Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành
Chương 191: Sở đô Ngô doanh
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
Trên đại điện trơ trọi tại hoàng cung Sở vương ở Dĩnh Đô, phát ra tiếng gào thét giận dữ của Ngô vương Cơ Quang: “Bá vô dụng! Dùng thích khách không thể thiếu một trong ba yếu tố thời cơ, địa điểm, cơ hội, thế mà hắn lại hành động sơ suất, quả nhân đem trọng trách này giao phó cho hắn, hắn lại chỉ phái có một tử sĩ lén vào núi động thủ, thật là ngu ngốc hết sức, Sở vương giờ đây chắc là cẩn thận đề phòng hơn, sau này có còn xuất hiện cơ hội nữa không?”
Các tướng đứng dưới điện sắc mặt nghiêm nghị, đều im lặng không thốt lời nào. Tướng quốc Ngũ Tử Tư quét mắt khắp một lượt quần thần đứng đó, bước ra khải tấu: “Đại vương nguôi giận, Bá hành sự xưa nay luôn cẩn trọng kĩ càng, nếu không có kế sách vẹn toàn, tuyệt đối không ra tay bừa bãi. Cái thủ đoạn dùng thích khách này, xem ra không giống hành vi của Bá, hay là đợi tín sứ của Bá về báo tin rồi tính sau.”
Cơ Quang tím tái mặt mày, phất tay áo mạnh một cái, gằn giọng: “Không phải hắn thì còn ai vào đây nữa, nôn nóng muốn giết Sở vương như vậy, ngoại trừ chúng ta, chỉ còn Tề và Tấn, mà hai nước Tề, Tấn không thể nào hành động nhanh chóng như thế được. Hơn nữa, Tề, Tấn mưu đồ thôn tính thiên hạ, nếu chiến sự ở Sở quốc sớm chấm dứt, bọn họ lấy đâu ra cớ để xuất binh? Họ còn mong ở đây càng loạn lên càng tốt ấy, ngoại trừ họ ra, thiên hạ còn ai muốn giết Sở vương?”
Ngũ Tử Tư lắc đầu nhè nhẹ, mái tóc bạc phất phơ, nói: “Thần cũng nghĩ không ra, chỉ là cảm thấy với tính cách của Bá, đây không giống hành vi của hắn.”
Đúng vào lúc này, có người chạy vội vào điện bẩm báo: “Bẩm đại vương, tín sứ của Bá tướng quân đến.”
Ngũ Tử Tư mừng rỡ: “Mau mau đưa hắn vào điện!”
Cơ Quang đang tức tối đi qua đi lại trên đại điện hứ một tiếng rõ to, quay về chiếc ghế vương vị giữa điện ngồi xuống. Một tên tín sứ vội vàng bước vào, dập đầu hành lễ: “Tiểu nhân phụng lệnh Bá tướng quân, bái kiến đại vương.”
Cơ Quang lại gằn giọng, lạnh lùng chất vấn: “Quả nhân giao ba ngàn quân tinh nhuệ cho hắn, bảo hắn đi Tùy quốc thưởng thức phong cảnh đó hả? Bá sao lại chỉ phái có một thích khách vào Cửu Phụng cốc ở Tùy quốc hành thích, hắn phái ngươi về đây là để thỉnh tội với quả nhân đúng không?”
Tên tín sứ sợ hãi quỳ đó, lên tiếng phân bua: “Hồi bẩm đại vương, tên thích khách đó không phải do Bá tướng quân phái đi. Bá tướng quân phái người lén trà trộn vào Tùy quốc dò thám động tĩnh, mới phát hiện có người hành thích Sở vương.”
Cơ Quang ngớ người ngạc nhiên: “Quả nhiên không phải là hắn động thủ ư?”
Ánh mắt Cơ Quang hướng về Ngũ Tử Tư như muốn hỏi gì. Ngũ Tử Tư bước tới hỏi tên tín sứ: “Bá hiện giờ đang ở đâu?”
Tên tín sứ trả lời: “Hồi bẩm tướng quốc, Bá tướng quân nghe được tin Sở vương bị hành thích, biết là Sở vương sẽ đề cao cảnh giác, kế hoạch trước đây khó mà tiến hành được nữa, hơn nữa các lộ binh mã cần vương của quân Sở mỗi ngày đi sang Tùy quốc vô số. Bá tướng quân sợ bị người Sở phát hiện hành tung, đã tránh khỏi đường lớn, dẫn quân mai phục tại các cánh rừng dọc đường từ Tùy quốc đến Dĩnh Đô, ngoài ra còn phái binh sĩ giả làm tiều phu đi dò thám tin tức liên tục.”
Ngũ Tử Tư nghe xong khen ngợi: “Bá quả nhiên hành sự cẩn trọng, suy nghĩ thấu đáo, biết tùy cơ ứng biến, quả là tài giỏi, hắn phái ngươi về đây gặp đại vương, còn có gì dặn dò không?”
Cơ Quang nghe Ngũ Tử Tư nói vậy, thử nghĩ nếu quả thật thích khách không phải do Bá phái đi, Bá xử lí như thế đương nhiên đáng được khen ngợi, cơn giận trong lòng tiêu tan, cất tiếng hỏi lớn: “Nói mau, Bá phái ngươi về đây còn gì nữa không?”
Tên tín sứ khúm núm: “Đại vương, Bá tướng quân nói các lộ binh mã cần vương không ngừng tập kết về Tùy quốc, chắc không lâu nữa quân Sở sẽ rời khỏi Tùy quốc đánh về Dĩnh Đô. Tướng quân vốn nhận lệnh chờ Sở vương tiến về Dĩnh Đô, tập kích vào trung quân chém vua Sở, nhưng giờ Sở vương bị hành thích, đánh rắn động cỏ, bên mình chắc chắn tăng thêm nhiều thị vệ hộ tống, nếu theo kế hoạch cũ, e khó đạt hiệu quả, nên tướng quân phái tiểu nhân về đây, nghe lệnh tiếp theo của đại vương có gì thay đổi không ạ.”
Ngũ Tử Tư lại hỏi han một hồi về tình hình của Bá như thế nào, xong quay qua chắp tay bẩm báo: “Đại vương, nếu như đại vương không định về nước Ngô ngay, như vậy theo ý kiến của thần, cánh quân của Bá không cần triệu tập về đây gấp, kế hoạch thích sát Sở vương tuy là thất bại, nhưng chúng ta phái đi một cánh quân mai phục, sau này ắt vô cùng hữu dụng. Theo ý thần đại vương không vội triệu Bá về, cứ ra lệnh cho Bá phục quân ở xung quanh, lúc cần thiết nói không chừng ta có thể tập kích bất ngờ quân Sở.”
Cơ Quang xưa nay luôn nghe theo Ngũ Tử Tư răm rắp, thấy tướng quốc đã có ý vậy, bèn ra lệnh: “Tướng quốc nói phải lắm. Ngươi tức tốc quay về, lệnh cho Bá mai phục quanh đó, giữ liên lạc với quả nhân, chờ mệnh lệnh tiếp hẵng tính sau.”
Tên tín sứ dập đầu nhận lệnh xong lui ra. Cơ Quang vuốt râu suy ngẫm: “Kì lạ nhỉ, là ai muốn giết Sở vương chứ? Chẳng lẽ…trong số các hoàng thân quốc thích của Sở có kẻ thấy Sở vương gặp nạn, muốn thừa nước đục thả câu, nhân cơ hội giết hắn hòng cướp ngôi? Thật là khốn kiếp, làm hỏng cả chuyện lớn của quả nhân.”
Ngũ tử tư lên tiếng: “Đại vương, kẻ đứng sau lưng vụ này e nhất thời không dễ gì lộ diện đâu ạ. Quân Sở mấy ngày tới chắc xua quân đánh trả, mà…Khánh Kỵ lại sớm chiếm giữ thành trì bên kia, chặn đường rút lui của đại quân ta, dụng tâm của hắn không nói ra thì ai cũng biết, bây giờ chúng ta kéo dài thêm ít ngày tháng, một là có thời gian vận chuyển của cải từ Sở về nước để Ngô quốc ta sử dụng sau này, hai là tạo cơ hội xuất quân tham chiến cho hai nước Tề, Tấn, nhưng quân Ngô ta tiến sâu vào đất địch, cố thủ Dĩnh Đô không phải là cách hay, chúng ta cần bàn bạc kĩ kế hoạch hành động tiếp theo, cứ ngồi đây cố thủ chi bằng chủ động xuất kích, gây cho quân Sở chút thương vong, ngăn cản chúng bao vây phản kích chúng ta, đồng thời việc bố phòng ở Dĩnh Đô cũng phải tăng cường…”
Cơ Quang ngạo mạn cười mỉm: “Về phía Khánh Kỵ, phái thêm nhiều thám mã, chỉ cần hắn có ý đồ bỏ đi quay về tập kích Ngô quốc, chúng ta lập tức men theo con đường như kế hoạch đề ra về Ngô chặn đánh hắn, còn nếu hắn cứ giao chiến với quân ta ở Sở… Hừ! Đợi khi các chư hầu xuất quân, thiên hạ đại loạn, chúng ta mới quay về Ngô quốc, cứ cho đội quân ô hợp của hắn ở lại đây thu xếp tàn cục này đi, ha ha…
Còn về quân đội của người Sở, giống như là trăm vạn con cừu non, tuy đông mà vô dụng, đâu phải là đối thủ quân Ngô hùng mạnh của ta. Hơn nữa số quân người Sở triệu tập được sẽ không quá mười vạn, nếu nhiều hơn thì không cần chúng ta ra tay, trong có các nước phụ thuộc nổi lên làm phản, ngoài có các nước chư hầu thừa cơ xâm lấn, Sở quốc lập tức sẽ tiêu đời. Mười vạn quân Sở, cộng thêm hơn hai vạn quân của Khánh Kỵ, cùng lắm là mười ba vạn quân, còn binh mã của ta có bốn vạn, giờ có thêm tù nhân được thả ra của Sở, quân mới chiêu nạp từ đám nô lệ, cộng lại cũng hơn hai vạn. Sáu vạn quân Ngô chống với mười ba vạn liên quân, nếu đối khánh trước mặt thì chúng chiếm ưu thế, nhưng nếu ta cố thủ thì chúng muốn bao vây, với số quân đó cũng không làm được, ta còn sợ gì bọn chúng nào?”
Ngũ Tử Tư khẽ nhíu mày, khuyên can: “Đại vương, kiêu binh tất bại! Quân Sở bị chúng ta đánh cho một trận tơi bời, nhưng người Sở tuyệt đối không phải là hoàn toàn vô dụng, số quân Sở dũng cảm tử chiến không thiếu, hơn nữa lần này Khánh Kỵ lại dấy binh khởi sự, càng không thể xem thường, ở đây dù sao cũng là Sở quốc, là thiên hạ của người Sở, đại vương sao lại khinh suất như thế này?”
Ngũ Tử Tư nặng lời chỉ trích, Cơ Quang ngược lại mỉm cười không trách phạt, trong số các đại thần cũng chỉ có Ngũ Tử Tư dám lên tiếng can gián Ngô vương Hạp Lư hung bạo này, mà Cơ Quang lại thích tính cách này của hắn. Cơ Quang vuốt râu: “Tướng quốc dạy phải lắm, quả nhân biết sai rồi. Giờ các tướng đều ở đây, tướng quốc sẽ nói kế hoạch chúng ta đã nghị định ra cho các tướng nghe xem sao, nếu có gì không ổn, mọi người có thể bàn bạc cho thỏa đáng ngay tại đây.”
“Dạ, xin tuân ý chỉ của đại vương.” Ngũ Tử Tư chắp tay cúi chào, ung dung đứng thẳng người, vẫy tay một cái, bên ngoài đại điện lập tức có hai võ sĩ bước vào, một tên cầm theo một cuộn tranh to, khi đứng yên trong điện, hai tên võ sĩ mỗi người cầm một đầu cuộn tranh, từ từ kéo cuộn tranh ra hai hướng, Cơ Quang chăm chú nhìn vào, thấy đó là một tấm bản đồ chi tiết.
Ngũ Tử Tư nói: “Tấm bản đồ này là do thần tìm được trong hoàng cung, thần căn cứ theo tình hình điều động binh mã của đôi bên gần đây thêm vào chú thích, vẽ ra tấm bản đồ như mọi người đã thấy. Trên bản đồ có vẽ những điểm và đường màu đỏ, là lực lượng quân ta đang chiếm giữ, còn điểm và đường màu xanh là binh mã của Sở, còn cái tam giác màu xanh lá chính là binh mã của Khánh Kỵ.”
Tấm bản đồ khá lớn, núi non sông ngòi nhìn vào rất rõ ràng, chỉ là trên đó giờ có thêm ba màu đỏ, xanh, xanh lá khiến các tướng nhìn chả hiểu gì cả, lúc này nghe Ngũ Tử Tử giải thích, mọi người so sánh với tình hình phân bố binh lực của các bên trong kí ức của mình, thấy quả nhiên chính xác như trong bản đồ.
Theo như bản đồ có thể nhận ra, khu vực xung quanh Dĩnh Đô tập trung nhiều màu đỏ và xanh nhất, trung tâm của màu xanh chính là Cửu Phụng cốc ở Tùy quốc, các tuyến đường hành quân của quân Sở đều đổ về hướng ấy, sau đó hợp lại thành một màu xanh đậm, từ từ di chuyển về hướng Dĩnh Đô. Tòa thành trì phía Đông Nam của Dĩnh Đô, có một tam giác màu xanh lá, chính là nơi quân Khánh Kỵ trú đóng. Cứ điểm của Khánh Kỵ rất nhỏ, vị trí này chính là yếu đạo hai ngả thủy lục từ Ngô quốc đi sang, Khánh Kỵ đóng quân ở đấy rõ ràng có ý tạo thế gọng kiềm cùng quân Sở bao vây Dĩnh Đô, còn muốn rút quân không tham gia trận chiến, xua quân lui sang phía Đông vòng lại tiến đánh thẳng vào Ngô quốc cũng rất thuận tiện.
Trên bản đồ một màu đỏ tụ tập lại tại vị trí Dĩnh Đô, mấy con đường trọng yếu xung quanh và một số thành trì nhỏ gần Dĩnh Đô cũng có vài chấm đỏ, như các ngôi sao bao bọc xung quanh mặt trăng ở giữa là Dĩnh Đô vậy. Các tướng có mặt trên đại điện đều là tướng lĩnh thân thuộc của Cơ Quang, họ vừa nhìn thấy tuyến đường đỏ chót vẽ từ Dĩnh Đô ra ngoài thì đã hiểu đó chính là đường rút quân về Ngô mà Ngô vương Hạp Lư quyết định.
Ngũ Tử Tử cất cao giọng: “Các tướng xem cho rõ, đám quân cần vương của Sở vương một khi tập hợp lại, chắc chắn từ Tùy quốc tiến thẳng sang phía Đông, chủ soái mười phần có tám chín là Phí Vô Cực, cách đánh của hắn chẳng qua chỉ có hai cách là tấn công thành hoặc bao vây, theo tình hình trước mắt, quân số người Sở huy động được có hạn, hơn nữa quân Sở mới bại trận, lòng quân hoang mang, Phí Vô Cực chưa chắc dám chia quân ra bao vây, sợ bị chúng ta tiêu diệt từng cánh quân, vì thế cho dù gặp trường hợp xấu nhất, chúng ta muốn phá vòng vây về nước cũng dễ như trở bàn tay, đấy chính là lí do đại vương muốn mạo hiểm ở lại Dĩnh Đô, Ngũ Viên không ra sức ngăn cản.
Điều duy nhất đáng lo là tâm ý của Khánh Kỵ, hắn định phối hợp với quân Sở giao tranh với quân ta ở đây hay là thừa lúc quân ta chiến đấu với quân Sở lén xua quân về Ngô đánh chiếm Cô Tô thành? Ta phải cẩn trọng chú ý động thái bên Khánh Kỵ, nhưng…mấy vạn binh mã của hắn, muốn điều động cũng không phải chuyện dễ, cho dù muốn xua quân Đông tiến, dọc đường núi non hiểm trở, sông ngòi chằng chịt, chúng chỉ có hai con đường để chọn lựa, trèo đèo vượt suối, san rừng lấp biển, tốc độ hành quân không quá nhanh, nếu như hắn chọn cách đi thuyền men theo Trường Giang, tuy là thuận theo con nước, nhưng Trường Giang quanh co uốn khúc, tính theo tốc độ của thuyền, hắn không thể đi nhanh hơn chúng ta quay về Ngô quốc, hơn nữa ở Ngô có hai vị công tử Phù Khái và Phù Sai chặn địch, chỉ cần chúng ta cẩn thận hành sự, không có gì đáng phải lo ngại.
Trong thành Dĩnh Đô, quân ta đang đóng chủ lực một vạn năm ngàn quân ở đây, ngoài ra tăng cường thêm ba ngàn quân được trang bị nỏ Sở, khoảng tám ngàn quân tù nhân và nô lệ, họ chủ yếu phụ trách việc gia cố thành trì, đào hào sâu và chế tạo cơ giới phòng thủ. Quân số chia ra trấn giữ các con đường trọng yếu là hai vạn quân, các thành trì nhỏ xung quanh Dĩnh Đô có một vạn bốn ngàn quân trấn giữ, Bá dẫn theo ba ngàn quân, tuy quân số ít nhưng đều là quân tinh nhuệ chinh chiến lâu năm trên sa trường, vũ khí sắc bén, giáp trụ đầy đủ, ai cũng được trang bị nỏ mạnh của người Sở, cánh quân mai phục này có tác dụng gây bất ngờ, đợi quân Sở tiến về phía Đông, cánh quân này chính là nhát dao nhọn đâm thẳng vào trái tim người Sở.
Bố phòng như thế, đảm bảo cho quân ta an tâm ở lại đất Sở, trừ khi có gì sơ suất, bằng không quân ta không gì phải lo ngại. Nhưng đại vương thân phận cao quý, liên hệ đến an nguy xã tắc toàn Ngô quốc, giờ đại vương thân tại Sở quốc, tuy mang bên mình mấy vạn hùng sư, cũng nên đề phòng bất trắc. Nhỡ Khánh Kỵ và quân Sở có mưu kế thâm sâu nào ta không đoán ra được, công phá phòng tuyến vững chắc của quân ta, cũng giống như ta thừa lúc người Sở không để ý tiến đánh Dĩnh Đô vậy, lúc đó quân ta phải quyết đoán lập tức rút chạy về nước…”
Nói đến đây, Ngũ Tử Tư ngập ngừng giây lát, Cơ Quang ngắt lời hắn: “Chưa tính đường chiến thắng đã tính đường thất bại, đấy chính là tính thận trọng của tướng quốc. Các tướng đừng nghĩ Khánh Kỵ và quân Sở liên minh hung hăng tiến đánh mà e sợ, số quân địch gấp đôi này không vây khốn quả nhân được đâu. Ngộ nhỡ bọn chúng tấn công bất ngờ, đột kích vào thành, quân ta chưa kịp rút đi, lúc đó cứ làm theo kế của tướng quốc, tập hợp quân tinh nhuệ chạy ra thành Đông, đốt lửa khắp thành ngăn cản quân địch, sau khi ra thành ta lấy chiến xa mở đường, bộ binh theo sau, ở giữa áp giải mười vạn dân đen hiện giờ bị quả nhân bắt chuyển sang ở thành Đông, làm vậy dù là Khánh Kỵ hay quân Sở cũng không dám bỏ mặc đám dân đen này phát động tấn công vào quân ta, phía trước chắc chắn không còn vật cản…”
Các tướng lĩnh thân tại Sở quốc, quả thật có hơi chút lo lắng con đường rút quân, giờ nghe mưu kế độc ác này của Cơ Quang và Ngũ Tử Tư xong, ai nấy vui mừng hớn hở, trong lòng yên tâm phần nào. Ngũ Tử Tư lại chỉ tay lên tấm bản đồ, dừng lại ngay vị trí phía Nam Vân Mộng Trạch, nghiêm nghị: “Tất nhiên, đây chỉ là đề phòng bất trắc thôi, quân Sở và Khánh Kỵ chưa chắc làm gì được quân ta.”
Hắn xua tay cho lính thu tấm bản đồ lại, quay người lại nói tiếp: “Bây giờ lại nói đến trường hợp quân ta đánh bại liên quân Khánh Kỵ và quân Sở, bước tiếp theo nên làm thế nào. Giờ này Tề quốc và Tấn quốc đều đã xuất quân, còn lệnh cho các nước phụ thuộc tham chiến, phía ta có Tề, Tấn, Thái, Đường, Đài, Chu, Đằng, Tiết, Kỷ, Huân mười nước giúp sức, còn phía Sở có Tần, Tào, Lỗ, Trần, Vệ, Tống, Trịnh, Thuấn, Hồ, Thẩm, Trần, Hứa và Khánh Kỵ mười ba lộ binh mã tương trợ, các nước như Lữ, Lưu, Phí, Cam, Đơn, Thiệu, Dương, Việt chưa rõ thái độ ngả về phe nào, vẫn đang nghe ngóng chờ thời.
Tề, Tấn là hai nước lớn, quân đội hùng mạnh, nếu hai nước thuận lợi xua quân nam hạ, lúc đó thiên hạ nghe theo, tình thế lập tức thay đổi, các nước chư hầu phe ta chắc chắn làm chủ trung nguyên, chúng ta ở nước Ngô chớp lấy thời cơ mở rộng bờ cõi ra gấp mấy lần, nếu tình hình quả thật phát triển theo hướng ấy, cách bố trí của ta cũng cần kịp thời điều chỉnh…”
Ngũ Tử Tư huyên thuyên không ngớt, chốc chốc Cơ Quang và các tướng lại hỏi hắn vài vấn đề, mọi người bàn luận hết cả buổi sáng, các tướng mới ra khỏi đại điện rời đi, Ngũ Tử Tư theo sau Cơ Quang đi vào hậu cung, lại bàn chi tiết thêm về kế hoạch vạch ra hôm nay hồi lâu, hai người cùng dùng ngự thiện xong, Ngũ Tử Tư cáo lui về phủ.
Một lão thái giám hầu hạ bên cạnh Ngô vương Hạp Lư đi theo hắn định cất tiếng nói gì đó nhưng lại thôi, không ngừng đưa mắt liếc nhìn Ngũ Tử Tư.
Ngũ Tử Tư tuy là mái đầu bạc râm, nhìn có vẻ già hơn tên thái giám kia nhiều, nhưng thật ra hắn chỉ ngoài ba mươi tuổi, tai thính mắt tinh, hành vi của tên thái giám lập tức bị hắn phát hiện, Ngũ Tử Tư giả đò không nhận thấy, cứ bước đến trước tiền điện, lúc này phía trước đã có thị vệ quân Ngô canh giữ, theo quy định thái giám cung nữ trong hoàng cung không được bước vào đó, Ngũ Tử Tư dừng bước, quay đầu lại nhìn tên thái giám già mặt đầy nết nhăn hỏi: “Nhạn, ngươi có gì muốn nói với ta ư?”
Thì ra tên thái giám này vốn là chỗ quen biết với Ngũ Tử Tư, khi xưa Ngũ Tử Tư còn làm quan ở Sở, Ngũ gia là trọng thần Sở quốc, phụ thân hắn hay ra vào hoàng cung, dẫn theo Ngũ Tử Tư nên hắn và tên thái giám hầu hạ Sở vương này đã quen biết nhau từ đó.
“Tướng quốc đại nhân…” Tên thái giám già này khom lưng nói giọng ồ ồ: “Nhạn có mấy câu muốn nói với đại nhân.”
“Chuyện gì thế?”
“Đại nhân vốn là người Sở, tổ tiên của đại nhân mấy đời ra sức vì nước Sở, trong thành Dĩnh Đô có bao nhiêu gia đình từng là bằng hữu của Ngũ gia. Đại nhân…đại nhân sao lại có thể nghĩ ra mưu kế độc ác này, lấy thường dân vô tội của Sở quốc làm lá chắn thoát thân, bắt họ làm vật thế mạng trên chiến trường chứ?”
Ngũ Tử Tư trừng mắt, bước lên một bước, tức giận hét lên: “To gan, ngươi dám nghe lén kế hoạch của ta và đại vương hả?”
Tên thái giám già tên Nhạn cười khổ, lọm khọm nói nhỏ: “Nhạn…không dám, Nhạn ở trong cung chỉ là tên thái giám nhỏ hầu hạ người khác, có ai xem Nhạn là con người đâu? Đại nhân và Ngô vương uống rượu nói chuyện to tiếng với nhau, Nhạn đứng bên dưới hầu hạ, không hề nghe Ngô vương và đại nhân bảo lui ra. Nếu đại nhân sợ Nhạn để lộ tin tức, bây giờ xin cứ giết Nhạn đi là xong.”
Ngũ Tử Tử nắm chặt bảo kiếm, lạnh lùng: “Giết ngươi thì có ích gì? Ngươi ra khỏi hoàng cung được sao? Nếu có ngày cần dùng đến kế sách ấy, Ngũ Tử Tư ta sợ gì người khắp thiên hạ biết đó là mưu kế do ta bày ra.”
Nhạn lắc đầu nguầy nguậy: “Đại nhân vì muốn trả mối thù gia tộc, dẫn quân đánh về Sở quốc, đuổi Sở vương, hãm hiếp Sở nữ, cướp bóc của cải Sở quốc, giết tướng sĩ của Sở, quất roi vào xác tiên vương, làm bao nhiêu chuyện, cho dù là có thù sâu tựa biển cũng phải nguôi giận rồi chứ… Đốt trụi Dĩnh Đô, đem mười vạn dân thường vô tội ra làm lá chắn, đại nhân có biết…đó đều là người già trẻ nhỏ? Hành động tàn ác như thế, đại nhân quả thật nhẫn tâm thế này sao?”
Ngũ Tử Tư im lặng giây lát, ngửa mặt lên trời cười to ba tiếng, hai mắt rực lửa, lạnh lùng trừng mắt nhìn vào thái giám Nhạn: “Ngũ Viên lúc làm người Sở, nhà tan cửa nát, người Sở có ơn gì với ta nào? Bây giờ Ngũ Viên chỉ còn một thân một mình, đều do Sở quốc mang đến cho ta! Ta ra sức giúp Ngô vương, chinh chiến thảo phạt Sở quốc sao lại cho phép có tình riêng ở đây? Ta không có gì phải day dứt trong lòng cả!”
Thái giám Nhạn đuổi theo hai bước, dõi theo bóng dáng Ngũ Tử Tư từ từ đi khỏi, dậm chân mấy cái, rầu rĩ: “Ta đã sớm biết có nói ra cũng không ích gì, Ngũ tướng quốc giờ đây đã khác xa nhị công tử nhiệt tình đôn hậu ngày trước. Ngươi nếu hãy còn nhân tính, sao lại giết chết gã ngư phu chở ngươi qua sông và cô gái tiếp tế cơm nước cho ngươi để diệt khẩu, còn nói họ là tự vẫn mà chết, ngươi giấu được cả thiên hạ, không qua mắt được người Sở, không qua mắt được lão già này đâu, khi xưa ngươi chỉ là một tiểu tử ở Ngũ gia, một công tử chỉ biết ăn chơi, có ân đức gì mà bắt gã ngư phu và cô thôn nữ phải hy sinh vì ngươi…”
Hắn quay đầu bước chầm chậm, nhủ thầm: “Làm nhiều điều ác, Ngũ Viên ơi là Ngũ Viên, trời cao có mắt, ngươi sẽ không có kết cục tốt đẹp gì đâu!”
Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành
Chương 192: Giao chiến
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
Tàn dương như máu, soi rọi xuống mặt đất bao la, một màu nắng đỏ rực ảm đạm.
Một thiếu niên mặc áo lông trắng, đứng trên bức tường thành cũ kĩ, ánh mắt dõi về phương Nam, im lặng như một bức tượng, hồi lâu không thốt lên lời nào.
Những bậc thang cao cao trải dài từ trên tường thành xuống tận mặt đất, khắp nơi phủ một lớp tuyết dày cộm không bị ai quét dọn, hai viên quan dẫn theo mấy tên cung bộc mặc áo ấm đứng hầu ở đó dưới cơn gió lạnh cắt da cắt thịt.
Một viên quan già mặc lễ phục cũ xưa chốc chốc lại dậm chân hít hà phà hơi ấm vào hai lòng bàn tay, quay qua nói nhỏ với viên quan kia xem ra tuổi tác còn già hơn hắn: “Thiếu Doãn đại nhân, mặt trời xuống núi rồi, thời tiết càng ngày càng lạnh, hay là…khuyên thiên tử về cung thôi, nếu ngài vì cái lạnh ngã bệnh thì nguy, chúng ta sao gánh vác trách nhiệm?”
Lão quan già nua kế bên thở dài một tiếng, hắn đúng là quá già rồi, đến nỗi phải nhờ một cung bộc dìu lấy mới đứng cho vững được, khi hắn thở dài, những nết nhăn trên mặt trơ ra như đá, không hề động đậy.
“Bá Tư đại nhân, cứ để thiên tử yên tĩnh thêm chút nữa. Tin tức hôm nay khiến ngài vô cùng thất vọng, trong lòng ngài khó chịu lắm đây. Hừ, những ngày này thiên tử cứ trông ngóng phía bên Sở quốc có tin tốt truyền về, không ngờ lại đợi được tin này, thiên tử còn nhỏ tuổi, sao chịu được cú sốc lớn này chứ?”
Hai lão quan già lại thở dài chán nản, ngẩng đầu lên trông theo Chu thiên tử Cơ đang đứng cô đơn một mình trên tường thành cao chót vót, phía sau lưng họ là hoàng cung xưa cũ lâu ngày không được chỉnh trang, nay đã u ám tàn tạ. Lâu lâu mới có một vài cung nữ và thái giám đi lại trên con đường vắng vẻ trong cung, cứ như hai lão già đang đứng dưới chân tường, khắp nơi đây nhuốm một màu vắng lặng buồn tẻ.
Chu thiên tử Cơ đứng trên tường thành hoàng cung Lạc Ấp, nhìn xuống tòa thành Lạc Ấp không còn chút sinh khí này, sau đó ánh mắt từ từ dõi xuống phương Nam, nhìn vào phía chân trời xa xa, cũng thở dài ngao ngán. Những ngày này hắn cứ mong chờ được một tin tốt gì đó, chờ đợi tin báo thích sát Sở vương thành công truyền về, kết quả lại là tướng quân Sở quốc Tử Kỳ thế mạng, Cơ cảm thấy vô cùng thất vọng.
Sở vương khinh thường quyền uy của Chu thiên tử, tự lập lấy vương hiệu, làm tấm gương xấu cho những nước Ngô, Việt noi theo, đồng thời liên kết các nước chư hầu phía nam Trường Giang, thế lực không ngừng mở rộng sang phương Bắc, nanh vuốt của Sở quốc nay đã giương tới những địa phương cách Lạc Ấp không quá hai trăm dặm, thành mối họa lớn đe dọa thiên tử. Ngô quốc tiến đánh vào Dĩnh Đô, đánh cho Sở quốc ngạo mạn một trận tơi bời hoa lá, nếu bây giờ Sở vương mà chết, Sở quốc quần long vô thủ, chư hầu phương nam tranh đoạt lãnh thổ của Sở, cứ thế chinh chiến tiêu hao lực lượng lẫn nhau, sẽ không còn quan tâm việc xâm lấn về phương Bắc nữa. Các nước chư hầu Chu thất phương Bắc lại còn thừa dịp đánh trả về phương Nam, diệt trừ mối họa lớn này triệt để, thế mà giờ đây tất cả tan theo mây khói rồi.
Chu thiên tử lại thở dài, ánh mắt quay sang hướng Tây Bắc, hai bàn tay lạnh cóng xoa xoa vào nhau tìm chút hơi ấm. Hướng Tây Bắc, là lãnh thổ Tấn quốc, giờ chỉ còn đặt hết hy vọng vào Tấn quốc thôi, mong sao Tấn quốc nhân cơ hội này xuất quân chinh phạt, bình định tên chư hầu man di Sở quốc không chịu thần phục hoàng thất họ Chu này.
Lúc này, đại quân của Tấn quốc đã xua quân nam hạ, nhưng vừa mới đi được một ngày đường, liền bị Triệu Giản Tử phái tín sứ đuổi kịp, thay đổi mệnh lệnh. Từ nam hạ đổi thành đông chinh, vì đại quân hai nước Vệ và Tống đã áp sát biên giới Tấn, Vệ. Phía biên giới Tấn, Trịnh cũng thấy quân Trịnh không ngừng điều động gia tăng quân số, hình như đang mưu toan xâm lược. Lúc này Triệu Giản Tử không dám mạo hiểm xua quân nam hạ, đề phòng Vệ, Tống thừa cơ đánh lén, chỉ còn cách phái người ngăn cản cánh quân nam hạ, quyết định chuyển qua đánh bại liên quân Vệ, Tống trước, đồng thời trấn áp Trịnh quốc rồi tính sau.
Mạnh môn. Liên quân Tống, Vệ đang gấp rút xây chiến hào, đặt doanh trại. Liên quân hai nước chia làm thế gọng kiềm hạ trại hai bên, cách nhau chỉ có vài dặm, chiến kì hai nước phấp phới dưới cơn gió lạnh, các đội binh sĩ hấp tấp qua lại không ngớt, một bầu không khí khẩn trương khi chiến sự sắp nổ ra.
Cách đó một con sông nhỏ, đội quân tiên phong của Tấn và quân đội của Vệ Tống nhìn rõ mặt nhau, doanh trại của quân Tấn cũng đang vội vàng dựng lên, ba đạo quân chỉ cách nhau có mấy dặm. Đại quân của Vệ do Tề Báo làm chủ soái, Công Tôn Bạt làm phó soái, Công Tử Triều làm tiên phong, ba người gấp gáp thị sát quân doanh, đứng ở nơi cao quan sát doanh trại quân Tấn đằng xa.
Cánh quân Tấn tiên phong này doanh trại chen chúc, nhìn vào không thấy giới hạn, ước chừng ít nhất cũng có một vạn năm ngàn quân, ba người chỉ tay về hướng đại doanh quân Tấn, thảo luận phương án tấn công, quyết định được một phương án rồi, sau đó Tề Báo dẫn theo hai người đi về phía doanh trại quân Tống, cùng đại soái thống quân Tống quốc Hiên Viên Hành bàn bạc kế hoạch ứng chiến.
Hiên Viên Hành cũng vừa mới đi thị sát xong doanh trại về, còn chưa kịp cởi áo giáp, nghe báo là chủ soái của quân Vệ đến đây, vội vàng ra đón tiếp ba người vào trong lều bàn chuyện.
Tề Báo giữ chức chủ soái quân Vệ, Công Tôn Bạt làm phó soái, Công Tử Triều làm tiên phong, việc này cũng từng xảy ra tranh chấp kịch liệt trên đại điện Vệ quốc. Mới đầu tuy đám đại thần có quyền lực như Bắc Cung Hỉ hô hào ủng hộ Tề Báo làm chủ soái, nhưng Vệ hầu Cơ Nguyên rốt cuộc không chịu giao binh quyền cho Tề Báo, vì chuyện này các phe cánh cãi nhau nảy lửa, việc xuất quân sém chút tan thành bọt nước.
Lúc này đại quân Tống quốc đã đến, Vệ phu nhân Nam Tử đích thân dẫn đại quân về Đế Khâu, Vệ hầu Cơ Nguyên nghe tin vội dẫn theo văn võ bá quan ra nghênh đón phu nhân, đưa nàng và đại quân Tống quốc đón vào Đế Khâu, lần này dẫn quân về giúp đỡ, Vệ phu nhân Nam Tử có công to lớn, vì thân phận đặc thù của nàng, và địa vị đặc thù trong mối liên minh Tống, Vệ, nên tiếng nói của nàng có ý nghĩa quyết định.
Vệ hầu Cơ Nguyên và Nam Tử bàn bạc riêng một hồi, lại truyền lệnh thượng triều, đồng ý kiến nghị cho Tề Báo làm chủ soái thống lĩnh quân Vệ, nhưng lại kèm theo một điều kiện: đưa Công Tử Triều lên giữ chức tiên phong, tất cả cấm quân thuộc hữu quân dưới trướng Công Tử Triều toàn bộ được đưa cả vào cánh quân tiên phong, điều sang chiến đấu ở biên giới Vệ, Tấn.
Tề Báo quá đỗi vui mừng vì được nắm giữ binh quyền, mà Bắc Cung Hỉ có nghĩ đến tuy làm vậy họ sẽ mất đi lực lượng cấm vệ có thể trực tiếp khống chế Vệ hầu, nhưng giờ đây toàn bộ binh quyền đã nằm trong tay, đối với họ mà nói mức độ an toàn cao hơn việc nắm giữ một nửa lực lượng cung vệ, cho nên mặc kệ Công Tử Triều ra sức phản đối, cứ nhận lời thay hắn luôn. Không ngờ Vệ hầu lại ra lệnh cho Công Tôn Bạt làm phó soái, cánh quân chủ lực của đại quân Vệ quốc lại được xây dựng bằng người ngựa của Công Tôn Bạt, Cừ Bá Ngọc dẫn vào Đế Khâu hồi trước, làm vậy chẳng khác nào giám sát chặt bọn Tề Báo, sợ hắn chiếm dụng quân đội mưu đồ phản loạn.
Giờ đây chủ soái, phó soái, tướng quân tiên phong của quân Vệ bề ngoài ra vẻ đoàn kết một lòng, sau lưng lại không tránh khỏi mưu tính quyền lợi riêng, chỉ là kẻ địch trước mắt, họ đều là người thông minh, chưa ngốc đến nỗi tàn sát lẫn nhau trước sự đe dọa của quân Tấn mà thôi.
Tề Báo nói: “Nguyên soái Hiên Viên, chúng ta vừa quan sát xong tình hình quân Tấn, nghĩ ra một cách phối hợp tấn công quân địch, nay định bàn bạc với nguyên soái coi sao.”
“Hô hô, thế thì tốt quá, Hành cũng định qua mời ba vị tướng quân đến đây cùng bàn đại sự, nào nào, thời tiết lạnh lẽo, chúng ta vào lều ngồi cho ấm rồi hãy từ từ bàn bạc.”
Hiên Viên Hành nói xong liếc mắt về phía Công Tử Triều, hai người là chỗ quen biết khi Tử Triều còn ở Tống, tuy quan hệ giữa họ không được thân thiết lắm, nhưng cũng không phải kẻ thù của nhau, nhưng giờ đây Công Tử Triều đang tối sầm mặt, ánh mắt láo liên không biết đang suy tính việc gì, không thèm chào hỏi người quen cũ một câu.
Hiên Viên Hành chớp chớp mắt, trong đầu vang lên những lời dặn dò bí mật của Nam Tử trước lúc hắn dẫn đại quân lên đường: “Lần này đi sang biên giới Vệ, Tấn, tướng soái quân Vệ bất hòa, đây chính là kết quả tranh đoạt quyền lợi giữa hai phe cánh trong triều đình Vệ quốc, biết chắc là bất lợi cho chiến sự, nhưng cũng không thể không sắp xếp thế này, trận đầu tiên có thể quân ta sẽ gặp bất lợi, nhưng nội loạn đáng lo hơn kẻ địch bên ngoài, một khi thua trận, Vệ hầu có thể nhân cơ hội trị tội Tề Báo, diệt trừ mối đe dọa này, cái này là mượn tay kẻ địch bình định nội loạn, lúc đó Vệ hầu sẽ hạ lệnh cho ngươi thống lĩnh hết liên quân hai nước tái chiến với quân Tấn, ngươi hành sự phải cẩn thận, giữ gìn lực lượng sau này dùng đến.”
“Mạc tướng tuân lệnh.”
“Còn việc này…”
“Mời công chúa cứ nói.”
“Hiên Viên tướng quân, Tử Triều mang nặng dã tâm, lúc ở Tống quốc của ta đã lôi kéo phe cánh, lập mưu nắm giữ triều cương, sau đó trốn sang Vệ quốc, lại nói ngon nói ngọt lấy lòng thương hại của bổn công chúa, lừa lấy lòng tin của ta, giờ có chốn dung thân ở Vệ, hắn cấu kết với bọn gian thần Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, mưu đồ khống chế chính sự Vệ quốc, có người này ở đây, hai nước Vệ, Tống không có tháng ngày yên ổn, hắn lấy thân phận là công tử Tống quốc, nếu gây ra chuyện gì bất lợi cho Vệ hầu, không chỉ hại đến uy tín của bổn công chúa, còn gây bất lợi cho mối liên minh mấy trăm năm của hai nước Vệ, Tống. Ý của quốc quân Vệ hầu và ta là…, tìm cơ hội nào đó, ngươi diệt tên Tử Triều này đi, khi Tề Báo, Tử Triều chết đi, Công Tôn Bạt không còn bị hai tên này chế ngự, sẽ thống lĩnh đại quân Vệ quốc, sát cánh cùng tướng quân chống lại kẻ địch quân Tấn.”
“Công chúa yên tâm, mạc tướng đã ghi nhớ rồi ạ.”
Nghĩ đến đây, Hiên Viên Hành khoái chí mỉm cười, lại đưa mắt liếc nhìn Công Tử Triều một cái.
Công Tử Triều lòng đầy tâm sự, từ khi hắn bị điều ra tiền tuyến, hắn đã biết ý Nam Tử muốn ra tay với hắn rồi. Hồi trước đắc tội với Nam Tử, hắn không thể nào không chịu nhục đưa thân ra mua vui cho Vệ hầu, hy vọng được Vệ hầu giữ cho tính mạng, củng cố địa vị ở Vệ quốc. Không ngờ Vệ hầu Cơ Nguyên hận hắn bắn chết huynh trưởng Công Mạnh Trập, giờ lại nghe theo lời Nam Tử, đem hắn ra làm vật hy sinh nơi trận tiền.
Suốt dọc đường hành quân Công Tử Triều ray rứt không yên, hắn không biết Nam Tử đã nhờ cậy Hiên Viên Hành hay là Công Tôn Bạt, cũng có thể là một tên lính nào đó trong quân đội làm thích khách, càng không biết bọn Tề Báo, Bắc Cung Hỉ có bán đứng hắn hùa theo Nam Tử và Vệ hầu âm mưu hại hắn không? Giờ đây Công Tử Triều ăn không ngon ngủ không yên, ngay cả gió rít chim kêu cũng giật mình sợ hãi, tâm thần hoảng loạn.
Công Tử Triều cúi đầu rầu rĩ theo sau mọi người bước vào trong lều, ngồi xuống mơ mơ màng màng trầm tư một mình, đột nhiên nghe tiếng đập bàn cái rầm, hắn giật mình hoảng hốt, chỉ nghe Viên Hiên Hành nói lớn: “Tốt! Quân ta chia làm hai cánh trái phải, thừa lúc quân chủ lực của Tấn chưa đến đánh phủ đầu cho chúng mất hết nhuệ khí. Tử Triều tướng quân, ngài có ý kiến gì?”
“Hả? À được đấy, rất hay! Tử Triều đồng ý…cứ nghe theo ý kiến của các tướng quân.” Công Tử Triều như bừng tỉnh sau giấc mộng, lắp bắp trả lời.
Hiên Viên Hành vuốt râu, nhướng mày: “Tốt, nếu tất cả mọi người đều đồng ý làm vậy, chúng ta cứ tiến hành thôi. Người đâu, mang bản đồ lại đây, chúng ta bàn chi tiết hơn về kế hoạch tác chiến sắp tới nào!”
Lều chỉ huy của Hiên Viên Hành vừa mới dựng xong, bản đồ chưa được treo lên, hai tên lính cung kính bước vào trải tấm bản đồ rộng ra, các tướng đều bước về phía tấm bản đồ bàn bạc, Công Tử Triều cũng ngơ ngác theo sau, tâm trí hắn lại nhớ về quá khứ trong hoàng cung Đế Khâu…
Hắn mặc một chiếc áo bào trắng, khí khái ung dung, tay cầm cây tiêu bằng tre, đi qua đi lại ở khu vườn thượng uyển, Nam Tử mặt mày tươi tắn, mỉm cười quyến rũ xuất hiện, ánh mắt nàng là tình yêu say đắm và niềm vui kinh ngạc, đó chính là cảnh hắn vừa chạy từ Tống quốc sang Vệ. Bên tai Tử Triều ong ong, các tướng lĩnh đang luận bàn kế hoạch tấn công quân Tấn, âm thanh hỗn tạp lao xao, bọn họ đang nói gì Tử Triều không nghe thấy câu nào cả.
“Ta…rốt cuộc muốn có được gì chứ?” Công Tử Triều tự hỏi trong lòng, nhớ về quá khứ sâu thẳm trong tim, nhớ về Nam Tử, trong lòng trống trải…
“Thùng thùng thùng……” một hồi trống vang lên lanh lảnh, mây lửng lờ trôi, gió rít mạnh từng cơn. Phía trận địa của Khánh Kỵ bày ra năm mươi chiến xa, một ngàn cung thủ, hai ngàn kiếm thủ, hai ngàn trường mâu thủ, sau lưng là núi cao và sơn cốc hiểm trở, dàn trận chuẩn bị nghênh chiến.
Phía bên kia trên một chiếc chiến xa, cắm cây cờ ghi chữ “Hùng” to tướng, Vương Tôn Hùng râu ria khắp mặt đang uy nghi cầm kích đeo kiếm đứng trên đó.
Khánh Kỵ khẽ nhíu mày, tự nhủ: “Lạ nhỉ? Vương Tôn Hùng dẫn quân đến đây lại không tấn công thành trì, chỉ bày trận ra ngoài sơn cốc, ý hắn muốn thế nào đây?”
A Cừu ngồi trên xe, chỉ mặc áo giáp thân trên, bên dưới chỉ là tấm áo vải thô, đeo kiếm ngang hông, trong tay không cầm vũ khí, đang nắm lấy dây cương của bốn con chiến mã phía trước, cười ha hả: “Công tử, còn phải hỏi sao? Tên cẩu tặc Cơ Quang khiếp sợ uy danh của công tử, đâu dám bén mảng tới thành trì của ta chuốc lấy thất bại.”
A Cừu là người điều khiển chiến xa, đừng xem thường hắn chỉ lái chiến xa, thật ra hắn mới là người quan trọng nhất trên đó, một khi đại chiến bắt đầu, hắn phải điều khiển cho tốt cùng lúc mấy con chiến mã, tai phải nghe rõ hiệu lệnh tiến quân rút quân, mắt luôn quan sát diễn biến tình hình trên chiến trường, tránh việc chiến xa đi sâu vào trận địa quân địch không trở ra được, hơn nữa lại không cầm được vũ khí dài hộ thân, vừa vất vả vừa nguy hiểm vô cùng.
Hai phía trái phải Khánh Kỵ đang đứng hai người, bên trái là một thần tiễn thủ, toàn thân mặc giáp, chỉ chừa vai phải ra, tay cầm cung, vai đeo một túi đựng đầy tên, bên phải là Tái Cừu, mặc giáp cầm song kích, phía sau chiến xa không chở theo trống bự, chiếc chiến xa này là để xông pha giết giặc chứ không phải dùng chỉ huy toàn quân.
Khánh Kỵ lắc đầu nguầy nguậy: “Đừng nói bậy, Vương Tôn Hùng trung thành tuyệt đối với Cơ Quang, hơn nữa phiêu dũng thiện chiến, nếu chỉ xét vũ lực cá nhân, hắn không là đối thủ của ta, nhưng chỉ huy quân đội tác chiến, hắn chưa chắc kém ta phần nào đâu. Vương Tôn Hùng dẫn quân đến đây chắc có dụng ý nào đó.”
Tái Cừu kế bên ngạo mạn lên tiếng: “Mặc kệ hắn có dụng ý gì, hắn không tấn công thì chúng ta đánh qua đó, đánh cho hắn tan tác, lúc đó dụng ý gì cũng tiêu tùng.”
Khánh Kỵ cười ha hả, nhíu mày nói: “Tái Cừu à, con người ngươi suy nghĩ đơn giản, nhưng lại là một ý kiến hay. Nếu đã không đoán ra hắn đang có dụng ý gì, chúng ta không đoán nữa, cứ đánh bại hắn rồi tính. Cơ Quang đã ban lệnh xuống, ai giao chiến với Khánh Kỵ ta mà rút lui bỏ chạy, chém! Buông vũ khí đầu hàng, giết cả nhà, nên trận chiến này sẽ ác liệt lắm đây, các ngươi hãy cẩn thận.”
A Cừu nắm chặt dây cương trong tay, lớn tiếng: “Công tử yên tâm, ra lệnh tấn công đi!”
Khánh Kỵ phất tấm áo khoác ra sau lưng, hét lớn: “Tấn công!”
Trên một ngọn núi, Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man đang đứng sát vai nhau theo dõi trận chiến dưới kia, sau lưng hai nàng là hai tì nữ mới tuyển lựa trong tòa thành chiếm được, hai tì nữ cùng ôm một chiếc đàn, cũng dõi mắt về phía dưới núi. Tuy gió lạnh rít mạnh bên người, Thúc Tôn Diêu Quang lại nắm chặt bàn tay đang không ngừng tuôn chảy mồ hôi, miệng lải nhải oán trách: “Thân là chủ tướng, lại đích thân ra trận, bắt chúng ta gảy đàn thổi sáo ở đây, nhìn chàng giết giặc. Thật là tức chết đi được, người ta đang lo lắng, tâm trí nào mà gảy đàn chứ?”
Quý Tôn Tiểu Man đang xoay xoay một cây tiêu bằng ngọc xanh trên tay, lại đang háo hức theo dõi trận chiến, xem ra có vẻ thích thú lắm. Động tác Khánh Kỵ phất áo choàng về phía sau bị nàng nhìn thấy, cất tiếng khen ngợi: “Oa! Động tác này oai phong lẫm liệt, thật là mê người.”
Thúc Tôn Diêu Quang trừng mắt nhìn Tiểu Man, hét lên: “Đừng làm ồn, sắp tấn công rồi đó, chàng thân làm chủ soái lại đích thân dẫn quân ra trận, thật khiến người ta lo lắng.”
Quý Tôn Tiểu Man liếc Diêu Quang một cái, châm chọc: “Chuyện này cũng không biết sao? Đây là trận đầu tiên Khánh Kỵ giao chiến chính diện với quân Ngô, năm ngoái Khánh Kỵ bại trận ở Đại Giang, uy danh bị tổn hại, một năm trôi qua, tướng sĩ quân Ngô càng lúc càng ít sợ hắn hơn, người Ngô không còn e sợ, sau này hắn xua quân phạt Ngô không biết phải phí bao nhiêu sức lực, chết thêm bao nhiêu tướng sĩ, trận chiến này hắn đích thân dẫn quân ra trận, nếu đánh cho quân địch thua chạy tan tác, có thể gầy dựng lại uy danh bất khả chiến bại của hắn trong mắt người Ngô, rất có lợi cho chiến sự sau này.”
“Hứ, công nhận là cô cũng có chút hiểu biết đó.”
Quý Tôn Tiểu Man cười đắc ý, chắp tay: “Quá khen, quá khen, không dám nhận, không dám nhận, ta cũng chỉ nghe Kinh tướng quân nói lại thế thôi.”
Thúc Tôn Diêu Quang nghe xong cảm thấy tức tối, nàng hứ một tiếng rõ to: “Cũng không tệ, cô không chiếm lấy công lao về phía mình.”
Lúc này dưới núi tiếng hò hét vang lên, đại quân của Khánh Kỵ bắt đầu lao lên phía trước, chiếc xa lướt đi băng băng, bụi bay mịt mù, đứng trên núi nhìn xa xa xuống dưới, cứ như một đội thiên binh đang cưỡi mây lướt gió tiến lên.
Thúc Tôn Diêu Quang hồi hộp bấu chặt cánh tay của Quý Tôn Tiểu Man, toàn thân run lên, la lên liên hồi: “Giao chiến rồi, giao chiến rồi, ối, cẩn thận chứ! Sao lại phải lao ra tận phía trước, nguy hiểm quá, sợ quá, cái tên A Cừu đáng chết này, sao lại lao nhanh thế không biết, chiến xa hai bên không theo kịp rồi kìa.”
Quý Tôn Tiểu Man bị bấu vào tay đau điếng, hét lên: “Này, cô bấu ta đau quá, có gì mà phải lo lắng, cô lần đầu thấy người ta đánh trận à, sao sợ đến nỗi trắng bệch ra rồi?”
Thúc Tôn Diêu Quang giờ mới phát hiện ra mình đang bấu chặt tay Tiểu Man, vội hất tay Tiểu Man ra trách cứ: “Cô không có tình cảm gì cả, lúc ở Ngải thành chúng ta đã nói gì nào? Đuổi cô đi thì không chịu đi, còn tưởng là cô thích chàng lắm, bây giờ chàng xông pha trận mạc, sao không thấy cô có chút lo lắng nào hết vậy? Hứ, ta hiểu rồi, dù sao cô và chàng cũng đâu có hôn ước, nếu chàng có mệnh hệ nào, cô mặc kệ cứ đi lấy người khác đúng vậy không?”
Quý Tôn Tiểu Man thương hại nhìn vào Diêu Quang, lắc đầu nguầy nguậy: “Thật không hiểu cô lo lắng cái gì, hắn là ai kia chứ? Đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc đấy! Hắn là Khánh Kỵ chạy nhanh hơn ngựa, nhảy lên túm được chim bay, sức mạnh quật ngã bò tót, hắn ra chiến trường giết giặc có gì mà phải lo lắng, ai chết cũng không đến lượt hắn đâu, hứ bậy quá, không nói đến chết chóc ở đây. Cô đó, làm ta rối cả lên, ta có…lòng tin với hắn.”
Thúc Tôn Diêu Quang trợn tròn đôi mắt, nhìn vào cô bé Tiểu Man đang ngưỡng mộ sùng bái Khánh Kỵ, sau đó lại dõi mắt theo dõi trận chiến dưới kia, tiếng thét vang trời, bụi bay mù mịt, tên bắn như mưa.
Tiểu Man hét lên: “Hứ, điên thật, tên Vương Tôn Hùng đó dám chạy xe lên đơn đả độc đấu với Khánh Kỵ à?”
Ánh mắt của Thúc Tôn Diêu Quang không hề muốn rời khỏi bóng dáng Khánh Kỵ, nhưng nàng quay đầu nhìn theo hướng của Quý Tôn Tiểu Man, chỉ thấy Vương Tôn Hùng đang cầm mâu xông thẳng về phía Khánh Kỵ…
Khánh Kỵ và Vương Tôn Hùng uy nghi đứng trên chiến xa, trừng mắt nhìn nhau, hai người đều mặc giáp da, trên đầu đội mũ giáp bằng đồng, tay cầm trường mâu sắc nhọn, sau lưng hai người bụi bay mịt mù, từng hàng chiến xa điên tiết lao vào nhau.
Chiến xa hai bên tuy lao nhanh về trước, nhưng cũng lấy chiến xa của chủ soái làm trung tâm, tạo thành một đội hình tấn công hình chóp, khoảng cách được thu ngắn lại, khi hai bên chỉ còn cách nhau không quá mười trượng, một trận mưa tên vù vù xé gió bắn vào nhau.
Quân của Khánh Kỵ chiếm giữ vị trí phía Bắc, giờ đang thuận gió, thêm vào đó giữa khe núi sức gió thổi mạnh, tất cả tên bắn ra đều bay xa hơn mạnh hơn phía quân Ngô, sau một trận mưa tên, rất nhiều binh sĩ ngã xuống tử trận.
“Đỡ khiên!” Khánh Kỵ hét lớn ra lệnh, sau chiến xa của hắn các kiếm thủ đồng loạt giơ khiên lên, các tấm khiên được bọc bằng da, tạo thành tấm chắn vững chắc đỡ lấy tên từ phía quân Ngô bắn qua, phía trước đội chiến xa dàn hàng ngang tăng tốc lao nhanh, đồng thời các binh sĩ trên đó dùng binh khí trên tay gạt tên bắn tới.
Chiến xa càng lúc càng gần, chiến mã hí vang, hai bên ập vào nhau…
“Đỡ!” Khánh Kỵ và Vương Tôn Hùng hét lên gần như cùng lúc, tay lăm lăm trường mâu.
A Cừu vận sức vào hai vai, cầm cương quất mạnh vào mông bốn con ngựa chiến, ngựa chiến lồng lên lướt qua chiến xa phe địch, Tái Cừu nhổ lấy một cây trường mâu cắm trên xe, quét thành một vòng tròn lấy thế, chém về phía tên lính Ngô đang điều khiển chiến xa bên kia. Khi hai chiếc chiến xa lướt qua nhau, Khánh Kỵ và Vương Tôn Hùng cùng lúc giơ trường mâu lên, hét to một tiếng, đâm một nhát mạnh về phía đối phương…
Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành
Chương 193: Huyết chiến sa trường
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
“Keng! Chát!” Hai tiếng khô khốc vang dội, hai thanh trường mâu chạm nhau tóe lửa, hai chiếc chiến xa đã xẹt qua, tuy mới giao chiến có một hiệp, Vương Tôn Hùng hai chân run rẩy, lảo đảo đứng không vững trên xe, vội đưa tay bấu chặt thanh gỗ thế mới đứng thẳng được, cánh tay tê tái đau nhói từng chập.
“Lao nhọn!”
Khánh Kỵ và Vương Tôn Hùng lại cùng lúc hét lớn, Tái Cừu cắm lại thanh trường mâu trên tay lên xe, nhổ ra một cây lao dài gần sáu thước, cán tròn như trứng, chĩa từ phía sau hướng về trước, đầu mũi lao sắc nhọn chỉ thẳng vào hàng binh sĩ cầm đoản kiếm đang đỡ khiên theo sau sát chiến xa quân Ngô.
Từ trên đồi cao nhìn xuống, chiến xa hai bên cuốn tung một lớp bụi mù mịt, nhìn như một cơn sóng khổng lồ, gầm thét dữ tợn ập vào phía đối phương, khi chiến xa hai bên từng chiếc từng chiếc lướt qua nhau, cứ như hai luồng sóng lớn đập mạnh vào nhau, bọt sóng bật tung tóe lên cao, trong con sóng mờ mờ ảo ảo ẩn hiện từng lớp chiến xa, từng hàng chiến sĩ, như một dãy đá ngầm nhô lên giữa sóng biển mênh mông.
Hai con sóng va mạnh vào nhau, máu tươi bắn ra nhuộm đỏ cả mặt đất, các binh sĩ đứng trên chiến xa không đâm trúng đối phương bị dính đòn rú lên đau đớn ngã lăn ra, bị chiến xa kéo lê, bị bánh xe nghiền nát, hóa thành mớ thịt bầy nhầy máu me hòa chung với đất đỏ…
Tiếp theo hàng kiếm thủ đụng phải lao nhọn từ chiến xa của đối phương đâm tới, liền bị bật lùi lại mấy mét, dù cho tấm khiên kiên cố thế nào đi nữa, dưới sức công phá từ tốc độ lao nhanh của chiến xa cộng với độ sắc nhọn của cây lao dài, hàng chiến xa va vào hàng kiếm thủ che khiên như cây kim đâm thủng mảnh giấy, các binh sĩ che khiên không phải bị chiến xa hất tung lên trời, thì cả thân người bị lao nhọn đâm xuyên qua ngực lôi theo, rồi sau đó là tên thứ hai, tên thứ ba…, cứ như xiên kẹo hồ lô vậy.
Khi lao nhọn bị chém gãy hoặc chiến xa hết thế lao nhanh không còn tiếp tục đâm tới được nữa, lúc này chiến xa đã lọt vào giữa vòng vây quân địch, bánh xe vẽ theo một vệt máu dài từ từ chạy chậm lại, binh lính trên xe vứt bỏ lao dài, rút kiếm, kích, mâu ra chiến đấu, Khánh Kỵ và Tái Cừu đứng trên xe đâm chém quyết liệt với đám quân Ngô cầm kiếm và trường mâu vây lấy chiến xa. Hàng kiếm thủ và trường mâu thủ bên quân Ngô xông lên huyết chiến với quân chủng cùng loại bên quân của Khánh Kỵ. Khắp chiến trường đều là vang vọng tiếng hò hét xung trận, tiếng giẫm đạp lên nhau, tiếng binh khí va chạm chan chát, tiếng rú lên đau đớn…
A Cừu tập trung điều khiển chiến xa, không ngừng thúc ngựa thay đổi vị trí, chiến xa vừa di chuyển vừa chiến đấu, tránh cho bị bộ binh kẻ địch vây khốn không thoát ra được, đồng thời dáo dác nhìn xung quanh trong thiên binh vạn mã, truy tìm chiến xa của chủ tướng phe địch. Các chiến xa khác bên quân Khánh Kỵ cũng đang cố gắng tiếp cận chủ soái, một mặt chiến đấu với quân địch, một mặt thu ngắn khoảng cách từ từ, tiếp ứng lẫn nhau, tránh bị quân địch tấn công cả trước mặt sau lưng.
Mặc dù là vậy, tấm giáp da dày bốn lớp trên người Khánh Kỵ đã có vài chỗ bị đâm thủng, nhiều vết trầy xướt, may mà có chiến xa hai bên trợ chiến, cung thủ trên xe và Tái Cừu đang điên tiết bắn giết, Khánh Kỵ mới không bị thụ thương. Còn A Cừu điều khiển chiến xa lúc này đã đổi tư thế từ ngồi thành đứng thẳng, một tay giữ chặt dây cương buộc bốn con chiến mã, một tay cầm đoản kiếm, không ngừng “leng keng leng keng” đỡ gạt binh khí của quân địch đâm tới, hai mắt trợn tròn giận dữ, hơi thở phập phù tung cả lọn râu dưới cằm, nhìn bộ dạng còn đáng sợ hơn cả Khánh Kỵ. (Nói thêm: Khi giáp chiến, muốn vô hiệu hóa chiến xa phe địch cách tốt nhất là tiêu diệt người điều khiển xe, vì người điều khiển xe bận đốc thúc ngựa chiến kéo xe, lại không cầm binh khí dài để chiến đấu được, chỉ còn cách cầm đoản kiếm chống đỡ, do đó quân Ngô chủ yếu tập trung tấn công A Cừu, chỉ cần người điều khiển xe bị tiêu diệt, chiến xa không thể chạy tiếp, lúc đó mới bao vây tiêu diệt binh lính trên xe cũng chưa muộn.)
“Phục binh của Lương Hổ Tử đâu rồi, sao giờ này còn chưa xuất hiện?” Thúc Tôn Diêu Quang đứng trên đồi theo dõi trận chiến, dậm chân liên hồi: “Ta phải xuống dưới kia!”
Quý Tôn Tiểu Man điệu đà xoay xoay cây ngọc tiêu trong tay, quay qua hỏi: “Khánh Kỵ dặn chúng ta đứng ở đây xem náo nhiệt, cô xuống núi chẳng lẽ nhìn rõ hơn khi đứng ở đây à?”
Thúc Tôn Diêu Quang nguýt dài: “Đứng xem ở đây, có bằng trực tiếp xuống đó tham chiến rõ hơn không?” Nói xong không chờ Tiểu Man trả lời quay phắt người bỏ đi.
Quý Tôn Tiểu Man chìa môi nhủ thầm: “Hình như cũng có lí, cô cũng không sợ nguy hiểm, chẳng lẽ ta lại sợ?”
Nghĩ vậy Tiểu Man cũng sải bước đuổi theo, hai tì nữ vội ôm đàn bám theo sau.
Khánh Kỵ đứng trên chiến xa, một mặt cầm trường mâu chiến đấu, một mặt đưa mắt quan sát tình hình chiến sự xung quanh. Lúc này binh sĩ hai bên đã lao vào hỗn chiến loạn xạ, tiếng thét của tướng lĩnh không còn nghe rõ được nữa, chỉ dựa vào tiếng trống tiếng chiêng truyền quân lệnh chỉ huy chiến đấu, đám quân Ngô dám liều chết xông vào Khánh Kỵ ít đi thấy rõ, dù sao Khánh Kỵ cũng từng là tướng quân trẻ tuổi oai danh nhất trong quân đội Ngô quốc, với lại hắn có biệt danh “Muôn người khó địch”, binh lính của Ngô vừa kính nể vừa sợ hãi trước Khánh Kỵ, giờ không có tướng lĩnh đốc chiến, đều cố tránh chiến xa của Khánh Kỵ ra càng xa càng tốt, chỉ quay sang chém giết với đám binh lính bình thường, nhờ thế Khánh Kỵ được lơi tay quan sát tình hình trên chiến trường.
Binh sĩ đôi bên hỗn chiến loạn xạ, bộ binh còn giữ được đội hình, chiến xa một khi lao thẳng về phía quân địch đều xông vào trận địa bộ binh đối phương, dàn chiến xa trước quân địch đông đúc không thể quay đầu lại, cứ thế mà tiến lên giết địch, lúc này Vương Tôn Hùng đã dẫn đội chiến xa và bộ binh quân Ngô xông vào đến tận hậu trận của Khánh Kỵ, tương tự Khánh Kỵ và chiến xa của mình cũng đang ở hậu trận quân Ngô, ở giữa là bộ binh của hai bên đang giao chiến ác liệt.
“Thời cơ này tốt lắm. Lương Hổ Tử từ trên cao đánh ập xuống, chắc sẽ chiếm trọn ưu thế.”
Khánh Kỵ vừa nghĩ đến đấy, phía ngang hông chiến trường vang lên tiếng hò hét xung trận. Hai cánh quân đang giao chiến y như hai con sóng mạnh đập vào nhau, bọt sóng tung tóe, ngay bên bìa rừng bên hông đột nhiên có một cánh quân xông thẳng ra lao vào chỗ tiếp giáp giữa hai ngọn sóng, người đi đầu là độc thủ tướng quân Lương Hổ Tử, tay vung thanh kiếm sáng loáng, hai bên trái phải có hai dũng sĩ cầm mâu theo sát, sau lưng Lương Hổ Tử tiếng gào như sấm, đã có mấy trăm người điên cuồng lao ra từ trong rừng, phía sau còn nhiều người liên tiếp ùa ra không ngớt, chẳng biết được hắn có bao nhiêu binh sĩ mai phục tại đây.
Những binh sĩ này đều dùng binh khí thô sơ, xem giống như một thanh gỗ bự, một đầu được bọc bằng đồng, nhưng binh khí này lạ ở chỗ đầu thanh gỗ bự còn tua tủa những chiếc gai nhọn, không dài lắm, chỉ độ nửa thước, những chiếc gai cũng không sắc lắm, vì quá sắc chạm phải áo giáp sẽ bị gãy, những chiếc gai to bè như ngón tay cái, nếu đập vào người thì chắc lủng một lỗ to, sức sát thương không cần nói cũng hiểu.
Đấy chính là lí do Khánh Kỵ trang bị vũ khí do hắn phát minh riêng này cho đám lính mới tuyển mộ, vì sử dụng vũ khí này không cần tập luyện nhiều, chỉ cần có sức khỏe là được, đại đội lang nha bổng được phát huy tối đa sức chiến đấu nhờ vũ khí, đám tân binh mới tuyển lựa là bọn nông dân khỏe mạnh, nếu không thì là bọn lưu manh vô lại hung hăng, tính kỉ luật, tinh thần hợp tác, kĩ năng chiến đấu đều yếu kém, nhưng nếu lựa chọn binh khí phù hợp, thêm vào tính bất ngờ xông ra khi hai bên đang hỗn chiến, trên tay lại cầm binh khí quái lạ có tác dụng uy hiếp tinh thần địch, mỗi khi lang nha bổng to bự được giơ lên đập xuống, những chiếc gai đồng khoan từng lỗ to trên tấm thân tội nghiệp của quân Ngô, máu thịt văng tung tóe, quân Ngô lập tức hoảng loạn.
Cánh quân này phóng chạy như bay, không ngừng phang lang nha bổng túi bụi vào quân Ngô chắn trước mặt, theo chân Lương Hổ Tử điên cuồng lao lên, chỉ một lúc đã chia tách được người ngựa hai bên đang hỗn chiến ra, sau đó quay sang đám quân Ngô bị sót lại không kịp rút lui, phang tới tấp vào đầu vào cổ của chúng, có cánh quân này nhảy vào tham chiến, quân Ngô bị chia cắt ra làm hai, một trăm chiếc chiến xa và số ít bộ binh theo sau của Vương Tôn Hùng bị kẹt lại ở phía hậu quân của Khánh Kỵ, lúc này bị quân Khánh Kỵ bao vây mấy lớp không thoát ra được, cung tên bắn ào ạt về phía ấy, lính Ngô dính tên lăn ra chết như rạ, xong quân Khánh Kỵ lại đồng loạt đâm trường mâu, hoặc đâm người, hoặc nhằm vào ngựa, ngựa chết chiến xa không di chuyển được thành ra vật cản trở, cục diện trận chiến thay đổi rõ rệt, ưu thế lúc này hoàn toàn thuộc về quân của Khánh Kỵ.
Còn bên kia chiến tuyến, mấy chục chiến xa của Khánh Kỵ vẫn giữ được đội hình phối hợp, xông pha vào hậu quân của Vương Tôn Hùng, theo sau là kiếm thủ bám sát chiến xa, tiếp cận đại đội trường mâu của quân Ngô, khi giao chiến gần ưu thế về vũ khí lập tức hiện rõ, nhất là đám lính cầm lang nha bổng do Lương Hổ Tử chỉ huy, cứ giơ lên phang vào đầu lính Ngô, dù cho có đội mũ sắt cũng trào óc ra, đám lính thường đâu được đội mũ sắt bảo vệ, bị đập trúng đầu nát cả sọ, bị đánh trúng thân thì rú lên thảm thiết, trong một lúc tiếng kêu la làm binh sĩ quân Ngô hoảng loạn cả lên, không còn ý chí chiến đấu. Đúng lúc này người bên Khánh Kỵ lại la to danh hiệu của hắn, khơi lại kí ức bị lãng quên về chàng trai đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc của binh lính Ngô.
Quân Ngô bại trận như núi đổ!
Thời hiện đại đã không còn cảnh tác chiến tập hợp mấy vạn người chen chúc chém giết nhau trên chiến trường chật hẹp, trong điện ảnh cũng hiếm khi lột tả được cảnh chân thật của chiến trận, nên khó mà tưởng tượng được cảnh bại trận như núi đổ của quân Ngô lúc này là như thế nào? (Câu này tác giả tự phân bua chăng?)
Binh sĩ là lá gan của tướng, tướng là linh hồn của binh sĩ, một khi chia cắt binh sĩ và tướng chỉ huy ra, binh sĩ có đông cũng như một nhúm cát rời rạc, nếu thống soái phe địch vốn là người mà binh sĩ e sợ tận đáy lòng, bị tấn công mạnh mẽ sẽ khiếp sợ hơn gấp bội, trong trận chiến hôm nay, không biết là ai dẫn đầu bỏ chạy, chỉ thấy quân Ngô như gặp cơn đại dịch lan tỏa, rất nhanh, binh sĩ phía Ngô mất hết ý chí chiến đấu quay đầu cắm cổ chạy như điên.
Khánh Kỵ cầm mâu oai vệ đứng trên xe, ra lệnh nổi hồi chiêng dừng truy đuổi, cho dù là vậy, đám lính mới của Lương Hổ Tử xưa nay quen thói hung hăng, lại không có ý thức gì về kỉ luật quân đội vẫn điên cuồng truy sát quân Ngô, phải mất hồi lâu mới chịu dừng lại. Khánh Kỵ quay đầu lại nhìn về hậu quân của mình, một trăm chiếc chiến xa của Vương Tôn Hùng bị bao vây túm tụm lại một chỗ, ra sức chống đỡ một cách tuyệt vọng từng lớp từng lớp binh sĩ không ngừng lao lên của Khánh Kỵ. Nhìn cảnh tượng ấy, như một tảng đá ngầm nhô lên giữa biển khơi, bị từng đợt sóng trắng xóa vỗ ập vào, lúc ẩn lúc hiện.
Khánh Kỵ không nhịn được nỗi vui mừng, trên môi nở một nụ cười mãn nguyện.
Vào thời này, muốn phân biệt thành phần trong quân đội là rất dễ. Lúc đầu, những người có tư cách mặc áo giáp lên chiến trường chiến đấu, chỉ có quốc dân và quý tộc, quốc dân chính là người ở trong thành thị, còn bọn nông dân chân đất quê mùa, gọi là dã nhân, họ không có tư cách đi đánh trận. Sau này, quy mô chiến tranh ngày càng mở rộng, dân nông thôn cũng bị triệu tập vào quân đội trở thành binh sĩ, nhưng quý tộc, quốc dân, dã nhân có sự phân chia giai cấp rõ ràng, binh lính có tư cách cưỡi chiến xa ra trận, đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc, binh lính theo sau chiến xa hỗ trợ tác chiến thì là quốc dân có khả năng chiến đấu cao, có nghĩa là bây giờ quân Ngô bị cắt làm đôi, đám quân Ngô đang bị vây khốn ở hậu quân Khánh Kỵ mới chính là cánh quân chủ lực tinh nhuệ thật sự.
Đám lính mới cầm lang nha bổng đang truy đuổi quân Ngô bỏ chạy không nghe theo hiệu lệnh lui quân, nhưng cũng không dám chống lại đội chiến xa của Khánh Kỵ, đợi khi mấy chục chiếc chiến xa của Khánh Kỵ chạy tới trước mặt quát tháo, đám lưu manh vô lại đang hăng máu này mới chịu dừng lại, kéo lê lang nha bổng dính bê bết máu thịt quay về, trên đường đi tiện thể cúi xuống thu lụm của cải trên xác chết nằm la liệt trên chiến trường.
Đám lính chịu rời bỏ quê hương tòng quân này, cho dù là nông dân chân đất, hay là dũng sĩ các nước chư hầu đến đầu quân, tất cả đều là bọn hung hăng, nếu ở thành thị thì trong mắt dân lành họ chẳng qua chỉ là một đám lưu manh vô lại, nhưng trên chiến trường khốc liệt, họ lại trở thành những chiến sĩ trời sinh, thắng lợi trong trận chiến hôm nay, phần lớn được quyết định bởi tính hung bạo của đại đội lang nha bổng này.
Đại đội lang nha bổng từ từ tập hợp lại, dán mắt vào chiến xa quân Ngô đang vất vả chống trả giữa vòng vây, hai mắt chúng lộ rõ tia sáng tham lam. Họ biết những binh lính Ngô đang cưỡi chiến xa kia xuất thân tầng lớp quý tộc, đó mới là người giàu thật sự, tuy khi ra trận không ai mang theo của cải bên mình, nhưng bao nhiêu binh khí, áo giáp, ngọc bội, tất cả đều rất có giá trị, đám lính hung hăng này thèm thuồng nắm chặt lang nha bổng trong tay, ánh mắt háo hức trông theo thống soái của họ - Độc thủ tướng quân Lương Hổ Tử.
Khánh Kỵ đã đánh xe quay về, lúc này Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man vừa từ trên núi đi xuống. Nhìn thấy hai người, Khánh Kỵ chau mày nói: “Hai nàng sao lại xuống đây? Cứ đứng phía sau chờ đợi, đừng lại gần.”
Dứt lời Khánh Kỵ quay đầu trở lại chiến trường, đứng trên xe hắn nhìn rất rõ, phía không xa đằng kia là chiến xa của Vương Tôn Hùng. Chiến xa đó sắp xông qua hậu quân quay đầu lại, nhưng nay bị đại đội lang nha bổng của Lương Hổ Tử chặn mất đường lui, không nhận được tiếp viện bị bao vây ở giữa, tiến không được lùi cũng không xong, hình như bánh xe của hắn đã bị phá hỏng, lọt thỏm vào hố cát không nhúc nhích được.
Vương Tôn Hùng xem ra cũng có tài chỉ huy, trong lúc lòng quân hoang mang vẫn ra lệnh cho mười mấy chiến xa lại gần, sau đó liên kết đống chiến xa lại với nhau, tạo thành một lá chắn, tất cả binh sĩ đều nhảy xuống xe, trong cùng là cung thủ, bên ngoài là kiếm thủ trường mâu phối hợp với nhau, tạo thành một đội hình phòng thủ liên hoàn chặt chẽ, bọn chúng không ai hò hét, chỉ cắn rắn im lặng tập trung chống trả.
“La to lên, bảo chúng đầu hàng, sẽ được tha mạng!” Khánh Kỵ chăm chú nhìn trong giây lát, hạ giọng ra lệnh.
Tái Cừu lập tức dẫn theo mấy mươi binh sĩ la to mệnh lệnh của Khánh Kỵ, nhưng câu trả lời chỉ là tiếng binh khí leng keng chống cự, một vòng tròn lớn đang vây lấy một vòng tròn nhỏ bên trong, xen giữ hai vòng tròn là một khoảng không hẹp cho binh khí chạm nhau, binh sĩ hai bên đột nhiên im bặt chăm chú chiến đấu, giờ chỉ còn nghe thấy tiếng binh khí va nhau, máu văng tung tóe, người bị đâm trúng nhanh chóng đổ rạp xuống, trở thành miếng giẻ bị xung quanh xông vào giẫm đạp lên để lấp vị trí, ngoại trừ tiếng binh khí, hơi thở hổn hển như trâu của các binh sĩ vang tận bên tai Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ nhắm nghiền mắt, thở dài một hơi.
“Công tử, bọn chúng đã quyết tâm chống cự đến cùng, hơn nữa, lão tặc Cơ Quang đã có lệnh, họ cũng không thoát được đâu, tuyệt đối không dám buông vũ khí đầu hàng. Xin công tử đừng mềm lòng.”
Tái Cừu sợ Khánh Kỵ thương hại quân Ngô, sẽ mở một con đường sống cho đám quân địch hung hăng này. Nghe Khánh Kỵ thở dài, vội lên tiếng nhắc nhở.
“Ta biết.”
Khánh Kỵ nhảy phóc xuống xe, đến bên Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man, âu yếm hỏi: “Chiến trường máu me thế này, không sợ à?”
“Chàng nếu đi giết người, thiếp sẽ theo chàng đi giết người!”
Khánh Kỵ ngớ người, sau đó nở một nụ cười mãn nguyện. Hắn đương nhiên còn nhớ, lúc đó hắn thắng được Thúc Tôn Diêu Quang làm tì nữ của hắn, sau đó sứ giả của Ngô quốc đến Lỗ, Quý Tôn Ý Như có ý e dè, muốn đuổi hắn ra khỏi Lỗ quốc, trong hoàn cảnh nguy nan, nàng đã bày tỏ tấm lòng với một vương tử lưu vong như hắn.
Tiếng binh khí va nhau văng vẳng không ngớt, gió lạnh rít vào trong khe núi, mang theo hơi lạnh từ phương Bắc, tà áo nhuốm máu đỏ của Khánh Kỵ bị gió thổi phất phơ. Khánh Kỵ nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của Thúc Tôn Diêu Quang, quay qua ra lệnh: “Không chịu đầu hàng thì giết sạch, chỉ để lại một mình Vương Tôn Hùng.”
Hai huynh đệ A Cừu, Tái Cừu mở to mắt ra đợi lệnh, khi Khánh Kỵ vừa dứt lời, hai người vội mở miệng hô tuân lệnh rồi chạy đi sắp xếp.
“Ta từng nghe nàng đánh đàn chưa nhỉ?”
“Chàng nói thử xem?”
“Ừm…Hình như là chưa, ta chỉ mới nghe nàng hát.”
Thúc Tôn Diêu Quang cảm thấy lạ: “Có chuyện này ư? Thiếp từng hát cho chàng nghe rồi à?”
Khánh Kỵ nhướn người về phía trước, đặt cằm vào bờ vai thon thả của Diêu Quang, nói nhỏ bên chiếc tai nhỏ nhắn xinh xinh của nàng: “Tất nhiên là có, lúc ở Phí thành, trong tẩm thất của nàng, nàng ứ a ứ a…”
“Bốp!” Lưng Khánh Kỵ bị Diêu Quang vỗ mạnh, nàng đỏ mặt nhìn hắn, đôi mắt e thẹn, chớp chớp liên hồi.
Khánh Kỵ cười ha hả khoái trá, đứng thẳng người ung dung nói: “Ra đại sảnh, vào tẩm thất, lên chiến trường, nữ nhân thế này biết tìm đâu ra? Ha ha, còn nhớ khúc nhạc Bạch thủy thao thao không? Đàn cho ta nghe, thế nào?”
“Được!” Thúc Tôn Diêu Quang nở một nụ cười dịu dàng với Khánh Kỵ.
Tiếng đàn thánh thót vang lên trên chiến trường tràn ngập sát khí, len lỏi giữa ngàn vạn binh sĩ đang hăng say chiến đấu, trong một lúc như át đi mùi tanh của máu, át cả tiếng leng keng khô khốc khi binh khí va nhau.
“Thao thao bạch thủy, bạch thủy thao thao, nam nhi chí khí, vút cao trời xanh, tráng chí chưa thành, khó mà tiêu diêu. Thao thao bạch thủy, bạch thủy thao thao, nam nhi chí khí, vút cao trời xanh, tráng chí chưa thành, khó mà tiêu diêu…”
Khánh Kỵ ngẩng đầu lên nhìn vào bầu trời bao la trên chiến trường, khúc nhạc như một dòng sông nhỏ róc rách len lỏi trong tim hắn, tâm trí vượt qua thiên sơn vạn thủy, giờ đã bay cao bay xa tận bầu trời Ngô quốc: Tôn Vũ, Anh Đào, các ngươi hiện giờ…đã tấn công vào Ngô hay chưa?
Quý Tôn Tiểu Man hai mắt ngấn lệ lầm lủi bước sang một bên, nàng không chịu thừa nhận thấy cảnh Diêu Quang và Khánh Kỵ âu yếm, trong lòng cảm thấy không vui. “Vì gió ở đây thổi mạnh, nên cát bay vào mắt, nhất định là vì lí do này.” Tiểu Man đang tự an ủi trong lòng.
Nàng đưa tay vuốt ve cây tiêu ngọc giắt ở dây lưng , tuy nàng muốn lập tức chứng minh cho Khánh Kỵ thấy, thật ra tài thổi sáo của nàng hay hơn gấp vạn lần tài đánh đàn của Thúc Tôn Diêu Quang, nhưng hiện giờ Tiểu Man lại không muốn cùng hòa tấu với tiếng đàn của Diêu Quang chút nào.
Đưa mắt dáo dác nhìn xung quanh, Tiểu Man phát hiện trên một chiếc chiến xa ngã chổng bánh có treo mớ bùi nhùi gì đó, thì ra là một tấm lưới. Nàng lại gần thu tấm lưới trong tay, nhón gót nhìn Vương Tôn Hùng thọ thương ở vai, đang điên cuồng chống cự như một con hổ bị dồn vào đường cùng, nắm chặt Hàm Quang kiếm trong tay, Tiểu Man đột nhiên nhảy vút lên không trung, nhẹ tựa chim én, lao về phía ấy…
Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành
Chương 194: Tiết lộ bí mật
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
“Vương Tôn Hùng.”
“Tam vương tử.”
“Hô hô, ngươi còn nhận ra ta là vương tử à?”
“Thân phận vương tử khắp thiên hạ đều biết, thần sao dám không nhận?”
Sắc mặt Khánh Kỵ trầm xuống, hét hỏi: “Nếu ngươi đã nhận ta là vương tử, sao còn giúp tên nghịch tặc Cơ Quang?”
Vương Tôn Hùng tuy áo giáp rách bươm, trên người vẫn còn bị tấm lưới chụp lấy, dáng vẻ thảm hại, nhưng lại hiên ngang ngẩng cao đầu, lạnh nhạt: “Tiên vương Thọ Mộng có bốn vương tử, Chư Phàn, Dư Tế, Di, Quý Trát. Tiên vương có ý truyền ngôi cho Quý Trát, vì Quý Trát từ chối nên ba vị vương tử lần lượt nối ngôi, cho đến khi tổ phụ của ngài lên ngôi, Quý Tử vẫn chưa chịu kế thừa vương vị, ngôi vị theo thứ tự trưởng thứ, phải nên do đương kim đại vương con trai của Chư Phàn kế thừa, nhưng tổ phụ ngài lại truyền ngôi cho phụ vương ngài, chủ ta chỉ lấy lại ngôi vị vốn thuộc về mình, sao có thể gọi là nghịch tặc?”
“To gan!” A Cừu đá vào sau gối Vương Tôn Hùng, hắn vừa bị đá quỳ xuống lập tức đứng bật dậy, ngạo mạn nhìn vào Khánh Kỵ, không hề sợ sệt.
Khánh Kỵ cười khẩy, phản bác: “Thứ tự trưởng thứ ư? Ngươi cũng đã nói tiên vương Thọ Mộng có bốn vương tử lại có ý truyền ngôi cho tứ vương tử Quý Trát, thế thì đâu có thứ tự trưởng thứ gì ở đây, lúc đó ngôi báu có phải là chắc chắn thuộc về con trưởng đâu? Quý Tử không chịu lên ngôi, ba vương tử còn lại lần lượt kế thừa vương vị, đó đều là ý của tiên vương, phù hợp lễ pháp. Phụ vương ta kế vị, là nghe theo di mệnh của tiên vương, giao phó quốc gia vào tay người nào, đó phải là di mệnh của tiên vương hợp pháp đời trước, không phải là món hàng tùy ý chuyển nhượng, sao lại nói vốn thuộc về Cơ Quang hả? Tiên vương đã lập thái tử, danh phận quân thần đã định, Cơ Quang sai thích khách giết vua, ngươi có nói cho trời đổ ập xuống, cũng không che đậy được sự thật giết vua đoạt ngôi này.”
Vương Tôn Hùng hứ một tiếng rõ to, ngẩng cao đầu nói: “Vương vị Ngô quốc, vốn là chuyện của Cơ thị Ngô quốc, ai đúng ai sai không liên quan đến Vương Tôn Hùng. Vương Tôn Hùng là tướng lĩnh dưới trướng Ngô vương Hạp Lư, bổn phận phải ra sức vì đại vương, đến chết mới thôi.”
Khánh Kỵ cười to: “Ha ha, ngươi đuối lí rồi phải không? Nên mới nói ra những lời đứng về phía thân thuộc chứ không đứng về phía lí lẽ. Vương Tôn Hùng, hôm nay ngươi dẫn quân tiến về thành Na Xứ của ta, Cơ Quang phái ngươi đến là có ý gì? Chỉ với số binh mã của ngươi, nếu ta thủ thành, ngươi khó tiến thêm bước nào, giờ ta chủ động ra thành ứng chiến, vẫn cứ đánh cho ngươi bại trận tan tác. Ta cứ cho rằng ngươi có quân mai phục, để đề phòng bất trắc, còn sai Kinh Lâm dẫn quân phòng bị, không ngờ quân của ngươi chạy mất dạng, không hề thấy một binh một tốt tới cứu viện, Cơ Quang bảo ngươi tới nộp mạng đó hả?”
Vương Tôn Hùng lại hứ một tiếng, uất hận mà nói: “Vương Tôn Hùng tưởng điện hạ không biết thực hư quân ta, trong một lúc không dám ra thành ứng chiến, nên mới không hề chuẩn bị, nếu không sao để ngài dễ dàng chiến thắng? Thôi vậy, việc đã đến nước này, nói nhiều vô ích, điện hạ muốn giết thì cứ giết, Vương Tôn Hùng mà chau mày thì không là hảo hán.”
Khánh Kỵ cười khoái trá: “Ta giết ngươi có ích gì? Cơ Quang tàn bạo, dùng quân luật hà khắc trị quân còn sợ chưa đủ, còn dùng cả nhà lớn bé thân thuộc vô tội của quân sĩ ra làm con tin, đấy không phải là chủ nhân tốt. Nếu đã phạt Sở chiếm cứ Dĩnh Đô thành công, có được kỳ công này lại không biết xuôi theo thời thế, chiêu dụ người Sở, tầm nhìn hạn hẹp, chỉ biết làm cường đạo giết người cướp của, hãm hiếp nữ nhân, đấy không phải là đấng minh quân. Tướng quân thần dũng, Khánh Kỵ xưa nay kính phục, sao cứ phải theo hầu hôn quân tàn bạo này chứ? Tướng quân nếu chịu quy thuận Khánh Kỵ, không những giữ được tính mạng, sau này vinh hoa phú quý, phong hầu bái tước, dễ như trở bàn tay, tướng quân có đồng ý không?”
Vương Tôn Hùng hít một hơi dài, mái tóc rối tung phấp phơ trong gió, hai mắt bắn ra tia nhìn kiên quyết, hiên ngang nói: “Đa tạ ý tốt của điện hạ, Vương Tôn Hùng đã bái đại vương làm chủ nhân, sao lại có thể tham sống sợ chết đầu hàng người khác? Nếu giờ ta làm vậy, điện hạ không sợ sau này ta lại vì muốn được tính mạng đầu hàng kẻ khác ư? Điện hạ không cần nhiều lời, xin hãy cho Vương Tôn Hùng được toại nguyện.”
Khánh Kỵ trừng mắt nghiêm nghị: “Ngươi không chịu đầu hàng thật ư?”
“Xoạt, xoạt!” Hai tiếng gỏn lọn vang lên, hai thanh đao sáng choang lập tức được kề vào cổ Vương Tôn Hùng, hắn không hề tỏ ra sợ hãi, ngước cổ lên nhắm nghiền mắt, ảm đạm cất tiếng: “Không cần nhiều lời, muốn giết cứ giết!”
“Ha ha, quả nhiên là một trang hảo hán!” Khánh Kỵ khen xong, lắc đầu than thở: “Ta có thể không giết Yêu Ly, sao lại nỡ giết ngươi chứ? Hây! Chỉ là tiếc cho một trang nam tử hán nhà ngươi, lại ra sức cho tên nghịch tặc Cơ Quang tàn bạo, tiếc thay, tiếc thay…”
Vương Tôn Hùng nổi giận đùng đùng: “Điện hạ muốn giết ta thì cứ việc ra lệnh, hà tất sỉ nhục đại vương.”
Khánh Kỵ nhìn chăm chú vào hắn hồi lâu, Vương Tôn Hùng không hề né tránh tia nhìn của Khánh Kỵ, Khánh Kỵ lại mỉm cười, xua tay: “Khá lắm, quả nhiên là anh hùng, thả hắn ra!”
“Cái gì?” Tướng lĩnh xung quanh đồng loạt kêu lên.
Khánh Kỵ không hề chớp mắt, nói giọng đều đều: “Ta nói, thả hắn ra, đây là quân lệnh!”
“…Tuân lệnh!” A Cừu, Tái Cừu cố chế ngự cơn giận, xua tay cho hai tên lính kề đao vào cổ Vương Tôn Hùng lui xuống, Vương Tôn Hùng ngớ người ra giây lát, vẻ mặt nghi ngờ hỏi: “Điện hạ…muốn thả ta đi?”
Khánh Kỵ hứ một tiếng: “Ngươi không chịu đầu hàng, giữ lại trong quân ta để tốn cơm gạo à? Biến, mau biến cho ta!”
Vương Tôn Hùng bước lùi hai bước, ánh mắt dò xét một lượt, sau đó đứng thẳng người, chắp tay vái lạy Khánh Kỵ một cái, quay sang phía Quý Tôn Tiểu Man đang đứng gần đó, lên tiếng hỏi: “Xin hỏi cao danh quý tánh của cô nương là gì?”
Vừa nãy giao chiến, hắn tuy bị Quý Tôn Tiểu Man chụp lưới bắt giữ, nhưng cũng đâm một mâu hất tung mũ sắt của Tiểu Man, nhìn thấy búi tóc của nàng đã biết đây không phải là một thiếu niên, mà là một cô nương chưa được hứa gả cho ai.
Quý Tôn Tiểu Man vênh mặt khoái chí, đáp lời: “Lỗ nhân Quý Tôn Tiểu Man, thế nào, ngươi không phục kiếm pháp của ta hử?”
Vương Tôn Hùng mỉm cười: “Kiếm thuật của cô nương kỳ lạ, Vương Tôn Hùng mới gặp lần đầu, trong lòng rất là khâm phục, hôm nay bị cô nương bắt giữ, hy vọng sau này trên sa trường, Vương Tôn Hùng lại có cơ hội tiếp chiến cô nương. Xin phép cáo từ!”
Dứt lời, Vương Tôn Hùng quay phắt người bước đi, cũng không nói thêm lời nào với Khánh Kỵ. Khánh Kỵ quả nhiên không sai người ngăn cản, nhìn trừng trừng dõi theo Vương Tôn Hùng đi xuyên qua từng lớp từng lớp binh sĩ đội ngũ chỉnh tề, hiên ngang bỏ đi.
“Này!” Quý Tôn Tiểu Man quay sang Khánh Kỵ, mở to đôi mắt đen láy, vẻ hậm hực: “Ngài hay nhỉ, người ta phí bao nhiêu công sức, còn sém bị hắn đâm chết mới bắt được hắn, ngài sao lại thả cho hắn đi? Người này cứng đầu như trâu, sau này chắc chắn sẽ lại đối địch với ngài đó.”
Khánh Kỵ dõi theo bóng dáng Vương Tôn Hùng giờ đã đi xa, ánh mắt sáng lên, nói: “Ta biết, nhưng giết một mình hắn có ích gì? Chi bằng thả cho hắn về, lại làm nguôi ngoai cơn giận của người Ngô, đập tan sĩ khí chiến đấu của chúng. Cơ Quang đã có lệnh, ai rút lui bỏ chạy, giết! Ai buông vũ khí đầu hàng, giết cả nhà! Vừa nãy các binh sĩ bỏ chạy, không biết hắn có giết hay không? Vương Tôn Hùng là ái tướng của Cơ Quang, lần này đại bại, tổn thất nghiêm trọng, không biết hắn có giết hay không?
Lần này thảm bại, không phải tướng sĩ của Vương Tôn Hùng không nghe lệnh liều chết, nếu giết cả sẽ làm tướng sĩ quân Ngô sợ hãi, một khi nắm bắt thời cơ không đúng, còn có thể ép quân Ngô tạo phản, còn nếu không giết, quân lệnh của hắn nói ra không thực hiện, sau này quân Ngô giao chiến với ta, chắc sẽ không ngoan cường chống cự như hôm nay nữa.”
“Ơ…” Quý Tôn Tiểu Man kể ra cũng hiểu chuyện, nghe lời Khánh Kỵ giải thích, lập tức hóa giận thành vui: “Không ngờ chỉ một tên tù binh mà có tác dụng lớn thế này, ngài lợi hại quá!”
Khánh Kỵ mỉm cười khoái trá: “Ha ha, điều đó đương nhiên, cho dù là một hòn đá, ta cũng bắt nó chảy dầu ra… (1) À phải rồi, nàng đừng lái sang chuyện khác!”
Khánh Kỵ làm mặt giận, hỏi: “Ai cho nàng ra tay hả? Nếu không may nàng bị thương thì ta sao ăn nói với Quý thị Lỗ quốc? Còn nữa, Vương Tôn Hùng hỏi tên nàng, sao nàng lại nói cho hắn biết?”
Quý Tôn Tiểu Man bị Khánh Kỵ trách mắng giữa chốn đông người, khuôn mặt đỏ chít vì xấu hổ, phụng phịu: “Lại là ta không đúng ư? Tên của bổn cô nương đây xấu lắm hay sao mà không nói cho người khác biết được chứ?”
“Đương nhiên là không nói ra được rồi! Hừ, bây giờ khắp thiên hạ không ai không chú ý chiến sự ở Sở quốc, Vương Tôn Hùng quay về nói ra, lúc đó khắp thiên hạ đều biết Lỗ nhân Quý Tôn Tiểu Man đang ở trong quân Khánh Kỵ ta, Lỗ quân và Quý Tôn Ý Như mà nghe nói thì…”
“Chết rồi!” Quý Tôn Tiểu Man nhảy dựng lên hốt hoảng, sau đó xoạt một cái rút kiếm ra, nhón chân nhìn dáo dác xung quanh, Khánh Kỵ thấy bộ dạng của nàng ta, cảm thấy kỳ lạ hỏi: “Nàng làm gì vậy?”
“Mau tìm cho ta một chiếc chiến xa.”
“Nàng muốn bỏ trốn? Trốn đi đâu chứ?”
“Hứ! Đã trốn đến tận Sở quốc rồi, còn trốn được đi đâu nữa? Chẳng lẽ trốn vào bộ lạc của người Tây Địch à? Ta phải đuổi theo tên Vương Tôn Hùng mới được ngài thả ra, giết người diệt khẩu.”
----------------------------
(1) Vắt dầu từ đá: Đây không phải là một lời nói bâng quơ của Khánh Kỵ mà là một câu nói lịch sử của nhà hóa học F. Bergius (1884 - 1949) người Đức. Khi còn bé Bergius tuy chỉ chơi bời lêu lổng nhưng lại hay tỏ ra hiểu biết và lừa cô bạn gái của mình rằng “Anh có thể ép dầu ra từ đá”, về sau khi cô gái lớn lên nhận ra bản chất của Bergius thì cô quay lưng lại với ông. Bergius đau khổ và lao đầu vào học, cuối cùng ông chứng minh được rằng: Đúng là có thể ép dầu ra từ đá! Từ trong than luyện chế thành nhiên liệu lỏng!
Ông nhận được giải Nobel hóa học, khi đứng trên bục nhận giải, Bergius lại hồi tưởng tới người bạn gái thuở nào.
Chỉ tiếc rằng nàng đã qua đời, không kịp nhìn thấy thành công của ông.
“Thì ra Cơ Quang muốn nhân lúc các cánh quân cần vương của Sở chưa ổn định, tấn công Quyền Ấp, lại lo lắng chúng ta và người Sở đưa tin lẫn nhau, sợ ta xuất binh cứu viện, nên mới phái Vương Tôn Hùng dẫn quân từ Ngư Phản đến đây, khống chế quân ta hành động. Chỉ là hắn không ngờ tới ta đang định mượn trận chiến này lập uy, lại chủ động xuất kích, đánh cho Vương Tôn Hùng không kịp trở tay. Thế nhưng…Quyền Ấp bị quân Ngô chiếm giữ, sẽ gây bất lợi lớn cho quân ta đấy.”
Khánh Kỵ nhíu chặt mày nghiêm nghị: “Từ mục đích này mà nói, quân Ngô tuy bại trận, thật ra chúng vẫn chiếm phần thắng.” Khánh Kỵ bước đến bức bản đồ chỉ lên đó, nói: “Các ngươi xem, phía trước mặt chúng ta là Dĩnh Đô, mặt phải là Quyền Ấp, mặt trái là Ngư Phản. Hai cánh quân từ Quyền Ấp và Ngư Phản của Cơ Quang kẹp chặt chúng ta ở giữa, chúng ta muốn tấn công Dĩnh Đô, lúc nào cũng phải phòng bị hai bên hông, sợ quân Ngô tập kích, còn nếu chúng ta tấn công một phía, cánh quân khác của chúng sẽ chặn hướng rút lui của ta, nếu ta chia quân hai ngả cùng lúc tấn công quân địch hai cánh, binh lực có đủ hay không còn chưa biết, với lại quân Ngô ở Dĩnh Đô lúc nào cũng có thể tăng viện, khó lắm đây.”
Yểm Dư công tử gật gù: “Đúng vậy, quân địch ở Quyền Ấp, đóng gần con sông Bá Tân của chúng ta, sau này chúng ta phải cẩn thận đề phòng bọn chúng. Theo tình hình này ta không khinh suất hành động được rồi, tiên phong của quân Sở bị xơi mất một nửa, tàn quân của họ hiện đang đóng tại sông Dư La, đợi đại quân của tướng quân Tử Tây đến phối hợp, chúng ta cũng phải chờ đợi, chỉ cần đợi đại quân của người Sở đánh đến chiếm giữ nơi trọng yếu, đánh lủng một chỗ trong lá chắn phòng ngự của Cơ Quang, chúng ta mới có thể hành động.”
Khánh Kỵ gật đầu đồng ý: “Ừ, giờ thứ quan trọng nhất chính là tin tức, nhưng giờ đây nước Sở hỗn loạn khắp nơi, tin tức truyền đưa khó khăn, quân đội của phe địch và phe ta lại phân bố đan xen lẫn nhau, trong lúc này khó thiết lập một nơi đưa nhận tin cố định, chỉ có thể phái ra thám mã ước lượng vị trí và quân số của kẻ địch, khó nắm được thông tin tình báo có giá trị hơn thế.”
Lương Hổ Tử ngao ngán góp lời: “Thế cũng hết cách, quan lại cai quản của người Sở xung quanh đây người thì bỏ trốn, người thì chết mất tiêu, cơ sở cai trị của người Sở ở khu vực này đã bị tê liệt, muốn kịp lúc thu nhặt thông tin tình báo, e là ngay cả quân Sở cũng không làm được, nói gì đến đám người ngoài như chúng ta đây.”
Khánh Kỵ khẽ gật đầu: “Đúng vậy, muốn kịp thời truyền tin và thu nhặt thông tin tình báo cần đặt một địa điểm thỏa thuận cố định, hiện nay chúng ta không làm được chuyện này, nhưng người của Cơ Quang cũng không làm được giống ta, thế mới nói, về mặt này, ta và địch không ai chiếm ưu thế.”
Khánh Kỵ bước về chỗ ngồi xuống, nói tiếp: “Nếu đã là vậy, đối địch với Cơ Quang, ta vẫn có lòng tin, giờ điều ta lo lắng chính là phía bên Ngô quốc kìa.”
Hắn ngẩng đầu lên, tầm mắt như nhìn xuyên qua bức vách, hướng về nơi xa xăm ngoài kia: “Truyền đưa tin tức là một vấn đề khó khăn, không thể kịp thời biết được tình hình bên Chúc Dung hoàng thúc và Tôn Vũ, Anh Đào thế nào, chúng ta không phối hợp nhịp nhàng tác chiến với họ được. Bây giờ quân trấn giữ ở Ngô quốc tuy không nhiều, nhưng dù sao chúng cũng chiếm trọn ưu thế địa lợi nhân hòa, cũng may có Chúc Dung hoàng thúc ở trong quân, ít nhiều cũng vớt vát được chút giúp sức trong quân Ngô, điều chúng ta có thể làm bây giờ là chế ngự đại quân của Cơ Quang, một khi phía Chúc Dung hoàng thúc tập kích thành công, đoạt lấy Cô Tô thành, lúc đó tín sứ của ta và của Phù Sai sẽ cùng lúc chạy sang Sở đưa tin, thắng thua là vào lúc ấy, chính là lúc quân đội của ta chạy đua với quân đội của Cơ Quang, xem ai sớm quay về Ngô quốc trước tiên.”
Nói đến đây, Khánh Kỵ ngập ngừng giây lát, cười chua chát: “Cho nên dù cho Chúc Dung hoàng thúc có thuận lợi chiếm giữ Cô Tô thành, cũng không chắc chắn chúng ta giành được thắng lợi, mà phải xem tín sứ của phe nào tới trước, ai quay về Ngô quốc trước tiên. Trong tình cảnh tin tức truyền đi chậm chạp khó khăn thế này, phải phối hợp tác chiến từ xa đúng là xưa nay mới xuất hiện lần đầu. Có nhiều khi, thắng bại lại được quyết định bởi ý trời…”
Cô Tô thành mới được xây dựng không lâu, bá tánh và các hộ giàu có trong thành đều di cư từ khắp mọi miền đến đây. Nằm ở vị trí trung tâm Cô Tô thành, hoàng cung Ngô quốc giống một tòa thành nhỏ nằm trong tòa thành lớn, tuy không nguy nga tráng lệ như hoàng cung của các nước chư hầu trung nguyên, nhưng nhìn vào cũng khá là hùng vĩ.
Một con tuấn mã phi từ trong hoàng cung ra ngoài, phía trước là đội xe ngựa được cấm quân và thái giám hộ tống đang đi vào trong cung, trên xe chất đầy ngọc ngà châu báu, gấm vóc lụa là, vàng bạc vũ khí lấy từ Dĩnh Đô Sở quốc, giờ đã được vận chuyển từ Sở về, số của cải này nhiều gấp ba lần số của cải chứa trong hoàng cung Ngô quốc, phía xa đội xe, tàu chuyên chở của cải từ Sở quốc quay về vẫn còn xếp hàng dài không ngớt.
Nhìn thấy chàng thanh niên đang ngồi trên ngựa, đám cấm quân và thái giám vội vàng dừng lại hành lễ với hắn, chàng thanh niên kia không thèm để ý đến chúng, quất roi vào mông ngựa, lướt nhanh ra ngoài cổng hoàng cung. Hắn mặc chiếc áo xanh lá đậm, trên có thêu họa tiết núi non long phụng, búi tóc bằng một cây trâm ngọc phỉ thúy, mặt mày sáng sủa, thần khí cao ngạo, là một nam tử khôi ngô tuấn tú.
Người này chính là con trai của Ngô vương Hạp Lư, đương kim thái tử Phù Sai của Ngô quốc.
Phía bên ngoài hoàng cung được phân chia ra các khu vực khác nhau, càng về phía ngoài, tuy cũng có đình đài lầu các, nhưng phần lớn là vùng đất cây cối um tùm, đan xen còn có nhiều mảnh vườn trồng rau quả xanh tươi. Vào thời này trong hoàng cung cũng có khu vực trồng rau trái tự cung tự cấp, bên ngoài cũng không ngoại lệ, trong Cô Tô thành bố trí rất nhiều đất trồng, một khi xảy ra chiến tranh, chỉ cần trong thành có nguồn nước, bị vây khốn ba đến năm năm không lo về lương thực.
Phía ruộng lúa trước mặt xuất hiện một cây cầu, trên cầu đang có hai mươi mấy tên lính đứng đó, thấy Phù Sai đi đến, mọi người vội thi nhau hành lễ, Phù Sai giơ roi ngựa lên chỉ nhẹ về phía trước, sau đó phóng ngựa lướt qua mặt mấy tên lính, đám lính liền chạy bám theo sau.
Ngựa chiến từ từ chạy chậm lại, đi dọc con đường chính dẫn ra tận cổng hoàng cung, đám binh sĩ hợp sức đẩy cánh cửa dầy cộm nặng nề ra, Phù Sai phóng ngựa ra ngoài, theo sau là hai mươi mấy tên vệ sĩ, khi hắn ra ngoài rồi cánh cổng đóng sầm lại. Trước mặt trái phải có hai tòa lầu cao ngất, Phù Sai nắm chặt cương ngựa, ngẩng đầu nhìn vào bầu trời trong xanh, một cơn gió thoảng qua, cơn gió mang đến giọng ca ngọt ngào của một nữ nhân.
“Một năm mới bắt đầu rồi, mà thiên hạ cũng bắt đầu đại loạn.” Phù Sai nghĩ: “Tề Tấn liên thủ nam chinh, Sở Tần liên minh chống cự, chư hầu khắp thiên hạ đều ngả vào hai bên chiến tuyến, một trận đại loạn sắp bắt đầu diễn ra. Mà Ngô quốc, có điều kiện địa lí được ông trời ưu đãi, Ngô quốc nằm ngay gốc Đông Nam, phía Bắc có Trường Giang hiểm trở, phía Nam chỉ là một Việt quốc nhỏ bé, phía Đông là biển cả, còn về phía Tây, chính là Sở quốc.
Sở quốc nhìn bề ngoài có vẻ rộng lớn, giờ bị phụ vương tấn công vào tận Dĩnh Đô, Tề Tấn một khi xua quân nam hạ, liên quân Sở Tần tự lo thân mình còn chưa xong, vốn không lo nổi chuyện của Ngô quốc, ngọn lửa chiến tranh đang thiêu rụi khắp thiên hạ này khó mà cháy lan tới Ngô quốc. Ngô quốc có uy danh đánh thắng Sở quốc, lại chiếm lấy số của cải tích trữ mấy trăm năm của Sở làm vốn, thừa lúc thiên hạ đại loạn, nỗ lực xây dựng quân đội, đợi khi nguyên khí các nước đại thương, Ngô quốc đã thành bá chủ Đông Nam, muốn tranh đoạt ngôi bá chủ thiên hạ, cũng không phải là không có cơ hội.”
Nghĩ đến đây, Phù Sai không khỏi máu nóng sôi sục trong tim.
“Thái tử, chúng ta đi đâu ạ?” Thị vệ trưởng bước lên cung kính hỏi chuyện.
Phù Sai quất nhẹ roi ngựa, cười khoái trá: “Cứ đi thong dong vài nơi, bây giờ người Đông Di làm loạn, cùng Lỗ quốc kháng Tề, đại đạo Triển Chích thừa cơ dấy binh tạo phản, cùng nước Tề trong ứng ngoại hợp. Hí, cách nhau con sông Trường Giang, chúng ta cứ xem vở tuồng hay coi sao, nghe nói các bộ lạc Đông Di cũng có lúc vượt sông nam hạ, cướp bóc dân chúng nơi biên giới, trong kinh thành có nổi lên lời đồn tin liên minh của Khánh Kỵ và quân Sở, càng làm người ta lo lắng, thân là thái tử, ta phụng mệnh phụ vương trấn giữ Cô Tô thành, bây giờ đi lại trong thành cũng có tác dụng làm an lòng dân chúng.”
“Dạ, thuộc hạ xin hộ tống thái tử đi tuần tra.”
Cấm quân hộ tống Phù Sai ở giữa, men theo con đường chính trong Cô Tô thành thong dong bước đi, hàng vệ sĩ đi trước cầm trường mâu gạt đám đông ra mở đường. Phù Sai đi tới bên một cây cầu, vừa định thúc ngựa qua cầu, bên đường đột nhiên có một người nhảy ra chặn trước đầu ngựa, đám thị vệ hốt hoàng hét lên, lo đó là thích khách, lập tức có hai tên thị vệ giơ trường mâu đâm thẳng vào người đó, người này thân pháp lanh lẹ, chỉ xoay người nhẹ sang một bên đã tránh được hai đầu nhọn sắc bén đâm tới, đoạn dang tay ra, nắm chặt hai thanh trường mâu trong tay, hét to tiếng: “Khoan ra tay vội, tiểu nhân xin gặp thái tử có đại sự cần bẩm báo!”
“Dừng tay!” Phù Sai nghe vậy hét vào đám thị vệ, thần thái ung dung nhìn vào người đó.
Người này mặc áo vải thô, đầu đội mũ rơm che hết cả khuôn mặt, nhìn thế đứng vững vàng, thân thủ bất phàm, chắc là một võ sĩ. Hai chân Phù Sai thúc nhẹ vào bụng ngựa, tiến ngựa lại gần, không hề có ý cảnh giác, hỏi: “Ngươi là ai, muốn gặp bổn thái tử bẩm báo việc gì?”
Người này ngẩng đầu lên nhìn lên lưng ngựa, thấy người ngồi trên đó dung mạo tuấn tú, khí khái cao ngạo, nhất là đôi mắt sáng choang, tia nhìn sắc lẹm.
Hắn buông trường mâu ra, bước lùi ba bước, hạ gối quỳ xuống, nói: “Tiểu nhân có việc quan trọng, chỉ mong được gặp mặt thái tử một lần, bẩm báo riêng với thái tử. Vừa rồi mừng rỡ khi thấy thái tử đi tuần, trong lúc vội vàng nhảy ra kinh động thái tử, xin thái tử tha tội.”
Phù Sai lên tiếng: “Nói ý định tới đây của ngươi ta nghe.”
“Dạ!” Người kia cung kính trả lời, sau đó tháo mũ rơm xuống, cúi đầu: “Tiểu nhân vốn là người Lỗ, từ Khúc Phụ đến đây, có việc liên quan đến cơ mật Ngô quốc muốn bẩm báo thái tử, chỉ là…sự việc hệ trọng, nói ở đây không được thuận tiện.”
“Người Lỗ? Từ Khúc Phụ đến ư?” Phù Sai lộ vẻ nghi ngờ, hắn ngước đầu nhìn vào một mái đình nhỏ bên kia cầu, dặn dò: “Nào, ta qua kia nói cho rõ.” Dứt lời nhảy phóc xuống ngựa, sải bước đi về phía mái đình, mấy tên thị vệ lập tức ùa qua phía ấy, la hét đuổi người đi đường xung quanh đó dạt ra xa.
Người kia nói: “Dạ, tiểu nhân là người Lỗ, vốn là thực khách môn hạ của Thúc Tôn Ngọc đại phu Lỗ quốc, họ Lý tên Hàn. Lý Hàn ngưỡng mộ uy danh của Ngô vương và thái tử đã lâu, lần này đến đây đầu quân, còn mang theo một công lớn.”
Phù Sai tuy trẻ tuổi, nghe hắn kể rõ thân phận, nghĩ chắc có chuyện gì cơ mật quan trọng lắm cần bẩm báo đây, nhưng hắn năm lần bảy lượt muốn nói rồi lại thôi, trong lòng cảm thấy không vui, liền nhăn mặt: “Nếu đã là chuyện cơ mật, cứ nói ra với bổn thái tử, chỉ cần là đại sự có lợi cho Ngô quốc, ta sẽ thay mặt phụ vương làm chủ, cho ngươi làm quan to, ban thưởng hậu hĩ.”
Lý Hàn mừng rơn, vội dập đầu cảm tạ: “Lý Hàn xin đa tạ thái tử. Thái tử có biết, đại quân của Khánh Kỵ hiện đang ở đâu không?”
Phù Sai nói: “Đương nhiên là đang ở Sở…”
Phù Sai chợt im bặt, trong lòng ngờ ngợ, ánh mắt toát ra tia sáng nghi hoặc: “Ngươi nói…hắn đang ở đâu?”
Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành
Chương 195: Loạn thế giai nhân
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
Lý Hàn vốn định lấy lòng Thúc Tôn Diêu Quang, từ đó một bước lên trời, bước vào hàng ngũ quý tộc. Khi biết được hôn ước bí mật của Khánh Kỵ và Thúc Tôn Diêu Quang, hắn vừa hận vừa đố kỵ, lại thất vọng tràn trề, nhưng khi đó hắn vẫn ôm hy vọng được Thúc Tôn Ngọc coi trọng, bắt chước Dương Hổ dấn thân chốn quan trường bằng con đường tiến cử.
Khi quân Tề nam chinh, Triển Chích tạo phản, Tam hoàn Lỗ quân cùng khởi binh bình nội loạn chống ngoại xâm, Lý Hàn cảm thấy vào thời loạn thế này, chính là cơ hội tốt cho kẻ anh hùng kiến công lập nghiệp, do đó hắn ra sức tranh thủ cơ hội dẫn quân xuất chinh, nhưng dù hắn phí bao công sức, chỉ vì xuất thân thường dân, thời gian ở tại phủ Thúc Tôn Ngọc quá ngắn, căn cơ thiển cận, không thể kiếm được một chức tướng lĩnh nào đó trong quân Lỗ.
Lý Hàn thất vọng cuối cùng nảy ra ý định bỏ đi nơi khác, suy nghĩ kĩ lưỡng, hắn thấy đầu quân về phía Đông Nam là tốt nhất, hơn nữa còn mang theo một món quà người Ngô không bao giờ từ chối: Tin về cánh quân mai phục ở Phi Hồ cốc tại Phí thành Lỗ quốc của Khánh Kỵ.
Phù Sai không ngờ hắn lại mang đến tin động trời này, nghe xong thất kinh hồn vía. Hắn sai người đưa Lý Hàn đi dịch quán ở tạm trước, sau này sẽ luận công ban thưởng, sau đó phóng ngựa quay về hoàng cung, lấy thân phận thái tử giám quốc lấy quốc ấn ra, hạ một đạo quân lệnh cho quan binh trấn giữ ven sông, lệnh cho họ đặt trạng thái chiến tranh bố phòng nghiêm ngặt bất kể ngày đêm, lại thảo một bức thư sai người tức tốc mang đến Dĩnh Đô ở Sở báo tin cho Ngô vương Hạp Lư, mặt khác còn sai tín sứ đi Ngự Nhi thành triệu hồi hoàng đệ của Hạp Lư là Phù Khái. Phù Khái lúc này đang trấn giữ Ngự Nhi thành, mục đích là phòng hờ Việt quốc thừa cơ hội giở thói lưu manh chạy sang Ngô quốc cướp bóc, Phù Khái nghe tin xong cũng thất kinh hồn vía, lập tức sắp xếp việc bố phòng Ngự Nhi thành thỏa đáng, xong xuôi phi ngựa trong đêm quay về Cô Tô thành. Sau khi hỏi rõ chi tiết từ Lý Hàn, theo tình báo từ Lý Hàn cho biết thời gian xây dựng Phi Hồ thành, quy mô thành trì, suy luận ra phục binh trong Phi Hồ thành nhiều nhất chỉ khoảng một vạn, với binh lực thế này chỉ có thể tập kích bất ngờ mới mang lại hiệu quả, giờ đây Ngô quốc đã sớm phòng bị trước, liệu rằng tên Tôn Vũ và Anh Đào nhóc con ấy khó làm nên đại sự, Phù Khái mới yên lòng đôi chút.
Nhưng dù cho là vậy, hiện nay Hạp Lư đang chinh chiến tại Sở, dẫn theo đại bộ phận binh lực của Ngô quốc. Quân bố phòng trong nước chỉ còn lại rất ít, Phù Khái không dám sơ suất, bèn bàn bạc với Phù Sai, vẫn để Phù Sai trấn thủ Cô Tô thành, Phù Khái tức tốc lên đường đến Hàn Ấp, đặt quân bố phòng nghiêm ngặt ven sông.
Đến Hàn Ấp rồi, Phù Khái thu thập tin tức từ nhiều phía. Nghe nói những ngày này liên tục có từng nhóm nhỏ người ngựa lén qua sông cướp bóc, tướng lĩnh trấn giữ ven sông cứ tưởng là người Đông Di vì muốn chuốc giận nên tập hợp lại vượt sông cướp bóc, Phù Khái nghe xong nghi ngờ đó là phục binh của Tôn Vũ và Anh Đào chia nhỏ ra qua sông, do đó một mặt tăng cường phòng ngự dọc đường sông, một mặt sai quan lại địa phương dán cáo thị khắp nơi, hứa trọng thưởng cho ai cáo mật, đồng thời đưa quân lục soát núi non, sông ngòi, làng quê hoang dã, muốn tìm ra địa điểm tập kết của đội phục binh của Khánh Kỵ.
Nhưng Phù Khái tốn nhiều công sức, cũng không có được tin gì của cánh quân này. Sau khi hắn tăng cường bố phòng đúng là đã bắt được vài nhóm người, đều ăn mặc như thợ săn của Đông Di, tra hỏi chúng cũng không lần ra mối liên hệ gì với phục binh của Khánh Kỵ, Phù Khái đem tất cả bọn người này ra chém đầu, treo thủ cấp vào cột tre đặt ngay đường lớn trong thành để thị chúng, hành động này dấy lên thù hận từ người Đông Di, số người Đông Di lén vượt sông vào ban đêm trả thù cho người thân liên tục không ngớt, làm náo loạn cả nhánh sông Trường Giang, ban ngày thì quân Ngô chiếm ưu thế, ban đêm thì bị người Đông Di đánh lén, cứ thế đánh qua đánh lại, Phù Khái không sao bình định được biên giới.
Lúc này đã bước sang tháng hai đầu xuân, khắp mặt đất vùng Giang Nam một màu xanh biếc, cỏ cây um tùm. Chỉ là mùa xuân năm nay đã được dự báo không trôi qua êm ả, ngọn lửa chiến tranh đang nổi lên khắp thiên hạ, khắp nơi đều là tin chiến sự truyền về, chư hầu thiên hạ hoặc vì tự bảo vệ, hoặc vì muốn kiếm chác lợi lộc gì đó trong thời loạn thế, đều ngả về hai phe liên quân Tần Sở và liên quân Tề Tấn, người giữ vị trí trung lập ngoại trừ cô gia quả nhân Chu thiên tử mang danh là chủ thên hạ, cũng chả có mấy nước nhỏ đứng ngoài cuộc.
Tấn quốc lúc này vừa mới đánh bại liên quân Vệ Tống, liên quân Vệ Tống lui giữ vùng đất Tu Trạch, chỉnh đốn quân đội. Vì quân Vệ ra trận thất bại, ba quân tan tác, thống soái Tề Báo khó tránh trách nhiệm, bị Vệ hầu hạ chỉ bắt giữ hỏi tội. Tề Báo lần này vốn định mượn cơ hội đoạt lấy binh quyền, không ngờ trước bị phó soái Công Tôn Bạt chế ngự, sau lại do bại trận khó thoái thác tránh nhiệm, bị Vệ hầu trả thù, ngay cả Bắc Cung Hỉ cũng không cách nào cứu được hắn.
Vệ quốc bại trận xong không ngoài dự đoán do Công Tôn Bạt tiếp tay, thăng chức nguyên soái. Tiên phong tướng quân Công Tử Triều vì chém chết đại tướng Kỵ Tễ của quân Tấn ngay trận tiền, lập được đại công, Nam Tử tuy hận hắn thấu xương, cũng không tiện ra tay xử trí với hắn vào lúc này, cứ cho hắn sống thêm ít ngày vậy. Công Tử Triều lập được công lại không thấy Vệ hầu ban thưởng, trong lòng đã biết chắc Vệ hầu và Nam Tử đã đạt được thỏa thuận trừ khử hắn, bắt đầu suy tính đường riêng cho mình.
Quân Tần với năm trăm chiến xa, bốn vạn hùng binh tiến ra Vũ Quan, qua Thân huyện, hướng về Sở quốc. Vì liên quân Vệ Tống đang chỉnh đốn nội bộ, bổ sung binh lính, nhất thời chưa tái chiến với Tấn quốc được, quân Tấn sĩ khí ngút trời tiến về phương Nam, giáp mặt với quân Tần vừa mới đi ra Vũ Quan.
Hai bên binh lực ngang ngửa, nhưng phía bên kia quân Sở đóng ở biên giới nghe tin quân Tần tới nơi đã chủ động ra ứng chiến, cùng với quân Tần giáp chiến trước mặt sau lưng quân Tấn, quân Tấn trận đầu bại trận, cố thủ nơi hiểm yếu, đợi binh mã các nước nhỏ đồng minh kéo đến tập hợp lại mới đánh tiếp, quân Tần bị kẻ địch hùng mạnh này chắn ngang, không dám sơ suất tiến sâu, chỉ còn cách phối hợp với quân Sở phía kia, bắt đầu giao chiến với quân Tấn.
Quân Tần tung hoành ở Phương thành, quân Sở hoạt động khu Nam Bắc Hán Thủy, trải qua mấy trận đánh lớn với quân Tấn, đôi bên có thắng có thua, trong một lúc rơi vào thế dằng do, bất phân thắng bại, thành quả duy nhất mà liên quân Tần Sở đạt được chính là tiêu diệt Đường quốc từng giúp Ngô đánh Sở nay lại giúp Tấn quấy nhiễu liên quân Tần Sở.
Ở mặt trận phía Đông, Tề chiếm thế thượng phong khi giao chiến với liên quân Trần, Lỗ, Tào và các bộ lạc Đông Di. Vì trong liên quân ba nước Trần, Lỗ, Tào cộng thêm các bộ lạc Đông Di, thực lực mạnh nhất chỉ là Lỗ quốc, mà Lỗ quốc hiện nay có Triển Chích tạo phản, đồng thời Triển Chích còn thuyết phục được Trọng Lương Hoài, Công Sơn Bất Nữu bị dồn ép bởi Dương Hổ, nổi dậy chiếm hai tòa thành quan trọng của Quý thị, liên kết với hắn củng dấy binh tạo phản. Ba mối họa này cộng lại với nhau, trở thành mối họa lớn bên trong Lỗ quốc.
Lỗ quốc bổ nhiệm Dương Hổ vừa thăng chức đại phu làm thống soái ba quân, thống lĩnh quân đội của Tam hoàn bao vây tiêu diệt quân phản loạn của Triển Chích, Trọng Lương Hoài, Công Sơn Bất Nữu. Như vậy Lỗ quốc phải lo cùng lúc cả hai chiến trường, lực bất tòng tâm, quân Lỗ đóng vai trò quân chủ lực giao chiến với Tề, nay quân Lỗ tự lo còn không xong, liên quân tự nhiên không đánh lại quân Tề, nhưng họ liều chết bám lấy quân Tề, khiến tốc độ tiến quân nam chinh của đại quân Tề quốc chậm như rùa bò.
Phí thành, lúc này đã trở thành một thành trì quan trọng về mặt quân sự, trong ngoài thành từng đội quân qua lại không ngớt, đám dân đen hấp tấp đi chạy nạn. Trong đại sảnh nhà cũ của Quý thị, ánh mặt trời rọi vào, khắp nơi vắng lặng, so với cảnh ồn áo huyên náo bên ngoài, nơi đây nghe rõ cả tiếng ruồi bay.
Ngoài sân đang dừng đậu mấy chiếc xe ngựa, mấy chục tên võ sĩ trang bị áo giáp vũ khí đầy đủ đứng yên bất động dưới ánh nắng, bóng của chúng in dài ra mặt đất. Trong sảnh hai nam nhân đang đứng đó, một người mặc áo bào xanh đeo kiếm, người kia thân hình thấp bé, đôi mắt lờ đờ như vừa mới ngủ dậy.
Tiếng bước chân vội vả vang lên, hai người ngước mắt nhìn về phía tấm bình phong, một mỹ nhân bước ra từ phía sau, tà áo xanh mướt, thân hình yểu điệu, dung mạo thanh nhã, mỗi bước đi đều làm say đắm lòng người.
Tên nam nhân già đứng đó thấy nhói một cái trong tim, vội cúi đầu né tránh tia nhìn của nàng ta. Đã mười mấy năm trôi qua, cô nương này vẫn mê hoặc như năm xưa, nàng như một vò rượu để càng lâu càng thơm, mùi thơm mang hơi ấm nồng nàn. Cũng chính vì vẻ đẹp ấy, vẻ đẹp khó bắt người ta xuống tay hủy diệt, lão già này năm xưa phạm phải lỗi lầm lớn, giờ hắn tuyệt đối không nhìn vào đôi mắt làm điên đảo lòng người của Thành Bích phu nhân nữa.
“Tỉ tỉ.” Thành Tú thấy Thành Bích phu nhân bước ra, lập tức bước lên phía trước: “Tỉ tỉ, xe ngựa đã chuẩn bị xong.”
“Ừ!” Thành Bích phu nhân đáp khẽ, nhét một cuộn tranh đang cầm trên tay vào tay Thành Tú, dặn dò: “Thành Tú, cuộn tranh này được vẽ theo cách bí mật mà tỉ đã dạy đệ, đệ có thể xem hiểu, cầm theo nó, đi với tốc độ nhanh nhất sang Sở quốc, làm theo dặn dò của tỉ.”
“Tỉ tỉ, chúng ta…có thật phải từ bỏ tất cả ở đây, bây giờ cũng không nên đến đó, tỉ…”
“Im miệng!” Thành Bích chau mày, đôi mắt long lanh như nước hồ mùa thu quét sang ông chủ Lỗ Quái Cư đang bất an đứng bên cạnh, người từng là đệ nhất kiếm khách Lỗ quốc Viên Tố, nhỏ nhẹ: “Ngươi lui xuống trước đã!”
“Dạ!” Viên Tố như trút được gánh nặng, vội quay đầu bước ra ngoài.
Thành Bích lúc này mới nói với Thành Tú: “Đệ đệ, bây giờ thiên hạ đại loạn, còn có nơi nào là an toàn tuyệt đối chứ? Đệ đó, cũng không phải là suốt đời nhờ vào tỉ được đâu, cũng phải có sự nghiệp riêng cho mình chứ. Cầm theo cuộn tranh này đi tìm Khánh Kỵ, một khi Khánh Kỵ phục quốc thành công, đệ lúc đó là khai quốc công thần, chắc chắn được phong hầu bái tước, còn nếu Khánh Kỵ thất bại…những gì ghi trên bức tranh này, cũng đủ giúp đệ giữ được tính mạng.”
Thành Tú hoang mang hỏi: “Tỉ tỉ, còn tỉ thì sao?”
“Đệ yên tâm, tỉ là một nữ nhân, trong lúc chiến loạn không tiện ra ngoài, tốc độ đi đường lại chậm, đệ cứ đi trước, tỉ sẽ theo sau đi tìm đệ.”
Thành Tú nghe vậy mới hơi yên tâm, nhưng nghĩ kĩ hắn lại thấy anh ách: “Tỉ tỉ, đệ không ở bên cạnh tỉ, quả là không an tâm chút nào. Tỉ cũng biết hiện nay thiên hạ đại loạn, chúng ta quay về Khúc Phụ, chẳng phải an toàn hơn sao? Người Tề lợi hại đến đâu, chắc không đánh đến kinh đô Lỗ quốc được đâu nhỉ? Đệ cứ đi Sở quốc đưa tin, còn tỉ chi bằng quay về Khúc Phụ, đợi khi sóng yên gió lặng, đệ lại đón tỉ qua Sở.”
Thành Bích phu nhân thở dài: “Đệ đệ ngốc của ta, đệ tưởng tỉ vội qua đó…qua đó gặp Khánh Kỵ à?” Nói đến đây, Thành Bích hơi đỏ mặt, tiếp: “Tỉ không đi cũng không được, Công Sơn Bất Nữu lợi dục công tâm, hùa theo đại đạo Triển Chích tạo phản, lợi dụng bí mật của tỉ khi xưa, hắn không ngừng sai người bắt tỉ cung cấp lương thảo binh khí, càng lúc càng tham lam, đây là cái động không đáy, trám không đầy được. Nhưng kêu tỉ sao từ chối đây? Tỉ không đồng ý nghe theo hắn sẽ nói ra bí mật của tỉ, đến lúc đó là tỉ tiêu đời, Sinh nhi cũng không giữ được tính mạng, nếu không đến bước đường cùng rồi tỉ sao lại rời khỏi vào lúc này chứ?”
Thành Bích thần sắc sầu não: “Sinh nhi hãy còn nhỏ, nó tuy không phải là máu mủ ruột thịt của tỉ, nhưng bao nhiêu năm qua tỉ đã xem nó như con ruột của mình, nếu không vì sự thể nghiêm trọng, tỉ sao nỡ bỏ mặc nó? Ài! May là gia chủ Quý Tôn rất thương yêu nó, có gia chủ Quý Tôn chăm sóc, lại có số của cải khổng lồ trong phủ, suốt đời này nó không phải lo rồi.”
“Vậy…đệ và tỉ tỉ cùng lên đường.”
“Tuyệt đối không thể nào!” Thành Bích nghiêm nghị: “Những gì ghi chép trên cuộn tranh này rất quan trọng, tỉ tin Khánh Kỵ giờ đang rất cần nó, nếu thời cơ qua đi, nó đối với Khánh Kỵ chỉ còn là một đống rác không có giá trị, đệ phải lập tức lên đường, phải đi với tốc độ nhanh nhất đưa đến cho Khánh Kỵ.”
“Dạ!” Thành Tú cúi đầu vâng lời.
“Được rồi, đệ ra ngoài chuẩn bị đi, kêu Viên Tố vào gặp tỉ.”
“Dạ!” Thành Tố bước ra ngoài sảnh, một lát sau, Viên Tố lê bước chầm chậm đi vào, bộ dạng e dè, không hề mang chút khí khái oai phong của đệ nhất kiếm khách Lỗ quốc năm nào.
Thành Bích hứ một tiếng, nói giọng không vui: “Thôi được rồi, trước mặt ta ngươi không cần làm ra bộ dạng đó nữa, ngươi có biết ta gọi ngươi từ Khúc Phụ đến đây là có ý gì không?”
Viên Tố giả lả: “Tiểu nhân không biết.”
“Ta muốn ngươi bảo vệ Thành Tú đi Sở quốc.”
“Cái gì?” Viên Tố ngớ người, vội làm ra vẻ khó xử từ chối: “Đi Sở quốc? Môn hạ của phu nhân đâu thiếu người tài, cao thủ như mây, đâu cần dùng đến Viên Tố này? Viên Tố già rồi, gân cốt toàn thân rã rời, không múa kiếm được nữa đâu, hơn nữa lão Viên còn phải trông coi Lỗ Quái Cư, lão mà đi khỏi…”
“Trông cái gì mà trông? Tưởng ta không biết dụng ý của ngươi khi mở Lỗ Quái Cư hả?” Thành Bích phu nhân tức giận ngắt lời, lạnh lùng nói: “Lỗ Quái Cư từ giờ đóng cửa, tiểu Ngải hiện đang ở Sở quốc, ngươi còn nán ở Khúc Phụ chờ đợi gì chứ?”
“Tiểu Ngải đã đến Sở quốc?” Viên Tố kinh ngạc kêu lên, nghĩ đến tình hình Sở quốc giờ đang hỗn loạn, tiểu Ngải một thân nữ nhi…, Viên Tố chợt biến sắc.
Thành Bích phu nhân vênh mặt, cặp lông mày quyến rũ như hồ ly, cất giọng đều đều: “Không sai, nàng ấy đang ở Sở, với lại đang trong đại quân của Khánh Kỵ, ngươi bảo vệ Thành Tú qua đó, tiện thể gặp tiểu Ngải luôn không tốt sao?”
Viên Tố ngơ ngẩn giây lát, tấm lưng còng từ từ đứng thẳng, chỉ trong khoảnh khắc một lão già lọm khọm bỗng hóa thân thành một kiếm khách oai phong, trở lại bộ dạng khí khái bất phàm năm xưa, Thành Bích phu nhân tuyệt đẹp đứng ngay trước mặt, nhưng khí chất của hắn như lấn át cả tuyệt sắc giai nhân Thành Bích.
Viên Tố ngẩng đầu lên, bắt gặp ánh nhìn xuyên thấu vào tim của hắn: “Không cần nhiều lời nữa, thời gian cấp bách, ngươi đi với Thành Tú ngay lập tức, còn về tổn thất của Lỗ Quái Cư, bổn phu nhân sẽ bồi thường cho ngươi.”
Viên Tố vội cụp mắt xuống, tuy chỉ là một khắc tia nhìn chạm nhau, nhưng vẻ thu hút phát ra từ đôi mắt Thành Bích thật khiến người ta khó lòng kiềm chế. Viên Tố hạ giọng đáp ứng: “Dạ! Phu nhân nếu đã nói thế, Viên Tố còn có gì không bỏ lại được chứ? Viên Tố bằng lòng đi cùng Thành Tú đến Sở một chuyến.”
“Rất tốt, mọi người khởi hành ngay đi, bổn phu nhân còn có chuyện cần làm, không tiễn.”
“Phu nhân, tại hạ cáo từ!” Viên Tố chắp tay cúi lạy xong lui ra ngoài, thần thái ung dung, bước đi vững vàng, hoàn toàn khác với bộ dạng lom khom khập khiểng khi nãy.
“Hư…, đợi Thành Tú đi khỏi, chúng ta mới đi.”
“Dạ…” Tiểu Hà hơi chút do dự: “Phu nhân…nhất định phải làm như vậy ư?”
Thành Bích liếc mắt vào Tiểu Hà, hỏi: “Ngươi lo gì à?”
Tiểu Hà cắn môi không trả lời, Thành Bích phu nhân mỉm cười, từ từ xoay lưng lại, thở một hơi dài: “Đi triệu tập đầy đủ người ngựa, chúng ta lập tức lên đường.”
“Dạ!” Tiểu Hà quay đầu bước ra ngoài. Thành Bích lại thở dài, tự nói với mình: “Chàng vốn chỉ là một công tử lưu vong, còn ta lại có gia nghiệp khổng lồ và thân phận đặc thù để lợi dụng, ta thật không biết…chàng đến với ta, rốt cuộc có bao nhiêu phần thật lòng, rốt cuộc còn vì mục đích nào khác không? Trên thế gian này, thứ khó đọc hiểu nhất chính là lòng người…, không biết trong lòng chàng có thật tồn tại Thành Bích, ta không yên tâm, không cam tâm chút nào.”
Thành Bích ngây dại nhìn khắp đại sảnh trống trơn, lại nói tiếp: “Tiểu Man hận ta thấu xương, mà giờ nàng ta đang ở cùng chàng, còn tên Công Sơn Bất Nữu cứ bám riết lấy ta, uy hiếp ta cung ứng quân trang cho hắn. Tất cả đều là nút thắt khó gỡ, nhưng lại buộc phải đi gỡ…”
Thành Bích đứng đó ưu sầu hồi lâu.
Hoàng hôn buông xuống, ánh nắng vàng dịu, vì chiến sự đang diễn ra khốc liệt, Phí thành lập tức phải đóng cửa. Lúc này, giữa đám đông chen chúc ùa vào thành, xuất hiện thêm một đoàn người ngựa áo giáp chỉnh tề, vũ khí sáng choang, trang bị còn tốt hơn cả đại quân của Tam hoàn. Ba trăm võ sĩ hộ tống chiếc xe ngựa xa hoa của Thành Bích phu nhân đi ra cửa thành Nam, hòa cùng ánh chiều tà lay lắt.
Dưới ánh nắng hoàng hôn, in bóng một đoàn người từ từ đi xa…