Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành
Chương 196: Bách Tân hồ
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
Bách Tân hồ. Khánh Kỵ cùng Yểm Dư, Thúc Tôn Diêu Quang, Quý Tôn Tiểu Man đang thong dong đi dạo ven hồ, nước hồ xanh biếc, lăn tăn gợn sóng, trên mặt hồ đang có mấy con thuyền nhỏ thả lưới đánh cá, đó đều là binh sĩ của Khánh Kỵ, trong hồ có nhiều cá béo ngậy, bắt lên bổ sung cho bữa ăn cũng khá hay, lại có thể để đám binh sĩ trước đây chưa từng đi thuyền rèn luyện thêm, một công đôi việc.
Bên hồ có một khu vực rộng lớn bị dọn trống, làm xưởng đóng thuyền “Chu thất”, những binh sĩ biết đóng thuyền trong quân Khánh Kỵ giờ bị điều động hết tập trung ở đây, ngoài ra còn tuyển lựa nhiều thợ mộc vào đội đóng thuyền, còn những thợ cưa gỗ thì không cần phí công chọn lựa, đám binh sĩ khỏe mạnh chặt cây khiêng đá còn nhanh hơn cả dân làm lao dịch.
Những thủy binh phụ trách chèo thuyền gọi là “Thuyền tốt”, với “Thuyền quan” chỉ huy đội chèo đều được tuyển lựa kĩ lưỡng từ trong quân Khánh Kỵ, còn các binh sĩ còn lại, chỉ cần thích ứng việc đánh trận trên thuyền là được. Lúc này đám binh sĩ đang lái những chiếc thuyền màu sắc hỗn tạp mới mua về, tập luyện thủy chiến trên lòng hồ xa xa, cả trăm mái chèo cùng lúc rẽ bọt sóng, hai thuyền giáp mặt thu ngắn khoảng cách, các binh sĩ phóng móc câu qua đó níu chặt thuyền của đối phương, phi thân bay qua tiếp chiến, thỉnh thoảng có người tuột tay rơi tỏm xuống nước, tuy chỉ là diễn tập nhưng tất cả binh sĩ đều tập luyện hăng say như thật.
Yểm Dư nói: “Ta từng đi tìm một số thuyền về đây, đáng tiếc đó đều là thuyền đánh cá loại nhỏ và thuyền chở khách, không thích hợp đi lại đường dài trên sông lớn, chỉ còn cách tự đóng thuyền lấy vậy. Lần này chúng ta chủ yếu chờ đợi sau khi phía Chúc Dung thành công chiếm giữ Cô Tô thành, tiến quân thần tốc quay về chặn trước đại quân của Cơ Quang, chiếm lĩnh thành trì chờ hắn tới nộp mạng. Ta đã tính toán, với khoảng cách đường bộ Ngô Sở, dọc đường phải chèo đèo vượt suối, đường đi vô cùng khó khăn, chúng ta không có đủ số xe ngựa chuyên chở binh sĩ, dù có đủ xe cũng khó đi trên con đường hiểm trở, tốc độ không nhanh bằng đi đường thủy. Với lại hành quân thế này lương thảo khó theo kịp đại quân, chúng ta không thể không tính đến trường hợp bại trận, nếu lương thảo theo không kịp, đánh nhau lại bại trận thì lòng quân hoang mang, sợ lúc đó có nhiều binh sĩ bỏ trốn.”
Khánh Kỵ gật gù. Yểm Dư lại nói: “Vì thế với số thuyền này, ta không dám mảy may sơ suất, chúng ta đang đóng nhiều tàu thuyền, có thuyền lớn dùng cho việc vận chuyển binh lính, vì muốn đối phó với thủy binh quân Ngô, ta còn chuẩn bị đóng lâu thuyền, thuyền đụng, thuyền cánh én, thuyền nhỏ để truyền đưa tin tức và dò thám nữa…”
Khánh Kỵ khẽ gật đầu hài lòng: “Hoàng thúc suy nghĩ chu đáo, nếu chúng ta đi đường thủy về Ngô, tuy là xuôi theo dòng nước, để tăng tốc cũng nên ra sức huấn luyện thêm cho binh sĩ, lần này về Ngô quốc, đường sá xa xôi, số thuyền tốt này không đủ dùng đâu, để ta đi chọn thêm số người biết lái thuyền đưa tới, tổ chức làm đội dự bị, hai đội thuyền tốt thay phiên nhau chèo…”
Khánh Kỵ chợt ngưng bặt, toàn thân tưng lên một cái rồi cứng đơ ra, một cánh tay còn giơ lên không trung, miệng mở to bất động, không nói tiếng nào. Mọi người hoảng sợ cả lên, vội nhìn cả vào hắn, chỉ thấy hắn trợn mắt đáng sợ, gân xanh nổi lên trên trán, thân trên run lập cập như đánh đu.
Thúc Tôn Diêu Quang lo lắng, vội bước tới vịn lấy vai Khánh Kỵ, hốt hoảng kêu lên: “Chàng sao rồi? Mau nói gì đi chứ? Chàng sao rồi?”
Khánh Kỵ nhìn trừng trừng vào đống tàu thuyền đang được đóng dang dở bên “Chu thất” được dựng lên sơ sài. Hai mắt trợn tròn, vẫn không phát ra tiếng nào. Thúc Tôn Diêu Quang quay đầu lại nhìn theo hướng đó, các binh sĩ bên kia vẫn bận rộn làm việc, không có gì khác lạ, Thúc Tôn Diêu Quang càng thêm sợ hãi, sắp bật khóc đến nơi. Nàng ra sức lay lay Khánh Kỵ, quay qua cầu cứu Yểm Dư: “Mau, mau đi mời một thuật sĩ về đây, chàng…chàng nhất định bị trúng tà rồi.”
Phía bên kia, Quý Tôn Tiểu Man gần như cùng một lúc với Diêu Quang lao đến bên cạnh Khánh Kỵ, bấu chặt chiếc vai còn lại của hắn, nàng không lay Khánh Kỵ, chỉ là mở to đôi mắt đen láy như hạt ngọc, kinh hãi nhìn vào hắn. Thúc Tôn Diêu Quang ra sức lay mạnh Khánh Kỵ cho hắn tỉnh lại, Quý Tôn Tiểu Man cũng bị lay cho chóng mặt, hét lên: “Đừng lay hắn nữa! Tên này giết người vô số, đôi tay nhuốm đầy máu tanh, có con ma nào dám ám hắn chứ?”
Khánh Kỵ chợt xoay đầu lại, nhe răng phát ra tiếng âm u: “Ta là ma nữ đây!”
Quý Tôn Tiểu Man “Oái!” một tiếng nhảy dựng, bật về phía sau, đoạn “Xoạt!” rút Hàm Quang kiếm cầm trong tay, hung dữ chĩa vào trước ngực Khánh Kỵ, nghiêm giọng: “Ngươi đi ra cho ta!”
Khánh Kỵ không còn nhịn được nữa, bật cười khanh khách: “Nàng chui vào ta đi!”
Quý Tôn Tiểu Man ngờ ngợ: “Ta không phải là ma nữ, sao mà vào được?”
Khánh Kỵ cười ha hả khoái trá, cười đến nỗi ôm bụng lăn lộn: “Tiểu Ngải à Tiểu Ngải, nha đầu này ngốc nghếch đáng yêu thật. Ha ha ha…, ai nói ta bị ma nữ ám chứ? Giết người vô số, tay nhuộm đầy máu tanh, nàng nói ta thành “Hỗn thế ma vương” mất rồi, ta còn bị ma ám được ư? Ha ha ha…”
Quý Tôn Tiểu Man nóng ran hai má, xấu hổ vì biết bị lừa, hậm hực nói: “Ngươi đó, không đàng hoàng gì cả, sao lại hù dọa người ta?”
Thúc Tôn Diêu Quang đẩy mạnh Khánh Kỵ một cái, phụng phịu: “Chàng đó, lần sau đừng hòng người ta lo lắng cho chàng nữa.”
Khánh Kỵ tươi cười hớn hở, cứ như lượm được kho báu, cười đến nỗi không ngậm miệng lại được, hắn cũng không giải thích với hai cô nương, chỉ là đưa tay nắm lấy Yểm Dư, vội lên tiếng: “Không cần lo, chỉ là ta vừa mới nhớ ra một chuyện lớn. Mau, chúng ta đi “Chu thất”, lập tức triệu tập tất cả thợ đóng thuyền, ta có chuyện dặn dò bọn họ.”
Kéo theo Yểm Dư đang nghệch mặt ra không hiểu gì cả đi được vài bước, Khánh Kỵ quay đầu lại nói: “Hai nàng tự đi đâu đó chơi đi, không cần theo ta.”
Quý Tôn Tiểu Man hậm hực tra kiếm vào bao, đôi mắt long lanh tức tối, nguýt to: “Đúng là một tên vô lại!”
Thúc Tôn Diêu Quang hùa theo: “Là tên vô lại hư hỏng hết chỗ nói!”
Hai người nhìn vào nhau, bỗng chốc nảy sinh cảm giác đồng hội đồng thuyền, hai người mỉm cười với nhau, lại thoáng thấy ngại ngùng, Thúc Tôn Diêu Quang nắm lấy tay Quý Tôn Tiểu Man: “Muội muội, chúng ta tìm một chiếc thuyền nhỏ đi chèo thuyền chơi, mặc kệ tên hỗn đản đó.”
“Ờ…hay đó!” Quý Tôn Tiểu Man còn chưa quen Diêu Quang tỏ thái độ thân thiết với nàng như vậy, ậm ự nói: “Nhưng ta không biết chèo…”
Thúc Tôn Diêu Quang mỉm cười: “Ta biết đôi chút, không sao…chúng ta kêu người khác chèo hộ.”
Quý Tôn Tiểu Man mừng rỡ: “Hay quá! À hay là chúng ta đợi ở đây một lát, tên khốn đó hù dọa chúng ta thế này, phải bắt hắn chèo thuyền cho chúng ta, mệt chết hắn mới thôi!”
“Được!” Hai cô nương cười khúc khích khoái trí với nhau.
Các thợ đóng thuyền đang làm việc trong “Chu thất” đều bị đuổi hết ra ngoài, ngoại trừ Khánh Kỵ, Yểm Dư, chỉ vài đội trưởng giữ chức vụ cao được ở lại, họ đều là thợ đóng thuyền lão luyện, mọi người đứng thành một vòng tròn, Khánh Kỵ đứng giữa, trên tay cầm một mô hình thuyền gỗ, tỉ mỉ giảng giải cho mọi người nghe, chốc chốc có người giơ tay thắc mắc, Khánh Kỵ dừng lại giải thích kĩ hơn.
Đợi Khánh Kỵ nói xong, một tên đội trưởng lên tiếng khâm phục: “Tiểu nhân tuy ở Sở quốc, nhưng đã sớm nghe danh công tử Khánh Kỵ mới là thiên hạ đệ nhất về chế tạo, hôm nay được thấy tận mắt, đúng là danh bất hư truyền, máy xay gạo, bánh xe tưới tiêu, đã là tác phẩm tuyệt diệu, còn thuyền này…, Ây! Tiểu nhân từ nhỏ đã theo phụ thân học đóng thuyền, cả đời này các loại thuyền do chính tay tiểu nhân đóng nhiều vô số, nhưng chưa từng nghĩ ra ý tưởng khác lạ như thế. Tuy cái vật này tiểu nhân chưa từng thấy qua, trước mắt còn chưa làm thử, nhưng với kinh nghiệm đóng thuyền cả đời của tiểu nhân, biết chắc các thiết kế này rất khả dụng, mọi người thấy thế nào?”
Các đội trưởng xung quanh ai nấy gật đầu lia lịa, vui mừng ra mặt. Bọn họ đều là thợ đóng thuyền tài ba,đối với họ có thể đóng ra một chiếc thuyền chất lượng ưu việt là chuyện vui sướng nhất trên đời. Còn nếu đóng được một chiếc thuyền xưa nay chưa từng có, càng là thành tựu vĩ đại, lúc này đây trong lòng họ phấn khích vô cùng, không hề thua kém cảm giác lâng lâng vừa nãy khi mới nảy ra ý tưởng của Khánh Kỵ.Khánh Kỵ mừng rơn: “Đương nhiên là khả dụng rồi, thuyền này dùng cánh buồm mà bổn công tử vừa nói, mượn sức gió đi trên sông, trong lúc thuận gió, không những tiết kiệm rất nhiều sức, mà tốc độ di chuyển còn nhanh gấp mấy lần, cho dù là ngược gió hay gió thổi chệch hướng, chỉ cần mặt nước đủ rộng, điều chỉnh góc độ cánh buồm chạy theo đội hình chữ “Chi” (chữ Chi trong tiếng Hán viết giống chữ Z trong tiếng Anh.), vẫn cứ tiến nhanh như cũ. Tất nhiên, đội lái thuyền phải từ từ tập luyện mới nắm bắt được cách điều khiển, trước mắt chúng ta chưa cần nghĩ tới. Hoàng thúc, nơi này cần tăng cường canh gác, phải đảm bảo trước khi chúng ta dùng đến, tin tức không tiết lộ ra ngoài, còn sau này thì, sợ gì không cho khắp thiên hạ được biết, ha ha…”
Câu cuối cùng hắn nói là để cho đám thợ đóng tàu này nghe. Hồi xưa hễ mà có vật gì quý báu hay chuyện cơ mật, quân vương vì muốn độc chiếm, giết người diệt khẩu chuyện gì cũng dám làm. Khánh Kỵ sợ đám thợ này sau khi cơn phấn khích qua đi, lo lắng Khánh Kỵ vì muốn giữ bí mật, sau này sẽ giết chết bọn chúng, lúc đó chắc không ra sức làm việc, nên mới nói ra câu này, ý là hiện giờ thì cần phải giữ bí mật, một khi dùng xong đống tàu thuyền mới này, thì không sợ khắp thiên hạ biết đến, lúc đó không phải giữ bí mật gì nữa, bọn họ sẽ không bị đe dọa tính mạng, còn nắm bắt được một số kỹ thuật đóng thuyền mới mẻ. Khánh Kỵ dùng chiêu này để trấn an lòng người.
Yểm Dư hiểu ý Khánh Kỵ, hắn cũng mỉm cười góp tiếng nói: “Yên tâm đi, xung quanh Bách Tân hồ có đại quân canh giữ, không cho phép người lạ tiếp cận, đợi khi chúng ta dùng đến đống thuyền này, lúc đó Cơ Quang có biết thì đã muộn, hắn không kịp đóng thuyền bắt chước theo chúng ta, đại sự có cơ hội thành công rồi, ha ha…”
“Ừm, giờ nghĩ ra cách này, ta quyết tâm quay về Ngô quốc bằng đường thủy.” Khánh Kỵ lại quay sang đám thợ, nói: “Còn về bánh lái, bổn công tử chỉ nghĩ ra phương thức, còn cụ thể chế tạo, lắp đặt, vận hành thế nào cần các ngươi ra sức nghiên cứu, dù là làm ra xong cũng phải có thời gian đủ cho đội thuyền tốt thao tác sử dụng thành thạo, nên các vị phải nhanh chóng thiết kế làm ra để các thuyền tốt tập luyện. Còn về cái khoang tàu đóng kín kia, tin chắc bổn công tử nói ra là mọi người hiểu ngay, cái đó không cần nói nhiều nữa.”
Đám thợ cùng chắp tay: “Xin hai vị công tử yên tâm, ở đây vật liệu nhân công đều đầy đủ, tàu thuyền còn chưa đóng xong, muốn chỉnh sửa đôi chút không gì khó, bọn tiểu nhân lập tức làm việc, làm ra chiếc chiến thuyền kiểu mới tận dụng sức gió và khống chế dòng chảy này.”
Khánh Kỵ gật đầu mỉm cười: “Tốt, đợi khi nào hoàn thành, ngoài tiền công đã hứa, các vị đều được nhận thêm gấp năm, à không! Gấp mười lần tiền thưởng, Ngô quốc Khánh Kỵ, đã nói là làm, các vị có thể yên tâm, bắt đầu bắt tay vào làm việc đi.”
Khánh Kỵ phất tay, cùng Yểm Dư lui ra ngoài “Chu thất”, mấy đội trưởng đóng thuyền lập tức túm tụm lại với nhau, léo nhéo bàn bạc một hồi, số khoang thuyền kín, bánh lái, buồm gió Khánh Kỵ nói với họ trước đây chưa từng thấy qua, họ là những tay đóng thuyền lão luyện lúc này cũng cần bàn bạc điều chỉnh cho phù hợp, tất nhiên cần trao đổi kinh nghiệm với nhau trước đã.
Vừa ra khỏi “Chu thất”, Yểm Dư phấn khích khen lấy khen để: “Khánh Kỵ này, thúc phụ bây giờ đối với cháu đúng là tâm phục khẩu phục, cháu có thể trong một thời gian ngắn nảy ra ý tưởng táo bạo này, không phải có thần thánh giúp đỡ không thể làm được. Thiên hạ của Ngô quốc, thuộc về cháu chắc rồi! Có các chiến thuyền kiểu mới này, chúng ta muốn quay về Ngô quốc trước lão tặc Cơ Quang dễ như trở bàn tay, chỉ cần thuyền được đóng xong, ta lập tức cho binh sĩ tập luyện sử dụng thành thạo, …”
Khánh Kỵ mỉm cười, vừa định lên tiếng, phía bìa rừng xa xa Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man đang xì xào to nhỏ đã nhìn thấy hắn bước ra ngoài, Quý Tôn Tiểu Man sải bước dài lao nhanh tới trước mặt Khánh Kỵ, làm mặt giận dỗi: “Này! Muội muốn chèo thuyền trên hồ.”
Khánh Kỵ còn đang bận suy tư gì đó chưa kịp định thần, hờ hững buông một câu: “Thế thì đi đi.”
“Nhưng muội không biết chèo thuyền.”
“Đơn giản thôi mà, kiếm ai đó chèo giúp.”
Quý Tôn Tiểu Man cười tinh nghịch: “Vậy người ta tìm ai để chèo nè?” Thúc Tôn Diêu Quang lúc này đã đến đứng kế bên cũng đang tủm tỉm.
Khánh Kỵ vừa định trả lời, Kinh Lâm từ phía xa đang chạy nhanh tới, vừa chạy vừa hét lớn: “Công tử, công tử, có tin đưa đến.”
Khánh Kỵ vội bước tới, hỏi: “Có chuyện gì?”
Kinh Lâm vừa thở hổn hển vừa bẩm báo: “Hai cánh quân Ngô ở Ngư Phản, Quyền Ấp tấn công tàn quân trấn thủ La Giang của quân Sở, quân chủ lực của Sở phải ba ngày sau mới đến được, bây giờ quân Sở ở La Giang nguy ngập, phái người đột phá vòng vây chạy đến xin công tử cứu viện.”
“Hử?” Khánh Kỵ đanh mặt, vội gọi theo Yểm Dư, nói: “Đi, chúng ta đến chỗ ở của hoàng thúc rồi bàn bạc rõ ràng hơn.”
Hắn xua tay về hướng cô nương Tiểu Man có tính khí trẻ con: “Tiểu nha đầu, muốn đi chơi trên hồ thì cứ tìm mấy tên lính biết chèo thuyền chở theo là được mà.”
Quý Tô Tiểu Man phụng phịu: “Hứ, lại để hắn chuồn đi mất rồi.”
“Thôi đi, nam nhân ấy à, cứ bàn đến đánh trận là trong lòng chỉ có quân địch, còn chứa được gì khác đâu chứ? Chàng có việc lớn cần làm, chúng ta không giúp ích được gì cũng không nên gây cản trở, đi chơi trên hồ chúng ta tự đi vậy.” Thúc Tôn Diên Quang thông cảm lên tiếng.
Quý Tôn Tiểu Man quay đầu lại, nhìn một lượt từ đầu đến chân Diêu Quang. Thúc Tôn Diêu Quang hai má ửng hồng, thắc mắc: “Bị gì vậy?”
Quý Tôn Tiểu Man thở nhè nhẹ, hạ giọng: “Không có gì. Ta bây giờ đã hiểu vì sao hắn cứ gọi mình là tiểu nha đầu. Ây! Ta đúng là tính khí trẻ con, rất nhiều chuyện…cứ thích là làm, không hề suy nghĩ cho người khác…”
Thúc Tôn Diêu Quang nhìn vào khuôn mặt Tiểu Man, ánh nắng êm dịu rọi lên khuôn mặt búp sen của nàng ta, xung quanh lỗ tai có ít tóc tơ, toát ra vẻ ngây ngô của con trẻ, nhưng cũng có nét xinh xắn quyến rũ.
Thúc Tôn Diêu Quang thở dài: “Muội đó, biết nói ra những lời này, nghĩa là đã trưởng thành rồi.”
Diêu Quang ngẩng đầu, nhìn bóng lưng Khánh Kỵ đã đi sang bên kia bìa rừng, đan các ngón tay vào nhau, tâm sự: “Lúc mới gặp chàng, ta cũng chỉ là một thiếu nữ điêu ngoa không hiểu chuyện, cái tính khí bây giờ là được chàng dạy dỗ đó, ta cũng vừa mới chín chắn lên thôi.”
“Hừ! Quân Sở hành quân với tốc độ quá chậm, hậu quân xuất phát chậm, lại vội phái quân tiên phong tiến đánh Quyền Ấp, kết quả đơn độc tác chiến, bị Cơ Quang đánh bật ra La Giang, quân Sở rốt cuộc đang tính toán gì chứ?” Yểm Dư nghe Kinh Lâm bẩm báo chi tiết về tình hình bên quân Sở xong nổi cơn tanh bành.
Khánh Kỵ cười khổ: “Ai cũng biết hiện giờ người cầm quyền ở Sở chỉ là một tiểu Sở vương nhỏ tuổi, người kia là Phí Vô Cực. Phí Vô Cực thật ra rất thông minh, chỉ đáng tiếc con người hắn quá ích kỉ, một người ích kỉ chỉ biết lo nghĩ cho riêng mình, khó tránh khỏi làm ra những chuyện ngu ngốc. Hắn phái quân xâm nhập riêng lẻ, khó nói không phải vì muốn chúng ta gánh chịu sức tấn công của Cơ Quang giùm hắn.”
Kinh Lâm nổi đóa: “Chúng ta cũng đang bị Cơ Quang tấn công mà, đại quân của Vương Tôn Hùng không phải do công tử đánh cho tan tác ư? Cho dù Phí Vô Cực có đến đây hắn cũng không có gì để trách, chẳng qua hắn cứ nhỏ nhen, chấp nhận thiệt mất một cánh quân Sở. Hừ! Sở quốc giờ đã ra nông nỗi thế này, thứ gian thần như hắn còn toan tính chủ ý gây tổn hại lên nhau, khó trách đệ nhất cường quốc lãnh thổ rộng lớn, binh mã đông đúc phương Nam lại thảm hại đến bước đường này.”
Khánh Kỵ nói: “Lạc đà ốm đói vẫn to hơn con ngựa, hơn nữa Sở quốc không phải không mạnh, chỉ là thiếu gắn kết mà thôi, như một con sư tử khỏe mạnh có một bộ óc heo, nên mới bị người ngoài xà xẻo. Nay chúng ta vẫn cần hợp tác với người Sở, nên đối với quân Sở đang bị vây khốn ở La Giang, biết chắc là dụng tâm của Phí Vô Cực, cũng không thể bỏ mặc không cứu.”
Yểm Dư uất ức: “Binh mã của ta chính là bị đám khốn kiếp Nang Ngõa, Phí Vô Cực hại cho mất hết. Khánh Kỵ, ý cháu là…chúng ta vẫn phải xuất binh đi cứu viện đám quân Sở bị vây ở La Giang ư?”
Khánh Kỵ lắc đầu nguầy nguậy: “Phí Vô Cực đã gây ra chuyện này, người Sở sẽ tự đi cứu viện, chỉ vì biết chắc chúng ta không thể không cứu, người Sở nghĩ ra, bọn gian tặc Cơ Quang, Ngũ Tử Tư sao lại không nghĩ ra? Chúng vây đánh quân Sở tại La Giang là giả, mai phục quân cứu viện của ta mới là thật, nên…chúng ta không thể đi!”
Yểm Dư và Kinh Lâm cùng ngớ người không hiểu: “Vừa phải đi cứu, lại không thể đi cứu, vậy theo ý của chủ soái là…?”
Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành
Chương 197: Đánh úp sau lưng
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
“Mọi người xem.” Khánh Kỵ chỉ lên tấm bản đồ nói: “Phía Tây chỗ này là Ngư Phản, phía Đông chỗ này là Quyền Ấp, ở giữa là con sông La Giang, tàn quân của Sở đều tập trung cả ở đây. Mặt nam là Dĩnh Đô, mặt bắc khe núi này là thành Na Xứ chúng ta đang chiếm giữ. Nếu chúng ta xuất binh đi cứu quân Sở tại La Giang, Dĩnh Đô cũng xuất quân chặn đường chúng ta, sau đó quân Ngô tại Ngư Phản và Quyền Ấp sẽ tấn công hậu quân của ta, chúng ta cùng lúc bị đánh cả trước mặt sau lưng, làm không tốt thì cũng rơi vào tình cảnh của đám quân Sở này, mất đi thành trì hiểm yếu, lưu lạc tới vùng La Giang, đợi Tử Tây đến cứu, lúc đó cứu người không được, lại tự hại thân mình, sao có thể xuất binh đi cứu chứ?”
Đôi mắt Yểm Dư chớp chớp, đã hiểu ra vấn đề, nói: “Nếu quân Ngô lấy tàn quân của Sở tại La Giang làm mồi nhử, mục đích thật sự là nhằm vào chúng ta, vậy chúng ta hãy làm ra vẻ như muốn đưa quân đi cứu quân Sở, đánh trống khua chiêng tiến về La Giang, giữa đường ta thay đổi đột ngột, chỉ để lại ít người dẫn dụ quân địch, còn đại đội binh mã bất ngờ tấn công Ngư Phản hoặc Quyền Ấp, tương kế tựu kế cướp thành trì của chúng, có phải vậy không?”
Khánh Kỵ cười ha hả: “Hoàng thúc đoán đúng lắm, nhưng phải để lại ít quân thủ thành, quân chủ lực đi tấn công Quyền Ấp hoặc Ngư Phản, kết quả cuối cùng có thể là chiếm được một thành, mất một thành. Thành Nã Thứ nằm giữa Quyền Ấp và Ngư Phản, hồ Bách Tân từ khi biến thành xưởng đóng thuyền của quân ta, đã trở thành cứ điểm quan trọng quyết định đại nghiệp phạt Ngô sau này của ta có thành công hay không, nên cũng không thể khinh suất điều quân rời đi tiến đánh Quyền Ấp hoặc Ngư Phản. Ý của ta là…giả bộ xuất quân đến cứu viện La Giang, giữa đường chuyển sang tấn công Ngư Phản, sau đó…”
Ngón tay của Khánh Kỵ chỉ ngay vị trí của thành Na Xứ trên bản đồ, gằn từng tiếng một: “Một là hư chiêu, hai cũng là hư chiêu, ba mới là đánh thật. Chúng ta tương kế tựu kế, đợi khi quân Ngô tập kích thành Nã Thứ, đại quân quay về sau lưng chúng, đâm cho chúng một nhát hồi mã thương.”
Kinh Lâm không hiểu thế nào là “Hồi mã thương”, nhưng ý của Khánh Kỵ thì hắn đã hiểu ra, phấn khích khen ngợi: “Công tử quả nhiên diệu kế! Chúng muốn dụ chúng ta rơi vào bẫy mai phục, ngược lại rơi vào bẫy mai phục của chúng ta. Công tử thần cơ diệu toán như thế, lần này phạt Ngô phục quốc, đại sự tất thành.”
Khánh Kỵ khẽ lắc đầu, nghiêm nghị: “Binh sĩ có suy nghĩ như vậy, có thể nâng cao sĩ khí chiến đấu, nhưng thân làm tướng lĩnh, tuyệt đối không được tự tin thái quá, nên biết kiêu binh tất bại, trong binh pháp tuy có đề cập dùng binh tập kích bất ngờ giành thắng lợi, nhưng thắng lợi cuối cùng phần lớn thuộc về kẻ nào dùng binh lực hùng mạnh giao chiến chính diện. Cái gì mà lấy ít thắng nhiều, lấy yếu thắng mạnh trong binh gia không phải là không có, chỉ là có quá ít, chính vì vậy mới được người ta xem như kinh điển, ngoài ra đó chỉ quyết định thành bại trong một trận chiến, cực ít trường hợp xoay chuyển được cục diện cả chiến dịch.”
Ánh mắt Khánh Kỵ dõi theo phương xa, tự nói với mình: “Cho dù có là Binh thánh, binh lực cũng là tiêu chuẩn duy nhất quyết định tất cả. Cầm ba vạn quân trong tay, thiên hạ không ai địch lại, chỉ là một câu tâng bốc không đúng với thực tế, cũng như Khánh Kỵ ta bị người ta nói thành vạn người khó chống lại, cứ cho một trăm binh sĩ vây kín ta, ta có mọc cánh cũng khó mà chạy thoát thân.”
Kinh Lâm thấy chủ soái nói có vẻ nghiêm trọng, liền luôn miệng nhận lỗi. Yểm Dư không biết hắn đang lo về cánh quân mấy ngàn người do Tôn Vũ thống lĩnh có nhiệm vụ tập kích bất ngờ vào Ngô quốc, những lời vừa nãy nghe hắn nhắc đến xưởng đóng thuyền, trong lòng chợt nổi lên một khúc mắc, liền lên tiếng hỏi: “Khánh Kỵ, cháu bản lĩnh đầy mình, điều đó ta biết. Luận về kiếm pháp, cháu không bằng ta. Luận về mâu pháp, ta không bằng cháu. Cháu trời sinh đã có thần lực, trên chiến trường ít có địch thủ, được xưng tụng là Đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc, điều đó cũng xác đáng thôi. Nhưng nói về dẫn quân đánh trận, cháu luôn quen việc dẫn quân đường đường chính chính giáp chiến chính diện với quân địch, không giỏi về việc dùng mưu mẹo, bây giờ thói quen dụng binh của cháu so với hồi năm ngoái lúc rời khỏi Sở khác nhau một trời một vực. Còn nữa, cháu đường đường là vương tử Ngô quốc, sao lại biết nghiên cứu ra máy xay, bánh xe gió, rồi mấy thứ thuyền buồm, bánh lái gì đó? Ta nghe nói, bàn chải đánh răng mà hiện nay các công khanh quý tộc khắp các nước chư hầu đều thích dùng cũng do cháu thiết kế làm ra, cháu làm ra tất cả bao nhiêu thứ, khiến ta khó mà tin đó là sự thật.”
Nghe những lời này, Khánh Kỵ không khỏi giật mình, người thời đó phần lớn chỉ nghe oai danh Khánh Kỵ, chứ không hiểu rõ về hắn, nên hắn có phát minh quái lạ nào người ngoài cũng không thắc mắc. Nhưng Yểm Dư thì khác, Yểm Dư là hoàng thúc của hắn, hai người tuổi tác không mấy chênh lệch, lại từ nhỏ chơi chung với nhau, cùng nhau trưởng thành nên hiểu rõ hắn hơn ai hết. Phong cách cầm quân đánh trận của hắn giờ đúng là hoàn toàn khác trước, số phát minh quái lạ ngay cả số thợ lão luyện lành nghề nhất lúc bấy giờ cũng không nghĩ ra của hắn không giống như chủ ý mà một vương tử quý tộc có thể nghĩ ra, Yểm Dư nổi lòng nghi ngờ là lẽ đương nhiên. Sau này gặp mặt Chúc Dung, hoặc sau khi phục quốc quay về Ngô, số người hiểu rõ quá khứ của hắn chắc chắn nhiều hơn, số điểm khác biệt xuất hiện trên người hắn vào lúc này phải tìm lí do giải thích nghe sao cho hợp lí mới được, nếu không thì rắc rối đây.
Nghĩ đến đây, Khánh Kỵ đột nhiên nhớ đến chuyện hồi nãy Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man tưởng lầm hắn trúng tà bị ma ám, bèn nảy ra một ý, vừa suy tính câu chuyện bịa đặt trong đầu, vừa nói giọng đều đều kéo dài thời gian: “Chuyện này nói ra thì…, thật ra đó là bí mật lớn nhất của ta, ta chưa từng nói cho người khác nghe, nhưng hai người một người là hoàng thúc, một người là tướng lĩnh vào sinh ra tử với ta, ta sẽ nói cho hai người nghe vậy.”
Yểm Dư và Kinh Lâm nghe Khánh Kỵ nói vẻ nghiêm trọng, đều hồi hợp nín thở nghe hắn kể tiếp câu chuyện.
Khánh Kỵ ra vẻ bí hiểm: “Không giấu gì hai người, ta ở trên sông bị Yêu Ly đâm cho một nhát xuyên thấu phủ tạng, với thương tích nặng thế thật ra khó mà sống sót. Lúc đó, ta thấy mình như đang trôi bồng bềnh trên bầu trời, ta còn nhìn thấy Kinh Lâm và Lương Hổ Tử ôm xác ta than khóc, định phóng hỏa đốt thuyền. Sau đó, trước mặt ta xuất hiện một tia sáng chói lòa, tia sáng xẹt ngang, toàn thân ta bị hút vào trong đó, thấy một thế giới hoàn toàn khác với thế giới hiện nay trong thiên hạ…”
Những gì tiếp theo, đối với Yểm Dư và Kinh Lâm mà nói, đều là chưa từng nghe qua, còn với người hiện đại như chúng ta thì đều đó cũng dễ hiểu. Khánh Kỵ đem chuyện thần thoại cổ tích và sự vật trong xã hội hiện đại kết hợp lại với nhau, thêu dệt cho họ nghe về một thế giới thiên đường. Thời đại Xuân Thu, truyện thần thoại Trung Quốc chưa có hệ thống hoàn thiện, người ta chỉ biết trên có thượng đế cai quản chúng sinh, còn chi tiết thế nào không một ai đủ sức tưởng tượng ra.
Khánh Kỵ nói đến nào là Nam Thiên môn, Kim Lăng điện, Tứ đại thiên vương, Bát đại kim cang, ba mươi ba tầng trời, sứ giả đi phong hỏa luân, rồi thiên lí nhãn, thuận phong nhĩ, thậm chí còn bịa ra các mỹ nhân mắt xanh môi đỏ mặc váy ngắn lái xe hơi, kết hợp cả cổ kim Đông Tây. Yểm Dư và Kinh Lâm nghe đến nỗi há hốc mồm không ngậm lại được.
Tóm lại, ý của câu chuyện này là: Khánh Kỵ vốn đã bỏ mạng, nhưng lên được thiên đình, được thần tiên thương hại, nên cho phép hắn tiếp tục sống để báo thù phục quốc, còn về những phát minh kì lạ của hắn, thật ra chỉ là lúc ở trên thiên đường hắn nhìn thấy mà thôi.
Câu chuyện thần tiên của Khánh Kỵ đem nói ra vào thời hiện đại còn hù dọa được đám dân đen quê mùa, nói gì đến thời đại Xuân Thu hơn hai ngàn năm trước, hắn kể xong câu chuyện bịa đặt, quay qua nhìn Yểm Dư và Kinh Lâm, thấy trong ánh mắt của hai người toát ra vẻ kính nể sợ sệt, cứ như trước mặt là một pho tượng thần.
Hội Kê, kinh đô Việt quốc, quần thần đang tranh luận nhau kịch liệt trên đại điện.
Đại phu Duệ Dong của Việt quốc khẳng khái mở lời phân tích: “Đại vương, hiện giờ Ngô vương Hạp Lư đang sa lầy ở Sở quốc, chính là cơ hội tốt cho chúng ta lợi dụng, năm trước Việt quốc ta lại bại trận lần nữa cho Ngô quốc, buộc phải nhục nhã xưng thần với Ngô, hai năm nay triều cống cho Ngô chịu nhiều sỉ nhục của người Ngô rồi, lúc này đây là lúc trả món nợ này.”
Đại phu Nhược Thành cũng đồng ý: “Duệ Dong đại phu nói có lí lắm, giờ ta nhận được tin Phù Khái bên Ngô vì người Đông Di làm loạn, đã quay về Hàn Ấp, binh lực ở Ngự Nhi thành không có bao nhiêu, nếu lúc này đại vương xua quân phạt Ngô, chiếm thành trì của chúng, thế như chẻ tre.”
Cao Như đại phu nói: “Đại vương, thực lực của Việt quốc ta không bằng Ngô quốc, thừa lúc Ngô đang trống rỗng xua quân thảo phạt chính là lúc này, hơn nữa chúng ta có thể lấy danh nghĩa giúp đỡ Sở quốc, nước Sở bao la rộng lớn, người Ngô tuy chiếm cứ Dĩnh Đô nhưng không đủ sức xâm lấn cả nước Sở đâu, bây giờ Tần, Vệ, Tống, Trần, Lỗ các nước đều xuất binh cứu Sở, Sở vương chắc sẽ quay về Dĩnh Đô, lúc đó chúng ta và Sở trở thành liên minh, người Ngô có hận cũng e dè chúng ta mấy phần.”
Việt vương Duẫn Thường ngồi trên đại điện, nghe xong phân tích của quần thần ra vẻ gật gù. Hạo Tiến đại phu lại căn ngăn: “Đại vương, theo ý tiểu thần, Việt quốc ta không nên tiến đánh Ngô quốc vào lúc này. Chư hầu khắp thiên hạ chỉ có Việt quốc ta là gần Ngô nhất, binh lực lại kém xa Ngô, lần này thừa cơ xuất binh tập kích, người Ngô chắc ôm hận trong lòng. Đợi khi thiên hạ ổn định, Việt quốc ta sẽ bị Ngô tính sổ, người Sở quen thói bỏ mặc người khác, Yểm Dư, Chúc Dung chính là tấm gương còn đó, Việt quốc ta nên thừa lúc thiên hạ đại loạn, nghỉ dưỡng quân sĩ, gia tăng sản xuất tăng cường sức mạnh quốc gia, không thể đi theo vết xe đổ của Yểm Dư, Chúc Dung được ạ.”
Duẫn Thường chau mày đăm chiêu, quay đầu nhìn sang kế bên, một thanh niên đang đứng bên cạnh hắn, người này thân hình cao ốm, nước da ngăm đen, cổ dài như cổ rắn, hai mắt sắc lẹm như chim ưng, mũi cao, mặc một chiếc áo bào trắng toát, đang chăm chú lắng nghe ý kiến của các đại thần.
Việt vương Duẫn Thường mỉm cười hỏi: “Hoàng nhi, hiện nay Ngô quốc trong ngoài đều khó khăn, Việt quốc ta có nên thừa cơ hội xuất binh thảo phạt, các đại thần ai cũng có ý kiến riêng, quả nhân muốn nghe thử ý kiến của con.”
Chàng thanh niên đó nhe răng, để lộ một hàm răng hô trắng hếu, lúc ngậm miệng như chiếc mỏ chim nhọn hoắc, người này chính là con trai duy nhất của Việt vương Duẫn Thường, đương kim thái tử Việt quốc Câu Tiễn.
Câu Tiễn nghe phụ vương hỏi vậy vội bước lên một bước, bẩm: “Phụ vương, các đại thần ai cũng có ý kiến riêng, người chủ công cũng có lí, người muốn thủ cũng không sai. Nhi thần nghe xong ý kiến các vị đại thần, phân tích đắn đo lợi hại trong đó, cảm thấy hiện nay thiên hạ đại loạn, Việt quốc ta khoanh tay không làm gì chưa chắc đã là chuyện tốt. Phía nam Việt quốc là rừng rậm hoang vu, là nơi tụ tập của các bộ lạc man di, phía Tây là lãnh thổ của Sở, Sở muốn mở rộng bờ cõi buộc phải tiến đánh Ngô phía Bắc, mở ra con đường thông ra trung nguyên. Ngô quốc bây giờ gây thù chuốc oán khắp nơi, cùng với các nước xung quanh là Sở, Lỗ, Đông Di nhóm lên ngọn lửa chiến tranh, đây chính là cơ hội cho Việt quốc ta tận dụng, nhân lúc hắn đang suy yếu lấy mạng hắn luôn, lúc này mà đóng cửa lại cố thủ, đợi khi Ngô quốc nghỉ ngơi dưỡng sức xong lại chà đạp lên đầu lên cổ người Việt ta à?”
Việt vương Duẫn Thường cười ha hả, vỗ đùi một cái, quét mắt về phía quần thần: “Những lời của hoàng nhi hợp với ý của quả nhân…”
Câu Tiễn lại nhe răng: “Phụ vương hãy khoan!”
“Hoàng nhi còn có gì muốn nói?” Việt vương Duẫn Thường thật ra đã có ý xuất binh, lại cố ý quay qua hỏi con trai, chỉ là hy vọng con trai hiểu được tâm ý của mình, nhờ vào miệng của Câu Tiễn nói ra quyết định xuất binh, từ đó tạo lập uy tín của thái tử trước mặt quần thần, đó cũng là tâm ý của người làm cha. Câu Tiễn quả nhiên tán thành xuất binh, trong lòng Duẫn Thường mừng rơn, vừa định hạ lệnh triệu tập binh mã thảo phạt Ngô quốc, vừa nghe con trai định nói tiếp, bèn cười tủm tỉm quay đầu lại hỏi.
“Dạ, phụ vương, nhi thần cho rằng phạt Ngô là chuyện chắc chắn phải làm, nhưng trước mắt thời cơ chưa đến.”
“Trước mắt thời cơ chưa đến? Hoàng nhi cứ từ từ nói ra ý kiến của mình cho quả nhân và các vị đại thần nghe coi sao.”
“Dạ, phụ vương. Việt quốc ta phạt Ngô, có ba điều kiện thuận lợi: một là Ngô vương Hạp Lư đang dẫn quân bên ngoài, dằng co với quân Sở và binh mã của Khánh Kỵ; hai là Phù Khái rời khỏi Ngự Nhi thành, trấn thủ Hàn Ấp đề phòng người Đông Di xâm lấn, tạo điều kiện cho Việt quốc ta Bắc tiến; ba là Ngô Sở kết oán, chư hầu khắp thiên hạ ngả về hai phe, nếu Việt quốc ta khai chiến với Ngô sẽ trở thành liên minh của Sở, kết giao được với một Sở quốc hùng mạnh.
Nhi thần nói lúc này chưa phải là thời cơ ra tay, nguyên nhân cũng có ba: một là tình hình khắp thiên hạ chưa rõ, nếu liên quân Tề Tấn nam tiến, quân Tần lùi về Quan Nội, tình hình thiên hạ xoay chuyển, Việt quốc ta giơ cao ngọn cờ giúp Sở không phải là hành động khôn ngoan; hai là lúc này khởi binh, Hạp Lư nghe tin trong nước xảy ra chiến loạn, lập tức rút quân về Ngô, đại quân của hắn vẫn chưa đại chiến nhiều trận với quân Sở, nguyên khí chưa bị tổn thương nặng, nếu hắn rút về nước là ta mất cơ hội; ba là Ngô quốc Khánh Kỵ, quyết chí giết chết Hạp Lư đoạt ngôi vị Ngô vương, cho dù hắn vây khốn Hạp Lư ở Sở, thậm chí giết chết Hạp Lư, Phù Sai ở Ngô cũng sẽ lập tức đăng cơ, Khánh Kỵ muốn đoạt vương vị, buộc phải đánh về Ngô mới được. Với thực lực của Việt quốc ta hiện giờ, vẫn chưa đủ sức chiếm cả nước Ngô, lúc này đánh Ngô chẳng qua chỉ là thừa cơ cướp bóc chút của cải. Thế tại sao chúng ta không chịu khó nhẫn nhịn chờ đợi thêm, đợi một thời cơ thích hợp hơn nào?”
Nhược Thành đại phu nghi hoặc hỏi: “Thời cơ thích hợp hơn? Ý của điện hạ là…?”
Câu Tiễn cười lạnh lùng, ánh mắt sắc lẻm: “Khánh Kỵ sẽ không chịu ở lại Sở quốc ra sức giúp Sở vương đánh về Dĩnh Đô đâu, hắn cuối cùng cũng phải đánh về Ngô quốc, đến lúc đó hắn bỏ hết tất cả vốn liếng ra đánh một trận, không còn đường lui nữa. Còn Hạp Lư, chắc sẽ dồn toàn lực ra quyết tử chiến với Khánh Kỵ một phen. Hai bên bước vào cục diện một mất một còn, đến lúc đó chúng ta mới khởi binh đánh Ngô, bọn họ là kẻ thù bất cộng đái thiên, Hạp Lư có chịu rời bỏ vương vị giao nộp thủ cấp? Hay là Khánh Kỵ chấp nhận từ bỏ vương vị và thù cha? Hai thứ đều không, họ sẽ không vì giữ vẹn toàn cho Ngô quốc mà hy sinh bản thân, khi đó chúng ta hạ có thể đạt được mục đích cướp bóc của cải của Ngô quốc, trung có thể ép một trong bọn họ xưng thần với Việt quốc ta để đổi lấy trợ giúp, thượng, chính là…ta thừa lúc họ lưỡng bại câu thương, binh lực hao tổn gần hết, chiếm trọn cả Ngô quốc.”
Quần thần chăm chú lắng nghe, khắp đại điện im phăng phắc. Câu Tiễn mỉm cười đắc ý, lại nói: “Mà ba điều kiện thuận lợi cho chúng ta phạt Ngô, đến lúc đó không những không biến mất, ngược lại còn được chúng ta vận dụng linh hoạt, chủ động nắm bắt hơn.”
Duẫn Thường nghe xong, nhắm mắt trầm tư giây lát, đột nhiên bật cười to tiếng.
Đại phu Kế Nghiên bước lên hai bước, vái lạy Duẫn Thường, vẻ thần phục lên tiếng: “Đại vương, điện hạ thông minh, nhìn xa trông rộng, chúng thần thán phục. Đại vương ta có con trai tài giỏi, Việt quốc ta có thái tử thế này, là phúc của ngàn vạn dân chúng Việt quốc, chúc mừng bệ hạ.”
Các đại phu Cao Như, Hạo Tiến đều bước cả ra, cung kính: “Kế này của điện hạ, tiến thoái đều ổn thỏa, chúng thần tán đồng.”
Duẫn Thường hí hửng nhìn vào con trai, đập bàn cái rầm, phán: “Tốt, cứ theo kế hoạch của con ta. Đợi khi thời cơ đến, quả nhân sẽ phong chức đại tướng quân cho thái tử, con hãy đi mang giang sơn Ngô quốc về cho quả nhân.”
Chính vào lúc này, một vị tướng quân bước vào đại điện, vì hắn đang mặc áo giáp, nên hành quân lễ: “Chư Kê Dĩnh tham kiến đại vương.”
Duẫn Thường kinh ngạc: “Chư Kê Dĩnh, lúc này chẳng phải ngươi nên ở Ô Thú sao? Sao lại quay về Hội Kê làm gì?”
Chư Kê Dĩnh nói: “Thần phụng mệnh Tử Minh tướng quân quay về Hội Kê, bẩm báo quân tình quan trọng với đại vương.”
Duẫn Thường lập tức nhổm lên, hai tay chống vào mặt bàn, vẻ mặt khẩn trương: “Nói mau, đã xảy ra chuyện gì?”
Chư Kê Dĩnh chắp tay trả lời: “Đại vương, quân ta đóng tại Vọng Hải Quan phát hiện có mấy trăm chiến thuyền lớn nhỏ, cứ tưởng là quân Ngô đến đánh lén, Tử Minh tướng quân nhận được tin báo, một mặt tăng cường phòng bị, một mặt phái ra vài đội quân do thám theo dõi động tĩnh của chúng, thấy chúng đã chỉnh đốn đội ngũ xong xuôi, lại lén đi về phía Ngô quốc, sáng nghỉ tối đi, hành tung bí hiểm, hình như có ý đồ gì với Ngô, lực lượng này chưa rõ là bạn hay thù, Tử Minh tướng quân không dám manh động nên sai tiểu tướng về đây báo cáo với đại vương.”
“Hử? Mấy trăm chiến thuyền vận chuyển binh lính trên biển…, chúng có khoảng bao nhiêu người?”
“Chắc cũng phải sáu bảy ngàn người trở lên, dưới một vạn.”
Duẫn Thường dõi mắt vào quần thần, các đại thần đều kinh ngạc, quay qua bàn luận với nhau. Hai nước Ngô Việt, xưa nay lấy Ô Ấp làm ranh giới, sau khi Việt quốc bại trận phải xưng thần với Ngô, để tránh ở quá gần quân biên phòng của Ngô xảy ra xung đột, các điểm đóng quân của Việt đều lui cả về sau, tạo thành vùng đất không người ở rộng mười mấy dặm ở giữa hai nước, vùng đất này có nhánh sông thông ra biển lớn, nên gọi là Vọng Hải Quan.
Lúc bấy giờ thuyền bè đi lại hoàn toàn dựa vào sức người chèo, vận chuyển số quân lớn này theo đường thủy, hao tốn tiền của khá nhiều, trước giờ chưa ai làm vậy, nhưng bọn chúng lên bờ phía Vọng Hải Quan, có nghĩa là đó không phải quân Ngô đi tập kích Việt quốc, vì nếu đánh Việt cứ tiến quân theo đường bộ là được rồi, đâu cần phí bao nhiêu sức người sức của đi đường vòng ngoài biển vào cho tốn công tốn sức. Hơn nữa sau khi lên bờ chúng lại lén vào lãnh thổ Ngô quốc, chúng là ai mới được chứ?
Duẫn Thường và Câu Tiễn nhìn nhau, đều không hẹn trước mà nghĩ tới một người.
Câu Tiễn lộ vẻ phấn khích, buộc miệng kêu lên: “Phụ vương, thời cơ của chúng ta đã đến!”
Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành
Chương 198: Tôn Vũ trổ tài
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
Vọng Hải Loan, chính là gần khu vực Hàng Châu thời hậu thế, nhưng khi đó vùng Hàng Châu vẫn còn ngập trong biển nước, địa hình địa lí khác xa so với hiện nay. Tôn Vũ sau khi cho đại quân lên bờ, lệnh cho một bộ phận binh lính quen thuộc thủy tính cưỡi thuyền nhẹ dọc theo bờ biển tiến lên Bắc, còn quân chủ lực đi đường bộ, chia làm hai ngả đánh tan hai đồn biên phòng của quân Ngô đóng tại biên giới.
Đang đại chiến ở nước Sở, quan hệ giữa nước Ngô với Lỗ quốc và các bộ lạc Đông Di ở phương Bắc ngày một căng thẳng, tuy nhiên Việt quốc trong mắt người Ngô có thực lực kém xa, không phải là mối đe dọa chí mạng, đóng quân ngay đây chỉ là phòng hờ Việt quốc thừa lúc chủ nhà đi vắng, như con chó điên xộc vào chuồng ngoặm một miếng thịt rồi bỏ đi, tận đáy lòng người Ngô đã tồn tại ý nghĩ khinh thường người Việt, nên mới tạo cơ hội thuận lợi cho Tôn Vũ dễ dàng dẹp yên đồn biên phòng của Ngô.
Khi đội thuyền của Tôn Vũ áp sát doanh trại thủy quân của Ngô quốc, đang vào lúc tờ mờ sáng, tinh thần cảnh giác của con người vào lúc kém nhất. Mấy chục chiếc thuyền cánh én nhỏ lặng lẽ tiến về phía Ngô doanh, hai chiếc thuyền đi trước dùng nỏ Sở bắn rụng số binh lính gác đêm trên chòi canh giữa sông, mở đập ngăn ra, đội thuyền nhanh chóng ùa vào.
Loại thuyền cánh én nhỏ này dài không quá mười thước, chỉ đủ chở mười người, nhưng lại xoay chuyển linh hoạt, dùng trong tấn công phòng thủ đều thần tốc. Trên thuyền chỉ có hai tay chèo, tám người còn lại có bốn người cầm nỏ, dưới chân đặt sẵn rìu bự, bốn người kia ngồi xen kẽ với nỏ binh, giơ khiên yểm trợ cho đồng đội, họ được trang bị trường mâu, chuẩn bị khi hai thuyền giáp chiến sẽ đưa qua móc lấy thuyền địch, nhảy vào trợ chiến. Ngoài ra, trên thuyền còn để nhiều vật dụng dễ bắt lửa đã được tẩm dầu và rất nhiều chai lọ sành sứ.
“Trên sông có người, trên sông có người, tập kích…Á!” Một tên lính Ngô đang đứng bên mạn thuyền tè xuống sông thấy trong sương đêm đột nhiên xuất hiện mấy chiếc thuyền địch, sợ đến nỗi lập tức hét toáng lên.
Hắn mới kêu được ba tiếng, ba mũi tên đã cắm phập vào người hắn, tên lính gục đầu chết tươi, rơi tỏm xuống mặt nước, một chiếc thuyền cánh én nhanh chóng áp sát, ném mồi lửa lên chiến thuyền quân Ngô, có mấy tên lính Ngô nghe tiếng hét báo động còn chưa kịp mặc áo hấp tấp ùa ra ngoài, lập tức bị nỏ Sở tiêu diệt, số binh lính còn lại cúi rạp người trong khoang thuyền không dám động đậy lên tiếng.
Chiến thuyền thời đó đều làm bằng gỗ, một khi bắt lửa, lại ném lên đó mấy cái lọ sành, trong lọ đều chứa đầy dầu, lọ sành vỡ tan khi đập vào thân tàu, lửa cháy lan theo vệt dầu loang, cả con thuyền lập tức cháy bừng bừng như một ngọn núi lửa. Chiếc thuyền cánh én vòng nhanh qua chiếc thuyền đang cháy, tiếp cận tiêu diệt chiến thuyền tiếp theo.
“Phóng tiễn, phóng tiễn!” Một số binh sĩ quân Ngô giờ đã phát giác bị tấn công lóp ngóp bò dậy cầm cung tên chạy ra, bắn lung tung vào làn sương mờ ảo trước mặt, thuyền cánh én giơ khiên chắn tên bắn tới, đồng thời dùng nỏ Sở bắn trả, số binh sĩ phụ trách che khiên một tay cầm khiên, tì vào vai mượn sức, tay còn lại cầm lấy mồi lửa đợi khi thuyền cánh én tiến vào phạm vi tầm ném thì ném sang chiến thuyền phe địch, sau đó còn bồi thêm vài lọ dầu qua kia.
Khi số thuyền cánh én luồn lách như cá trê vào đội chiến thuyền đang dừng đậu ven sông của quân Ngô, sau lưng họ các thuyền lớn đang cháy to bừng bừng. “Người Việt đánh lén, thuyền lớn không di chuyển được, mau lên thuyền nhỏ cản quân địch lại!”
Cuối cùng cũng có mấy viên tướng lĩnh chạy ra, hốt hoảng hạ mệnh lệnh chỉ huy chiến đấu, lập tức có mấy chiếc thuyền con chở theo lính Ngô còn chưa kịp trang bị đầy đủ áo giáp vũ khí tiến lên chặn đầu số thuyền cánh én, binh sĩ trên thuyền cánh én bắn nỏ, không cần đứng lên giương cung lắp tên, chỉ cần đặt tên vào, núp sau tấm khiên bắn ra, đợi khi hai thuyền áp sát, binh sĩ hai bên phóng móc câu vào thuyền đối phương, binh sĩ trên thuyền cánh én cũng lập tức buông nỏ xuống, nhặt rìu bự lên phối hợp với lính cầm trường mâu nhảy vào chém giết.
Số binh lính này đều trước sau trải qua huấn luyện nghiêm ngặt bởi Khánh Kỵ và Tôn Vũ, giỏi về sử dụng binh khí ngắn khi giáp chiến cự ly gần, mà quân Ngô hấp tấp lên thuyền ra trận, chưa kịp mang theo binh khí dài, với lại chúng không phải là đội quân kiếm thủ vang danh thiên hạ của Ngô quốc, chiến đấu trên thuyền con chật hẹp, quân địch sử dụng rìu to có sức, bên cạnh còn có trường mâu phối hợp, còn quân Ngô dùng kiếm ngắn bị thua thiệt, chúng không dám dùng kiếm tiếp chiêu với rìu bự của đối phương, vì chiến đấu trong khu vực chật hẹp lại không tận dụng được ưu điểm linh hoạt của kiếm ngắn, dưới thế chém mạnh của rìu bự hết tên này đến tên khác rơi tỏm xuống nước, máu loang đỏ cả mặt sông.
May là đám thuyền cánh én này không muốn đánh lâu, một khi đốt cháy một chiến thuyền, lập tức quay sang một chiến thuyền khác, số thuyền này vốn đang dừng đậu san sát nhau trên bến, thuyền cánh én lợi dụng khe hẹp len lỏi đi lại, còn thuyền to của Ngô lại không nhúc nhích được. Lúc này trời tờ mờ sáng, thủy triều dâng cao, gió thổi mạnh vào bờ, số thuyền chiến cháy rực như ngọn đuốc bị gió thổi cuốn vào bên trong, bắt lửa cả vào các thuyền khác, hàng chiến thuyền sau cùng chưa bị cháy, nhưng khói bay mù mịt làm cho quân Ngô tối tăm mặt mũi, không còn quan sát gì được nữa.
Số thuyền cánh én thấy đã hoàn thành xong nhiệm vụ tập kích, lập tức chia ra hai cánh đột phá vòng vây, số binh lính quen thuộc thủy tính châm lửa lên cả thuyền cánh én, đâm sầm vào chiến thuyền quân Ngô, sau đó nhảy xuống nước bỏ trốn.
Doanh trại quân Ngô đóng trên bờ là trận địa phía trước Ngự Nhi thành, trong doanh trại có hai ngàn binh sĩ, quân chủ lực của Tôn Vũ tiến đánh chỗ này không cần đánh lén, mà là phái một cánh quân tiên phong bày binh bố trận, lấy kiếm gõ vào khiên, khiêu chiến với quân Ngô trong doanh trại.
Sương đêm mịt mờ, mờ mờ ảo ảo không nhìn rõ đối phương có bao nhiêu binh mã, người Ngô nghe thấy bên ngoài huyên náo, trong đó còn xen lẫn tiếng địa phương của Việt quốc, cứ tưởng là quân Việt đến tập kích, Việt quốc có binh lực ít ỏi, giao chiến với Ngô quốc chuốc lấy thất bại như cơm bữa, tướng sĩ quân Ngô vốn đã kiêu căng không xem quân Việt ra gì, đại tướng Tây Môn Thắng nghe báo có người Việt khiêu chiến, lập tức tập hợp binh mã ra trận, quay lưng về phía doanh trại bày trận tiếp chiến.
Theo thông lệ, đối phương đã ngang nhiên khiêu chiến, hai bên sẽ bày binh bố trận, sau đó binh sĩ hai bên mới xông vào nhau chém giết, chưa đến lúc phân thắng bại thì đội quân do chủ tướng thống lĩnh ít khi phát động tấn công. Nhưng không ngờ binh mã của Tây Môn Thắng vừa bước ra khỏi doanh trại, đội hình còn chưa bày xong, “Quân Việt” bên kia lập tức ùa sang tấn công, mưa tên vù vù bắn về phía quân Ngô.
Muốn cất giữ cung tên trong miền sông nước phương Nam không hề dễ, nên cung tên không phải là vũ khí chủ lực trong các cuộc giao tranh Ngô Việt, Tây Môn Thắng nằm mơ cũng không ngờ kẻ địch lại trang bị nỏ mạnh, binh chủng hoàn toàn khác với quân Việt trước đây, binh mã của hắn vang lên tiếng rú thảm thiết trong đêm.
“Bắn tiếp!” Tôn Vũ đứng ở trận tiền, dõng tai lắng nghe tiếng kêu gào đau đớn phía bên kia chiến tuyến, lạnh lùng ra lệnh. Đội cung nỏ thứ hai đã chuẩn bị sẵn lập tức bắn tiếp một chập tên, “Vù, vù!” tiếng tên bay xé gió lao đi, ào ạt trút xuống đầu quân Ngô tội nghiệp. Tiếng lích kích kéo căng dây cung lại vang lên, đội cung nỏ đầu tiên bắn tên đi nay lại lắp tên xong giơ nỏ lên.
Tên là một loại binh khí hao phí nặng, muốn cất giữ cung nỏ, cán tên, lông vũ, mũi nhọn đều hao phí không hề ít, vả lại phần lớn là chỉ bắn tên vào đợt đầu trước khi tấn công, tên bắn ra khó có cơ hội thu hồi lại, hai nước Ngô Việt không giàu bằng Sở quốc rộng lớn và các nước chư hầu trung nguyên, nên cung tên có rất ít, về vấn đề tiền của là một lí do lớn ảnh hưởng.
Hai lượt tên bắn ra, đó là một món hao phí lớn, Chúc Dung công tử đứng xem bên cạnh có hơi tiếc đứt ruột, Tôn Vũ không hề biến sắc, lạnh lùng ra lệnh: “Tiếp tục bắn! Nổi trống lên, tấn công hai cánh!” Cùng với giọng nói của Tôn Vũ, trận mưa tên thứ ba được bắn ra, hai cánh quân trái phải được sương mù che chắn nghe hồi trống xông trận, dũng mãnh lao lên như hổ dữ xuống núi…
Doanh trại quân Ngô khắp nơi hoang tàn, Tôn Vũ đứng trên một gò đất bị cháy đen còn bốc khói dõi mắt về phương xa, lúc này sương mù đã tan, số quân Ngô bị bắt làm tù binh đang bị áp giải cúi đầu lủi thủi đi ngang sau lưng Tôn Vũ.
“Tôn tướng quân quả nhiên tài giỏi, dẫn dụ Phù Khái đi Hàn Ấp, xách động người Đông Di chế ngự binh lực của hắn, sau đó vận chuyển cả vạn đại quân theo đường biển vòng về sau lưng địch lên bờ, chủ ý này bổn công tử ngay cả nghĩ còn không dám nghĩ đến, chúng ta chỉnh đốn binh mã, còn phải chiếm lấy Ngự Nhi thành, sau đó mới đánh thẳng vào Cô Tô được, trận chiến sắp tới không dễ đánh đâu, nhưng có Tôn tướng quân ở đây, bổn công tử tràn trề lòng tin.”
Chúc Dung tuy là thân phận công tử, nhưng đội quân này là do Tôn Vũ thống lĩnh, trong đội quân này uy danh của hắn kém xa Tôn Vũ và Anh Đào, chính vì vậy với tính khí cao ngạo nóng nảy của hắn, ngược lại phải cung kính nể trọng Tôn Vũ.
Tôn Vũ mỉm cười nói: “Công tử quá khen rồi, Anh Đào đang tập kích thủy trại quân Ngô, đợi huynh ấy về, chúng ta lập tức rời khỏi đây, Ngự Nhi thành không thể đánh, đó là cứ điểm quan trọng Phù Khái đề phòng người Việt, tuy thành trì không to lớn hiểm trở, nhưng Phù Khái dụng tâm xây dựng, bố phòng nghiêm ngặt, chúng ta dễ dàng đánh thắng ở đây chứ không dễ chiếm giữ Ngự Nhi thành đâu, chúng ta cũng không thể tốn quá nhiều thời gian ở đây, đánh trận ở đây vẫn phải dùng cách khi chúng ta xuất binh tại Phi Hồ cốc, chia nhỏ binh lực, hẹn trước thời gian, địa điểm, phái tướng lĩnh trung thành đáng tin cậy, thông thạo địa hình Ngô quốc dẫn đường, chia ra đến địa điểm tập kết.”
Chúc Dung nghe xong giật mình kinh ngạc: “Chia nhỏ binh lực, muốn vòng qua Ngự Nhi thành theo đường rừng không phải là không làm được, nhưng làm như vậy chẳng phải là cho phép quân thủ thành ở Ngự Nhi chặn mất đường lui của ta?”
Tôn Vũ nói vẻ nghiêm nghị: “Công tử, từ khi chúng ta đặt bước lên lãnh thổ Ngô quốc, chúng ta đã không còn đường lui rồi. Chúng ta không thể cứ mải miết công thành đoạt trại, đánh về phía Cô Tô thành, bằng không khi chúng ta tới được Cô Tô, binh mã đã bị hao tổn gần hết, đến lúc đó đâu còn sức mà công thành? Thừa lúc Phù Khái bị thu hút về phía Hàn Ấp, chúng ta phải nhanh chóng tiến vào Cô Tô, còn về việc quân Ngô ở Ngự Nhi thành chặn đánh sau lưng ta thì…, cho dù không có cánh quân này, một khi chúng ta xuất hiện tại Cô Tô, các lộ binh mã thủ thành khắp nơi đều sẽ ùa vào chúng ta thôi.”
Chúc Dung hứ một tiếng, nhíu mày nói: “Được, bổn công tử cũng phải đích thân dẫn một đội quân, quân trấn thủ Vũ Nguyên là bộ hạ cũ của ta, Cơ Quang tuy thay hết tướng lĩnh của ta, nhưng không thể nào đuổi hết quân của ta về nhà, hắn dẫn quân giao chiến với ta ở Sở, thế nào cũng không dám dùng đội quân ta từng làm chủ soái này, mà điều họ đi trấn giữ duyên hải phía Đông Nam. Ta dẫn quân theo, nói không chừng có thể lôi kéo đội quân này, lúc đó binh lực của chúng ta sẽ mạnh lên đôi chút.”
Tôn Vũ trầm ngâm: “Thế thì được, chỉ là công tử nên cẩn thận giữ gìn an toàn cho bản thân, chúng ta bàn bạc quyết định xong thời gian, địa điểm tập hợp, công tử mới xuất phát cũng chưa muộn. Từ khi tiếp tay quản lí Phi Hồ cốc, Tôn Vũ đã phái người không ngừng đến Cô Tô thành dò thăm tin tức…”
Nói đến đây, Tôn Vũ thở dài ngao ngán: “Cô Tô thành do Ngũ Tử Tư xây dựng, ở phương Bắc có lẽ còn chưa được xem là tòa thành hiểm trở không thể leo lên, nhưng ở Ngô quốc đã là đại thành trước đây chưa từng có. Lúc Ngũ Viên xây thành cũng đã nghĩ đến trường hợp kinh đô bị vây đánh, trong thiết kế vận dụng khéo léo ưu thế địa hình, tòa thành này dễ thủ khó công, hơn nữa đương kim thái tử Phù Sai cũng không phải thứ bất tài vô tướng, sắp xếp việc bố phòng đâu ra đó, muốn dựa vào hơn vạn quân tập kích vào thành, khó đấy! Còn nếu bao vây tấn công mạnh mẽ, chỉ dựa vào số lính thủ thành, chúng chiếm ưu thế địa hình, chúng ta cũng chưa chắc giành phần thắng, ngoài ra còn phải đề phòng quân địch quay về cứu viện, vì thế ta mới ra sức giữ gìn binh lực, đi vòng theo đường biển đến sau lưng địch, đâm nhát mạnh vào tim chúng, khiến chúng trong ngoài không thể tiếp ứng lẫn nhau. Cái chúng ta làm được chỉ có bấy nhiêu, nếu vọng tưởng chiếm trọn Cô Tô, dựa vào chút binh lực của chúng ta, đợi khi Khánh Kỵ công tử về Ngô quốc, lúc đó chỉ kịp dọn xác giùm ta mà thôi.”
Chúc Dung ngớ người, vội hỏi: “Mục đích của chúng ta không phải là chiếm giữ Cô Tô thành, thủ thành đợi viện binh sao? Thế chúng ta xua quân vào sâu, chẳng lẽ không nguy hiểm?”
Tôn Vũ lắc đầu: “Chưa chắc, nếu chúng ta đặt mục tiêu tấn công thành Cô Tô, vậy phải hứng chịu sức tấn công của quân Ngô cả trong và ngoài thành, với binh lực của chúng ta chẳng khác nào tự sát. Việc dùng binh, gấp mười bao vây, gấp năm tấn công, binh lực chúng ta thua xa đối phương, chỉ còn cách cơ động tác chiến, dắt mũi quân địch chạy theo chúng ta. Binh lực trong Ngô quốc hiện giờ không đủ tạo thế bao vây ta, nên quân ta ở đây vẫn còn nhiều đất dụng võ. Thứ chúng ta phải làm là tạo cơ hội, trái chín ắt sẽ rụng, đợi Khánh Kỵ công tử về nước, chỉ cần chúng ta tạo ra thanh thế và cơ hội đủ cho công tử lợi dụng, vậy trái đào chín mọng trên cây này, tự nhiên sẽ được công tử hái xuống.”
Nói đến đây, ánh mắt Tôn Vũ sáng lên, gằn giọng: “Đương nhiên, đánh trận quyết liệt cuối cùng cũng phải đánh, nếu không sao tạo dựng thanh thế?”
Chúc Dung nghe vậy cho rằng Tôn Vũ muốn nhường công lao chiếm giữ Cô Tô thành cho Khánh Kỵ, tạo điều kiện thuận lợi cho Khánh Kỵ bước lên vương vị sau này, trong lòng cảm thấy không vui, hỏi: “Khánh Kỵ đang thu hút quân chủ lực của Cơ Quang ở Sở, bảo chúng ta đoạt lấy Cô Tô thành, đó không phải là kế hoạch đã vạch sẵn ư? Giờ sao Tôn tướng quân lại nói thế?”
Tôn Vũ trả lời: “Tôn Vũ cho rằng, thượng binh phạt mưu, kì thứ phạt giao, kì thứ phạt binh, kì hạ công thành. Với binh lực kém xa đối phương, xét vị trí địch là chủ ta là khách, với tài trí của Phà Sai, Phù Khái và tình hình Ngô quốc hiện tại phán đoán, tấn công đoạt thành không phải là hành động khôn ngoan vào lúc này. Kế hoạch định sẵn chỉ là dựa theo tình hình nắm bắt được lúc đó đưa ra quyết định, nay chúng ta đang có tình báo thiết thực hơn, thì nên xuôi theo thời thế thay đổi kế hoạch trước đây, tướng tại ngoại, quân lệnh có thể không nghe theo.”
(Giải thích: “Thượng binh phạt mưu, kì thứ phạt giao, kì thứ phạt binh, kì hạ công thành.” Câu này được trích trong Tôn Tử binh pháp, nghĩa là việc dụng binh hay nhất là sử dụng mưu mẹo, tiếp đến là ngoại giao, sau đó mới dùng đến binh sĩ chiến đấu, tấn công thành trì xếp cuối cùng.)
Chúc Dung tự biết mình tuy là thân phận công tử, nhưng Tôn Vũ là người của Khánh Kỵ, công tử như hắn trên thực tế không thể chỉ huy được binh mã của Khánh Kỵ, bèn nhẫn nhịn nói: “Chủ ý này của tướng quân đã báo với Khánh Kỵ chưa? Bây giờ đột nhiên thay đổi kế hoạch, tướng quân muốn phối hợp với Khánh Kỵ thế nào?”
Tôn Vũ nói: “Lát nữa đợi Anh Đào quay về, Tôn Vũ cùng công tử, Anh Đào tướng quân bàn định kế hoạch hành động chi tiết bước tiếp theo xong, lập tức phái tín sứ đưa tin đến công tử Khánh Kỵ ở Sở quốc.”
Chúc Dung thất kinh hỏi: “Chúng ta đã xuất hiện tại Ngô quốc, tin này rất nhanh sẽ truyền đến tai Phù Sai và Phù Khái, tin của chúng ta đưa đi có kịp không? Khánh Kỵ có kịp ứng biến phối hợp không?”
“Việc này…Xin công tử cứ yên tâm, trước lúc tới Ngô, ta từng được một người giúp đỡ.” Tôn Vũ cười một cách bí hiểm: “Theo cách của nàng ta, tin tức chắc chắn kịp thời nhanh chóng đưa tới cho Khánh Kỵ công tử.”
Chúc Dung nghe Tôn Vũ nói chuyện gì cũng đưa Khánh Kỵ lên trước tiên, trong lòng đã không vui, giờ lại nghe hắn nói có người giúp đỡ vẻ bí hiểm, cứ tưởng Khánh Kỵ có cách thức đưa tin bí mật gì không nói cho mình biết, trong lòng càng thấy tức tối, hứ mạnh một tiếng: “Được rồi, ta đi bắt vài tên tù binh, coi có tra hỏi được tình hình Ngô quốc hiện nay không?” Dứt lời phất tay áo quay lưng hậm hực bỏ đi.
Tôn Vũ nhìn theo bóng lưng Chúc Dung, mỉm cười chua chát, hắn nhìn thấu suy nghĩ trong tim Chúc Dung, đó chính là lí do hắn phòng bị đối với Chúc Dung. Nhưng tên Chúc Dung này hãy còn có ích nhiều, bây giờ Khánh Kỵ ở xa tận Sở quốc, hắn lấy danh nghĩa thay Khánh Kỵ phạt Ngô phục quốc giết vào Ngô, chỉ dựa vào lí do này là không đủ, có Chúc Dung trong quân, chí ít giảm được chút khó khăn trở ngại, đối với đại nghiệp của chúa công Khánh Kỵ có tác dụng to lớn.
Biển thu nhận cả trăm con sông đổ vào, người làm việc lớn phải biết bao dung, tấm lòng bao dung gồm bao dung sở đoản của người khác, bao dung lòng riêng của người khác. Trong mắt không cho phép có một hạt cát, nếu không phải kẻ có mười hai phần tận trung thành khẩn thì không sử dụng, chúa công thế này chỉ thích hợp dẫn theo ba đến năm trăm hán tử không cầu sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm, chỉ mong chết cùng năm cùng tháng cùng ngày làm sơn tặc đại vương. Khánh Kỵ không để bụng khi xưa Yểm Dư, Chúc Dung mang lòng riêng ở lại Sở quốc, không những đón họ về mà còn giao phó hai cánh quân Ngải thành và Phí thành vất vả tạo dựng vào tay họ, tấm lòng bao dung đó mới giống người làm việc lớn, Tôn Vũ đối với Khánh Kỵ ngày càng kính phục là vậy.
Tôn Vũ quay đầu về phía biên giới Việt quốc, một khoảng trống mọc đầy cỏ dại trải dài, không hề thấy bóng dáng doanh trại của quân Việt, nhưng Tôn Vũ biết ở phía bên kia, không biết có bao nhiêu đôi mắt đang theo dõi nhất cử nhất động của hắn, Tôn Vũ tủm tỉm cười đầy ẩn ý.
Dẫn theo hơn một vạn binh mã, bất ngờ tập kích vào Ngô, đoạt lấy kinh đô, kế hoạch này rất chủ động nhưng khả năng thành công lại khá thấp. Hồi đó Khánh Kỵ vốn định mượn thành đóng quân tại Lỗ quốc, từ đó quấy nhiễu quân Ngô, bảo đảm ảnh hưởng của mình trong người Ngô không mất đi, tấn công Ngô quốc vẫn phải theo hướng chính diện.
Người Lỗ không chịu vì Khánh Kỵ mà xung đột trực tiếp với Ngô, hắn bèn tính kế thứ hai, bí mật xây dựng một đạo quân ngay tại Lỗ quốc, lúc chinh phạt Ngô quốc, lấy đạo quân bên Vệ làm chủ lực, tân quân bên Lỗ tiếp ứng, giáp chiến hai mặt, chia cắt binh lực của Ngô vương Hạp Lư, tận dụng tất cả khả năng tạo điều kiện có lợi cho đại nghiệp phạt Ngô phục quốc.
Hồi sau Ngô quốc phạt Sở, tình hình thay đổi, Khánh Kỵ mới căn cứ theo tình hình mới, quyết định đem quân đội đóng ở Vệ của mình đến liên minh với người Sở, thu hút quân chủ lực của Ngô tại Sở, cánh quân mới xây dựng tại Lỗ vốn định chỉ để quấy nhiễu đánh tuyến thứ hai nay phải gánh vác trọng trách trở thành đạo quân chủ lực đánh chiếm kinh đô của Ngô quốc, kế hoạch tác chiến vẫn còn đang không ngừng điều chỉnh hoàn thiện theo tình hình Ngô quốc hiện nay.
Trên thực tế, dù cho quân chủ lực của Ngô đang đánh trận ở Sở, chỉ dựa vào một cánh quân mới thành lập, ý đồ công phá kinh đô Ngô quốc là một nhiệm vụ bất khả thi. Khánh Kỵ dám mạo hiểm quyết định làm vậy, dù bản thân hắn không phát hiện ra, nhưng trong tiềm thức của hắn chịu một lí do quan trọng ảnh hưởng: Tôn Vũ.
Vì Khánh Kỵ biết rõ tài năng quân sự của Tôn Vũ trong lịch sử Trung Quốc, tuy hắn ba lần bảy lượt tự nói với bản thân, muốn giành thắng lợi trong chiến tranh tuyệt đối phải dựa vào sức mạnh, hắn nói với Yểm Dư và Kinh Lâm tại Bách Tân hồ cũng là vậy, nhưng hắn vẫn còn chút mê tín về khả năng của Binh thánh Tôn Vũ.
Tôn Vũ tiếp quản đội quân Phi Hồ cốc, với lại sau khi xác định rõ mục tiêu phạt Ngô, từng lần lượt phái đi nhiều mật thám lẻn vào Ngô quốc thu nhặt tình báo, biết người biết ta, trăm trận trăm thắng, binh lực của hắn thua kém Ngô quốc, lại gánh vác trọng trách thế này, tuyệt đối không thể nhắm mắt làm liều khi chưa hoàn toàn hiểu rõ tình hình phía Ngô được.
Khi nắm rõ được tình báo, thêm vào phán đoán lực lượng đôi bên, Tôn Vũ cảm thấy chỉ dựa vào hành động quân sự khó có thể đạt được mục đích, do đó hắn thay đổi kế hoạch tác chiến của Khánh Kỵ, nhanh chóng đưa kế hoạch mới của mình đến nước Sở, Tôn Vũ tin chắc Khánh Kỵ sẽ ủng hộ quyết định táo bạo này của hắn.
Đội ngũ tập hợp chỉnh tề, vừa mới trải qua trận chiến, trên mặt các binh sĩ hãy còn mang sát khí đằng đằng, gươm giáo tua tủa, quân sĩ đứng im phăng phắc, trong rừng đám chim chóc bị tiếng chém giết kinh động bay trở về, lại không tìm được cái tổ quen thuộc, chúng bay tán loạn trên đầu các binh sĩ, có con đậu xuống dưới vai, cảm nhận được luồng sát khí đáng sợ đám người đứng đó đang toát ra, vội vỗ cánh xuyên qua rừng gươm giáo bay đi mất dạng.
Chúc Dung không khỏi nổi lòng thán phục, hắn cũng là người dẫn quân lâu năm, binh sĩ dưới trướng không thể nói là không anh dũng thiện chiến, nhưng so về kỉ luật nghiêm khắc, tuyệt đối không sánh bằng đội quân này của Tôn Vũ, cánh quân này mới được huấn luyện có mấy tháng thôi. Tên Tôn Vũ này đúng là một tướng tài, tiếc là dướng trướng hắn không có người tài như thế, bằng không cũng không thua thê thảm ở Sở quốc rồi…Chúc Dung rầu rĩ nhớ lại.
“Các tướng sĩ nghe lệnh!” Tôn Vũ hét to một tiếng, toàn quân im phăng phắc lắng nghe.
Tôn Vũ sải bước đi lên đài điểm tướng, quay mặt về phía đội ngũ đen sì sì, chỉ tay về phía xa, cất cao giọng: “Trận chiến hôm nay chỉ là tập dượt thôi, mục tiêu cuối cùng của quân ta chính là Cô Tô thành, ngoài ra đều không thèm nói tới. Nhưng…Cô Tô thành không dễ tấn công như chỗ này, Phù Sai và Phù Khái cũng không dễ chế ngự như Tây Môn Thắng.”
Cột cờ kế bên đài điểm tướng đã hạ lá cờ của quân Ngô xuống, trên đó giờ treo lơ lửng một cái thủ cấp, chính là thủ cấp của Tây Môn Thắng, hắn chết dưới kiếm của Chúc Dung.
“Trong thiên hạ sẽ không xuất hiện một đạo quân giống như chúng ta, với binh lực không quá một vạn người, dám phát động tấn công vào kinh đô một nước, chỉ dựa vào việc này thôi là đủ cho thiên hạ lác mắt, đủ cho đám nam nhi nhiệt huyết chúng ta cảm thấy kiêu ngạo. Kể từ chỗ này, cho đến dưới chân thành Cô Tô, chúng ta phải đi xuyên qua chốt chặn quan trọng Ngự Nhi thành, còn phải đi xuyên các tòa thành Túy Lý, Lạp Trạch, Hình Ấp, Hoành Thượng…, phải vượt qua mấy chục phòng tuyến của địch, giao chiến với quân Ngô không rõ số lượng đang bố phòng khắp nơi.
Thủ đoạn của quân Ngô các ngươi thấy rõ, cho dù là người Đông Di bị bắt hoặc đầu hàng, tất cả đều bị Phù Khái bêu đầu, lần này tiến quân, chúng ta có tiến không lui, nếu muốn sinh tồn, chỉ còn cách tiêu diệt kẻ địch, nếu muốn kiến công lập nghiệp, sau này bái tước phong hầu, chỉ còn cách giẫm lên máu của quân địch mà đi tới. Cơ Quang có thể dùng năm vạn quân đánh chiếm Dĩnh Đô, chúng ta chỉ dùng dưới một vạn đoạt lấy Cô Tô. Cơ Quang nếu thua trận còn có Ngô quốc làm chỗ dựa, các ngươi không có chỗ dựa, Ngô quốc cũng chính là lối thoát hiểm duy nhất, chiếm lấy Cô Tô, các ngươi mới được sống, mới có căn cứ dung thân, mới được hưởng vinh hoa phú quý!”
Xung quanh doanh trại đã bị san thành bình địa, hơi thở của gió xuân hòa nhịp, đưa tiếng nói của Tôn Vũ vang cao vang xa.
“Các ngươi không phải đơn độc chiến đấu, bổn tướng đã phái người phi ngựa đem tin đánh xộc vào Ngô quốc của chúng ta đến báo cho công tử Khánh Kỵ, rất nhanh, công tử sẽ đưa đại quân quay về Ngô quốc, sát cánh chiến đấu cùng quân ta. Theo như sắp xếp, mỗi năm trăm người chia làm một đội, chia ra chọn đường mà tiến tới, đến địa điểm chọn trước tập hợp, nếu bị quân Ngô đánh tan thì dùng chiến thuật du kích, mạnh ai nấy ẩn náu, chờ đợi thời cơ đánh lén, hoàn thành sứ mệnh của các ngươi, có nghe rõ không?”
Ba quân đồng thanh hét lớn: “Dạ!”
Tôn Vũ phất tay một cái: “Xuất phát!”
Từng đội binh sĩ theo sắp xếp định sẵn phân ra nhiều nhóm, do một lữ soái thống lĩnh, chia nhau các hướng tiến sâu vào Ngô quốc, đại quân hành động nhanh chóng bài bản, theo quy chế trong quân của Khánh Kỵ, quân đội được chia theo quy cách lúc bấy giờ, năm người là một “Ngũ”, có một ngũ trưởng; năm ngũ là một “Lượng”, có một lượng tư mã; bốn lượng thành một “Tốt”, có một tốt trưởng; năm tốt thành một “Lữ”, do một lữ soái chỉ huy…Vậy một lữ vừa đúng có năm trăm người.
Khánh Kỵ chưa bao giờ cảm thấy chia quân ra như thế có thể nâng cao sức chiến đấu của quân đội lên, hơn nữa lúc đó mỗi một quân sĩ còn phải phân chia đẳng cấp và vũ khí sử dụng, khá là rắc rối, nên trong lúc huấn luyện quân đội Khánh Kỵ không mấy quan tâm chuyện chia quân này, chỉ khi Tôn Vũ tiếp quản mới ra sức huấn luyện, lúc này phải hành quân nhóm nhỏ mới thấy rõ tác dụng của việc chia quân.
Lữ này gồm năm trăm người, Tôn Vũ chỉ định một viên tốt trưởng thông thạo địa lí Ngô quốc làm Lữ soái, phụ trách thọt vào sau lưng địch, có quyền độc lập chỉ huy tác chiến trước khi đến được địa điểm tập kết. Nhìn toàn quân tập hợp, chia tách, tiến quân nhanh chóng mà không rối, Tôn Vũ mỉm cười hài lòng, chỉ trong một thời gian ngắn có thể huấn luyện một đội quân hỗn tạp gồm nông dân, thương lái, nô dịch, tù nhân và cả đám lưu manh vô lại thành ra thế này, tất nhiên đủ khiến chàng tướng quân trẻ tuổi cảm thấy tự hào.
Hơn nữa trong công tác huấn luyện, Tôn Vũ có ý đồ đặt nặng việc huấn luyện kỉ luật và ý thức của quân sĩ, theo tiêu chuẩn quan quân mà huấn luyện, làm vậy là chuẩn bị cho đại nghiệp phục quốc của Khánh Kỵ một khi thành công, giúp Khánh Kỵ nhanh chóng dựa vào đám người này khống chế tiếp quản quân đội Ngô quốc. Với lại vào thời này tin tức đi lại khó khăn, trong lúc không thống nhất chỉ huy được, cần mạnh ai nấy tác chiến độc lập, chất lượng chỉ huy trong quân cũng nâng cao rõ rệt, một khi tướng chỉ huy tử trận, có thể theo thứ tự cử người thay thế, không rơi vào cảnh như rắn mất đầu, chỉ huy chết là toàn quân tan rã.
Anh Đào và Chúc Dung cũng tự dẫn theo một đội quân, leo lên lưng ngựa, chắp tay chào Tôn Vũ, xong mạnh ai nấy dẫn quân rời khỏi. Tôn Vũ từ từ buông tay xuống, hít một hơi dài, hướng về phía Việt quốc, khóe môi nở một nụ cười bí hiểm.
“Đại trượng phu kiến công lập nghiệp, chính là lúc này!” Tôn Vũ phấn chấn tinh thần, sải bước đi xuống đài điểm tướng, leo lên lưng ngựa, dẫn theo số binh mã còn lại, đi về phía thảo nguyên mênh mông, sau lưng Tôn Vũ, doanh trại quân Ngô nay chỉ còn là một đống hoang tàn, một cột khói bốc thẳng lên trời cao…
Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành
Chương 199: Phá nhuệ khí địch
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
Vương Tôn Hùng suất lĩnh một đội nhân mã, kìm ngựa cắn đũa (thời xưa khi hành quân bí mật, binh sĩ phải ngậm trong miệng mỗi người một chiếc đũa để không nói), bí mật tiến vào trong núi rừng . Trải qua một lần bại trận được thả về, bởi vì Ngô Vương vốn yêu thích hắn, chúng tướng cũng biết vậy mà hết lời cầu khẩn cho hắn, rốt cục hắn cũng được ân xá, cuộc đánh úp Na Xứ thành lần này, Vương Tôn Hùng chủ động xin đi giết giặc, lấy công chuộc tội rửa sạch nỗi nhục khi trước.
Thám mã của hắn đã điều tra tin tức chuẩn xác của Khánh Kỵ, chủ lực của Khánh Kỵ đã rời khỏi Na Xứ thành, tới sông La cứu viện quân Sở. Quân Ngô công kích quân Sở ở sông La, đã định liệu rằng chắc chắn Khánh Kỵ sẽ đi cứu, Quyền Ấp cùng Ngư Phản hai lộ đại quân ở ngoài sáng, đại quân Dĩnh Đô ở trong tối, đã bày ra thiên la địa võng ở sông La, nếu Khánh Kỵ tới sông La cứu viện, tất sẽ rơi vào bao vây trùng trùng điệp điệp, nếu hắn nhân cơ hội này đánh chiếm Ngư Phản hoặc Quyền Ấp, thì Vương Tôn Hùng đã nắm được đại bản doanh của hắn rồi. Quân coi giữ Ngư Phản và Quyền Ấp sớm đã có phòng bị chỉ cần đứng vững trước tiến công của hắn, ba đường quân Ngô ở sông La nuốt sạch quân Sở, sẽ hội quân tiến quân thần tốc về hướng đó. Khánh Kỵ đã mất đi căn cơ nếu như không muốn bị ăn tươi nuốt sống, chỉ có thể chạy trối chết, Na Xứ thành mà hắn đã khổ tâm gây dựng chẳng những rơi vào tay địch thủ, hơn nữa cả một con đường quan trọng cuối cùng để liên lạc cũng bị rơi vào tay quân Ngô. Hắn khó đối kháng lại quân Ngô, quân Sở lại bị tầng tầng vây quanh, chiến lược 'từng bước ép vào' cũng hoàn toàn bị phá sản.
Trong rừng rậm tối om om, binh lính dẫn đường phía trước dùng một cái đèn lồng được phủ vải đen, chỉ chiếu ra một chút ánh sáng ở phía dưới, chiếu sáng một khoảng không lớn ở dưới chân, trong rừng ngoại trừ âm thanh cỏ cây sột soạt vì ma sát, còn lại không có âm thanh gì khác. Nhưng mà Vương Tôn Hùng biết, ở tại sơn cốc phía bên kia rừng núi, cũng có một nhánh quân đội đang cùng hắn tiến lên. Sơn cốc ở hai bên sườn núi vốn có hai nhánh quân đội của Khánh Kỵ đóng quân, nhưng hiện tại chủ lực của Khánh Kỵ xuất chinh, quân trông giữ đỉnh núi đại bộ phận cũng bị điều động đi rồi. Nhưng mà Vương Tôn Hùng biết rằng nơi đó vẫn có binh sĩ đóng quân, vì sợ bị nhân mã lưu thủ ở Na Xứ thành phát hiện ra sớm sự tiến công của hắn, hắn chia binh ra làm hai đường, từ cánh trái phải lặn lội đi đường núi, tránh quân phòng thủ ở cốc khẩu.
Phía trước là một ngọn đồi nhỏ, đi qua ngọn đồi này, Na Xứ thành ở ngay tại một bình nguyên phía ngoài cốc khẩu. Một đường bình an vô sự, Vương Tôn Hùng trèo đèo lội suối đến mức toàn thân toàn mồ hôi thối âm thầm thở phào nhẹ nhõm.
"Mau, sắc trời sắp sáng rồi, phải nắm chắc thời gian. Ôn Thành, mang vài người sang mặt Đông liên hệ, mệnh cho bọn họ nhanh chóng tập kết chỗ này; Hà Lý tướng quân, ngươi phụ trách cản đường, mang nhân mã bản bộ của ngươi đi sang hướng Tây Bắc, hủy diệt Linh Tú Kiều, đóng quân ở chỗ đó, bảo hộ cánh quân thủ thành của ta, ngăn cản nhân mã của Khánh Kỵ đóng ở bến Bách Tân tới cứu viện; Công Sư, lập tức chặt cây cối chỗ này, chế tạo công cụ công thành thô sơ, cần phải hoàn thành trước hừng đông.
Mọi người nhất nhất lĩnh mệnh mà đi. Vương Tôn Hùng hai tay chống kiếm, đứng ở trước ngọn núi nhắm mắt không nói gì. Bên trong đầu hắn, đang hiện lên tình cảnh một lần giao chiến với Khánh Kỵ. Khánh Kỵ đột nhiên dẫn quân xuất hiện, chủ động xuất kích, ở trong hỗn chiến sử dụng phục binh chặt đứt sự phối hợp của xa trận và bộ binh của hắn, đánh đuổi bộ binh, vây lấy tinh nhuệ, đấu pháp xảo quyệt, khác rất nhiều với thủ pháp mà hắn quen dùng.
"Đã trải qua hơn một năm lang bạt kỳ hồ, trải qua nguy hiểm suýt nữa bỏ mạng, xem ra đã khiến cho Khánh Kỵ thay đổi rất lớn, hắn đã không còn là Khánh Kỵ trước kia. Chỉ có điều... mặc cho hắn có giả dối như cáo, lúc này cũng không còn cơ hội nữa. Đại vương đánh chiếm Sở đô, danh vọng nhất thời tăng cao, lại mang tài phú của nước Sở vận chuyển về nước Ngô, thực lực của nước Ngô tất nhiên cũng sẽ tăng lên nhiều. Chỉ cần vua của ta đánh bại liên quân, thành công trở về Ngô quốc, là sẽ có thể lập uy thu nạp nhân tâm của mọi người. Khánh Kỵ cho dù không chết, thì lúc đó cũng không thể làm gì với nước Ngô ta nữa."
Vương Tôn Hùng từ từ nhắm hai mắt, khóe miệng hơi hơi mỉm cười.
" Vương Tôn tướng quân, quân của mạt tướng đã tập kết xong, đang ở phía trước chờ mệnh."
Vương Tôn Hùng mở mắt ra, đã thấy Y Thu tướng quân từ sơn cốc phía bên kia sườn núi vội vàng chạy tới trước mặt, cách đó không xa phía sau nhân mã như rồng, đang uốn lượn mà tới.
"Ừm, bên ngươi có phát hiện gì không?"
" Không có, các huynh đệ đều vô cùng cẩn thận." Y Thu thở hổn hển lau mồ hôi trên trán: "Chỉ có điều vừa mới vượt núi tới đây, tất cả mọi người đều có hơi mỏi mệt."
Vương Tôn Hùng ngẩng đầu nhìn sắc trời tối như mực, nói: "Truyền lệnh, toàn quân nghỉ ngơi tại chỗ, ăn chút lương khô, uống nước, sau thời gian hai nén hương, công thành!"
Thời cơ đã tới, mặc dù không đốt hương, nhưng mà Vương Tôn Hùng với kinh nghiệm nhiều năm chinh chiến, đã có thể nắm giữ thời gian chính xác. Hắn lại lần nữa ngẩng đầu lên, ở chân trời đã ẩn ẩn hiện lên một vệt sáng.
" Công Sư, tạo ra bao nhiêu dụng cụ công thành rồi."
Công Sư vội vàng tiến lên bẩm: "Hồi bẩm tướng quân, bởi vì thời gian cấp bách, lại thêm sắc trời tối tăm, không thể thắp đèn, trong lúc vội vàng chỉ làm được hai chiếc xe, hơn mười cây gỗ, hơn hai mươi cái thang gỗ."
Vương Tôn Hùng thản nhiên cười: "Na Xứ thành không cao, hào không sâu, cổng không dày, quân trông giữ bên trong lại ít, như thế là đủ rồi, chúng ta chỉ cần tấn công một chút là có thể lấy được thành. Khánh Kỵ dù đi rồi, nhưng một khi phát hiện trúng kế, rất có thể sẽ phớt lờ quân Sở mà phá vây quay về, thời gian cấp bách, lập tức công thành!"
Vương Tôn Hùng lần này đi cấp bách, lại là đánh lén ban đêm, cho nên còn không kịp chế tạo những dụng cụ như trục bắn cung, là một chiếc xe có thể từ trên cao bắn tên thẳng vào trong thành, hay như trùng xa là loại xe để công phá cửa thành, còn có máy bắn đá cũng không kịp chế tạo. Có điều Na Xứ thành ở rất gần Dĩnh Đô, vốn là có đóng quân, nhưng bởi vì ở sâu bên trong nước Sở, không tính tới việc sẽ có kẻ thù vây bên ngoài thành, cho nên xây dựng thành cực kỳ đơn sơ, căn bản là không cần những công cụ công thành nặng nề, chỉ cần mấy thứ như vậy là đủ rồi.
Vương Tôn Hùng vọt tới dưới thành, quân coi giữ trên tường thành cũng đã phát hiện ra bọn họ, lập tức khoa chiêng báo nguy. Nương theo chút tia nắng ban mai, Vương Tôn Hùng thấy được trên tường thành đã có chút cải tạo, mặc dù tường vẫn không cao, nhưng lại có thêm những mái chắn để che cho quân phòng thủ thành, ở góc thành có chòi canh, chỉ có điều cổng thành vẫn cũ nát như cũ, không được trang bị cầu treo như những thành trì vốn được dùng vào quân sự.
Na Xứ thành trì thấp bé, vật tư phòng ngự chuẩn bị trong thành cũng không được đầy đủ, nếu hai bên nổi lên chiến trận, Vương Tôn Hùng nhìn số quân coi giữ trên tường thành, cùng với những khí giới phòng thủ của bọn họ, liền biết chắc chắn hôm nay có thể phá thành. Vương Tôn Hùng không khỏi mừng rỡ, lập tức cho cả đội dự bị cũng cùng đi vào. Hắn lo rằng Khánh Kỵ một khi phát hiện ra trúng kế, lập tức sẽ bỏ rơi quân Sở mà quay về sào huyệt, nếu trước khi hắn quay về mà không thể công được Na Xứ thành, vậy sẽ lâm vào tình huống hai mặt đều có địch cực kì nguy hiểm, cho nên lúc này bất kể hy sinh, mệnh lệnh tấn công mạnh mẽ.
Thang gỗ công thành quá ít, đã bị những lực sĩ trên tường thành dùng dây xích sắt và thiết chùy đánh hư rất nhiều. Hai chiếc xe đã được đưa đến hai bên cổng thành, Vương Tôn Hùng vẫn chưa sử dụng phương pháp đào địa đạo hoặc phá hỏng tường thành, Na Xứ thành tuy rằng tường thành sơ sài, nhưng muốn đào lên cũng không phải trong phút chốc là có thể, hắn cũng không an bài nhiều sĩ tốt bên cạnh hai chiếc xe, chỉ chất lên đó rất nhiều cỏ tươi, bên trên giội dầu hỏa, tới dưới thành thì châm cả xe cháy lên, khói đặc cuồn cuộn bay lên, khiến cho những quân coi giữ trên tường thành bị chảy nước mắt đầy mặt, mắt không thể thấy rõ gì nữa.
Lập tức liền có binh lính ôm thân cây to cứng rắn mạnh mẽ đánh vào cánh cửa, quân trên thành đỏ cả hai mắt, ném những thân cây, đá tảng xuống bên dưới, lại không ngừng bắn tên, mặc dù bắn được không ít binh lính công thành, nhưng mà binh lính Ngô quân dưới sự chỉ huy của Vương Tôn Hùng không ham sống sợ chết, một khi có người ngã xuống, lập tức có người lấp vào, liên tiếp vài cú va đập, cánh cổng thành mỏng mảnh kia đã lung lay muốn đổ.
Quân trong thành lớn tiếng kêu lên sợ hãi, lập tức có người lao lên chống đỡ cổng thành, chỉ có điều cánh cổng thành chỉ được gia cố một tầng ván gỗ kia không chịu nổi va chạm, liên tiếp vài cú va đập, chỉ nghe "ầm" một tiếng, cổng thành đã bị vỡ làm bốn, những binh lính trong thành đang chống cổng bị đâm bay ra sau, ngã xuống đất.
Tiếng trống trận "bình bình" vang lên, quân Ngô rời khỏi hai bên tường thành chen chúc từ cổng chính mà vào. Vương Tôn Hùng xông ngựa lên đầu, cầm mâu tiến nhanh về phía trước, một đường đánh ngã hơn mười sĩ binh, suất lĩnh hơn năm trăm quân tiên phong vọt vào trong thành. Trong thành ào ra rất nhiều sĩ tốt, song phương nhất thời hỗn chiến ở một chỗ.
Tiếng la hét rung trời, chỉ nghe thấy quân Ngô ở phía sau kêu lên sợ hãi không thôi. Vương Tôn Hùng rút mâu ra khỏi ngực một tên lính, quay đầu nhìn lại, không khỏi chấn động, Khánh Kỵ không tu bổ gia cố gì nhiều cho tường thành của Na Xứ thành, nhưng mà phía trên cổng thành lại tạo ra một cơ quan, khó trách trên cổng thành được xây thêm một tòa thành lâu, hóa ra là để treo một cánh cổng nữa. Lúc này mới có chưa tới hai ngàn người vọt vào cổng thành, từ cái cổng tò vò chính giữa đã có một cánh cổng rất nặng hạ xuống, uỳnh một tiếng rơi xuống đất, ngăn cách quân Ngô trong ngoài.
Lập tức chung quanh có rất nhiều tiếng hò hét vang lên, không biết nhảy ra biết bao nhiêu phục binh đứng ở trên tường thành, mỗi người trong tay đều cầm nỏ của người Sở, từ trên cao nhìn xuống, nhắm vào quân Ngô dưới mặt đất. Những binh lính vốn đang giao chiến với quân Ngô nhanh chóng lui về sau, tạo ra một khoảng cách với bọn chúng, cầm giáo dài đại kích ngăn trở bọn chúng đi về phía trước. Một gã thiên tướng thủ hạ của Vương Tôn Hùng thấy tình cảnh như vậy liền hét lớn một tiếng chĩa mâu xông lên, vừa mới chạy được hai bước, liền nghe thấy một trận tiếng mưa tên "sưu sưu" xé gió, tên thiên tướng kia đã bị bắn thành giống như con nhím, không kịp kêu lên lấy một tiếng, liền gục đầu ngã xuống đất.
Bên người Vương Tôn Hùng còn có người muốn lao lên, lại bị hắn nắm chặt lại, lúc này chợt nghe thấy từ cái lầu trên cổng thành có tiếng mõ vang lên, Vương Tôn Hùng quay đầu nhìn lại, chỉ thấy một người đội mũ công tử, thân khoác áo choàng trắng mỉm cười hiện ra trên bờ tường, vịn tường hô lên với hắn: "Vương Tôn Hùng, lần này có chịu quy hàng không?"
Vương Tôn Hùng nhìn thấy người này là công tử Yểm Dư vốn phải đóng ở bến Bách Tân, không khỏi thở dài một tiếng, biết rằng đã trúng độc kế của Khánh Kỵ.
Khi cánh cổng treo hạ xuống, trong ngoài bị ngăn cách, tiếng trống trận bên ngoài thành thình thình vang lên, từ xa chỉ thấy bụi đất mù mịt, từ phía ánh sáng mặt trời lao tới, tựa như nổi lên một trận bão cát hung dữ.
Quân Ngô ngoài thành trợn mắt há hốc mồm, tới tấp dừng chân trố mắt nhìn lại, chỉ thấy khoảng một trăm năm mươi cỗ xe xếp thành hình nón tam giác đang điên cuồng lao về phía tường thành. Na Xứ thành có khoảng năm mươi binh xa, hơn nữa lần trước thu được hơn một trăm binh xa, những chiến xa này lúc đó trên chiến trường tương đương với xe tăng hạng nặng hậu thế.
Na Xứ thành nằm trong cốc khẩu, nhưng mà bên ngoài cốc khẩu là một vùng đất bằng phẳng, chính là thích hợp cho chiến xa hành động. Lần này đại quân Khánh Kỵ cũng không chỉ như lần trước xua tan quân Ngô là xong việc, một trăm năm mươi cỗ chiến xa giống như máy ủi đất đang từ vùng bình nguyên trước cổng thành cày tới, bánh xe chạy tới đâu, cả vùng đầy máu tới đó.
Quân Ngô là vượt núi đánh lén, cũng không mang theo vũ khí nặng, một tiếng nổ lớn như tiếng sấm, hơn một trăm cỗ chiến xa đã đánh sâu vào trong đội quân công thành của quân Ngô, một Lữ soái quân Ngô hoảng sợ né tránh một cỗ chiến xa, lấy tay rút kiếm, đang muốn hét lên ra lệnh trường mâu thủ tạo thành trận pháp ngăn chặn chiến xa, lại có một cỗ chiến xa chui ra từ trong bụi đất mù mịt, vó ngựa hất cao, đá bay cả thân mình hắn lên. Lữ soái này chỉ cảm thấy mình giống như là đang đằng vân giá vũ, "Bịch" một tiếng rơi xuống đất, lại lăn người đứng lên, cảm giác rằng trên người dường như chưa bị thương tới một cọng tóc.
Lữ soái này giật mình, phát giác ra kiếm sắc trong tay đã bị đá bay, liền đoạt lấy một cây binh khí từ tử thi nằm trên mặt đất phía trước, hắn vừa mới lao đi hai bước, liền cảm thấy thiên địa rung chuyển, cổ họng hơi ngọt, một vòi máu tươi phun ra, trước mắt tối sầm rồi mềm nhũn ngã xuống đất. Mặt đất chấn động, lại một cỗ chiến xa lao tới, bánh xe không chút lưu tình cán qua cơ thể hắn. Ý thức của hắn vẫn còn, hai mắt mở thật to, dùng sức trừng mắt nhìn phía trước, nhưng chẳng nhìn thấy nổi cái gì, bánh xe nặng nề cán qua eo hắn, hình như là cắt đứt eo hắn, nhưng mà hắn cũng không cảm thấy đau đớn, máu đen trào ra ở tai mắt mũi miệng hắn...
Rất nhiều bộ binh hò hét vọt lên theo chiến xa, hơn trăm cỗ chiến xa chạy qua trận doanh của quân Ngô đang gào thét, sau đó rẽ sang hai cánh rồi lại quay về, giống như muốn phát động đợt xung phong thứ hai. Ở những vùng mà chiến xa lăn qua, có rất nhiều bộ binh đi theo, đánh cho bộ binh quân Ngô tơi bời hoa lá, bỏ chạy về phía sơn cốc. Cờ xí chiêng trống đều bị bọn họ vứt bỏ, một vài tướng lãnh may mắn còn sống khàn cả giọng truyền lệnh cho quân đội, kết quả là cũng thân bất do kỷ bị binh lính kéo bỏ chạy theo.
Ở hai bên đỉnh núi cũng có quân Ngô đóng giữ, nhưng mà nhân số quá ít, một vài mũi tên lẻ tẻ lực sát thương không lớn, chiến xa mang theo truy binh đuổi theo, nhưng đường trong sơn cốc khó đi, chiến xa khó có thể phát huy uy lực. Những quân Ngô này quăng mũ cởi giáp, mồ hôi ướt đẫm chạy ra khỏi sơn cốc, còn chưa kịp thở một hơi, đã sợ đến ngây người, mấy ngàn nhân mã đứng ngây ra như phỗng ở cốc khẩu, đột nhiên lặng ngắt như tờ.
Ra khỏi cốc khẩu là một cái dốc nhấp nhô thoai thoải, đi qua dốc này là tới ngã ba đường đi Dĩnh Đô, Ngư Phản, Quyền Ấp. Chỉ có điều ở trên cái dốc đó có một đạo nhân mã đang lẳng lặng đứng trang nghiêm, cờ bay phấp phới kéo dài, liếc mắt nhìn không thấy bờ bến, cũng không biết rốt cuộc là bao nhiêu nhân mã.
Ở giữa là một gã võ tướng, cưỡi ngựa cầm mâu, phía sau bên trái là một cây cờ hiệu, bên phải là một cây cờ chủ soái, ở trên viết hai chữ Khánh Kỵ, không ngờ rằng Khánh Kỵ đã dẫn quân trở lại.
Hai gã võ tướng giống như cột sắt thúc ngựa tiến lên vài bước, cao giọng quát: "Điện hạ có lệnh, ai hàng miễn chết, các ngươi nhanh chóng quyết định đi!"
Quân Ngô chạy tới cốc khẩu còn đang kinh hoàng chưa bình tĩnh kịp, nghe thấy lời đó không khỏi hai mặt nhìn nhau, dần dần, những sĩ tốt đều tập trung ánh mắt về những tướng lãnh có chức vị hơi cao trong quân. Vài tên tướng lĩnh đó còn đang do dự không quyết, uy phong cùng ngạo khí bọn họ có từ khi phạt Sở đến giờ đã bị hai trận chiến của Khánh Kỵ quét cho sạch trơn, uy danh Ngô quốc đệ nhất dũng sĩ từ ngày xưa một lần nữa lại nổi lên trong lòng bọn họ. Lúc này chủ tướng Vương Tôn Hùng bị nhốt ở trong thành sống chết không biết thế nào, bọn họ cũng đã hoàn toàn đánh mất dũng khí đối đầu với Khánh Kỵ, nhưng mà...
Hàng? Gia quyến của mình ở nước Ngô làm sao bây giờ? Hạp Lư có lẽ sẽ không mất trí đến mức giết hại gia nhân của tất cả sĩ tốt, nhưng mà với một vài vị tướng thì hắn sẽ bỏ qua sao?
Hai gã võ quan đang chiêu hàng phía trước là A Cừu và Tái Cừu. Mắt thấy bọn họ còn đang chần chừ, A Cừu cười to nói: "Tái Cừu, ta thấy những người này chưa từ bỏ ý định, còn muốn khiêu chiến với trường mâu của điện hạ đó. Chỉ là không biết, dưới tay của Ngô quốc đệ nhất dũng sĩ ai xứng đáng làm địch thủ, dù sao thì ta cũng không làm được, ha ha..."
Tái Cừu 'phì' cười một tiếng, tay cầm song kích nói: "Ta thấy cũng chưa chắc, bọn họ chỉ lo rằng một khi đầu hàng, gia quyến ở nước Ngô sẽ bị Cơ Quang tàn bạo giết hại, cho nên mới đành chịu cảnh toàn quân bị diệt, chứ không chịu đầu hàng."
A Cừu cười ha hả, nói: "Cái đó thì có gì phải lo? Cơ Quang mặc dù muốn đại sính dâm uy, cũng phải chờ cho sau khi hắn về tới nước Ngô, nhưng hắn có còn quay về nước được sao? Hiện giờ Sở, Vệ, Tống, Tào, Lỗ mấy nước chư hầu gần Ngô quốc đều đã kết minh với điện hạ, Tề Tấn hai nước tuy rằng cường đại, nhưng lại nước xa không cứu được lửa gần. Cơ Quang bị nhốt ở Dĩnh Đô thành, điện hạ mấy ngày nữa phạt Ngô phục quốc, trở thành quân chủ Ngô quốc, hôm nay là người quy phục điện hạ, ngày sau đều là thần tử có công, vợ con hưởng đặc quyền đều có thể, khi đó Cơ Quang muốn không chết còn khó, còn làm sao mà giết cả nhà họ?"
Những binh lính Ngô bị vây khốn trong cốc khẩu nghe thấy vậy thì nhất thời xôn xao lên, trong lòng bọn họ sợ quân pháp tàn nhẫn của Hạp Lư, nhưng mà một cuộc đối đáp của A Cừu Tái Cừu lại khiến cho trong lòng bọn họ sinh ra dị tâm. Người trong lúc khốn cảnh ai chẳng ham sống, nếu có thể có cách vẹn toàn, trong lòng người tự nhiên sẽ suy nghĩ về phía tốt hơn, nếu Khánh Kỵ thành quân chủ Ngô quốc, như vậy còn e sợ quân pháp khổ hình của Cơ Quang sao?
Khánh Kỵ ngồi thẳng bất động, nhìn thấy binh lính nước Ngô đã tâm động, Khánh Kỵ đúng lúc bọn họ còn chưa kịp đưa ra quyết định liền bỏ thêm một quả cân lên cái cân, hắn cầm trường mâu trong tay hướng về phía trước, lưỡi mâu thẳng tắp hướng lên không trung. Có hiệu lệnh của chủ soái, trong quân lập tức vang lên tiếng trống trận vang dội.
"Thình! Thình! Thình thình thình thình..." Mỗi chuỗi tiếng trống với tiết tấu và tốc độ như nhau vang lên, Khánh Kỵ dùng trống hiệu của quân Ngô, khiến cho sĩ binh quân Ngô đều nghe và hiểu được, đây là tiếng trống khi sắp phát động xung phong. Tiếng trống ngày càng dồn dập, tim bọn họ cũng đập càng lúc càng nhanh, nhất thời khẩn trương tới mức miệng lưỡi đều khô, mồ hôi bất tri bất giác chảy đầy trên trán.
"Có đầu hàng hay không? Có đầu hàng hay không?" Tay cầm mác thì dùng mác đập, tay cầm kiếm thuẫn thì dùng kiếm đánh lên mặt thuẫn, lớn tiếng hét lớn về phía những quân Ngô bị vây bên trong cốc khẩu. Quân Ngô trong cốc khẩu lại càng bối rối, một vài tên tướng lãnh trong đó cũng vô cùng lo lắng trao đổi ánh mắt cho nhau.
Mâu của Khánh Kỵ dừng lại ở không trung trong nháy mắt, chậm rãi chỉ thẳng về phía trước, cờ soái tung bay, cờ hiệu theo đó phất lên, cờ xí sặc sỡ trong quân cũng đồng thời phất lên, cái này gọi là "Ứng kỳ", ý là các quân cùng nhận được mệnh lệnh của chủ soái tướng lãnh, kế tiếp chỉ cần ngọn cờ hiệu của Khánh Kỵ chỉ về phía trước, các quân sẽ như hổ lang lao về phía trước, phát động một trận đại chiến.
Mắt nhìn thấy cờ hiệu của Khánh Kỵ, binh sĩ quân Ngô đều thầm nuốt nước bọt, cờ hiệu của Khánh Kỵ được lực sĩ đưa lên, ngay lúc lá cờ sắp chỉ về phía trước, đột nhiên có một tiếng hét lớn, từ trong đội ngũ quân Ngô có một gã tướng lãnh đi ra, một mình tiến về phía trước, hai tay giơ lên cao, rồi từ từ giương ra hai bên.
Trường mâu trong tay Khánh Kỵ hơi hơi ngưng lại, chăm chú nhìn vào hắn. Dung mạo người này có chút quen thuộc, hơi hơi suy nghĩ một chút, Khánh Kỵ cũng đã nhớ ra người này, chính là Ngô quốc trung đại phu Xích Trung, ấn theo cấp độ, lần này trong quân là Sư soái, địa vị của hắn gần với Vương Tôn Hùng, liền hít một hơi giương giọng, lạnh lùng quát hỏi: "Xích Trung, ngươi có gì để nói?"
Sư soái quân Ngô Xích Trung giơ rộng hai tay, ngăn Khánh Kỵ hạ lệnh tiến công, sau đó chậm rãi xoay người nhìn về đống hỗn loạn phía sau mình, quân Ngô phía sau hắn đang tán loạn, chen chúc trong cốc khẩu. Sau cốc cũng đã bị quân Khánh Kỵ chặn đường, toàn quân đã không còn đội hình, trong ánh mắt mỗi binh lính đều có sự bối rối và khát vọng sinh tồn, đôi mắt trông mong nhìn vào hắn. Ánh mắt của hắn lướt qua, vài tên Lữ soái thuộc hạ xấu hổ cúi đầu, giống như sợ sẽ bị hắn nhìn thấy suy nghĩ của mình.
Xích Trung bùi ngùi thở dài, lại xoay người trở lại, mặt hướng về Khánh Kỵ, sau đó 'keng' một tiếng rút kiếm ra khỏi vỏ. Mũi kiếm của hắn dưới ánh mặt trời bắn ra hàn quang, phát ra ánh sáng chói mắt. Khánh Kỵ ngồi trên lưng ngựa, mắt lạnh lùng nhìn hắn, không nói không cử động.
Xích Trung lớn mật bước về phía trước, ở trước mắt bao người hướng về Khánh Kỵ, cách Khánh Kỵ khoảng mười bước, một loạt trường mâu thủ tiến lên phía trước ba bước, mũi mâu sáng như tuyết đồng loạt giương lên, ngăn chặn trước người hắn.
Xích Trung dừng lại, ngẩng đầu nhìn Khánh Kỵ, đột nhiên cúi người, 'Phập' một tiếng cắm kiếm thật sâu vào trong bùn đất, tay cầm chuôi kiếm, quỳ một gối xuống, trầm giọng nói: "Xích Trung nguyện dẫn quân đội trong tay, trung thành dưới trướng công tử!"
Khánh Kỵ thản nhiên nói: "Ngươi là người nước Ngô, đáng ra phải gọi ta là điện hạ!"
Xích Trung cúi đầu nói: "Đúng, quân đội trong tay Xích Trung, nguyện... nguyện trung thành với Khánh Kỵ điện hạ!"
Đã có người đi đầu, các tướng lĩnh quân Ngô đều thở phào nhẹ nhõm, những quân sĩ quân Ngô vốn bàng hoàng bất lực hiện giờ như đã tìm ra được lựa chọn, tới tấp theo Xích Trung quỳ rạp xuống đất về phía Khánh Kỵ, tuyên thệ nguyện trung thành, Khánh Kỵ không khỏi ngửa mặt lên trời cười to.
Đội quân này một khi đã tuyên thệ nguyện trung thành với hắn, từ nay về sau, vì tính mạng của hắn, vì tính mạng của gia nhân, vì tiền đồ của bọn họ, liền chỉ có thể sống chết cống hiến cho hắn. Trọng yếu hơn đúng là, có đội quân này gia nhập, sẽ làm dao động quân tâm của Cơ Quang, tâm lý người theo số đông rất nghiêm trọng, một cấm địa mà ban đầu ai cũng cho rằng không thể vượt qua, một khi đã có người bước ra đầu tiên, những người bước theo sẽ nối liền không dứt. Từ nay khi giao phong với quân đội Cơ Quang, hắn đã có một thứ để ỷ vào, không chỉ có lợi trong một trận chiến này, mà dần dần sẽ mài mòn sĩ khí quân Ngô, tranh thủ nhân tâm, mở tâm phòng (sự phòng bị trong thâm tâm) của người nước Ngô.
"Người đâu, giải Vương Tôn Hùng!"
Khánh Kỵ hét lớn một tiếng, Vương Tôn Hùng bị trói gô dẫn đi lên.
"Quỳ xuống!" Hai gã binh lính lớn tiếng quát, đồng thời hung hăng đá một cước lên đầu gối Vương Tôn Hùng. Hai chân Vương Tôn Hùng vừa cong, lập tức lại thẳng lên. Hắn quay đầu lại hung hăng trừng mắt nhìn hai gã sĩ tốt kia, sau đó ngang nhiên nhìn về phía Khánh Kỵ và Yểm Dư. Khánh Kỵ cùng Yểm Dư sóng vai đứng ở trước trướng, phía sau Khánh Kỵ không xa còn có hai võ sĩ thân mặc giáp nửa người, đầu vai lộ ra một đoạn chuôi kiếm, dung nhan tuấn tú, tôn nhau lên rất thú vị.
Hai người cũng không cần che dấu thân phận, Vương Tôn Hùng chỉ cần liếc mắt một cái, liền nhận ra thiếu nữ Quý Tôn Tiểu Man lần trước bắt hắn, mặc dù hắn nhìn không ra thân phận, nhưng cũng là một cô gái cực kỳ thanh tú.
Vương Tôn Hùng cũng không nhìn nhiều, ánh mắt chỉ thoáng chuyển qua hai người bọn họ, liền quay về trên người Khánh Kỵ, lớn tiếng nói: "Nếu y theo thân phận, Vương Tôn Hùng vốn nên dập đầu hành lễ với công tử, tuy nhiên hiện giờ công tử phản loạn Đại vương, là nghịch tặc Ngô quốc ta, Vương Tôn Hùng thân là chủ tướng Ngô quân, thụ mệnh của Ngô Vương, thứ cho không thể tham bái công tử."
Yểm Dư giận dữ, hai hàng lông mày hơi nhướng lên, Khánh Kỵ đưa tay ngăn lại, ha hả cười nói: "Vương Tôn Hùng, ngươi cũng là hậu duệ vương tộc của Ngô quốc ta, sao lại ăn nói hồ đồ như vậy? Cơ Quang nếu không hành thích vua tự lập, nếu không làm kẻ trộm phản quốc, làm gì có cái danh hiệu Đại vương hôm nay? Khánh Kỵ ta mới đúng là người kế thừa thực sự của tiên vương, hiện giờ tiêu diệt phản nghịch, khôi phục Ngô quốc, như thế nào lại trở thành phản tặc? Bảo ta không chống lại Cơ Quang, ta đây phải làm cái gì bây giờ? Tự trói tới gặp Cơ Quang, rồi bảo hắn chém đầu ta đi mới được gọi là trung thần liệt sĩ sao?"
Vương Tôn Hùng ngang nhiên nói: "Đại vương của ta là đương kim quân chủ Ngô quốc, ngay cả Chu thiên tử cũng đã ban cáo thừa nhận, làm sao có thể nói là giành quyền bất chính? Công tử, vẫn nên thừa nhận sự thực đi, chỉ cần ngài lấy binh quy thuận, với lòng dạ như biển của Đại vương ta, tất nhiên sẽ xá cho ngài tội mưu phản, ban thưởng cho ngài vinh hoa phú quý, làm một công tử thái bình, chẳng phải tốt hơn sao? Làm sao phải đồng tộc tương tàn, cho ngoại nhân lợi dụng?"
Khánh Kỵ mỉm cười nhìn hắn, nét cười trên mặt dần dần đanh lại.
Hắn nhẹ nhàng thở dài một tiếng, nói: "Vương Tôn Hùng, theo cái quy luật hỗn trướng của ngươi, thì đó chính là ‘kẻ thắng làm vua kẻ thua làm giặc’. Ta tiếc cho ngươi một thân hảo hán, bảo Vương thúc lưu lại mạng sống cho ngươi, vốn định giữ lại một kẻ mạnh mẽ như ngươi để dốc sức cho Ngô quốc, đáng tiếc..., Ai! Tốt lắm, nếu đã bảo nắm tay ai cứng, kẻ đó chính là kẻ có lí, chính là chánh chủ thiên mệnh, như vậy, chúng ta cứ dùng kiếm mà chứng thực đi."
"Người đâu, mang rượu tới."
Kinh Lâm nao nao, lập tức xua tay cho người đi lấy, một lát sau, một gã tiểu tốt cầm một vò rượu ngon, cùng với hai cái bát lớn chạy trở lại. Khánh Kỵ đưa tay đoạt lấy vò rượu, xé đi giấy phủ, rót rượu tràn đầy hai bát lớn, sau đó đưa đến trước mặt Vương Tôn Hùng, quát: "Cởi trói cho hắn."
"Xoẹt!" Khóe mắt Khánh Kỵ chỉ liếc thấy một đạo nhân ảnh khéo léo như vượn chợt lóe lên, sau đó một đạo kiếm quang như điện chợt hiện, những sợi dây thừng đang trói Vương Tôn Hùng đồng loạt đứt ra. Người nọ lộn người nhảy trở lại, chúng tướng trong sảnh đều là người trong nghề, trông thấy kiếm pháp tinh diệu như vậy, không khỏi ầm ầm trầm trồ khen ngợi, Yểm Dư công tử hô lên một tiếng: "Hảo kiếm pháp, tuyệt diệu đến đỉnh điểm."
Chiêu thức kiếm pháp đó quả thực rất cao, dây thừng trên người Vương Tôn Hùng buộc rất rắn chắc, dường như lằn sâu cả vào da thịt, mà một kiếm này cắt đứt được tầng tầng dây thừng, tuy rằng kiếm này bản thân đã là bảo kiếm cực sắc, nhưng mà lực tay, lực đạo, xuất kiếm đều phải chuẩn mực, chỉ cần một khắc không cẩn thận, Vương Tôn Hùng sẽ khó tránh khỏi bị thương trên người, chỉ có điều một kiếm này, ngay cả quần áo của hắn còn không bị cắt rách.
Vương Tôn Hùng vẫn không phục chính mình khi trước bị thiếu nữ kia bắt sống, lúc này nhìn thấy kiếm thuật của nàng không khỏi kinh tâm, liếc mắt chăm chú nhìn nàng một cái thật sâu. Quý Tôn Tiểu Man nhảy về bên cạnh Thúc Tôn Diêu Quang, tai nghe thanh âm mọi người ủng hộ không dứt, trên mặt tuy rằng là một bộ dáng không hề để ý chút nào, nhưng trong mắt lại lộ ra thần sắc khoe khoang.
Thúc Tôn Diêu Quang liếc xéo sang nhìn nàng, dùng thanh âm chỉ hai người mới có thể nghe được nói: "Khoe khoang như thế, nhìn thế nào cũng giống như một tiểu hài tử chưa lớn hết!"
Quý Tôn Tiểu Man nhướng đôi mày nhọn, tưởng rằng giận dữ, nhưng nàng bỗng nở nụ cười, nhún nhún vai, nhỏ giọng trả lời: "Kiếm pháp vốn quá tốt, thật sự là không có biện pháp."
Thúc Tôn Diêu Quang chanh chua nói: "Hừ! Một nữ hài tử, đánh đánh giết giết là rất giỏi sao? Nữ nhân à, phải học cầm kỳ thi họa, nếu không sau này làm Ngô Vương phi, thực mất mặt."
"Này, cô chỉ biết đánh đàn thôi, không cần phải thổi phồng lên chứ, ta còn biết thổi sáo đó."
"Ta còn biết quản lí gia sản."
"Ta biết nấu cơm."
"Vậy để cho cô nấu cơm..."
Hai cô gái ở phía sau líu ríu tranh cãi, Khánh Kỵ đã cùng Vương Tôn Hùng đối ẩm một chén rượu lớn, nâng bát lên ném xuống mặt đất, nghiêm nghị quát: "Khánh Kỵ kính ngươi là một hảo hán, không đành lòng nhìn ngươi chết dưới hình binh. Ngươi trở về đi, bảo với Cơ Quang, hắn cướp của cha ta, ta sẽ tự tay đoạt lại! Dĩnh Đô thành, chính là mồ chôn xương của hắn!"
Vương Tôn Hùng mắt hổ chợt lóe quang mang, lui lại ba bước, rốt cục quỳ một gối xuống, nặng nề chắp tay với hắn, không nói được lời nào, xoay người liền đi.
Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua
Chương 200: Đang đêm tập kích
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
Yểm Dư thong thả bước tới bên người Khánh Kỵ, nghiêng đầu nhìn hai hàng tùy tùng y giáp sáng ngời bước nhanh ra phía ngoài cùng Vương Tôn Hùng, hơi hơi cau mày: "Sao lại vẫn để cho hắn đi? Ta bảo cháu này, cháu chẳng lẽ có niềm tin rằng hắn sớm muộn gì cũng sẽ đầu nhập làm môn hạ hay sao? Ta thấy cái kẻ cơ bắp này chắc là sẽ không phản bội Cơ Quang đâu."
Khánh Kỵ gật đầu nói: "Ta biết, ta còn biết, hắn liên tục bại hai lần, lần này trở về, nhất định sẽ tự sát để tạ tội với Cơ Quang. Chính bởi vì hắn đã quyết ý sẽ chết, cho nên lúc đi mới bái với ta một cái, nếu không, hắn sẽ không chịu cúi đầu với ta đâu. Ai, đáng tiếc cho một hán tử..."
Khánh Kỵ lắc đầu, bước chầm chậm đi ra. Yểm Dư công tử chớp chớp mắt, vân vê chòm râu buồn bực nói thầm: "Trở về thì cũng chết, vậy thì còn thả hắn về làm gì? Cứ muốn hào phóng sao?... Ai dà! Khánh Kỵ tiểu tử này, quá âm hiểm rồi, ngay cả người chắc chắn phải chết mà cũng lợi dụng."
" Khánh Kỵ công tử âm hiểm như thế nào?" Yểm Dư công tử nói xong, liền kinh ngạc phát hiện ra trái phải đã có hai người đứng đó, vây hắn ở giữa. Hai cô gái thân mặc giáp trụ, tư thế oai hùng hiên ngang, vẻ mặt không vui trừng mắt nhìn hắn, tua kiếm màu hạnh hoàng (màu vàng hơi hơi đo đỏ như quả hạnh) không gió mà động, ẩn ẩn mang theo sát khí.
Yểm Dư công tử rùng mình một cái, cười gượng nói: "Việc này nói ra thì rất dài, mới trước kia còn ở trong vườn cây Vương thành trộm đào..., ách, đó là chuyện cũ năm xưa, các ngươi hay là đi hỏi Khánh Kỵ cho thỏa đáng."
Yểm Dư nói xong, định chuồn mất, Quý Tôn Tiểu Man xoay người một cái, liền chắn trước mặt hắn, kỳ quái hỏi han: "Cái việc trộm đào này thì có quan hệ gì? Cây đào nhà mình, vì cớ gì phải trộm."
"Ách..." Hai mắt Yểm Dư loạn chuyển, còn chưa nghĩ ra một đáp án hợp lí, một gã sĩ tốt đã vào phòng bẩm báo: "Công tử, có một lão giả cùng một người trẻ tuổi tự nói là từ Lỗ quốc tới, có việc quan trọng muốn yết kiến Khánh Kỵ điện hạ."
"Từ Lỗ quốc tới? Ta trốn trước đã..." Quý Tôn Tiểu Man chột dạ xoay người định đi, lại bị Thúc Tôn Diêu Quang giữ chặt lại, tựa cười lại như không cười nói: "Từ lần trước cô bắt giữ Vương Tôn Hùng, danh hào Hàm Quang kiếm khách đã lan truyền nhanh chóng, thiên hạ sớm đã đều biết, cô có tránh né, cũng có ai không biết cô ở trong quân của Khánh Kỵ? Đi thôi, cùng đi xem rốt cục là nhân vật đến từ phương nào."
Quý Tôn Tiểu Man vừa tức vừa vội, lại không muốn yếu thế trước mặt Thúc Tôn Diêu Quang, Yểm Dư công tử thật vất vả mới tìm được một lí do thoát thân, vội vàng nói: "Đúng đúng đó, chúng ta cùng nhau xem, dẫn bọn họ lên đi."
Sĩ tốt kia đáp lại xoay người đi ra ngoài, một lúc sau mang theo hai người lên, Yểm Dư tiến lên hai bước, chậm rãi hỏi han: "Khụ, các vị là ai, là người nào sai phái các vị tới gặp Khánh Kỵ..."
Hắn còn chưa nói hết, Quý Tôn Tiểu Man đã hoan hô một tiếng, nhảy nhót lao về trước, ôm lấy cổ lão giả. Yểm Dư công tử một đôi mắt trừng đến sắp muốn lồi ra: "Này... này không phải quá kì cục sao, tốt xấu gì ngươi cũng cháu dâu trong nhà ta, sao có thể không kiêng nể gì mà thân thiết với nam nhân khác như thế?"
Yểm Dư đang bận nghĩ ngợi lung tung, Quý Tôn Tiểu Man đã kêu lên: "Viên thúc, sao thúc lại tới đây, là cố ý tới tìm cháu à?"
Thúc Tôn Diêu Quang cũng cả kinh kêu lên: "Lão Viên!"
Viên Tố vỗ vỗ bả vai Tiểu Man, ý bảo nàng buông mình ra, thân thiết cười nói: "Còn không phải vì đứa trẻ tinh ranh nhà ngươi à, cháu đó, như thế nào lại một mình chạy tới Sở quốc, lúc vừa mới nghe nói, thật sự là khiến ta giật mình."
Nói xong lại xoay sang thi lễ với Thúc Tôn Diêu Quang, nói: "Viên Tố ra mắt Diêu Quang công tử."
"Chớ đa lễ." Thúc Tôn Diêu Quang vốn định chê cười một chút, nhìn kĩ lại mới thấy hóa ra là bề tôi trung thành của Quý Tôn Tiểu Man, nàng không khỏi thất vọng, ánh mắt liền chuyển tới vị thiếu niên mi thanh mục tú kia. Nàng mặc dù ở Quý Thị lão trạch lâu ngày, cũng chưa từng nhìn thấy Thành Tú, lão Viên liền giới thiệu: "Vị này... là đệ đệ của Thành Bích phu nhân, có một thứ rất trọng yếu cần giao cho Khánh Kỵ công tử. Viên Tố lần này đi, là vì Tiểu Man tiểu thư, cũng là vì hộ tống Thành Tú đến đây."
Quý Tôn Tiểu Man mặc dù cũng không thống hận Thành Bích như trước, nhưng nàng vẫn không tránh khỏi có chút khúc mắc, vừa nghe nói là đệ đệ của nàng ta, sắc mặt nhất thời trầm xuống: "Thành Bích? Nàng ta có thứ gì trọng yếu muốn giao cho Khánh Kỵ? Lấy ra cho ta xem!"
"Tiểu Man!" Viên Tố nhẹ nhàng kéo kéo ống tay áo của nàng, liếc mắt nhìn nàng một cái, nói: "Việc của Thành Tú, quả thực rất trọng yếu, có trợ giúp lớn với chiến sự của Khánh Kỵ công tử, còn phải mời Khánh Kỵ ra xem nữa."
Tiểu Man nghe nói có liên quan đến đại sự chiến cuộc của Khánh Kỵ, liền không nhiều lời nữa. Yểm Dư con mắt xoay xoay hơi chuyển, nói: "Đã là cố nhân của hai vị nữ tướng quân, vậy xin mời nghỉ ngơi một chút, bản công tử đi gọi hắn ra đây."
Khánh Kỵ cầm tập tranh mà Thành Tú đưa lên liền mừng rỡ như điên, nghe Thành Tú giải thích, hắn mới biết rằng tập tranh này là những ghi chép của Thành Bích tại Ngô, Việt, Sở ba nước, những cửa hàng và những người liên lạc mà nàng đã khổ công bố trí sau nhiều năm kinh doanh.
Sinh ý của Thành Bích trải rộng nhiều quốc gia, những sinh ý này là tiền vốn mà Thành Bích dự tính sau khi thoát ly khỏi Quý Tôn Thị tự lập hộ riêng, đương nhiên cần phải chặt chẽ nắm trong tay. Tin tức truyền đi cần cực kì kịp thời, ổn định, để nàng có thể biết được nhất cử nhất động của các cửa hàng ở các quốc gia, đồng thời mỗi quốc gia có các nhu cầu về hàng hóa và chênh lệch giá cả khác nhau, cho nên cần có sự hiểu biết về động thái chính trị, kinh tế, quân sự của quốc gia đó.
Trải qua sự bồi dưỡng nhiều năm của Thành Bích phu nhân, nàng ở một vài quốc gia có mạng lưới tin tức khổng lồ, đương nhiên vào thời chiến loạn, một ít điểm truyền tin sẽ mất đi liên hệ, nhưng mà chiến tranh ảnh hưởng không nhiều đến những gia đình bình dân, mạng lưới tin tức của nàng vẫn có thể vận hành bình thường.
(Ở đây xin nói thêm, vì sao chiến hỏa liên miên mà không ảnh hưởng nhiều đến gia đình bình dân. Bởi vì chiến tranh chủ yếu là giữa quân đội, cho dù một đội quân khác công chiếm thành trì thì thông thường cũng sẽ không đụng tới nhân dân mà trong nhiều trường hợp còn muốn lấy lòng dân trong thành, nhất là khi nhân dân có điều bất mãn với quan lại sở tại. Việc Cơ Quang và Ngũ Viên phá hoại Dĩnh Đô phần nhiều là vì thù hận của Ngũ Viên và Bá, hành động này cũng đã được Úc đại phu Úc Bình Nhiên cảnh tỉnh, tuy nhiên quân thần Ngô quốc vì cừu hận mà mờ mắt, đã không còn phân định được phải trái.)
Điều này đối với Khánh Kỵ mà nói, có ý nghĩa không phải là nhỏ. Hiện tại hắn liên lạc tin tức Ngô quốc, Sở quốc vô cùng chậm chạp, năng suất rất thấp, đây là một nhược điểm trí mạng trong sự liên lạc phối hợp chặt chẽ giữa hai đội quân. Rất nhiều thời điểm, thời cơ chiến đấu trước mắt mà hắn lại chỉ đứng xem, hoặc là tới khi hắn biết được tin tức của đối phương, thì bên đối phương đã xảy ra biến hóa long trời lở đất, mà hắn lại hoàn toàn không hay biết.
Hắn dù phái đi nhiều thám mã trinh sát, thì những tin tức đoạt được sao có thể so được với Thành Bích nhiều năm tổ chức, lợi dụng dân bản xứ xây dựng một mạng lưới tin tức khổng lồ, mà hiệu suất truyền tin cũng còn xa mới bằng được.
" Vương thúc, chúng ta có những cơ sở ngầm này, tác dụng không thua gì tăng thêm năm vạn đại quân đó!" Khánh Kỵ mừng rỡ như điên nói với Yểm Dư, Yểm Dư đương nhiên biết tầm quan trọng của tin tức quân tình đối với bọn họ, không khỏi liên tục gật đầu.
" Thành Tú, đệ trước hết ở chỗ này đã, tác dụng của vật này đối với ta quá lớn, đại ân không lời nào cảm tạ hết được. Khánh Kỵ hứa với đệ, ta nếu có thể phục quốc đoạt vị, Thành Tú đệ sẽ được bái làm Ngô quốc công khanh, nếu đệ không muốn làm quan, Ngô quốc ta cũng sẽ dốc hết sức có thể cho đệ thuận tiện, trở thành thương nhân phú khả địch quốc một phương."
Thành Tú nghe thấy những lời xúc động của Khánh Kỵ, bất giác cũng cảm động, vội vàng gập người bái tạ. Khánh Kỵ nâng hắn dậy, hơi chần chừ, rồi hỏi hắn: "Ách... Đệ cùng Viên Tố cưỡi ngựa tới đây, trên đường có an tĩnh không? Lệnh tỷ vừa rời khỏi Lỗ quốc, dọc đi trên đường các nước đều có đại chiến, nàng có thể bình an tới đây không?"
Thành Tú chắp tay nói: "Làm phiền công tử quan tâm rồi, gia tỷ tính tình xưa nay luôn tỉnh táo cẩn thận, bên người luôn có mấy trăm võ sĩ trung thành theo bảo vệ, lần này bí mật đi về phương Nam, cũng không có gì đáng ngại. Chỉ có điều gia tỷ là một nữ tử yếu đuối, đi đường từ tốn, còn phải chậm một chút mới tới nơi, đệ nghĩ không quá nửa tháng là gia tỷ có thể tới đây."
" Tốt! Tốt!" Khánh Kỵ mặt mày hớn hở, xa cách lâu như vậy, hắn đúng thật là vô cùng nhớ Thành Bích, hiện giờ bên người tuy có Thúc Tôn Diêu Quang cùng Quý Tôn Tiểu Man một đôi tiểu vưu vật, nhưng mà hai người này lại giám thị lẫn nhau, ai cũng không cho đối phương có nhiều cơ hội tiếp xúc riêng tư với hắn. Khánh Kỵ trơ mắt nhìn hai quả tươi trong veo như nước treo ở trước miệng mà không được ăn, hiện giờ rốt cục có một quả còn ngon miệng kiều diễm ướt át hơn đưa đến miệng.
Mùa xuân, đang lặng yên tới.
Ngày mai sẽ là chiến trường tràn ngập khói lửa, cũng là một mảnh sắc xuân...
Khánh Kỵ vui vẻ thầm nghĩ.
Khánh Kỵ thành công đánh bại âm mưu của Ngũ Tử Tư, chẳng những đoạt lại Na Xứ thành, hơn nữa còn chiêu hàng được toàn bộ binh sĩ quân Ngô đã hết đường lui. Ngô Vương Hạp Lư ở trong thành Dĩnh Đô nghe được tin thì vô cùng giận dữ, lập tức muốn lãnh binh thân chinh, lại bị Ngũ Tử Tư tận lực can ngăn.
Quân Sở ở sông La vốn là đối tượng mà quân Ngô đánh nghi binh, bởi vậy tổn thất cũng không quá nghiêm trọng. Quân Sở thoát khỏi đại nạn, như chim sợ cành cong không dám lưu lại ở gần Dĩnh Đô, bọn họ dời đi về phía Tây Nam, cuối cùng ở Tân Ấp gặp được đại quân cần vương, hai quân hội hợp, cho nên mới đóng quân ở Tân Ấp.
Tử Tây dẫn đại quân ba đường từ Tùy quốc mà tới, chiếm cứ Tân Ấp, Tuyển thành, Chương Vu ba chỗ trọng yếu, bao vây một nửa Dĩnh Đô, liên tiếp giao thủ vài lần với tiên phong quân Ngô có thắng có bại, nhất thời quân tâm dần dần ổn định. Nhưng mà ba địa phương này đều ở phía Bắc Dĩnh Đô, cũng không có tác dụng nếu Cơ Quang chạy về phía Nam.
Khánh Kỵ biết đây là do người Sở sợ hắn muốn ngăn cản Cơ Quang ở lại Sở quốc, lợi dụng người Sở làm hao hết lực lượng của Cơ Quang, cho nên trái lại lại lợi dụng hắn để cản đường Cơ Quang, khiến cho hắn phải gánh chịu áp lực cường đại đến từ quân Ngô.
Lúc này hắn đã có chiến thuyền với cánh buồm và bánh lái, chắc chắn sẽ trở về nước sớm hơn Cơ Quang. Chỉ có điều cần có thời gian để đóng thêm chiến thuyền và để binh lính quen thuộc với việc điều khiển, thứ hai là nội tình Ngô quốc như thế nào hiện nay hắn hoàn toàn không biết gì cả, vẫn chờ đợi tin tức của Chúc Dung, Tôn Vũ. Vì không để chủ soái song phương Ngô Sở là Phí Vô Cực và Ngũ Tử Tư sinh nghi, hắn liền tương kế tựu kế, không ngừng phát binh tấn công Ngư Phản, làm ra vẻ muốn chiếm cứ Ngư Phản, lát sau lại dẫn quân xuống phía Nam, làm bộ ngăn trở con đường duy nhất mà ba cánh quân Ngô ở Dã Phụ, Chử Cung, Chương Hoa Thai có thể đi xuống phía Nam.
Người Ngô ở Dĩnh Đô cũng không kinh hoảng, một là Dĩnh Đô lương thảo sung túc, chỉ cần thành không bị phá, không thì thủ thành tới ba năm cũng không thành vấn đề. Thứ hai, từ đường sông Trường Giang quay về nước Ngô nhất định phải đi qua hai con đường là Na Xứ thành và cửa ngõ Ngư Phản, từ đường bộ đi về Ngô có ba con đường, một là đi qua Chương Hoa Thai hoặc Dã Phụ, xuyên qua Vân Mộng trạch (trạch: đầm), một đường khác là đi từ Chử Cung theo hướng Đông Nam, đi qua con đường Hoa Dung nổi danh hậu thế, từ chỗ giao giới Ngô Việt mà về.
Na Xứ thành đã rơi vào tay Khánh Kỵ, từ Ngư Cô muốn quay về bằng đường thủy cũng phải suy xét tới việc mấy vạn đại quân từ Sở về Ngô sẽ có rất nhiều con thuyền trên sông Trường Giang, trong quá trình đi thuyền việc Khánh Kỵ có dẫn binh tập kích hay không lại là vấn đề, nhưng mà đi đường bộ về nước thì lại không có vấn đề mấy, bởi vậy quân Ngô cứ tử thủ ở Ngư Cô. Khánh Kỵ mỗi lần xuất binh tấn công Ngư Phản, Quyền Ấp quân Ngô lại tập kích quấy rối ở đằng sau, quân ở Dĩnh Đô cũng sẽ xuất binh viện trợ, Khánh Kỵ nhân đó mà làm ra vẻ không biết làm thế nào đành lui về Na Xứ thành, cuộc chiến song phương cứ diễn ra dai dẳng không xong.
Trong lúc đó, quân Sở cũng xuất binh tập kích phía sau quân Ngô, nhưng quân Ngô thủ thành Dĩnh Đô rất kiên cố, lại do Ngô Vương Hạp Lư cùng tướng quốc Ngũ Viên tự mình tọa trấn, cho nên quân Ngô trên dưới đều phục vụ quên mình, bọn họ căn bản là không có cơ hội đắc thủ. Khánh Kỵ nhiều lần gửi thư sai sứ sang khiển trách Tử Tây, bảo là làm hỏng việc quân cơ, một cây làm chẳng nên non, Tử Tây tướng quân cũng là cực chẳng nói lên được, hắn tuy là chủ tướng tiền quân, nhưng mà quyền hành trong quân lại là do Phí Vô Cực điều khiển. Hắn mặc dù muốn thay đổi chiến lược, phối hợp với Khánh Kỵ để làm một trận chiến toàn lực, nhưng mà vấn đề là không làm chủ được.
Khánh Kỵ làm ra hành động như vậy chẳng qua là để sau này khi mình thoát ly khỏi chiến trường Sở mà quay về Ngô thì cũng có chút đạo nghĩa mà thôi. Tuy nói rằng mình làm ra vẻ khổ tâm thù địch, nhưng căn bản là không mong muốn hắn mang quân đến phối hợp, Phí Vô Cực bành trướng tư tâm, chính là lại hợp với ý hắn.
Chiến sự địch ta song phương cứ giằng co như vậy, Cơ Quang cũng thúc đẩy nhanh hơn tiến độ vận chuyển tài phú nước Sở, đồng thời bắt đầu thu xếp cuộc đại rút lui phản hồi Ngô quốc. Đúng lúc này, Bá dẫn dắt một nhánh quân đơn độc xâm nhập vào Tùy quốc áp sát Cửu Phượng cốc, ba ngàn tinh binh tiến vào vùng trống phía sau trận doanh của người Sở, đánh cho quân Sở đại bại.
Các thượng khanh, trung khanh, quan lớn địa phương Sở quốc đều tập hợp trong Cửu Phượng cốc. Văn Chủng, Phạm Lãi một là hạ tướng quân, một là huyện tư mã, chức quan chỉ như hạt vừng hạt đậu, ở trong Cửu Phượng cốc lại trở thành hai gã sai vặt. Vậy mà thời khắc mấu chốt lại chính là họ mang theo thân binh của mình xông vào sơn động của Sở Vương, cõng tiểu Sở Vương đào tẩu vào trong rừng sâu rậm rạp.
Bá đến chậm một bước chỉ biết nhìn biển rừng mênh mông mà dậm chân thở dài, cuối cùng đành bắt một đống lớn các thượng khanh, trung khanh bụng to não nhỏ, cùng với những quan viên mục thủ địa phương tới cần vương hộ giá cấp tốc lui khỏi Cửu Phượng cốc, theo đường cũ về Dĩnh Đô. Phí Vô Cực đang khoan thai suất lĩnh trung quân tới Dĩnh Đô nghe nói Cửu Phượng cốc bị tập kích, Sở Vương sống chết ra sao không biết, không khỏi cực kì sợ hãi, lập tức tản nhân mã ra chặn đường lui của Bá, tự dẫn quân chạy về Cửu Phượng cốc, cho nên chuyện Phí Vô Cực tiếp viện Dĩnh Đô đành phải trì hoãn lại. Tử Tây đợi không thấy Phí Vô Cực, đối với mấy lộ quân đã hành quân tới phụ cận Dĩnh Đô lại không có quyền điều động để bố trí một cuộc tiến công đại quy mô, áp lực lên phía Khánh Kỵ lại càng lớn hơn nữa.
Bá chạy về Dĩnh Đô, Cơ Quang đối với chiến quả của hắn rất là tán thưởng. Ngũ Tử Tư đưa ra phán đoán, người Sở nóng lòng vì an nguy của Sở Vương, tạm thời sẽ không phát động tiến công với Dĩnh Đô, vì thế thừa dịp này tự mình lãnh binh tấn công Na Xứ thành. Lộ tuyến quay về Ngô quốc của bọn họ đã được xác định là đi qua Chương Hoa Thai hoặc đi về Chử Cung phía Nam, cũng không cần phải cướp cửa ải hiểm yếu Na Xứ thành, đây chỉ là muốn trước khi về nước tận lực đả kích lực lượng của Khánh Kỵ mà thôi.
Ngũ Tử Tư tập trung quân phòng thủ Ngư Phản, Quyền Ấp, ba đường đại quân hợp công Na Xứ thành, đồng thời bên trong thành Dĩnh Đô cũng đã làm xong chuẩn bị cuối cùng cho việc rút lui. Khánh Kỵ biết Na Xứ thành căn bản không chịu nổi sự công phạt của đại quân, cho nên chủ động tấn công trước, triệu tập trọng binh bảo vệ hai sườn sơn cốc bên ngoài Na Xứ thành, dựa vào địa lợi mà dựng doanh trại quân đội, quyết chiến với quân Ngô, song phương đại chiến ba ngày, tổn thương lẫn nhau đều cực kỳ nghiêm trọng.
Nhá nhem ngày hôm đó, lại chấm dứt một hồi đại chiến, ánh tà dương đỏ tươi chiếu lên mảnh đất, chiến xa vỡ nát, chiến kỳ trơ trọi, thi thể nằm ngang dọc, cùng với kiếm kích trường mâu dựng đứng trong trận giống như cỏ dại, cấu thành một hình ảnh yên lặng thảm thiết. Ngẫu nhiên, ở trong hình ảnh đó sẽ có một vài sĩ tốt tỉnh lại, trong vũng máu bò đi vài bước, run rẩy phát ra tiếng kêu gọi, ở trong gió đêm tựa như tiếng nghẹn ngào của chó hoang.
Đại quân của Ngũ Tử Tư đã lui về phía sau, quay về doanh trại. Đại doanh của Ngũ Viên hình tam giác chia làm ba tòa, trung quân của hắn là lều lớn ở phía sau, bên trái bên phải là hai đạo nhân mã của Quyền Ấp và Ngư Phản, như một đôi sừng thú chỉa ra ngoài, kìm chặt ngọn núi của Khánh Kỵ.
Bố trí như vậy, nếu Khánh Kỵ điều động đại quân tiến công, có thể tránh được hai mặt thụ địch, cũng có thể đồng thời phát động lệnh tiến công tới hai tòa đại doanh, mà trung quân của Ngũ Tử Tư vẫn có thể chiếm thế chủ động, lúc nào cũng có thể cứu viện cho hai tòa quân doanh. Hoặc là hậu doanh trực tiếp tiến lên trước, còn hai tòa quân doanh trái phải từ quân tiên phong biến thành phối hợp tác chiến, từ đó biến thành chủ công.
Trong chủ doanh quân Ngô, dưới lá cờ lớn có chữ Ngũ, Ngũ Tử Tư đang ngắm nhìn ngọn núi xa xa. Mặt trời chiều ngả về Tây, trên mặt đất cũng có những cái bóng kéo dài, nhưng mà phía trên sườn núi vẫn rất sáng rõ, phía bên phải sườn núi, là cờ hiệu và cờ soái của Khánh Kỵ đứng sừng sững.
Nhưng mà Ngũ Tử Tư cũng không nghĩ rằng Khánh Kỵ nhất định sẽ ở sườn núi bên phải. Trải qua một thời gian đánh giá, hắn đã phát hiện ra phương pháp tác chiến của Ngô quốc đệ nhất dũng sĩ Khánh Kỵ hiện giờ so với Khánh Kỵ hắn vốn hiểu rõ là hoàn toàn khác nhau. Trước kia Khánh Kỵ dụng binh, phong cách chính là 'đại khai đại hợp' (mở là mở hợp là hợp), xưa nay thích lấy quân đường đường chính chính quyết chiến. Hắn khi chỉnh đốn binh mã xuất binh đánh về Ngô quốc, cũng là một đường phất cờ phấp phới, trống trận rền vang, chỉ sợ người khác không biết quân đội của hắn đang ở chỗ nào, người Ngô có thể dễ dàng nắm giữ được lộ tuyến hành quân của hắn.
Chiến pháp của hắn cũng giống như chiến mâu của hắn, cũng không dựa vào chiêu thuật quỷ quái gì mà người ta khó phỏng đoán, mà lấy chiến lực vô cùng dũng mãnh của hắn, dùng thế không thể đỡ, trực tiếp đánh tới đối thủ. Nhưng mà từ khi gặp chuyện trên sông Trường Giang, hắn tựa như thay đổi thành một người khác, hắn lại có thể nén chịu nhục bị sứ giả nước Ngô đuổi đi, ở Lỗ quốc âm thầm sắp xếp một nhánh phục binh; hắn lại có thể sử dụng ba tấc lưỡi mà thỏa hiệp được với chính khách hai nước Lỗ Vệ, đổi được sự viện trợ của bọn họ; hắn một kẻ xưa nay luôn tâm cao khí ngạo, vậy mà lại giống như hai kẻ không tiền đồ Yểm Dư và Chúc Dung, kết minh với kẻ thù truyền kiếp của Ngô quốc là Sở quốc, hơn nữa thời cơ lại rất vừa đúng; từ khi vào Sở đến nay đánh mấy trận với quân Ngô, hắn cũng chưa lần nào không ngại trả giá, quyết chiến đối mặt với quân Ngô. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa, mưu kế, phàm là có thể sử dụng, hắn đều có thể dùng tới.
Khánh Kỵ hôm nay, đã không còn là Khánh Kỵ khi xưa, một con mãnh hổ, nếu có được mưu kế của hồ ly, vậy lại càng thêm khó chơi. Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, từ đội quân chính quy ban đầu của hắn mà thành lập một đội phản quân, vô luận là quân giới lương bổng, hay là quân kỹ chiến lực, so với đội quân tinh nhuệ của Ngô quốc cũng không thua kém tí nào, về mặt sĩ khí thậm chí còn hơn vài phần, điều này khiến cho Ngũ Viên càng thêm kiêng kị với Khánh Kỵ. Điều may chính là, Đại vương chôn vùi Dĩnh Đô, đã lập ra đại công khiến cho thiên hạ phải kiêng nể, chỉ cần ngài có thể bình yên trở về Ngô quốc, tuyên truyền chiến công này ra tứ phía, chắc chắn tầm ảnh hưởng sẽ được mở rộng thêm một bước ra toàn Ngô quốc thậm chí toàn bộ thiên hạ, đến lúc đó, vốn là kế thừa không hợp pháp, cũng sẽ dưới quân công chói lọi mà lên ngôi đường đường chính chính, Khánh Kỵ khó có thể làm gì được nữa.
Sắc trời còn lưu lại một ánh nắng chiều như tia máu, ánh sáng trên ngọn núi đối diện cũng đã biến mất, đứng ở đây cũng không còn nhìn thấy động tĩnh trên núi nữa. Gió thổi lên mái đầu bạc, những sợi tóc vuốt qua những đường cong khuôn mặt như đao khắc của hắn. Không biết tại vì sao, Ngũ Viên có một loại cảm giác, Khánh Kỵ hiện tại nhất định cũng đang đứng trên đỉnh núi, giống như hắn giờ phút này, nhìn chăm chú vào động tĩnh trong quân của hắn.
Ngũ Tử Tư bỗng nhiên mỉm cười, lại phóng tầm mắt nhìn ra dãy núi xa xa, tựa hồ như thăm hỏi với Khánh Kỵ đang đứng sóng đôi với hắn trên đỉnh núi xa xa kia.
"Khánh Kỵ thủ ở chỗ hiểm trở, đã liên tục hai ngày đại chiến cứng đối cứng với ta, cũng không chiếm được lợi thế gì. Nhìn sắc trời thì đêm nay có lẽ có mưa, truyền lệnh xuống quân, ba quân đề phòng, cảnh giới canh gác giãn ra, để phòng ngừa Khánh Kỵ đánh lén."
"Rõ!" Quan thư kí phía sau vội vàng ghi nhớ mệnh lệnh của Ngũ Tử Tư.
Ngũ Tử Tư quay người lại, ấn kiếm đi xuống khỏi đài quan sát.
Hoàng hôn dần dần buông xuống, giấu những thi thở nằm ngang dọc khắp nơi trên mặt cỏ vào trong bóng đêm. Mây đen che trăng, bắt đầu nổi lên mưa phùn. Trong quân doanh của Ngũ Viên treo cao đèn, một đội binh lính tuần tra mặc áo tơi đi tới đi lui tuần tra khắp nơi.
Ban đêm, Khánh Kỵ quả nhiên thừa dịp trời mưa đột kích, Ngũ Tử Tư vốn mặc nguyên quần áo mà ngủ, nghe thấy tiếng la giết, liền mặc giáp ra khỏi trướng xem, thấy bên tay trái ở chỗ doanh trại quân đội Quyền Ấp tiếng 'sát' rung trời, cả trại rực lửa, lát sau, có người vội vàng chạy tới bẩm báo, Ngũ Tử Tư nghe được chiến báo, không khỏi nhíu đôi lông mày trắng, nói: "Chỉ tập kích phía bên trái, mà nhân số lại hữu hạn? Sao lại thế được..., lệnh cho hữu quân (quân bên phải) phòng thủ, án binh bất động, canh phòng nghiêm ngặt đánh lén, cánh trái tổ chức phản công, cần phải đánh đuổi đợt tiến công của Khánh Kỵ."
Chiến đấu giằng co nửa canh giờ, tiếng chém giết bên phía cánh trái dần dần yếu đi, không lâu sau, lại tới doanh trại bên phải bị đánh lén, địch tới cũng không nhiều lắm, tiến công cũng không mãnh liệt, chỉ đánh trống quấy rầy bên ngoài doanh trại, làm như thế hai ba lượt, trong lòng Ngũ Tử Tư đã hiểu rõ, không khỏi cười lạnh: "Đến đi! Phân phó xuống, tối nay ba quân cứ gối mác mà đợi, cẩn thận đề phòng. Khánh Kỵ làm thế này, vừa là kế nghi binh, còn là kế làm binh mỏi mệt, cái gọi là đột kích, thực chất chỉ là giả bộ, chờ tới khi hắn thực sự tiến công, chắc cũng phải sau nửa đêm thậm chí là rạng sáng không thể nghi ngờ!"
Tướng lãnh trong quân Ngũ Tử Tư phần lớn đều có nhiều năm kinh nghiệm chiến trận, đối với phán đoán của Ngũ Tử Tư thì rất đồng tình, vì thế tới tấp lĩnh mệnh, vội vàng an bài xuống dưới. Tới nửa đêm, mưa dần dần ngừng rơi, bên phía Khánh Kỵ đã hoàn toàn đình chỉ quấy rầy đánh lén, ba quân Ngũ Tử Tư đề phòng, cho tới rạng sáng, bên phía Khánh Kỵ vẫn không hề có động tĩnh.
Cho tới khi trời sáng rõ, Ngũ Tử Tư lên cao quan sát, chỉ thấy đại kỳ của Khánh Kỵ ở trên núi tung bay theo gió, từ xa nhìn lại, lờ mờ có thể thấy được binh lính của Khánh Kỵ đứng ở sườn núi, cảnh giới những chỗ hiểm yếu. Ngũ Tử Tư nhíu mày trầm tư, cân nhắc một hồi, không hiểu đêm qua Khánh Kỵ quấy rầy doanh trại là có dụng ý gì, "Chẳng lẽ... mục đích của hắn chỉ đơn giản như vậy, làm cho binh của ta mệt mỏi?"
Lúc này, phó tướng vội vàng đi tới báo cáo: "Tướng quốc đại nhân, quân Khánh Kỵ đã không còn đột kích, hay là chúng ta bỏ phòng bị, để cho ba quân đào bếp nấu cơm, rồi lại tập kết đánh một trận với địch?"
Ngũ Tử Tư đang ở trên đài quan sát bước đi thong thả, cúi đầu nhìn một giọt nước dưới đài, hình ảnh trong giọt nước chính là mây trắng trên không trung, rõ ràng như gương. Phó tướng đứng ở trước đài lẳng lặng chờ, Ngũ Tử Tư cúi đầu trầm tư trong chốc lát, đột nhiên ngẩng đầu, lông mi trắng nhướng lên nói: "Không! Lệnh cho hai cánh quân tả hữu, lập tức tổ chức nhân mã tấn công lên núi! Ta muốn xem, thằng nhóc Khánh Kỵ này rốt cuộc là đang làm cái trò quỷ gì!"
"Rõ!" Phó tướng lĩnh mệnh đi xuống, một lát sau, cờ hiệu được huy động, hai cánh quân tiên phong tả hữu theo hiệu lệnh cờ, lập tức người hô ngựa hý. Hai đạo nhân mã rời khỏi doanh trại, thăm dò tiến công hai sườn trái phải ngọn núi mà Khánh Kỵ đang chiếm cứ.
Không ngờ lần này tiến công, hai đạo nhân mã công dưới chân núi, lại không có ai ngăn cản. Bọn họ sợ trúng kế, lập tức đình chỉ tiến công, vội vàng quan sát một hồi, rồi cho người hồi báo lại Ngũ Tử Tư. Ngũ Tử Tư nghe vậy cũng thấy kinh ngạc, tình huống kì quái như vậy thật khiến cho người ta khó có thể phán đoán, hắn vội vàng lệnh cho thám mã trinh sát mạo hiểm lên núi thám thính động tĩnh, tới khi một thám mã làm vật hi sinh tự thổi phồng lá gan nơm nớp lo sợ đi lên đỉnh núi, chỉ thấy hai tòa trại lớn của Khánh Kỵ đã không còn ai cả, đại kỳ vẫn đứng sừng sững trên đỉnh núi, những binh lính canh gác đều là dùng cỏ tết lại rồi khoác quân phục lên, trên núi không một bóng người, nhưng mà trên mặt đất xốp sau cơn mưa, lưu lại rất nhiều dấu chân hỗn độn, xem xét những dấu chân đó, đều là dọc theo đường núi lui về phía sau.
Ngũ Tử Tư và các tướng lĩnh thủ hạ nghe được tin tức này không khỏi hai mặt nhìn nhau, hóa ra Khánh Kỵ đêm qua tập kích doanh trại không phải là kế làm binh mỏi mệt, cũng không phải là kế nghi binh, mà là hắn lui quân ra khỏi vùng khói lửa. Khánh Kỵ thừa dịp ban đêm dời đi, chơi kế thành trống, mục đích của hắn là gì, người của hắn đang ở nơi nào?
Ngũ Tử Tư thấy quân địch ở trên ngọn núi thừa dịp ban đêm bỏ trốn, liền cảm thấy tình hình không ổn, nhưng để cẩn thận, hắn vẫn cho người khống chế hai bên trái phải ngọn núi, sau đó mới dẫn đại quân ra khỏi cốc mà đánh tới Na Xứ thành. Cư dân Na Xứ thành không tấn công mà chỉ mở cửa nghênh đón, có một người tuổi cao vọng trọng bên trong thành khi thấy Ngũ Tử Tư thì run rẩy, trình lên một phong thư đình chiến của Khánh Kỵ.
Ngũ Tử Tư đọc xong bức thư vội cho người chạy nhanh tới Bách Tân hồ để thám thính động tĩnh, nơi đó chỉ còn lại một doanh trại rỗng, đại quân Khánh Kỵ quả nhiên chẳng biết đi đâu rồi. Ngũ Tử Tư không dám chần chừ, lập tức dùng tốc độ cao nhất quay về Dĩnh Đô báo cho Cơ Quang, Cơ Quang nghe thấy tin tức thì kinh hãi. Ngũ Tử Tư cùng Bá cẩn thận tính toán một hồi, bởi vì Trường Giang ngoằn ngoèo, lộ trình có nhiều khó khăn, cho nên Khánh Kỵ mặc dù đi đường thủy cũng không để nhanh hơn được bọn họ hành quân đường bộ. Tuy rằng Khánh Kỵ đi sớm hơn một ngày, nhưng mà đi đường thủy về nước Ngô, so với bọn họ đi đường bộ thì hẳn phải chậm hơn dăm ba ngày.
Cho ra được kết luận này, Cơ Quang mới hơi an tâm, hắn lập tức hạ lệnh điều động hết thảy xe lừa trâu ngựa của người nước Sở, đại quân hướng phía Đông đi về nước, trước khi đi còn hỏa thiêu hoàng cung Dĩnh Đô vốn đã bị hắn cướp bóc phá hủy chẳng còn gì. Đợi khi Phí Vô Cực tìm thấy Sở Vương, che chở Sở vương trở về, khi đại quân Sở về tới Dĩnh Đô, thì quân Khánh Kỵ và quân Ngô cũng đã sớm theo hai đường thủy bộ tới Ngô quốc rồi. Hoàng cung vốn ở trong thành Dĩnh Đô bây giờ chỉ còn sót lại một mảnh phế tích đổ nát thê lương.