Mồng bảy tháng giêng. Những cánh hoa đào đã bắt đầu nhẹ nhàng rơi trên mặt tủ, hay là là bay xuống dưới đất. Cảnh Tết chỉ còn lại ở những bông hoa dần kém sắc tươi. Thọ sắp sửa cho Bích vào trường, rồi năm giờ chiều hôm ấy, chàng đi chuyến xe hỏa cuối cùng lên Vĩnh Yên. Đến nơi Thọ đã thấy Đình và Tân đứng đón mình ở sân ga. Đình và Tân là hai ông giáo dạy lớp nhì. Trước khi về nghỉ Tết, Tân và Đình đã nói với Thọ là sang năm mới, cùng đến ở chung với chàng, Đình hóa vợ; Tân có vợ, nhưng vợ bận việc ở nhà quê, không thể đi theo được. Trước kia, cũng như Thọ, hai người lập hai gia đình không đàn bà, chỉ một thầy một tớ. Những gia đình như thế, ai có qua mới trải được những cái vui và những cái buồn của nó. Vui là vui ở chỗ được tự do, muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm, muốn thức đến bao giờ thì thức, không có người can ngăn bó buộc, không phải bận bịu, đến vợ con, không phải lo phiền đến những khi con sài vợ yếu. Nhưng tâm hồn ai không có những lúc rạo rực.
Ai không một đôi khi cảm thấy lời mình trơ trọi, trống trải cô đơn? Những lúc đó, ta mới biết đến sự cần phải có một người bạn chí thiết, một người yêu, một tấm linh hồn êm dịu có thể làm cho đời ta được êm dịu.
Thế là từ tối hôm ấy, nhà Thọ thêm Tân và Đình. Ba người hợp ý nhau lắm. Họ lập lệ: Thọ anh cả, nhiều công việc ngoài trường, được miễn việc ở nhà; Đình, em thứ hai, thạo về khoa ăn uống trông nom sai bảo thằng bếp; Tân em út, giữ sổ chi thu và làm thủ quỹ. Mỗi khi ai muốn ngỏ ý gì thì nói ra. Nếu bằng lòng theo ý bạn thì Thọ phải nói: "Một", Đình nói: "Hai", Tân: nói "Ba". Ai không bằng lòng thì im. Nếu một người không bằng lòng, hai người kia phải chịu theo.
Rồi Tân thu luôn tiền, gọi thằng bếp giao tiền chợ ngày mai; Đình dặn nó các thức phải mua.
Đồng hồ vừa điểm mười hai tiếng.
Thọ gọi thằng bếp lên hỏi:
- Còn gà không?
- Bẩm còn.
- Mua hành chưa?
- Đã ạ.
- Hạt tiêu?
- Bẩm có.
Rồi Thọ mỉm cười nói:
- Cháo gà...
Đình gật đầu!
- Hai.
Tân ngẫm nghĩ một lúc:
- ừ thì: ba.
ý muốn của Thọ đã được hai bạn theo, thằng bếp xuống nhà dưới bắt gà.
Thọ, Đình và Tân chấm bài và soạn bài để mai đi dạy học.
Sang năm mới, học trò phần nhiều mặc quần áo đẹp và sạch hơn năm ngoái; ai cũng vui tươi hớn hở, kể chuyện cho chúng bạn nghe những thú vui trong mấy ngày Tết vừa qua.
Nhung đẹp lộng lẫy trong bộ quần áo mới. Nàng sung sướng khi nhận thấy Thọ mặc chiếc áo len của nàng gửi biếu. Cả chiếc khăn thêu, Thọ cài ở túi áo ngực cũng là chiếc khăn tự tay nàng làm ra.
Lớp học hơi có vẻ lạnh lẽo. Chiếc bảng đen, những bàn ghế trơ trụi, những bản đồ, tranh, ảnh thuộc về cách tri và sử ký, những lọ mực đen sì không thể gợi trong tâm hồn ta những cảm tình đầm ấm dịu dàng, và nhắc ta nhớ tới những chai rượu mùi, những đĩa kẹo mứt, những bông cúc vàng khoe thắm, những nụ đào chúm chím ganh tươi và bao cảnh sán lạn khác tô điểm cho ngày xuân thêm đẹp.
Nhưng lúc này không phải là lúc nhàn rỗi, ngồi mơ màng nhìn khói thuốc lá thơm tỏa lên trần nhà. Lúc này là lúc phải ganh đua, phải lắng tai, phải chú ý, phải suy xét nghĩ ngợi.
Bởi thế nên sau mấy ngày nghỉ tết, một ít học trò trở nên vơ vẩn và chán nản vì nghĩ tới những lời trách mắng nghiêm nghị của thầy, những cái thước kẻ vào đầu, những bài chép phạt và nhất là những giờ tan học, phải ở lại, trong khi các bạn học đã được vui vẻ dong chơi.
Nhưng sau mấy ngày nghỉ ngơi, tâm trí được thư thái, phần nhiều học trò trở lại trường, nhanh nhẹn và hăng hái. Các cậu lại được nghe câu khen ngợi, những lời khuyến khích, mỗi khi làm được một bài hay, học được một bài thuộc; và những khi ấy, các cậu lại được hưởng cái vui man mác, vô hạn của kẻ làm trọn bổn phận.
Đến ngày đi học, Nhung là người vui sướng nhất. Nàng thấy tết dằng dặc buồn tẻ, nàng chỉ mong cho chóng hết. Đến trường gặp Thọ, nàng hớn hở.
Đương giảng bài, Thọ thấy Nhung lấy mùi xoa ra lau mũi, cái mùi xoa giống hệt như những cái nàng gửi cho Thọ. Thọ nhìn; Nhung hơi đỏ mặt. Nếu để ý, Thọ sẽ thấy Nhung mặc cái áo len cùng mùi, và cùng kiểu đan với cái chàng đang mặc.
Một buổi tối thứ bẩy. Thọ nằm trên đi văng hút thuốc lá. Tân đang chấm bài luận cho học trò. Đối mặt Tân, Đình ngồi tựa lưng vào ghế, hai tay khoanh trước ngực, mơ màng nhìn lên trần nhà. Bỗng Đình nói vơ vẩn một mình:
- Không biết "vợ tôi" bây giờ làm gì nhỉ? Có lẽ đang chấm bài, soạn bài, hay ngồi nghĩ đến tôi cũng chưa biết chừng...
Thọ và Tân phì cười - Đình cũng cười theo - Những lúc ấy, Đình nghĩ đến cô giáo An dạy trường con gái trên Việt Trì. Hai người đã đính ước với nhau, chỉ còn đợi hết tang là làm lễ cưới: An để tang cha, Đình để tang vợ. Đã một đôi khi An về Vĩnh Yên thăm Đình. Hai người cùng chung một cảnh: cha mẹ đều mất cả. An có cho Đình mượn một quyển tự vị, đêm nào Đình cũng dùng để gối đầu.
Đình bỗng rầu nét mặt, nói nhỏ:
- Chưa chắc tôi với nàng đã lấy được nhau... Trong đời tôi, nhiều sự xảy ra một cách bất ngờ quá, khiến tôi bây giờ không thể tin cái gì là vững được. Hai anh thử nghĩ xem, trong hai năm giời, mẹ chết, anh chết, cha chết, vợ chết, cả gia đình đương sum họp vui vẻ, bỗng tự nhiên tan nát. Bao người thân yêu của tôi chỉ còn lại một đứa em giai đang ho nặng, không biết còn sống nổi được bao nhiêu ngày. Bao sự đau khổ nhất trên đời, tôi đã nếm cả, có lẽ bây giờ không còn sự gì có thể làm cho tôi khóc được nữa.
Rồi Đình lại kể đến những sự vất vả của mình trong khi đi dạy học. Ra làm việc mới được gần bẩy năm đã phải đi những mười hai trường, vì trong hai năm ở nha học chính, chàng phải đi dạy thay các người được phép nghỉ, nơi nửa năm, chỗ một vài tháng. Nào khi ở vùng Nam, bị tổng lý trong làng gây chuyện; nào khi ở Yên Bái, đi chấm thi ở Sơ học Yếu Lược, bị mưa và tối trên đỉnh đèo, đường trơn, đuốc tắt, gió to, mưa nặng hạt, chỉ đợi có chớp sáng mới nhận thấy đường và đi được mấy bước. Cảnh ấy, Đình phải trải, chỉ vì người đưa đường ham chóng đến và tính sai giờ.
Muốn Đình không nhớ tới những sự buồn đã qua, Thọ nói:
- Còn anh Tân, bao giờ thì cho chị ấy đi theo?
Tân hơi chau mày:
- Thôi không nói chuyện ấy...
Đình cười:
- Anh này lạ! Hễ hỏi đến vợ, là đánh trống lảng.
Tân gọi:
- Bếp!
Thằng bếp ở dưới nhà dưới chạy lên. Thấy nó mặc chiếc áo cánh lụa mới, Thọ hỏi:
- Bếp mới may áo đấy à?
- Thưa ông vâng.
- Bao nhiêu tiền?
- Hơn hai đồng ạ.
Thọ nhìn Đình và Tân:
- Đấy là lương của nó có ba đồng một tháng.
Đình nói:
- Anh không biết, chứ trong hòm nó bao giờ cũng có thuốc lá và nước hoa.
Tân bảo bếp tính tiền chợ rồi dặn các thứ phải mua ngày hôm sau.
Bên ngoài có tiếng gõ cửa. Bếp chạy ra mở, Thọ ngồi dậy, reo lên:
- á! Ông Mỹ!
Mỹ vừa bước vào vừa nói:
- Bây giờ ba ông ở với nhau vui nhỉ. Tối thứ bẩy mà không đi chơi à?
- Cũng sắp sửa đi, ông ngồi chơi đã.
Trong sáu ông giáo ở Vĩnh Yên, Mỹ là người có tính lạ hơn hết. Ông chỉ biết có ông, biết đi dạy học, không để ý đến sự người khác hơn kém mình về tài trí, thần thế hoặc tiền của. Ông chỉ làm theo ý muốn và không thèm nghĩ đến dư luận. Bởi thế nên người ta đã tặng ông tiếng: Mỹ bát sách.
Mỹ cũng biết thế nên thường nói:
- Nhiều người bảo tôi gàn, tôi cũng biết. Họ bổng lộc nhiều, ăn tiêu rộng, tôi theo kịp họ thế nào được. Họ chẳng là gì mà ép mình dưới ý muốn của kẻ khác. Nhưng chưa biết tôi gàn hay họ bát sách.
Rồi Mỹ cười, đắc ý. Mọi người cười.
Thằng Bếp bưng nước lên. Mỹ nói:
- Gớm! Các anh này sang nhỉ! Cà phê cẩn thận.
Thọ hỏi Mỹ:
- Tôi thấy người ta nói ông đánh trống cô đầu giỏi lắm, phải không?
Mỹ cười:
- Anh lại hỏi kháy tôi rồi. Tôi có biết gì đâu. Hồi tôi còn ở Yên Lạc, một lần đi dự tiệc ở nhà một ông nghị, có đông đủ người tai mặt trong huyện. Họ mời tôi đánh trống: tôi từ chối. Họ ép tôi: tôi đánh liều, cứ tom rồi lại chát. Họ khúc khích cười. Tôi tức quá, quẳng roi chầu xuống nói; các anh cười à! cho ngón chầu các anh có hay mười mươi, nhưng nếu túi các anh rỗng, vị tất cô đầu đã yêu các anh bằng tôi.
Mỹ uống nốt tách cà phê, nói tiếp:
- Đối với họ, không thế, không được. Họ hay khinh người lắm. Các anh nghĩ thế nào?
- Phải lắm!
Tân vừa nói vừa mỉm cười nhìn Đình và Thọ.
Mỹ nói:
- Thằng Hùng với con Bình dạo này láo quá. Chúng nó dắt nhau đi đủ mọi nơi, ai cũng biết. Nếu phải trong bọn nhà giáo chúng mình, họ đã đồn rầm lên, bịa đặt thêm vào, rồi chỉ trích, rồi đăng báo cũng chưa biết chừng...
Tân nói:
- Có thế chúng mình mới phải giữ gìn và mới xứng cái chức "quốc dân giáo dục".
Đình cười:
- To tát thế? Gọi là chức "Gõ đầu trẻ" có đúng không?
Thọ pha trò:
- Đối với ông Thúy, dạy lớp năm, thì gọi là "Gõ đầu trẻ" hay "vú em đực" cũng chẳng sai.
Mỹ cười, rồi rủ Thọ, Đình và Tân đi đánh thăng quan.
Thọ nhìn hai bạn nói:
- Một!
Đình:
- Hai!
Tân:
- Ba!
Mỹ ngạc nhiên hỏi:
- Cái gì vậy?
- Khẩu hiệu riêng của chúng tôi.
Ngoài đường giời tối, gió thổi rì rào trên ngọn cây. Bốn người khoác vai nhau đi, thỉnh thoảng lại bật đèn "bin" lên soi đường.
Hai giờ sau, lúc Thọ, Đình và Tân trở về thấy trước cửa nhà lập loè lửa thuốc lá. Thọ nói:
- Ai lại đứng đợi chúng mình ở cửa rồi...
Lúc đến nơi, thì ra thằng bếp, đầu chải mượt bôi nước hoa, tay cầm điếu thuốc đang hút dở.
Tám giờ sáng. Mặt trời xuân dịu dàng tỏa ánh sáng trên những cánh lá xanh tươi. Trên một con đường đất gồ ghề thuộc phủ Vĩnh Tường, hai bên đồng ruộng trơ trụi Thọ, Đình và Tân vừa đi xe đạp thong thả vừa nói chuyện. Được độ nửa tiếng đồng hồ, ba người đến nhà ông Hàn Thịnh, một người vào hạng giầu có ở tỉnh Vĩnh Yên, ông Hàn có con giai học ở lớp Tân, nên mỗi khi ra tỉnh có việc, ông lại vào nhà Thọ chơi và mời ba người hôm nào thong thả về quê mình, nhân tiện đi bắn chim, vì nhà ông có hai khẩu súng.
Được tin bọn Thọ đến, ông Hàn vui mừng ra đón. Nhà ông Hàn làm theo kiểu mới, hai từng, có riêng phòng tiếp khách, phòng ăn, phòng ngủ. Bà Hàn, con giai và con rể ông Hàn cũng ra tiếp chuyện, ai nấy đều hớn hở như gặp được người thân đi xa mới về. Bà Hàn lại ân cần hỏi thăm đến quê quán, cha mẹ và anh em chị em Thọ. Bà tươi cười nhất là khi được biết Thọ chưa có vợ.
Uống nước xong, ông Hàn đưa bọn Thọ đi xem mọi nơi trong nhà ông: nào chỗ chứa thóc, nơi xay lúa giã gạo, nào chỗ nuôi súc vật, sân phơi thóc, nào vườn cảnh, vườn giồng cây có quả, ao thả cá. Đến đâu ông Hàn cũng nói rõ ràng về mọi thứ ông cho xem, như một ông giáo giảng minh bạch về khoa canh nông cho học trò trường Sư phạm nghe, khi đi thăm một đồn điền nào.
Sau cùng, ông Hàn đưa bọn Thọ vào một gian buồng nhỏ, trong có kê một cái giường; trên giường có khay đèn thuốc phiện. Ông Hàn mỉm cười nói: nơi hút thuốc của con rể của tôi đấy; đối với các con, tôi cho họ được tự do, để họ khỏi phải thèm muốn ao ước.
Rồi ông Hàn bảo con rể và con giai lấy súng đưa bọn Thọ đi bắn. Thọ rất thích đi trên những con đường nhỏ, bên cạnh những lũy tre xanh, những bụi rậm, chân bước nhẹ nhàng, tai lắng nghe, mắt chăm chú nhìn. Một tiếng súng nổ gần đấy, tiếng chim vỗ cánh bay. Thọ ngoảnh nhìn, thấy Tân hớn hở, vừa cười vừa cầm con chim gáy dơ lên. Thọ khen:
- Khá đấy!
Ông Hàn cho người ra mời bọn Thọ về ăn cơm. Khi gần về đến nơi, Tân sẽ đưa mắt nhìn Thọ: một thiếu nữ tha thướt từ nhà ông Hàn đi ra.
Bỗng Thọ nghe thấy trong nhà có tiếng gọi:
- Chị ơi! Về mẹ bảo đã.
Thiếu nữ lại vội vàng quay vào.
Trong khi ăn cơm, thấy ông Hàn bà Hàn săn sóc đến mình quá, Thọ ngượng, rồi bực mình. Chàng nghĩ: "Họ làm như mình còn trẻ con ấy!.."
Trong làng có một người vào chơi nhà ông Hàn. Người ấy chào mọi người rồi nói:
- Chúng tôi được tin các ông giáo về chơi, nên đến để hầu các ngài.
Thọ nói:
- Chúng tôi không dám. Mời ông ngồi xơi nước. Chắc ông có cháu học ở trường tỉnh.
- Bẩm vâng. Cháu học ở lớp nhì. Bẩm các ngài, cháu học có khá không ạ?
Tân hỏi:
- Tên cháu là gì?
- Tên cháu là Cát Văn Long.
Tân nhìn Thọ rồi lại hỏi:
- Ông cho cháu trọ ở tỉnh?
- Bẩm vâng.
- Thế đã lâu cháu chưa về nhà?
- Bẩm cháu mới về hôm thứ năm vừa rồi, nó được thầy giáo yêu lắm, xin tôi tiền để mua sách, rồi lại đi ngay.
Thọ thở dài, thương hại thay cho người nhà quê đã bị đứa con hư lừa dối, vì Long, lười biếng và vô phép với thầy giáo, đã bị đuổi được nửa tháng rồi. Nhưng bởi không muốn cho người kia phải đau khổ vì cái tin đột ngột ấy, nên Thọ không nói cho biết ngay lúc bấy giờ. Chàng phải tìm cách để những việc như thế sẽ không thể xẩy ra được nữa.