu óc choáng váng, cô ấy lúc thì nói Trần Hồng Tiến là Thanh Nguyên tiết độ sứ, lúc thì nói là Bình Hải tiết độ sứ, lúc thì nói là hạ thần của Nam Đường Lý Dục, lúc thì lại nói hắn là hạ thần của Quan Gia Đại Tống. Nói đến nỗi Dương Hạo hoa mắt chóng mặt, liền xen vào giữa hỏi:
“Cô nương từ đã, tại hạ nghe có chút hồ đồ, Trần Hồng Tiến rốt cuộc là quan Nam quốc hay là quan Đường quốc?”
Diệu Diệu hỏi:
“Công tử muốn biết lai lịch của Trần Hồng Tiến?”
Dương Hạo đương nhiên là không hiểu gì muốn biết, bèn nói:
“Không sai. Tên của người này ta đã nghe nói, song về lai lịch của người này thực sự là không biết chút nào”.
Diệu Diệu bèn nói:
“Trần Hồng Tiến vốn là quan Mân Quốc, mấy năm trước nội bộ Mân Quốc xảy ra biến loạn, chiếm Chương Châu, đại tướng của Tuyền Châu Lưu Thung Hiệu đi nhờ vả Đường Quốc Lý Dục. Sau khi Lưu Thung Hiệu chết đi, con còn nhỏ, thống quân sứ Trần Hồng Tiến bèn bảo thiếu chủ đi nương nhờ Ngô Việt, đem hắn trói lại đưa đi Nam Đường, đề cử thống quân phó sứ Trương Hán Tư làm Thanh Nguyên quân lưu xong, tự mình nhậm chức tiết độ phó sứ.
Chưa đầy hai năm, hắn giành lấy quyền. trở thành Thanh Nguyên quân tiết độ sứ. Hắn nhìn thấy Tống Quốc phát triển, lại khiển sứ tìm đến Tống, Quan Gia bèn sửa Thanh Nguyên quân thành Bình Hải quân, bổ nhiệm hắn làm Bình Hải tiết độ sứ, khi khiển sứ đi Đường Quốc thì tự xưng là Thanh Nguyên tiết độ sứ”.
Dương Hạo giật mình: “Thì ra là vậy”.
Diệu Diệu nói:
“Trần Hồng Tiến có một thuộc hạ là quan đại tướng, đó chính là Trương Hán Tư thân tín được Trần Hồng Tiến tiến cử vào lúc đó, hắn muốn giết Trần Hồng Tiến lập cựu chúa, liền câu kết với các tướng lĩnh bất mãn với Trần Hồng Tiến, mời Trần Hồng Tiến đến dự tiệc, ngấm ngầm mai phục binh lính, muốn lấy cái mạng của hắn trong bữa tiệc, để không làm cho Trần Hồng Tiến nghi ngờ, tên này liền mời tiểu thư nhà ta đến múa hát trợ hứng.
Không ngờ Trần Hồng Tiến đến, còn chưa vào cửa phủ, trùng hợp thay có một trận động đất.
Viên tướng lĩnh thấy hắn đến cho rằng đây là ý trời cảnh báo cho mình, Trần Hồng Tiến có thần phật che chở, kinh hãi, bảo một vài đồng mưu mai phục, nói chuyện lấy tính mạng của hắn trong bữa tiệc ra.
Trần Hồng Tiến liền lên ngựa trốn, trở về khiển binh đến, bắt hết các tướng lĩnh về giết bỏ. Những người hắn giết, ngoài những kẻ khả nghi, còn là vài tướng lĩnh thân thiết với hắn, hắn quyết không buông tha, một ngày giết mấy trăm hộ gia đình, mấy nghìn tín mạng, máu lênh láng cả hành, đâu đâu cũng là người chết.
Hắn nổi giận, nghe nói tiểu thư nhà ta cũng là đồng mưu của mấy người đó, bèn phái người đến, phá Như Tuyết Phường, may mắn thay trong số tướng lĩnh thuộc hạ của hắn phần nhiều đều có người ngưỡng mộ tiểu thư nhà ta, báo tin trước cho tiểu thư, tiểu thư nhà ta được tin không dám chậm trễ, lập tức ôm đồ châu báu cùng Triệu quản sự, Bàng ma ma chạy trốn theo đường thủy. Những người còn lại trong Như Tuyết Phường cũng ôm lấy chút ít tài sản rồi chạy.
Tiểu thư nhà ta đến Đông Kinh Biện Lương, chưa đầy một năm thì có nổi danh, trở thành một trong tứ đại hành thủ Đông Kinh, vô cùng giỏi giang. Nhưng lúc này vì quá thân quen với các nhân vật Biện Lương, nên bị rất nhiều chị em trong hành bất mãn, thế là có người xúi giục cô nương đương gia của “Mi Hồ Quật” Ngô Oa cạnh tranh với tiểu thư nhà ta.
Hai cô nương bị giật dây, bản thân cũng không hề biết. Họ đều được học hành tử tế, những nhân vật tầm cỡ, vốn có lòng hiếu thắng, cũng muốn đánh giá bản lĩnh đối phương, nhưng đấu đi đấu lại chỉ để cho thỏa cơn tức, hơn nữa càng ngày càng đông người biết, tạo thành một cuộc cạnh tranh khốc liêt, hai nàng đâm lao đành theo lao. Nó có liên quan đến thân thế của hai người sau này, hai người chỉ có thể dốc sức đối phó.
“Quan Gia, có lẽ đã quên mình mất rồi?” Dương Hạo thầm nghĩ, hít một hơi rồi thở dài.
Ban đầu hai người cạnh tranh không phân thắng bại, nhưng từ tháng một trở lại đây, vị Ngô Oa Nhi kia không biết được vị cao nhân nào chỉ điểm, thơ từ ca phú, cầm kỳ thư họa, mọi thứ đều cao hơn Liễu cô nương một bậc. Liễu Đóa Nhi vốn có sở trường là ca múa, không ngờ hôm trước Ngô Oa Nhi cũng lấy vũ đạo khiêu chiến, đó là điệu múa của Tây Vực, khiến người ta có cảm giác mới mẻ, eo thon nửa kín nửa hở, thực là hồn bay phách lạc, quả thực giống như tiên nữ giáng trần.
Liễu Đóa Nhi khiêu vũ rất cao nhã. Song luôn kinh thường đi học, mà điệu múa của Ngô Oa Nhi lại có sức say mê hấp dẫn của vũ đạo nước khác, rồi lại còn đi học thêm Vu Tồn Tinh, sự chênh lệch khá lớn, tạm thời đã đè bẹp được tài nghệ của Liễu Đóa Nhi.
Liễu Đóa Nhi liên tục thất bại, các cô nương cơ quan quản lý âm nhạc Khai Phong liền đả kích nàng, tung tin đồn bài xích, ý đồ là vùi dập nàng chịu thua thì thôi, để nàng không trụ được ở Khai Phong, cho nên giờ Liễu Đóa Nhi lâm vào cảnh vô cùng khó khăn.
Dương Hạo nghe đến đây đã hiểu được, thốt lên:
“Ta hiểu rồi, Diệu Diệu cô nương ý muốn ta giúp tiểu thư nhà cô viết từ?”
Diệu Diệu vui vẻ nói:
“Đúng vậy, công tử có thể đồng ý vài tập được không?”
Dương Hạo ngẫm nghĩ lại trong đầu mình, nhớ đến bảy tám bài mà ai cũng thích, truyền lại từ đời trước, tiếc thay, không có bài nào hắn thuộc hết, toàn thuộc những câu nhỏ lẻ được truyền từ đời trước lại.
Diệu Diệu thấy bộ mặt khó xử của hắn, vội hỏi:
“Công tử không cần phải áy náy đâu, bài từ vừa rồi của công tử rất hay, tin chắc tiểu thư nhà ta xem cũng ái mộ, thán phục. Nếu ngài viết từ cho tiểu thư nhà ta, tiền nhuận bút cho ngài sẽ không ít đâu. Hơn nữa, tiểu thư nhà ta ca hát vũ đạo bậc nhất, có tiểu thư hát từ của ngài, không lâu sau, từ của công tử sáng tác sẽ lưu truyền thiên hạ, ở trong kỳ danh sĩ lâm, đến lúc đó công tử sẽ thu doanh lợi từ hai phía.
Khi đó in ấn rất đắt đỏ, hơn nữa thường là do chính tác giả bỏ vốn ra in ấn. Không phải ai cũng lãng phí như vậy được, cô gái ở lầu xanh ca hát thơ từ, phải nhờ các tài tử danh sĩ viết từ cho, tài tử danh sĩ nhờ họ đem chính thơ từ mình sáng tác truyền bá rộng khắp mà nổi danh, nếu không như thế thì sớm thất truyền những bài từ hay, đây là chuyện hợp tác cùng có lợi. Bời vậy mà Diệu Diệu tràn đầy tự tin rằng mình vừa nói ra, Dương Hạo sẽ vui vẻ đáp ứng.
Viết từ? Trò cười, ta biết nửa vời, cô nếu đẩy ta đi hái hoa, lão nhân gia ta cùng lắm nhẫn nhục chịu đựng. Còn bảo ta viết từ sao? Dương Hạo lập tức lắc đầu quầy quậy:
“Hả? Không không không…”
“Định am tiên sinh đi cẩn thận nhé, tiền nhuận bút, em sẽ bàn bạc với quản sự”.
Trong viện đột nhiên truyền tới một giọng nói, Diệu Diệu cô nương kêu lên một tiếng:
“Tiểu thư!”
Rồi vội đứng dậy đi ra ngoài. Dương Hạo cũng nhìn ra phía ngoài, chỉ thấy một lão già tóc hoa râm khí phách hiên ngang đi, tay áo bay bay, khí phái bất phàm, phía sau là một thiếu nữ đi theo vài bước rồi đứng lại im lặng không nói gì.
Lục Nhân Gia là một thế hệ danh sĩ, phong lưu vô cùng, có vài lời không tiện nói rõ ra, nhưng ám chỉ của hắn tương đối rõ ràng, Liễu Đóa Nhi lại tỏ vẻ không hiểu, Lục Nhân Gia nhẫn nại, nhưng cuối cùng cũng giận dữ mà đứng lên, ngênh ngang ra về.
Liễu Đóa Nhi hồi đầu từ Tuyền Châu trốn đến, vội vội vàng vàng ôm theo một số đồ châu báu, tới Biện Lương thì phải định cư, mua nhà, trang hoàng lầu các sao cho đẹp, tiêu tiền như nước là chuyện thường, dường như đã tiêu hết tài sản còn dư. Năm nay để mở ra cục diện mới, giai đoạn trước có rất nhiều khách lui tới, đều là bỏ tiền túi của chính mình mời đến, tác dụng chính là “Kẻ lừa gạt”, cho nên giai đoạn khai trương bỏ vốn đầu tư, bắt đầu có tiền lời, ai ngờ giờ lại đấu đá cạnh tranh với Ngô Oa Nhi kia, nàng bị lép vế.
Những bài từ của các sĩ tử Tuyền Châu mà nàng mang đến đã dùng hết, nếu không có bài từ nào tuyệt hay, sau này làm sao có được sự ưu ái của các quan thân đây? Huống chi lúc này chuyện với Ngô Oa Nhi đấu đá đã náo động cả kinh thành, một khi bại trận, hậu quả sẽ không thể kinh khủng hơn. Nếu như lại không chiếm được ưu thế về thơ từ hay dìm Ngô Oa Nhi xuống, thì chỉ có thất bại thê thảm. Nhưng, nhưng lão già này tóc bạc da mồi, già nua nhưng mà dê dẩm, háo sắc, Liễu Đóa Nhi vốn giả vờ né tránh. Ai ngờ hắn…
Đang lúc bị kích động, Diệu Diệu vui vẻ chạy từ trong ra nói:
“Tiểu thư, ta mời về một vị công tử, vị công tử này có một bài từ tuyệt hay, tiểu thư vào phòng gặp công tử đi”.
Hai mắt Liễu Đóa Nhi sáng ngời, vội hỏi:
“Hả? Là ai vậy?”
Diệu Diệu nói:
“Vị công tử này tên là Dương Hạo, ở trong phòng bên kia”.
Liễu Đóa Nhi không nhớ sĩ lâm Khai Phong có vị nào tên Dương Hạo, vừa nghe xong thì thất vọng. Câu “Từ hay” mà Diệu Diệu nói sợ rằng hay có hạn, có thể làm được chuyện gì chứ? Có khi còn làm trò hề trước mặt Ngô Oa Nhi.
Lúc này nàng đang bị hoang mang, nào có tâm trạng mà nghĩ đến Dương Hạo gì đó, lắc đầu thở dài:
“Thôi, em mời vị công tử đó đi đi. Còn nữa, lập tức mời Triệu quản sự và Bàng ma ma đến gặp ta có chút chuyện”.
Nói rồi phẩy tay áo bỏ đi, từ đầu chí cuối không liếc mắt nhìn vào phòng kia một cái.
“Tiểu thư!”
Diệu Diệu có ý mời người ta đến, không ngờ không thèm gặp mà bỏ đi, nàng quay trở lại phòng đó, sắc mặt hơi xấu hổ, ngượng ngùng nói:
“Dương công tử”.
Dương Hạo như trút được gánh nặng, thấy thoải mái cười ha ha nói:
“Không sao cả, không sao cả, tiểu cô nương không phải khó xử. Ta còn có việc”. Nói rồi cất bước ra đi.
“Công tử, Dương công tử”. Diệu Diệu gọi không kịp, liền chạy một mạch vào chỗ tiểu thư mình.
Dương Hạo rời khỏi Như Tuyết Phường, hầu gái Liễu Đóa Nhi từ trong viện vội vàng đuổi theo. Hóa ra Diệu Diệu vẫn không cam lòng, chạy đến hậu viện bảo Dương Hạo đọc nốt đoạn cuối của bài từ kia rồi học thuộc cho tiểu thư nghe, vừa nghe quả nhiên là một bài từ hay. Liễu cô nương biết được bài từ này không thể chê được, bài từ này chưa bao giờ nghe, Diệu Diệu lại nói đích thân Dương Hạo nói bài từ này là do hắn làm, Liễu Đóa Nhi hối hận vô cùng, lập tức chạy từ trong viện đuổi theo, đến cửa sắt thì không thấy dáng người của Dương Hạo, xung quanh trống vắng, không biết hắn đi hướng nào.
Liễu Đóa Nhi ủ rũ như đeo tang, yếu ớt nói:
“Haiz, thật vất vả lắm mới gặp được một vị tài tử ẩn dật, ta lại để mất cơ hội, hay là trời làm khó ta đây?”
“Tiểu thư. La gia tam công tử làm quan ở Nam nha, quản việc hộ tịch dân cư, hay là nhờ hắn giúp đỡ. Tra xem vị tên Dương Hạo có thân thế gì. Chúng ta đến tận nơi nhờ hắn giúp đỡ, cô nương chỉ cần mở miệng, không tin tim hắn là sắt là đá”.
Liễu Đóa Nhi mặt méo xệch cười nói:
“Dân cư Biện Lương nhiều thế này, cái tên Dương Hạo dễ đến có mấy trăm, thế thì làm sao tìm hắn được?”
Diệu Diệu nói:
“Có gì đâu, chỉ là bỏ chút công sức mà thôi, người trùng tên trùng họ dù có mấy trăm, nhưng tuổi tác tương đương cùng lắm chỉ có một hai chục người, tốn ba năm ngày tìm sợ gì không tìm ra hắn?”
Liễu Đóa Nhi ngẫm nghĩ, dậm chân nói:
“Được, ta lập tức sẽ gửi một bức thư, em thay ta đi đưa cho vị La tam công tử”.
“Vâng!” Diệu Diệu vui vẻ nói:
“Tiểu thư yên tâm, dù có phải đào cả thành Biện Lương này lên, Diệu Diệu cũng quyết tìm cho ra hắn”.
Dương Hạo không ngờ cô nương Diệu Diệu lại mời hắn đến là để làm từ, đóng vai nhân vật Liễu Tam Biến, xem ra, hắn có thể nhớ hoàn chỉnh, chỉ có mấy bài từ tuyệt hay của Liễu Vĩnh, Tần Quan, Tô Đông Pha làm, đọc ra dọa người thì được, nhưng chung quy lại không phải là kế lâu dài, không dùng được bao lâu thì phải đóng cửa.
Hơn nữa giờ hắn đang muốn ẩn mình, ước gì Quan Gia đưa hắn đến nơi xa tít chục vạn dặm, cho dù viết ra một bài từ có hay đến mấy, nỗ lực trước đây giờ cũng đã phí công nhọc sức, sao dám để cho mỹ nhân trêu cười, nghĩ rồi hắn vội vàng trở về nhà của mình.
Dọc theo sông Biện Hà tiếp tục đi về hướng đông, ra cửa Chu Tước, qua Long Tân cầu, rẽ phải thì thấy một cái viện mà hắn đặt mua. Vừa bước vào sau viện, là một cái hồ nhỏ, mặt hồ lấp lánh ánh nắng, trong hồ có một cái đình nhỏ tinh xảo, bên hồ có hàng liễu rủ xanh mướt, xung quanh là những chiếc cầu uốn quanh, đình tạ lầu các, tất cả đều thấp thoáng giữa cây cối, mái cong đấu củng (một loại kết cấu đặc biệt của kiến trúc Trung Hoa, gồm những thanh ngang từ trụ cột chìa ra gọi là củng và những trụ kê hình vuông chèn giữa các củng gọi là đấu), cửa sổ tường hoa để trống một góc để lộ dưới bóng cây xanh mướt, vô cùng lịch sự và tao nhã.
Trong phủ Dương Hạo giờ thuê vài gia phó, thị tì và đầu bếp nữ, hơn nữa còn thêm Mục Vũ , chín thị vệ và Mẫu Y Kha, xem ra cũng là một hộ giàu. Dương Hạo vừa đến sau viện, Mẫu Y Kha bèn nghe thấy tiếng bước chân mà đi tới, vội vàng bẩm:
“Lão gia, Tiểu Vũ nói theo lời sai phó của lão gia, đi Ngõa Pha Tập mua tre gỗ, mang tiền bạc còn lại trong nhà mà Đường cô nương tặng cho ngài đi rồi ạ”.
Dương Hạo ngẩn người, mặt méo xệch nói:
“Tên tiểu tử này, bảo hắn không được động…thôi, không sao, đều do lão gia phái hắn đi, ngươi mau đi pha trà đi, hôm nay ta cảm thấy khát quá”.
Mấy ngày này đến đặt mua nhà, lại còn thuê nhân công tu sửa, mời gia phó, hai ngày nay mới rảnh rỗi được một tí, thời điểm bận rộn thì không sao, một khi nhàn rỗi rồi thì lại lo chuyện trong lòng nhiều hơn. Dương Hạo uống hớp trà, nhìn quanh phòng khách, cảm thấy có một cảm giác buồn bã vô cùng. Loại cảm giác này là hắn vốn không dự đoán được.
Khi hắn là một viên quan nhỏ hèn mọn, bận rộn mệt mỏi ở Lô Lĩnh Châu, hắn luôn mong mỏi có một ngày như này, giờ hắn đạt được mục đích của mình rồi, mỗi tháng đều nhận một món bổng lộc hậu hĩnh, không có bất cứ việc gì để làm, dư nhà dư đất, có tiểu lầu đài các, bên cạnh lại còn có Mẫu Y Kha xinh đẹp, đáng yêu chăm sóc, có đám người Mục Vũ trung thành làm tùy tùng, đợi đến khi cưới Diễm Diễm về, lý tưởng của hắn được coi là hoàn tất.
Nhưng tất cả những thứ này thực đã đến tay, hắn lại có cảm giác mất mát, dần cảm thấy mấy ngày này thực sự chán nản vô cùng, có lẽ trong hoàn cảnh này nghỉ ngơi một thời gian sẽ cảm thấy vô cùng lý tưởng, nhưng nếu ngày qua ngày, năm qua năm, những ngày này kéo dài, hắn không thể tưởng tượng ngày đó sẽ buốn chán đến mức nào.
Người, ngoài nhu cầu vật chất, còn cần thỏa mãn về tinh thần, hắn vẫn cho rằng mình không ham quyền lực, nhưng đột nhiên biến thành bộ dạng như bây giờ, hắn còn không thể điều chỉnh được tâm trạng của mình. Hắn còn trẻ, nếu cứ như thế này, mấy năm này là thời gian nghỉ dưỡng lão rồi sao?
Nhưng, kinh nghiệm đặc thù khiến hắn từ một người bề dưới, sống cuộc sống của bề trên, đồng thời cũng mang đến cho hắn những nguy hiểm không xác định, hắn nào dám mơ ước xa xôi đi làm chuyện gì. Thôi, cứ sống mấy năm an nhàn, yên phận thế này, triều đình sẽ dấn dần quên con người hắn. Đến lúc đó nếu như quá nhàn rỗi, vô vị, có thể đi buôn bán. Diễm Diễm vốn am hiểu những chuyện này, triều đình không cấm những quan văn võ làm ăn buôn bán, đại khái là vậy, đây chính là tiền đồ của hắn.
Last edited by Minh Huệ; 25-03-2011 at 05:27 PM.
Đã có 6 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Minh Huệ
Quyển 5: Khai Hoa Thập Trượng Ngẫu Như Thuyền
Chương 240: Lối đi khác
Tác giả: Nguyệt Quan
Nguồn: Sưu tầm
Trên điện Tập Anh, mấy vị cận thần của thiên tử đang thảo luận làm thế nào để tăng cường việc phòng bị hỏa hoạn ở kinh thành. Thành Biện Lương lửa cháy nghi ngút, kiến trúc nhà cửa và dân cư đông đúc, tổn thất hỏa hoạn càng ngày càng nghiêm trọng, một chốc một lát mà đốt đi hơn mấy trăm hộ dân, dù có là phủ đệ vương công đại thần, cung điện trong hoàng cung cũng không thể may mắn thoát khỏi, điều này khiến cho hoàng đế cũng coi trọng việc phòng bị hỏa hoạn, nên mới mời quần thần đến bàn bạc, đưa ra cách phòng ngừa hỏa hoạn.
Tể tướng Triệu Phổ, phó tướng Lữ Dư Khánh, Tiết Cư Chính, Khai Phong doãn Triệu Quang Nghĩa, kế tướng Sở Chiêu Phụ, phó kế tướng La Công Minh, mỗi người tự phát biểu ý kiến của mình, đại khái vẫn là tăng cường quản lý đám cháy, cách truyền thống là đi lấy nước xung quanh, hô hào dập lửa. Cách này vốn là phương pháp quen thuộc, nhưng nếu áp dụng cho thành Biện Lương, hiệu quả sẽ có hạn.
Triệu Khuông Dận thấy họ đưa ra những cách lý giải không có chút mới lạ gì, bèn nói:
“Trẫm hôm nay đi thành Tây cấm quân doanh trung, tận mắt chứng kiến hỏa hoạn Biện Lương, đám cháy không nhỏ, trong khoảnh khắc mấy trăm hộ hóa thành tro tàn, của cải của dân chúng cả đời tích góp mới có được bị cháy trụi, gào khóc thê thảm, thật thương tâm.
Lúc ấy có Dương Hạo nguyên nhậm Lô Châu tri phủ tham gia vào việc chữa cháy, nghe những lời hắn nói. Giờ trẫm mời các khanh đến đây bàn bạc, nếu các khanh cũng không thể đưa ra cách nào hay, hạ chiếu, Dương Hạo đến kinh thành coi giữ công việc phòng chữa cháy, không biết các khanh nghĩ sao?”
La Công Minh nghe xong hai hàng lông mày nhíu lại, hắn định cư ở đây, biết triều đình nghi ngờ Dương Hạo, giờ Quan Gia lại đề bạt thế này, không biết là họa hay phúc đến với Dương Hạo, kế an toàn vẫn là Dương Hạo này giờ vẫn không nên xuất đầu lộ diện thì tốt. Dương Hạo là người bạn thân con út Khắc Địch mình yêu thương nhất, thái độ lại vô cùng nhu thuận, không ngại vì hắn tiến lên nói đỡ một lời.
Lòng nghĩ vậy, La Công Minh tiến lên phía trước một bước, cúi người thi lễ, nói:
“Quan Gia, thần nghĩ rằng, nói dễ làm khó, khi xảy ra hỏa hoạn, thuận miệng nói mấy câu, nghe giống như có cách giải vây, song chưa chắc đã có đủ kiến thức về lĩnh vực này. Nếu Quan Gia cảm thấy Dương Hạo này có cách gì hiệu quả, có thể mời hắn đến, đưa ra cách phòng cháy, nếu như có lý có tình, có thể giảm bớt thiệt hại, thì cân nhắc chức cho hắn cũng chưa muộn”.
Triệu Quang Nghĩa ngồi chỗ cao cao, nhìn bao giờ cũng hơn người ta một cái đầu, nhắc đến Dương Hạo làm hắn suýt té ngã, hắn vốn không có thiện cảm đối với tên Dương Hạo này. Tuy dựa vào thân thế địa vị của hắn, nếu như để cho Dương Hạo nắm một chức quan dù có nhỏ đi chăng nữa thì hắn vẫn canh cánh trong lòng, có cơ hội sẽ gây bất lợi cho hắn.
Những lời nói của La Công Minh rất hợp với ý của hắn, Triệu Quang Nghĩa lập tức tấu:
“La đại nhân nói có lý lắm. Quan Gia, thần ở phủ Khai Phong, hỏa hoạn lần này, là việc của vi thần. Giờ hỏa hoạn xảy ra, làm Quan Gia lo lắng, vi thần thực sự rất sợ hãi. Thần từ nay về sau sẽ tăng cường quản lý mồi lửa, giảm bớt nguyên nhân phát sinh hỏa hoạn. Còn về phần Dương Hạo, chí lớn nhưng tài mọn, chỉ giỏi khôn vặt, làm sao mà kham được trọng trách này. Lựa chọn và bổ nhiệm quan viên là việc quan trọng của triều đình, thần chưa bao giờ thấy tên Dương Hạo này có sở trường trong việc phòng cháy chữa cháy, cho nên không nên giao trọng trách lớn này cho hắn. Xin quan gia nghĩ lại”.
Triệu Khuông Dận lại nhìn sang Sở Chiêu Phụ, bèn hỏi:
“Sở Khanh nghĩ thế nào?”
Sở Chiêu Phụ tự là Củng Thần, người Tống thành. Hắn là một vị đại thần, vốn là một viên võ tướng, vì biết toán, hắn được coi là người có văn hóa, bởi vậy hắn làm tam ti sứ, cũng là một kế tướng chủ quản tài chính thuế má.
Người ngày làm việc cần kiệm, xưa nay không giám lấy việc công xen việc tư, chỉ keo kiệt một chút, và cũng được coi là quan thanh liêm. Hắn vốn là một võ tướng, quản lý tài chính chỉ là miễn cưỡng, bình thường rất nhiều công vụ đều là phó tướng La Công Minh thay hắn làm, việc đi cứu hỏa, phòng cháy chữa cháy hắn dốt đặc cán mai, nghe Hoàng đế hỏi, vội vàng nghĩ ngợi, quen dựa vào La Công Minh nói:
“Cái này, thần nghĩ rằng Triệu đại nhân, La Công Minh nói đều có lý, mong bệ hạ xem xét”.
Triệu Khuông Dận nhíu mày, lại nhìn về phía Triệu Phổ, còn chưa hỏi hắn, Triệu Phổ đã tiến bước phía trước, chắp tay thi lễ nói:
“Quan Gia, thần nghĩ rằng, tai nạn nước lửa, lẽ ra nên xây dựng các trạm, chuyên lo kiểm tra phòng tránh, như thế mới giảm bớt hỏa hoạn, có lợi cho nước cho dân. Biện môn cháy, thần cũng có mặt, theo lời Dương Hạo nói, thì thực có cách hay, Quan Gia ái tài, đừng ngại đề bạt”
Triệu Quang Nghĩa phản đối, còn Triệu Phổ thì ủng hộ, còn Quan Gia thì rõ ràng đã có kế hoạch, Triệu Phổ tự nhiên tán thành. Triệu Khuông Dận duyệt, vuốt râu cười nói:
“Triệu Phổ nói có lý lắm, ý trẫm là tìm một nha môn phòng cháy chữa cháy, tìm một người phù hợp phụ trách chuyện này, ha ha…”
Hắn chuyển ánh mắt sang nhìn các huynh đệ hơi khó coi, vội trấn an nói:
“Nếu như thế, trẫm sẽ điều hòa các khanh một chút, Dương Hạo thì ủy thác hắn đi sai sứ, nha môn này có thể xây ở Nam nha, nhậm chức thì thuộc quản lý của phủ Khai Phong”.
***
Mẫu Y Kha bưng khay trà từ phòng Dương Hạo đi ra, mới đi dọc hành lang gấp khúc được vài bước, thì trán bị một vật nào đó ném phải, Mẫu Y Kha kêu “Ai zô” một tiếng, suýt nữa nhỡ tay làm rơi khay trà, cố nhìn, mượn ánh sáng ở hanh lang, chỉ thấy trên khay trà có một tờ giấy được cuộn tròn.
Mẫu Y Kha ngẩng đầu lên xem, cây tường vi trong viện khẽ rung trong cơn gió lạ, xung quanh vắng vẻ, nàng vội buông khay trà, mở ra giấy ra, có chữ viết, song lại không biết viết gì, vội xoay người lại đi vào phòng Dương Hạo.
Dưới ánh đèn, Dương Hạo nhìn vào tờ giấy kia, nhìn từ trên xuống dưới một lần, rồi mặt trầm xuống. Mẫu Y Kha không nhịn được, bèn hỏi:
Mẫu Y Kha không dám nhiều lời, lặng lẽ lui ra, Dương Hạo chỉ mặc quần áo lót, phủi phủi hai tay, thong thả bước đến dưới ánh đèn..
Trang giấy này là ai mật báo, hắn không biết được, nhưng theo tình lý mà phỏng đoán, những việc được nói trong giấy này là thật, nếu đơn thuần dựa vào thứ này, thực khó nói có thể gây bất lợi gì cho hắn. Trên giấy chỉ nhắc đến một chuyện, Quan Gia cần lập một hữu ti nha môn việc phòng cháy chữa cháy, sai sứ này cắt cử cho hắn, hơn nữa nha môn này còn bị chịu sự quản lí của phủ Khai Phong.
Tin này lập tức đã khiến cho Dương Hạo lơ mơ: “Lẽ nào hôm ấy cứu hỏa bị Triệu tướng công nhìn thấy, cho nên mới tiến cử ta lên?”
Dương Hạo khóe miệng run rẩy nói:
“Trời xanh không có mắt, đây không phải là cái mà ta theo đuổi, huống hồ còn làm việc dưới Triệu Quang Nghĩa. Cho dù Triệu Quang Nghĩa đại nhân đại lượng, khinh thường vốn kiến thức nhỏ mọn của ta, nhưng Trần Đức Huyền giờ có thể đã về kinh rồi, giấc mộng con đường làm quan của hắn bị đứt đoạn, hận ta tới tận xương tủy, nếu không vì mục đích trả thù mới là lạ. Vốn cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, giờ như thế nào mới tốt đây?
Không tiếp chỉ thì không được, hơn nữa không có thành tích gì cũng không được. Như vậy, Trình Đức Huyền có càng nhiều cơ hội lấy cớ lời rèm pha, huống hồ Quan Gia lại thích người thẳng thắn, lại không thích người không tài cán gì, hắn thích người vừa thẳng thắn vừa tài giỏi, có thể làm những chuyện đâu ra đấy, nếu như trước mặt hắn không hề có chiến tích gì, sợ rằng bản thân sẽ bị Nam nha nhòm ngó, hắn cũng lười để ý, thôi vậy, bất luận chân Quan Gia to thế nào cũng phải ôm lấy”.
“Nhưng muốn có thành tích gì đó mà lại làm việc ở phía dưới Nam nha, nói dễ nhưng làm khó, còn không có ai cản đường sao? Đến lúc đó tấn công ngầm hay công khai sợ rằng có thể đối phó được không? Ta ở kinh thành không có quen biết ai, đến khi đó ai có thể bảo vệ che chở cho ta đây?”
Dương Hạo lưỡng lự, trầm tư suy nghĩ, không còn cách nào khác, chợt nghe tiếng cánh cửa kêu vang, Dương Hạo giật mình, hỏi: “Là ai?”
“Đại nhân, tôi về rồi”.
Dương Hạo nghe giọng nói, kêu thất thanh: “Bích Túc? Mau, mau vào đây”.
Cửa phòng được mở, một bóng xám tiến vào, chỉ thấy người này đỉnh đầu trống trơn, mặt mày thanh tú, mặc quần áo kín, chính xác là Bích Túc đến rồi”.
Dương Hạo ngạc nhiên nói: “Bích Túc, sao ngươi lại ăn mặc thế này?”
Bích Túc tiến lên chào nói:
“Một lời khó nói hết, thuộc hạ phụng sai phái của đại nhân, đi điều tra người nhà Chiết cô nương, nhưng vẫn không tìm thấy tin tức của cô ấy và người nhà, về sau được tin từ nhà xe, hình như có một vị cô nương giống Chiết cô nương đi Đường Quốc rồi, thuộc hạ bèn cùng người đuổi theo. Người Đường luôn cảnh giác với người phương bắc, nhưng họ đặc biệt sùng bái Phật giáo, thuộc hạ liền giả làm hòa thượng tiện làm việc, song…thuộc hạ hổ thẹn quá, từ đầu chí cuối vẫn không có tin tức gì của Chiết cô nương”.
Dương Hạo im lặng một lúc lâu, thản nhiên nói:
“Tìm người như vậy chẳng khác nào tìm kim dưới đáy bể. Haiz…có lẽ ta và nàng chỉ có duyên mà vô phận, không tìm được thì…thôi vậy, nhưng mong nàng bình yên vô sự”.
Bích Túc vâng vâng dạ dạ:
“Vâng, thuộc hạ không thu hoạch gì được ở Đường Quốc, đành trở về Khai Phong tìm, lúc này mới nhận được tin từ Phi Vũ, biết được đại nhân đã đến Khai Phong, định cư ở nơi này luôn, lúc này mới tìm đến giữa đêm hôm thế này. Đại nhân vào triều làm quan, Quan Gia không làm khó ngài chứ, có thích không ạ?”
Dương Hạo cười mếu máo nói:
“Vốn dĩ là rất thoải mái, đúng là cầu gì được nấy. Ta thấy giờ ngày nào cũng vậy. Nhàn quá lại hóa buồn, lần sai sứ này khó nói là mang đến tai hay họa cho ta, ta không thể từ chối được, lại chẳng có gì tự bảo vệ mình”.
Dương Hạo nhìn Bích Túc muốn nói gì đó nhưng lại thôi, hắn lắc đầu bước thong dong đến một bên, quay đầu lại nhìn toàn người Bích Túc lần nữa, suy tính gì đó, ánh mắt trở lên khác thường, Bích Túc bị hắn nhìn chằm chằm, sợ hãi, cảm thấy có gì đó, không nhịn được bèn hỏi:
“Đại nhân, trên người thuộc hạ có gì không ổn sao?”
“Không có gì là không ổn cả”.
Dương Hạo cười:
“Trong triều không tìm thấy bùa hộ mệnh, vừa nhìn thấy ngươi, ta lại nghĩ hay là đi lối tắt, chính là cái gọi là bố y khanh tướng, nhất phẩm bạch sam, không được làm khanh tướng, nhưng nếu có uy tín của một khanh tướng, thì ai muốn động vào ta cũng phải suy nghĩ cho kỹ…”
“Đại nhân, ngài xem ta thế này có được không?”
Bích Túc choàng bộ quần áo tro của hòa thượng, sợ hãi nói: “Thuộc hạ chưa từng làm hòa thượng, khi ở Quảng Nguyên là vùng quê thì thế nào cũng được, thành Biện Lương này nhân tài ẩn dật, ta chỉ sợ…”
“Không phải sợ, bổn quan trước đã đi chùa Đại Tướng Quốc, cũng thấy các cao tăng, ni cô Biện Lương ở trước cửa chùa bán những cái ví thêu hoa, cứ một vị hòa thượng béo một cái đệm cói, ở đó giảng Phật pháp, so tài chính là giọng lớn nhỏ, giọng ai thét to có khí thế thì được những reo hò ủng hộ, thì nói hắn là một cao tăng hữu đạo, ta thấy không mạnh hơn ngươi là mấy”.
Dương Hạo cười an ủi, Bích Túc vẫn chưa yên tâm, lại nói: T
“Nhưng lần này theo đại nhân ra, ngộ nhỡ có người hỏi tôi về Phật pháp, một đoạn hoàn chỉnh tôi cũng không thuộc, thì thể nào cũng bị phát hiện ngay tại trận”.
Dương Hạo nói:
“Có gì mà phải thuộc, ngươi nhớ rằng, ngươi là cao tăng Tây Tạng đến, Phật pháp cao siêu, sao lại phải học cái tiểu sa di đó, còn phải thuộc kinh văn gì nữa sao? Còn nữa, không được xưng là thuộc hạ, mà phải xưng là bần tăng khi nói chuyện. Nguyệt Nhi, Tiểu Vũ hai ngươi nhớ kỹ đấy, phải gọi Bích Túc là đại sư, không được gọi thẳng tên ra”.
Tiểu Vũ và Mẫu Y Kha đồng ý: “Vâng”.
Bích Túc chau mày, méo mặt nói:
“Thuộc…bần tăng không thuộc kinh văn, nếu có người thỉnh giáo bần tăng Phật học, cũng không thể không nói câu nào chứ? Lúc đó phải làm sao đây?”
Dương Hạo cười nói:
“Cái này dễ thôi, cao tăng mà, đều thích nói lời sắc bén. Người ta nói gì, nếu ngươi cảm thấy không tiện trả lời, vào lúc đó…thì nói hai khả năng, ngươi yên tâm, càng nói những chuyện không đâu, mù mịt thì càng giống với thiền cơ (diệu pháp của các hòa thượng Thiền tông), người ta càng cảm thấy ngươi Phật học cao siêu, không hiểu còn phải giả vờ hiểu ý chứ, hỏi cũng không dám hỏi nữa. Hơn nữa, ngươi hóa trang thành vị hòa thượng thích rượu thịt), có vài lời không giống người xuất gia, cũng cần phải chú ý”.
Dương Hạo nói xong lại nói: “Ta nói cho ngươi hai bài từ, ngươi có học thuộc lưu loát được không?”
Bích Túc nói: “Học thuộc lòng rồi, nhưng…”
“Vậy thì được, chúng ta đi, đi đến Như Tuyết Phường nổi danh thôi”.
Last edited by Minh Huệ; 25-03-2011 at 05:27 PM.
Đã có 10 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Minh Huệ