Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua
Chương 235: Thắng làm vua thua làm giặc (tiếp)
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
Các binh sĩ ngẩng cao đầu thẳng tiến vào trong, tinh thần chiến đấu dâng cao, riêng Khánh Kỵ đang ngồi trong xe, tâm trí đã không còn để trên chiến trường nữa, mà đang suy nghĩ những vấn đề nan giải cần giải quyết sau chiến tranh.
Phía trước đã là con đường Thanh Thạch Quan rộng lớn và bằng phẳng, đi về phía trước thêm một đoạn, thì thấy hai tòa Khuyết Lầu thật to, giữa Khuyết Lầu là đại môn hoàng cung. Đại môn đang mở, một vị tướng quân đang ngồi trên vũng máu, đôi mắt mở to nhìn về phía trước, hai mắt hắn trống rỗng, như đã không còn hơi thở của người sống.
Thi thể các thuộc hạ của hắn vương vãi khắp nơi, rất nhiều thi thể binh sĩ của Khánh Kỵ lẫn lộn trong đó, vị tướng quân này, đã bị mất một cánh tay, nơi vết thương còn thấy rõ mấy sợi gân đầy máu lẫn vào trong thịt, trên má có một vết thương khá sâu, nhìn rõ cả xương bên trong, dưới ngực hắn còn ghim vài cây trường mâu, chính vì những cây trường mâu này, đã giữ cho thân thể hắn không thể ngã xuống được.
Nhìn vào bên trong Hoàng Cung, là một Ngự đạo thẳng tắp. Con đường vừa rộng vừa thẳng tắp này kéo dài đến một chiếc cầu hình vòm cung, trên đường trải đầy thi thể. Có thể thấy nơi đây đã xảy ra một trận chiến kịch liệt.
Khánh Kỵ vén rèm kiệu, bước xuống xe, cửa cung điện cao lớn, hai bên cửa cung có vài binh sĩ đang hướng về hắn hành quân lễ, hắn hỏi:
“Tình hình trong cung thế nào”
“Hồi Đại Vương. Tướng quốc đại nhân và Anh Đào tướng quân đã dẫn quân tiến thẳng vào nội cung, Phù Sai chỉ còn số ít binh sĩ đã lui về phía hậu cung.”
Khánh Kỵ gật đầu. Dặn dò:
“A Cừu, lập tức dẫn quân khống chế đám nô tài trong cung ở cánh bên trái, nơi đó trữ rất nhiều tài bảo, lương thực, châu báu, nhất quyết không được mất !”
“Vâng !”
A Cừu chấp tay vâng một tiếng, lập tức dẫn một đội binh mã đi vào trong cửa cung, đi về hướng những kiến trúc bên cánh trái.
“Tái Cừu !”
“Có mạt tướng !”
“Lập tức khống chế phía bên cánh phải, đó là nơi lưu trữ những vật như hộ tịch, sổ sách, địa đồ, đó đều là bảo vật quốc gia, nhất quyết không thể để mất !”
“Mạt tướng tuân lệnh !”
Tái Cừu càng không thể chậm trễ. Lập tức dẫn người đi về bên cánh phải.
“Nhâm Băng Nguyệt !”
“Có mạt tướng. Mạt tướng sẽ theo Đại Vương nhập cung !”
Khánh Kỵ liếc nàng, Nhâm Băng Nguyệt cũng không thua kém mà còn lườm lại hắn, Khánh Kỵ tằng hắng một tiếng, huơ tay về phía trước, Nhâm Băng Nguyệt lập tức dẫn theo hơn ngàn binh sĩ hò hét tiến vào, xông cả đến trước mặt Khánh Kỵ. Trong hoàng cung, các cung nữ chạy toán loạn cả lên, vừa thấy đại quân Khánh Kỵ đi qua, lập tức quỳ xuống lạy, vô cùng ngoan ngoãn, số binh mã này của Khánh Kỵ cũng chẳng ai thèm để ý đến họ, vội vội vàng vàng lướt qua, lên phía trên hoàng cung, đầy những thi thể nằm la liệt.
Trong cung binh mã của Phù Sai không còn nhiều, những binh sĩ thân cận bên cạnh hắn không hơn ngàn người, phân bố đến hơn mười cửa thành lớn nhỏ của Cô Tô Thành làm đội dự bị, lại thêm việc trong số các thanh niên thủ thành, cứ mỗi một ngàn người thì hắn an bài hai mươi người tâm phúc dể giám sát và đốc thúc tác chiến, nên số binh sĩ theo hắn lên trên thành Bàn Môn gặp Khánh Kỵ không nhiều.
Khi vừa xảy ra nổi loạn, tưỡng lĩnh thân tín của Phù Sai đã lập tức hộ giá đưa hắn vào cung, tuy Bàn Môn liền sau đó đã được các binh sĩ nổi loạn mở cửa, đón Khánh Kỵ người và ngựa vào thành. Tôn Vũ đích thân dẫn đội binh tinh nhuệ, trực tiếp bảo vệ Phù Sai, nhanh chóng thoát khỏi truy kích. Dẫn đến việc Phù Sai không kịp phong tỏa cửa cung, các binh sĩ tinh nhuệ mà hắn phân bố ở các cửa thành để chuẩn bị cho chiến sự, lúc đó vẫn chưa hay tin Bàn Môn có biến loạn. Đến khi Tôn Vũ giúp cho Phù Sai vào đến cửa cung, thì Lương Hổ Tử, Kinh Lâm, Xích Trung, Yểm Dư và Chúc Dung đã dẫn binh mã tấn công vào các cửa thành trọng yếu, cắt đứt mọi liên lạc giữa họ và Hoàng Cung.
Cũng may là Tôn Vũ, Anh Đào phản ứng mau lẹ, Phù Sai cùng với số ít binh mã gấp rút lui về cung, vốn không kịp thực hiện kế hoạch phóng hỏa đốt thành.
Khi Khánh Kỵ đuổi đến nơi cuối cùng trong cung điện, chỉ thấy Tôn Vũ, Anh Đào chỉ huy đại quân đang bao vây một đại điện nguy nga tráng lệ, tòa cung điện này rất hùng vĩ, cao ba tầng, dưới hành làng dài của đại điện đầy xác người, trên cửa cung điện viết ba chữ lớn “Trích Tinh Lầu”, trong điện trống không, ngoài điện hơn ngàn binh mã vây chặt lấy đại điện đến nỗi con kiến còn chui không lọt, thế mà lại không hề phát ra một tiếng động, không khí yên lặng càng thấy nguy hiểm khác thường.
“Vi thần tham kiến đại vương !”
Vừa thấy Khánh Kỵ, Tôn Vũ, Anh Đào lập tức quỳ xuống bái kiến.
“Phù Sai đâu ?”
Đôi mày Khánh Kỵ giãn ra, nhìn họ hỏi.
“Hồi bẩm đại vương, Phù Sai đang trốn trong đại điện này, bên cạnh chỉ còn hơn mười binh sĩ thân cận, Đại vương có lệnh, giữ lại tính mạng Phù Sai, thế nên chúng thần chỉ còn cách bao vây đại điện, không tấn công vào, nay nên làm thế nào, xin được nghe đại vương căn dặn.”
Khánh Kỵ chau mày, nhưng không có vẻ khẩn trương. Người đời sau xem phim điện ảnh nhiều, cũng biết trong cung có rất nhiều cơ quan mật đạo, vì thế hắn e sợ rằng trong cung điện này lại có cơ quan hay mật đạo, Phù Sai sẽ từ mật đạo trốn thoát ra ngoài, vậy thì tương lai khó tránh sẽ có kẻ chen ngang phá đám, vội vàng nói:
“Phái người vào trong, lục soát từng nơi một, nếu có ai phản kháng, giết không cần hỏi! Nhưng, phải giữ lại tính mạng của Phù Sai.”
Nhâm Băng Nguyệt gấp rút thỉnh mệnh nói:
“Mạt tướng nguyện lãnh nhiệm vụ này !”
Khánh Kỵ nhìn chằm chằm vào nàng, gật đầu nói:
“Chuẩn tấu, Tướng quân… bảo trọng nhé.”
Nhâm Băng Nguyệt vui mừng đáp:
“Tạ đại vương !”
Nàng huơ tay, binh lính Nhâm gia xếp thành tám hàng, xông thẳng vào đại điện rộng lớn. Từng cây trường mâu được cầm ngay ngắn, lưỡi dao bằng thép nhọn sắc bén và sáng loáng. Hai bên đại điện đều có thang gác đi lên lầu trên, tám đội binh sĩ chia làm hai ngã, trông giống như hai dòng đại hồng thủy cuộn qua, tiếng bước chân đều đặn phát ra âm thanh “thình thịch”, vọng lại trong đại điện, như khiêu khích tâm trạng của người.
Khánh Kỵ chầm chập bước vào đại điện, chầm chậm ngẩng đầu nhìn chung quanh đại điện, trông giống như một bức tượng điêu khắc, không một tiếng nói, không một cử động…
Phù Sai một mình đứng trên tầng ba trống không của đại điện, nghe tiếng bước chân đều đặn phát ra ở bên dưới lầu, trên mặt hắn lộ ra nụ cười thê thảm khó có thể dùng lời để diễn tả. Trên đại điện trống không, trên xà nhà rủ xuống bao nhiêu là lụa trắng, rủ thẳng xuống đất, uyển chuyển cuốn theo chiều gió. Ở chính điện, sát tường có một bàn thư án, trên bàn thư án có một chiếc hộp sơn đen sáng lấp lánh.
Phù Sai đã cởi bỏ vương niệm, cởi bỏ hoàng bào. Vứt ở trên mặt đất, rút cả trâm ngọc cài tóc, khiến tóc tai rũ rượi, hắn chỉ mặc một chiếc áo bào màu trắng bằng vải mỏng, từ từ bước đến bên bàn thư án, dùng những ngón tay run rẩy sờ vào chiếc hộp sơn đen.
Chiếc hộp đã được niêm phong, ngay nắp hộp vẫn còn dấu niêm phong. Phù Sai xoa vuốt chiếc hộp trong chốc lát, đột nhiên hắn dùng tay đập tan chiếc hộp, “đùng” một tiếng dấu niêm phong ngay nắp hộp vỡ ra, sau đó hắn từ từ mở chiếc hộp ra.
Một dải lụa vàng, ở giữa hộp là một con dao găm được đặt nằm ngang. Cán dao bằng gỗ cũ kỹ và chưa được sửa lại, ở giữa ẩn hiện lưỡi dao nhọn của huyết tào, cán dao và lưỡi dao dài gần như nhau, chiều dài của con dao găm không quá một thước.
Cây dao găm này vốn dĩ là một vũ khí lợi hại cho thích khách giết người, vốn nó không hề có tên gọi, cho đến khi có một vị vua đã bỏ mạng bởi lưỡi dao.
Chuyên Chư, chính là nhờ con dao găm này giấu trong bụng cá, vượt qua hai tên lính cầm giáo mác bằng đồng được huấn luyện nghiêm ngặt. Đâm xuyên qua ba lớp áo giáp. Thích sát Ngô Vương Liêu; Phụ thân của Phù Sai là Công Tử Quang, cũng chính nhờ con dao găm này. Giết vua soán ngôi, đăng ngôi vương vị. Thế là, từ ngày đó con dao găm từ một thanh đoản kiếm vô danh đã trở nên vang danh thiên hạ, được gọi là Ngư Tràng Kiếm.
Cái ngày công tử Quang trở thành Ngô vương Hạp Lư, thanh đoản kiếm đã từng nhuốm máu của Vương Liêu và Chuyên Chư được lau chùi sạch sẽ đến từng ngóc ngách, được niêm phong trong chiếc hộp này. Nay, nó lại có dịp thấy lại ánh sáng mặt trời, lại chứng kiến lần nữa một vị vua sắp mất ngôi vị, lại lần nữa nhuốm mùi máu tanh.
Phù Sai cầm lấy dao găm, ngón tay nhẹ nhàng lau thân kiếm.
Lần trước, con dao này lấy mạng một Ngô vương, là một lần thay đổi triều đại. Nay, hung khí này lại xuất hiện trong nhân gian, nó lại sắp đảm nhiệm sứ mệnh nào đây ?
Phù Sai nắm chặt Ngư Tràng Kiếm, cười lớn…
Tầng cao nhất trong đại điện chỉ có một cửa vào, các binh lính Nhâm gia lúc nãy chia làm hai tốp đi lên lầu đã tập hợp lại, lại xếp thành hàng. Nhâm Nhược Tích đứng thẳng trong điện, ngẩng đầu nhìn lầu gác nghiêng nghiêng kéo dài lên phía trên, hơn mười vị võ sĩ mặc giáp cầm kiếm ngang ngực, đứng trên lầu căng thẳng nhìn xuống họ.
Hơn mười vị binh sĩ thân cận này trông cũng khá khôi ngô, trẻ tuổi có, lớn tuổi có, trong đó có người trên mép còn cả lông tơ, e rằng còn chưa qua tuổi nhược quán. Bên dưới lầu gác toàn chi chít những lưỡi giáo nhọn, khiến hắn căng thẳng đến độ trán đầy mồ hôi. Hắn nuốt nước miếng ừng ực, nhìn đồng đội hai bên, vẫn đang đứng vững vàng. Các binh sĩ đều đang sợ hãi, hoặc giả họ không hề sợ chết đến thế, nhưng đối diện trận chiến cầm chắc thua này, không cách nào không mất tinh thần.
Ngoài những hơi thở nghe như cái bễ lò rèn ra thì trên lầu hoàn toàn yên lặng, Nhâm Băng Nguyệt nói:
“Ai đầu hàng thì miễn giết !”
Âm thanh vọng lại, trên lầu không ai đáp lại, hơn mười vị binh sĩ im lặng, nắm chặt vũ khí trong tay.
Trong ánh mắt Nhâm Băng Nguyệt lộ ra sát khí, lại hét lớn:
“Tránh ra !”
Thân thể của hơn mười vị binh sĩ này hơi co rúm lại, nhưng khi họ quay đầu nhìn về phía sau, sắc mặc có vẻ kiên định trở lại.
Nhâm Băng Nguyệt thở dài thườn thượt, lạnh lùng nói:
“Cầm mâu !”
“Xoạt” một tiếng, các binh sĩ giơ cao cây trường mâu qua khỏi đầu, trên đầu họ lập tức xuất hiện một rừng mũi nhọn sắc bén.
Nhâm Băng Nguyệt lạnh lùng những binh sĩ ở trên lầu, tay phải trông như thanh đao, từ từ đưa lên.
Các binh sĩ đứng trên bậc thang giơ cao thanh kiếm trên tay một cách vô vọng, đối diện với những người đang sức lực dồi dào này, họ không biết nên nhằm thanh kiếm trên tay vào đâu.
“Ném mâu !” Nhâm Băng Nguyệt đã hết nhẫn nại, nàng huơ tay phải xuống, tất cả binh sĩ đang đứng trên bậc thang dùng sức ném mâu đi, “vù” một tiếng, trên lầu gác, tay vịn, cạnh cửa, họa trụ ghim đầy trường mâu, hơn mười vị binh sĩ đã không thấy nữa, họ đã bị chôn vùi trong đám mâu. Từng dòng máu tươi, trông như con rắn đang bò ra, từ trong đám mâu, men theo lầu gác chảy xuống từng giọt từng giọt.
“Xông lên !”
Nhâm Băng Nguyệt hét một tiếng, lập tức vài binh sĩ tay vẫn cầm trường mâu xông lên trên, gạt hết những cây trường mâu đang ghim trên lầu gác, đá văng những thi thể đang nhuốm đầy máu tươi, dọn sạch đường đi. Nhâm Băng Nguyệt với sự bảo vệ của các binh sĩ, từng bước đi lên theo con đường đã được dọn sạch, dưới chân họ xuất hiện những vết máu tươi hình dấu chân.
“Ha ha ha…!” trên đại điện đột nhiên xuất hiện một tiếng cười như điên dại, sau đó lại nhanh chóng rơi vào im lặng, Nhâm Băng Nguyệt bước nhanh hơn, dẫn binh sĩ xông lên trên đại điện. Từng dải lụa trắng từ xà ngang trên đại điện rủ xuống, khẽ động đậy theo gió, giống như đang chiêu hồn vậy. Một cây trụ lớn nằm ngay giữa.
Nhâm Băng Nguyệt chau mày, một tiếng “xét” chưa kịp nói ra, thì đã ngửi thấy một mùi hương đặc biệt.
Nàng mở rộng hai tay, ngăn binh sĩ ở phía sau, ánh mắt hồ nghi nhìn khắp chung quanh, chầm chậm cúi đầu nhìn phía dưới chân, từng dòng nước uyển chuyển chảy ra, Nhâm Băng Nguyệt ngửi thử, kinh ngạc nói:
“Là rượu ?”
“Bùng” một tiếng, một ngọn lửa nổi lên, men theo từng dòng rượu chảy khắp nơi xông đến họ.
“Không xong rồi! chạy mau!”
Nhâm Băng Nguyệt thấy tình thế nguy cấp, lập tức dẫn quân chạy xuống lầu, đến đầu bậc thang nàng quay đầu lại nhìn, ngọn lửa đang bừng bừng cháy, những dải lụa trắng đã bén lửa, lửa vút cao lên đến những cây xà trên đỉnh. Trong biển lửa ngùn ngụt, nàng nhìn thấy Phù Sai tay cầm một con dao găm đâm vào bụng, biển lửa bao vây lấy hắn, phút chốc đã nuốt chửng thân thể khôi ngô của hắn…
Những binh sĩ bao vây đại điện nhanh chóng rút lui. Vì cả tòa đại điện đã biến thành một ngọn đuốc rực cháy. Dù có đứng cách xa mười mấy trượng, hơi nóng theo gió bay ra cũng làm cho da thịt con người nóng cả lên. Đôi khi có một cây gỗ lớn bị đốt cháy rơi xuống, bắn ra những tia lửa hoặc muội than, ép mọi người tiếp tục lui về phía sau.
Nhâm Băng Nguyệt nhìn đại điện sắp sụp đổ hoàn toàn, vì không tận tay giết được kẻ thủ nên nàng không cam tâm. Anh Đào khoanh tay đứng một bên, nhìn Trích Tinh lầu từ xa xa, lẩm bẩm tự nói với mình:
“Phù Sai trước khi chết, cũng xem như đã làm một việc coi được. Tướng quốc đại nhân còn lệnh cho ta chọn hai tòa lầu để đốt, nhưng có ngọn lửa này rồi, toàn thành đều có thể thấy rõ, trái lại ta khỏi phải ra tay nữa…”
“Tướng quốc đại nhân…, đúng rồi, tướng quốc đại nhân đâu? Hừ? đại vương cũng không thấy đâu…”
Khánh Kỵ và Tôn Vũ đi song song với nhau, đi theo ngự đạo thẳng tắp, phía trước đã thấy hai lầu gác nguy nga cao ngất ngoài cửa cung. Thỉnh thoảng quay lại nhìn, còn có thể thấy Trích Tinh Lầu vẫn đang bị đốt cháy ngùn ngụt. Gió bắt đầu đổi hướng, bay theo trong gió là những mảnh tro của những chiếc gỗ đã bị đốt.
Ngày đã dần xế chiều, ánh hoàng hôn rọi qua những đám mây bên trời, từng ánh nắng rọi vào hoàng thành, những bụi tro lập lòe trông như đàn bướm đang bay lượn trong ánh nắng.
Phía xa xa, rộn lên tiếng hoan hô của hơn mười vạn người, Khánh Kỵ dừng bước, nhìn về phía khoảng trống vốn trước đây là một toà cung điện cao nguy nga. Giờ, nơi đấy chỉ còn trơ lại vài trụ khói và ánh lửa, tro bụi bay khắp khiến những trụ khói ấy trông mờ mờ ảo ảo. Trích Tinh Lầu đã sụp đổ, Nước Ngô của Phù Sai đã diệt vọng, hắn đã trở thành chủ nhân mới của nơi này. Từ lúc bôn ba nơi Vệ Quốc, đến khi xưng vương ở Cô Tô Thành, mấy lần lên voi xuống chó, biết bao nhiêu người đã vì hắn hoặc tại hắn mà chiến đấu, bị thương, đổ máu, thậm chí tan thành mây khói…, rốt cuộc đã giành được giang sơn cho hắn.
Những gương mặt quen thuộc, và không quen thuộc, những ký ức sâu kín lại lần nữa hiện ra trong đầu hắn, đó đều là những huynh đệ đã từng sát cánh bên hắn, nay họ đều đã an ngủ dưới lòng đất.Trích Tinh Lầu nguy ngã tráng lệ đã sụp đổ, biết đâu năm sau, sau mùa mưa xuân, trên đống đổ nát này sẽ mọc đầy cỏ dại, hai năm sau, sẽ chẳng ai còn nhớ rằng ở đây từng có một tòa cung điện nguy nga. Thế còn những người từng sát cánh bên hắn, những người trung can nghĩa đảm, đã đổ máu vì hắn thì sao?
Tôn Vũ đứng bên cạnh hắn, nhìn Trích Tinh lầu đang hóa thành tro bụi, khẽ nói:
“Trích Tinh Lầu, sụp rồi.”
Khánh Kỵ gật đầu:
“Trên đống đổ nát đó, sẽ nhanh chóng xây lại một tòa lầu mới. Ngũ Viên đã vì Hạp Lư xây Cô Tô Thành, Tôn tướng quốc hãy vì quả nhân mà xây một tòa Cô Tô đệ nhất cao Lầu vậy.”
Tôn Vũ gật đầu nói:
“Thần lĩnh chỉ, tòa lầu này… vẫn gọi là Trích Tinh Lầu ?”
“Không !”
Khánh Kỵ đưa bàn tay, để cho một mảnh bụi tro màu đen bay như một con bướm đậu vào lòng bàn tay hắn, khẽ nói:
“Tòa lầu này, gọi là… Lăng Yên Các.”
……………
“Hai vị vương thúc, Tôn tướng quốc, đây là danh sách quan lại sơ bộ của quả nhân, các người xem có ý kiến gì không ?”
Khánh Kỵ đưa danh sách do tự hắn lập nên, Yểm Dư, Chúc Dung và Tôn Vũ đưa tay nhận lấy, họ ngồi lại với nhau chăm chú xem bản danh sách. Từng dòng ghi rõ việc sắp xếp các trọng thần trong cung như lục khanh, ngũ quan, thượng tướng quân, thượng phu nhân, trước tiên Chúc Dung chau đôi mày rậm của hắn lại, nghi hoặc hỏi:
“Đại Vương, trên danh sách này, có rất nhiều cựu thần trong triều. Khi Công Tử Quang, Phù Sai trước sau xưng vương, những người này vì muốn bảo toàn tín mạng, a dua theo bọn phản nghịch, đại vương phục quốc đăng vị, họ càng không lập được công trạng nào, đại vương không chu di cả họ để trừng trị những người này đã là đại nhân đại đức, tại sao lại tiếp tục trọng dụng họ ?”
Khánh Kỵ gật đầu đáp:
“Ta dùng họ, có ba nguyên nhân, một là: sử dụng cựu thần, sẽ không gây ra biến động lớn, như vậy có thể vỗ về lòng dân. Lòng dân yên ổn thì xã tắc ổn định, xã tắc ổn định thì giang sơn mới vững vàng. Nếu nói rằng họ chưa từng vì nước Ngô mới của quả nhân mà lập công, thì sau này nhất định phải lập được đại công; hai là: nước Ngô hiện nay đầy lỗ hổng, những việc đang dang dở cần phải được tiếp tục, đây chính là lúc cấp bách cần dùng người. Người của quả nhân đều là võ tướng, sở trường thiên về quân sự, chứ không thiên về dân sự, những người này lo việc chính trị đã lâu, vả lại cũng quen thuộc tình hình trên dưới của nước Ngô, nên có thể nhanh chóng phát huy tác dụng, Quả nhân cũng mau chóng hồi phục việc thống trị nước Ngô; ba là: Những người này đều là đại thần của nước Ngô, người thì danh tiếng lẫy lừng, người thì tài cán xuất chúng, lại có người thì quân tử chính trực, đối với nước Ngô ta hết lòng trung thành. Việc công tử Quang soán ngôi tự lập vương, đối với họ mà nói chỉ khác biệt là ai làm đại vương mà thôi, họ cũng chỉ vì tình thế ép buộc, vì tự bảo toàn tín mạng. Xét về tình vẫn có thể tha thứ được. Đây là lúc quả nhân cần dùng người, không nên vì cái nhỏ mà mất cái lớn, nước quá trong ắt không có cá. Có những việc, có thể bao dung được thì cũng nên bao dung !”
Yểm Dư vuốt râu khen ngợi:
“Đại vương nói chí phải, muốn mau chóng hồi phục nguyên khí nước Ngô, phải cần đến những vị lão thần này. Chỉ là, các chư tướng trong quân đều có chiến công hiển hách. Nay đại vương đã ngồi vững giang sơn, việc thưởng phạt phải phân minh. Tránh để chư tướng trong lòng sinh oán hận.”
Khánh Kỵ cười nói:
“Quả nhân hiểu, người hãy xem bên dưới, những vị thần có công đều được phong thưởng, và vẫn được nắm binh quyền. Chỉ là họ vẫn không được can dự vào chính sự, quả nhân không muốn bỏ sở trường mà lấy sở đoản, đành thôi cái ý nghĩ để cho các vị võ phu chuyển sang xử lý chính sự vậy.”
Yểm Dư gật đầu, tiếp tục xem bản danh sách. Còn về phần Chúc Dung, hắn đắc ý nhất vẫn là sự an bài cho bản thân hắn và các tướng lĩnh dưới trướng hắn, vừa nãy vội vàng xem lướt qua, thấy rất nhiều tên của cựu thần, nên không kềm được muốn nói ra, nay Khánh Kỵ đã bảo thế, Yểm Dư cũng đã đồng tình, vậy là càng không nên nói, hắn lại tiếp tục xem nốt bản danh sách.
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của kedochanh
Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua
Chương 236: Nhập chủ Ngô cung
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
Trong bản danh sách này, Tôn Vũ được phong làm Tướng Quốc, chuyên lo các việc chính sự, quân sự, thuế má lao dịch. Luận thực quyền là người chỉ dưới Đại Vương. hắn là tâm phúc của Khánh Kỵ. Lần phạt Ngô đoạt nước này hắn có công lớn nhất, hắn được phong Tướng Quốc, đúng theo hy vọng của mọi người, vả lại lúc Khánh Kỵ xưng vương ở bên ngoài thành cũng đã phong hắn làm Tướng Quốc, đây là việc không cần thảo luận thêm.
Trong lục khanh, Yểm Dư được xếp đầu tiên, chức vị là Đại Tư Đồ, chuyên lo việc dân sự, hộ tịch, quản lý thuế ruộng, dân dịch, đứng đầu trong số lục khanh. Hắn (Chúc Dung) đảm nhận Đại Tư Không, đứng thứ hai trong số lục khanh, lo việc quản lý đất đai, nhà cửa, thuỷ lợi, xây dựng, quả là một miếng thịt béo bỡ, cách sắp xếp của Khánh Kỵ như vậy thật khó tìm được điểm không hài lòng. Lại xem tiếp phần dưới, Anh Đào được phong Đại Tư Mã, chưởng quản pháp luật nước Ngô, Trong số các tướng lĩnh dưới trướng Khánh Kỵ, tính đi tính lại, ngoại trừ Lương Hổ Tử và Kinh Lâm, chẳng còn ai có thể thay thế được hắn.
Chỉ có việc Xích Trung được phong Đại Tư Khấu, khiến Chúc Dung có điều bất mãn, Đại Tư Khấu tuy đứng sau ba người họ, nhưng Đại Tư Khấu chưởng quản việc hình ngục tố tụng, Xích Trung nhận chức quan này, là phải giao lại binh quyền, Chúc Dung đã phí rất nhiều công sức mới tạo được mối quan hệ giữa Xích Trung và hắn, nay binh quyền của Xích Trung không còn, đối với tiền đồ của Xích Trung mà nói, tất nhiên là được thăng quan tiến chức, nhưng đối với Chúc Dung mà nói, là mất đi một vây cánh.
Lại xem tiếp phần sau, tướng lĩnh tâm phúc của hắn, Bình Bố vốn là thống quân của thủ quân ở Vũ Nguyên vẫn được thống lĩnh sở bộ binh mã, binh quyền không những không bị giảm sút, mà đồng thời còn được phong làm Thiếu Tư Mã, địa vị chỉ sau Đại Tư Mã Anh Đào, khiến lòng hắn bình tĩnh trở lại.
Chúc Dung thấy người của mình đại đa số đều được chức vị thì khá hài lòng, bèn gật đầu nói:
“Đối với danh sách mà Đại Vương đưa ra, Chúc Dung hoàn toàn tán thành.”
Tôn Vũ trầm ngâm một lúc, chấp tay nói:
“Đại Vương, các chức vị Thái Chúc, Tông Bá đều do lão thần nước Ngô và hoàng thân quốc thích đảm nhiệm, thần đối với việc này không hề có ý kiến. Chỉ là… vì sao trong số triều thần không có nhắc đến hai vị tướng quân Kinh Lâm và Lương Hổ Tử, hai vị tướng quân này một lòng trung thành, đã cùng Đại Vương trải qua nhiều phen đổ máu, có thể nói công lao to lớn. Không biết Đại Vương đối với hai vị tướng quân này an bài ra sao ?”
Khánh Kỵ nói:
“Quả nhân không hề quên họ, chỉ là hai vị tướng quân này không nhậm chức trong triều, trong danh sách này chưa viết rõ, ý của quả nhân là, Kinh Lâm và Lương Hổ Tử hai vị tướng quân, đều đã được bái tướng, tướng quân Lương Hổ Tử sẽ trấn thủ ở Nam Vũ thành, Kinh Lâm tướng quân trấn thủ Vũ Nguyên. A Cừu, Tái Cừu sẽ dưới trướng của Kinh Lâm tướng quân, chia quân đóng tại Tuý Lý và Ngự Nhi thành. An bài như thế, Tướng Quốc thấy thế nào ?”
Tôn Vũ nghe xong cách bố trí binh lực của hắn, đôi mắt chợt sáng lên, trong lòng đã hiểu. Công tử Yểm Dư không được hiểu biết như hắn, nghe đến đây đã nhanh miệng hỏi:
“Đại Vương an bài như thế, có phải là vì nước Việt ?”
Khánh Kỵ khẽ cười nói:
“Chỉ là đề phòng mà thôi, tạm thời chưa nói tới âm mưu của nước Việt, nhiệm vụ cấp bách trước mắt, là ổn định nội bộ nước ta, cứu tế nạn dân, khôi phục lại trật tự, tái lập lại việc thống trị. Do vậy, quả nhân cần quan viên các bộ mau chóng nhậm chức, để mệnh lệnh của quả nhân được truyền đạt trên dưới, thuận lợi thông hành, dẫn đến việc chấp chính hiệu quả. Hai vị vương thúc và Tôn Tướng Quốc nếu không có kiến nghị gì khác, có thể theo danh sách này, mà đến gặp những người có liên quan để thông báo, giúp họ có sự chuẩn bị. Ngày mai nghị triều, quả nhân sẽ tuyên bố trước đám đông.”
“Vâng, vi thần tuân lệnh, xin cáo lui !”
Tôn Vũ, Yểm Dư, Chúc Dung nghe những lời này, vội vàng đứng dậy hành lễ, chấp tay từ biệt Khánh Kỵ.
Sau khi ba người lui ra, Khánh Kỵ cũng chỉnh trang lại y phục đứng dậy, đi ra ngoài hiên, xem tình hình ở tiền điện, cung nô, thái giám vội vội vàng vàng đi qua đi lại trông như con thoi, họ đang dọn dẹp những đồ vật bị rơi vỡ trong lúc chiến loạn, tẩy rửa vết máu trên mặt đất, rút những mũi tên ghim trên cửa và cửa sổ, vá lại những lỗ hổng, bôi lại sơn, không khí được bao phủ bởi một mùi khó ngửi.
Trước mắt đâu đâu cũng thấy cảnh đau thương, những việc bỏ dỡ cần được tiếp tục. Những việc bỏ dỡ cần được làm tiếp há chỉ là toà cung thành này thôi sao ? Khánh Kỵ chau mày, quay đầu lại nói:
“Đi, mau nói với thị vệ của quả nhân đang đứng chờ lệnh ở ngoài cửa cung, quả nhân lập tức muốn xuất cung, tuần tra toàn thành.”
Sau lưng Khánh Kỵ luôn có hai tên thái giám, chỉ khoảng mười tuổi. Họ trông mày thanh mục tú, chỉ có điều cơ thể quá mỏng manh, hai thái giám này vừa được đưa đến để hầu hạ Khánh Kỵ, vẫn chưa hiểu rõ về tính tình của vị đại vương này, nên đi theo sau lưng hắn mà cứ co rút người lại lo sợ. Nhìn như hai con chim cút, vừa nghe những lời đại vương nói, họ thở ra nhẹ nhõm, trả lời hắn như được đại xá vậy, sau đó chen lấn nhau chạy đi mất.
Khánh Kỵ thay một chiếc áo bào khác, chuẩn bị xong xuôi đi khỏi hậu cung, ngay trước cửa cung hắn đã thấy đội thị vệ đang đứng chờ lệnh. Vừa trông thấy bộ dạng của họ, Khánh Kỵ đứng ngớ người ra. Trước mắt hắn là một đội quân oai nghiêm. Áo giáp chỉnh tề, cờ phướn phất phơ. Ở giữa là ngự xa được che bởi cây dù thất bảo, trước và sau ngự xa được bao vây bởi bốn chiếc chiến xa, trên mỗi chiếc chiến xa đều có phu xa nắm cương, bên trái cầm mâu, bên phải cầm cung, xung quanh là các binh sĩ, không cầm mâu thì cũng cầm kiếm, nhìn họ sát khí đằng đằng, Khánh Kỵ không nhịn được cười:
“Các ngươi bày binh bố trận làm gì ? sắp đi đánh trận à ?”
“Sở Kiệt tham kiến đại vương !”
Một viên võ tướng bước đến, chấp tay thi lễ với Khánh Kỵ. Nay A Cừu và Tái Cừu đều đã là tướng quân. Tên Sở Kiệt này là thị vệ thân cận đã theo Khánh Kỵ nhiều năm. Lúc này đã được thăng làm hữu thị vệ, phụ trách an toàn của Khánh Kỵ.
“Sở Kiệt. Quả nhân muốn xuất cung thăm Cô Tô Thành, ngươi chỉ cần đem theo vài tên thị vệ cơ trí mặc thường phục đi theo là được, bày binh bố trận như thế để làm gì ?”
“Khải bẩm đại vương, hiện nay Cô Tô Thành vẫn chưa được an ninh, cũng không biết có còn tàn dư của Phù Sai ẩn nấp không, Đại Vương nếu muốn xuất hành, không thể không chú ý đến an toàn, bao nhiêu đây người mạc tướng còn sợ là ít .”
“Đúng là ẩu tả !”
Khánh Kỵ vừa tức giận lại vừa tức cười, nếu làm theo nghi lễ xuất cung của vua Ngô, vậy hắn còn có thể thấy được gì nữa, thời ấy quân vương xuất hành, tuy không đến nỗi phải dùng đất vàng để lót đường, dùng nước sạch để tẩy phố, nhưng với một đội người và ngựa đi trên Cô Tô thành như thế, thì đường phố cũng tự nhiên trở thành vắng tanh vắng ngắt, có binh sĩ nào làm việc xằng bậy hay không hắn không thể thấy được, các bá tánh dân đen có khó khăn hắn cũng không biết được.
“Quả nhân muốn Cô Tô thành này, muốn bá tánh trong Cô Tô thành, dân tình trong Cô Tô Thành, ngươi bày vẽ như thế, quả nhân còn có thể tìm hiểu được gì nữa ? Mau chóng bảo các thị vệ lui hết, chỉ chọn hơn mười tên binh sĩ thân thể cường tráng, cơ trí hơn người, mặc thường phục, theo quả nhân xuất cung.”
“Đại vương…”
Sở Kiệt vẫn muốn tiếp tục khuyên hắn, nhưng Khánh Kỵ sa sầm mặt lại, hô to:
“Sở Kiệt, ngươi dám kháng lại mệnh lệnh của quả nhân ?”
Sở Kiệt vừa được thăng chức làm Thị Vệ Trưởng, nên trước mặt Khánh Kỵ không được bình tĩnh như A Cừu và Tái Cừu, vừa thấy Đại Vương nổi giận, trong lòng Sở Kiệt đã hoảng sợ, bị Khánh Kỵ mặt mày nghiêm nghị giáo huấn cho một bài, đành ngoan ngoãn giải tán đội ngũ, chọn ra hơn mười vị dũng sĩ thân thủ linh hoạt đi thay y phục của dân thường.
Toán người này sau khi thay xong y phục, sửa soạn xong xuôi, đi theo Khánh Kỵ ra ngoài thành. Hoàng cung Cô Tô vô cùng rộng lớn, quả không hổ danh là thành trong thành, Bên trong hoàng cung dựa theo trật tự từ ngoài vào trong đã chia ra những khu vực khác nhau, tiếp tục đi ra bên ngoài, tuy vẫn có đình đài lầu các, nhưng nhiều hơn cả vẫn là cây cỏ sum xuê, thỉnh thoảng còn thấy cả một vườn rau quả.
Ở cái thời này, ngay cả trong hoàng cung cũng có chỗ để trồng mạ trồng lúa, trồng rau, Ngoài cung cũng thế, Trong Cô Tô thành có biết bao nhiêu là ruộng đất, khi có chiến sự, chỉ cần trong thành có nước sạch, thì dù có bị nhốt trong thành ba năm, năm năm đi nữa vẫn không phải lo chuyện thiếu ăn. Lần nầy nếu không có sự xuất hiện của Quý Trát, lợi dụng sức ảnh hưởng to lớn của hắn trong lòng người Ngô khiến dân Ngô nổi loạn, thì trừ phi Khánh Kỵ không tiếc hy sinh ngày đêm chiến đấu không ngừng, nếu không tuyệt đối không thể vào làm chủ Ngô cung xưng vương nhanh như thế.
Khánh Kỵ không ra cửa chính, hắn đi về phía bên trái cung thành, đi ngang qua một cung điện, nơi đây đã thuộc ngoài cung, phòng ốc sơ sài xấu xí, theo lý mà nói cũng chẳng có vật gì quan trọng được cất giữ ở đây, thế nhưng bên ngoài điện lại có rất nhiều binh lính cầm giáo canh gác, bao vây kín mít cung điện này, trong lòng Khánh Kỵ hiếu kỳ, bèn cho gọi thống lĩnh đến, hỏi:
“Ai ra lệnh cho các ngươi canh gác ở đây ? Trong mấy gian phòng này, đã để những vật gì quan trọng bên trong ?”
Vị thống lĩnh này quỳ một gối, nói:
“Hồi đại vương, phụng lệnh của tướng quốc đại nhân, mạt tướng canh gác ở đây. Mấy gian phòng trong cung điện này, đang giam giữ các phần tử trí thức, đại thần, quan sử đại phu, hào môn gia chủ của nước Sở được bắt cóc từ Dĩnh Đô, các thành ấp lớn, và cả Cửu Phụng cốc đến đây. Lúc mạt tướng tấn công vào hoàng cung, binh sĩ canh gác ở đây vừa nghe tiếng đã bỏ chạy , may mà cửa đã bị khóa, những người Sở bên trong không biết bên ngoài đang xảy ra chuyện gì, nên không ai dám bỏ trốn.”
Khánh Kỵ lại thấy thêm hứng thú đối với dãy cung điện này. Năm xưa Hạp Lư bắt những người này về đây, là vì muốn họ làm con tin để hắn tiếp tục gây sức ép với nước Sở. Đồng thời cũng là do những người này thân phận cao quý, vốn đều là những người quyền cao chức trọng. Sau này nước Sở dù muốn chuộc ai về, cũng phải chi một số tiền lớn, đến lúc đó hắn sẽ vớ bở, điều này chẳng khác gì bắt cóc tống tiền. Nhưng vào thời này, loại hành vi này dù là xảy ra giữa các nước chư hầu với nhau, cũng được xem là chuyện bình thường.
Khánh Kỵ trầm ngâm một hồi, hỏi:
“Vậy thì. Hiện giờ họ có biết trong cung đã xảy ra chuyện gì chưa ?”
Vị thống lĩnh đó mặt mày vui vẻ nói:
“Vâng, nay họ đã biết đại vương đã dẫn binh vào thành, đánh bại Phù Sai, làm chủ Ngô cung xưng vương rồi. Những người Sở này vui mừng tíu tít, không ngừng làm ồn đòi mạt tướng phải đi bẩm cáo với đại vương. Trả họ về nước. Mạt tướng bèn bảo họ rằng, Đại vương vừa vào thành. Có rất nhiều đại sự phải giải quyết, hiện giờ chưa rảnh để tiếp kiến họ, lúc đó họ mới chịu an phận, nhưng vẫn rất vui mừng, vừa nãy bên trong còn có người lớn tiếng ca hát, đã bị mạt tướng bắt ngừng rồi.”
“Ồ ?”
Khánh Kỵ ngạc nhiên, nói nhỏ:
“Vậy, ngoài việc biết quả nhân vào cung, họ còn biết gì nữa không ?”
Vị thống lĩnh này thấy Khánh Kỵ có vẻ lén lén lút lút, tự hắn cũng thả lỏng hơn:
“Ngoài ra họ chẳng biết thêm gì. Tôn Tướng quốc đã căn dặn, chỉ cần canh giữ những người này, mọi việc còn lại sẽ nghe theo sự sắp xếp của đại vương. Không được tổn thương họ, cũng không được trả lời những câu hỏi của họ một cách bừa bãi.”
“Làm rất tốt !”
Khánh Kỵ không kềm được vui mừng, hắn nhảy xuống ngựa, ra chiều bảo tên thống lĩnh lại gần:
“Qua đây, trước khi trả lời, ta muốn biết ngươi đang giữ chức vụ gì, tên họ là gì ?”
Vị Thống lĩnh vội bước lên vài bước, hành lễ đáp:
“Hồi đại vương, mạt tướng là tân binh mà tướng quốc đại nhân đã chiêu mộ lúc ở Phi Hồ Cốc, vì đã lập chiến công nên được thăng chức đội trưởng, tên họ Quách Tiếu.”
Khánh Kỵ vỗ vỗ vai hắn khen ngợi:
“Tốt, nếu nói thế, ngươi nhập ngũ chưa được một năm, mà đã được thăng chức đội trưởng, có thể thấy ngươi dũng cảm tác chiến, tiền đồ vô hạn.”
Quách Tiếu được hắn vỗ vai, cả người cũng vì vậy mà thoải mái hơn, vui mừng đến độ đôi mắt híp cả lại, vội vàng chấp tay khiếm tốn cảm ơn:
“Không dám, không dám, quá khen, quá khen.”
Vừa nói xong, chợt nhớ ra đối phương là Đại vương nước Ngô, chứ không phải đám huynh đệ trong rừng xanh của hắn, hắn vội vàng cúi lạy nói:
“Đa tạ đại vương khen ngợi, mạt tướng hổ thẹn không dám nhận.”
Khánh Kỵ cười ha ha, nói:
“Có gì mà dám với không dám nhận, người nghe đây, Quả nhân tặng cho ngươi một phần đại công, chỉ cần ngươi làm tốt việc này, quả nhân sẽ làm chủ cho ngươi, thăng ngươi lên làm Lữ soái, ngày sau lập được chiến công, việc bái tướng phong hầu có gì mà không thể chứ.”
Quách Tiếu nghe xong mừng rỡ ra mặt, từ đội trưởng lên làm Lữ soái, đó chỉ là một bậc cửa mà thôi, thăng lên chức đó đã là quan thuộc hàng tướng rồi, hắn vốn dĩ chỉ là một tên thảo khấu sơn lâm, có thể có tiền đồ như ngày hôm nay, đúng là chuyện tốt có nằm mơ cũng không dám nghĩ đến, lúc này đúng là tin vui từ trên trời rơi xuống, vui sướng không gì bằng, vội vàng nói:
“Xin đại vương cứ căn dặn, mạt tướng có vào nơi nước sôi lửa bỏng, cũng không chối từ.”
Khánh Kỵ cười nói:
“Việc này, phải xem ngươi có đủ cơ trí hay không, không cần thiết phải vào nơi nước sôi lửa bỏng đâu.”
Khánh Kỵ cũng nhìn ra người này mặt mày thô lỗ, có tác phong của thổ phỉ, kỳ thực đầu óc khá xảo quyệt, lại thêm vẻ ngoài thô kệch, đặc biệt là có thể khiến cho lòng người lo sợ, bèn nói:
“Ngươi nghe đây, những người bị giam giữ bên trong, đều là công khanh quyền quý của nước Sở. Quả nhân và nước Sở đã giao kết liên minh, sớm muộn gì cũng phải phóng thích họ về nước, cho nên việc ăn ở, ngươi phải lo cho thật tốt, có cần gì, có thể đến gặp Tôn tướng quốc, không được làm khó cho họ. Nhưng, người Sở và người Ngô ta rốt cuộc vẫn không chung một nhịp đập, đối với họ cũng không nên nói hết toàn sộ sự thật, hôm qua trong cung bị cháy, ngươi có biết không ?”
“Đại Vương,Trích Tinh lầu bị cháy, cả thành đều nhìn thấy, nên mạt tướng cũng có biết.”
Khánh Kỵ lắc đầu nói:
“Sai rồi, sai rồi, không chỉ có Trích Tinh lầu bị cháy.”
Hắn dừng bước mắng:
“Phù Sai vì quá thương tâm nên phát điên, mắt thấy đại thế đã qua, nên đã đốt cháy cả hoàng cung, quả nhân tuy đã cho người tận sức dập lửa, tiếc là… hừ! Toàn bộ dãy lầu phía đông trong nội cung, đã bị đốt thành tro bụi, đó là nơi để toàn bộ tài sản của nước Ngô.”
Quách Tiếu nhìn vẻ mặt đau khổ của Khánh Kỵ, trước tiên hắn ngẩn người ra một lúc, liền sau đó hắn nghĩ lại, nghiến răng bậm môi nói:
“Đại vương nói chí phải, hoàng cung hỏa hoạn lan rộng, không chỉ có dãy lầu phía đông bị cháy thành tro bụi, cả ở những cung khác, không ít thì nhiều cũng chịu hỏa hoạn, những tài sản mà công tử Quang lấy của nước Sở đều đã hóa thành tro bụi, Phù Sai còn muốn đốt cả cung điện đang giam giữ các đại thần nước Sở, may là đại vương kịp thời nhập cung, sai tiểu tướng canh giữ ở đây, mới bảo toàn được tính mạng cho các vị công khanh đại phu.”
Khánh Kỵ mặt mày tươi rói, vỗ vỗ vai hắn nói:
“ Quách Tiếu, ngươi.. ừm, rất biết ăn nói.”
Quách Tiếu gật đầu, khom lưng:
“Đại vương quá khen, đại vương quá khen.”
Khánh Kỵ cười nói:
“Đi làm việc đi, quả nhân phải xuất cung. Không cần thiết phải hầu hạ ta.”
“Vâng vâng vâng !”
Quách Tiếu vội vàng vái lạy rồi nhanh chóng lui ra.
Khánh Kỵ lại nhìn cung điện này lần nữa, rồi quay người nhảy lên ngựa. Đi tiếp về phía trước. Thấy cung điện giam giữ những người Sở quyền quý, trong lòng Khánh Kỵ đột nhiên nảy ra một ý, hắn chẳng qua chỉ muốn những người Sở này làm chứng cho hắn, chứng minh tài sản to lớn mà công tử Quang đã cướp của nước Sở đều đã bị hủy trong phút chốc, ngoài ra hắn còn muốn họ phát huy tác dụng lớn hơn nữa.
Liên minh giữa nước Sở và nước Ngô là một sự kết hợp vô cùng lợi hại, thế nhưng quan hệ giữa hai bên lại rất lỏng lẽo, khi đã ổn định được tình hình trong nước, những tranh giành lủng củng giữa hai nước sẽ lại tiếp tục, nước Sở tuy hiện giờ như con lạc đà ốm o gầy còm, nhưng vẫn lớn hơn con ngựa, nước Ngô hiện nay loạn trong giặc ngoài. Vẫn cần nuôi dưỡng để phát triển. Bên cạnh chiếc giường có một cường địch quả là không tốt. Nếu hắn tìm lý do giữ lại không thả những người Sở quyền quý này, những quyền lực mà họ đang nắm giữ sẽ bị bỏ trống tất nhiên sẽ bị một lực lượng mới thay thế. Đến lúc đó nếu thả họ về nước Sở, nền móng của họ và sức ảnh hưởng của họ vẫn chưa hoàn toàn mất đi, vậy thì giữa thế lực cũ và thế lực mới sẽ…
Khánh Kỵ nghĩ đến đây, môi hắn ẩn hiện một nụ cười gian xảo…
Trên con phố ở thành Cô Tô, từng hàng người chầm chậm đi lại, ở giữa là một con ngựa trắng, trên lưng ngựa là một nam nhi mặc áo bào được làm từ tơ và gai, đầu đội mũ, trên môi có ria mép, thân thể khôi ngô, khuôn mặt anh tuấn, bên hông đeo một thanh trường kiếm, trông thật oai nghiêm. Hơn mười vị dũng sĩ mang kiếm bảo vệ hắn ở giữa, vừa cảnh giác xem động tĩnh xung quanh, vừa làm động tác như xua đuổi những người nhàn nhã đang quay đầu lại nhìn.
Kỳ thực chẳng cần họ xua đuổi, những bá tánh bình thường thấy người nam nhi cưỡi ngựa trắng đi qua, liền tự giác tránh qua một bên. Chỉ nhìn con ngựa trắng toàn thân, cũng đủ biết không phải con nhà tầm thường có thể có được, huống hồ trước và sau hắn được bao vây bởi những tên mặt đằng đằng sát khí như thế.
“Hê…” Khánh Kỵ ghìm dây cương, chăm chú nhìn về bên đường. Nơi đó là một đống đổ nát đã từng bị hỏa hoạn qua, nơi này vẫn thuộc khu vực nội thành, những vết tàn phá do máy bắn đá tạo ra lúc Khánh Kỵ vây thành không hề ảnh hưởng đến nơi này, khi vào thành rồi hắn lại nghiêm lệnh không cho các binh sĩ lạm sát vô tội, không được làm việc xằng bậy, thế nên nội thành hầu như không hề bị chút tổn hại nào. Hắn quan sát kỹ lần nữa, mới phát hiện ra đống đổ nát này không giống như là mới bị hỏa thiêu gần đây. Xem quy mô, đại trạch viện này nhất định thuộc một gia đình khá giả, cũng không biết vì sao mà bị hỏa hoạn, đốt cháy sạch sẽ.
“Đây .. là phủ của ai vậy ?”
Khánh Kỵ dùng cương ngựa chỉ, hỏi thị vệ bên cạnh.
Sở Kiệt vội vàng chặn một người đi đường lại, hỏi:
“Ê, ngươi, đứng lại, trạch viện bị hỏa hoạn này, ngươi có biết là của ai không?”
Người này thấy hắn khí khái bất phàm, không dám không trả lời, vội dừng chân nói:
“Nhà này à, vốn là tài sản của luyện binh đệ nhất gia Nhâm gia của nước Ngô ta, lúc trước đã bị một trận hỏa hoạn đốt cháy sạch.”
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của kedochanh
Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua
Chương 237: Kiến nghị quốc sách
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
Khánh Kỵ nghe nói đây là tư gia của Nhâm Tử Anh, bất giác trở nên trầm mặc. Những gì mà Nhâm Tử Anh hy sinh cho gia tộc, khiến hắn không kềm được cảm động. Sau khi Nhâm Nhược Tích vào thành, e rằng việc đầu tiên nàng làm là đến đây bái tế phụ thân, nơi ở cũ của nàng đã biến thành đống đổ nát, không biết hiện giờ nàng đang tạm cư ngụ ở đâu, vào thành đã được một ngày một đêm, những việc cần xử lý quá nhiều, nên không có thời gian mà sắp đặt cho nàng ấy. Nhâm Nhược Tích đối với hắn tình sâu nghĩa nặng, người con gái này hắn nhất định không thể phụ bạc, vả lại đối với công sức mà Nhâm gia đã bỏ ra, hắn nhất thiết phải đền đáp. Đồng thời, hắn cũng phải cảnh giác, hắn muốn báo đáp Nhâm gia, để Nhâm gia được hưởng vinh hoa phú quý, lại không muốn để Nhâm gia làm lớn dẫn đến việc không thể khống chế. Những việc liên quan đến quyền hành, ngay cả có là huynh đệ phụ tử cũng không đáng tin cậy, tỷ muội Nhâm Nhược Tích đều là phận nữ nhi, sẽ không có dã tâm gì, nhưng ai có thể đảm bảo rằng trong tương lại Nhâm gia sẽ không xuất hiện người có dã tâm ?
Khánh Kỵ trầm ngâm một lúc lâu, đôi chân nhẹ nhàng thúc vào bụng ngựa, chầm chậm đi về phía trước, trong lòng hắn nghĩ:
“Nhâm gia, ta nhất định biến Nhâm gia của nước Ngô ta đứng đầu về quân hoả, vả lại quân hoả này, ta sẽ bán cho các nước chư hầu. Nếu muốn Nhâm gia lớn mạnh, bảo vệ phú quý và sự kế tục cho Nhâm gia, đồng thời lại có thể đảm bảo Nhâm gia sẽ không phát triển đến mức không thể khống chế được nữa, hoặc giả… quốc gia sẽ tham gia cùng kinh doanh, đây sẽ là cách hay để kiềm giữ một con tuấn mã…”
Khánh Kỵ vừa suy nghĩ, vừa tiếp tục tiến lên phía trước.
Cô Tô Thành là do Ngũ Tử Tư của nước Sở xây dựng, nhưng trong bố cục lại có cái đặc sắc của nước Ngô, và điểm đặc biệt là dựa trên địa thế nước Ngô, về đặc điểm, cũng tham khảo những đặc điểm về kiến trúc của những thành trì thuộc nước Sở. Những kiến trúc quan trọng trong thành, đều tập trung tại nội thành vốn là trung tâm của Cô Tô Thành, bên cạnh cung điện. cung thất, kho lương thực, phủ khố, miếu tổ, nơi cúng tế thổ thần, nơi cúng tế cốc thần, dinh thự của quan khanh đại phu và khách quán cho những sứ giả nước ngoài cư ngự, đều được xây tại đây. Ngoài thành những con đường ngang dọc giao nhau, vô tình đã phân bố dân cư, chợ búa, lữ quán, cửa tiệm một cách có thứ tự.
Khánh Kỵ đi tuần khắp thành, dần dần an tâm hơn. Cái hay của việc lấy được toà thành này một cách hoà bình là, chỉ có ngoại thành nơi gần tường thành bị huỷ hoại nghiêm trọng, và chỉ hạn chế ở Xương Môn và Bàn Môn, như vậy có thể giảm nhẹ việc chăm sóc và cứu tế đối với những bá tánh trong thành, muốn hồi phục nguyên khí cũng dễ dàng hơn nhiều.
Ngành dệt và luyện kim của nước Ngô nổi tiếng khắp thiên hạ, đồng thời vùng sông nước Giang Nam, đất đai màu mỡ, cơm cá sung túc, người Ngô không thích ăn thịt heo, thịt bò, thịt dê, chỉ thích ăn cá cóc và các loại thuỷ sản, ốc ruộng, tắc kè. Những thứ đó trên sông Hồ Bạc ngang dọc giao nhau đi đâu cũng thấy này có rất nhiều, chỉ cần giải quyết vấn đề thiếu lương thực năm nay do chiến loạn gây ra, nước Ngô sẽ nhanh chóng hồi phục nguyên khí. Nghĩ đến đây, gánh nặng trong lòng Khánh Kỵ như đã không còn.
Tỷ muội Nhâm Nhược Tích hiện đang ở tại phủ của Triết phu nhân. Triết phu nhân trước đây là người Nhâm gia, là hoàng thân quốc thích thể hiện hảo ý đối với Khánh Kỵ sớm nhất, do bị xử chém cả nhà, trong phủ đã không còn nam đinh, các nữ gia quyến đã bị đưa vào quân ngũ để phục vụ binh sĩ, chịu sự lăng nhục của những binh sĩ như sói như hùm, đa số đều đã ngọc nát hương tan, ngôi nhà trống này đã trở thành nơi trú chân tạm thời của tỷ muội Nhâm gia.
Trong bể tắm ở phòng tắm, tỷ muội Nhược Tích đang mục dục, Nhâm Nhược Tích vẩy nhẹ nước, xoa đôi vai của mình. Nước trong bể trong veo, thân hình kiều diễm của nàng lúc ẩn lúc hiện trong làn nước, da thịt trắng như tuyết, thắt đáy lưng ong, mông tròn trịa, ngực đầy đặn, trông thật tuyệt đẹp. Nhâm Băng Nguyệt bên cạnh đang dựa vào thành bể, nét mặt uể oải, không còn vẻ hoạt bát như ngày thường, trải qua bao biến đổi của đời người, dường như nàng đã trưởng thành hơn trước, chỉ là thân thể nàng vẫn còn non nớt, so với tỷ tỷ, không có sự nở nang của tuổi trưởng thành, eo nàng nhỏ nhắn, ngay cả phần mông là nơi nở nang trước nhất của người nữ nhi cũng nhỏ nhắn, phần bụng cũng rất mỏng, đôi chân nàng tuỳ tiện đá những bông hoa nổi trên mặt nước, vừa trắng vừa mềm mại, loại thiếu nữ này cũng có chút phong vị.
“Tỷ tỷ…”
“Ừ ?”
Nhâm Băng Nguyệt chưa nói hết câu đã xấu hổ, hai má nàng ửng hồng cả lên, nói nhỏ nhẹ:
“Tỷ tỷ, hắn… hắn ở nước Tề, có thật đã nhìn thấy toàn bộ thân thể của muội ?”
“Ai ?”
Nhâm Nhược Tích dường như đang có tâm sự, những lời muội muội nàng hoàn toàn chẳng nghe được gì.
Nhâm Băng Nguyệt giận dỗi:
“Ai ai ai, còn ai vào đây nữa ?”
“Ồ…, hắn à…”
“Thì chính là hắn, muội thật đã bị hắn nhìn thấy hết rồi ?”
“Đã nói bao nhiêu lần rồi, muội đừng hỏi nữa được không ?”
“Sao tỷ lại không nói muội biết, đây là chuyện của muội, tỷ phải cho muội biết chứ, đúng không ?”
Nhâm Nhược Tích mất hết kiên nhẫn nói:
“Thấy hết rồi, thấy hết rồi, đã bảo muội đừng đứng lên, ai bảo muội mình trần như nhộng đã đứng lên, còn muốn đi qua đi lại trong phòng, nếu không phải muội kéo cả tỷ đi, tỷ cũng không bị hắn trông thấy…, hứ! Vậy muội vừa lòng chưa ?”
Nhâm Băng Nguyệt rên rỉ một tiếng, cơ thể nàng thấp xuống, cả người nàng đều đã ngâm trong nước, mái tóc bồng bềnh trên mặt nước, trông như một đám mây, che khuất huôn mặt của nàng.
Nhâm Nhược Tích đưa tay tính đánh vào mông nàng ấy, nhưng lại đột nhiên ngừng lại, một hồi sau, nàng buồn bã thở dài:
“Diêu Quang và Tiểu Man thân phận cao quý, còn tỷ chỉ là con gái của một thương gia. Khánh Kỵ à, bây giờ chàng đã là chủ của nước Ngô, chàng tính.. tính sắp xếp cho thiếp thế nào đây ?”
………………
Khánh Kỵ đã sớm xưng vương trong thời gian đang bao vây Cô Tô Thành, đương nhiên không thể lại cử hành một đại lễ nữa, nhưng hôm nay là buổi thiết triều đầu tiên của hắn kể từ khi nhập chủ Cô Tô thành, vả lại còn phong thưởng cho quần thần, đương nhiên hắn cũng được mọi người chú ý hơn.
Trời vừa sáng, Khánh Kỵ đã chuẩn bị đâu đó xong xuôi, ăn mặc long trọng bước lên đại điện, quần thần đã tụ tập đông đủ, võ tướng thì mặc giáp, đại phu thì khoác trên mình áo bào, ai ai cũng đeo kiếm bên hông, ngọc bội kêu leng keng, thật là binh cường mã tráng. Khánh Kỵ ngồi trên vương vị, Tôn Vũ dẫn đầu quần thần cúi lạy trên triều đường, cùng hô đại vương, những âm thanh cùng vang lên làm rung chuyển cả đại điện, cảm giác thoả mãn và trọn vẹn bỗng nhiên nảy sinh trong hắn.
Nhìn quần thần đang chấp tay quỳ lạy hắn, trong lòng Khánh Kỵ đột nhiên nhớ về một người ở đời trước, nếu không nhờ hắn sau khi tất cả diễn viên đều đã nghỉ còn đích thân đi kiểm tra lại đạo cụ, thì buổi quay ngày hôm nay, sẽ là một mớ lộn xộn, còn Khánh Kỵ ngày hôm nay, cũng đã hóa thành phôi đất thối nát rồi. Đạo diễn Vương, ông đang trong lều quay phim ở một không gian khác, bây giờ vẫn đang quay phim chứ ? Còn tôi… lại đang ở đây đạo diễn cho vở kịch của cuộc đời liên quan đến tương lai của vô số tính mạng con người. Khi tỉnh thì cầm kiếm giết người, khi say thì ôm mỹ nhân, muốn nữ nhi thì có nữ nhi, muốn nam nhân thì có nam nhân, công khanh đại phu, tiểu thương tôi tớ, vận mệnh họ há chẳng phải đều nằm trong tay tôi, chỉ đáng tiếc… vinh quang này, tôi lại không thể chia sẻ với cố nhân…
Khóe môi hắn khẽ động, một nụ cười bí hiểm, mở rộng tay áo, giọng sang sảng nói:
“Chúng khanh miễn lễ bình thân !”
Giọng nói trong trẻo truyền khắp đại điện, trên điện đường quần thần nhao nhao đứng dậy, những hành động loại như đi vào, quỳ lạy, đứng dậy, lui ra đều được làm theo một trật tự thống nhất, đệm theo đó là âm thanh ma sát của y phục, nghe như là âm thanh vang vang.
Khánh Kỵ tuy muốn công khai phong thưởng cho quần thần vào ngày hôm nay, nhưng do ngày hôm qua Yểm Dư, Chúc Dung và Tôn Vũ đã tiết lộ sự an bài của hắn ra ngoài, vì vậy quần thần đối với sự an bài của hắn trong lòng đã có dự tính, các vị trí đứng và hàng lối trên triều đường đều được sắp xếp gọn gàng có trật tự. Không hề có chỗ sơ suất.
Hôm nay có rất nhiều lão thần nước Ngô lên điện để bái kiến tân vương, tuy hôm qua họ đã đến trước cửa cung để xin được gặp, nhưng hôm nay lại là lần tiếp kiến họ đầu tiên sau khi Khánh Kỵ phục quốc. Trong đó có nhiều lão thần mà Khánh Kỵ quen biết, chỉ là năm xưa lúc Khánh Kỵ qua nước Sở tác chiến, hắn mang thân phận công tử, hôm nay quay lại gặp nhau trên triều đường, thì đã là thân phận quân thần.
Khánh Kỵ chiếu lệ nói những lời của một tân vương đăng cơ, biểu dương và khích lệ quần thần, sau đó liền cầm lên một quyển trúc giản trên bàn, đưa thái giám giao cho Tôn Vũ, Tôn Vũ đưa hai tay lên cao quá đầu để nhận lấy, sau đó quay người hướng về phía các quần thần. Mở chiếu thư theo vương mệnh và to giọng tuyên đọc.
Trong lòng chúng thần đã sớm có dự tính, trên triều đường trang nghiêm, quần thần yên lặng lắng nghe, cho đến khi tuyên đọc hết chiếu thư, quần thần lại đồng loạt quỳ lạy, tạ ơn đại vương. Trong số Lục Khanh, các chức Thái Chúc, Tông Bá đều do lão nhân trong triều đảm nhận, vào thời thượng cổ Thái Chúc vốn đứng đầu Lục Khanh, quyền lực cao nhất, vì vào thời đó việc bói quẻ, bái tế, lên đồng mới là việc mà người thống trị xem trọng, nay Thái Chúc là đại thần thực quyền ít nhất, nhưng vẫn được liệt vào hàng Lục Khanh. Địa vị tuy cao, nhưng tuổi tác của Thái Chúc nước Ngô đã vào hàng bát tuần, đầu tóc bạc phơ, tuổi già sức yếu, trước nay chỉ chuyên tâm nghiên cứu bói quẻ, Chu Dịch, pháp thuật, không màng đến quốc sự, ai làm Ngô Vương đối với hắn đều không có khác biệt, đối với người làm Ngô vương cũng thế, vị lão thần chỉ chuyên tâm nghiên cứu học thuật này cũng không có uy hiếp gì về mặt chính trị.
Chức Tông Bá cũng tương đối cao, vốn chỉ có nhà Chu và nước Lỗ xưng chức quan này là Tông Bá, các nước chư hầu đều xưng là Tông Nhân. Nhưng Khánh Kỵ xưng vương, nên hắn có quyền thay đổi tên gọi và chức năng của chức quan này. Tông Nhân nước Ngô, cũng chính là Tông Bá sẽ do thành viên trong hoàng thất đảm nhận. Thay Đại Vương quản lý huyết mạch của hoàng thất, quản lý sự vụ trong cung, quản lý sự vụ riêng của Ngô vương, lo các nghi lễ bái tế trong nước, chức vị này tương ứng với chức Lễ Bộ Thượng Thư và Đại Tổng Quản Tông Nhân Phủ của người đời sau.
Nay chức Tông Bá sẽ do Vương Thúc Tổ của Khánh Kỵ đảm nhận, đó là một vị công tử có tuổi tác cao nhất, tên gọi Cơ Trung Tề, chỉ là cái tên này bao nhiêu năm qua đã không ai gọi nữa, vị lão nhân này năm nay cũng xấp xỉ thất tuần, từ lúc Chư Phàn xưng vương đã giữ chức Tông Nhân, cũng có thể xem là một cây Trường Thanh Tùng trên chính đàn nước Ngô.
Việc phong thưởng cho quần thần đã xong. Khánh Kỵ nói:
“Nước Ngô chiến loạn liên miên. Còn nhiều việc dang dở phải làm; lâu nay thiên hạ đại loạn, Nước Ngô tuy nước mạnh nhưng dân yếu. nên cần tiếp tục bồi dưỡng phát triển, tích trữ sức mạnh, mới có thể ứng phó được những biến hoá trong thiên hạ, chúng khanh gia mỗi người đều được chức vụ riêng, hãy cố gắng làm tròn trách nhiệm của mình, ra sức vì nước. Sau khi bãi triều, Tướng Quốc và Lục Khanh hãy lưu lại, quả nhân có một số việc cần thương nghị. Chúng khanh gia còn việc gì cứ bẩm tấu, nếu không việc quan trọng, có thể bãi triều, các ngươi hãy thực hiện đúng chức trách của mình.”
“Khải bẩm đại vương, lão thần có lời muốn nói.”
Khánh Kỵ vừa nói dứt lời, Tông Bá đại nhân đã bước những bước chắc nịch đến giữa điện, thi lễ với hắn, Khánh Kỵ có chút bất ngờ, không biết vị Vương Thúc Tổ này có lời chi muốn nói, vội hỏi:
“Tông Bá xin cứ nói.”
“Vâng.”
Tông Bá lại thi lễ, từ từ nói:
“Đại vương đăng cơ, trước tiên phải lo việc kế tục sau này, muốn nước nhà và lòng dân ổn định, không thể không có người nối dõi. Nay nước Ngô đã an định, đại vương nên sớm ngày đưa sính lễ đến các nước chư hầu, mà lập hậu nạp phi, sinh con đàn cháu đống…”
Chả trách lão già này chẳng cần biết ai làm đại vương, trước sau giữ vững chức vị, dám nói những việc như thế bất cập lợi hay hại, Khánh Kỵ mất nụ cười trên môi nói:
“Việc này, Tông Bá nói chí phải, quả nhân nhất định sẽ suy nghĩ.”
Tông Bá vừa nghe, tinh thần phấn chấn, nói:
“Đại vương ta đồng đẳng với Chu Thiên Tử, nên lễ nghĩa, Phi Tần đương nhiên cũng phải như nhau, cũng nên lập một hậu, ba phu nhân, chín phi tần, hai mươi bảy thế phụ, tám mươi mốt ngự thê… Không biết đại vương muốn cầu thân với vị chư hầu nào, đã chọn được hoàng hậu và các vị phu nhân chưa, thần đang còn tại chức, cũng nên sớm có chuẩn bị.”
Vị Tông Bá đại nhân này có phải nhàn nhã quá muốn phát điên, nên thích làm ông mai không ? Khánh Kỵ dở khóc dở cười, nay quần thần đều mới vừa nhậm chức, lại không tiện làm mất mặt vị lão nhân này, làm mất sự nhiệt tình trong công việc của hắn, chỉ đành ho khan một tiếng đáp:
“Việc này…, theo như Tông Bá nói, về chuyện Chu lễ. Quả nhân đã xưng vương, đã không cần nghe theo Chu Thiên Tử nữa, hà tất phải tuân theo lễ nghĩa của Chu thất, nào là lập một hậu ba phu nhân chứ ?”
Tông Bá kinh ngạc nói:
“Đại vương muốn thay đổi chế độ cung tần hậu phi? Ừm… vậy cũng được, chỉ là không biết đại vương muốn thay đổi chế độ cung tần hậu phi như thế nào, thần sẽ phụng chỉ hành sự.”
Khánh Kỵ chẳng biết phải làm sao đành buông xuôi nói:
“Việc này, quả nhân đã có cách nghĩ, chỉ là chưa được toàn diện, đợi sau khi nghị triều xong, tìm một thời gian nào đó, quả nhân sẽ cùng Tông Bá thương lượng, ngươi thấy thế nào?”
Tông Bá vừa nghe đại vương sẽ cùng hắn thương lượng chế độ ở hậu cung, có cảm giác được xem trọng, mặt mày hớn hở, vậy mới xứng mệnh, trong lòng mãn nguyện lui qua một bên. Khánh Kỵ xua được vị Vương Thúc Tổ không biết điều này, lại tiếp tục hỏi quần thần:
“Chúng khanh gia còn việc gì bẩm tấu ?”
Hôm nay chúng thần vừa nhậm chức, phải tìm hiểu thêm về chức trách của mình, mới có thể xử lý tốt công việc, trước mắt chắc chắn sẽ chưa có kiến nghị gì mới, thấy quần thần nhìn nhau không nói. Khánh Kỵ bèn nói:
“Nếu vậy, chúng khanh gia hãy nhận lấy ấn tín của các ti rồi có thể lui ra, Tướng quốc và lục khanh hãy ở lại, quả nhân có việc cần thương nghị.”
Quần thần hành lễ lui ra, trên đại điện lập tức vắng vẻ trở lại, thái giám vội vàng lên điện. Sắp xếp lại ghế ngồi, Tôn Vũ và lục khanh tạ lễ xong ngồi xuống, Khánh Kỵ bèn nói:
“Nhìn khắp thiên hạ, những vị chư hầu muốn xưng bá, đều phải dựa vào võ lực; việc được hay mất một thành một đất, thắng hay bại của một trận chiến cũng trở nên dễ dàng hơn. Sự huy hoàng này cũng chỉ như bông hoa sớm nở tối tàn, nếu không có một nước mạnh ủng hộ, hiếu chiến chỉ khiến họ tự đánh mất tinh nhuệ, sức nước yếu đi, đến cuối cùng không những không xưng bá thiên hạ, mà còn bị người khác khống chế lại, quả nhân nay đã là chủ nước Ngô, có lòng quyết chí tự cường, khiến nước Ngô ta trở thành cường quốc trong thiên hạ. Do vậy, khi mới lập quốc. Việc làm sao để được dân giàu nước mạnh, binh lực cường thịnh, cần phải được suy tính sớm. Không biết chư khanh có ý kiến gì ?”
Tôn Vũ mắt nhìn Khánh Kỵ, mỉm cười, với kiến thức của hắn, cũng chỉ cho rằng Khánh Kỵ muốn làm cho nước Ngô giàu mạnh, để có thể xưng bá lâu dài, chứ quyết không có cái ý nghĩ là Khánh Kỵ có lòng muốn nuốt trọn thiên hạ, trong tư duy của những người ở thời này vẫn chưa nghĩ đến việc thống nhất thiên hạ, vả lại dân số trong thời này cũng quá ít, thực tế cũng không đủ điều kiện và động cơ để thống nhất thiên hạ.
Khánh Kỵ nhìn bộ dạng của hắn, bèn hỏi:
“Đại thế trong thiên hạ hiện nay, phía bắc nước Ngô có Tề Tấn. Phía tây có Tần Sở, phía nam có nước Việt, lòng dạ như rắn độc, bất cứ lúc nào cũng tìm cơ hội để cắn xé, phía nam nước Việt, có bãi đất hoang chưa từng được khai phá, về phía đông, là hàng vạn dặm biên giới vùng biển. Đó là tình hình trước mắt của nước Ngô ta.
Về phía trong nước, chiến loạn liên miên, dẫn đến chậm trễ việc đồng áng, quốc khố trống rỗng, thuế má không đủ. Mùa thu năm nay và mùa xuân sang năm, e rằng sẽ thiếu lương thực trầm trọng. Nhưng vô cùng may mắn là, các chư hầu ở trung nguyên đang chiến tranh kịch liệt, nước Ngô ta nằm ở góc tây nam, chỉ cần ổn định trong nước, hàng phục được nước Việt, thì tạm thời không còn nỗi lo gì. Đây là cơ hội tốt mà ông trời cho ta để hồi phục nguyên khí, xây dựng nước ta lớn mạnh, chỉ là nên làm như thế nào, thì cần phải tính kế lâu dài, không biết tướng quốc có kiến nghị gì ?”
Tôn Vũ suy nghĩ chốc lát, nói:
“Đại Vương, nước ta lớn mạnh, cần can thiệp các phương diện như nội chính, ngoại giao, quân sự. Theo thần thấy, quan trọng nhất vẫn là nội chính. Muốn xưng bá thiên hạ, không phải là chuyện dăm bữa nửa tháng, muốn nước ta lớn mạnh, hiện nay cần gấp, một là tiền tài, hai là nhân tài, đây là hai thứ không thể thiếu.
Hôm qua thần đã xem qua hộ tịch của nước Ngô, ước chừng hơn bốn vạn hộ, cộng thêm những nô lệ, thương gia, và những kẻ vô gia cư không có tên trên hộ tịch, nhân khẩu nước ta vào khoảng ba trăm vạn, nếu chỉ lo cày những ruộng đất trên nước Ngô ta e là chưa đủ, sẽ dẫn đến đất rộng người thưa, hương thôn vắng vẻ, càng không thể vọng tưởng đến phía bắc Trung Nguyên, xưng bá thiên hạ.
Vì vậy, thần cho rằng, nước Ngô ta nên tiếp tục bồi dưỡng phát triển, kêu gọi sinh sản, gia tăng nhân khẩu, tích trữ tiền tài và lương thực, theo cách này thì chí ít, cũng phải mất hai mươi năm mới thấy được kết quả. Nhưng… do hiện nay thiên hạ đại loạn, bá tánh lưu lạc khắp nơi, đây có thể nói là cơ hội lớn của ta, nước Ngô ta nay đã ổn định, không còn nỗi khổ chiến loạn, chỉ riêng điều này thôi, đối với các bá tánh lưu lạc khắp nơi này mà nói, rất có sức hấp dẫn. Chỉ cần đại vương mở rộng đường cho họ, như là đối với những người đi khai khẩn đất hoang, quốc gia sẽ hỗ trợ lương thực, đất khai khẩn được sẽ thuộc về họ, miễn thuế trong ba năm, các nước nghe tin, già trẻ lớn bé sẽ dắt díu nhau đến nước Ngô ta. Chỉ là… mùa thu năm nay và mùa xuân sang năm, e rằng nước ta sẽ thiếu lương thực trầm trọng, nếu trong thời gian ngắn lại tăng thêm nhiều nhân khẩu vậy, e rằng không gánh vác nổi.”
Khánh Kỵ quả thật không nghĩ đến cách di dân này, nghe xong những lời của Tôn Vũ, như mở được khúc mắc trong lòng. Bá tánh thời này vẫn chưa hình thành quan niệm quê hương sâu đậm, bất luận là dân đen hay là sĩ tử, rất ít người có chết cũng không rời quê hương, lúc này chế độ nô lệ gần như đã hoàn toàn sụp đổ, việc những nô lệ chạy trốn đến những nhà suốt đời làm nông ở các thôn đã là chuyện thường ngày, ngay cả các sĩ tử vì muốn mưu cầu công danh cũng thường chu du khắp các nước, còn như những dân đen đang có ruộng đất cày cấy tuy không dễ dàng rời khỏi quê hương, nhưng điều đó không có nghĩa là chiến tranh kéo dài uy hiếp đến sự an nguy của họ, họ cũng ko rời khỏi. Nước Ngô ngoài thành lớn ấp lớn, những con đường giao thông chính ra, thì ở các hương thôn thường thấy Hồ Bạc mênh mông cỏ dại, đi hết nửa ngày đường thỉnh thoảng mới gặp một thôn trang nhỏ, nhân khẩu so với các nước lớn ở trung nguyên vô cùng ít ỏi, nếu chỉ tự dựa vào bản thân gia tăng nhân khẩu, thì đất đai sẽ để hoang lâu ngày, còn việc ưu tiên chiêu nạp những di dân trong tình hình thiên hạ đại loạn này đích thực là phương pháp tốt nhất, những di dân này chỉ cần biết khai hoang ruộng đất, đối với nước Ngô vậy đã đủ lắm rồi, huống chi trong số đó tất nhiên sẽ có những thợ thủ công lành nghề của các ngành khác nhau, thậm chí có cả những sĩ tử tài năng.
Khánh Kỵ nghĩ đến đây, bất giác vỗ tay nói:
“Tuyệt. Sao quả nhân lại chưa nghĩ đến cách này nhỉ. Cách này tuyệt, còn như việc thiếu lương thực, quả nhân đã có một số cách giả quyết. Thành Tú vốn là đại thương gia của nước Lỗ, đã tích trữ được một lượng lương thực rất lớn, nếu nay hắn được trở thành đại phu nước ta, thì đúng là như cá gặp nước, Quả nhân có thể mua lại toàn bộ lương thực tích trữ của hắn. Nước Ngô ta sông hồ nhiều, cá tôm phong phú, lại thêm thời tiết ấm áp quanh năm, cải dại quả dại cũng có thể ăn lót lòng. Quả nhân còn có thể chế tạo thuyền lớn, dệt lưới to, ra biển đánh cá, như vậy không chỉ nhất thời giải quyết được nạn thiếu lương thực, mà còn có thể giải quyết vấn đề lương thực sau này khi dân số tăng đột biến.”
Hễ họ nói đến chính sự, thì chỉ có Yểm Dư, Chúc Dung, Anh Đào, Xích Trung chăm chú lắng nghe. Hai vị lão nhân Thái Chúc và Tông Bá đã bắt đầu giả câm giả điếc. Thái Chúc đại nhân thì nhắm mắt thư giãn, lẩm bẩm trong miệng những câu: “Cương tự ngoại lai nhi vi chủ vu nội. Động nhi kiến, cương trung nhi ứng, đại hưởng dĩ chính, thiên mệnh chị giả…” (nghĩa là: chỉ cần không có vọng tưởng, những cám dỗ từ bên ngoài sẽ không thể làm dao động tâm trí ta. Chỉ cần tâm chính không tà, thì có thể đối diện với những cám dỗ đó, dựa vào quy luật thuần nhiên mà thuận theo tự nhiên…”. Tông Bá đại nhân đang tính xem đem sính lễ qua nước Tần hay nước Sở, hay là cả hai nước. Còn Khánh Kỵ nói gì, họ nghe tai này qua tai kia, cũng xem như chưa từng nghe thấy. Nhưng khi Khánh Kỵ nói đến việc thu mua lương thực, Tông Bá đại nhân đột nhiên có phản ứng, xen vào hỏi một câu:
“Nhưng… quốc khố nước ta đang trống rỗng, nào có tiền tài mà mua lương thực, tên Thành Tú đó có chịu cho mua thiếu không?”
Khánh Kỵ nói:
“Kinh doanh mua bán, cũng cần số vốn lớn để chu chuyển. Thời loạn như hiện nay, lại càng phải giao dịch bằng hiện kim. Nếu ta mua chịu, thì những cửa tiệm buôn bán lương thực của Thành Tú e là sẽ phải đóng cửa hết. Nói đến tiền tài, hiện nay nước ta vẫn còn có thể lấy ra được, hiện nay kim ngân châu báu, tơ lụa vải vóc đều chứa đầy trong các đại điện, những thứ đó có thể đổi lấy số lượng lớn lương thực.”
“Cái gì ? Đại vương không đem trả những thứ đó cho người Sở sao ?”
Vừa nói xong cây này, Tông Bá liền hận không thể nuốt luôn cái lưỡi của hắn, hắn thật muốn tát vào cái miệng của mình, cả đời đã bo bo giữ thân, sao hôm nay lại hồ đồ đến thế.
Hắn là trưởng bối của Khánh Kỵ, hỏi như thế, Khánh Kỵ không cảm thấy khó xử. Che giấu tài sản của người khác, đặc biệt đối phương lại là liên minh với mình, dù ít dù nhiều hắn cũng cảm thấy có chút xấu hổ. Thế nhưng lại thấy Tôn Vũ không đổi sắc mặt, ung dung nói:
“À, Tông Bá đại nhân, Tôn Vũ vừa nghĩ ra một việc, Tông Bá đại nhân quản lý sự vụ trong cung, Tôn Vũ đang định giao lại việc này cho Tông Bá đại nhân xử lý.”
“Việc.. việc gì ?”
Tông Bá đang sợ rằng đã chọc giận Khánh Kỵ, lén lút nhìn hắn, thấy hắn không có vẻ nổi giận, không giống như Phù Sai giận dữ nhảy lên như thiên lôi đánh, trong lòng mới an tâm hơn , hỏi Tôn Vũ.
Tôn Vũ nói:
“Lúc Tôn Vũ dẫn quân xông vào cung, Phù Sai thấy đại thế đã qua, nên đã đốt lửa thiêu cả cung, tuy Tôn Vũ đã đến kịp thời, nhưng lại không kịp dập lửa, nên những nơi để tài sản lấy được từ nước Sở đều bị ngọn lửa của Phù Sai thiêu rụi hết rồi, nay tiền tài đang căng thẳng, nên chưa vội trùng tu lại, nhưng vẫn cần dọn dẹp sạch sẽ.”
Anh Đào nhịn cười nói:
“Đúng vậy, ôi! Vì không muốn bá tánh chịu khổ, mua lương thực, Đại vương ta đã cắt giảm chi tiêu trong cung, đem tất cả tài vật trong cung đều bán ra ngoài, thậm chí vàng dát trên ghế ngồi bàn ngự án, những viên ngọc gắn trên hoàng bào, đều được lấy xuống để đổi lấy lương thực, thật khiến người phải đau xót. Nhưng đại vương thương dân như con, nếu tin tức này được truyền ra ngoài, bá tánh sẽ cảm kích đến rơi lệ.”
Thấy Anh Đào nói nghiêm túc thế, Tông Bá nghe đến nỗi há hốc cả mồm, a a mãi mới nói nên câu:
“A…., Đại vương ta thương dân như con, thật là… thật là một vị vua anh minh, lão thần… lão thần vô cùng khâm phục.”
Thái Chúc mở to mắt, rồi lại nhắm lại, lại lẩm bẩm: “Quẻ nói: nhu, tu giả, hiểm tại tiền giả, cường kiên nhi bất hiểm, kỳ nghĩa bất khốn cùng hề, nhu, hữu phù, quang hưởng, trinh cát, vị hô thiên vị, chánh trung giả, lợi thiệp đại xuyên, vãng hữu công giả…” (dịch là: theo quẻ nói: chờ đợi, là cần thiết, tuy nguy hiểm đang ở phía trước, nhưng chỉ cần tâm chính không tà thì sẽ không bị cám dỗ, quẻ này không phải là quẻ xấu, cần có những phẩm chất như thành thật và giữ chữ tín, quang minh chính đại, thì công việc mới được thuận lợi, quẻ này là quẻ cát tường, đi xa, hoặc qua sông lớn cũng rất thuận lợi…”)
Tôn Vũ lại nói:
“Dân chính đã đành, tiếp là ngoại giao, nói đến ngoại giao, các nước lân cận như Sở, Tần, Lỗ, Trần trước mắt đều có kết giao với nước ta, có họ ở giữa hòa hoãn, Tề, Tấn cũng khó uy hiếp được nước ta, nước ta cũng nên qua lại mật thiết với những nước này, cách kết liên minh hay nhất, chính là liên hôn. Đại vương đang trong thời xuân trẻ, hậu cung lại không có ai, có thể nạp nữ nhi của các nước chư hầu như Tần, Sở, Lỗ, Trần làm phu nhân, như vậy…”
Hắn vừa nói đến chuyện kết thông gia, vị Tông Bá đại nhân thích làm ông mai này mắt lại sáng rực lên, Khánh Kỵ vừa thấy, vội vàng chuyển sang đề tài khác nói:
“Việc này tạm thời không cần bàn, sau này Quả nhân và Tông bá đại nhân sẽ cùng thương nghị chuyện này, Ngươi hãy nói tiếp việc quân sự.”
Tông Bá mặt mày thỉu não, hắn mấp máy cái miệng đã rụng hết cả răng, lại bắt đầu giả câm giả điếc tiếp, Tôn Vũ cười, nói:
“Trang bị toàn quân, theo thần thấy, không thể gấp trong nhất thời. Vì vấn đề quân sự, nhất thiết phải có tài lực, muốn chế tạo áo giáp và vũ khí tinh nhuệ cũng cần phải có tiền, huấn luyện binh sĩ diễn võ hành quân cũng cần tiền, hiện nay các nước trên thiên hạ đều dụng binh, đa số đều được chiêu mộ trong thời chiến, sau chiến tranh lại giải ngũ, như vậy khó đảm bảo việc huấn luyện và sức chiến đấu của quân đội. Hiện nay các nước lớn ở trung nguyên, đã trang bị quân đội thường bị, ăn quân lương được quân hưởng, muốn xây dựng nên một đội quân được huấn luyện tốt, nước ta cũng nên xây dựng một đội quân thường bị, điều này đồng nghĩa với việc cần tiêu hao lượng lớn tiền tài. Nói đến cùng, vẫn phải phát triển đất nước giàu mạnh mới thành.
Nước Ngô ta nhiều sông ngòi, lấy thuyền làm xe, lấy mái chèo làm ngựa, người lái thuyền cũng rất quan trọng, đồng thời lực lượng thủy sư của nước ta vốn là những thủy sư mạnh nhất trong tất cả các nước chư hầu. Đây là điểm mạnh của nước ta, càng nên duy trì ưu thế này. Nay Kinh Lâm tướng quân đóng quân ở Nam Vũ Thành, đội quân này cũng được xem như là quân thường bị rồi. Nơi đó gần biển lớn, Nam Vũ lúc nãy đại vương có nói muốn làm thuyền lớn, làm lưới to, ra biển bắt cá. Thần cho rằng đại vương có thể lấy Thành làm trung tâm. Như việc chế tạo thuyền lớn, sẽ do các quân sĩ đóng tại Nam Vũ Thành luân phiên lái thuyền ra biển, vừa diễn tập vừa bắt cá, huấn luyện nên một đội thủy quân lớn mạnh. Những binh sĩ phục vụ trong quân ngũ trường kỳ này, có thể giảm thuế cho gia đình họ, để an lòng quân. Về phía Võ Nam, là nơi đóng quân của Lương Hổ Tử tướng quân, đều là bình nguyên màu mỡ, có thể cho đóng quân nơi bình nguyên hoang vu để rèn luyện, khai khẩn đất hoang, các quân sĩ đã lập gia đình có thể an bài ở gần đó, chỉ cần vài năm, nơi đó sẽ mọc thêm vài toà thành mới và những ruộng đất màu mỡ.”
“Trường Khanh nói chí phải”
Khánh Kỵ khen ngợi:
“Quả nhân cũng cảm thấy, việc cấp bách của nước Ngô ta hiện giờ không phải chỉnh đốn quan ngũ, mà là an lòng dân, ngoại giao và phát triển kinh tế. ngành nông là cái gốc của nước nhà, những kiến nghị vừa rồi rất có lý, Đại tư đồ hãy mau chóng thảo ra cách làm tường tận và các chính sách tương ứng, để vỗ về lòng dân, chiêu nạp di dân.”
“Thần tuân chỉ.”
Yểm Dư chấp tay lãnh mệnh.
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của kedochanh
Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua
Chương 238: Kiểm kê gia sản
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
Khánh Kỵ lại nói:
“Lấy nông làm gốc, thương nghiệp làm hưng thịnh. Nước Ngô ta nằm ở góc đông nam, việc cổ vũ thúc đẩy sinh sản, cổ vũ việc ruộng đồng. Thuế ruộng không nên quá nặng. Tuy vậy khó có thể đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của triều đình, chỉ riêng điểm này mà nói, càng nên phát triển thương nghiệp, lấy thuế thương nghiệp để bù đắp cho thuế ruộng cũng chưa đủ. Huống hồ nước ta cách xa trung nguyên, thông qua các thương gia, trao đổi hàng hóa với nhau, có thể mang những đặc sản khắp nơi của nước ta như muối biển, tôm cá, hàng dệt may bán đến trung nguyên, thu được nguồn lợi lớn, làm dân ta giàu mạnh. Điểm này, đại tư đồ cũng phải thảo một tấu chương chi tiết.”
“Vâng!”
“Nay đã hết chiến sự, rất nhiều ruộng bỏ hoang đã thuộc về những loạn dân lưu lạc tha hương, năm nay cũng đã qua mùa cày cấy, họ không có kế sinh nhai, để lâu ngày sẽ sinh loạn. Chúng ta làm thuyền lớn, dệt lưới to, có thể thuê những người này làm, vừa cho họ có kế sinh nhai, lại có thể tránh việc làm loạn. Việc này, đại tư không cần thực hiện ngay.”
Giữa địa vị và uy nghi có sự tương ứng lẫn nhau, một tên ăn mày trán đầy đặn, cằm vuông vức, có làm thế nào cũng không thể có được khí chất vương giả. Nhưng nếu hắn là vua một nước, dù cho hắn có là đầu hoẵng mắt chuột, cổ rắn mõm chim, thần tử thấy nhất cử nhất động, vẫn cứ vâng vâng dạ dạ trong lòng, loại cảm giác này, là loại áp lực tâm lý được hình thành do địa vị đặc thù của hắn.
Địa vị của Khánh Kỵ ngày càng vững chắc, tuy ăn nói cử chỉ của hắn không khác xưa nhiều, nhưng cảm giác trong lòng của những người bên cạnh hắn đã bắt đầu thay đổi, ngay cả Chúc Dung ngồi trên ghế nghe hắn thao thao bất tuyệt, cảm giác trong lòng cũng dần thay đổi. Nghe hắn căn dặn, cũng bất giác chấp tay, cung kính đáp:
“Thần tuân chỉ.”
“Ừm! Muốn làm tốt công việc, phải có công cụ thích hợp. Hiện nay đa số những nông cụ của nông dân đều là cày đá, xẻng gỗ, dùng để trồng trọt đất đã khai hoang còn chê rách việc, còn như khai khẩn đất hoang khó khăn không cần nói cũng đủ biết, chỉ e ba ngày cũng không khải khẩn nổi một mảnh đất hoang, thì đã hư hết nông cụ rồi. Do vậy quả nhân muốn những hộ theo ngành luyện kim thuộc Nhâm gia sau này phải tinh luyện thêm nhiều nông cụ bằng sắt bằng đồng, như vậy ngành nông nước ta mới mau chóng phát triển.”
Anh Đào nói:
“Đại Vương, nông cụ quá đắt, nông phu sẽ mua không nổi. Nếu giá tiền quá rẻ, không có lợi, sẽ không ai làm, việc này e là khó.”
Khánh Kỵ nói:
“Sự tồn tại của quốc gia, của triều đình, của vương mệnh, chính là để thống trị, quy hoạch những việc tất yếu, không thể tất cả đều phó mặc buông xuôi, vạn sự thuận theo tự nhiên mà làm sao? Chuyện này là lệnh của triều đình nhất thiết phải làm theo, đương nhiên, có thể được ít lợi nhuận, không thể để họ bị lỗ vốn. Đại tư không có thể đi tìm hiểu thêm, định giá cho các nông cụ một mức giá mà các nông dâm có thể mua được, nếu giá bán ra không bù được giá vốn, thì triều đình sẽ bù lỗ thêm cho người thợ.”
Xích Trung nghe xong xen vào một câu:
“Đại vương, nếu là vậy, lại e là có những kẻ dùng giá thấp để mua nông cụ, sau đó đem sang nước khác bán với giá cao hơn, hoặc giả mua về hủy trong lò rèn, lấy đồng sắt mà chế tạo công cụ khác để trục lợi.”
Khánh Kỵ vui mừng nói:
“Tốt! Nhắc nhở tốt, ngươi cũng chẳng phải thuộc hạng võ phu, ừm, Đại tư mã có thể thảo một bản tấu chương, những người mua nông cụ phải đăng ký theo nhà theo hồ, không được mua nhiều hơn, nếu nông cụ bị hư có thể dùng nông cụ hư để đổi mua nông cụ mới. Nếu có người lwoij dụng những kẻ hở của pháp luật, mà đầu cơ phi pháp, thì đó là việc của Đại tư khấu ngươi, một khi bắt được, phải trừng trị nghiêm khắc!”
“Thần tuân lệnh!”
Xích Trung vội vàng chấp tay đáp lại. Giang sơn nước Ngô đã định, hắn cũng nên hạn quyết tâm làm chức Đại Tư Khấu của hắn.
Sơ bộ quyết định những đại sự trên, chúng khanh gia hành lễ cáo từ, khi đó Khánh Kỵ liếc mắt nhìn Tôn Vũ, Tôn Vũ hiểu ý, nên bước chậm lại, đi phía sau cùng các đại thần.
Đợi khi tất cả đã ra ngoài, Tôn Vũ chấp tay, khẽ nói:
“Đại vương, còn việc gì cần căn dặn hạ thần chăng?”
KHÁNH Kỵ cũng khẽ trả lời:
“Đại sự thì không có, chỉ là muốn Trường Khanh cùng quả nhân đi một chuyến đến Tàng Bảo Lầu. Không lo liệu việc nhà thì không biết củi gạo đắt đỏ, không đi một chuyến xem có bao nhiêu châu báu của người Sở, quả nhân làm cái chức đại quản gia này, trong lòng cũng không yên!”
Khánh Kỵ và Tôn Vũ cùng nhau đi đến phía đông nội cung là nơi cất giữ kim ngân châu báu, nơi đây được thị vệ trong cung canh giữ nghiêm ngặt, bên trong các thái giám đang kiểm kê từng hạng mục, viết thành sổ sách.
Dãy phòng thứ nhất toàn là tơ lụa thượng hạng, lụa mịn của nước Tề nước Lỗ chất từ dưới đất cao lên nóc điện, từng hàng từng hàng ngay ngắn gọn gàng, Khánh Kỵ vui vẻ nói:
“Những tơ lụa này đều có thể xem như tiền để chi trả. Chỉ cần chiến loạn phân tranh liên miên không dứt, thì nhu cầu của các gia đình quyền quý ở các nước đối với những tơ lụa thượng hàng này càng lớn, Thành gia tự có con đường kinh doanh của họ, vì vậy chỉ cần thuận lợi vẫn chuyển những tơ lua này ra ngoài, là có thể bán với giá cao. Thành Tú hiện này đang làm quan nước Ngô ta, sẽ không che lại lương tâm mà gạt tiền của ta, số tơ lụa này có thể đổi lại cho chúng ta một lượng lớn gạo thượng hạng đây.”
Tôn Vũ mỉm cười nói:
“ Trong cung của đại vương cũng cần đến những vật phẩm này, đại vương đã đăng cơ, lập hậu nạp phi là việc trong năm nay hoặc sang năm, đến lúc đó sẽ cần dùng nhiều, hà tất phải đem bán ra ngoài, mai này lại phải đi mua lại sao? Xin đại vương xem, phía sau còn có mấy tòa đại điện, các loại bảo vật đều có đủ trong đó, tất cả đều là bảo vật trong hoàng thất nước Sở, giá trị liên thành, chỉ cần tìm được vài người mua trong số những thương gia lớn của các nước, cũng đã đủ cho nước ta ứng phí với nạn thiếu lương thực trong mùa thu năm nay và mùa xuân sang năm, đương nhiên, trước tiên vẫn là có thể mua được số lương thực này về, nếu là có người mua mà không có người bán, vậy là phiền phức rồi.”
Khánh Kỵ khẽ cười:
“Việc này khanh không cần lo, quả nhân và Thành Tú đã bàn kỹ rồi, con số lương thực mà Thành gia đã tích trữ được vô cùng to lớn, chỉ cần chuyển đến, số lượng đủ để ta dùng. Thành Tú đối với quả nhân, hắn chưa chắc đã đem toàn bộ tình hình trong việc làm ăn của Thành gia nói hết với ta, nhưng con số mà hắn tiết lộ, đã rất đáng kinh ngạc rồi.”
Khánh Kỵ than thở nói:
“Đấy chỉ là nghe những lời hắn nói thôi, ngươi mới thật sự hiểu được thế nào là vì làm giàu có thể bán nước. Gia sản của những đại thương đó, quả thật không phải là chuyện đùa.”
Tôn Vũ gật đầu ra vẻ tán thành nói:
“Cho nên, Thương gia tuy không là công khanh quý tộc gì, nhưng ngày càng được các nước chư hầu tôn kính và đối đãi theo lễ nghĩa. Với sức ảnh hưởng lớn có sẵn, có những nước chư hầu, trong nước nào có hai hay ba đại thương gia, thì nơi đó được xem như mạch máu kinh tế của cả nước, nếu những thương gia này đột nhiên dời qua nước khác, thì quốc gia sẽ lập tức sụp đổ, sức nước yếu ớt không thể chịu nổi một cuộc tấn công. Thành cũng thương gia, mà bại cũng thương gia, là họa là phúc đều khó mà dự liệu…”
Khánh Kỵ không nhịn được cười ha ha. Hắn vỗ vai Tôn Vũ nói:
“Trường Khanh, khanh lại ăn nói vòng vo để khuyên nhủ quả nhân à. Lúc trên điện, ta và khanh là phận quân thần, lúc chỉ còn hai ta, ta xem khanh như huynh như bằng hữu, nói chuyện cũng không cần quanh co như thế, khanh đang lo rằng ta sẽ xem trọng một số thế gia, khiến đất nước như rơi vào tay của một tư gia nào đó, một đại vương nước Ngô như ta mà phải chịu sự khống chế của một đại thần sao?”
Tôn Vũ bị hắn nhìn thấu tâm can, cười thẹn thùng. Khánh Kỵ cười nói”
“Thành thị, Nhâm thị đối với sự nghiệp phục quốc của quả nhân đều có công lớn, đương nhiên sẽ được trọng dụng, họ đều là những thương gia nổi tiếng trong thiên hạ, hoặc giỏi về kinh doanh, hoặc giỏi về chế tạo, đều là nhân tài xuất chúng trong hai giới công và thương, nếu được nâng đỡ, và trở nên lớn mạnh, thì lực lượng của nước Ngô ta mới có thể ngày càng lớn mạnh. Còn về tiền tài thì. Cứ để họ kiếm, họ càng kiếm được nhiều tiền, thì tài lực nước ta càng lớn mạnh, tuy nhiên những gia tộc này cần được nắm chắc trong tay triều đình, điều này sẽ cần dùng một số biện pháp. ĐIểm này ngươi có thể yên tâm, quả nhân sẽ không làm một hôn quân, chỉ vì một nụ cười của mỹ nhân mà khuynh nước khuynh thanh đâu.”
Khánh Kỵ nhân cơ hội này nói rõ cách nghĩ của hắn cho vị đại thần tâm phúc đáng tin cậy nhất này:
“Lực lượng của thị tộc khi đã lớn mạnh, tất nhiên sẽ thần mạnh quân nhược, những thương gia lớn này, số gia tướng và nô bộc trong nhà, có thể lên đến hàng ngàn hàng vạn, những người này đều là tài sản riêng của họ, khi được võ trang thì không thể xem thường được, nên biết rằng đại đa số các nước chư hầu trong thiên hạ hiện nay, quân đội cả nước cũng chỉ vào khoảng mấy ngàn mấy vạn người. Kỳ thực không chỉ có họ, những vị công khanh đại phu được phong ấp. Qua mấy đời kinh doanh, trên đất phong của họ, cũng tự lập một bộ máy quan lại thống trị hoàn chỉnh và độc lập, tương đương như một nước nhỏ ở dưới triều đình. Đợi đến khi lực lượng của họ đã đủ lớn mạnh, thế là không tránh khỏi việc uy hiếp đến triều đình, quả nhân đang từng bước tìm cách loại bỏ khả năng này, nhưng những việc này không được làm quá, phải từ từ mà trị, từ từ mà đổi. Ý của quả nhân là, sau này nước Ngô ta mở rộng biên giới, mỗi khi chiếm được một mảnh đất, sẽ theo như nước Sở lập huyện để trị, phái quan quân đến chiếm đóng ở đó, sẽ không tiếp tục phong đất.”
“Còn nữa, nô lệ phụ thuộc vào chủ nhân, sinh tử do chủ nhân quyết định, là tài sản riêng của chủ nhân, họ đời đời kiếp kiếp đi theo chủ nhân, dựa vào gia chủ mà sinh sống, đương nhiên cũng chỉ phục tùng lệnh của chủ nhân, trong mắt cũng chỉ có chủ nhân, chứ không có quốc gia triều đình. Đó là nguyên nhân quan trọng mà các thế gia đại tộc một khi đã lớn mạnh có thể can thiệp vào việc triều chính.
Hiện nay chế độ nô lệ chỉ là hữu danh vô thực, ngày càng có nhiều người nô lệ bỏ trốn, quả nhân đang chờ đến khi nước nhà ổn định hơn, sẽ bãi bỏ chế độ nô lệ, biến nô lệ thành tá điền, người cày thuê, hoặc khai khẩn đất hoang thành của mình để trở thành nông dân tự do, như vậy sẽ làm suy yếu đi sự phụ thuộc của họ với địa chủ, gia chủ, tăng sự hảnh hưởng của triều đình với họ, đạt tới hiệu quả nhổ tận gốc rễ, giảm đi khả năng thị tộc thế gia nổi loạn.
Ngoài ra, về mặt quân sự cũng sẽ dần dần ban bố chế độ và điều lệ mới, tiến hành cải cách ở các mặt như trưng binh, luyện binh, dụng binh, tăng cường sự khống chế trực tiếp của triều đình, những dự định này, hiện thời chỉ có ngươi biết, ngươi là tướng quốc nước Ngô ta, rảnh rỗi có thể suy nghĩ, dần dần bổ sung để hoàn thiện hơn.”
“Đại vương anh minh, vi thần tuân lệnh!”
Tôn Vũ vui vẻ đáp lời, hai người vừa trao đổi vừa bước ra đại điện, tiếp tục đi về phía trước.
“Đại vương, dãy cung điện này, cất giữ những nhánh cây, keo bóng cá, lông vũ, sừng thú, gân trâu dùng để chế tạo cung tên và cả hàng vạn cây nỏ Sở, trường kiếm, mâu thuẫn giáo mác, những rương giáp trụ, và số lượng lớn những thỏi đồng, giá trị không tính hết được, những thé này đều được lấy trực tiếp từ võ khố của nước Sở, số lượng rõ ràng, sắp xếp ngay ngắn, nên đã dán niêm phong, tạm thời vẫn chưa mở ra.”
“Ừm!”
“Dãy cung điện này, cất giữ những kim ngân châu báu được lấy từ hoang cung nước Sở, quyền thần nước Sở, và trong phủ đệ của các thương gia giàu có, trước mắt vẫn đang được kiểm kê từng hạng mục để đưa vào sổ sách, đã xác định những loại nào có thể bán được, những loại nào để lại làm quốc bảo, loại nào đặc trưng quá rõ ràng, tạm thời cần được giấu kín…”
“Ừ, ta vào trong nào.”
Dãy đại điện này có trái phải giữa ba gian, mỗi gian ba tầng, trước cửa có võ tướng canh gác, khi vào được trong điện, nhìn thấy phía trước có một bàn thư án, sau bàn thư án có ba người đang ngồi, ngồi bên ngoài cùng là một người mặt trắng không có râu, mặt mập tròn vành vạnh, trong giống như một lão bà mặt mày hiền hậu, trên tay cầm một cây bút lông, trên bàn thư án để một quyển trúc giản đang mở, bên cạnh hắn, là những quyển trúc giản đã viết xong được chất cao như núi. Ngồi phía bên trong hắn là hai lão già nhưng trông vẫn còn được tráng kiện. Dưới cằm mỗi người đều có một bộ râu đẹp và dài đến tận bụng, trên bàn để đầy nào là dương chi mỹ ngọc, đá mắt mèo, tổ mẫu lục, trân châu mã não, san hô và kim ngân khí mãnh, hai người tùy tiện cầm một món bảo vật lên, gật gù đắc ý mà bình luận.
Ba người họ, liên tục lấy những châu báu để lên bàn, lại có vài tiểu đồng đều mặc những chiếc quần đát nhỏ và áo may ô mang những chây báu đi, mình để trần, Tôn Vũ nói:
“Đây, đại đa số là thái giám trong cung. Hai vị lão tiên sinh này, cũng đã định cư ở nước Ngô ba đời rồi, thân thế trong sạch, là người đáng tin cậy, sở trường về kiểm định ngọc ngà châu báu, bảo họ để mình trần, là sợ có người thấy tài nổi máu tham, tự ý giấu lại ít bảo vật, tuy nói là ra vào cung phải qua ba lần cửa để kiểm tra, nhưng làm như thế sẽ an toàn hơn.”
Khánh Kỵ gật đầu. Hắn không nghĩ là hôm nay có thể xem được tiết mục kiểm định châu báu này. Thấy những người trên điện vội vội vàng vàng, nên vẫn chưa phát hiện họ đã vào trong, hắn bèn ra hiệu cho tc, không cho binh sĩ đứng gác ở cửa thông truyền, nhẹ nhàng bước phái bên trong, đứng dựa vào cây bàn long lập trụ, xem xét tình hình trong phòng.
Trong đại điện này có rât nhiều giá xếp làm bằng gỗ tốt, trên đó bày đầy những châu báu rực rỡ muôn màu, rât nhiều châu báu lớn để trên mặt đất. Trên mặt đất lại để ngang để dọc rất nhiều rương, túi, những bảo thạch bên trong đó vẫn chưa được lau chùi sạch sẽ.
Chỉ thấy một vị lão nhân râu bạc trắng cất cao giọng:”
“Thụ tứ san hô cao 3 tấc, một đôi đạp yến ngọc mã, mười hai sợi dây chuyền bảo thạch, mười tám sợi dây chuyền trân châu, tám miếng đại hồng bảo thạch.”
Bên cạnh là một lão thái giám đang nhanh chóng viết vào trúc giản, Tôn Vũ nhẹ nhàng nói: ”Sáng nay thần có đến qua một lần, lúc đó tổng cộng đã kiểm định được năm trăm hai mươi hai sợi dây chuyền bảo thạch. Hơn một trăm viên đại hồng bảo thạch, lúc này lại tiếp tục sắp xếp để đưa vào sổ sách, vì đồ vật quá nhiều, nên chỉ có thể vào sổ từng món một, sau đó mới phân loại ra, để tính ra tổng số của mỗi loại bảo thạch.”
Khánh Kỵ gật đầu, chỉ nghe một vị lão nhân kế bên nói:
“Hai cây thất tinh bảo kiếm, mười cây ngọc như ý, tám chiếc chậu bạch ngọc, chính chén canh ngọc bích…”
Những tên thái giám nhỏ và hai vị chuyên gia giám định này thiết nghĩ chắc đã quen thuộc với công việc, một tiểu thái giám tay bưng một chồng chén đĩa bằng ngọc nạm vàng hiếu kỳ hỏi:
“Giới lão phu tử. Thanh bảo kiếm này không phải nên quy vào hàng binh khi sao. Sao lại được liệt kê vào hàng châu báu chứ?”
Vị lão nhân gia này rút ra một chiếc khăn tơ lau mồ hôi trên trán, cười nói:
“Trẻ con thì biết gì, hai thanh kiếm này đều là kiếm cổ được rèn luyện tinh xảo, giá trị của nó đã bỏ xa giá trị của các loại binh khí bình thường khác, vả lại vỏ kiếm được làm bằng da cá kình xanh, bên trên nạm hồng bảo thạch, lam bảo thạch, tổng cộng là một trăm lẻ tám viên bảo thạch, ở giữa có gắn bảy ngôi sao làm bằng ngọc cực phẩm, chỉ cần vỏ kiếm này thôi, đã ngàn vàng khó mua rồi, hiểu chưa?”
Vị tiểu thái giam như đã được giác ngộ. Khi vị lão nhân gia này nói chuyền với tên tiểu thái giám, một vị lão nhân khác rút từ trong đám châu báu ra một miếng ngọc đẹp, đang nhìn trên nhìn dưới tỉ mỉ tường tận, đột nhiên kinh ngạc kêu lên:
“Lão Giới, ông mau xem này, viên ngọc đẹp này, nhìn trong suốt, màu sắc của ngọc mượt mà, chiếu rọi sặc sỡ, nhìn chính diện thì là một viên ngọc đẹp màu trắng, nhưng khi nhìn nghiêng, có các màu trăng, xanh, tím, vàng đều rất rõ ràng, loại ngọc này, chỉ cần to bằng ngón tay cái thôi, đã là vật quý hiếm rồi, thế mà miếng ngọc này, to bằng đầu của một đứa bé, một viên ngọc cực phẩm to như thế thật là đáng quý, lão phu bính sinh chưa từng nghe nói có viên ngọc đẹp đến thế.”
“Ồ?”
Vị lão nhân họ Giới cảm thấy hứng thú, vội vàng đi qua, cười nói:
“Những bảo vật có thể khiến cho Giang huynh khen ngợi như thế thật hiếm thấy, để đệ thưởng thức một chút.”
Giới lão phu tử cầm lấy viên ngọc lớn, ngắm nghía một cách cẩn thận, lại kinh ngạc nói:
“Một viên ngọc to như thê, không chút tì vết, quả là hiếm gặp hiếm gặp. Bảo vật này, quả thật là kiệt tác của trời đất làm ra, có thể gặp chứ không thể cầu. Ngọc đẹp như thế, không thể là vật vô danh được, chắc chắn là bảo vật nổi tiếng của nước Sở.”
Lão Giang đứng bên cạnh xem viên bảo ngọc, kinh ngạc nói:
“Nhìn nghiêng là màu ngọc bích, nhìn thẳng là là màu trắng. Ôi. Viên ngọc quý này… viên ngọc quý này… ta nhớ ra rồi!”
Hai người nhìn nhau, cùng đồng thanh la lên:
“Hòa thị chi bích!”
“Hòa thị bích?”
Vừa nghe tên của đệ nhất bảo vật lưu danh thiên cổ này, Khánh Kỵ cũng không kềm được sự kinh ngạc, lập tức bước tới gần hỏi:
“Các ngươi nói, viên ngọc này là Hòa thị bích sao?”
Hai vị lão nhân nhìn Khánh Kỵ, nói chuyện cũng cẩn thận hơn, lão Giang do dự một lúc đáp:
“Viên ngọc này thuộc hàng cực phẩm, giá trị của nó, có thể so sánh với giá trị của Hòa thị bích. Hơn hai trăm năm trước, Biện Hòa nước Sở được viên ngọc quý này, sau đó hiến cho Sở Vương, việc xẻ đá được ngọc, trong sử sách ghi lại có đề cập đến viên ngọc nhìn nghiêng là màu ngọc bích, nhìn thẳng là màu trắng, rất phù hợp với viên ngọc này, nên tiểu nhân mới có sự phán đoán như thế.”
“Hòa thị bích giá trị liên thành, bảo vật này, không thể ngay cả hộp đựng cũng không có chứ?”
Khánh Kỵ hồ nghi nói
Một tên thái giám lấy hết sức can đảm nói:
“Đại vương, viên ngọc này vốn được để trong một chiếc hộp, vì lúc chuyển dời sợ rằng chiếc hộp đè lên sẽ làm viên ngọc bị tổn hại, nên tiểu nhân không có để hộp lên.”
“Mau đến cho ta xem.”
Vị thái giám đó mau chóng chạy đi tìm chiếc hộp của viên ngọc đẹp này, Khánh Kỵ đón lấy chiếc hộp, lật qua lật lại xem, quả nhiên dưới đáy hộp có ghi “Hòa thị chi bích” bốn chữ nhỏ, bất giác vui mừng nói:
“Đúng là nó, quả nhiên là nó! Mau đem đến cho ta xem nào!”
Lão Giới vội vàng hai tay dâng lên viên Hòa thị bích, Khánh Kỵ đón lấy, xem qua xem lại một cách tỉ mỉ trong hồi lâu, trong con mắt của người không biết về ngọc như hắn, đó chỉ là một viên đá màu trắng có vẻ trong suốt, nhìn nghiêng có chút màu xanh mà thôi, cái gọi là tinh xảo trong suốt xem ra không bằng Ngọc thụ chi.
Hai vị chuyên gia giám định này nhìn Khánh Kỵ với ánh mắt sôi nổi, đợi hắn khen ngợi, Khánh Kỵ nhìn thấy, đành giả vờ xem tiếp một hồi lâu, khen:
“Hảo ngọc! Quả nhiên là một viên ngọc cực phẩm!”
Last edited by _Gàviệttrì_; 22-04-2011 at 08:28 PM.
Đã có 2 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của kedochanh
Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua
Chương 239: Hậu cung là việc thiên hạ
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
Tôn Vũ nói:
“Đại vương, tuy viên ngọc này giá trị liên thành, nhưng hiện giờ vẫn chưa được tiện…”
Khánh Kỵ cười nói:
“Quả nhân biết, viên ngọc này hiện giờ chưa thể lộ ra ngoài.”
Hắn cười ha hả để viên ngọc trên bàn, nói:
“Nếu đã không thể đem ra cho mọi người thưởng thức, thế thì thay đổi diện mạo để lại sử dụng vậy, hai vị lão tiên sinh có quen biết vị cao thủ điêu khắc ngọc nổi tiếng nào hay không?”
Lão giới mỉm cười, tuy ở trước mặt đại vương nhưng vẫn tự nhiên đưa tay lên, vuốt bộ râu dài đến bụng của hắn, lưng cũng thẳng hơn. Lão Giang ở bên cạnh cười nói:
“Đại vương, Giới Tông nguyên chính là cao thủ điêu khắc ngọc của nước ta.”
“Ồ?”
Khánh Kỵ bất ngờ nhìn lão Giới một lúc, nói:
“Nếu đã vậy, viên ngọc đẹp này ta sẽ giao cho Giới tiên sinh, xin người hãy thiết kế thật đẹp, điêu khắc nó thành một ngọc tỷ, để làm Trấn quốc chi bảo của nước Ngô.”
Giới Tông Nguyên vừa nghe xong trong lòng kích động, nếu viên ngọc giá trị liên thành này được khắc thành ngọc tỷ, trở thành quốc bảo nước Ngô, vậy tên tuổi của hắn cũng sẽ lưu danh mãi mãi gắn liền với viên ngọc này, đây là mơ ước của biết bao nhiêu người, lão Giang bên cạnh trên mặt cũng đã lộ ra vẻ ngưỡng mộ.
Giới Tông Nguyên vội vàng quỳ lại sát đất, xúc động nói:
“Tiểu dân tuân chỉ, tiểu dân tuân chỉ, không biết Đại vương muốn khắc những chữ gì trên ngọc?”
Khánh Kỵ hít sâu một hơi, cười nói:
“Vậy cũng cần hỏi sao? Đương nhiên là ... Thụ, Mệnh, Vu, Thiên, và Thọ Vĩnh Xương!”
Tôn Vũ nhìn Khánh Kỵ, trong lòng thầm nghĩ:
“Tại sao lại nói đương nhiên?”
Lần đầu đi tuần những cung điện cất giữ nào là vàng bạc châu báu và những món bảo vật khác, trong lòng Khánh Kỵ vui mừng hớn hở, công tử Quang cũng xem như đã vì hắn làm một việc tốt, đã tặng cho hắn một phần lễ hậu đến thế.
Nên biết rằng những người thời này thích tàng trữ đồ quý giá trong thành, và tài sản của một quốc gia đa phần đều được cất giữ ở bên trong thành trì, còn đô thành là nơi tập trung sáu đến bảy phần trong số mười phần tài sản của đất nước, Dĩnh Đô mấy trăm năm nay là đại đô thành của nước Sở vang danh nam phương đệ nhất quốc này, trong thành đã tập trung số lượng lớn tài sản đến nỗi không thể thống kê được, và trong số đó có một phần nhỏ đã được công tử Quang chuyển về nước Ngô.
Nước Ngô bất luận là diện tích biên giới hay là số lượng nhân khẩu, đều thua xa với nước Sở, do đó, số tài sản lớn như thế được dùng tại nước Ngô đúng là vô cùng dư dả, không chỉ có thể giải quyết được nhu cầu nhất thời của nước Ngô, mà nếu như đem toàn bộ tài sản đổi thành hiện kim, thì cho dù nước Ngô hiện tại có dốc toàn lực để phát triển kinh tế nông nghiệp, mua bán thương nghiệp và cả những ngành thủ công nguyên thủy, và có dùng ba mươi năm để tích lũy tài sản đi chăng nữa thì vẫn còn kém rất xa.
Đương nhiên, sự so sánh này chỉ là để đánh giá về giá trị tài sản mà thôi, số tài sản này không đại diện cho sức mạnh thật sự của một nước. Giữa hai điều này có sự khác biệt rất lớn, cũng giống như một thương gia làm ăn buôn bán từng bước từng bước tích lũy được năm trăm vạn gia sản, và một tên đột nhiên trúng giải độc đắc, lĩnh được năm trăm vạn hiện kim, trên bề mặt thì gia sản của hai người này đều như nhau, nhưng nếu luận về thực lực thì sẽ có sự khác biệt lớn. Nước Ngô được số tài sản khổng lồ này cố nhiên sẽ có được bước khởi đầu thuận lợi và tốc độ phát triển nhanh hơn, nhưng lại không thể vì thế mà trong nhất thời lại đòi hỏi cao hơn mục tiêu ban đầu.
Rời khỏi tàng bảo huyệt, Khánh Kỵ nói với Tôn Vũ:
“Trường Khanh, những người Sở này không nên tiếp tục giữ lại trong cung. Số tài sản lớn như thế. Trong quá trình thanh lý, cất giữ, vận chuyển khó lòng mà che được tai mắt thiên hạ, lâu ngày nhất định sẽ lộ tin tức ra bên ngoài. Ngươi hãy mau chóng sắp xếp cho những người Sở rời khỏi, tạm thời sắp xếp ổn thỏa cho họ ở trong quân doanh bên dưới núi Cô Tô.”
Tôn Vũ nghi hoặc hỏi:
“Đại vương không muốn họ biết được chân tướng, hà cớ không nhân lúc họ còn chưa hiểu ất giáp, biến họ thành nhân chứng cho ta, đuổi cổ họ về nước Sở?”
Khánh Kỵ mỉm cười:
“Những người Sở quyền quý này, quả nhân còn có chỗ dùng, nên tạm thời chưa thể cho họ trở về nước Sở được.”
“À…. Ý của đại vương là?”
“Nước Sở, liên minh với nước Ngô ta, chỉ là mối quan hệ lợi và hại nhất thời mà thôi. Không mất bao lâu, hai nước sẽ lại nảy sinh hiềm khích. Nhất là chúng ta lại lấy cớ trong cung bị hỏa hoạn, nuốt trọn số tài sản lớn như thế của nước Sở, tuy người Sở không có chứng cứ, nhưng lẽ nào họ lại ngoan hiền cam chịu khoanh tay đứng nhìn của cải bị mất sao? Cứ cho là không bằng không cớ sẽ không động đến binh đao, nhưng nếu họ trở mặt thì cũng khó lòng mà tránh khỏi.
Người Việt tuy rằng gian xảo, nhưng hiện tại vẫn chưa thể xem là tâm phúc đại họa của ta. Nếu nói về uy hiếp, nước Sở mới là nước thực sự uy hiếp nước Ngô ta, đừng nghĩ nước Ngô ta đã từng được thế như chẻ tre trực tiếp xông vào Dĩnh Đô, trên thực tế thực lực của nước Sở nằm ngoài khả năng của nước Ngô ta. Những người Sở quyền quý này sẽ tạm thời giữ lại, đến khi nước ta và nước Sở có khả năng xảy ra chiến tranh. Lại thả cho họ trở về, lúc đó sẽ thế nào nhỉ?”
Khánh Kỵ ung dung nói:
“Trường Khanh, người thân của những người Sở quyền quý này tất nhiên mong họ có thể sớm ngày trở về, nhưng những thế lực mới thay thế địa vị của họ, lấp vào những chức quan bị bỏ trống do họ bị bắt đi, trong số đó sẽ có bao nhiêu người không hoan nghênh bọn họ trở về. Đến lúc đó, thế lực mới đã có chỗ đứng vững chắc, đã có người ủng hộ và tâm phúc, sức ảnh hưởng của thế lực cũ vẫn còn, nền móng vẫn còn, lại có bao nhiêu đại quyền tâm phúc bị rơi vào tay kẻ khác, hy vọng có thể nhờ những thế lực cũ này để nắm lại quyền bính. Mấy trăm vị quyền quý của nước Sở này một khi về nước, còn lợi hại hơn việc chúng ta phái hơn hai mươi vạn đại quân đi…”
Tôn Vũ như được giác ngộ, khen ngợi:
“Quả nhiên là kế hay. Bao nhiêu mưu kế như thế, Sở Vương lại còn nhỏ tuổi, gian thần hoành hoành, thần đã có thể mường tượng được tình hình của nội bộ nước Sở lúc đó.”
Hai người nhìn nhau, trên mặt lộ nụ cười gian xảo, trong họ thật là tâm ý tương thông.
“Đại vương, nếu đã vậy, thần lập tức đi sắp xếp, đồng thời, cũng phải nghĩ ra một cái cớ hợp lý, để kéo dài thời gian lưu giữ những người Sở ở lại nước ta.”
“Ừm, khanh hãy mau đi làm, cái cớ này cũng dễ thôi, dù cho có kiếm được một cái cớ đầy sơ hở đi chằng nữa, những thế lực mới không mong muốn những người Sở này trở về, cũng sẽ giúp ngươi một tay, ha ha…”
Khánh Kỵ nhập chủ Ngô cung, sau khi đại phong cho quần thần, đã lập tức kiến lập việc thống trị hiệu quả, vỗ về lòng dân, phục hồi sinh sản. Những cựu thần trong triều đều hy vọng có biểu hiện tốt trước mặt tân vương, ai cũng nỗ lực để hoàn thành tốt chức trách, nước Ngô mau chóng trở lại cảnh yên bình, dần dần mất đi ảnh hưởng của chiến loạn.
Hôm nay, Khánh Kỵ và Tôn Vũ đã nhiều lần nghị sự để chuẩn bị cho việc ban bố tân chính của nước Ngô, sau đó hắn rời khỏi cung đến thăm Quý Tôn Tiểu Man và Thúc Tôn Diêu Quang. Hai vị cô nương này hiện đang ngụ tại một phủ đệ cách hoàng cung không xa, quan hệ giữ hai vị cô nương này với hắn nay đã rõ ràng hơn, họ là người để hắn có thể kết liên minh với Tam Hoàn nước Lỗ, một khi đã liên hôn, tất nhiên sẽ tăng cường thêm quan hệ giữa Lỗ và Ngô, phía bắc có thể khống chế nước Tề, rất có lợi đối với mối quan hệ giữa nước Ngô và Đông Di.
Nếu gạt bỏ những nhân tố chính trị, thì hai vị cô nương này trông vô cùng xinh đẹp, đối với Khánh Kỵ lại nhất mực chunh tình, Khánh Kỵ cũng không thể phụ tâm ý của giai nhân. Huống chi Khánh Kỵ nay đã đăng cơ, hậu cung tất nhiên không thể để trống quá lâu. Đối với một vị vua trong số các chư hầu ở thời xuân thu mà nói, hôn nhân chính trị là chuyện khó tránh, về phương diện này, Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man đều không thể lường được, hậu cung của hắn sẽ phải có bao nhiêu công chúa của các nước lớn, tuy hắn yêu Diêu Quang và Tiểu Man, không muốn hai nàng chịu thiệt thòi, nhưng sự sắp xếp thứ tự trong hậu cung lại không thể theo buồn vui cá nhân của hắn được, đây là lợi ích cần thiết của nước Ngô, và cũng là nghĩa vụ mà vua của một nước phải gánh vác.
Lý trí và tình cảm, hai cảm giác này khiến lòng hắn rối như tơ vò. Vả lại, hiện nay Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man đều có thể nói là bỏ nhà ra đi, Khánh Kỵ khó tránh khỏi hiềm nghi là bắt cóc họ. Về phần Thúc Tôn Ngọc càng có chuyện để nói, nay hắn đã là chủ nước Ngô, thiết nghĩ vị lão trượng nhân này sẽ không gây trở ngại cho hắn, nhưng về phần Quý Tôn Tiểu Man thì lại dính líu đến vua Lỗ, Cơ Tống liệu có gây trở ngại cho hắn không, Quý Tôn ý Như là đại thần nước Lỗ, dưới áp lực Cơ Tống sẽ chọn lựa thế nào trước mắt vẫn cũng khó mà dự liệ được. Hiện giờ nếu Khánh Kỵ muốn liên hôn với nước Lỗ, thì không thể cứ giữ họ lại Cô Tô thành, trước khi sính lễ được đưa đi, thì hai vị cô nương phải trở về nước Lỗ mới được, Khánh Kỵ đang nghĩ nên ăn nói như thế nào với hai vị cô nương này đây. Một khi vua Lỗ cố tình làm khó. Thì nên ứng biến ra sao, trong lòng do dự không yên. Trong cái thời xem thiên hạ là nhà, thì giữa nước và nhà, có rất nhiều việc khó có thể phân chia rõ ràng, hậu cung, há cũng chẳng đơn giản là chuyện cưới vài thê tử.
Vừa bước ra nội cung, Khánh Kỵ thấp thoáng thấy một người cách đó không xa đi ngang qua, Khánh Kỵ đang có tâm sự, nên nhất thời không có phản ứng, đến khi bóng người đó đã dần khuất sau một vườn hoa cỏ, Khánh Kỵ chợt tỉnh ra. Vội vàng hô to:
“Thành Tú, Thành Tú!”
Hai tiểu thái giám khoảng chừng mười tuổi đang đi sau hắn, một đứa là Thư Khắc, một đứa là Thân Sinh, hai đứa trẻ này đã hầu hạ Khánh Kỵ nhiều ngày, biết vị đại vương này nói chuyện rất hay, dũng khí của họ cũng lớn hơn. Vừa nghe đại vương hô hoán người đi phía trước. Thư Khắc đã mau chóng chạy lên phía trên, giọng sang sảng kêu:
“Thành đại phu, Thành đại phu, đại vương triệu kiến.”
Thành Tú đang vội vàng bước về phía trước, vừa nghe có tiếng gọi gấp gáp bèn quay lưng lại. Đi theo Thư Khắc đến gặp Khánh Kỵ, vội vàng thi lễ nói:
“Vi thần tham kiến đại vương.”
“Thành khanh miễn lễ!”
Khánh Kỵ mở rộng một tay áo, biểu thị cho hai thám giám lui ra, sau đó nhẹ giọng hỏi:
“Thành Tú, tỷ tỷ của ngươi đến nay vẫn chưa có tin tức gì à?”
“Thành Tú ngẩn người, không nghĩ là hắn lại hỏi tin tức của Tỷ tỷ, ngơ ngác một lúc mới trả lời:
“Vâng, vi thần vẫn chưa nhận được tin tức của tỷ tỷ. Khi vi thần đến nước Sở không lâu, tỷ tỷ cũng đột nhiên rời khỏi Quý phủ, nhưng lại không đến nước Sở, cũng không hề liên lạc với vi thần. Thần cũng đang rất nóng lòng. Thành thị môn hạ phân tán trong các ngành nghề ở khắp các nước, thần cũng đã nhờ họ lưu ý. Cũng không hề có tin tức của tỷ tỷ, hiện nay các nước chiến loạn, trên đường đi đầy nguy hiểm, muốn biết tỷ ấy đi về phương nào e là cũng khó, haizzz…”
Hắn lại thở dài, liếc nhìn Khánh Kỵ, hơi chút do dự nói:
“Nhưng xin đại vương đừng quá bận tâm, bên cạnh tỷ tỷ có mang theo rất nhiều dũng sĩ… có lẽ không xảy ra chuyện gì. Hoặc giả… sẽ mau chóng nhận được tin tức của tỷ ấy.”
Trong lòng Khánh Kỵ như lắng xuống, dường như có những dự cảm không hay. Tuy nói rằng giữa các nước liên tục xảy ra chiến loạn, đường đi đầy nguy hiểm, nếu là bá tánh bình thường, trong tình hình này di chuyển qua lại giữa các nước, đừng nói là đi trong vài tháng, đi hơn một năm trời vẫn không lấy gì làm lạ, nhưng Thành Bích phu nhân há lại không thể so với bá tánh bình thường được sao? Nàng ấy rời khỏi nước Lỗ, tất nhiên là phải che giấu tung tích, để tránh người khác biết được nàng ấy đang ở đâu. Theo như Thành Tú nói, Thành Bích lập kế hoạch trên đường trở về Khúc Phụ, đã bị loạn phỉ giết, sau đó Thành Bích của Quý thị sẽ mãi mãi biến mất trên đời này, nàng ấy sẽ lặng lẽ đến đây để gặp ta. Nhưng đã qua một thời gian dài, tại sao vẫn chưa có tin tức gì của nàng ấy, cho dù nàng ấy có ngày nghỉ đêm đi, để che dấu tung tích, người khác không biết tung tích của nàng, cũng không lý nào nàng ấy che giấu cả đối với của tiệm của mình, cứ cho là tất cả vì an toàn, không lẽ nàng ấy che dấu đối với thuộc hạ tâm phúc sao, cũng nên thông qua họ đưa tin báo bình an cho ta, cho Thành Tú chứ?
Trong lòng Khánh Kỵ bắt đầu hoang mang, Thành Bích phu nhân diện mao xinh như hoa, trời sinh kiều diễm, lại thêm nàng ấy che dấu tung tích để chạy trốn, tất nhiên sẽ đem theo một ít kim ngân châu báu trong người, chẳng lẽ lại lộng giả thành chân, đã thật bị một toán loạn phỉ…, cũng có thể nàng ấy giả chết để thoát thân, và thị vệ bên cạnh lại nổi lòng tham, đối với nàng ấy…
Khánh Kỵ nhất thời lòng rối như tơ vò, Thành Tú cũng mặt đầy băn khoăn, nhưng khi thấy bộ dạng hoảng loạn của Khánh Kỵ, bèn an ủi hắn, nói:
“Đại vương đừng quá lo lắng. Tỷ tỷ túc trí đa mưu, thị vệ bên cạnh đều là tâm phúc nhiều năm, đối với tỷ ấy một lòng trung thành, theo thần nghĩ, tỷ tỷ nhất định sẽ không xảy ra chuyện gì, nay đại vương mới nhập chủ Ngô cung được hơn mười ngày, thần nghĩ, tỷ tỷ hay tin nhất định sẽ mau chóng đến đây.”
“Mong là vậy…”
Khánh Kỵ thở dài:
“Tình hình hiện nay, muốn chủ động đi tìm tung tích của nàng ấy cũng sẽ không biết nên bắt đầu từ đâu. Nhưng nếu nàng ấy cũng không biết nên bắt đầu từ đâu. Nhưng nếu nàng ấy có tin tức gì, chắc chắn sẽ liên lạc với ngươi, nếu nhận được tin của nàng ấy, ngươi phải lập tức báo cho quả nhân.”
“Vâng, vi thần tuân lệnh.”
“Uh, khanh lui được rồi. Đúng rồi, ngươi đang đi đâu thế?”
Thành Tú lại vội vàng thi lễ đáp:
“Thần phụng mệnh của tướng quốc đại nhân, nhập cung để kiểm định một số châu báu, chuẩn bị chuyển sang các nước bán.”
“À, khanh cứ đi tiếp đi.”
Thành Tú lại vái chào, rồi gấp rút rời khỏi.
Khánh Kỵ lại nghĩ đến việc tung tích của Thành Bích chưa rõ, trong lòng nặng trĩu, những suy nghĩ khủng khiếp bắt đầu xuất hiện trong đầu hắn, khiến hắn tâm trí rối bời. Đi khỏi cửa cung ngồi lên xe ngựa, đột nhiên trong lòng Khánh Kỵ chợ nảy ra một suy nghĩ kỳ lạ:
“Không đúng, bình thường nói chuyện phiếm cùng Thành Tú, nghe hắn kể chuyện của Thành gia, tên Thành Tú này là người hay thẹn thùng, năng lực có hạn, tuyệt đối không phải là một nhân vật lợi hại, cũng không thuộc hạng người mạnh vì gạo, bạo vì tiền, Thành gia có được sản nghiệp lớn như thế, có thể nói là do một tay Thành Bích kinh doanh mà nên. Tên Thành Tú này nếu không phải là thân phận đệ đệ của nàng ấy, thì với năng lực của cá nhân hắn, ngay cả làm một nhân tài kinh thương hắn cũng không thể làm nổi. Nếu Thành Bích mất tích một thời gian lâu như thế. Nhất là trong thời buổi chiến loạn này, sản nghiệp của Thành gia muốn duy trì liên lạc và kinh doanh bình thường, dựa vào năng lực của Thành Tú làm sao có thể làm được như thế?
Đó là điểm thứ nhất, điểm thứ hai là, vì Thành Bích mới là trụ cột của Thành gia, đồng thời Thành Tú cũng biết quan hệ yêu đương giữa ta và tỷ tỷ hắn, có thể nói sự nghiệp của Thành gia và cả tiền đồ của cá nhân Thành Tú, đều phải dựa vào sự tồn tại của Thành Bích. Nay khi ta nghe nói Thành Bích tung tích chưa rõ, trong lòng đã lo lắng sợ sệt, khó lòng mà cười nổi, vì sao Thành Tú lại có thể ung dung như thế, không có vẻ nóng lòng?”
Nhưng mà, bên trong chắc chắn có gian kế! Khánh Kỵ nghĩ lại tình hình Thành Tú và hắn đối đáp vừa rồi, và cả những biểu hiện gần đây của hắn, càng nghĩ càng thấy nghi vấn. Nếu Thành Bích đã có liên lạc với Thành Tú, vậy thì tại sao nàng ấy lại không vội đến đây để hội ngộ cùng ta? Người nữ nhi như nàng ấy, một khi đã động chân tình, thì có thể biến biển sâu thăm thẳm thành núi lửa hừng hực cháy. Nàng ấy đã cố tình không đến gặp ta, trong việc này…
Khánh Kỵ chớp mắt. Trên mặt bỗng lộ ra nụ cười đầy hứng thú, từ biểu hiện giấu đầu lòi đuôi của Thành Tú, hắn thật không tin Thành Bích đã gặp chuyện bất trắc, con hồ ly tinh chín đuôi xảo quyệt này không biết đang tính giở trò gì đây? Khánh Kỵ nóng lòng chờ tiếp chiêu đây…
“Diêu Quang…”
Khánh Kỵ bước vào phòng của Thúc Tôn Diêu Quang. Nhẹ giọng gọi.
Trong lòng không ai trả lời, Khánh Kỵ bước ra sau bức bình phong, thi thấy Thúc Tôn Diêu Quang đang ngủ trưa, trên người đắp một chiếc áo mỏng, hai má đỏ hây hây, tóc thề xỏa ra, vô cùng xinh đẹp, tiểu ni tử này ngủ cũng rất say.
Khánh Kỵ nhìn thấy, bèn bước nhẹ chân, đi tới ngồi bên cạnh nàng ấy. Áo lụa hoa. Gấm có mùi hương. Áo đẹp hoa lệ, chiếc khăn mỏng không thể giấu nổi thân hình mỹ miều của nàng. Thân hình nàng trông như ngọn núi xa được mây bao phủ, tuy không thể nhìn thấy rõ đỉnh núi, nhưng lại mê hoặc lòng người.
Trong không khí phảng phất hương thơm thường có trong khuê phòng của nữ nhi, Khánh Kỵ nhẹ nhàng cầm lấy đôi tay nàng, trên môi nở nụ cười ấm áp, từng ngón tay nàng vừa dài vừa mềm mại, mang theo hơi ấm của cơ tể, nhè nhẹ tỏa hương trên người nàng, mùi hương thật làm say lòng người, Khánh Kỵ nhất thời như chìm đắm trong mùi hương dịu dàng hiếm có này.
“A? Đại vương đã đến.”
Thúc Tôn Diêu Quang đột nhiên tỉnh giấc, vừa mở mắt đã nhìn thấy Khánh Kỵ, bèn xoay người ngồi dậy, Khánh Kỵ vội gữ đôi vai thon thả của nàng lại:
“Không cần hành lễ đâu, nàng cứ như thế. Khi chỉ có ta với nàng, nàng thích gọi ta thế nào thì cứ gọi, ta không xưng là quả nhân, nàng cũng đừng gọi ta là đại vương.”
“Sao có thể vậy được, tôn ti trật tự nó có quy luật, đại lễ quân thần không thể xem nhẹ được.”
Thúc Tôn Diêu Quang mặt ửng đỏ nói. Gặp Khánh Kỵ trong tình cảnh này, có vẻ như không được quang minh chính đại cho lắm, khiến nàng có chút không thoải mái. Khánh Kỵ nhẹ cười:
“Ồ? Theo như nàng nói thì, chuyện hành phòng của phu phụ cũng phải làm theo lễ chế sao? Vậy thì còn gì là thú vui nữa?”
“Đại vương…”
Thúc Tôn Diêu Quang mắng yêu một tiếng, nắm lấy đôi bàn tay đang đặt trên ngực nàng, đôi môi khẽ động, dở khóc dở cười liếc nhìn Khánh Kỵ.
Khuôn mặt tú lệ như thế, bỗng nhiên ngón trỏ của Khánh Kỵ bị đau, hắn kêu lên:
“Diêu Quang trong mắt không có quân vương, dám động thủ với cả quả nhân, ừm… nhất định phải phạt.”
Thúc Tôn Diêu Quang chớp chớp đôi mắt, nhỏ nhẹ đáp:
“Đại vương muốn trừng phạt thiếp như thế nào?”
“Ha ha, cái này là nàng tự làm tự chịu nhé, không thể trách Khánh Kỵ được nhé.”
Khánh Kỵ cười, đột nhiên chống tay xuống giường, nhoài người qua hôn nàng.
“Ơ…”
Đôi mắt long lanh của Thúc Tôn Diêu Quang khẽ mở to rồi nhanh chóng dịu lại, sau đó mặt nàng đỏ gay trông như người đang say rượu, nàng khép lại đôi mắt, trước tiên là bị động để Khánh Kỵ hôn lên đôi môi nàng, sau màn dạo đầu khiêu khích đó, Thúc Tôn Diêu Quang ưỡn ngực phát ra một tiếng rên uyển chuyển du dương, tiếng rên đó như thấm vào tận xương tủy, khiến lòng người phơi phới, liền sau đó, đôi tay mềm mại yêu kiều của nàng chủ động nắm lấy cổ tay của Khánh Kỵ, nhẹ nhàng như cánh hoa từ từ nằm xuống…
Last edited by _Gàviệttrì_; 22-04-2011 at 09:13 PM.
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của kedochanh