Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua
Chương 245: Mỗi người một âm mưu
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
Câu Tiễn, tuy đã nghe danh từ lâu, nhưng trước nay vẫn không được một Khánh Kỵ bận rộn phục quốc này liệt vào hàng đối thủ. Hắn và tên danh nhân lịch sử này chỉ là gấp gáp gặp mặt nhau một lần, thậm chí đến ngay cả một câu đối đáp với hắn cũng chưa kịp nói, thì đã chịu một kiếm của hắn, hiểm đến nỗi suýt mất cả mạng, và con người này, lại sắp xuất hiện ngay trước mặt hắn.
Khánh Kỵ biết rất rõ, thực lực của Câu Tiễn và nước Việt chưa từng vượt trên nước Ngô, mặc dù theo như lịch sử ghi lại, nước Ngô đã bại dưới tay hắn. Hắn đã dùng hai mươi năm để bồi dưỡng và phát triển, đã dùng hai mươi năm để ủng hộ và mê hoặc Phù Sai đi khai chiến khắp nơi, làm tiêu hao sức nước, sau cùng vẫn là dùng kế điệu hổ ly sơn và tập kích Cô Tô mới có thể một bước quyết định thắng bại.
Giá như năm xưa Phù Sai không kéo hàng vạn binh tinh nhuệ đến Hoàng Trì để tranh đoạt bá chủ thiên hạ; Giá như Câu Tiễn không nhờ mưu kế mà tập kích chiếm lĩnh Cô Tô; Giá như Phù Sai khi phóng thích cho Câu Tiễn về nước, có thể như các quân vương khác ràng buộc khống chế nước lệ thuộc, từ đầu đến cuối có thể khống chế quân sự và ngoại giao của nước Việt trong tay, vậy thì cho dù Câu Tiễn có tiếp tục nhẫn nhịn, cho dù có những hiền thần Phạm Lãi và Văn Chủng giúp hắn bày mưu tính kế, thì nước Việt vẫn chẳng làm gì được nước Ngô. Ngay từ vị trí địa lý của nước Việt, ông trời cũng đã sớm hạn chế sự phát triển sức nước của nó, cho dù có quân thần Tôn Vũ dưới trướng của hắn chăng nữa, và chỉ cần Phù Sai không ra hôn chiêu, hắn cũng chẳng nghịch được ý trời.
Tất cả, chỉ là giá như, nay đối thủ của hắn không còn là Phù Sai nữa, mà là ta. Cứ cho rằng Câu Tiễn nếm mật nằm gai ngay từ cái ngày mà hắn mới được sinh ra, còn có tác dụng gì nữa chứ ? Mép môi Khánh Kỵ nhếch lên mang theo đó là một nụ cười lạnh lùng…
Khi Câu Tiễn lên điện, nhìn thấy bộ dạng này của Khánh Kỵ. Hắn ngồi trên ngai vàng, mình mặc vương bào, hàng rèm châu của vương niệm rũ xuống đến tận môi trên, phần môi trên có lông tơ, ẩn hiện nụ cười lạnh lùng, có khí phách oai nghiêm nhưng lại không có vẻ giận dữ. Câu Tiễn đứng trước mặt hắn, mình mặc một chiếc áo dày, đầu đội ngọc quán, tay áo phất phơ, cũng có sự oai nghiêm của kẻ đã từng ngồi ở địa vị cao lâu ngày. Thần sắc lại mờ mờ ảo ảo lộ ra một chút nham hiểm.
Câu Tiễn nói xong bèn cất bước tiến lên trước, thi lễ vái lạy Khánh Kỵ một cách long trọng nhất. Quân thần trong thời này, trừ phi vào những dịp đại lễ long trọng, bằng không thì khi gặp quân vương chỉ cần vái một vái, và không nhất thiết phải hành lễ quỳ bái. Nước Việt trên danh nghĩa là nước lệ thuộc vào nước Ngô, Câu Tiễn thân là thái tử của ngoại thần, càng nên được nước Ngô đối đãi rộng lượng hơn, hắn không cần thiết hành đại lễ này, với việc hành lễ của Câu Tiễn, chúng thần hai bên ở trên điện vốn thờ ơ lạnh nhạt liền có chút xôn xao, thái độ thù địch đối với hắn cũng đã giảm đi nhiều.
Trong mắt Khánh Kỵ lộ ra một chút hài lòng, so với những hành vi mà Câu Tiễn đã từng làm đối với Phù Sai, và những hành vi ngày hôm nay của Câu Tiễn cũng chỉ là những điều nhỏ nhặt mà thôi. Đương nhiên, Câu Tiễn lúc đó có nỗi đau mất nước, Phù Sai có mối thù mất cha, đối lập giữa hai bên cũng thêm sâu đậm. Do đó Câu Tiễn không thể không làm quá hơn nữa, để có thể lấy được lòng tin của Phù Sai.
Ánh mắt của Khánh Kỵ ẩn sau bức rèm châu, chăm chú nhìn nhất cử nhất động của Câu Tiễn. Đối với hạng người như Câu Tiễn, hắn không dám có chút xem thường. Công bằng mà nói, về phương diện trị quốc, Phạm Lãi và Văn Chủng đích thực là nhân tài bậc nhất, nhưng về phương diện chính trị, mưu kế, họ chẳng thể nào làm nổi thầy của Câu Tiễn, mà có làm một học sinh cũng e là theo không kịp hắn. Câu Tiễn đến nước Ngô làm con tin ba năm, Phạm Lãi cũng đi theo hầu hạ hắn. Thân là thần tử, hắn có thể khuyên đại vương nhẫn nhịn, nhưng những kiến nghị để đại vương hiến Vương Hậu cho Phù Sai hưởng lạc, và nếm phân cho Phù Sai để làm hắn vui lòng này không thể xuất phát từ miệng của Phạm Lãi, mà nhất định là chủ ý của Câu Tiễn. Câu Tiễn ở nước Ngô ba năm, Văn Chủng thay hắn lo cho nước Việt, gần hai mươi năm kể từ khi hắn về nước, lại là Phạm Lãi, Văn Chủng lo liệu mọi việc trong nước cho hắn, nhưng một khi phạt Ngô thành công, Câu Tiễn muốn giết họ chỉ cần cho người mang đến một thanh bảo kiếm lệnh cho họ tự sát, hoàn toàn không lo lắng rằng có những lực lượng trung thành với họ sẽ tạo phản, hoặc giả có vị đại thần nào đó sẽ phản đối. Có thể thấy rằng từ đầu chí cuối hắn đều nắm chặt quân quyền và chính quyền trong tay, người như hắn, tuyệt đối không phải tầm thường.
“Câu Tiễn !” Khánh Kỵ lên tiếng, trên đại điện yên lặng đến độ một cây kim rơi xuống cũng có thể nghe được rõ ràng, giọng nói sang sảng của Khánh Kỵ âm vang khắp mọi ngóc ngách.
Câu Tiễn lại cúi vái một vái, đầu lại thấp hơn vài phân: “Có tội thần.”
“Ngươi có tội gì ?”
“Tội của thần, có ba tội.”
“Nói thử ta nghe xem.”
“Thần thân là hạ quốc thái tử, nên phụng dưỡng hầu hạ Ngô Vương bệ hạ, thế mà lại không biết thời thế, bị nghịch thần nước Ngô lừa gạt, nên đã dám làm cờ hiệu cần vương, kéo quân đến biên giới, đối địch với vương sư. Đó là tội thứ nhất.” Câu Tiễn ngay thẳng mà nói. Quần thần hai bên lắng nghe, và cũng không ngừng quan sát sắc mặt của Khánh Kỵ. Tấm rèm châu đã che đi khuôn mặt của hắn. Bức rèm châu trĩu xuống từ vương niệm không hề lay động, cũng không thể thấy rõ sắc mặt của Khánh Kỵ
“Trận chiến ở Ô Trình, Câu Tiễn và Phù Sai liên thủ, đã dẫn một đội võ sĩ bao vây đại vương, nhân lúc địa vương lực còn suy yếu. Điều may mắn là chỉ khiến đại vương bị thương. Đấy là tội dĩ hạ phạm thượng, và cũng là tội thứ hai.”
Khánh Kỵ nghe từng từ hắn nói, đúng là ỷ đông hiếp cô, ỷ vào việc có mặt nhiều người mới nói là may mắn chỉ khiến ta bị thương, giữ thể diện cho ta, không kềm được hắn cười ha ha: “Lúc đó Phù Sai mới là chủ của nước Ngô, ngươi trợ giúp hắn, âu cũng hợp tình hợp lý. Quả nhân bị thương cũng đã bị rồi, không cần dùng lời hay mà che giấu.”
“Vâng vâng, tội thần đa tạ đại vương đã rộng lòng khoan dung. Đại vương nhập chủ Ngô cung cho đến nay, tội thần một là không kịp thời đến triều kiến, hai là không vào Ngô để thỉnh tội, thật không biết tự lượng sức mình, lúc nào cũng nghĩ mình gặp may, cho đến khi đại quân của đại vương kéo đến sát biên giới, trong lúc đó, mới bàng hoàng kinh sợ, mà đến yết kiến đại vương, đây là tội thứ ba.”
Sắc mặt Khánh Kỵ lạnh lùng, trầm giọng hô to: “Câu Tiễn, ngươi đã biết có tội, lại còn dám đến triều tấn kiến, không sợ quả nhân sẽ giết ngươi sao ?”
Câu Tiễn sắc mặt không đổi, cúi đầu than thở đáp: “Câu Tiễn tự biết thân mang tội chết, nay tội thần đáng chết vạn lần xin được quỳ dưới chân đại vương, cam chịu mọi trừng phạt của đại vương. Câu Tiễn chết không đáng tiếc, chỉ cầu mong cho đại vương, khoan dung độ lượng đối với người Việt, cho dù thần có chết chín lần, cũng sẽ ngậm cười nơi cửu tuyền.”
Câu Tiễn nói xong ung dung ngẩng đầu lên, rút cây ngọc trâm, cởi bỏ ngọc quán, sau đó cởi cả áo bào, chỉ còn mặc một chiếc áo bằng vải bố. Cởi bỏ xiêm y xoã tóc, trông hình dạng như một phạm nhân, rồi lại tiếp tục quỳ lạy.
Trong nhất thời, trên đại điện im ắng vô cùng, chỉ nghe những tiếng thở nặng nề. Khánh Kỵ ngồi yên không động đậy, đôi mắt khẽ trĩu xuống, chăm chú nhìn tên Câu Tiễn đang quỳ mọp dưới đất không dậy.
Tôn Vũ thân là đứng đầu văn thần, đứng bên phải trên cùng, con ngươi hắn chuyển động, ra hiệu cho Anh Đào đứng ở đối diện, Anh Đào từ sớm đã nóng lòng muốn nói, nên khi thấy hắn ra hiệu, lập tức bước lên tâu: “Khải bẩm đại vương, Câu Tiễn đã trợ giúp Phù Sai, Phù Khái, trước là đối địch với đại vương, sau là gây nên vết thương chí mạng cho đại vương ta, nay tuy đã đến thỉnh tội, nhưng tội không thể dung, theo lý nên xử trảm, để lấy đó mà làm tấm gương xấu.”
Đôi mắt Khánh Kỵ có sự vui mừng liếc nhìn hắn, vui vẻ nghĩ: “Tên ranh này, muốn học theo Ngũ Tử Tư sao, may là quả nhân không phải Phù Sai, nhắc đến Phù Sai… đúng rồi, tên Tiểu nha đầu Thi Di Quang bây giờ cũng không biết thế nào rồi, lịch sử đã có biến đổi, Câu Tiễn chắc sẽ không đưa nàng ấy đến nước Ngô ? Tiểu nha đầu này, đúng là mỹ nhân trời sinh, chỉ là tuổi tác có hơi nhỏ. Cho dù muốn dùng mỹ nhân kế, cũng phải mất năm hay sáu năm nữa, mà lại chẳng biết lúc này tiểu nha đầu đó đang ẩn thân nơi đâu…, Quả nhân đã phí nhiều công sức, cũng không tìm ra được, cũng chẳng biết cả nhà họ Thi ấy thế nào rồi…”
Khánh Kỵ nhất thời thất thần, tâm tư không biết đã bay bổng đến nơi nào, chúng thần trên đại điện đều đang chăm chú nhìn sắc mặt của Khánh Kỵ, nay tâm phúc trọng thần của hắn là Anh Đào, đã ra mặt xin được xử tử Câu Tiễn, Khánh Kỵ lại im lặng không nói không rằng, trên điện lúc này có nhiều đại thần tự cho rằng đã đoán được tâm ý của Khánh Kỵ, nghĩ rằng hắn không muốn giết Câu Tiễn, để lại tiếp tục gây chiến với nước Việt. Thế là Phù Công đại phu lập tức giành trước tiến lên một bước, chấp tay nói: “Đại vương, người xưa có câu, chu hàng sát phục, hoạ đến tam kiếp. Nay Câu Tiễn với danh nghĩa là thái tử nước Việt đã trút bỏ xiêm y, cởi bỏ ngọc quán mà thỉnh tội, tuy là có tội, nhưng tội không đáng chết, đại vương hồng ân, hà cớ không tha hắn một mạng, như vậy người Việt sẽ càng cảm kích trước ơn đức của đại vương, thuận lòng quy phục, và cũng là thể hiện oai nghiêm của đại vương ta.”
Khánh Kỵ nhẹ nhàng đưa tay, về phía không trung, Phu Công lập tức im lặng, Khánh Kỵ phẩy nhẹ tay, Anh Đào và Phu Công đều lui về vị trí cũ, Khánh Kỵ từ từ bỏ tay xuống, nhè nhẹ gác tay trên tay vịn của vương toạ, rồi lại nhẹ nhàng nắm chặt lại.
“Nước Việt, sớm muộn gì ta cũng sẽ đánh. Muốn được thiên hạ, thì cần ổn định hậu phương trước, nước Việt là con rắn độc trong bụng ta, nhất định phải trừ khử. Nhưng đây có phải là thời cơ thích hợp mà dụng binh với nước Việt không ? Hạng người như Câu Tiễn, bây giờ giết hay không giết ? Nếu muốn trừ khử hắn, cũng không có gì trở ngại. Dù cho công khai giết hắn không thành, chỉ cần giam lỏng hắn ở nước Ngô, để tìm một cơ hội cho hắn bệnh chết cũng có thể được. Chỉ là… nếu như vậy, chẳng qua cũng chỉ là lấy vải thưa mà che mắt thánh. Việt vương Doãn Thường sẽ cứ bất chấp tất cả mà tạo phản.
Vấn đề lương thực của mùa thu năm nay và mùa xuân sang năm vẫn chưa được giải quyết, trong nước đang cần bỗi dưỡng phát triển. Nước Sở là bạn hay thù trong nhất thời vẫn chưa biết được, vấn đề Đông Di cũng nên nhân lúc có áp lực của người Tề đang xâm lược phía nam mà sớm giải quyết, lúc này nếu khai chiến với nước Việt, thì sẽ ra sao ? Với sức của nước Ngô, đánh trận này chẳng thành vấn đề, vấn đề là làm sao thu xếp tàn cuộc.
Với sức mạnh trước mắt của ta, chỉ có thể đánh bại nước Việt chứ không đủ sức giành được nước Việt, một khi Doãn Thường dẫn quân chạy vào trong núi sâu đánh du kích với ta, có thể ta sẽ giống như quân Mỹ đã lún sâu vào vũng lầy chiến tranh Việt Nam, vấn đề là hiện nay quốc nội chưa ổn định, thiên hạ vẫn còn loạn, cũng không có tài lực phong phú như những nước khác, một khi đã lún vào chiến trường của nước Việt, ta có thể đánh nổi, nhưng lại không chi tiêu nổi.
Hơn nữa, thế giới ngày nay, đạo nghĩa vẫn rất được xem trọng, có nhiều lúc nó quả thật có thể làm xuất hiện những sức mạnh to lớn. Hơn trăm năm trước, binh lực của Tấn Huệ Công nhiều hơn gấp đôi so với binh lực của nước Tần, kết quả lại bị thua tả tơi hoa lá trong tay của nước Tần, chính là do hắn nói không giữ lời, nói nhưng không nói, thế là tam quân của hắn ngại ngùng khi giao đấu với nước Tần. Nay ta muốn làm nước Ngô giàu mạnh, ngoại trừ không ngừng tăng cường thực lực bản thân, cũng cần tạo dựng hình tượng của nước Ngô trong mắt các nước chư hầu khác.
Câu Tiễn đã đánh trống khua chiêng vào nước Ngô, đã bày ra màn kịch này, cho dù lúc trước hắn có bao nhiêu tội, nhưng nay về mặt đạo nghĩa hắn đã nắm chắc trong tay, nếu ta tuỳ tiện giết hắn thì các nước chư hầu sẽ xem ta như thế nào ? Huống chi âm mưu nguy hiểm vạn phần này, năm xưa mượn miệng của Bá mà hắn dựng Hạp Lư di mệnh cờ hiệu, thế thì hắn không những không tạo phản, mà ngược lại là trung thần của nước Ngô, cả thiên hạ đều cho rằng nước Việt nhỏ bé, không chịu nổi một đợt tấn công của nước Ngô, Câu Tiễn lại chơi thêm khổ nhục kế, nếu thật giết hắn thì sao ? Chỉ riêng nước bọt người đời thôi cũng đủ dìm chết người, thật khốn khiếp, quả là chó cắn phải nhím, không biết nên bắt đầu từ đâu.
“Nếu ngươi đã đến thỉnh tội, cớ sao không bắt nghịch thần Bá đến gặp quả nhân ?”
“Đại vương, Bá đã đến rồi.”
“Ồ, thế hắn đâu ?”
“Hồi bẩm đại vương, Bá đã chết, tội thần đã mang đến thủ cấp của hắn, vì sợ thối rửa, nên đã dùng vôi bọc lại, cất giữ trong hộp, nay thủ cấp đang ở ngoài điện, đại vương có thể cho người kiểm tra.”
Trong điện lập tức nhốn nháo cả lên, Khánh Kỵ khẽ khép đôi mắt lại, hỏi: “Ngươi đã giết hắn ?”
Câu Tiễn cúi thấp đầu xuống, cao giọng đáp: “Tội thần không dám, Bá sau khi say rượu đã lỡ lời, nói ra chân tướng, tội thần một lòng muốn bắt Bá đến thỉnh tội với đại vương. Không ngờ, Bá tự biết tội nghiệt nặng nề, sợ phải chịu hình phạt cắt da xẻ thịt, nên đã nhân lúc mọi người chưa kịp chuẩn bị đã tự vẫn mà chết, thần không còn cách nào khác, đành mang thủ cấp của hắn đến thỉnh tội với đại vương.”
Khánh Kỵ ngớ người ra, dần dần cười lớn: “Tự vẫn ? Chết hay lắm ! Chết rất hay ! ha ha ha…”
Khánh Kỵ đứng hẳn dậy, từng bước bước xuống bậc tam cấp. Câu Tiễn đang quỳ mọp bên dưới, chỉ đành lê gối mà lui xuống, Khánh Kỵ dừng lại, hắn lại vội vàng cúi thân thấp xuống, trán hắn chạm vào mũi hài của Khánh Kỵ. Khánh Kỵ cúi thấp đầu, nhìn chiếc cổ dài của hắn, dường như có cảm giác chán ghét.
Phù Sai tuy tàn bạo, nhưng trong lòng Khánh Kỵ vẫn là một đại trượng phu. Còn tên Câu Tiễn này, hễ gặp hắn, là Khánh Kỵ có cảm giác như gặp phải rắn độc, một sinh vật thân mềm bò sát, ướt át, loè loẹt sặc sỡ nhưng độc ác. Còn cái gọi là đại trượng phu ? Cho dù có bất chấp thủ đoạn hơn nữa, mất nguyên tắc làm người thế nào đi chăng nữa, chỉ cần hắn thực hiện được việc báo thù, vậy cũng được coi là đại trượng phu sao ?
Không sai, đại trượng phu mà muốn sống trong đời này là phải lập nên sự nghiệp, nhưng điều đó không có nghĩa là sự nghiệp cao hơn tất cả, thâm chí cao hơn cả tình thân, tôn nghiêm và nhân cách con người. Nếu phải hy sinh tất cả những thứ đó, để tự biến mình thành một con dã thú không có gì là không bỏ qua.
Vì đạt được mục đích, bất chấp thủ đoạn, hoặc giả cũng là triết lý nhân sinh của một số người thành công. Nhưng, tất cả những gì đạt được đều có cái giá của nó, đó là logic của cuộc sống. Một người vô tình vô nghĩa, ngoại trừ cái gọi là thành tựu của hắn, hắn còn có gì nữa chứ ?
Khánh Kỵ cười, nụ cười có vẻ tàn nhẫn. Tiếc là tên Câu Tiễn đang quỳ dưới chân hắn lại không nhìn thấy vẻ sắc bén trong ánh mắt của hắn: “Bỉ ổi là giấy thông thành cho những kẻ bỉ ổi, cao thượng là những gì được khắc trên mộ của những kẻ cao thượng à ? Thế sự không có gì là tuyệt đối ! Cho dù ngươi không tiếc bỏ cả tự tôn và nhân cách để mưu cầu được chút thành tựu, ta cũng sẽ đoạt lấy nó từ trong tay ngươi. Khánh Kỵ không phải là Phù Sai, ta sẽ không để cho tiểu nhân đắc ý, đến cùng người sẽ không làm nên chuyện gì cả !”
Khánh Kỵ nhìn Câu Tiễn, Câu Tiễn trong lòng lo ngay ngáy, qua hồi lâu, Khánh Kỵ mới thản nhiên cười: “Câu Tiễn, ngươi đứng dậy, nếu chỉ có mình người, thì chết không đáng tiếc. Quả nhân niệm tình hàng ngàn hàng vạn bá tánh hai nước Ngô Việt, miễn cho ngươi tội chết.”
Câu Tiễn len lén thở dài nhẹ nhõm, vội vàng tạ ân nói: “Tội thần được hậu ân của đại vương, mới bảo toàn mạng hèn này, thần thật đáng hổ thẹn. Tội thần Câu Tiễn xin dập đầu tạ ơn.” Nói xong lại dập đầu ba cái, rồi mới đứng dậy.
Nụ cười trên mặt Khánh Kỵ vụt tắt, trầm giọng nói: “Nhưng… tội chết có thể miễn, tội sống khó tha. Ngươi nhân lúc quả nhân trong nước có loạn, ngang nhiên chấn hưng quân ngũ, giết bá tánh và binh sĩ ta, tội này há có thể xem nhẹ sao ? Nay lo sợ trước quân uy, lại đến xin hàng, quả nhân nếu cứ thế thả ngươi về nước, há chẳng phải là phi nhân nghĩa ân đức với nước ta, mà còn bạc đãi các con dân tướng sĩ nước Ngô ta sao.
Câu Tiễn không dám ngẩng đầu, vội vàng khom lưng, thấp giọng nói: “Tội thần xin được nghe đại vương căn dặn.”
Khánh Kỵ nhè nhẹ gật đầu, rồi đột nhiên xoay người, từng bước bước lên bậc tam cấp, đến trước vương tọa bèn quay người ngồi xuống, bức rèm châu trước mặt lạo xạo vang lên rồi lại thôi, lại tiếp tục đung đưa nhè nhẹ.
“Nước Ngô và nước Sở do tranh nhau rừng dâu mà nổi chiến tranh, chinh chiến nhiều năm nay, không hề ngơi nghỉ. Từ khi Công Tử Quang giết vua soán vị, lại thêm loạn trong nước, chiến sự liên miên, đến nay mới dứt, bá tánh lưu lạc khắp nơi, ruộng đất bỏ hoang, người dân không có kế sinh nhai. Còn nước Việt ngươi thừa cơ gặp nạn mà đi cướp bóc, tội này không nhẹ, nay chỉ có thể lấy công chuộc tội, lại có thể tránh nạn binh đao.”
Câu Tiễn cúi đầu đáp: “Không biết đại vương có căn dặn gì, nếu trong khả năng của tội thần, thần quyết không chối từ.”
Khánh Kỵ chớp mắt, nói: “Nay người Ngô vì chiến loạn liên miên, không có người trồng trọt, ngũ cốc năm nay không đủ, thu năm nay và xuân sang năm, đã có dấu hiệu thiếu lương thực, vạn dân chịu đói. Nước Việt là thuộc quốc của ta, lại đang mang trọng tội, về tình về lý, cũng nên ra tay trợ giúp. Quả nhân muốn mượn của ngươi vạn thạch lương, ngày sau khi lương thực nước Ngô đã đầy đủ sẽ trả lại cho ngươi, ngươi thấy thế nào ?”
Câu Tiễn kinh ngạc, hoảng hốt nói: “Đại vương có lệnh, tội thần không dám không tuân theo, có điều… có điều là vạn thạch lương thảo, nước Việt ta nghèo nàn, nên chẳng biết xoay sở từ đâu, tội thần không dám vì cầu được miễn xá, mà tùy tiện hứa với đại vương, để rồi lại phạm tội khi quân. Người Việt nghèo khổ, trong dân gian còn có nhiều bá tánh không lo nổi cơm ăn áo mặc, vạn thạch lương thảo, thật là… thật là nước Việt không đảm đương nổi, xin đại vương khai ân.”
Khánh Kỵ cười ha ha nói: “Muốn lấy những lời trống rỗng này mà lừa dối quả nhân sao ? Nước Việt nghèo khổ à ? Nước Việt là nước giàu nhất trong thiên hạ, trong dân gian vẫn có bá tánh không lo nổi cơm ăn áo mặc và lưu lạc khắp nơi sao. Dân tuy nghèo khó, nhưng nước Việt mấy năm nay đều an phận ở phía Đông Nam, có nước Ngô ta là bức bình phong để bảo vệ, rất ít có chiến loạn phân tranh, chỉ là một ít lương thảo, chẳng lẽ phủ khố nước Việt cũng chẳng lo nổi sao ?”
Câu Tiễn lại bái, nài nỉ cầu xin, lại than vãn kể khổ, Khánh Kỵ đã không tiện ra mặt, Tôn Vũ từ sớm đã bước ra cùng hắn đấu võ mồm, Khánh Kỵ ngồi ở trên nhìn hai người họ thao thao bất tuyệt, đại khái là nói quốc dân của nước mình nghèo khổ ra sao, khốn khó ra sao, đều mang bộ dạng “ai thảm hơn ta”, khiến mọi người không nhịn được cười.
Trải qua cuộc tranh luận này, cuối cùng Câu Tiễn chống đỡ không nổi, Tôn Vũ cũng nhường một bước, sau cùng đã đạt thành thỏa thuận mượn sáu ngàn thạch lương thảo của nước Việt, Khánh Kỵ lại nói vương cung bị hỏa hoạn, tường thành bị hư hại nhiều, muốn nước Việt phải cho thợ rèn, thợ mộc, thợ đá và nhiều thợ khác, lại thêm gỗ và khoáng thạch, lao phu dân dịch, Câu Tiễn có rất nhiều gỗ, nên đã đồng ý ngay. Ghi chép trên điện từ sớm đã rồng bay phượng múa, ghi chép lại hiệp nghị, Câu Tiễn vừa gật đầu, thư ký đã viết xong khế ước, đưa ra trước mặt hắn, để hắn ký tên đóng ấn, Câu Tiễn chẳng biết làm sao, đành ký vào.
Đến khi những điều khoản này đã được bàn bạc xong, thần sắc Khánh Kỵ hòa nhã hơn nhiều, nói với Câu Tiễn: “Những tội danh người vừa nêu, ngươi đã dám thừa nhận, đủ thấy có lòng thành thật hối cải. Nhưng ngươi đã giết vua đoạt ngôi mang tội dĩ hạ phạm thượng, cũng phải chịu sự trừng phạt, Huống hồ, người Việt có thật bị Bá lừa gạt, phải chăng đã không còn mưu đồ, quả nhân và các triều thần vẫn chưa hết nghi hoặc, Quả nhân muốn ngươi ở lại nước Ngô làm con tin, để tỏ rõ lòng thành, ngươi thấy thế nào ?”
Câu Tiễn nghe xong trong lòng thầm nghĩ: “Tên Khánh Kỵ này, há chẳng phải là Đệ nhất dũng sĩ nước Ngô trước giờ rất quang minh chính đại, tấm lòng trong sáng vô tư sao, sao giờ đây lại trở thành nham hiểm và tham lam thế. Trước hắn lừa ta lập khế ước, lúc này nếu rút lại, hắn bèn có cớ để phạt Việt. Đợi đến khi mọi chuyện đều ổn thỏa, còn chưa chịu ngừng tay, còn muốn bắt ta làm con tin. Lần này ở lại, khi nào được trở về e là không do ta quyết định được, đến lúc đó, ta như miếng thịt nằm trên thớt của Khánh Kỵ, muốn tròn hay muốn dẹp, chẳng phải là việc chỉ bằng một câu nói của hắn à ?”
Thời xuân thu chiến quốc này, các hoạt động bang giao giữa các nước chư hầu rất nhiều. Và trong việc kiến lập các hoạt động bang giao, chữ “Tín” là nhân tố quan trọng nhất, để đảm bảo cho việc bang giao được tiến hành thuận lợi. Giữ lại “Con tin” để làm “tín vật” là hình thức chủ yếu và đã bắt đầu xuất hiện rộng rãi. Nhất là khi có sự liên minh giao kết về vấn đề nào đó giữa hai nước thực lực không ngang nhau, nước yếu gởi con tin sang nước mạnh để được lòng tin của đối phương đã là việc thường thấy, nên điều kiện này của Khánh Kỵ là thiên kinh địa nghĩa, Câu Tiễn quả thật không thể chối từ, bằng không nước Ngô sẽ lấy cớ này chất vấn thành ý của nước Việt thậm chí là xuất binh thảo phạt, đó đều là danh chánh ngôn thuận cả.
Câu Tiễn cúi đầu chần chừ không quyết, Khánh Kỵ thấy thế bèn đốc thúc hắn, cười lạnh lùng nói: “Làm con tin ở nước Ngô, để thể hiện thành ý của nước Việt, nay ngươi cứ lưỡng lự không quyết, trừ phi trong lòng có tính toán ?”
“Tội thần không dám !” Câu Tiễn lại vội vàng quỳ mọp xuống đất, chỉ trong tích tắc đã nước mắt chảy ròng ròng, nghẹn ngào nói: “Làm con tin ở nước Ngô, có thể đích thân hầu hạ đại vương bệ hạ, được thường xuyên nghe lời chỉ dạy của đại vương, Câu Tiễn có cầu cũng không được.”
Hắn nói vài câu nịnh hót đến phát nôn, rồi lại nói tiếp: “Nhưng… Phụ thân thần đã già yếu lắm bệnh, thường hay nằm trên giường không thể ngồi dậy, Câu Tiễn thân là hài nhi của người, nếu không thể kề cận chăm sóc, sắc thuốc thử thuốc, khó tránh không làm tròn được đạo làm con. Trung hiếu không thể lưỡng toàn, Câu Tiễn cả hai bên đều khó, nên đã thất lễ trước mặt bệ hạ, khẩn xin thứ tội.”
Trong trăm việc thiện lấy chữ hiếu làm đầu, vào thời đó phụ tử là đạo của trời còn quan trọng hơn cả đạo quân thần, bằng không Khổng Khâu đã không kiến nghị nên xem đạo quân thần ngang bằng với đạo phụ tử. Câu Tiễn đã chuyển hướng đến Doãn Thường, nói phụ thân hắn bệnh nặng nằm trên giường đã lâu ngày, nếu Khánh Kỵ cứ cố giữ hắn lại không cho về nước, vậy thì có chút không hợp tình hợp lý.
Khánh Kỵ cười lạnh lùng: “Nếu nói thế, nước Việt khó có thể ở lại nước Ngô làm tin rồi ?”
Câu Tiễn khóc lóc nói: “Không phải là không thể, chỉ là thân là hài nhi, phụ thân lại lâm trọng bệnh, Câu Tiễn theo lý nên kề cận trước mặt phụ thân mà làm tròn chữ hiếu, xin đại vương ân chuẩn, giữ lại người khác làm con tin.”
Khánh Kỵ ngừng cười nói: “Làm gì có cái lý ấy, Việt Vương Doãn Thường chỉ có một thái tử là ngươi, còn có người nào có thể làm con tin chứ ? Trừ phi tùy tiện đuổi cổ một tên tôn thất tử đệ để lấy lệ với quả nhân, vậy há chẳng thành trò đùa sao ?”
Chúng thần trên điện bèn rộ lên tiếng cười châm chọc.
Câu Tiễn lau nước mắt trên mặt, lớn tiếng nói: “Tội thần nào dám trêu đùa đại vương, nếu đã làm con tin ở nước Ngô, người làm con tin đương nhiên cũng sẽ có thân phận phù hợp.”
Khánh Kỵ cười nói: “Được, nếu phụ thân ngươi đã bệnh tật liên miên, quả nhân nếu cứ cố giữ ngươi lại nước Ngô, e là không hợp tình hợp lý, nếu ngươi đã chọn được người thích hợp, quả nhân cũng không phản đối. Nhưng… nếu là công chúa của quý quốc, tuy cũng là nữ nhi của quả quân quý quốc, quả nhân xin được từ chối.”
Lời này của Khánh Kỵ có ý chê cười nước Việt mỗi khi giao hảo với quốc quân và quyền thần các nước thường dùng cách hiến tặng mỹ nữ của nước Việt, mặt Câu Tiễn đỏ gay, nói: “Nước Việt làm con tin ở nước Ngô, là bang giao đại sự, đương nhiên không dám để cho bậc nữ lưu xen vào.”
Khánh Kỵ gật đầu đáp: “Tốt, vậy thì… nước Việt sẽ để ai lại làm con tin ?”
Câu Tiễn đáp lại: “Người ở lại làm con tin đang đứng ngoài điện, xin đại vương cho phép lên điện kiến giá.”
Khánh Kỵ vô cùng kinh ngạc nhìn hắn, gật đầu nói: “Chuẩn tấu !” trong tích tắc, hai tên võ sĩ dẫn theo một người vào điện, quần thần đều hiếu kỳ nhìn về phía người ấy, chỉ thấy người này mặc một chiếc áo màu xanh bích, độ khoảng tam tuần, tướng mạo tương đối đẹp, thân hình đẫy đà, nhất định là một nữ nhi. Người nữ nhi này trong tay bồng một đứa trẻ, bụng và những nơi dễ bị tổn hại được quấn trong một chiếc lụa, chiếc chân trắng trẻo mập mạp lộ ra bên ngoài, trông như một chiếc ngó sen vậy, thật là đáng yêu.
Câu Tiễn vừa nói rằng sẽ không lấy bậc nữ lưu làm con tin, vậy thì người phụ nữ trên điện này sẽ không phải là con tin, chẳng lẽ…
Ánh mắt của mọi người đều tập trung vào đứa bé, ngay cả Khánh Kỵ khi thấy đứa bé, hai mắt cũng như nhìn thẳng tắp. Đứa bé được người phụ nữ bế trong lòng, trong miệng còn đang mút đầu ngón tay, đôi mắt đen lay láy nhìn qua nhìn lại, nhìn các văn thần võ tướng trên điện một cách hiếu kỳ, thiết nghĩ thường này cũng đã quen thấy đông người, nên không hề sợ hãi.
“Đây… đây… đây là ai ?” Khánh Kỵ chỉ vào đứa bé, bất giác có chút lắp bắp.
Câu Tiễn xúc động nói: “Đó là hài nhi của hạ thần tên Dự, Vương thái tôn nước Việt, có thể thay phụ thân ở lại nước Ngô làm tin. Câu Tiễn đối với đại vương là một lòng trung thành, xin đại vương ân chuẩn.”
Khánh Kỵ nhìn Câu Tiễn hồi lâu không nói, trong lòng lại nghĩ: con người này, quả thật có thể nhẫn nhịn những điều mà người thường không thể nhịn được, vì đạt mục đích mà bất chấp thủ đoạn, bất cứ người nào cũng có thể trở thành công cụ để hắn lợi dụng. Nếu là ta, e là cho dù tình thế có nguy hiểm hơn nữa, cũng không nỡ đem đứa bé còn nhỏ tuổi thế tặng vào tay người khác chỉ để lấy được lòng tin của người đó. Nhưng, từ cổ chí kim đế vương của các quốc gia, lại có mấy người trọng tình trọng nghĩa chớ ? Có thể tuyệt tình như Câu Tiễn, đâu chỉ có mình hắn ?
“Đến gần đây, đem đưa bé cho quả nhân.”
Người phụ nữ này thiết nghĩ là vú nuôi của đứa bé, ở nước Việt chắc bà ấy cũng đã từng gặp qua nhiều công khanh đại nhân, nhưng suy cho cùng thì ở đây là nước Ngô, nên thần sắc có vẻ sợ hãi. Thái giám bước lên, bồng đứa bé từ trong tay bà, bà vội vàng ngoan ngoãn buông tay ra. Thái giám bồng đứa trẻ bước lên bậc tam cấp, trình ngay trước mặt Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ bồng đứa bé lên xem xét kỹ lưỡng, đứa bé tên Dự à ? Đứa bé này, chắc tuổi tý, Câu Tiễn thì cổ như cổ rắn, hai phụ tử này mà hợp lại, há chẳng là một ổ rắn chuột sao ? Nhưng con chuột nhắt này xem ra dễ nhìn hơn tên Câu Tiễn nhiều, đứa bé trắng trẻo mập mạp, đôi mắt tú lệ, con ngươi đen láy điểm sơn, khi nhắm lại thật đáng yêu. Thường mà nói, nam tử thì giống mẫu thân, nữ tử thì giống phụ thân, đứa bé này thiết nghĩ là giống mẫu thân, nếu mà giống tên Câu Tiễn thì, đúng thật là bà cũng không thân mà cậu cũng chẳng yêu, thật khiến người chán ghét rồi.
Đứa bé không sợ người lạ, ở trong Việt vương cung chắc cũng đa được nhiều người bế nên đã quen, khi rời khỏi vòng tay của vú nuôi vẫn không hề khóc, vừa được Khánh Kỵ bế trên tay, đôi mắt đen lay láy của nó lập tức như có hứng thú với bức rèm châu trên vương niệm của Khánh Kỵ, nó đưa bàn tay trắng trẻo mập mạp ra để bắt lấy những viên ngọc châu trên vương niệm, thỉnh thoảng còn vang lên những tiếng cười hi hi. Còn Khánh Kỵ mình mặc bộ quán phục nặng nề, trong tay lại bế một đứa trẻ, khuôn mặt tươi cười rạng rỡ, gần như không để ý đến cử động của đứa bé. Ở trước mặt bá quan văn võ trên đại điện, đột nhiên diễn nên một cảnh ấm ấp tình yêu thương, trông thấy thật khiến người tức cười
Last edited by _Gàviệttrì_; 22-04-2011 at 09:47 PM.
Đã có 2 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của kedochanh
Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua
Chương 246: Cách vào thành của tiểu la lị
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
“Trước tiên là phụ thân lâm trọng bệnh, sau đó là để vương thái tôn lại làm tin, trung hiếu hai đường, đều không thể bắt bẻ được, khiến cho ta không còn lý do nào mà cố giữ hắn lại nước Ngô. Đứa bé này có qua thêm vài năm nữa cũng chỉ là một đứa trẻ, lúc đó nếu nước Việt thật tìm cơ hội khai chiến với nước Ngô ta, chẳng lẽ ta có thể chịu mọi mắng chửi trong thiên hạ mà đem đứa bé này giết đi sao ? Hảo thủ đoạn, hảo mưu kế…”
Khánh Kỵ không thể kềm nổi sự chán ghét và muốn giết chết tên câu Tiễn này, bỗng nhiên cái ý nghĩ khiến cho tên Câu Tiễn này trộm gà không thành mà còn mất cả gạo xuất hiện , Khánh Kỵ bế lấy Dự cười lớn: “Tốt, nếu ngươi đã cho Vương thái Tôn làm tin, quả nhân ưng thuận với ngươi. Quả nhân rất thích đứa trẻ này, muốn nhận nó làm nghĩa tử, ngươi có đồng ý chăng ?”
Câu Tiễn nghe xong lời đề nghị của Khánh Kỵ thì trong lòng vui mừng, tuy nói là do bức bách không còn cách nào khác, hắn chỉ đành nhẫn tâm đưa con trẻ làm tin với nước Ngô, nhưng đứa trẻ này rốt cuộc vẫn là cốt nhục của mình, nếu Khánh Kỵ chịu nhận đứa trẻ này làm nghĩa tử, sau này đứa trẻ sẽ thêm phần an toàn, nghĩ đến đây, Câu Tiễn lập tức trả lời: “Hài nhi của hạ thần, có thể được đại vương để mắt tới, Thần rất đỗi vui mừng.”
“Ha ha ha…, được !” Khánh Kỵ bế đứa bé, nhè nhẹ tung lên, rồi lại đỡ lấy, chơi vui đến nỗi chiếc miệng nhỏ xíu của Dự cười hi hi, thấy Khánh Kỵ ôm lấy mình không tung lên nữa, Dự còn chưa cam tâm nên đá hai chiếc chân nhỏ xíu, chiếc lưng nhỏ nhắn giẫy giụa, lại có chút chơi chưa chán.
“Nước Việt tuy đã mạo phạm quả nhân trước, nhưng niệm tình ngươi đã kịp thời đến thỉnh tội, giao ra tên phản nghịch, lại cho mượn lương thực, hiến tặng gỗ và khoáng thạch, và dịch phu thợ cả, lại cho vương tôn làm tin ở nước Ngô, đủ thấy ngươi thành thật thỉnh tội, từ đây quả nhân sẽ miễn tội cho Câu Tiễn, tạm đưa vào dịch quán cư ngụ, đợi khi lương thực và gỗ được chuyển đến nước Ngô, thực hiện xong khế ước, sẽ cho câu Tiễn về nước. Bãi triều !”
Khánh Kỵ trầm ngâm một lúc, biết đứa trẻ này vẫn còn nhỏ tuổi, nếu không giữa lại vú nuôi bên cạnh, Câu Tiễn sẽ khó tránh hoài nghi hắn muốn trộm long tráo phụng, vàng thau lẫn lộn, bèn cười nói: “Đứa bé đã quen thuộc với vú nuôi, đương nhiên cũng được lưu lại, ha ha…, ngươi cứ yên tâm, đứa bé này vẫn là người chủ tương lai của nước Việt, quả nhân sẽ cho người tận tâm chăm sóc, hai nước Ngô Việt, từ đây sẽ là huynh đệ chi bang, vĩnh kết hảo hữu !”
Gánh nặng trong lòng Câu Tiễn đã được bỏ xuống, người đứng trên bậc người đứng dưới bậc, mỗi người đều ôm một mưu đồ riêng mà cười …
Mắt nhìn Câu Tiễn rời khỏi, nụ cười trên môi Khánh Kỵ vụt tắt, trao đứa bé cho một thái giám, căn dặn: “Chuẩn bị xe ngựa, quả nhân phải đến Nhâm phủ một chuyến, mang theo cả vú nuôi và Việt vương tôn.”
Nhâm Nhược Tích là người ưa sạch sẽ, mỗi ngày mục dục ba lần. Lúc này đã là chiều, nàng mặc một chiếc áo mỏng nhẹ và thoải mái, vừa từ trong dục thất trở về phòng mình. Thị nữ đang đứng phía sau chảy lại mái tóc bồng bềnh như mây của nàng, bỗng nhiên, nghe vài tiếng gõ cửa bên ngoài, một giọng nói nhỏ nhẹ vang lên: “Tiểu thơ, đại vương đã đến.”
“Sao ?” Nhâm Nhược Tích kinh ngạc, vội vàng đứng dậy nói: “ Sao đại vương lại đến, mau mau thay xiêm y cho ta.”
Nhìn bộ dạng tóc tai đang rối của mình trong gương, nàng luống cuống chân, lại ngồi trở xuống, gấp gáp nói: “Mau qua đây, giúp ta chải lại tóc.”
Vài nô tì ở cạnh bên nàng rối hết cả tay chân, vừa bới lại tóc cho nàng xong, đã nghe tiếng bước chân đang đi trên hành lang, cánh cửa vừa mở, vài thị nữ bên cạnh Nhâm Nhược Tích gấp gáp quỳ lạy: “Nô tì tham kiến đại…”
“Miễn lễ bình thân, các ngươi lui ra.”
Vài thị nữ lập tức làm theo lời lui ra, Nhâm Nhược Tích lúc này mới đỏ cả mặt mà quay người lại thi lễ nói: “Thần thiếp tham kiến đại vương.”
“Miễn đi, miễn đi” Khánh Kỵ mỉm cười ngắm nhìn nàng, Nhâm Nhược Tích khuôn mặt tuyệt đẹp, đôi mắt như tranh vẽ, làn da mới vừa mục dục xong của nàng trắng trẻo hồng hào, mịn màng mượt mà, vừa săn chắc như thiếu nữ, lại vừa ung dung yêu kiều như thiếu phụ.
Khánh Kỵ khen ngợi: “Tuyệt đẹp, nghĩ lại thì khi mỹ nhân vừa mục dục xong càng thêm xinh đẹp tuyệt trần, tiếc là quả nhân đã đến chậm một bước, quả là không có được phần phước này.”
“Đâu phải đại vương chưa từng thấy qua.” Nhâm Nhược Tích yêu kiều liếc hắn: “Nhược Tích chuyến này trở về đô thành, không hề báo hành tung cho đại vương biết, sao đại vương lại gấp gáp đến đây, làm cho thiếp không kịp điểm tô son phấn, thật là thất lễ với đại vương.”
Khánh Kỵ cười nói: “Nàng là chuẩn vương phi của quả nhân, hành tung của nàng dù không nói ra, cũng tự có người đến báo với ta. Uhm, kỳ thực ngày trước nàng vừa về đến là ta đã biết, nhưng cho đến lúc này ta mới có thể đến thăm nàng được, ta và nàng trước giờ gặp nhau ít nhưng xa nhau nhiều, chẳng ngờ đến lúc nước Ngô đã được yên ổn, quả nhân vẫn cứ bận rộn thế này.”
Khánh Kỵ vừa nói vừa mở rộng đôi tay ôm lấy Nhược Tích vào lòng, hai người cùng ngồi trên chiếc giường. Tông Bá và Hành Nhân đã đưa sính lễ sang Nhâm Phủ, đã chính thức xác định thân phận vương phi của Nhâm Nhược Tích, chỉ còn chờ Quý Thị và Thúc Thị nước Lỗ đưa nữ nhi sang thành thân, thì có thể cùng lúc nhập cung với Diêu Quang và Tiểu Man. Danh phận phu thê đã định, nên khi gặp nhau riêng tư thế này, cũng có phần ung dung và thoải mái hơn, Nhâm Nhược Tích cũng không thận trọng như trước nữa.
“Đại vương, sứ giả nước Sở đã được an bài xong rồi à ?”
“Đương nhiên, không chỉ có sứ giả nước Sở, Câu Tiễn nước Việt cũng vừa đến Cô Tô.”
“Câu Tiễn ? Hắn đến làm gì ?”
Khánh Kỵ kể lại đầu đuôi câu chuyện, rồi hỏi: “Nhược Tích, Nàng thấy sao ?”
Nhâm Nhược Tích dựa vào trước ngực hắn, chăm chú suy nghĩ rồi nói: “Nước Việt đối với nước Ngô, trước giờ vẫn chưa từng có ý tốt gì, bây giờ không có, sau này cũng sẽ không có. Nước Việt bị nước Ngô áp chế ở một góc Đông Nam, con đường quan trọng để họ bắc tiến đến Trung Nguyên, liên hệ với các nước chư hầu trong thiên hạ đã bị nước Ngô khống chế, cứ như một con đại bàng mà bị cắt đi đôi cánh, nếu Việt Vương là một người biết an phận thủ thường không có dã tâm thì cũng đành, bằng không, cho dù ai làm Việt Vương, thì việc đầu tiên chính là đánh bại nước Ngô, nếu không đánh được nước Ngô, nước Việt vĩnh viễn không có ngày được xuất đầu lộ diện. nào là huynh đệ chi bang, vĩnh thế hảo hữu, đều không thể tin được, Đại vương sao không nhân cơ hội này mà lấy mạng của Câu Tiễn ?”
“Ha ha, đúng là cách nghĩ của phụ nữ !”
Khánh Kỵ ôm lấy chiếc eo nhỏ nhắn mềm mại của nàng, hôn nhẹ lên đôi môi đỏ hồng: “Mối họa của nước Ngô là nước Việt, chứ không phải là Câu Tiễn. Giết Câu Tiễn, diệt nước Việt, đây là chuyện tuy một mà hai, tuy hai mà một, nếu hiện giờ quả nhân không thể thu phục nước Việt, vậy thì giết một tên Câu Tiễn có tác dụng gì. Hôm nay giết một tên Câu Tiễn, chắc gì ngày mai ở nước Việt sẽ không xuất hiện một tên Câu Tiễn khác ? Thời cơ chưa chính mùi ngược lại sẽ bị nắm thóp. Tên Câu Tiễn đó có thể nhẫn nhịn đến thế, chẳng lẽ quả nhân lại không thể nhẫn nhịn sao ?”
Nhâm Nhược Tích thở dài: “Đại vương không bị những thủ đoạn của Câu Tiễn mê hoặc là tốt, nhưng vậy cũng đâu cần nhận hài nhi của hắn làm nghĩa tử, có thêm danh nghĩa phụ tử này, sau này đại vương dụng binh với nước Việt, khó tránh vướng tay vướng chân, chẳng làm được gì.”
“Ai nói thế ?”, Khánh Kỵ cười gian xảo: “Ta lại nghĩ rằng có thêm danh phận này rồi, càng lợi cho ta hành sự sau này.”
Nhâm Nhược Tích ngồi thẳng dậy, hỏi: “Vậy vương thái tôn nước Việt, hiện đang được nuôi dưỡng trong cung sao ?”
Khánh Kỵ mỉm cười nói: “Không, ta đã đem đến đây cho nàng, chút nữa nàng an bài thỏa đáng, để đứa bé vào ở trong Nhâm gia bảo.”
Nhâm Nhược Tích kinh ngạc: “Nhâm gia Bảo? Đứa bé này được giữ lại nước Ngô làm con tin, thân phận khác người thường, để đứa bé ở tại Nhâm gia bảo, điều này… có thích hợp hay không ?”
“Có gì mà không thích hợp, dựa vào lực lượng của Nhâm Gia Bảo, muốn bảo vệ một đứa bé chẳng phải dễ như trở bàn tay sao ?” Khánh Kỵ mỉm cười: “Đứa bé đó trông rất đáng yêu, ta không muốn giữ nó trong cung, đã là người thì nhất định sẽ có tình cảm, nếu giữ đứa bé lại bên cạnh lâu ngày, ta e sẽ ảnh hưởng đến quyết đoán của ta sau này.”
“Đại vương…”, Nhâm Nhược Tích lo lắng nhìn hắn, lắp bắp nói: “Đại vương dự tính… dự tính sau này sẽ làm gì đứa bé ?”
Khánh Kỵ cười, bản tính người mẹ của con gái đúng là dạt dào, vừa nãy nàng còn trách sao Khánh Kỵ không một kiếm giết chết Câu Tiễn, nhưng đối với đứa bé, dù là một đứa bé không có can hệ gì với mình, nàng ấy cũng đã động lòng thương xót.
“Nàng yên tâm đi, đứa bé là vô tội, ta sẽ không làm hại nó, nhưng thân phận đặc thù của nó, đã xác định rõ ràng lập trường giữa ta và nó, đã xác định có một số việc nó nhất thiết phải gánh chịu và đối mặt. Sau này, cũng có thể ta sẽ đoạt lấy một số cái của nó, nhưng ta sẽ tặng cho nó những món khác, ta tin rằng như vậy đối với nó, đối với tử tôn của nó mà nói, không phải là họa, mà là phước.”
Nhâm Nhược Tích nghe xong cũng không hiểu cho lắm, nhưng nàng biết việc này có liên quan đến mối quan hệ trọng đại giữa hai nước trong tương lai, hiện giờ Khánh Kỵ sẽ không nói quá rõ ràng với nàng, bèn nói: “Nếu đã vậy thì, chàng cứ yên tâm. Là vua một nước, có lúc khó tránh phải dùng một số thủ đoạn, nhưng… hễ nghĩ đến việc chàng sẽ ra tay với một đứa trẻ vô tội, thiếp vẫn cảm thấy khó chịu.”
“Đương nhiên là không, người, có chuyện nên làm, có chuyện không nên làm, không phải cứ vì đạt được mục đích mà bất chấp thủ đoạn. Người như thế, có khác gì so với cầm thú ?” Khánh Kỵ vỗ vỗ vào vai của nàng, nhẹ nhàng cười nói: “Đợi khi nàng sinh cho ta một hài nhi nàng sẽ biết, ta rất là thích trẻ con.”
Nhâm Nhược Tích ngay tức thì thẹn thùng đỏ mặt, nhỏ nhẹ nói: “Nói một hồi chàng lại không nghiêm túc, ai phải sinh hài nhi cho chàng chứ ?”
Khánh Kỵ nghiêm mặt nói: “Nam nữ yêu nhau, nối dõi tông đường, việc đại sự như thế, còn có việc gì nghiêm túc hơn chứ ?”
Đôi tay Khánh Kỵ đột nhiên ôm chặt hơn, kề sát bên tai Nhâm Nhược Tích nói nhỏ nhẹ: “Ta và nàng danh phận đã định, chi bằng hôm nay cùng quả nhân làm chuyện nghiêm túc thì thế nào ?”
“Thiếp mới không thèm…”, Nhâm Nhược Tích cười rồi ngồi dậy muốn chạy ra, bị Khánh Kỵ kéo, lại ngã ngay vào người hắn.
Khánh Kỵ vừa rút cây ngọc trâm trên tóc nàng, vừa nhỏ nhẹ nói: “Còn mắc cỡ gì, nàng đã là người của ta rồi, chẳng lẽ có thể chạy thoát khỏi tay ta sao ?”
Cây ngọc trâm vừa được rút ra, mái tóc đen và xinh đẹp của nàng xõa xuống, tóc dài đến tận eo, đôi mắt mơ màng của nàng như chứa đầy những cơn sóng nhỏ, một cảm giác khó tả đã làm rung động đến tâm hồn Khánh Kỵ. Nhâm Nhược Tích lúc này trông thật có phong vị của nữ nhi, trong tích tắc như đã nhóm lên ngọn lửa trong lòng Khánh Kỵ.
“Hãy giao nàng cho ta”, Khánh Kỵ dùng giọng nhỏ nhẹ nói: “Diêu Quang và Tiểu Man còn nhỏ tuổi, quả nhân không muốn họ sớm sinh đẻ, Nhược Tích, nàng hãy vì quả nhân… sinh một tiểu vương tử đầu tiên, được không ?”
Đầu óc Nhâm Nhược Tích như đang quay cuồng, giống như vừa bị ai đó trút một ly rượu nồng, đôi mắt nàng say, thân thể nàng say, lòng nàng cũng say, say đắm trong những lời nói ngọt ngào của Khánh Kỵ, nàng không hề chống cự đã được Khánh Kỵ cởi thắt lưng, trút bỏ chiếc áo tơ mỏng.
Thân thể nàng trông đẹp đẽ vô cùng, mái tóc đen bồng bềnh và thân thể trắng nõn nà như tuyết tương phản nhau đến là thú vị, dung nhan tú lệ trông thật đáng yêu, đôi vai thon thả và bộ ngực nở nang đầy đặn như tạo nên những đường cong uyển chuyển.
Khánh Kỵ ngắm nhìn đến nỗi si mê, hơi thở cũng dần gấp gáp hơn, tay hắn ôm lấy thân thể như ngọc như ngà của mỹ nhân, nhẹ nhàng đè nàng xuống giường, vuốt ve cơ thể nàng. Nhược Tích đã bị cái lưỡi của hắn chặn lại trên môi, chỉ có thể phát ra những tiếng rên nhỏ nhẹ.
Sau một hồi âu yếm vuốt ve, Nhâm Nhược Tích hơi thở gấp gáp, trong đôi mắt nàng như long lanh nước, vẻ mặt như đang ý loạn tình mê. Nàng đã động tình, lúc này đã không thể suy nghĩ được gì nữa. Cuối cùng nàng bỏ luôn chút thận trọng cuối cùng, ôm chặt lấy hắn, nhỏ nhẹ thì thầm: “Đại vương, hãy yêu thiếp…”
“Được !” Khánh Kỵ gỡ bỏ đôi hoa tai óng ánh của nàng, đôi tay từ từ di chuyển về phía dưới, nâng chiếc mông tròn trịa của nàng, nhỏ nhẹ nói bên tai nàng: “Bây giờ, để chúng ta cùng làm chuyện nghiêm túc nhé…”
Sứ giả hai nước Ngô Sở trong cùng một ngày đến Cô Tô, nhưng Khuất Đoan nước Sở chỉ ở lại trên núi Cô Tô ba ngày, đã sợ cuống cuồng mà về nước. Hắn đã mất một món tiền lớn mới được chức quan này, nên không muốn bệnh chết ở nước Ngô, để cho tên Phí Vô Kỵ lại đem bán chức quan của hắn cho người khác với giá tiền tốt hơn.
Còn Câu Tiễn muốn đi cũng đi không được, mỗi ngày đều gióng mắt mà trông bên Nước Việt mau chóng đem lương thực, khoáng thạch đến, để sớm thực hiện lời hứa với nước Ngô và đón hắn trở về. Hắn biết, không ít người Ngô hận hắn đến tận xương tủy, rất nhiều người đều mong Khánh Kỵ đem hắn đi chém, nếu cứ tiếp tục ở lại nước Ngô, Khánh Kỵ có thể nào một ngày nào đó đột nhiên hối hận mà thay đổi chủ ý.
Câu Tiễn vẫn chưa chờ được tin tức của nước Việt, thì sứ giả nước Sở lại đến. Trước khi Câu Tiễn đi sứ sang Ngô vì để đề phòng vạn nhất, nên đã phái sứ giả đến bái kiến Phí Vô Kỵ, để chuẩn bị cho đến lúc then chốt thì gây áp lực với nước Ngô. Nay Khánh Kỵ không có ý gây khó dễ cho câu Tiễn, nên Phí Vô Kỵ cũng không cần phí sức lực, mà được hưởng trắng một mớ châu báu và mỹ nữ, nhưng cái mà hắn quan tâm nhất vẫn là số châu báu đã bị nước Ngô cướp đi, nên lần này sứ giả mà hắn phái đi kiên cường hơn Khuất Đoan nhiều. Được biết Câu Tiễn không bị hề hấn gì, nên vị sứ thần này bèn thực hiện sứ mệnh thứ hai, kịch liệt chỉ trích nước Ngô đã tham lam nuốt trọn số tài phú của nước Sở, yêu cầu họ giao ra bảo vật. Về phần nước Ngô thì cứ khẳng định chắc nịch là số tài phú đã bị ngọn lửa của Phù Sai đốt thành tro bụi, sứ giả nước Sở lại không thể xông vào nội cung để mà tìm chứng cớ, nên đôi bên chỉ là đấu võ mồm với nhau mà thôi, đấu võ mồm với nhau đến mất cả vui, vị sứ giả đó đến cuối cùng cũng chẳng lo gì đến đám quyền quý nước Sở đang ngắm phong cảnh ở trên núi Cô Tô, thì đã tức tối bỏ về nước rồi. Nghe nói Ngô và Sở đang gây nhau ác liệt, Câu Tiễn thầm mừng trong bụng, nhưng nay hắn thân đang ở tại Cô Tô, nên đại kế nước Sở và nước Việt cùng nhau chống lại nước Ngô trong nhất thời không thể thực hiện được. Câu Tiễn ngày ngóng đêm mong, cuối cùng cũng mong được tin tức của nước Việt. Số lương thảo, vật liệu và những người thợ vừa qua đến biên giới, Kinh Lâm đã cho người cưỡi ngựa nhanh đưa tin về Cô Tô, Khánh Kỵ cũng rất mau lẹ, vừa hay tin đã liền căn dặn trong cung thiết đại yến tiêc, để tiễn Câu Tiễn về nước.
Câu Tiễn được trở về nước, gánh nặng trong lòng đã được trút bỏ, nhất thời mặt mày hớn hở, tinh thần phấn chấn. Trong yến tiệc ăn uống no say, cười nói vui vẻ. Rượu quá tam tuần, hắn bèn nâng ly, mời rượu Khánh Kỵ nói: “Hoàng tại thượng lệnh, chiếu hạ tứ thời, tính tâm sát từ, nhân giả đại vương. Cung thân hồng ân, lập nghĩa hành nhân. Cửu đức tứ tấc, uy phục quần thần. Vu hồ hưu tai, truyền đức vô cực, thượng cảm thái dương, giáng thuỵ dực dực. Đại vương trường thọ vạn tuế, trường bảo Ngô quốc. Uy danh khắp tứ hải đều thừa nhận, chư hầu tuân phục. Xin kính người ly rượu này, vĩnh thọ vạn phúc !”
Nói xong quỳ xuống hành đại lễ, nâng ly uống cạn. Khánh Kỵ mỉm cười, cũng nâng ly nhấp môi một ngụm, sau khi nhận xong lễ này của hắn, Câu Tiễn quay về chỗ ngồi, thần sắc ung dung, rò ràng hắn nhìn thấy kế bên có người gai mắt vì những lời nói nịnh hót của hắn, mà vẫn thản nhiên như không có gì.
Chúc Dung thấy vậy cười lạnh lùng, nhè nhẹ nghiêng người, thì thầm với Yểm Dư: “Để ấu tử phải làm tin ở nước Ngô, đến lúc gần về cũng không lo đến thân thích, cũng chẳng cầu được gặp mặt, người này quả là không có lương tâm.”
Yểm Dư khẽ cười, đáp lại: “Chưa hẳn là thế, chỉ là tâm đủ tối, và da đủ dày thôi !”
Ở bàn thiện án bên kia, Anh Đào cũng đang thì thầm to nhỏ, hắn nói nhỏ với Tôn Vũ, Tôn Vũ ngước mắt nhìn, tuỳ tiện liếc nhìn Câu Tiễn, rồi lại mỉm cười, nhỏ giọng đáp: “Anh tướng quân đừng xem thường hắn, hắn cố tình làm như thế, tỏ ra khiêm nhường, chẳng qua là vì muốn đại vương xem thường hắn mà thôi.”
“Ồ ? thì ra tên tặc tử này có ý đồ khác !” Anh Đào lại trợn mắt liếc Câu Tiễn, lại nhỏ giọng nói với Tôn Vũ: “Người này lòng dạ khó lường, không phải là láng giềng tốt, thả hắn về nước, chẳng khác nào thả hổ về rừng. Đại Vương đã căn dặn không được giết hắn, hà cớ gì chúng ta không âm thầm ra tay ?”
Tôn Vũ nhấp một ngụm rượu, lớn tiếng nói vài câu vui đùa với mọi người, rồi lại thì thầm nói với Anh Đào: “Ngươi có kế sách gì ?”
Anh Đào mắt nhìn lướt qua xung quanh, nhỏ giọng đáp: “Nếu như Câu Tiễn trên đường trở về bị thổ phỉ giết, vậy là không liên can gì đến ta rồi ?”
Tôn Vũ cười nhạt, lắc đầu đáp: “Chỉ cần Câu Tiễn chết trên đất Ngô, bất luận là lý do gì, cũng khó tránh miệng lưỡi thiên hạ.”
Anh Đào chậc lưỡi, không cam tâm nói: “Vậy thì, cứ để hắn như thế về nước sao ?”
Tôn Vũ đưa mắt nhìn Khánh Kỵ, Khánh Kỵ đang cầm đũa gấp thức ăn, bất chợt vén tay áo nâng ly, cùng với các đại thần kính rượu mình, lúc Tôn Vũ đưa mắt nhìn lên, Khánh Kỵ như có cảm giác, ánh mắt hắn cũng nhìn lại về phía Tôn Vũ, anh mắt hai người gặp nhau, Khánh Kỵ mỉm cười, dường như đã nắm được toàn bộ tâm tư của hắn trong lòng.
Tôn Vũ thôi nhìn, nâng ly uống cạn, rồi nhẹ nhàng buông ly xuống bàn, nói: “Tâm tư của đại vương ngày càng kín đáo, mỗi khi ra mưu kế cứ như ngựa chạy trên không, không hề để lại dấu vết, khiến người không thể đoán được. Ta cũng chưa đoán được đại vương đang có dự tính gì, nhưng… ta nhìn thấy được, đối với hạng người như Câu Tiễn, đại vương còn nhìn sâu và thấu đáo hơn cả ta và ngươi, đối phó với hắn, thiết nghĩ đại vương cũng đã có kế, nếu chưa được đại vương ra hiệu, ngươi không nên manh động, kẻo làm hỏng việc tốt của đại vương.”
Anh Đào nghe xong bán tín bán nghi, nhưng thấy Tôn Vũ nói một cách trịnh trọng, Anh Đào chỉ đành gạt bỏ cái ý nghĩ này.
Sau yến tiệc, Khánh Kỵ bày đầy đủ nghi lễ, đích thân tiễn Câu Tiễn ra Xà Môn. Khánh Kỵ nhận Dự làm nghĩa tử, nên cũng như có tình huynh đệ với Câu Tiễn, được Ngô vương Khánh Kỵ đích thân đưa tiễn, cũng không có gì là quá đáng, chỉ là lần này lễ nghi rất long trọng, rất nhiều bá tánh trong thành xếp hàng dài đứng xem. Trong chốc lát ở đầu thành Cô Tô lại trở nên huyên náo hơn.
Ngoài Xà Môn, Câu Tiễn dừng bước. Tạ lễ lần nữa, mời Ngô vương trở về. Khánh Kỵ dừng bước cười nói: “Vương nhi Dự ngoan ngoãn dễ thương, Vương phi Nhâm thị của quả nhân vô cùng yêu thích, nay đã đưa đến ở tại Nhâm Gia Bảo, thái tử đang nóng lòng muốn trở về, không thể gặp mặt Dự một lần, thật là đáng tiếc.”
Câu Tiễn vội đáp: “Thần phụ bệnh đã lâu, Câu Tiễn luôn lo lắng trong lòng, nay được lệnh của đại vương, há dám chậm trễ lên đường sao ? còn Dự nhi, được đại vương yêu thích, có đại vương chăm sóc, có khác nào phụ thân thân sinh. Do đó, thần rất là an tâm.”
Khánh Kỵ cười cười, đưa tay ra hiệu cho người mang lên rượu tiễn đưa, nói: “Hai nước Ngô Việt, hiềm khích đã lâu, nay thái tử đích thân đi sứ sang, thỉnh tội với nước Ngô, quả nhân đã miễn tội nhận tử, cũng đã biểu thị thành ý của quả nhân. Nguyện hai nước Ngô Việt từ đây hoá can qua thành ngọc bạch, đời đời hảo hữu, quả nhân và thái tử cùng nhau nỗ lực vì điều này !”
Câu Tiễn nâng ly, nghiêm mặt nói: “Đại vương miễn tội chết cho thần, được sống mà quay về nước. Tình sâu nghĩa nặng này, Câu Tiễn không dám phụ lòng, nguyện cùng nước Ngô, vĩnh kết hảo hữu, có trời đất và thần linh chứng giám, nếu trái lời, trời chu đất diệt.”
Nói xong nâng ly uống cạn, Khánh Kỵ gật đầu, cũng nâng ly uống cạn, cười nói: “Tiễn quân ngàn dặm, cũng có lúc chia tay. Quả nhân dừng bước tại đây, chúc thái tử bình an.”
“Tạ đại vương !” Câu Tiễn vái dài tận đất, quay người lên xe, cùng với đoàn binh sĩ hộ tống của nước Ngô chầm chậm rời khỏi Cô Tô. Xe giá vừa khởi động, chầm chậm lăn bánh, cho đến khi qua một chiếc cầu nhỏ, ngón tay cái bị Câu Tiễn nắm chặt trước ngực giờ mới được buông lỏng: “Khánh Kỵ quả không nuốt lời, quả nhiên thả ta về nước. Lần sang sứ nước Ngô này, đã hoá giải được mối nguy nước Ngô phạt Việt, để cho nước Việt ta có cơ hội thở phào nhẹ nhõm, ngày sau khi có cơ hội…, hôm nay ta đã bò dưới chân ngươi thế nào, ngày sau ta bắt ngươi trả lại thế ấy !”
Đoàn xe của Câu Tiễn đã đi xa, Khánh Kỵ quay trở về thành, nhưng khi thấy trên thành dưới thành đều là con dân nước Ngô, Khánh Kỵ bèn vẫy tay với họ, biểu thị chút tâm ý. Sau khi Khánh Kỵ thu phục Cô Tô rất là biết lo cho dân, những gì hắn làm đã nằm sâu trong tim của mỗi người dân, vừa thấy Khánh Kỵ vẫy tay, các bá tánh phút chốc đứng cả dậy, huyên náo hô hào đại vương, vui mừng hớn hở, lòng kính yêu của họ đều bộc lộ trong từng câu hoan hô.
Khánh Kỵ thấy vậy không tiện bước vào xe, chỉ đành mỉm cười tiếp tục vẫy tay với người dân. Lúc đó, trong đám đông có ba người quần áo rách rưới không ngừng hô to đại vương, đồng thời cố gắng chen lên trước, những thị vệ thân cận của Khánh Kỵ hợp thành một bức tường người, để ngăn không cho mọi người tiến gần đại vương, lúc này thấy có ba người miệng gọi và muốn xông qua, các binh sĩ liền chĩa mũi mâu ra ngoài, miệng la lớn: “Đứng lại, đứng lại, đại vương khởi giá, đừng đứng đó mà cản đường.”
Hai người nam tử quần áo rách rưới bị trường mâu cản lại, mắt nhìn Khánh Kỵ sắp rời đi, mà mắt mở to lại không biết phải làm sao, tuy họ đã lớn tiếng kêu gào, nhưng do bá tánh xung quanh cũng đang hô to đại vương, âm thanh vang vọng đến tận biển tận núi, nên đã hoàn toàn lấn áp tiếng êu gào của họ, ngay cả những người ở gần bên cũng không nghe thấy.
Một tên tiểu ăn mày kế bên trên mặt dính nào là tro nào là bùn thấy tình hình như thế bèn đứng vững chân, rồi đưa tay vào trong ngực, lấy ra một món đồ, cố hết sức ném về phía Khánh Kỵ
“Không hay rồi, có thích khách !” tên binh sĩ đó không ngờ rằng một tên ăn mày nhỏ nhoi lại cất giữ vũ khí trong người, hắn ngăn lại không kịp, lập tức hét to. Khánh Kỵ đã nhiều phen chết đi sống lại, nay hắn đã là đại vương, trước mắt vẫn chưa có người nối dõi, giang sơn nước Ngô có thể nói hoàn toàn được định đoạt trên sự an nguy của hắn, cho nên khi đã vào Cô Tô thành, Tôn Vũ đã chọn ra một số võ sĩ tinh nhuệ trung thành, do Cấm Vệ Thống Lĩnh Viên Tố đích thân huấn luyện võ nghệ, để trở thành thị vệ bên cạnh Khánh Kỵ.
Những người này phản ứng mau lẹ, vừa thấy trên không trung có một dị vật, đang bay về hướng Khánh Kỵ, họ lập tức lao đến, một tên binh sĩ đã giương thuẫn đỡ lấy, “bốp” một tiếng đã đỡ được vật lạ đó, Khánh Kỵ đang đứng đó mỉm cười vẫy tay không hề có đề phòng, đã bị một đám thân binh loạn tay loạn chân giữ hắn nằm sấp xuống đất, chỉ nghe những tiếng “bùm bùm loảng xoảng” vang lên, các tấm khiêng đã che chắn xung quanh và trên dưới Khánh Kỵ đến nỗi mưa gió cũng không lọt qua được.
Bá tánh xung quanh kinh hoàng la lớn: “Đại vương bị hành thích !” trong phút chốc chạy toán loạn cả lên, đội thị vệ của Khánh Kỵ như gặp đại địch đến, mười mấy tay kiếm vây lấy chung quanh Khánh Kỵ, các cung thủ thì giương cung sẵn sàng, mũi tên sắc nhọn hướng về phía đám đông, bất cứ lúc nào cũng có thể bắn, ngoài ra còn có các binh sĩ cầm mâu cầm thương tiến về phía ba tên ăn mày, mười mấy cây trường mâu trông cứ như là gai nhọn trên lưng nhím, lập tức xù ra, hướng vào những chỗ trống chung quanh ba tên ăn mày, vây chặt lấy họ.
Ba người này thấy tình hình thay đổi nhanh chóng sợ đến nỗi trợn tròn mắt há hốc mồm ra, tên tiểu ăn mày mới lúng túng giải thích nói: “Ta… ta chỉ là muốn gọi thúc ấy mà thôi…”
Những mũi dao sắc nhọn xung quanh dao động, tên tiểu ăn mày giật nảy mình, đột nhiên mở to họng, hét to đến tận mây xanh: “Khánh Kỵ đại thúc, ta sắp chết rồi !”
Lúc này trên phố không còn tiếng kêu la, nên tiếng gọi cao mấy đề-xi-ben này nghe rất rõ ràng. Khánh Kỵ nghe tiếng gọi này rất quen tai, nên vội vàng đẩy những chiếc thuẫn đang che hắn đến độ mưa gió không lọt ra, lồm cồm bò dậy một cách thảm hại. Nhìn tứ phía nói: “Vừa nãy ai đã gọi quả nhân ?”
“Là hắn, tên tiểu ăn mày đó. Ăn mày mà to gan dám gọi tên huý của đại vương !” Hữu vệ binh Sở Kiệt phẫn nộ hét to về phía tên tiểu ăn mày.
Khánh Kỵ nhìn theo hướng tay hắn chỉ, nhìn thấy tên tiểu ăn mày, liền ngây người ra. Tên tiểu ăn mày thấy hắn nhìn mình, cũng không màng đến những mũi mâu sắc nhọn đang vây chung quanh, vội vàng giơ tay nói: “Đại thúc, là ta, ta là Thi Di Quang đây.”
“Di Quang ?” Khánh Kỵ hoảng hốt, vội vã đẩy những hộ vệ ra tiến lên phía trước, đồng thời căn dặn: “Sở Kiệt, hãy thu lại người ngựa của ngươi, đừng làm kinh động đến bá tánh, họ không phải là thích khách.”
Khánh Kỵ vừa hạ lệnh, những mũi mâu sắc bén xoạt một tiếng đã được thu lại hết, Khánh Kỵ đi đến bên cạnh Thi Di Quang. Thi Di Quang bổ nhào vào trong lòng hắn, hai tay ôm lấy eo hắn, vùi đầu khóc nức nở.
Khánh Kỵ liền an ủi nói: “Đừng sợ, đại thúc ở đây, sẽ không ai làm hại ngươi đâu, ngươi đến đây với ai, cha ngươi đâu ?”
Khánh Kỵ vừa hỏi, vừa đưa mắt dáo dác tìm trong đám đông, những đã nhìn qua nhìn lại hết hai lượt, vẫn không thấy bóng dáng của Thi lão đại, nhưng lại bị thu hút bởi hai nam tử quần áo rách rưới.
Thi Di Quang nghe hắn nhắc đến phụ thân, càng khóc thê thảm hơn, hai người đó do dự một hồi, mới bước đến trước mặt Khánh Kỵ, chấp tay thi lễ nói: “Đào thần nước Sở Phạm Lãi, Văn Chủng, tham kiến đại vương”
Khánh Kỵ ngạc nhiên nói: “Quả nhiên là các ngươi, sao các ngươi lại ăn mặc như thế, sao Thi Di Quang lại đi chung với các ngươi ?”
Phạm Lãi lắc đầu thở dài nói: “Việc này quả thật một lời khó mà nói hết được, à… đại vương quen biết Di Quang sao ?”
Khánh Kỵ càng ngạc nhiên hơn, hắn nhìn chung quang, nói: “Việc này… quả nhân cũng một lời khó nói hết được, vả lại đây cũng không tiện nói chuyện, nào, các ngươi hãy cùng quả nhân lên xe, chúng ta về thành nói tiếp.”
Hai người họ hoảng hốt nói: “Không dám, mời đại vương lên xe, Phạm Lãi, Văn Chủng đi theo xe là được.”
Khánh Kỵ không lấy làm ngạc nhiên nói: “Các ngươi và quả nhân vẫn là bằng hữu cũ, đã đến đây thì là khách, đừng chấp nhặt lễ quân thần. Mau cùng quả nhân lên xe.” Hắn nói xong bèn ngồi xổm xuống, lau nước mắt cho Thi Di Quang, nhỏ nhẹ nói: “Di Quang, theo thúc thúc về nhà nhé, có việc gì thúc thúc sẽ làm chủ cho ngươi, được chưa nào ?”
“Uhm !” Thi Di Quang mặt đầy nước mắt, khóc thút thít mà gật đầu, đôi tay nhỏ bé vẫn nắm chặt lấy áo Khánh Kỵ, quay mặt về phía Phạm Lãi, gọi một tiếng: “Nghĩa phụ.”
Phạm Lãi gật đầu đồng ý nói: “Uhm, nếu là vậy, nữ nhi cùng đại vương lên xe đi.”
“Cái gì ? Cái gì cái gì ?” Khánh Kỵ hiếu kỳ hỏi: “Thiếu Bá, ngươi gọi Di Quang là gì ?”
Phạm Lãi lúng túng đáp: “Trên đường Phạm Lãi đến nước Ngô, đã cứu được Thi Di Quang trong tay một bên lái buôn. Phụ mẫu Di Quang đều đã mất, không nơi nương tựa, nên đã bái Phạm Lãi làm nghĩa phụ, nên gọi nhau là nghĩa phụ và nữ nhi. Sao… sao thế ?”
“Nữ nhi ?”
Tiểu Tây Thi trong lòng Khánh Kỵ còn đang nước mắt giàn giụa, lại quay đầu sang nhìn khuôn mặt dơ dáy và sa sút của Phạm Lãi, nét mặt có vẻ kỳ quái.
Last edited by _Gàviệttrì_; 22-04-2011 at 11:04 PM.
Đã có 2 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của kedochanh
Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua
Chương 247: Ta không phải lão cá vàng
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
Lúc này Sở Kiệt đã nhặt lại được vật mà Thi Di Quang đã ném đi, đi đến trước mặt hắn dâng lên nói: “Đại vương, đây là… vật mà vị cô nương này đã ném đi lúc nãy.” Vật mà Sở Kiệt đang cầm trên tay chính là con dao Lỗ mà Khánh Kỵ đã tặng, hắn thấy đại vương rất xem trọng tên tiểu ăn mày này, nên cũng chẳng dám mở miệng ra là gọi ăn mày nữa. Thi Di Quang cầm lại dao Lỗ trên tay, cứ như một đứa trẻ tìm thấy lại vật yêu thích vậy.
Khánh Kỵ đầu óc loạn cả lên, vội làm rõ lai lịch của họ, bèn nói: “Mau qua đây, chúng ta lên xe rồi nói tiếp.”
Chiếc bánh xe của ngự xa cao gần bằng một người, với độ cao của càng xe Thi Di Quang không thể trèo tới được, Khánh Kỵ bèn đưa cánh tay, nhẹ nhàng đỡ lấy chân của Di Quang, ôm lấy mông nàng, rồi quay người bước về phía vương xa. Chiếc vương xa rộng hơn so với những chiếc xe thường khác gấp ba đến bốn lần, muốn nằm nghỉ ngơi ở bên trong cũng không thành vấn đề, nếu cả ba cùng ngồi cũng không thấy chật hẹp. Còn như tiểu cô nương Thi Di Quang này, chuyến này đã không biết phải chịu bao nhiêu khổ sở, mà từ khi gặp lại Khánh Kỵ liền nắm chặt lấy áo hắn không hề nới lỏng chút nào. Khánh Kỵ bèn để Di Quang ngồi trên đùi hắn, may mà vị tiểu cô nương này không nhẹ, không nặng hơn một chú mèo là mấy, nên không có cảm giác nặng nề.
Đoàn dù lọng kéo nhau về thành. Phạm Lãi, Văn Chủng bèn kể lại lịch trình của mình. Thì ra không ngoài dự đoán của Phạm Lãi, Phí Vô Kỵ quả nhiên đã sắp xếp sát thủ để giết họ trên đường đi. Phạm Lãi cũng đã an bài trước những võ sĩ thân tín của mình để tiếp ứng, chỉ là hắn trăm tính ngàn tính, cũng không tính được là Phí Vô Kỵ lại phái đến hơn trăm sát thủ bày ra thế cục lớn đến thế.
Kỳ thực là do tên Lý Hàn khi lần đầu làm việc cho Phí Vô Kỵ, đã bị một bài học do khinh địch mà thất bại ở nước Lỗ, nên lần ám sát này hắn không muốn thất thủ, nên đã phái đi rất nhiều sát thủ. Quân số hai bên cách biệt quá lớn, nên chỉ mới giao đấu một trận, Phạm Lãi đã thua tơi bời hoa lá. May mắn là những tâm phúc võ sĩ của họ đều là những hảo hán không sợ chết, tuy thất bại nhưng không hề lui bước, họ liều chết chiến đấu, có gắng yểm trợ cho hại vị đại phu chạy thoát.
Phạm Lãi, Văn Chủng kiếm nghệ không bằng những võ sĩ dưới trướng, có ở lại cũng chẳng giúp được gì, chỉ đành bỏ chạy thục mạng. Nơi đó núi cao rừng rậm, đã lâu không có bóng dáng người, hai người họ đã mất phương hướng, nên lần đào tẩu này đã bị lạc đường, hoàn toàn mất liên lạc với bộ hạ. Họ e sợ tên Phí Vô Kỵ sẽ lại phái thêm nhiều người để tìm tông tích của họ, nên đành nhân cơ hội này dứt áo ra đi, một mình đi về hướng đông. Do những hành lý mà họ đều được các võ sĩ thân tín mang theo, nên họ chẳng còn gì để phòng thân, chỉ nhờ vào hai cây đoản kiếm để phòng thân, đi săn thỏ hoang, hái ít quả dại mà ăn lót lòng.
Họ ăn gió nằm sương, cuối cùng cũng đi ra hỏi núi sâu, vào đến biên giới nước Ngô. Khi vừa ra khỏi núi, hai vị đại phu vốn dĩ phong độ phi phàm quần là áo lụa đã trở thành rách rưới thế này, mặt mày dơ dáy, trông không bằng một tên ăn mày. Với dáng vẻ đó nhìn làm sao cũng giống những nô lệ bỏ trốn khổi một đại hào môn nào đó. May là lúc này lệnh của Khánh Kỵ đã được ban bố, trên dưới nước Ngô đều biết đại vương đang chiêu nạp những lưu dân ở các nước, do đó họ không bị những tướng sĩ giữ cửa thành và thủ hạ của các quan viên trên đường đi bắt giữ, và cũng chẳng gây khó dễ cho họ.
Nước Ngô vì muốn tăng nhanh dân số, nên đã quy định rằng phàm là những bá tánh đã đến nương nhờ nước Ngô, bất luận là làm việc đồng áng, trồng dâu nuôi tằm, đánh cá, buôn bán, hay lao dịch, đều được đối đãi tốt. Đối với những người lo việc đồng áng, trồng dâu nuôi tằm và đánh cá, triều đình sẽ cho mượn công cụ và một năm lương thực, một năm sau sẽ trả lại, đồng thời chia đất hoang, núi hoang cho họ, những mảnh đất hoang khai hẩn được, những ruộng dâu đều sẽ thuộc sở hữu của họ.
Những thương nhân đương thời rất nhiều, trong tình hình tài nguyên của các nước lưu thông không tiện cũng có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, nước Ngô bèn quy định những thương nhân đến nước Ngô buôn bán sẽ được giảm một nửa thuế trong vòng ba năm. Thương nhân muốn mở rộng việc buôn bán, phát triển các nguồn hàng cũng phải bỏ ra nhiều công sức. Một khi đã thu hút họ đến đây, giúp họ có chỗ đứng vững vàng, vậy thì sau khi thời hạn ba năm trôi qua, chỉ cần thuế khóa ở nước Ngô không cao hơn các nước khác, họ cũng sẽ không dễ dàng bỏ qua mối kinh doanh này. Còn với những dịch dân đến nước Ngô để bán sức lao động của mình mà mưu sinh, đã quy định trong ba năm không cần nộp thuế.
Do vậy nên chuyến này Phạm Lãi và Văn Chủng đến đây, có không ít bá tánh từ nước Sở, Việt di cư đến, Phạm Lãi và Văn Chủng bèn trà trộn trong đó, xin nhà này một ít nhà kia một ít, bữa đói bữa no, cũng xem như đã chịu đựng được đến nay.
Họ thấy trên đường có một tên nam nhân đang đánh mắng một tiểu cô nương, nghe họ nói chuyện thì biết đó là một con buôn, bèn trượng nghĩa ra tay cứu giúp vị tiểu cô nương này, đó chính là Thi Di Quang. Thi Di Quang cơ trí thông minh, biết rằng đơn thân một mình dù có thoát khỏi bàn tay độc ác của tên buôn người kia, cũng khó tránh lại rơi vào tay người khác, bèn bái Phạm Lãi làm nghĩa phụ, theo họ đến đây. Phạm Lãi không ngờ nghĩa nữ ngang hông này lại có quen biết với Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ nghe nói họ đến nước Ngô để nương nhờ mình. Không kềm được vui mừng hớn hở, hắn đã suy nghĩ nát óc tìm cách đem Phạm Lãi, Văn Chủng hai đương thế hiền tài này đến nước Ngô, nhưng khổ nỗi họ lại là thần tử nước Sở nên chẳng biết bắt đầu từ đâu, không ngờ tên gian thần Phí Vô Kỵ quả nhiên lại giúp hắn một tay.
Khánh Kỵ cũng nói sơ qua về việc hắn và Thi gia quen biết nhau thế nào, sau đó nói với Thi Di Quang: “Tiểu Quang, thúc thúc vừa về nước đã phát người đến nước Việt tìm các ngươi, nhưng trước sau vẫn không có tung tích gì của các ngươi, phụ mẫu của tiểu Quang sao rồi ? Sao ngươi lại rơi vào tay của bọn buôn người ?”
Vừa nãy nghe Phạm Lãi nói Thi Di Quang phụ mẫu đã mất, không nơi nương tựa, trong lòng đã có cảm giác không hay. Lúc này hỏi đến, đôi mắt Di Quang lại đỏ ngầu, nước lại bắt đầu tràn ra mí mắt, nàng thút thít nói: “Mẫu thân ta… đã bệnh chết rồi. Cha vì cứu ta thoát thân, cũng đã bị quân Việt giết chết, cha nói với ta rằng, trừ phi là gặp được đại quan của nước Ngô, bằng không tuyệt đối không thể nói ra mối quan hệ giữa nhà ta và đại vương. Một mình ta chạy thoát, vừa mệt vừa đói, tên buôn người đó thấy ta thân cô thế cô, nên đã bắt ta lại, nói là phải đem ta đến Xương Lư bán, trên đường đi ta muốn bỏ trốn, liền bị hắn đánh đập, may mà… may mà được nghĩa phụ và Văn bá bá cứu giúp.”
Thi Di Quang khóc thút thít mà kể lại đầu đuôi câu chuyện. Thì ra sau khi Khánh Kỵ bỏ trốn, Thi lão đại và Thi Di Quang cũng chia nhau mà chạy thoát thân, chạy đến nhà thân thích của họ ở trong thành. Việt quân đã vẽ lại chân dung của Thi lão đại đem dán khắp nơi mà truy nã. Do lúc đó hắn đứng trên bè, lại đội nón tre, nên bức chân dung vẽ rất mơ hồ, nếu không phải là người quen thì khó mà nhận ra được, mà những người quen biết với Thi lão đại đương nhiên cũng sẽ không đi báo quan, do vậy việc này đã trở thành án chưa được giải quyết.
Sau đó, bệnh tình thê tử Thi lão đại trầm trọng, Thi lão đại chỉ đành lấy miếng ngọc mà Khánh Kỵ tặng đem đến tiệm cầm được một món tiền lớn, mời y sư về nhà chẩn trị, nhưng do bệnh của thê tử hắn đã lâu ngày, thuốc thang khó khỏi, cuối cùng đã qua đời.
Khó khăn này vừa qua, khó khăn khác lại đến. Thi lão đại đang lúc nước mắt đầm đìa mà lo chuyện hậu sự cho thê tử. Không ngờ Việt binh lại tìm đến cửa. Thì ra viên ngọc mà Thi lão đại đem ra tiệm cầm màu sắc rất đẹp, nhất định là loại ngọc thượng đẳng. Tên chủ hiệu cầm đồ đó mới đem bán lại cho quan viên địa phương, lại tuỳ tiện nói ra lai lịch của miếng ngọc. Tên quan đó nghe nói một tên đánh cá bình thường mà cũng có thể có viên ngọc màu sắc đẹp đến thế, lập tức trong lòng nghi ngờ, bèn phái người đến tra hỏi. Không ngờ lại phát hiện rằng hình dáng của Thi lão đại rất giống với hình vẽ tên tội phạm đang bị tróc nã. Thi lão đại nào dám theo họ về để chịu sự tra hỏi, chỉ đành bỏ trốn. Kết quả Thi lão đại bị trúng tên của Việt binh, Thi Di Quang thì nhảy xuống sông mà chạy thoát. Cho đến khi bị tên buôn người bắt, rồi gặp Phạm Lãi và Văn Chủng…
Nghe Di Quang thuật lại những điều đã trải qua. Khánh Kỵ ôm lấy thân hình nhỏ bé của Di Quang. Hồi lâu không nói một lời, tiếng bánh xe lộc cộc, mỗi người đều đang có tâm sự trong lòng. Phạm Lãi và Văn Chủng bên cạnh Khánh Kỵ, không ngờ vị đại vương nước Ngô này lại ngồi cùng xe với họ. Lúc này nghĩ nãy vẫn cứ như đang nằm mộng. So sánh sự xem trọng của Khánh Kỵ, lại nhớ đến lần gặp nhau tại nước Sở, trong lòng hai người họ vô cùng xúc động. Khánh Kỵ trầm tư hồi lâu, lại nhỏ nhẹ nói với Di Quang: “Di Quang, ngươi có biết đại thúc vừa tiễn ai đi không ?”
“Biết.” Thi Di Quang gật đầu đáp: “Vừa nãy có nghe bá tánh trong thành nói qua, người đó là Việt thái tử Câu Tiễn.”
“Vậy ngươi có hận thúc không ?”
“Hả ?” Thi Di Quang mở to mắt nhìn: “Di Quang tại sao lại hận đại thúc ?”
“Cha ngươi vì cứu ta, nên cuối cùng mới bị quân Việt giết chết. Thi lão đại là ân nhân cứu mạng của ta, mà ta lại thả tên Việt thái tử đi, ngươi không hận thúc sao ?”
Thi Di Quang buồn bã nói: “Nhưng người giết cha ta đâu phải Việt thái tử, trong lòng ta vẫn nhớ rất rõ tên hung thủ đã giết cha ta, đại thúc là đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc, sau này Di Quang phải theo thúc, học võ nghệ của thúc, khi trưởng thành sẽ trở về giết chết tên đó báo thù cho cha.”
Khánh Kỵ lắc đầu, nhẹ nhàng nói: “Ngốc à. Tên đó chỉ là tên lính quèn làm theo lệnh người khác mà thôi, cũng giống như con dao Lỗ trong tay ngươi. Có giết người hay không, giết những người nào, không phải là chuyện mà hắn có thể tự làm chủ. Hung thủ thật sự không phải là hắn, mà là người ra lệnh cho hắn. Bây giờ ngươi vẫn chưa hiểu, nhưng sau này trưởng thành, ngươi sẽ hiểu đạo lý bên trong đó.”
Thi Di Quang chớp mắt, hai bàn tay nắm chặt lại, tuy nàng vẫn không hiểu cho lắm những lời Khánh Kỵ nói, những cũng đã đôi chút hiểu điều mà Khánh Kỵ muốn ám chỉ: “ Ý đại thúc là, Việt thái tử Câu Tiễn mới là kẻ thù của ta ?”
“Uhm !” Khánh Kỵ nắm lấy tay nàng: “Nhưng ngươi cũng không cần học những thứ võ công chém chém giết giết này, ngươi chỉ cần nhớ, hôm nay hắn có thể trốn về nước Việt, nhưng rồi sẽ có một ngày, đại thúc sẽ bắt hắn, dùng đầu người của hắn, mà tế vong linh của cha ngươi !”
Phạm Lãi và Văn Chủng nhìn nhau, từ mắt của đôi phương đều hiểu ý nhau, câu nói ẩn đầy sát khí của Khánh Kỵ, đã đủ để hai người họ tài trí như họ suy đoán được những hàm ý bên trong đó. Chỉ với câu nói này, sau này chính sách của nước Ngô về các mặt chính trị, quân sự và ngoại giao với nước Việt, trong lòng họ đã cảm thấy rất rõ.
Quốc sách như thế. Tất nhiên là việc cơ mật của nước Ngô. Thế mà Khánh Kỵ lại nói trước mặt hai người Sở vừa chạy đến nước Ngô hoàn toàn không hề ngần ngại gì, rất thẳng thắn để cho họ thấy dã tâm của mình. Đây có thể là sự thể hiện lòng tin tuyệt đối nơi họ, những phải chăng cũng có nghĩa là, nếu họ không làm việc cho Khánh Kỵ, thì ngay cả việc còn sống mà rời khỏi nước Ngô đã biến thành không thể ?
“Tướng Quốc, Tư Đồ, hôm nay quả nhân lưu lại hai người này, là vì mưu một chuyện lớn.”
Về đến cung. Khánh Kỵ đã sắp xếp cho Phạm Lại, Văn Chủng và Di Quang đi rửa ráy và ăn uống. Sau đó lập tức triệu kiến Tướng Quốc Tôn Vũ và đại tư đồ Yểm Dư vốn đã được lệnh ở lại chờ từ trước. Hưng phấn nói: “Phạm Lãi và Văn Chủng từ nước Sở đến nương nhờ nước Ngô ta, quả nhân muốn phong cho hai người họ trọng trách, do đó muốn thương nghị trước với hai khanh.”
Yểm Dư lo lắng hỏi: “Đại vương, hai người này là đào thần nước Sở. Hiện nay đương quyền nước Sở là lệnh doãn Phí Vô Kỵ, cách đây không lâu chúng ta lại vì chuyện số châu báu bị huỷ mà có hiềm khích với nước Sở. Nếu còn tiếp tục thu nhận đào thần nước Sở. Há chẳng phải khiến tên Phí Vô Kỵ trong lòng sinh oán hận sao ?”
Khánh Kỵ cười nói: “Những chuyện khác, quả nhân còn có thể phần nào nể mặt hắn, chỉ là Phạm Lãi và Văn Chủng không phải hạng tầm thường. Quả nhân nếu được hai vị cao hiền đại tài này phò tá, thì cho dù có đắc tội với mười tên Phí Vô Kỵ, cũng rất xứng đáng.”
Tôn Vũ do dự một hồi, chấp tay hỏi: “Đại Vương đã tiến cử như thế, nhưng lại chưa biết tài năng của hai người họ đến đâu ?”
Khánh Kỵ giãn đôi chân mày ra, sang sảng nói: “Hai người này à, văn có thể an bang, võ có thể định quốc !”
Tôn Vũ nghe xong những lời đánh giá này, bất giác giật nảy mình. Nói đến cùng, Tôn Vũ cũng là Binh Thánh mà người đời sau tôn sùng. Năng lực của hắn chủ yếu thể hiện trên sự vận dụng của các chiến thuật chiến lược. Còn Phạm Lãi, Văn Chủng về điều binh khiển tướng và việc vận dụng cụ thể những chiến thuật có thể thua xa Tôn Vũ. Nhưng họ có thể dựa trên chiếc lược vĩ mô, mà kết hợp một cách hoàn mỹ các mặt kinh tế, chính trị, ngoại giao với các ý đồ quân sự. Khi họ chế định ra những hạng mục quá độ hơn mười năm về các mặt chiến lược chính trị, chiến lược quân sự đều có thể nhìn thấy được toàn cục diện. So ra, năng lực này nằm ngoài khả năng của Tôn Vũ.
Nhưng hiện giờ hai người họ vẫn là hạng vô danh tiểu tốt, chưa hề nghe danh qua, cũng chưa thấy họ có những công lao kinh thiên động địa gì. Khánh Kỵ lại mạo muội nói ra những lời này, ngay cả Tôn Vũ vốn là người rộng lượng, tuyệt đối không phải hạng quân tử hẹp hòi mà trong lòng còn cảm thấy khó chịu.
Yểm Dư lại càng thấy khó chịu hơn, lập tức nói: “Phải chăng đại vương đã quá lời ? Hai người họ trước khi đến đây chẳng qua cũng chỉ là trung đại phu nước Sở, dưới quyền thống trị lớn nhất cũng chỉ có một huyện, và cũng chưa từng nghe họ có chính trách lớn lao gì. Đại vương sao có thể khẳng định họ có tài an bang? Nói đến võ thì có thể định quốc, lại càng chưa từng nghe qua võ dũng của hai người này. Công tử Quang phạt Sở, Sở soái cần vương, trước sau đánh không biết bao nhiêu trận. lại càng không thấy họ có tác dụng gì.”
Khánh Kỵ nói: “Người có thể trị vì một huyện, chưa chắc có thể trị vì một nước; có thể trị tốt một nước, chắc gì đã trị nổi một huyện. Huống hồ triều đình nước Sở gian thần đương đạo, nào có cơ hội cho họ thể hiện ? nói đến võ dũng, hai người này quả thật không giỏi võ lực, hai người họ dù có liên thủ cũng e là không phải đối thủ của quả nhân. Nhưng… thượng binh phạt mưu, lại không phải cái dũng của hạng thất phu.”
Tôn Vũ nghe xong câu “Thượng Binh Phạt Mưu”. Trong ánh mắt như đang cười. Lúc này hắn đã bắt đầu viết binh thư, bản thảo đã từng đưa cho Khánh Kỵ xem qua. Câu nói “Thượng Binh Phạt Mưu” là câu dẫn đầu trong chương đầu tiên mang tên “Mưu chính biến” của hắn.
Tôn Vũ suy nghĩ: “Theo như lời đại vương nói, hai người này chắc là nhân tài thống soái mưu lược chăng ? Nếu họ quả thật có tài xuất quỷ nhập thần như thế. Đối với bá nghiệp của đại vương sẽ rất có ích, dù là đắc tội với một tên Phí Vô Kỵ cũng rất xứng đáng. Nhưng… trong lòng hai người này có thể tính toán được sâu xa đến thế sao ? Chưa từng thấy ở họ có những tài cán kinh người nào, lại chưa từng lập qua công lao to lớn gì, nếu mạo muội cho đảm nhận trọng trách, bá quan trong triều chắc chắn có người không phục. Cứ cho rằng hai người có học rộng hiểu nhiều, nhưng nếu quan lại các bộ không chịu phối hợp, tìm cách gây khó dễ, họ cũng khó mà làm nên thành tích. Lúc đó quan lại các bộ thêm phần chỉ trích, e là ngay cả chức vị họ cũng không giữ nổi. Đại vương cầu người hiền tài là chuyện tốt, nhưng nếu quá ưu ái, đối với họ e rằng chỉ có hại chứ không có lợi.”
Nghĩ đến đây, Tôn Vũ tâu: “Lời của đại vương thần không dám nghi ngờ, nhưng thần vẫn không tán thành họ vừa đến nước Ngô đã được đảm nhận trọng trách.”
“Hả ?” Khánh Kỵ liếc nhìn hắn: “Lý do ?”
“Vâng !” Tôn Vũ lấy hết dũng cảm nói: “Kẻ làm quan, đương nhiên phải xem phẩm hạnh, năng lực của hắn. Sau đó, mới có thể thống nhất một bộ, trên truyền dưới đạt. Danh vọng và thực lực của chủ quan cũng chính là cái để đảm bảo họ có thể dạy bảo được thuộc hạ, và hoàn thành các sứ mạng được giao. Hai người này vốn là người Sở, vừa mới đến nước Ngô đã được đại vương giao cho trọng trách, họ vừa không có căn cơ, lại chẳng có danh vọng, không thể dạy bảo được thuộc hạ, vả lại cũng dễ bị các đồng liêu đố kỵ. Nếu đại vương đã xem trọng họ như thế, quá ưu ái với họ ngược lại chính là hại họ.”
Khánh Kỵ ha ha cười lớn đứng dậy: “Rất tốt. Trường Khanh cuối cùng cũng đã không vòng vo nói chuyện với quả nhân nữa. Uhm, quả nhân cần chính là cái này của ngươi. Quần thần chúng ta tình như huynh đệ, nếu nói chuyện mà cũng phải giấu đầu lòi đuôi, quả là mất hết thú vị.”
Hắn vừa ngừng cười, mặt nghiêm nghị nói: “Năm xưa khi ta vừa gặp Trường Khanh, đã biết khanh có tài xoay chuyển tình thế, chặn đá giữa dòng, nên đã lập tức bái làm đại tướng. Lúc đó, Trường Khanh còn là người Tề vừa nương tựa quả nhân, vả lại chưa từng dẫn binh qua. Cũng chưa vang danh thiên hạ. Quả nhân có hề do dự chút nào không ?
Đội nhân mã ở Phi Hồ cốc, là sức mạnh quan trọng để quả nhân thu phục nước Ngô, nhưng khi Trường Khanh nương tựa quả nhân chưa quá hai tháng, quả nhân đã vội sANg nước Vệ, để lại toàn bộ nhân mã này cho khanh. Thậm chí lúc phạt Ngô, quả nhân ở nước Sở xa xôi, việc quân sự quan trọng này vẫn toàn bộ do khanh làm chủ. Trường Khanh có từng làm quả nhân thất vọng chưa ? Cái gọi là dùng thì không nghi, nghi thì không dùng, quả nhân đối với tài cán và lòng trung thành sau này của Phạm Lãi, Văn Chủng, cũng giống như đối với khanh năm xưa, đó là tuyệt đối tin tưởng.”
Tôn Vũ trong lòng xúc động, mắt ươn ướt, những ngày tháng Khánh Kỵ ở nước Vệ, hắn một mình lãnh binh ở Phi Hồ cốc, chưa từng nghĩ đến những điều này. Hắn không thể hiểu được, tại sao Khánh Kỵ chỉ nói vài câu với hắn, đã có thể tin tưởng mà giao đội quân tinh nhuệ quan trọng như thế cho hắn, một người mà chưa hề dẫn binh bao giờ để mà huấn luyện. Tại sao một người Tề như hắn chỉ làm môn hạ của Khánh Kỵ chưa quá hai tháng, mà khi Khánh Kỵ đi xa đến nước Vệ đã có thể yên tâm đem những đại quyền điều độ chỉ huy quân đội đều giao cho hắn.
Khi hắn dẫn theo đội quân này giết vào nước Ngô không hề chùn bước, trong lòng hắn trước sau chỉ vương vấn mãi câu: “Kẻ sĩ nguyện chết vì tri kỷ !”
Cho đến khi những ngày tháng máu đổ đầu rơi đã trở thành quá khứ, mỗi khi nhớ lại trong lòng hắn vẫn rất xúc động. Lúc này nghe chính miệng Khánh Kỵ nói ra, như có một luồng hơi ấm tràn vào phổi hắn. Bỗng nhiên hắn có đôi chút hiểu về cách làm của Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ nghiêm mặt nói với Tôn Vũ và Yểm Dư: “Tài năng của hai người này không cần phải nghi ngờ nữa, quả nhân cũng rất biết cách nhìn người. Điều lo lắng của Trường Khanh tuy không phải là không có lý, nhưng quả nhân cứ khăng khăng muốn họ giữ những chức vụ trọng yếu, cũng là có suy nghĩ kỹ càng. Thứ nhất, đối với Phạm Lãi, Văn Chủng mà nói, họ ở nước Sở không có nơi thi thố tài năng, lại bị tên Phí Vô Kỵ hãm hại, đến nỗi suýt mất cả mạng. Nếu đã đến nước Ngô, quả nhân có thể hậu đãi họ, uỷ thác trọng trách, nhất định có thể khiến họ nhất mực trung thành với quả nhân, vì nước Ngô mà tận sức, huống hồ, lúc họ ở nước Sở đã là trung đại phu, tuy chỉ là một chức vụ nhàn nhã, nhưng cấp bậc cũng không thấp, quả nhân cũng không thể mạo muội mà đề bạt họ lên thượng khanh ngay được, nếu lại không uỷ thác trọng trách, sao có thể biểu hiện được sự tín nhiệm của quả nhân với họ chứ ?
Thứ hai, từ khi nước Ngô ta tuyên bố chế độ khai khẩn ruộng đất, cho đến ngày hôm qua, bá tánh các nước đến nương nhờ nước ta tổng cộng đã hơn một ngàn tám trăm hộ, giả trẻ lớn bé hơn sáu ngàn năm trăm người, nhưng tất cả họ đều là nông phu và thợ thủ công, không hề có một sĩ tử nào. Nước Ngô đồng thời cũng ban bố việc mở rộng ngôn lộ, thực hiện quốc sách chọn những người trong tầng lớp trí thức ra làm quan, nhưng cho đến nay, tầng lớp trí thức trong nước thì hăng hái, tầng lớp trí thức ở các nước chư hầu vẫn còn đang quan sát, nhưng vẫn chưa có ai đến nương nhờ nước ta. Thử nghĩ mà xem, nếu hai tên đại phu chỉ làm huyện doãn, huyện tư mã ở nước Sở đến nước Ngô ta vẫn có thể đảm nhận trong trách, vậy thì tương lai sẽ thu hút đến đây biết bao nhiêu anh tài ?”
Yểm Dư và Chúc Dung nghe đến đây, ánh mắt như sáng hắn lên, vào lúc này vẫn chưa có việc Yến Chiêu Vương muốn xây hoàng kim đài mà thu nạp anh tài trong thiên hạ, nhưng cách làm này của Khánh Kỵ có tác dụng lớn lao đến đâu, cho dù không có cái ví dụ của Yến Chiêu Vương, Yểm Dư và Tôn Vũ cũng có thể tưởng tượng ra được.
Khánh Kỵ lại nói: “Do đó, quả nhân mới quyết định, một là không dùng, nếu đã dùng thì phải uỷ thác cho trọng trách. Những điều mà Trường Khánh lo lắng, quả nhân cũng có cách ứng phó.”
Hắn cười cười nói: “Yểm Dư vương thúc, Trường Khanh, hai người là trọng thần mà quả nhân tin tưởng nhất. Vừa là người nhân hậu rộng lượng, lại có tác phong của quân tử, để tránh việc sau khi họ nhậm chức, lại bị người khác đố kỵ, bộ hạ bằng mặt mà không bằng lòng, đồng liêu nói ra nói vào, ta muốn sắp xếp để hai người họ ở bên cạnh các ngươi, làm trợ thủ cho các ngươi, có các ngươi giúp đỡ chăm lo, tin rằng sẽ không ai cố ý gây khó dễ với họ.”
Yểm Dư và Tôn Vũ nhìn nhau, đồng loạt đứng dậy, chấp tay thi lễ nói: “Thần tuân theo ý chỉ của đại vương, quyết không phụ việc đại vương uỷ thác.”
“Rất tốt !”Khánh Kỵ vui mừng nói: “Nếu đã vậy, ngày mai thiết triều quả nhân sẽ ra chỉ dụ, phong Phạm Lãi là Thiếu Tể, hỗ trợ tướng quốc; Văn Chủng là Thiếu Tư Đồ, hỗ trợ đại tư đồ; hai người đều là giới khanh, có quyền nghị triều chính như tam công lục khanh !”
“Di Quang, có thích nơi này không ?”
Khánh Kỵ nắm lấy tay của Thi Di Quang, một Thi Di Quang vừa mục dục xong đang dạo bước trong cung Ngô vương, một chiếc áo tơ nhỏ, tóc xoã sau vai, răng trắng môi đỏ, mắt sáng long lanh, như một viên ngọc đã được mài dũa, thật rất đáng yêu.
“Uhm, rất đẹp, đây là nhà của đại thúc… đại vương sao ?”
Khi vào cung được Phạm Lãi dặn dò nhiều lần, nàng ấy đã hiểu rằng nơi đây không thể gọi Khánh Kỵ đại thúc nữa rồi. Ở quê nàng đã quen mang giày cỏ, lúc này đôi chân trắng đẹp của nàng lại đang mang một đôi giày gỗ cao, đi đường lộc cà lộc cộc một cách cẩn thận, e sợ rằng sẽ bị ngã, thế nên một bàn tay nhỏ bé cứ nắm chặt lấy bàn tay to lớn của Khánh Kỵ.
“Ha ha ha…” Khánh Kỵ vui vẻ cười to: “Đúng vậy, đây là nhà của thúc, ngươi thấy có đẹp không ?”
So với cái ổ của Di Quang ở, nàng chưa từng nhìn thấy nhiều toà kiến trúc to lớn như thế, nhất thời đầy hiều kỳ: “Uhm uhm, rất đẹp, nhà của đại thúc… thật là lớn. Phòng cũng lớn, cây cột cũng lớn, cửa cũng rất lớn, thật không hổ danh là đại vương.”
Khánh Kỵ ngừng cười nói: “Thì là ý của từ đại vương, chính là trong nhà cái gì cũng lớn sao ? ha ha, nha đầu này, thật là thú vị.”
Hắn đột ngột dừng bước, đặt tay lên đôi vai nhỏ bé của Di Quang, nhìn chằm chằm vào nàng.
“Hả ?” đôi mắt to tròn long lanh chớp chớp mắt: “Đại vương nhìn gì thế, ta bị sao à ?”
“Không sao cả…” Khánh Kỵ lại đột nhiên cười: “Tiểu nha đầu, ngươi có biết là, từ ngày người quen biết ta, ngươi đã mất đi một cơ hội để vang danh thiên cổ rồi không ?”
“Vang danh thiên cổ ?” lời của đại vương, Di Quang nghe không hiểu, rất là danh tiếng à ?”
“Uhm, nếu không có ta, ngươi sẽ rất danh tiếng, rất rất rất danh tiếng.”
Thi Di Quang nghiêng đầu suy nghĩ, đột nhiên lại lắc đầu: “Di Quang không cần danh tiếng, những người nữ nhi có danh tiếng đều xấu xa cả.”
“Hử ?” Khánh Kỵ chau mày: “Có người nữ nhi danh tiếng nào mà xấu xa vậy, nói ta nghe xem.”
Thi Di Quang thật thà nói: “Di Quang từng nghe cha kể lại chuyện của họ, Muội Hỷ, Đắc Kỷ, Bao Tự… họ đều rất danh tiếng, nhưng đều là những tiếng xấu, kết cục đều rất thê thảm.”
Khánh Kỵ nhìn nàng hồi lâu, nhẹ nhàng vuốt ve đôi má mịn màng của nàng, cười: “Uhm ! Di Quang rất thông minh, có danh tiếng không có nghĩa là hạnh phúc, ngươi nhất định sẽ rất hạnh phúc, đi thôi, nghĩa phụ ngươi đã đợi lâu rồi, ta đưa ngươi đi.”
“Hả ! Đại vương không cho Di Quang ở nhà của người à ? Nhà người có biết bao nhiêu phòng, cũng không nỡ cho ta một căn sao.” Di Quang kéo lấy tay hắn nũng nịu nói.
“Người không thích nghĩa phụ sao ?”
“Uhm… nghĩa phụ là người tốt, nhưng người rất buồn, mỗi lần buồn người đều ngồi ngẩn cả người ra, cũng chẳng biết là đang nghĩ gì, nếu không thì nói những điều mà Di Quang không hiểu với Văn bá bá, Di Quang chỉ thích ở chung với đại vương thôi.”
“Nghĩa phụ ngươi có nữ nhi, tuổi tác cũng cỡ ngươi thôi, ta đã phái người đi đón về rồi, đợi khi người nhà của nghĩa phụ ngươi đến đây, ngươi sẽ không thấy buồn nữa. Con trẻ, không thích hợp để sống trong cung. Nơi đây tuy là đẹp, nhưng quá lớn, cũng rất là sâu, ở lâu rồi, trẻ con cũng sẽ bắt đầu biết âm mưu, bớt đi vẻ ngây thơ, và cũng trầm mặc hơn, không còn lanh lợi nữa.”
Thi Di Quang lại nghiêng đầu suy nghĩ, hỏi: “Cũng giống như… con chim nhỏ bị nhốt trong lồng”
“Thông minh !”
“Uhm…” Thi Di Quang bịn rịn nắm lấy tay hắn, đôi mắt long lanh hỏi: “vậy thì… Di Quang ở nhà của nghĩa phụ, người có thường xuyên đến thăm Di Quang không ?”
“Đương nhiên !”
“Vậy thì… nếu Di Quang nhớ người, có thể đến nhà người để tìm người không ?”
“Đương nhiên !”
Di Quang cười khúc khích: “ Được, vậy chúng ta đi thôi.”
Di Quang quay người đi được vài bước, đột nhiên lại dừng bước, suy nghĩ một hồi, lại nói: “Người nói nhà người không thích hợp để trẻ con ở, vậy đợi đến khi ta trưởng thành, người có thể đón ta đến nhà người ở không ?”
Khánh Kỵ buông tay, đưa tay lên xoa cằm, nhìn nàng hồi lâu không nói.
Di Quang lại nũng nịu, chi chiếc miệng nhỏ xíu lên: “Ta biết mà, người gạt ta.”
Trong mắt Khánh Kỵ lộ ra nét thú vị, hắn bỗng nhiên cười, cúi người xuống, vịn vào vai Di Quang, dùng nụ cười của một lão cá vàng nói với nàng: “Uhm, đợi ngươi trưởng thành rồi, nếu thích dọn vào nhà của đại thúc ở, đại thúc sẽ đón ngươi về, được chưa ?”
“Hi hi, được !” Thi Di Quang thường dùng chiêu này với phụ thân, lần này cũng vẫn có hiệu nghiệm, nên đã tươi cười hớn hở, nhảy chân sáo nói: “Người lớn không được gạt trẻ con nhé, chúng ta nhất ngôn cửu đỉnh !”
“Nhất ngôn cửu đỉnh !”
Khánh Kỵ đưa ra bàn tay to lớn, vui vẻ nhìn Di Quang, cứ như đang nhìn một con cá vàng đã mắc câu vậy, Di Quang cũng vui vẻ đưa tay ra, đánh ba kích chưởng vào bàn tay to lớn của hắn, cười tươi như hoa nở.
Thời gian trôi nhanh, thấm thoát lại một tháng đã qua, hôm nay, sắc trời âm u, cây cỏ đã bắt đầu rơi rụng, gió cuốn những chiếc lá khô đi khắp đầu phố cuối hẻm. Khí trời không được tốt, nên rất ít người đi lại trên đường, thế mà Ngô Vương Khánh Kỵ lại cùng với Tôn Vũ, Yểm Dư, Phạm Lãi, Văn Chủng đứng trên đầu thành Tề Môn, mà hóng gió, nhìn về phía xa xăm, chuyến lương thực đầu tiên của Thành Tú đã được vận chuyển đến nước Ngô thuận lợi.
Nhìn đoàn xe dài thườn thượt, Văn Chủng vui mừng nói: “Thành Tú quả thật là có cách, ha ha, hắn trở về thật là đúng lúc, số lương thực tích trữ trong Cô Tô thành, và sáu ngàn thạch lương thảo mà nước Ngô chuyển đến không đủ để bá tánh nước Ngô và các di dân chống đỡ trong nửa năm, trước mắt các bá tánh trong thiên hạ đang lần lượt không ngừng kéo đến nước Ngô ta, nhất thiết phải tăng cường dữ trữ đầy đủ, nếu không có số lương thực mà Thành Tú chuyển về, Thiếu tư đồ như thần cũng hết đường xoay sở.
Last edited by _Gàviệttrì_; 23-04-2011 at 12:11 AM.
Đã có 2 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của kedochanh
Từ sau khi Phạm Lãi và Văn Chủng đến nước Ngô, bỗng nhiên được đề bạt vào vị trí quan trọng chỉ sau Tướng Quốc và Đại Tư Đồ, quả thật đã gây nhiều tranh cãi tại nước Ngô, nhưng hai người này quả không phụ lòng mong đợi của Khánh Kỵ, vừa lên nhậm chức, đã thi thố hết những tài năng đặc biệt khác với người thường, chỉ với công sức trong một tháng, những lời đàm tiếu đã dần dần biến mất, cho dù vẫn có người trong lòng không phục, nhưng cũng không thể trách tội họ được, điều này thật khiến Khánh Kỵ vui mừng.
Trị vì sự vụ của một nước vô cùng nhiều và phức tạp, mà Phạm Lãi và Văn Chủng đặc biệt là sở trường xử lý các việc chính vụ, dân sinh của họ, đã bù đắp cho những khiếm khuyết mà Yểm Dư và Tôn Vũ vốn là người được sinh ra trong giới công khanh quý tộc thường mắc phải, với sự hỗ trợ của họ, tướng quốc Tôn Vũ và Đại Tư Đồ Yểm Dư đã sắp xếp nước Ngô một cách có trật tự, mọi việc mọi mặt đều đã đi vào quỹ đạo, nước Ngô đã bắt đầu có sức sống mới.
Do tác dụng của những tấm gương là Phạm Lãi và Văn Chủng, tầng lớp trí thức ở các nước trong lòng cũng bắt đầu xao động, đã có người đi đến nước Ngô, tin rằng sau mùa đông này, đến đầu xuân sang năm, sẽ càng có nhiều sĩ tử lần lượt kéo đến đây.
Việc khảo hạch các quan lại đều do Khánh Kỵ đích thân làm, luôn theo nguyên tắc đúng người đúng việc, đồng thời cũng không làm tổn thương đến bầu nhiệt huyết của sĩ tử các nước, nên phàm là những sĩ tử đã đến đây, được Khánh Kỵ khảo hạch sơ bộ, ít nhiều gì cũng cho họ một chức vụ, đồng thời đặt thêm cho chức quan đó một cái tên rất mới mẻ là “Thử Việc”, trong thời gian thử việc nếu biểu hiện tốt sẽ có thể làm tiếp, có biểu hiện ưu việt thì được đề bạt lên, cũng có thể miễn tên gọi các chức vụ đó, nhưng nếu làm thế thì không sợ bị chê trách, lại có thể loại bỏ những sĩ tử không phù hợp.
Trùng kiến nước Ngô, có những anh tài này giúp đỡ vốn không có gì là khó khăn, cái khó là ở chỗ làm thế nào để nhanh nhóng nâng cao thực lực tổng hợp của nước Ngô, nền móng của nước Ngô rất yếu so với các nước lớn ở trung nguyên, lại vừa trải qua mấy năm tiêu hao vì chiến tranh, khó khăn trước mắt chính là số nhân khẩu không ngừng gia tăng, nhưng số lương thực lại cung ứng không đủ. Khánh Kỵ lại không muốn vì thế mà làm chậm tốc độ cường hóa nước Ngô, nên dạo gần đây sứ mạng của Thành Tú đã trở nên rất quan trọng, vì muốn hắn an tâm mà lo việc thu mua lương thực, Khánh Kỵ không hề hối hắn cái kỳ hạn trong một tháng phải tìm ra Thành Bích, việc nào nặng việc nào nhẹ hắn vẫn phân biệt rất rõ.
Thời khắc này, chuyến lương thực đầu tiên đã chuyển đến nước Ngô thuận lợi, điều đó cũng có nghĩa là hắn đã thành công tìm được con đường thông suốt, những chuyến lương thực sau sẽ tự đến không dứt, căn cứ theo số liệu mà Thành Tú trình báo, dựa vào số lương thực này, nước Ngô có thể an nhàn mà qua mùa đông năm nay và mùa xuân sang năm. Rồi từ đó về sau, chỉ cần có người khai khẩn ruộng đất, chỉ cần nước Ngô tránh chiến loạn, trong cái thời đại đất hoang màu mỡ, nhân khẩu còn ít này, chẳng lo có hiểm họa thiếu lương thực.
“Đại Vương, số châu báu trong quốc khố, sau khi được quy thành kim ngân, trước mắt ngoài việc thu mua lương thực, số còn lại đã giao cho Nhâm gia, xem như là số tiền mà Triều Đình bù đắp, cho những nông cụ mà Nhâm gia chế tạo để bán cho các nhà nông, ngoài ra còn chi trả một phần cho Lữ gia, để họ thu mua trâu cày. Số còn lại, thần dự tính…”
Đoàn xe lương càng lúc càng tiến gần hơn, Văn Chủng lại bắt đầu vui mừng hớn hở mà tính toán. Từ khi hắn đảm nhận chức Thiếu Tư Đồ, đã tốn công sức trong bảy ngày dẫn toàn bộ nhân viên đem tất cả châu báu trong quốc khố tính toán lại rất rõ ràng, sau đó lại cứ giống như một bà quản gia tính toán chi li, mỗi một món tiền chi tiêu, hắn đều tính toán tỉ mỉ nên trả bao nhiêu thu bao nhiêu. Nếu cảm thấy số tiền chi ra với cái được lại không phù hợp, hoặc giả không phải nhu cầu cấp thiết, hắn quyết không chi ra một văn tiền nào, nên các công khanh đại phu trong Cô Tô thành đã đặt cho hắn biệt hiệu là Văn keo kiệt.
“Số tiền còn lại, dĩ nhiên là vẫn tiếp tục thu mua lương thực.”
Khánh Kỵ ngắt lời hắn, kéo chặt chiếc áo khoác ngoài, rồi quay đầu lại cười nói: “Tử Cầm, ngươi hãy tính toán cho kỹ càng, để lại những khoản cần dùng, số còn lại toàn bộ đều đưa cho Thành Tú để mua lương thực. Số lương thực tích trữ của Thành Gia đã mua sạch rồi, thì phải ra giá cao mà mua lương thực từ các đại phú hào và thương buôn của các nước khác.”
Văn chủng ngẩn người ra, nói: “Đại Vương, thần đã tính toán qua, mấy chuyến lương thực của Thành Tú đã đến, đã có thể giải quyết vấn đề thiếu lương thực của nước Ngô ta vào mùa đông nay và xuân sang năm. Sau đó, với quy mô trồng trọt hiện có, lại thêm các di dân khai khẩn ruộng hoang, đất hoang, ra biển đánh bắt cá, các chính sách này đều được thi hành, cho dù căn cứ theo thống kê lương thực của nước ngô vào năm ngoái khi còn chiến loạn. nước Ngô cũng đã đủ tự nuôi mình.”
Khánh Kỵ chỉ hắn cười: “Tử Cầm tính toán quả rất rõ ràng. Thế quả nhân hỏi ngươi, nước Ngô ta nếu muốn trở thành nước lớn trong thiên hạ như Tề Tấn, phải làm cách nào mới được thế ?”
Vấn đề này lại can thiệp đến nhiều mặt khác nhau, Muốn trở thành cường quốc trong thiên hạ, không ngoài những mặt Chính trị, kinh tế, quân sự phải lớn mạnh. Nhưng phía sau mỗi phương diện có những vấn đề còn sâu xa hơn. Văn Chủng đã từng nghĩ qua, đang không biết nên bắt đầu nói từ đâu. Khánh Kỵ đã nói: “Tử Cầm không cần phải nói dài dòng. Quả nhân chỉ hỏi ngươi. Nước Ngô nếu muốn trở thành cường quốc trong thiên hạ, chỉ dựa vào điều kiện nhân khẩu của nước Ngô hiện nay, cả việc binh sĩ tinh nhuệ và lương thực đầy đủ, đã có thể vang danh thiên hạ chưa ?”
Thời đại này, dân số đông quyết định sức mạnh của hai bên là mạnh hay yếu. Với số nhân khẩu hiện nay của nước Ngô, cho dù có lương thực như núi, nhà nhà no ấm, cũng khó mà xưng bá thiên hạ, cho nên Văn Chủng đã lập tức đáp lại : “Không thể !”
Khánh Kỵ nói: “Vậy là đúng rồi, thiên hạ ngày nay, tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá một quốc gia có mạnh hay không, chính là ở sự đông đúc của nhân khẩu. Nhân khẩu đông mới có thể đảm bảo việc trồng trọt canh tác, đảm bảo có đủ nhân khẩu để phục dịch nạp thuế, đảm bảo các mặt nông công thương đều dùng đủ người, đảm bảo lúc lâm trận có đủ nguồn binh sĩ. Ngược lại, một nước giàu mạnh, quốc gia ổn định, bá tính ấm no, trẻ em ra đời nhiều, khẳng định quốc gia này có thể an tâm mà lập nghiệp, lúc đó mới nhiều người phục dịch, ngược lại cũng có thể chứng minh nước đó mạnh.”
Hắn nói đến đây, híp mắt lại nhìn đoàn xe càng lúc càng gần, sau đó chỉ Tôn Vũ, hỏi: “Trường Khanh, quả nhân cho ngươi năm năm thời gian, có thể huấn luyện cho quả nhân một đội binh hành quân cấp tốc, quân kỷ nghiêm minh, lâm trận anh dũng không ?”
Tôn Vũ suy nghĩ một chút, khẳng định đáp: “Có thể !”
Khánh Kỵ lại quay về phía Văn Chủng, nói: “Tử Cầm, Quả nhân cho ngươi thời hạn năm năm, để ngươi thi thố hết mọi tài năng, có thể tạo cho quả nhân vạn mẩu ruộng tốt, quốc khố đầy tràn, bá tánh ấm no không ?”
Văn Chủng trước giờ đều rất cẩn thận, suy đi nghĩ lại, mới nói: “Nếu nước Ngô ta có thể tạm ngừng binh đao, để thần có thể dễ dàng điều lý, để bá tánh có thể được bồi dưỡng phát triển. Với quốc sách hiện nay của nước Ngô ta, thần có thể làm được.”
“Được ! Thiếu Bá, Trường Khanh và Tử Cầm chỉ cần thời gian năm năm, đã có thể cho quả nhân tinh binh và lương thực đầy đủ. Quả nhân cũng cho người thời hạn năm năm, có thể khiến nước Ngô ta văn thần, võ tướng, sĩ tử đông như mây ? Nước Ngô ta có thể có hơn trăm vạn cường đinh, các ngành nghề sĩ nông công thương đều đầy rẫy nhân tài ?”
Chức quan Tướng Quốc, nắm giữ và xây dựng lục điển, để giúp vua trị bang, các nội dung phụ trách cụ thể rất phức tạp và nhiều, từ phương châm quốc gia cho đến cuộc sống thế tục và cả nông điền thủy lợi, rồi lại đến giáo dục phổ cập, không có gì là nằm ngoài quyền xử lý của hắn, nay Tôn Vũ làm tướng, nhưng chủ yếu thiên về quân sự, còn dân chính đa phần do Phạm Lãi phụ trách, vậy thì vấn đề giáo dục và vấn đề nhân khẩu đều do hắn phụ trách, nên Khánh Kỵ mới hỏi hắn.
Phạm Lãi suy nghĩ trong đầu nhanh chóng, lờ mờ nắm được mạch suy nghĩ của Khánh Kỵ, nhưng lúc này Khánh Kỵ đang hỏi, hắn cũng không cách nào mà suy nghĩ tiếp, chỉ đành chau mày, lắc đầu nói: “Thời hạn năm năm, hoàn thành yêu cầu của đại vương, còn khó hơn lên trời. Dạy con phải có cách, một năm trồng ngũ cốc, mười năm trồng cây, trăm năm trồng người. nếu muốn nhân tài đầy rẫy, cần mở rộng các trường học, dạy cho dân chúng tứ thuật lục nghệ, vương quan chi học, thuật nghệ phổ thông. Mới có thể đào tạo được nhân tài. Nếu tính đi tính lại, chí ít cũng mất hơn mười năm thậm chí đến hơn trăm năm mới có hiệu quả.”
Tứ thuật lục nghệ, vương quan chi học, là khởi nguồn của chư tử chi học, chư tử chi học lại là khởi nguồn của quan học, nho gia xuất xứ từ tư đồ chi quan, đạo gia xuất sứ từ sử quan, âm dương gia xuất sứ từ Hy Hòa chi quan, Pháp gia xuất sứ từ lý quan, danh gia xuất sứ từ lễ quan, mặc gia xuất sứ từ thanh miếu quan, tung hoành gia xuất sứ từ hành nhân chi quan, Tạp gia là của nghị quan, nông gia là của nông tắc quan, Gia là của Bái quan.
Khởi nguồn của các học thuyết luôn xuất hiện không ngừng, mỗi học thuyết lại có sở trường riêng, và từ sớm đã có lý luận căn cơ thâm hậu, những danh nhân nổi tiếng của các học thuyết này, đều là kế thừa và phát triển các học thuyết của tiền nhân, rồi phát dương quang đại mà thôi, chứ không phải chỉ trong vòng mấy trăm năm thời xuân thu chiến quốc này, lại đột nhiên xuất hiện nhiều học thuật cao thâm đến thế.
Thời này các sĩ tử công khanh đều được học các tri thức trong các học phủ do quan phủ mở, còn về mặt tư học tuy sau này Không Khâu là nổi danh nhất, nhưng hắn lại chẳng phải người đầu tiên mở tư học, đương thời trường tư thục trng dân gian ở các nước đã có quy mô rất lớn, nên Phạm Lãi đã liệt đó vào để bổ sung cho Quan học.
Phạm Lãi lại nói: “Nếu muốn làm được đinh dịch đều đầy đủ, cứ cho là bây giờ bắt đầu khuyến khích việc kết hôn, sinh sản, cũng phải chờ hai mươi năm sau mới có hiệu quả. Muốn có trăm vạn tráng đinh, dù từ giờ không động binh đao, chuyên tâm sản xuất, phát triển sức dân, e là cũng phải hơn trăm năm trở lên.”
Khánh Kỵ nói: “Đúng vậy, quả nhân có những đương thế anh tài như các ngươi trợ giúp, càng có hy vọng khiến nước Ngô lớn mạnh. Về việc muốn nước Ngô lớn mạnh, trong các nhân tố hạn chế việc phát triển của nước Ngô, điều mà nan giải nhất, cần nhiều thời gian để giải quyết nhất, chính là nhân tài và nhân khẩu. nếu nước Ngô ta muốn tự bồi dưỡng nhân tài mà cần thời gian dài thế, vậy thì tại sao lại không thu nạp nhân tài của các nước khác chứ ?
Trong triều của quả nhân, Trường Khanh là người nước tề, Anh Đào là người nước Lỗ, Tử Cầm và Thiếu Bá lại đến từ nước Sở, các ngươi hiện đều là cánh tay đắc lực của quả nhân, quả nhân hy vọng có thể chiêu mộ thêm nhiều hiền tài làm trụ cột trong triều đình nước Ngô ta. Còn về sức dân, nếu việc tự tăng cường số đinh tráng không có kế sách gì tuyệt diệu để không cần chờ đến trăm năm mới thấy hiệu quả, vậy tại sao lại không thu hút di dân các nước đến nước Ngô, để làm việc cho quả nhân chứ ?”
Yểm Dư trong lòng thắc mắc, xen vào hỏi: “Đại vương, nước Ngô ta chẳng phải đang chiêu hiền nạp sĩ, thu hút di dân các nước sao ?”
Khánh Kỵ trả lời: “Không sai, nhưng quả nhân thấy tiến triển có vẻ chậm, bá tánh di cư từ các nước khác đến cần thời gian khá dài, chỉ dựa vào quốc sách ưu tiên cho việc khai khẩn ruộng đất của nước Ngô ta, chưa chắc đủ để các bá tánh hạ quyết tâm mà di cư đến nước Ngô. Trước mắt nước Tấn nam hạ bị ngăn bởi Tần Sở, nước Tề nam hạ lại bị ngăn bởi nước Lỗ và Đông Di, cuộc chiến giữa các nước chư hầu, e là cũng sắp chấm dứt chiến tranh, rút binh nghị hòa. Đến lúc đó, những bá tánh có lòng muốn di cư mà chưa kịp đi sẽ lại tiếp tục định cư trở lại, nước Ngô ta sẽ không chiêu nạp đủ nhân khẩu, vậy thì lỡ mất cơ hội rồi !”
“À !” Cuối cùng Phạm Lãi đã hiểu ý của Khánh Kỵ, vui mừng mà vỗ tay một cái, khen ngợi: “Tuyệt, vi thần đã hiểu ý của đại vương. Nếu các nguyên nhân khách quan không đủ để thôi thúc các bá tánh đến nước Ngô, vậy chúng ta nên tạo ra một ít nguyên nhân chủ quan để mà thúc đẩy họ. Cuộc chiến giữa các nước lần này đã đánh từ mùa đông năm ngoái đến nay, các nước đều vì chiến sự mà bỏ lỡ việc đồng áng. Trước mắt các nước vẫn còn dư lương thực, nên chưa thấy cái khốn khó, nhưng lương thực của các nước e là không đủ để chống chọi đến mùa thu sang năm. Do đó chỉ cần qua thêm vài tháng, nạn đói sẽ dần dần xuất hiện, cho đến khi cả thiên hạ đều chịu nạn. Nếu chúng ta đi trước một bước, mua lại lương thực tích trữ trong tay công khanh và thương buôn các nước. Đợi đến khi nạn đói bắt đầu xảy ra…”
Mọi người nghe hắn nói, cũng đã hiểu ý của Khánh Kỵ, Văn Chủng thì há mồm tặc lưỡi, mắt trợn to hồi lâu, rồi lại vội vàng cúi đầu tính toán nói: “Thần đã hiểu, thần đã tính toán kỹ càng, còn có thể lấy đâu ra tiền, toàn bộ đều mua lương thực hết…”
Mỗi khi Văn Chủng bắt đầu tính toán, như ngay lập tức hắn lại rơi vào cái thế giới của hắn, hai mắt thẳng tắp, trong miệng lẩm bẩm, cũng chẳng nghe rõ hắn đang lẩm nhẩm cái gì. Khánh Kỵ và mọi người nhìn thấy, không kềm được cười.
Bên dưới cửa thành rộng mở. Chiếc xe lương đầu tiên đã vào thành, Khánh Kỵ đi đến bên tường thành, tay vịn vào tường, mắt nhìn ra xa, nói: “Lê dân bá tánh phụng dưỡng quả nhân, phải đổ cả máu và làm ra miếng ăn để nạp thuế. Cái họ cần chẳng qua là một nơi có thể an cư lạc nghiệp. Quả nhân mong sớm lập công lớn, là vì giang sơn xã tắc, cũng là vì lê dân bá tánh có thể an cư mà lạc nghiệp. nay Tần, Sở đều đang yếu thế, Tề Tấn Lỗ Tống đều đang lo loạn trong nước, đây chính là lúc mà nước Ngô ta phải hăng hái lên. Các Khanh có biết chí hướng của quả nhân là ở đâu không ?”
Yểm Dư, Tôn Vũ nhìn nhau, cuối cùng Tôn Vũ tiến lên chấp tay nói: “Đại vương muốn cửu hợp chư hầu, nhất thống thiên hạ, xưng bá với các chư hầu.”
Khánh Kỵ cười cười, chớp mắt nói: “Xưng bá với các chư hầu ? Tề Hoàn Tấn Văn, Tần Mục Sở Trang. Nay có an phận không ? Xưng bá một triều một đời rất oai phong sao ? Nếu vậy thì, chi bằng quả nhân an phận ở nước Ngô mà hưởng phước, quân thần chúng ta phú quý một đời là đủ rồi, hà tất phải lao tâm khổ trí, chiêu nạp hiền lương khắp nơi ?”
Tôn Vũ kinh ngạc, vội hỏi: “Vậy thì… chí hướng của địa vương là”
Khánh Kỵ chậm rãi nói: “Các khanh đều là tâm phúc của quả nhân, quả nhân không ngại nói cho các khanh biết. Chí hướng của quả nhân không phải là xưng bá, mà là mưu quốc !” tay hắn chỉ về phái trung nguyên, nói từng chữ từng chữ một: “Cái quả nhân cần mưu, là thiên hạ nhà Chu !”
Lời Khánh Kỵ vừa nói ra, mấy vị trọng thần bênh cạnh đã hoảng hồn. Trên thành nhất thời im ắng vô cùng, có có tiếng cờ bay phần phật.
Một hồi lâu sau, Yểm Dư hoảng hốt nói: “Chí hướng của đại vương quá xa, Yểm Dư quả thật chưa từng nghĩ qua việc này. Nhưng… muốn làm được vậy, cần mất bao nhiêu năm thời gian? Chúng ta có thể thành công không ?”
Khánh Kỵ cười nói: “Ân Thương tồn tại hơn sáu trăm năm, đến cuối cùng, khi các chư hầu ra đời, Đại Thương đã lẫm liệt mà đứng đó, khi họ già đi, Đại Thương vẫn cứ lẫm liệt mà đứng đó, thế là rất nhiều nhiều đã quen thuộc với sự tồn tại của nó, có nằm mơ cũng không dám nghĩ đến chuyện thay ngôi đổi vị, cũng giống như các khanh hiện giờ.
Thế là Vũ Vương đã nghĩ, và cũng đã hành động, chỉ với hai huyện Phong, Cảo trong tay mà khởi binh phạt Trụ, kết quả thế nào ? Chúng khanh gia, thành sự tại nhân, nếu không làm thì suốt đời ngươi cũng không biết là có thể thành công hay không. Đại thế trong thiên hạ, chia cắt lâu ngày rồi cũng sẽ tái hợp, đó là xu hướng của địa thế, hôm nay quả nhân không làm, cũng có một ngày người khác sẽ làm, cho đến khi xe cùng một đường, sách cùng một chữ, người cùng một đạo lý, mà sáng tạo nên một thế giới mới. Đời người không quá trăm năm, chúng khanh có đồng ý giúp quả nhân hoàn thành đại nghiệp này không ?”
“Làm khai quốc công thần, được phân phong với thiên hạ, làm chư hầu một phương.” Chỉ nghĩ đến mục tiêu này thôi, mọi người đã không kềm được rạo rực trong lòng, tim cũng đập thình thịch cả lên.
Khánh Kỵ đương nhiên sẽ không nói họ biết dự định này của hắn không hề chỉ là nói cho vui. Có hắn ở đây, nước Ngô trở thành cường quốc sẽ ít phải đi đường vòng hơn, nhưng nếu đợi đến khi những điều kiện để nhất thống thiên hạ chín muồi, e là những năm hắn còn sống cũng khó mà làm được. Nhưng khi Tần Hiếu Công biến pháp cường quốc, mục tiêu của hắn không phải nhất thống thiên hạ, mà là tạo ra điều kiện, thế là Doanh Chính đã làm được.
Từ nay trở đi Khánh Kỵ đã bắt đầu tích trữ lực lượng, hắn tin rằng sẽ nhanh hơn tiến trình của nước Tần nhiều, khi nước Ngô của hắn có đủ sức để mà nhất thống thiên hạ, thì từ lúc đó trở đi một nước Tần lại suy yếu lần nữa, e là sẽ còn suy yếu hơn cả nước Tây Thùy nhỏ nhoi đã từng bị nước Ngụy nuốt trọn. Cho dù sự nghiệp vĩ đại này không thể được hoàn thành bởi tay hắn, nhưng chưa chắc đã không thể để cho tử tôn của hắn làm tiếp bước cuối cùng này. Đến thời đại này cũng đã lâu rồi, ở đây hắn có người thân, có bằng hữu, có các thuộc hạ trung thành, không lâu nữa, hắn sẽ có thê tử của hắn, hài nhi của hắn, hắn cũng chẳng còn xa lạ gì với cái thế giới này, hắn như đã hoàn toàn hào hợp vào đó, đồng thời dã tâm và hoài bão của hắn cũng đã giao phí cho cái thế giới này.
Công lao một đời, nhất thống thiên hạ, đây đúng là mục tiêu chỉ dám mơ chứ không dám làm, nhưng hạng người như Tôn Vũ, Phạm Lãi không nghĩ thế. Họ tài trí khác với người thường, lòng ôm chí lớn, vào cái niên đại tư tưởng mở rộng, nhiều học thuyết mới lạ và các giả thuyết chính trị tương tự nhau, nên họ rất dễ tiếp nhân những quan điểm mới đến kinh thiên động địa. Huống hồ, có tấm gương thành công của Vũ Vương, mà Khánh Kỵ lại là người được thần linh xem trọng, lại là vị vua từng ngao du thiên phủ tiên quốc, một khi họ tiếp nhận cái chí hướng này, ngược lại còn có lòng tin hơn cả Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ nói: “Trường Khanh, Quả nhân lệnh cho ngươi xây Lăng Yên các, sau khi Lăng Yên các được xây xong, sẽ chuyên để cung phụng những bức họa của các đại thần có công mở mang bờ cõi, bắt đầu từ triều đại của Khánh Kỵ ta trở đi, sẽ cùng với tông thất thái miếu nước Ngô ta, hưởng hương hỏa của nước Ngô, được các tử tôn quỳ lễ !”
Hạng người như Tôn Vũ sau khi nghe xong đã hào khí lên mây, huyết mạch sục sôi, những suy nghĩ về việc kiến công lập nghiệp bắt đầu xuất hiện…
Trong nghị chính sảnh của Vương cung, đám người Tôn Vũ đang trình bày ý kiến của mình, thao thao bất tuyệt. Việc xưng bá và mưu quốc khác nhau, theo chí hướng của Khánh Kỵ, đám người Tôn Vũ đã thực hiện một loạt những quy hoạch đối với chính sách đối ngoại. Hiện giờ có thêm Phạm Lãi, Văn Chủng là hai nhân tài chính trị trời sinh, lại thêm binh thánh Tôn Vũ, hợp mưu hợp sức, cùng nhau nghiên cứu, rất mau chóng đã đưa ra được một sách lược tường tận, ngày ngày đều cùng Khánh Kỵ thương thảo, rồi lại hiệu chỉnh, để mau chóng đưa ra một phương hướng chính trị cụ thể, và theo đó mà phát triển.
Tôn Vũ đang phân tích các hình thế xung quanh nước Ngô, ý kiến này của hắn ngày hôm qua đã thảo luận riêng với Khánh Kỵ, lúc này hắn đang nói với đám người Phạm Lãi, Khánh Kỵ vì đã nghe hắn nói qua rồi, nên không chú ý lắm, hắn bắt đầu nghĩ đến tâm sự trong lòng.
Thành Tú vừa chuyển lương thực về Cô Tô thành, Văn Chủng đã rất nhanh chóng kiếm được một món tiền lớn lại đuổi cổ hắn đi tiếp. Bôn ba giữa các nước tuy là cực khổ, nhưng Thành Tú lại thấy vui mừng, xem ra đúng là hắn có ý muốn né tránh Khánh Kỵ, sợ là Khánh Kỵ lại truy hỏi hắn tung tích của Thành Bích. Khánh Kỵ biết rõ bụng dạ của hắn, nhưng Thành Tú thì cứ kiếm cớ che giấu né tránh, nên Khánh Kỵ lại càng khẳng định hắn đã nhận được tin tức của Thành Bích.
Nhớ lại dáng vẻ lưu luyến không nỡ của Thành Bích khi hắn rời khỏi nước Lỗ, Khánh Kỵ quả thật nghĩ không ra nàng ấy vì lý do gì mà đã đến bên cạnh hắn rồi, lại không chịu gặp mặt hắn. Khánh Kỵ không hề cho rằng Thành Bích đã gặp nguy hiểm gì, nếu quả thật nàng ấy gặp nguy hiểm, Thành Tú sẽ không ung dung tư tại như thế mà bôn ba khắp nơi vì hắn, càng không che giấu hành tung của Thành Bích với hắn.
Trừ phi… Thành Bích vì hôn sự của hắn với Diêu Quang, Tiểu Man và Nhược Tích mà tỏ lòng ghen tuông, nên đã cự tuyệt gặp hắn chăng ? Theo lý mà nói cũng không đúng, tính cách của người nữ nhi thời địa này như Thành Bích, sẽ không có loại giác ngộ này, với thân phận của hắn, cho dù có cưới công chúa của thiên hạ đệ nhất đại quốc, vả lại còn hay ghen tuông, cũng không thể ngăn hắn nạp thêm phi tử. vậy chẳng lẽ trong lúc hắn rời khỏi nước Lỗ nàng ấy đã tìm được niềm vui mới ?
Cái ý nghĩ này vừa xuất hiện trong đầu Khánh Kỵ, liền bị Khánh Kỵ gạt bỏ ngay, Thành Bích tuy rất phong tình, trời sinh kiều diễm, đó chỉ vẻ đẹp hại nước hại dân mà ông trời đã ban cho nàng, chứ người nữ nhi này không phải là một người lẳng lơ, với nhan sắc và thân phận của nàng, nếu nàng ấy là người tùy tiện như thế, cũng sẽ không vì một phu quân không hề yêu thương đã qua đời từ lâu mà giữ thân như ngọc. Nói cho cùng, thậm chí nàng ấy còn có vẻ sợ hãi và chán ghét nam nhân, cho đến khi nàng ấy gặp hắn…
“Thành Bích, sao nàng lại trốn tránh ta chứ ? chẳng lẽ là vì thân phận của Tiểu Man ? Nói đến cùng thì Tiểu Man cũng được xem là như con của nàng, mà cũng không đúng, thời đại này, thê thiếp của phụ thân con trai cũng có thể tiếp nhận được, Cô và cháu cùng lấy một phu quân, Cháu cùng được gả với thúc mẫu ở góa cũng là chuyện thường tình, với thân phận của Thành Bích, Tiểu Man trước sau gì cũng không thể xem nàng ấy là mẫu thân, nên thân phận này sẽ không gây trở ngại gì, vậy thì… chẳng lẽ là do sự căm thù của Tiểu Man với nàng ấy ?”
Khánh Kỵ tay chống cằm nghĩ đến xuất thần, Tôn Vũ cứ cho rằng đại vương đang chăm chú lắng nghe, nên càng hứng thú mà nói: “Từ những phân tích trên, nước Ngô ta tuy chỉ nằm ở một góc đông nam, chưa chắc đã đủ mạnh để mà giành lấy Trung Nguyên. Nội bộ Tề Tấn ngoài mạnh trong yếu, công khanh làm loạn, các chư hầu ở trung nguyên thì cứ thủ cựu không có tinh thần tiến thủ, nước Ngô ta nên đánh nước Việt trước, rồi tiếp đến là Kinh Sở. Kinh Sở rất nhiều ruộng hoang màu mỡ, sĩ dân giàu có, nếu chiếm làm của riêng, thì có thể đứng vững mà nhìn thiên hạ.”
Phạm Lãi nói: “Ý của đại vương là, lúc này ta cần bồi dưỡng và phát triển, tích trữ sức nước. Do đó có thể tránh được binh đao thì cứ tránh, nếu bất đắc dĩ, cũng phải hạn chế quy mô của chiến tranh ở mức thấp nhất, nước Sở tuy vừa mới bại dưới tay nước Ngô, nhưng thực lực vẫn còn, nên không dễ gì chiếm được. Vì vậy thần cho rằng, đợi đến khi thời chơ chín muồi, có thể dấy binh mà đánh nước Việt, củng cố hậu phương, loại bỏ hậu hoạn. Đối với nước Sở, phải dùng kế lâu dài. Đại vương đã phái sứ giả đến nước Tần cầu thân, nếu nước Tần ưng thuận, kết thành hôn sự này, thì hai nước đông nam sẽ kết thành hảo hữu, nước Sở ở trong thế gọng kềm, sẽ dễ dàng bị đại vương không chế.
Hơn nữa,Vương thái hậu nước Sở vẫn là trưởng công chúa của nước Tần, một khi đại vương lập tiểu công chúa nước Tần làm vương hậu, vậy thì Ngô vương hậu sẽ là ấu muội của Sở thái hậu. Nước Ngô ta có thể nhờ vào mối quan lệ này mà tăng thêm sự ảnh hưởng đối với nước Sở, nếu nước Tần không ưng thuận hôn sự này, cũng không ảnh hưởng đến con cờ Sở thái hậu này, khi thần còn ở nước Sở, cũng có hiểu biết đối với các thế lực trong triều, nay tên Phí Vô Kỵ một mình nắm đại quyền, xem Sở vương như bù nhìn, Vương thái hậu cũng rất lo buồn, rất muốn trừ khử tên Phí Vô Kỵ này. Nhưng người là bậc nữ lưu, trong triều lại chẳng có ai, vua Tần lại bế quan tự thủ, không muốn can thiệp đến chuyện bên ngoài, nên Sở thái hậu chỉ có một bàn tay không làm được gì, chỉ đành nhẫn nhịn, cho dù không có quan hệ hôn nhân này, chỉ cần để cho người cảm thấy chúng ta có thể khống chế được tên Phí Vô Kỵ, khuếch đại sức ảnh hưởng của Sở vương, thần chắc chắn sẽ thuyết phục được người, khiến người có thể phối hợp và thỏa hiệp với nước Ngô ta.”
Văn Chủng lắc đầu nói: “Nếu không thì, thần cho rằng việc phạt Việt không là chuyện gấp nhất thời, tranh đoạt thiên hạ cũng không phải chuyện một sớm một chiều. Cấp bách trước mắt chính là làm nước ta cường mạnh, việc của nước Sở nên tạm gác lại một bên, về mặt ngoại giao, nên thể hiện sự kém cỏi để mà tự giữ mình, giao hảo với nước Tần, thân cận với nước Lỗ, lôi kéo nước Sở, liên kết với Tống Vệ mà quan sát động tĩnh trong thiên hạ, chờ thời cơ thích hợp.
Về mặt nội chính, chiêu nạp di dân, khai khẩn ruộng hoang, phát triển việc trồng dâu nuôi tằm, làm đầy các phủ khố, để nhân dân được lợi, tăng cường sức nước; tăng dân khẩu, mở rộng quân đội, gióa dục, đề bạt sĩ tử. Về mặt quân sự, thần cho rằng việc cần trước mắt ngược lại chính là việc người Tề nam tiến, Đông Di đang đứng trước nguy cơ trùng trùng. Ta nên nhanh chóng phát binh, lấy cớ yểm trợ Đông Di mà tiến vào đóng quân trên lãnh thổ Đông Di, trước tiên nên tạo tình huống ta đã chiếm cứ được Đông Di, sau đó lại đề nghị liên hợp với nữ vương Đông Di, như vậy chúng ta mới ở thế chủ động được.”
Yểm Dư nghe đến đây bèn gật đầu nói: “Thần và người Sở đã tác chiến nhiều năm, lại từng ở nước Sở hơn một năm trời để đối địch với công tử Quang, nên rất hiểu nước Sở. Người Việt sở dĩ trở thành mối họa đầu tiên, hoàn toàn là do vị trí địa lý của họ. Nếu nói về đối thủ đáng gờm. cũng chỉ có nước Sở. Nước Sở to lớn này, bất luận là về mặt biên cương, nhân khẩu, kinh tế hay là binh lực chúng ta đều thua xa.
Điều may mắn là, hiện nước Sở gian thần đang đương đạo, Sở vương vô năng, nên mối uy hiếp lớn này tạm thời vẫn chưa đủ gây áp lực với nước ta, nhưng dựa vào lực lượng nước Ngô ta hiện giờ mà muốn chủ động công đánh nước Sở là không thể nào được, khoan nói đến việc thực lực của nước Sở, những nước nhỏ phụ thuộc vào nước Sở nhiều vô số kể, những nước nhỏ của các bộ tộc man di này dưới sự thống trị của nước Sở đã hơn trăm năm, trong lòng không phục, lúc nào cũng muốn làm cho ra lẽ, nếu chúng ta đi trước một bước chiếm lấy những vùng đất này, ngoại có thể ứng phó sự phản kích của nước Sở, nội có thể áp chế sự phản kháng của họ, để tránh việc lún sâu vào bùn không thể thoát thân được, nếu như vậy sẽ làm hỏng kế hoạch lâu dài của đại vương, nhưng ngoài ra, nên diệt Việt trước hay chiếm Đông Di trước, thần vẫn chưa nghĩ thông suốt, nhưng thần thấy Văn Chủng nói rất có lý, về đối ngoại ta không thể không có động thái gì, nhưng trước mắt việc chính vẫn là bồi dưỡng phát triển tích lũy sức nước.”
Tôn Vũ tổng kết nói: “Tổng hợp lại ý kiến của các vị đại nhân, đối nội, ý kiến của mọi người đều nhất trí, không cần bàn thêm. Đối ngoại, những vấn đề mà nước Ngô ta cần đối mặt chủ yếu là nước Việt, nước Sở và Đông Di. Nước Việt nằm kề ngay nước ta, từ khi Doãn Thường xưng vương, bắt đầu nổi dã tâm, thế lực ngày càng bành trướng, bất luận nước Ngô muốn phát triển theo hướng nào, đều nhất thiết phải diệt nước Việt trước, mới có thể tiến vào mà chiếm cứ cả phái đông nam, củng cố cơ nghiệp, bằng không chẳng có tí an toàn nào. Về nước Việt cũng chỉ có thể đánh bại nước ta, mới có thể quật khởi ở Đông Nam, giữa Ngô và Vietj nhất định sẽ có chiến tranh. Nhưng muốn đánh một trận thắng nước Việt rất dễ dàng, còn muốn nuốt trọn nước Việt, thì động tĩnh có lớn hơn chút, nên có thể tạm gác một bên, để chờ thời cơ thích hợp.
Nay nước Sở là liên minh với nước ta, nhưng mối quan hệ này vô cùng mỏng manh, nay vì chuyện châu báu nước Sở, câu lưu con tin và trọng dụng hai vị đại nhân là Thiếu Bá và Tử Cầm, đã gây hiềm khích với Phí Vô Kỵ, nên mối quan hệ này càng hữu danh vô thực. Vả lại về mặt địa lý mà nói, nước Ngô ta muốn đứng vững ở Đông Nam, nhìn khắp thiên hạ, cũng nhất thiết phải mưu dồ lãnh thổ nước Sở. Chí ít cũng phải có được những nơi như Tiềm, Lục ở Đại Biệt sơn và ngay cả một mảnh đất lớn ở phia sbawcs, nếu vậy mới có thể xme là có được một Đông Nam hoàn chỉnh và kiên cố, dựa vào cái hiểm của đại giang, và sự kiên cố của sơn xuyên, tiến có thể đánh trung nguyên, lui có thể thủ.
Nhưng theo những lời mà Đại Tư Đồ vừa nói, lực lượng của nước Sở quá hùng hậu, một khi dấy binh bất chấp tất cả mà công đánh, chúng ta có thể tranh thủ những hành động liên tục về mặt chính trị, ngoại giao, kinh tế, để đạt được mục đích, còn có thể lấy cớ về việc chiến tranh giành quyền lực trong nội bộ nước Sở mà tranh thủ được sự ủng hộ của Sở thái hậu, sử dụng đả kích quân sự với quy mô nhỏ, từ từ mà nuốt chứng nước Sở đang suy yếu này, dùng phương pháp hòa bình mà đạt được mục đích. Đó là một hành động liên tục và lâu dài, bây giờ đã có thể bắt đầu thực hiên, nhưng không thể thấy hiệu quả ngay tức thì.
Muốn củng cố Đông Nam, phải giành được Giang Hán; muốn chiếm trung nguyên, phải lấy được Hoài Tứ. Nếu có Giang Hán mà không có Hoài Tứ, sức nước sẽ yếu; Có Hoài Tứ mà không có thượng du Giang Hán, thì quốc gia sẽ nguy. Chỉ duy nhất có cách biến Giang Hán và Hoài Tứ nằm trong phạm vị thể lực của nước Ngô, khiến trung và hạ lưu của đại giang đều hợp thành một thể, lại thêm lưu vực sông Hoài liền thành một khối, năm bắc đều xuyên suốt, vậy mới có thể hình thành mục đích mà đại vương thường nói, đó là lấy các thế lực liên minh ở lưu vực đại giang đối kháng với chư hầu các nước ở lưu vực Hoàng hà.
Giang Hán ở Sở, Hoài Tứ ở Di, nếu chiến lược đối với nước Sở cần phải dùng kế sách lâu dài trên nhiều phương diện, vậy thì việc cần trước mắt chính là chiếm lấy khu vực Hoài Tứ. Vốn dĩ nếu chúng ta dẫn binh vào nơi này, nhất định sẽ bị Tề Tấn can dự vào, vì vậy muốn được nơi này vẫn cần phải diệt nước Việt trước, để nước Ngô ta không còn mối lo ở phía sau mới có thể bày mưu tính kế tiếp được, nhưng hiện nay Tề Tấn đều đang chiến tranh, Đông Di lại có ý theo nước Ngô ta, đây quả là thời cơ tốt mà trời ban cho nước Ngô ta. Do vậy, ý của thần và Văn Chủng đều giống nhau, giành Đông Di trước, không biết ý đại vương thế nào ?”
Khánh Kỵ vẫn đang chống cằm mà suy tư, Yểm Dư vội nói: “Đại vương cho rằng nên giành nơi nào trước ?”
“Hả, cưới trước… cưới trước…, A! giành trước… giành nơi nào trước à ?”
Last edited by _Gàviệttrì_; 23-04-2011 at 12:12 AM.
Đã có 2 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của kedochanh
Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua
Chương 249: Giáp cốc chi minh
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
Khánh Kỵ mặt như mới mơ ngủ, chúng thần thấy vậy đều nhìn nhau, Khánh Kỵ bèn đỏ mặt, nói: “Quả nhân cũng đang suy nghĩ… suy nghĩ đến những mặt lợi và hại của việc mưu đồ các phương, nhất thời nhập tâm quá, nên chưa nghe hết kết luận, Tướng quốc hãy nói lại lần nữa.”
Tướng quốc và chúng thần bèn nói lại lần nữa một cách giản lược, Khánh Kỵ trầm ngâm nói: “Nước Sở sẽ đặt ở sau cùng, còn về nước Việt và Đông Di sẽ chiếm nơi nào trước…”
Đúng vào lúc này một người vội vã đi vào đại sảnh nghị chính, trình lên một bức mật hàm đã được niêm phong. Khi Khánh Kỵ cùng quần thần bàn luận những việc quan trọng, có bất cứ việc gì cũng không thể làm phiền, chỉ có một ngoại lệ, đó chính là Nhĩ Mục Tư, đó là cơ cấu tình báo mà Khánh Kỵ đã xây dựng dựa trên mạng lưới tình báo thương nghiệp của Thành Tú, hoặc giả đó cũng là cơ cấu tình báo chuyên nghiệp trong cái thời xuân thu chiến quốc này. Người đến từ tương lai như Khánh Kỵ biết rất rõ tầm quan tọng của tin tức, do đó cả cơ cấu tình báo này đều nằm trong tay hắn, đồng thời quy định hễ có tin tức quan trọng gì bất kể thời gian bất kể trường hợp đều có thể trình báo với hắn.
Khánh Kỵ cầm lấy mật hàm khiểm tra lại dấu niêm phong, rồi lấy con dao nhỏ gỡ bỏ dấu niêm phong, bên trong là một miêng vải trắng, chúng thần im lặng, Khánh Kỵ xem bức mật hàm một cách kỹ càng, ngẩng đầu lên nhìn nói: “Không cần bàn bạc thêm nữa, thời cơ không thể để lỡ, nếu đã lỡ mất thì sẽ không có lại được, nay chúng ta cần đi trước một bước tiến quân vào Đông Di, càng nhanh càng tốt.”
Yểm Dư sắc mặt biến đổi nói: “Đại vương sao lại nói vậy, chẳng lẽ có tin tức quan trọng gì sao ?” Khánh Kỵ pha phẩy miếng vải trắng trên tay, sắc mặt bình thản nói: “Nước Lỗ truyền tin đến, Tề Lỗ có ý muốn ngừng chiến, sắp tới, sẽ nghị hòa ở Giáp Cốc.”
Núi Giáp Cốc, danh chúc kỳ sơn, là sơn cốc được bao quanh bởi các dãy núi, phong cảnh thanh tú mĩ lệ, nằm ở giữa đường biên giới được kiểm soát chặt chẽ của hai nước. Đây chính là nơi được chọn làm địa điểm để tổ chức hội minh đàm phán hiệp ước hòa bình lần này.
Đoàn xe của Lỗ quân Cơ Tống chậm rãi tiến đến. Phía trước nghi trượng đã đến cửa cốc. Cơ Tống ngồi trên xe nhìn thấy sắp vào cốc, trên gương mặt trắng bợt không ngừng hiện lên từng đợt đỏ gay. Là quân vương của một nước, nhưng đây là lần đầu tiên hắn gặp mặt quốc vương nước khác, tâm trạng khó tránh khỏi căng thẳng, lại mang theo một hưng phấn không rõ ràng.
Khi Tề Lỗ thụ phong lập quốc. Chu Thành Vương đã từng ban cho hai nước minh ước “ Thế thế tử tôn vô tương hại dã” ( con cháu đời đời không hại đến nhau). Thời Tây Chu, hai nước Tề Lỗ luôn luôn tuân theo lệnh của Thành Vương. Láng giềng hòa thuận hữu hảo, thân thiết gắn bó khăng khít, đồng lòng bảo vệ Chu Thiên Tử. Nhưng đến thời Xuân Thu, vương thất suy bại dần dần mất đi lực khống chế chư hầu. Hai nước Tề Lỗ cũng vì lợi ích riêng mà nảy sinh mâu thuẫn, dẫn đến không ngừng đánh nhau. Mối quan hệ của hai nước trở nên ngày càng trầm trọng.
Hai nước lúc chiến lúc hòa. Từ thời Lỗ Ân Công đến nay, chưa quá hơn hai trăm năm, Tề xâm lấn Lỗ 15 lần, Lỗ phạt Tề tám chín lần. Đối với hai quốc gia mà nói, tần suất chiến tranh như thế này đã rất cao rồi, nhưng cùng theo đó hai bên triều mời liên kết đồng minh cũng đã được hơn 30 lần. Tề Lỗ liên minh công phá nước khác bao nhiêu lần thì Tề Lỗ giúp nhau giải vây bấy nhiêu lần. Chuyện hai bên nhận lời lấy con gái kết thông gia thường xuyên diễn ra. Mối quan hệ hai bên khi bạn khi thù, rối rắm không rõ ràng.
Giờ đây dưới sự chủ trương của Điền Khất, Tề Lỗ kết đồng minh với Ngô quốc, phát binh xuống phía nam, giành lấy Đông Di. Từ thời Tề Hoàn Công đến nay, lãnh thổ của người Đông Di đã bị Tề thôn tính quá nửa, Người Đông Di bị bức lại di chuyển xuống phía nam, hiện nay đã không còn đường lui. Bị bức bách người Đông Di tổ chức thành liên minh bộ lạc chống lại Tề quốc, bầu ra Doanh Thiền Nhi hậu duệ của Thiếu Hạo làm nữ vương. Họ rất có thực lực tổ chức liên bang tạo thành một nước. Điều này Tề quốc từ khi bắt đầu lại chưa lường trước được.
Lỗ quốc lo lắng một khi Tề quốc thâu tóm được bộ lạc Đông Di, sẽ hình thành tư thế bao vây một nửa nước Lỗ. Khi ấy nước Lỗ sẽ hoàn toàn bị quản chế bởi nước Tề. Do đó Lỗ quốc tuy không có dã tâm mở rộng lãnh thổ, nhưng trước tình hình nguy cấp lại quả quyết xuất binh ngăn cản quân Tề xuống phía nam. Quân Tề lại bị ngăn cản, nhuệ khí dần tiêu tan. Trong lúc đó Hạp Lư liên minh Ngô quốc bị giết. Nước Tấn và Tần Sở chuẩn bị đình chiến nghị hòa, muốn lấy Đông Di đã không có điều kiện. Thế là Tề quốc lại chiếm thế thượng phong. Dưới nỗ lực thúc đẩy của Yến tướng, Quốc quân Tề quốc cuối cũng quyết định gặp quốc quân Lỗ quốc nghị hòa đình chiến.
Đây chính là tình hình hiện nay. Lỗ quân Cơ Tống vừa mới trở thành quân vương một nước liền chủ đại sự cùng Tề quốc tác chiến, hơn nữa lại ép buộc Tề quốc nghị hòa. Điều này khiến uy danh của hắn tức khắc nổi lên như cồn. Tuy mới trở thành quốc quân chưa đầy hai năm, nhưng so sánh với phụ thân ở Lỗ quốc thì sức ảnh hưởng của hắn lớn hơn nhiều.
Từ khi hắn lên ngôi trọng dụng Khổng Khâu cho đến nay, Khổng Khâu đã giúp hắn dự tính, xây dựng lại quyền lực quốc quân. Thực hiện đại kế phu tử quân thần chi trị. Thành quả tác chiến với Tề khiến kế hoạch này có tia hy vọng.
Nhưng cùng lúc đó Triển Chích, Trọng Lương Hoài, Công Sơn Bất Nữu lại tạo phản. Triều đình nhiều lần bao vây tiễu trừ nhưng hiệu quả không nhiều. Đối với hắn kế hoạch xây dựng lại uy quyền của Quốc quân, thay đổi hiện trạng cường chi nhược can của Tề quốc tạo thành uy hiếp rất lớn. Đây là thử thách nghiêm trọng nhất đối với năng lực chấp chính của hắn, khiến hắn ăn ngủ không yên.
Hắn cần phải cân nhắc làm thế nào để giải quyết tranh chấp Tề Lỗ, làm thế nào để dẹp yên bọn tạo phản Triển Chích, làm thể nào để chỉnh hợp lực lượng của Tam Hoàn, hùng mạnh quân quyền. Những quốc sự này đối với hắn mà nói thực là lực bất tòng tâm. Đồng thời, Tiểu Ngải, người con gái mà hắn ái mộ từ thuở nhỏ đã trở về, nhưng lại có tin đồn lan truyền nàng muốn lấy Khánh Kỵ người đứng đầu Ngô quốc. Chuyện này khiến Cơ Tống trong lòng vừa hận vừa đố kỵ. Bao nhiêu lần hắn tìm gặp Quý Tôn Ý Như thương lượng, nhưng Quý Tôn Ý Như cáo già xảo quyệt, thái độ mập mờ. Bây giờ thì sứ giả cầu hôn của Ngô quốc đã đến rồi, hắn lại không chịu biểu hiện rõ ràng thái độ. Cơ Tống lúc này thân ở Giáp Cốc nhưng tâm trí thì còn vướng bận Tiểu Ngải trong thành Khúc Phụ. Nhiều nỗi băn khoăn tâm sự khiến trong lòng vị thiếu niên quân chủ hỗn độn ưu phiền, trên gương mặt không ngừng hiện lên nét lo âu.
“ Quân thượng bớt buồn rầu, có hạ thần ở đây, quân thượng cứ ung dung ứng đối. Tề quốc quốc quân đã chủ động đàm hòa, cũng có lý do không thể không đàm hòa. Lỗ quốc ta tuy yếu hơn Tề quốc nhưng thực lực cũng không dễ khinh thường. Huống hồ thần sớm đã có sắp đặt. Hội minh lần này quốc quân nhất định hoàn thành sứ mệnh, bình yên trở về.”
Nhìn Cơ Tống tinh thần bất an, Khổng Khâu liền nói những lời động viên. Nói xong ông liền hướng ánh mắt dò hỏi sang viên võ tướng bên cạnh. Viên tướng quân khẽ gật đầu, biểu thị mọi chuyện đã sắp xếp ổn thỏa. Gương mặt Khổng Khâu liền nhẹ nhõm một chút.
Khổng Khâu là hành nhân Lỗ quốc, am hiểu lễ chế. Đồng thời ông cũng là đại thần được Cơ Tống coi trọng nhất. Vì thế hội minh lần này phía Lỗ quốc do ông đảm nhận phụ lễ, sắp xếp các việc của hội minh. Không Khâu nói ung dung khiến Cơ Tống trong lòng cảm thấy có chút yên tâm, gật đầu nói:
“ Quả nhân hiểu ra rồi, mọi thứ xin nhờ vào Khổng khanh”.
“ Vâng, thần sẽ dốc hết khả năng, nhất định bảo đảm nghị hòa thành công, nhất định bảo vệ quân thượng an toàn, nhất định không để uy danh của Lỗ quốc ta suy yếu trong tay quân thượng.”
Khổng Khâu chắp tay vừa nói dứt lời, nhìn phía trước cửa cốc sứ giả Tề quốc đã tới nghênh đón đoàn xe của Lỗ quân, trong lòng thầm nghĩ:
“ Lần này đàm phán liên minh với Tề quốc, là lần đầu tiên Quân thượng và Khổng Khâu cùng quân chủ nước họ gặp mặt, ta nhất định phải hết sức cẩn thận, cố gắng đạt được hòa đàm, không cao ngạo không tự ti, dựa vào lý lẽ mà đấu lý, không để xảy ra bất cứ chuyện gì bôi nhọ danh sự quốc thể, đảm bảo chắc chắn uy danh của quân thượng không giảm sút.
Nghĩ tới đây, Khổng Khâu nắm chặt bội kiếm bên hông thở một hơi dài.
Trong Giáp Cốc, Tề quốc quốc quân Khương Xử Cữu đã sai người dựng lên một cái đài cao, quan viên Tề quốc theo cấp bậc khanh đại phu lần lượt đứng trên cao đài, thấy đoàn xe của Lỗ quốc vào Cốc, nhìn không chớp mắt, hết sức trang nghiêm.
Khổng Khâu nhìn thấy liền mỉm cười, ra hiệu cho thuộc hạ. Xe trượng của Lỗ quân Cơ Tống dừng lại, một người được sai leo lên trước yết kiến xướng to, báo cho Tề quốc quốc quân Khương Xử Cữu đang trên cao đài biết, sau đó mới bắt đầu nghi thức. Lỗ quỗc thần tử cũng đứng ngay ngắn thứ tự leo lên bậc thềm. Khổng Khâu thì theo phía sau Cơ Tống, mang theo kiếm lên đài.
Khổng Khâu đã sớm sai người đi báo Lỗ quân giá đáo, Khương Xử Cữu có làm như không nghe thấy cố ý lề mề chậm chạp cũng không được, chỉ còn cách đứng lên xuống bậc thềm đón chào. Cơ Tống theo lời dặn dò của Khổng Khâu không chút hoang mang, bước đi điềm tĩnh, tuy nhìn thấy Khương Xử Cữu chắp tay đứng ở bậc trên nhưng cũng không vội vàng không chậm chạp, ung dung bước tới trước mặt Khương Xử Cữu mới hành lễ vái chào hỏi thăm.
Hai vị quân chủ hàn huyên một lúc, Khương Xử Cữu tóc trắng xóa sóng vai cùng Cơ Tống lên đài, người bên trái người bên phải cùng ngồi xuống. Hai vị quốc quân lần này hội minh, nhân vật chính trị quan trọng nhất của Lỗ quốc là Lỗ quốc Tam Hoàn và hai thế lực chính trị lớn nhất của Tề quốc là thủ lĩnh Yến Tử và Điền Khất đều không xuất hiện. Trên thực tế, muốn đạt được mục đích gì, giới hạn có thể nhượng bộ thấp nhất là bao nhiêu, trước khi hội minh đàm phán, bọn họ đã sớm có quyết định rồi. Vốn cũng không cần thiết bọn họ phải đến nơi này để hóa trang lên sân khấu cùng với đối phương giương thương múa kiếm một phen. Khi một sự kiện đã được đặt lên bàn đàm phán, tác dụng chủ yếu của nó sẽ biến thành một màn chính trị đẹp mắt. Từ cổ chí kim, xưa nay đều như vậy.
Hai bên ngồi xuống lại hỏi thăm nhau một hồi. Lời khách sáo nói xong rồi, phụ lễ Lê Di của Tề quốc liền lấy ra hiệp ước nghị hòa sớm viết đâu vào đấy thao thao bất tuyệt đọc lên. Tề quân Khương Xử Cữu vê vê ria mép mỉm cười, dáng vẻ ung dung. Cơ Tống thì chăm chú lắng nghe. Khổng Khâu ngồi quỳ bên cạnh Cơ Tống vừa tập trung lắng nghe Lê Di đọc rành rọt hiệp ước vừa lặng lẽ quan sát thần sắc của Khương Xử Cữu và đám chúng thần Tề quốc.
Đợi khi nghe xong nghị hòa hữu hảo Tề Lỗ, “cùng nhau xuất binh thảo phạt Đông Di, đất đai chiếm được sẽ phân chia cho hai bên”, Khổng Khâu lạnh nhạt cười, dùng ngón tay chọc nhẹ vào sau lưng Cơ Tống. Cơ Tống tinh thần đột nhiên rung lên, trong lòng thầm nghĩ:
“ Không ngoài dự liệu của Khổng khanh, bọn Tề quốc quả nhiên dã tâm không bỏ. Cùng xuất binh phạt Đông Di ư? Nói hay thật. Lỗ quốc ta luôn luôn vì lợi ích quốc gia dân tộc mà nhường nhịn nhau, hoà thuận hữu hảo với nước bạn. Há có thể vì thế mà phá hủy uy danh nhân nghĩa mấy trăm năm của Lỗ quốc ta, phá hoại quốc sách dài lâu vì lợi ích quốc gia dân tộc mà nhường nhịn nhau của Lỗ quốc ta. Thêm nữa, hiện nay Triển Chích vẫn đang gây loạn, kiềm chế quân lực của quả nhân, nếu hai nước cùng xuất binh, lãnh thổ chiếm được thuộc về hai bên, Lỗ quốc ta có thể xuất bao nhiêu binh? Có thể chiếm được bao nhiêu? Không được. Vì ngăn cản Tề quốc các ngươi chân tay vươn đi quá xa, Lỗ quốc ta mới xuất binh ngăn cản, nếu đồng ý điều kiện, thế chẳng phải biến thành các ngươi đã đạt được mục đích rồi sao. Như thế mục đích quả nhân đến đây lần này là vì cái gì?”
Cơ Tống lập tức cất cao giọng nói:
“ Hãy khoan. Lỗ quốc ta luôn kết hảo lân bang, láng giềng chung sống hòa thuận, hành đạo nhân nghĩa, vì lợi ích quốc gia dân tộc nhường nhịn nhau, không đánh những trận chiến bất nghĩa, không xuất binh vô danh. Bộ lạc người Đông Di không hại gì đến chư quốc, quả nhân làm sao nhẫn tâm hành quân làm hại? Tề Lỗ đình chiến hữu hảo là điều quả nhân mong muốn. Nhưng cùng xuất binh thảo phạt Đông Di, xin hỏi Đông Di có tội danh gì mà cần Tề Lỗ liên minh xuất binh thảo phạt? Phu thiên hạ giả, đều là con dân của thiên tử, lễ nhạc chinh phạt tự Thiên Tử xuất, không phải vương mệnh. Yên lòng mà lấy danh Thiên Tử thảo phạt thiên hạ? Điều này vạn điều không thể.”
Khương Xử Cữu nghe Cơ Tống bài trí từ trước đem Chu Thiên Tử ra, trong lòng vô cùng không cho là đúng. Nhưng Tề quốc luôn đánh chiêu bài “ Tôn Vương nhưỡng Di” thôn tính các nước chư hầu, mở rộng lãnh thổ. Hắn đương nhiên không thể trước mặt công chúng mà phủ nhận quyền uy tuyệt đối của Chu Thiên Tử. Lê Di nghe Cơ Tống nói lý do từ chối không khỏi lâm vào thế khó xử, không thể tiếp tục đọc tiếp được, chỉ còn cách nhìn về phía Quốc quân.
Khương Xử Cữu nhíu lông mày trắng định nói tiếp thì Cơ Tống đã chuyển ngữ khí nói:
“ Tề quốc là đông phương đại quốc, lấy nhân nghĩa mà chinh phục tứ phương, đức cao vọng trọng, uy danh vang tới tận nơi biển xa. Theo quả nhân thấy, sớm muộn gì tất Mông Thiên Tử ủy nhiệm trưởng chư hầu, nếu như có một ngày Tề quân trở thành bá chủ các phương. Khi đại hành vương trị, thảo phạt các nước chư hầu bất nghĩa, nếu có lệnh quả nhân chắc chắn phụng mệnh làm theo.”
Khi Khương Xử Cữu ở trong nước đã bàn bạc bí mật với các đại thần tâm phúc, biết rằng Lỗ quốc không hề có dã tâm thôn tính nước khác, cũng không muốn thế lực của Tề quốc vươn xuống phía nam mới xuất binh ngăn cản Tề quốc xuống Nam xâm lấn Đông Di. Muốn họ hợp lực phân chia Đông Di, khả năng xảy ra tương đối nhỏ. Bây giờ thấy Lỗ quân Cơ Tống lời lẽ đanh thép, ngữ khí khước từ rất kịch liệt, biết rằng việc này khó thành nhưng Khương Xử Cữu chưa từ bỏ ý định vẫn ra sức khuyên nhủ. Cơ Tống thì lại bám vào chưa phụng mệnh của Chu Thiên Tử, không xuất binh chinh phạt. Hai bên thảo luận rất lâu. Khương Xử Cữu cuối cùng bất đắc dĩ ra hiệu Lê Di bỏ điều ước đó đi.
Tiếp tục đọc, trong hòa ước Tề quốc lại đề cập tới trong tương lai nếu Tề quốc có khai chiến với một nước hầu nào đó, Lỗ quốc nhất định phải phái đi ít nhất 300 xe thừa binh trợ chiến, nếu không chính là phá hoại liên minh. Điều này trong đối sách Quốc quân thần bàn bạc chưa từng nghĩ tới. Cơ Tống vốn có sự chuẩn bị ứng đối từ trước cũng không khỏi ngây người. Trong lòng tuy biết không ổn nhưng không biết nên phản bác lại thế nào.
Khổng Khâu ở sau lưng ra hiệu với Cơ Tống vài lần, thấy Cơ Tống lúng túng không nói lên lời, trong lòng nôn nóng liền đứng thẳng lên thay Cơ Tống phản bác nói:
“ Lê Di đại nhân dừng lại đã. Lỗ quốc ta không phải là quy thuộc Tề quốc. Dụng binh xuất binh là quyền tự chủ của Lỗ quốc ta, Tề quốc nếu có khai chiến với nước khác, Lỗ quốc ta dựa vào cái gì phải xuất binh tương trợ?”
Tề quân Khương Xử Cữu cười híp mắt nói:
“ Tề Lỗ kết minh, là huynh đệ chi bang. Tề quốc có sự, huynh đệ tất nhiên nên tương trợ. Đương nhiên, nếu Lỗ quốc muốn khai chiến với nước khác, quả nhân tất nhiên không thể làm ngơ, phải xuất binh tương trợ.”
Khổng Khâu nói:
“ Theo lời Tề quân nói, hai nước minh ước đã định, tình như huynh đệ, lẽ ra phải cùng nhau trông coi, đồng tâm hiệp lực?”
“Đó là điều đương nhiên.”
Khổng Khâu hành lễ lạy dài, nói:
“ Nếu như thế thỉnh Lê Di đại phu thêm một điều ước nữa. Minh ước đã định, Tề quốc sẽ trả lại các vùng đất đã chiếm trước kia của Lỗ quốc là Vận, Ninh Dương, Quy Âm, Vấn Dương… để tình nghĩa huynh đệ chi bang được vẹn toàn.”
“ Điều này…”
Lê Di ngẩn người, theo bản năng nhìn về phía Khương Xử Cữu. Khương Xử Cữu thẹn quá hóa giận, đập bàn nói:
“ Làm gì có cái lý đó. Quả nhân hết sức chân thành, có lòng cùng Lỗ quốc hữu hảo. Người Lỗ các ngươi lại không hề có thành ý, vô cớ đùa bỡn quả nhân, Tề quốc tôn nghiêm, há dễ khinh thường!”
Khương Xử Cữu đập bàn, dưới đài đột nhiên xông ra một đám võ sĩ mặc áo giáp, tay cầm dao cung tên vây quanh đám người của Cơ Tống. Những người này đều là võ si Lai Di, cũng thuộc tộc người Đông Di, bởi vì nhiều năm trước bị Tề quốc thôn tính nên bây giờ phục vụ cho Tề Quốc. Nhưng võ sĩ Lai Di vẫn còn giữ nguyên một số đặc điểm tộc người của họ, đầu cắm lông gà, trên mặt vẽ những vết to màu đất, thế võ lộ ra tính hoang dã.
Khổng Khâu bình thản không hề sợ sệt, đưa tay ra ngăn, võ sĩ thuộc hạ cũng chạy lên vây quanh bảo vệ Cơ Tống mặt mày đang tái mét, giương cung bạt kiếm giằng co với võ sĩ Lai Di. Còn Khổng Khâu thì một mình cầm kiếm đi lên phía trước, hằm hằm bước lớn đi tới trước mặt Tề quân Khương Xử Cữu. Nghiêm nghị quát lớn:
“ Hai vị Quốc quân đã hội minh hòa hảo, tại sao lại dùng người Lai Di lấy vũ lực uy hiếp? Đây là cách thức mà Tề quốc mệnh lệnh chư hầu sao! Duệ bất mưu hạ, Di bất loạn Hoa, phù bất can minh, binh bất bức hảo. Ngài làm như thế này, thần vi bất kính, đức vi khiên nghĩa, nhân vi thất lễ! Đường đường Tề quốc, đường đường Tề quân, giữa ban ngày ban mặt lại dùng thủ đoạn như thế này, không sợ chư hầu thiên hạ chê cười sao?”
Khổng Khâu thân hình cao lớn cường tráng, tay án lợi kiếm, chòm râu như bị kích động, đôi mày rậm vểnh hẳn lên, khí thế khiến cho người ta sợ hãi, lời lẽ đanh thép, tiếng hét như sấm sét chấn động đến nỗi chiếc cốc trên bàn của Khương Xử Cữu rơi xuống đất xoảng một tiếng. Khương Xử Cữu nhìn thấy sức mạnh như thế thì không khỏi khiếp đảm.
Trước kia khi Khổng Khâu đến cậy nhờ Tề quốc cũng từng triệu kiến Khương Xử Cữu. Lúc đó cung cách của Khổng Khâu là một nhà bác học bậc túc nho, nho nhã lễ độ. Khương Xử Cữu chỉ biết Khổng Khâu thượng hiền hảo lễ, tuyệt nhiên không biết Khổng võ dũng mãnh phi thường như thế này. Phẫn nộ một trận lôi đình lại có thanh thế to lớn như thế. Nhìn thấy Khổng Khâu án kiếm phủ phục, mắt giận dữ nhìn hằm hằm, Khương Xử Cữu thật sự sợ Khổng Khâu liều lĩnh rút kiếm xông lên trên.
Hắn giờ đây đã già yếu rồi, có muốn chạy trốn thì chân tay cũng không linh hoạt nữa rồi, bên cạnh tuy có võ sĩ bảo vệ hầu hạ nhưng nhìn dáng vẻ Khổng Khâu, võ sĩ bên cạnh chưa chắc đã ngăn được hắn ta. Khương Xử Cữu vội vàng nói:
“ Đám dã nhân Lai Di không biết lễ nghi. Ai cho phép các ngươi xông lên? Lui ra, lui hết ra!”
Đám võ sĩ Lai Di trên đài bị Khương Xử Cữu quát, vội vàng rút lui xuống phía dưới. Khương Xử Cữu hậm hực nói:
“ Khổng đại phu mời quy tọa. Nếu Lỗ quốc không đồng ý liên minh xây dựng công thủ hỗ trợ, điều này bỏ đi cũng được. Khụ, Lê Di, ngươi tiếp tục đọc.”
Một hồi xung đột vô hình tiêu tan. Khổng Khâu quay lại đằng sau Cơ Tống. Lê Di tiếp tục đọc những điều ước dài dòng, Khương Xử Cữu thầm hận, trong lòng nghĩ ngợi :
“ Lỗ quốc không chịu cùng quả nhân thảo phạt Đông Di, cũng không chịu lệ thuộc Tề quốc. Xây dựng công thủ đồng minh chẳng nhẽ lần này hợp minh hoàn toàn không được gì, cứ như thế này bỏ qua, hòa hợp êm thấm tiễn bọn chúng rời đi. Nếu văn đã không được, quả nhân tại sao lại không tìm cơ hội bố trí quân mai phục, dùng vũ lực cưỡng ép bắt Cơ Tống làm con tin, ép buộc bọn chúng phải ký kết hiệp ước cầu hòa với quả nhân?”
Khương Xử Cữu suy nghĩ, trong mắt ánh lên một tia đen tối gian ác. Đúng lúc này, một viên võ tướng nhẹ nhàng tiến sát vào bên cạnh hắn, thì thầm vào tai hắn vài câu. Khương Xử Cữu đột nhiên giật mình, kinh ngạc nhìn Cơ Tống ngồi đối diện, sát khí trên mặt tức khắc giảm đi.
Hóa ra, tên võ tướng kia nói:
“ Quốc quân, phía Lỗ quốc, trong khu rừng rậm, ở hai bên sườn của sơn cốc phát hiện số lượng lớn quân Lỗ mai phục.”
Đã biết Lỗ quốc có chuẩn bị, Khương Xử Cữu sẽ không thành công nếu đánh nhau, đành phải dẹp bỏ ý định dùng vũ lực. Đợi đến khi điều ước đình chiến nghị hòa dựa theo ý kiến của hai bên một lần nữa được định ra, do phụ lễ của hai bên tường tận đọc không sai một chữ, do Quốc quân hai nước đóng con dấu ngọc tỉ mang theo người, thì minh ước này mới được coi là đã ký kết. Hai bên văn võ nhìn thấy rồi mới thở phào nhẹ nhõm, không khí căng thẳng dần giảm xuống.
Tề quốc lần này là chủ minh quốc, nên phụ trách thủ tục tiếp đãi. Lê Di liền tiến lên phía trên nói:
“ Dâng tiệc, tấu nhạc tứ phương.”
Tiệc rượu được dâng lên. Dưới đài trên những bậc thềm dài mâm cỗ cũng được bày lên, công khanh đại thần hai nước nhập tọa, chén rượu giao thoa, không khí liền được xoa dịu. Quan viên hai nước vốn quen biết nhau, còn bưng chén rượu sang kính rượu nhau. Trong bầu không khí thân thiện này hoàn toàn không nhìn thấy trước khi tờ giấy hiệp ước được ký kết, hai bên địch quốc bọn họ còn chỉ huy quân giao chiến.
Một đội nhạc công cùng vũ nữ được gọi lên trên đài, diễn hợp tấu khèn tiêu, các vũ nữ đẹp của Tề quốc đến bên quốc quân đại thần hai nước uống rượu góp vui. Những vũ nữ trẻ xinh xắn thanh tú, y phục rực rỡ trên người đẹp đến mê hồn. Cơ Tống rút cuộc cũng còn trẻ, vả lại ở Lỗ quốc luôn tuân theo Chu lễ, bình thường tất cả các vũ nữ múa hát làm gì có chuyện được mặc lộ liễu như thế kia, làm gì có sức mê hoặc quyến rũ như thế. Cơ Tống nhìn những vũ nữ dị tộc đầy tình cảm, hai mắt tham lam nhìn chằm chằm vào bộ ngực, bắp đùi tràn đầy sức thanh xuân lưu luyến không rời.
Những vũ nữ này dung nhan xinh xắn, vừa đánh trống vừa cười, quyến rũ mê hồn. Các nàng mặc chiếc váy lông vũ ngắn, bắp đùi tròn trịa thon dài đều lộ ra hết. Trên người mặc y phục nhiều màu sắc dệt bằng lụa tơ tằm, trên eo thon nhỏ lộ ra cơ bụng trắng như tuyết. Hai cánh tay như ngọc hồng óng ánh không che đậy, trên cổ tay buộc một chuỗi chuông đồng múa lên nhẹ nhàng thực sự muốn trêu người, khiến Cơ Tống ngẩn ngơ si mê, ngồi trên ghế mà như mất hồn, Khương Xử Cữu nói chuyện với hắn hắn cũng không có phản ứng gì. Khương Xử Cữu và đám quần thân Tề quốc không khỏi cười thầm trong bụng.
Khổng Khâu nhìn thấy tức giận, lập tức đứng dậy tiến lên phía trên, cao giọng quát bảo ngưng lại nói:
“ Tề Lỗ hai nước lúc này ngưng chiến nghị hòa, ký kết minh ước. Đây là đại sự thần thánh thiêng liêng, tại sao lại diễn tấu âm nhạc Di Địch, nhảy điệu múa Di Địch như thế này? Ta tin đây không phải chủ ý của Tề quốc quả quân, chẳng nhẽ là sự sắp xếp của Lê Di đại phu? Đây chính là ngài vì Tề quốc phụ lễ, sắp xếp như thế này hợp lý sao?”
Khương Xử Cữu xưa này không thích cái thứ nhã nhạc cung đình nghe mà khiến người ta mệt mỏi muốn ngủ, ngược lại lại thích ca hát tạp kỹ hài kịch. Vũ nhạc Man Di, điệu múa của tộc người Di này có phong vị đặc biệt, đang là thứ Tề quốc quốc quân Khương Xử Cữu yêu thích nhất, không ngờ lại bị Khổng Khâu chê bai bài xích. Khổng Khâu kia từng câu từng chữ đều dựa vào Chu lễ, Khương Xử Cữu muốn phản bác cũng không được, va đúng phải kỳ đà cản mũi, Khương Xử Cữu đành phất tay lệnh cho đám vũ nữ lui xuống, trong lòng thầm căm hận:
“ Thật may lúc đầu quả nhân không trọng dụng một tên ngu si dốt nát như hắn. Yến tướng cũng thường xuyên đến khuyên quả nhân nhưng cũng không giống hắn cứng nhắc vô vị như thế này.”
Yến tiệc há có thể không có ca múa, Lê Di bị ấm ức tiến lên trên đề nghị nói:
“ Quốc quân, đã không tấu nhạc Di Đích, vậy có sai đám hát kịch trong cung Tề quốc ta để làm vui lòng khách không?
Khương Xử Cữu đang thấy khó chịu, mặt không biến sắc, liền hừ lên một tiếng nói:
“ Ngươi đi sắp xếp.”
Trong chốc lát, hai nước quân chủ hội minh chủ trì trên đài, lại có một đám hề và người lùn đi vào. Tề quốc giàu có lớn mạnh, trong cung vốn không thiếu gì kiểu ca múa như thế, nhưng Quốc quân Khương Xử Cữu trước nay không thích kiểu vũ nhạc chính thức. Với hắn khi giải sầu không phải là ca vũ Di Đích thì sẽ là tạp kỹ hài kịch. Đám hề người lùn này mặc xiêm y muôn hình muôn vẻ tiến lên trên đài thật sự khiến người Lỗ luôn luôn câu nệ tôn nghiêm trong trường hợp chính thức này mở rộng tầm mắt. Đám quần thần dưới đài tức khắc thì thầm với nhau, bàn bạc sôi nổi.
Đám hề và người lùn vừa đứng lên trên đài liền ra sức diễn. Tiết mục của bọn họ vừa diễn được một lát, nét mặt Khổng Khâu liền biến sắc rất khó coi. Đám hề người lùn kia diễn tạp kỹ hài kịch chỉ cốt chế nhạo người uyên bác, động tác tức cười, lời lẽ thô tục. Khổng Khâu xem quả thực rất khó coi. Để quốc quân Lỗ quốc thưởng thức loại tiết mục này quả thật nhục nhã, điều này một khi truyền ra ngoài, cái gọi là Chu lễ xuất phát từ Lỗ quốc há chẳng phải trở thành trò cười cho thiên hạ chư hầu sao?
Khổng Khâu lập tức bước nhanh lên đài, quát lớn nói:
“ Đám thất phu tiểu nhân kia, lấy hình dạng xấu xí dữ tợn trêu đùa chư hầu. Tội này đáng chém. Chờ lệnh quan xử trí!”
Khương Xử Cữu đang xem mặt mày tươi cười, nhìn thấy Khổng Khâu lại chạy ra phá rối, không khỏi tức giận, không đồng tình nói:
“ Khổng đại phu sao lại kinh ngạc như thế? Những người lùn diễn kịch chẳng qua chỉ là diễn tạp kỹ hài kịch, chọc cho mọi người cười thôi, sao lại gây tội làm ô nhục chư hầu?”
Khổng Khâu nghiêm mặt nói:
“ Quốc quân hai nước hội minh, các công khanh đại nhân có mặt ở đây đều là nhân vật bề trên của triều đình, không khí nghiêm trang nghiêm túc như thế lại có một đám thất phu tiểu nhân đến làm trò hề tác quái, trêu đùa vô ý, chẳng nhẽ vẫn không phải làm ô nhục chư hầu? Lỗ quốc quốc quân ưng thuận ký ước mà đến, chính là quý khách của Tề quốc, quân thượng nếu dung túng cho những kẻ tiểu nhân này, chẳng nhẽ coi thường Lỗ quốc quốc quân?”
Khương Xử Cữu không hề giận giữ, xua tay nói:
“ Khổng đại phu nặng lời rồi, nặng lời rồi. Chẳng qua là gọi bọn họ lên đài ca tạp kỹ một chút, làm mọi người vui vẻ…”
“ Theo Chu lễ, thất phu tiểu nhân mà mê hoặc người chư hầu, tội đáng chém, nếu không trừng trị tội chết, uy nghiêm quân thượng ở đâu? Quốc quân nước ta chịu nhục, thân là thần tử, Khổng Khâu cảm thấy chẳng khác nào mình chịu, giận không thể ngăn. Nếu Tề quân không đành lòng trị tội, Khổng khâu nguyện cống hiến chút sức lực. Người đâu!”
Phía Lỗ quốc đột nhiên xông ra một đám binh tướng, Khổng Khâu một tay chỉ lớn tiếng quát:
“ Đám hề diễn kịch này mê hoặc chư hầu, tội đáng chém, ngươi theo luật đem bọn chúng thủ túc dị môn nhi xuất (chém ngang lưng)!”
“Thủ túc dị môn nhi xuất” chính là hình chém ngang lưng. Khổng Khâu lần này đi dự họp đã sớm chuẩn bị. Cơ Tống mang theo bên mình những người này đều là những võ sĩ trung thành biết nghe lệnh hành sự. Vừa nghe hạ lệnh, một võ tướng lập tức dẫn đầu nhóm võ tướng sĩ Lỗ quốc như hổ như sói tóm gọn đám hề người lùn.
Đám hề người lùn này không còn khả năng sinh tồn, chỉ biết chút ca hát tạp kỹ diễn một vài tiết mục, vừa hay Khương Xử Cữu lại thích trò này, bọn họ mới có thể mưu sinh kiếm bát cơm ở Tề quốc. Nào đâu biết diễn kịch tiêu khiển lại liên quan đến tội danh nghiêm trọng làm ô nhục chư hầu, dẫn đến họa sát thân. Bọn họ lập tức quỳ xuống cầu xin tha mạng, tới tấp dập đầu, mồm năm miệng mười nói:
“ Quân thượng tha mạng, đại phu tha mạng, tiểu nhân hèn mọn không biết quy tắc lễ nghĩa, chỉ là cố gắng những gì tiểu nhân có khả năng làm vui lòng quý thượng. Quân thượng khai ân, đại phu khai ân, xin tha mạng cho bọn tiểu nhân.”
Khổng Khâu ngang tàng muốn giết bọn họ để ra uy, lấy lại thể diện lễ nghi cho Lỗ quốc, tìm cách giành được danh tiếng cho Lỗ quân. Khổng Khâu nghe xong bọn họ cầu xin, không mảy may động lòng, lạnh lùng cười quát lớn:
“ Chấp hành!”
Những võ sĩ kia thực sự cần thể hiện vũ dũng của người Lỗ trước mặt người Tề để tránh cho Tề quốc coi thường Lỗ quốc, cho rằng Lỗ quốc chỉ biết khiêm tốn thủ lễ, không có dòng máu anh dũng. Họ lập tức bắt đám hề đào kép mang xuống dưới đài, không chút nương tay hành hình chém ngang lưng ngay trước đám quần thần hai nước. Trong chốc lát máu vung ra khắp nơi, gan phủ tạng chảy ra. Hình thù kì dị khiến cho rất nhiều công khanh đại thần Tề quốc kinh hãi mặt không còn chút máu, chỉ muốn nôn mửa.
Khương Xử Cữu mặt mày tái mét ngồi trên đài, hai tay vịn vào bàn run rẩy, không nói lên lời. Hắn có phục binh, nhưng Lỗ quốc cũng có phục binh. Mặc dù hận tím mặt nhưng hắn lại không thể làm bừa tỏ ý căm hận, đành để trong lòng. Hội minh kết thúc, Quốc quân hai nước Tề Lỗ chắp tay vái chào cáo biệt, mỗi người lên xe trở về, xe giá quay về. Vừa rời Giáp Cốc, Cơ Tống liền vui sướng cười lớn:
“ Khổng Khanh hữu dũng hữu mưu, sát phạt quyết đoán, thể hiện uy phong, khiến Lỗ quốc ta mở mày mở mặt. Hội minh ở Giáp Cốc lần này, thanh uy của Lỗ quốc vững tại Tề quốc rồi. Ha ha ha…
Last edited by _Gàviệttrì_; 23-04-2011 at 12:13 AM.
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của kedochanh