Phí Vô Cực ở Sở liên tiếp nhận được tin báo khẩn từ đệ đệ, lúc đầu cũng không muốn xuất binh, chỉ phái tâm phúc Yển Tương Sư đi sứ sang Ngô, định thông qua ngoại giao ép Ngô lui binh, không ngờ Úc Bình Nhiên phụ trách tiếp đón sứ giả Sở quốc miệng lưỡi lươn lẹo, hôm nay thì nói quân Ngô sắp rút quân, mai lại to tiếng bảo sĩ khả sát bất khả nhục, Ngô vương chịu nhục sao mà nhịn được? Làm cho Yển Tương Sư không biết người Ngô rốt cuộc đang nghĩ gì.
Đợi khi Ngô quốc bao vây thành Uyển Khâu, Yển Tương Sư mới vội quay về nước. Phí Vô Cực điên tiết, liền phái Yển Tương Sư dẫn ba vạn đại quân đến Trần cứu viện, ai ngờ quân Ngô như biết trước đường đi nước bước của quân Sở, họ vừa bước vào lãnh thổ Trần quốc, đại tư mã Anh Đào đích thân dẫn một vạn năm ngàn quân kéo đến mai phục, thả tiền quân đi qua, tập kích từ phía sau đánh cho Yển Tương Sư tan tác, còn bị bắn trúng một mũi tên vào mông, mũi tên có tẩm độc dược của người Đông Di, sau khi độc phát khắp người phù nề, làm cho Yển Tương Sư nhìn giống một con heo mập.
Hắn khó khăn lắm mới trốn được vào doanh trại, sau khi tỉnh lại nghe thám tử báo tin quốc quân Trần quốc đã giết chết Phí Vô Bệnh, dẫn theo quan viên mở cửa thành, nạp quốc ấn đầu hàng người Ngô rồi.
Yển Tương Sư chửi bới điên cuồng, chửi đến khi không còn nước bọt, hắn quyết định dẫn đám tàn binh bại tướng rút lui về nước. Phí Vô Cực nghe tin đệ đệ chết thảm, Trần quốc hàng Ngô, tức giận đấm ngực đùng đùng, hắn đứng trên tường thành Dĩnh Đô chỉ tay về hướng Trần quốc chửi một trận cho đã, xong lại quay sang hướng Ngô quốc chửi tiếp, nhưng nghĩ đến phải giao chiến với quân đội lang sói của Ngô, hắn lại thấy e dè.
Phí Vô Cực đang do dự có nên xuất binh đánh Ngô hay không, có thám tử chạy đến báo tin, vì Ngô quốc chiếm Bành thành của Tống, hai bên xảy ra xung đột, Tống quốc đã tăng quân tại biên giới, hình như muốn đánh trả quân Ngô. Phí Vô Cực thấy có cơ hội, đang định phái sứ giả sang Tống bàn chuyện cùng xuất quân giáp chiến quân Ngô cả hai mặt Nam, Bắc. Lại nghe thân tín bẩm báo có đại phu Việt quốc Duệ Dong đem theo mấy xe châu báu mỹ nữ vừa vào Dĩnh Đô xin gặp hắn.
Việt quốc đại phu Duệ Dong lần này đi sứ sang Sở, mang theo lễ vật cống nạp nhiều hơn gấp bội so với Cao Như đại phu lần trước. Việt quốc nằm sát ngay phía dưới Ngô quốc, nếu người Việt có thể liên minh thành công với người Sở, vậy cơ hội giành phần thắng của Phí Vô Cực và cả Việt quốc đều mạnh lên rất nhiều.
Người Việt bị Ngô quốc chèn ép quá đáng, đòi cống nạp cũng không hề ít, Chúc Dung lúc ở Việt quốc càng giống như là thái thượng hoàng, hay quát nạt sai bảo Việt vương DoãnThường, khiến Doãn Thường tức tối bề ngoài thì ra vẻ phục tùng răm rắp, sau lưng tức giận đùng đùng, khi xưa Câu Tiễn lấy lí do phụ vương lâm trọng bệnh, kẻ làm con phải trọn chữ hiếu hầu hạ bề bên, lần này thì Việt vương đúng là bị chọc cho phát bệnh. Hai nước Sở và Việt đều có thù oán sâu nặng với Ngô quốc, đương nhiên dễ dàng tâm đầu ý hợp nhau.
Phí Vô Cực và người Việt bí mật kí kết hiệp ước liên minh cùng tấn công Ngô quốc, lại đem tin tức Ngô quốc và Tống quốc kết oán nói ra. Duệ Dong vốn là người mưu mẹo, vừa nghe Phí Vô Cực nói Tống và Ngô vì vấn đề Bành thành xảy ra xung đột, hắn mừng rơn trong lòng, cảm thấy thời cơ đã đến, vội kiến nghị với Phí Vô Cực, lôi kéo Tống quốc gia nhập làm đồng minh của họ, bảo quân Tống chủ động tấn công quân Ngô, thu hút binh lực của Ngô lên phía Bắc, sau đó liên quân Sở Việt đánh úp vào Ngô từ sau lưng, cho dù không diệt được Ngô quốc, cũng có thể bẻ gãy uy danh của Khánh Kỵ, báo thù chuốc hận.
Phí Vô Cực đã sớm có ý định kéo Tống quốc vào cuộc, chỉ là không nghĩ đến mưu kế thâm độc như Duệ Dong, nghe hắn trình bày, cảm thấy quá tuyệt. Khánh Kỵ hiện nay đã liên tiếp thả ba đợt quyền quý cũ của Sở về nước, số quyền quý này đều là thượng khanh chức cao quyền trọng, một tay che trời vào thời Nang Ngõa còn đang lộng quyền, ai nấy xét về quyền thế, về tư cách đều không hề thua kém Phí Vô Cực.
Giờ đây hắn thay thế vị trí của Nang Ngõa, giữ chức Lệnh doãn của Sở quốc, ngay cả Sở vương và Sở thái hậu cũng khiếp sợ dưới quyền lực của hắn, thế lực hơn cả Nang Ngõa năm xưa, nhưng đám cựu thần này chưa từng lãnh giáo qua sự lợi hại của hắn, khi xưa chẳng qua chỉ là đồng vai vế, nay họ qua Ngô làm khách hơn một năm, trở về nước mới phát hiện quyền thế chức quan của mình bị người khác thay thế hết, thử nghĩ họ sao mà chịu buông tay?
Trong đám người này có không ít gia chủ thế tộc, khi bị bắt qua Ngô người kế vị là con cháu của họ, bây giờ gia chủ cũ quay về, đám con cháu dù muốn dù không cũng phải giao trả quyền lực, có trường hợp cá biệt không chịu giao trả, trong gia tộc thế là xảy ra mâu thuẫn nội bộ, ngấm ngầm đấu đá nhau không lúc nào yên.
Những chuyện cỏn con này lúc đầu vẫn chưa làm phiền đến Phí Vô Cực, nhưng số quyền thần nhờ bợ đỡ hắn mới được giữ chức thì khác, chúng dựa vào Phí Vô Cực nên mới nắm giữ được quyền lực, nay có đám người cũ chạy về tranh giành, chúng đâu chịu dễ dàng giao trả những thứ đang có trong tay ra, hơn nữa chúng đều thuộc phe của mình, Phí Vô Cực cũng không muốn thay thế chúng đưa đám quyền quý cũ lên mà chưa biết chắc có chịu nghe lời hắn hay không.
Mấy lão già này đúng là hay sinh sự, suốt ngày liên lạc tụ tập gây hấn với nhau trong thành Dĩnh Đô, chốc chốc lại tìm đến phủ Phí Vô Cực kể lể thở than, làm cho hắn đã bực bội càng bực bội thêm, gần đây Phí Vô Cực đã hết chịu nổi, hắn dọn ra khỏi Dĩnh Đô, lấy cớ đi trốn nóng dọn đến Điếu Ngư Các tại Chử cung.
Đám quyền thần mới được thả về đâu chịu buông xuôi, Phí Vô Cực vừa đi khỏi, chúng bèn chạy đến tìm thái hậu và Sở vương van nài, còn tìm cớ này cớ kia chửi mắng Phí Vô Cực cho hả giận, đám người này kể ra cũng có gốc gác, uy danh cũng không nhỏ, nhất thời Phí Vô Cực không dám manh động ra tay hãm hại, lúc này đây hắn đang buồn phiền, đau đầu không nghĩ ra cách phân chia quyền lực, giải quyết cho êm chuyện.
Nếu quả thật phạt Ngô thành công, thì hắn coi như giải quyết xong chuyện này. Khi phạt Ngô thắng lợi, hắn vì trả được mối thù Hạp Lư công phá đô thành Dĩnh Đô Sở quốc, danh vọng chắc chắn lên cao, đến lúc đó mấy lão già quyền quý này sẽ không dám có ý kiến trước mặt hắn nữa. Hơn nữa một khi giành thắng lợi trong cuộc chiến đánh Ngô, các đại phu phe cánh của hắn ai nấy đều có công lớn, họ có thể danh chính ngôn thuận giữ chức quan, còn đám quyền thần thất thế cũ đâu còn mặt mũi nào mà chạy ra đòi hỏi.
Nghĩ đến lợi ích này, Phí Vô Cực vội bảo Duệ Dong về Việt quốc trước liên lạc với Việt vương Doãn Thường, bàn bạc chi tiết kế hoạch liên minh phạt Ngô, một mặt hắn phái tâm phúc phi ngựa đến Tống quốc thăm dò ý định của người Tống, nếu quả thật Tống và Ngô xảy ra xung đột, bèn liên lạc luôn người Tống, dù kế điệu hổ ly sơn, cùng nhau tiêu diệt Ngô quốc.
Phí Vô Cực đang gấp rút tiến hành kế hoạch nham hiểm, bên kia chuyện lập quốc của Doanh Thiền Nhi cũng đang định ngày hoàn thành. Khánh Kỵ và Vệ phu nhân Nam Tử liên lạc, thông qua Nam Tử bắn tiếng với quốc quân Tống quốc, ngỏ ý Tống quốc cùng phối hợp diễn tuồng với hắn, quân đội hai bên cố ý xung đột, từ đó không ngừng tăng quân tại biên giới Ngô Tống, tạo ra hiện tượng giả là hai nước sắp xảy ra đại chiến.
Hai nước Vệ Tống được Khánh Kỵ giúp đỡ, thuyết phục Tần quốc xuất binh, kẻ địch uy hiếp lớn nhất của họ là Tấn quốc giờ đã tan rã, vì đền ơn đáp nghĩa, yêu cầu nhỏ nhoi phối hợp diễn màn kịch này đương nhiên không có lí do gì phải chối từ.
Mục đích thật sự của Khánh Kỵ trong hành động này chính là Đông Di và Sở, Việt. Đây là kế một mũi tên bắn chết hai con nhạn, tăng quân trú đóng Bành thành, đóng gần vùng đất Đông Di, ngộ nhỡ Doanh Thiền Nhi đăng cơ gặp trở ngại, có thể phát động đại quân dùng vũ lực trấn áp. Nếu Đông Di thuận lợi lọt vào tay hắn, lúc đó sẽ cho “Cuộc chiến tranh biên giới Ngô, Tống” leo thang, dụ liên quân Sở Việt tấn công vào đại bản doanh Ngô quốc.
Mồng một tháng năm, còn bốn ngày nữa là Độc nguyệt Ác nhật, vào đúng Đoan Ngọ, truyền thuyết nói đây là ngày gian tà tứ xuất. Khánh Kỵ leo lên lầu cao, dõi mắt về hướng Tây Bắc, nghĩ đến cảnh tượng Tần quốc xuất binh, lục khanh phân chia Tấn quốc, trái tim hắn khua thình thịch liên hồi, máu nóng dâng trào, chỉ tiếc là vào thời đại đó không có phóng viên chiến trường, cũng không có truyền hình trực tiếp, đợi tin tức bên kia truyền đến tai hắn, nhanh nhất cũng phải mất gần một tháng.
Khánh Kỵ sau khi lên ngôi Ngô vương, phần lớn thời gian phải ở trong cung, không phải nghị bàn quốc gia đại sự với quần thần, thì là đến hậu cung hưởng lạc với các mỹ nhân, những ngày tháng an nhàn này nghe có vẻ hay, nhưng ngày nào cũng ăn thịt cá tôm cua cũng sẽ có lúc thấy ngán, sống hơn một năm an nhàn, Khánh Kỵ lúc này có hơi hoài niệm những ngày tháng hắn đích thân dẫn quân ra sa trường chém giết.
Nhưng hắn cũng hiểu rõ với thân phận bây giờ không cho phép hắn đích thân ra sa trường nữa rồi, trái tim háo hức một hồi, cuối cùng hắn cũng nghĩ ra một lí do hợp lí ra khỏi hoàng cung: đi tuần thị Hàn Ấp.
Quốc vương một nước đi lại trên lãnh thổ của mình, nghĩ chắc không ai dám phản đối nữa chứ? Hàn Ấp chính là nơi giáp ranh gần nhất với thế lực phương Bắc của Ngô quốc, là cứ điểm quân sự quan trọng về phòng thủ. Đại vương đi tuần thị cứ điểm quân sự, lí do quá chính đáng, thêm vào đó hiện nay đang diễn màn kịch căng thẳng leo thang với Tống quốc, chiến tranh sắp nổ ra mà đại vương tuy không đích thân ra trận, nhưng xuất hiện tại quân doanh cổ vũ binh sĩ, hành động này cũng góp phần thuyết phục hai nước Sở, Việt tin Ngô xung đột với Tống là thật, nghĩ chắc với tính gian xảo của Phí Vô Cực và Câu Tiễn cũng không nghi ngờ đây là một cái bẫy giăng sẵn dụ họ rơi vào.
Ngoài ra, một khi Đông Di lập quốc thành công, quốc gia mới thành lập, Doanh Thiền Nhi không thể lập tức rời khỏi Đông Di đến Cô Tô gặp hắn, lúc đó hắn có thể hội ngộ với nữ vương Đông Di tại Hàn Ấp, dùng thân phận quốc quân hai nước kí kết hiệp ước liên minh, xác lập quan hệ giao hảo.
Khánh Kỵ hí hửng đem ý định này nói với các đại thần Tôn Vũ, Yểm Dư, quả nhiên bọn họ không tìm được lí do gì ngăn cản Khánh Kỵ khởi hành, sau cùng các triều thần quyết định, điều thượng tướng quân Kinh Lâm từ Vũ Nguyên quay về bố phòng Cô Tô thành, do tướng quốc Tôn Vũ chủ trì triều chính, vì Khánh Kỵ chưa có con, nên giao cho hoàng hậu và ba vị hoàng phi cùng nhau giám quốc.
Xa giá đang đứng đợi ngoài cung, năm mươi cỗ chiến xa, ba ngàn giáp binh vây kín mít lấy ngự giá của Khánh Kỵ, đứng xa xa chỉ nhìn thấy chiếc dù che nắng màu vàng cắm trên xe, trước và sau còn có hai ngàn tinh binh hộ tống, lúc khởi hành sẽ chia nhau cách trung quân của Khánh Kỵ ba dặm đường để tiếp ứng khi cần thiết.
Khánh Kỵ ngồi bệ vệ trên chiếc xe vua được che chắn cẩn thận, ngón tay gõ tanh tách vào thành xe, tiết trời nóng nực, giang nam lại ẩm ướt, trời nóng chui vào xe cứ như đang ngồi trong lò hấp bánh bao, Khánh Kỵ quen với việc ngồi trong cung có băng đá tản nhiệt đặt xung quanh, nay đột nhiên đi đường dưới ánh nắng chói chang quả là có hơi không quen.
Hắn nhìn vào hàng binh sĩ đang đứng dưới ánh nắng, mồ hôi lăn dài từ trán xuống tới lưng, áo giáp trên người bị ánh mặt trời chiếu vào lóe mắt, nhưng các binh sĩ vẫn nghiêm nghị đứng yên không hề động đậy, cứ giữ tư thế này đứng rất lâu.
“Ây! Khi xưa ta cũng từng nếm qua cảnh cơ cực này, bây giờ làm đại vương sống những ngày tháng an nhàn, ngồi trong xe mà còn thấy vất vả, đúng là nghèo đổi sang giàu thì dễ chấp nhận, đang xa hoa mà bắt cơ cực thì khó chịu nổi.”
Khánh Kỵ cảm khái nghĩ ngợi, quay đầu nhìn về phía cổng hoàng cung, khẽ chau mày, nha đầu Tiểu Man đang làm gì ấy nhỉ, quả nhân sắp phải dẫn quân đi thị sát biên cương, thế mà nàng ta chưa đến đưa tiễn nữa.
Vừa nãy hoàng hậu Quý Doanh dẫn theo phi tần chốn hậu cung đến tiễn biệt đại vương ở Loan Phượng cung. Khánh Kỵ và Quý Doanh từ đêm đó chưa từng gặp mặt riêng với nhau, càng không nói với nhau câu nào, hiện giờ hai người giống như trẻ con phụng phịu, muốn làm lành lại thấy ngại. Khánh Kỵ nhìn thấy Quý Doanh đã không còn cảm giác chán ghét như trước, ngược lại thấy vị hoàng hậu này rất thú vị.
Hắn tin Quý Doanh bây giờ cũng không ghét cay ghét đắng hắn nữa, đồng thời đang đợi hắn hồi tâm chuyển ý, hai người ánh mắt chạm nhau, từ đôi mắt ấy lờ mờ đọc được ý nghĩ của đối phương, hai người từ một đôi nam nữ chưa từng quen biết, vì mục đích chính trị kết làm phu thê, lại động thủ trong đêm tân hôn, nay bắt đầu tiến tới giai đoạn hòa nhập.
Khánh Kỵ trước lúc lên đường, các phi tần đại thần đều có mặt đưa tiễn, trước đám đông hắn không tiện nói ra câu gì, Quý Doanh theo lễ nghi cung đình cung chúc đại vương xuất hành thuận lợi, long thể khỏe mạnh xong, dâng lên ba ly rượu, rồi ngoan ngoãn lui xuống. Khánh Kỵ đang định xuất phát, Quý Tôn Tiểu Man xưa nay không ra dáng hoàng phi cao quý bỗng chạy đến bên tai hắn nói nhỏ: “Đại vương, xin đợi giây lát bên ngoài cung, có món đồ thú vị này tặng cho chàng.”
“Món đồ gì vậy?”
“Hí hí, mau làm xong rồi, đợi khi nào chàng thấy thì sẽ biết thôi.”
Tiểu Man tinh nghịch lui xuống, nhìn thấy hai người thân mật như thế, ánh mắt Quý Doanh không khỏi ngưỡng mộ, nhưng khi Khánh Kỵ đưa mắt về phía nàng, đôi mắt ấy lập tức trở lại vẻ bình thản, không còn gợn sóng lăn tăn, tình cảm dạt dào.
Lúc này đã mất khá nhiều thời gian, còn chưa đợi được món quà thú vị của Tiểu Man, Khánh Kỵ có hơi mất kiên nhẫn, đang gõ tay tanh tách lên thành xe, không ngừng ngóng đầu về phía cổng hoàng cung chờ đợi, bỗng thấy hai tên thái giám tùy thân Thân Sinh, Thư Khắc mỗi người cầm theo một cái giỏ tre chạy như bay lao đến.
“Đại… đại vương…, quà… đưa… đưa tới rồi.” Thư Khắc đưa tay áo lên lau mồ hôi lấm tấm trên trán, thở hổn hển gọi với theo.
“Hử? Là món gì vậy, trình lên đây cho quả nhân xem thử.”
“Dạ, dạ!” Thân Sinh vội bước lên phía trước, mở nắp đậy ra, hai tay dâng giỏ tre lên.
Khánh Kỵ nhìn vào, lập tức cảm thấy kinh ngạc, trong giỏ là vài món ăn nhắm nháp thơm ngon nhìn vào là nhỏ dãi.
“Đây là…”
“Đây đều là hoàng hậu tự tay làm đó ạ, hoàng hậu nương nương nói đại vương đi xa dọc đường vất vả, việc ăn uống trên đường lại không tiện, bây giờ đang vào giữa trưa, mới có ý làm ra vài món ăn, mời đại vương thưởng thức trên đường đi.”
“Ồ… là hoàng hậu làm đó hả?”
“Dạ phải, hoàng hậu nương nương còn nói, đây là hầu lương, thức ăn dùng thạch tử đun nóng làm ra, thơm giòn ngon miệng, lại để được lâu.”
“Hầu lương, đây chẳng phải là món ăn Thạch tử mô sau này đó à?” Khánh Kỵ bẻ một miếng nhỏ bỏ vào miệng, càng nhai càng thơm, Khánh Kỵ mỉm cười khoái trá: “Không ngờ con ngựa hoang này còn biết chuyện bếp núc nhỉ, tài nấu nướng cũng khá đấy.”
Thạch tử mô chính là món ăn đặc sắc trong lịch sử chế biến của Trung Quốc, thời Xuân Thu gọi nó là “Hầu lương”, đến đời Đường đổi tên thành bánh “Thạch ngao”, thời đó thường làm cống phẩm đưa vào cung cho hoàng thượng phi tần hưởng dụng, là một món lương khô ngon miệng lại thích hợp mang theo khi phải đi xa, hơn nữa món này dễ tiêu hóa, ngay cả người bệnh, sản phụ cũng thích hợp dùng làm thức ăn.
“Đại vương, còn đây là Phấn từ, dùng gạo nếp và bánh đậu hấp ra thành chiếc bánh, hoàng hậu nương nương nói đây là món ăn đặc sản Tần Xuyên, đặc biệt làm riêng cho đại vương dùng thử ạ.”
Khánh Kỵ nhìn vào, quả nhiên là món ăn được Quý Doanh bỏ tâm tư chọn lựa, món này lưu truyền đến mấy ngàn năm sau, được người hiện đại gọi là “Tắng cao”, chỉ là sau này người ta thêm vào ít táo đỏ.
Khánh Kỵ cảm thấy hài lòng, mỉm cười mãn nguyện: “Nha đầu này, cách tạ lỗi với ta cũng thú vị nhỉ, lại nghĩ ra cách tự tay làm vài món ăn lấy lòng phu quân, ha ha, ăn những món này vào bụng rồi, sau này gặp mặt nàng ta đâu làm mặt lạnh được nữa.”
Thư Khắc cũng dâng chiếc giỏ của mình lên: “Vì đại vương đi xa, hoàng hậu đích thân tuyển chọn vài món ăn dâng lên, giỏ này là “Ngư chỉ”, cũng là món hoàng hậu nương nương vừa mới làm xong.”
Giỏ thức ăn của Thư Khắc, Khánh Kỵ nhìn vào cảm thấy quen thuộc, đây rõ ràng chính là su shi của Nhật, khi đó gọi là “Ngư chỉ”, vào đời Hán gọi là “Ngư sạ”, vì món này dễ mang theo khi đi đường nên thích hợp làm thức ăn khi phải đi xa. Vào đời Đường, văn hóa Trung Hoa du nhập vào Nhật Bản, người Nhật học được cách làm món ăn này, đến đời Minh món này biến mất tại Trung Quốc, trở thành món ăn truyền thống của Nhật, lí do tại sau cũng không ai biết chính xác.
Khánh Kỵ thấy Quý Doanh quan tâm tới hắn, trong lòng mừng rơn, nghĩ thầm: Nha đầu Quý Doanh này tính tình không tệ, chỉ là quen được chiều chuộng nên hơi ngang tàng, nếu lần này không được dạy dỗ, e là sau này cưỡi lên đầu lên cổ mình, phu thê sớm muộn cũng đồng sàng dị mộng, xung đột gay gắt.
Phí Vô Cực thì chắc chắn phải đánh rồi, nhưng không thể để một nữ nhi quyết định, hơn nữa lập trường can dự chính sự của nàng là quá nguy hiểm, hắn không thể dễ dãi cho qua chuyện, buộc phải làm nghiêm để răn đe, nếu không làm căng sợ sau này hậu cung lộng quyền dung túng cho thân thích nắm giữ triều chính, nguy hại đến giang sơn xã tắc Ngô quốc, lúc đó công sức phục quốc của hắn coi như đổ sông đổ biển, nhưng giờ đây tin rằng thiếu nữ Quý Doanh dù tính cách mạnh mẽ, trải qua bài học quý báu này, tương lai sắp tới chắc không dám làm bừa trước mặt hắn nữa.
Tôn Vũ dẫn theo quần thần vái lạychúc mừng: “Hoàng hậu hiền thục, là phúc của đại vương.”
“Ờ, ờ!” Khánh Kỵ cố nhịn cười, gật gù: “Về nói lại với hoàng hậu, cứ nói… những món ăn này…, à… rất hợp với khẩu vị của quả nhân, ha ha ha…!”
Quyển 5: Cao như mặt trời
Chương 276: Chiến loạn bắt đầu
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
“Đại vương nói… thức ăn này… rất hợp khẩu vị của ngài à?”
“Ừm.”
Quý Doanh và Quý Tôn Tiểu Man nhìn nhau, Tiểu Man cười khanh khách, trên chọc: “Thế nào, thích rồi chứ?”
Hai tiểu thái giám Thân Sinh và Thư Khắc không biết câu nói của Khánh Kỵ có ẩn ý khác, chỉ đứng đó cười hùa theo.
“Các ngươi lui xuống đi!” Tiểu Man xua tay cho hai tên thái giám lui ra, sau đó nắm lấy tay Quý Doanh, cười hi hí nói: “Thế nào, chủ ý của Nhược Tích tỉ tỉ hay đấy chứ? Nam nhân ấy hả, đều là thuộc họ lừa, chỉ chịu mềm mỏng không chịu cứng rắn đâu, tỉ biết dỗ ngọt là nghe theo răm rắp liền à.”
“Nhưng đại vương đi về phương Bắc mất rồi.”
“Chán quá, muội chỉ ví dụ thế thôi mà.”
Quý Doanh tay chống cằm, âu sầu nói: “Ờ, tỉ cũng biết muội chỉ lấy ví dụ, nhưng con lừa đó lại là phu quân của chúng ta, đây là nhà của tỉ, không dỗ ngọt chàng thì còn biết phải làm sao? Nhưng… làm vậy là xong à? Tỉ… tỉ cũng không rõ mình sau khi uống say đã làm gì nữa, hình như… còn vật ngã đại vương…”
Quý Tôn Tiểu Man nhíu mày lo lắng: “Vậy thì rắc rối to, nam nhân mà bị nữ nhân vật ngã, nhất định cảm thấy mất mặt.”
Nàng xoay tròn đôi mắt, đột nhiên lại cảm thấy hí hửng: “Tỉ vật ngã được đại vương thật à? Chính là dùng kĩ thuật đã từng dạy muội?”
Quý Doanh làm ra vẻ tội nghiệp gật đầu: “Ờ, hình như cũng vật khá mạnh.”
Tiểu Man khoái trá kêu lên: “Ha ha, muội biết điểm yếu của chàng rồi, thì ra chàng kém tài vật lộn. Hí, hồi trước dám bắt muội trên thuyền, còn đánh mông muội, lần này muội cho biết tay.”
Nhìn dáng vẻ bí hiểm của Tiểu Man, là biết nàng định mai mốt làm gì Khánh Kỵ rồi. Quý Doanh liếc xéo Tiểu Man một cái, lại nhìn vào bốn tì nữ tùy giá đang nhăn nhó đấm tay đấm chân đứng kế bên, nguýt dài: “Đừng giả bộ nữa, mới bảo các ngươi làm có chút việc, mà ai nấy đều mệt đến nông nỗi này à?”
Hân Nhi kể khổ: “Hoàng hậu à, bắt chúng nô tì phải làm xong trong thời gian ngắn thế này, mệt chết đi được.”
“Thôi được rồi, đừng kêu ca nữa, đều là ta ngày thường ít sai bảo các ngươi, mau đi chuẩn bị thêm một phần vật liệu cho ta.”
“Á! Đại vương đã đi rồi mà, còn làm cho ai ăn?”
“Bổn hoàng hậu phải học làm, nếu không học cho biết, đợi tên phu quân kia về phát hiện không phải ta làm, lại xụ mặt ra giận ta à? Mau đi chuẩn bị, mau lên.”
Bốn tì nữ kêu trời không thấu, nhưng hoàng hậu hạnh phúc thì họ mới được hạnh phúc, hơn nữa nếu hoàng hậu không lôi kéo được trái tim đại vương, bốn người họ cả đời cũng phải cùng hoàng hậu ở góa, sự việc liên quan đến hạnh phúc chung thân, nên chỉ còn biết phấn chấn tinh thần, lại đi chuẩn bị vật liệu nấu mấy món ăn cho hoàng hậu học làm.
Quý Doanh thở dài: “Người ta chưa từng chịu cực thế này, vì chàng mà phải đổi tính, thế mà chàng…”
Quý Tôn Tiểu Man và Quý Doanh đã trở thành bạn tốt, trước mặt Tiểu Man nàng cũng không giấu giếm tâm sự. Tiểu Man an ủi: “Thôi, chàng đó hả, ngoài miệng thì cứng cỏi, nhưng thực ra trong lòng rất tốt.”
Quý Doanh uất ức thở dài cái nữa: “Tiểu Man muội muội, muội không biết đó thôi, chàng… đã từng nói, suốt đời này không bước chân vào Loan Phượng cung nửa bước.”
“Hơ…, xem ra tỉ làm chàng nổi giận thật rồi. Nhưng không sao, chỉ bảo là không bước vào Loan Phượng cung nửa bước, còn bước hai bước ba bước, mười bước một trăm bước, như thế là không vi phạm lời thề rồi đúng không nào?”
Quý Doanh há hốc miệng: “Úi! Vậy cũng được à?”
“Có gì mà không được, hai phu thê mà, gây gổ một chút có sao đâu.”
“Nhưng… chàng đường đường là đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc, lại là đương kim đại vương, nhất ngôn cửu đỉnh, sao có thể nuốt lời? Đã nói ra thì… phải làm cho bằng được.”
“Hứ!” Tiểu Man vênh mũi, ngún nguẩy nói: “Tỉ đừng bị chàng lừa mà lầm to, chàng nói chuyện không bao giờ giữ lời đâu.”
“Sao lại nói vậy?”
“Hắn còn nói không đụng vào… của người ta, Á!”
“Hở?” Quý Doanh nghe không hiểu, Tiểu Man xấu hổ che mặt, khuôn mặt bé xinh bỗng trở nên đỏ chót như một miếng vải đỏ.
“Tiểu Man, muội nói gì vậy?”
“À, Ờ…, ờ… muội chợt nhớ ra nến trong phòng muội còn chưa thổi tắt, muội… muội đi về đây.”
Tiểu Man lủi nhanh như con cáo, mặc kệ Quý Doanh gọi với theo, nàng ùa chạy ra cửa biến mất.
Quý Doanh ngạc nhiên nhìn theo bóng lưng Tiểu Man, sau đó sụ mặt lại, hai tay chống cằm, lại bắt đầu nghĩ đến tình cảnh sầu não của mình.
Quen nhau trễ nhất, về mặt tình cảm nàng và Khánh Kỵ không được sâu nặng, nhưng dù cho Quý Doanh ngang tàng, nữ nhi ai mà không toan tính cho hạnh phúc tương lai của mình? Nàng đã đồng ý làm hoàng hậu Ngô quốc, đã là thê tử của Ngô vương, số phận an bài nàng phải sống ở đây suốt đời rồi, với thân phận của mình nàng nhận thức rõ ràng hơn ai hết.
Khánh Kỵ là phu quân kề cận bên nàng cả đời, sao nàng không lo lắng cảm giác của hắn đối với nàng chứ? Trong cuộc hôn nhân này tuy có yếu tố sắp đặt sẵn, nhưng Khánh Kỵ cũng hội đủ điều kiện khiến nữ nhân động lòng, đó chính là lí do quan trọng nàng khiến từ từ trở nên mềm mỏng, nhưng… tên oan gia đó có chịu hồi tâm chuyển ý không nhỉ?
“Mình cứ đối xử tốt với chàng, tên khốn đó nhất định đắc ý vênh mặt lên trời rồi. Hứ! Không dỗ ngọt một chút, làm sao kéo được dây cương buộc chặt con ngựa hoang? Mẹ mình từng nói, chuyện nam nữ phu thê, ai thắng ai thua không giống với kẻ yếu người mạnh chém giết nhau trên chiến trường, chỉ cần nắm được trái tim đối phương, hí hí…”
Quý Doanh càng nghĩ càng khoái trí, tay chống cằm cười tủm tỉm một mình tự khi nào.
“Hoàng hậu, mọi thứ đã chuẩn bị xong rồi ạ…”
“Ta tới liền, ta tới liền…” Quý Doanh nhảy cẫng lên, xắn tay áo để lộ bắp tay trắng nõn hối hả chạy đi…
Hoàng Hà cuồn cuộn, như một nhát kiếm sén bén cắt đôi cao nguyên hoàng thổ, ngăn cách biên giới hai nước Tần, Tấn, mở ra một khe hẹp dài hơn bảy trăm dặm, phong cảnh đẹp như trong tranh, bọt sóng tung tóe đánh từng đợt vào vách đá hiểm trở, tiếng sóng như cả ngàn con trâu cùng gầm rú. Nơi đây chính là Hàn Nguyên.
Đại quân Tần quốc đã tụ tập ngay đây, đại tướng quân Công Tôn Vũ làm chủ soái, phó tướng phiên tướng đông đảo, ba vạn tinh binh, năm trăm cỗ chiến xa, ngựa hí vang trời, lăm le tấn công sang bên kia.
Tin tức được truyền đến Giáng thành ở Tấn quốc, lục khanh tề tụ cùng quốc vương bàn cách đối phó động thái của quân Tần, tin khẩn từ biên giới không ngừng được báo lên triều đình đại điện.
Trung Hành Thị bước ra khải tấu: “Tấn quốc ta nam chinh, bị Tần quốc ngăn cản, nay Tần chưa ngưng chiến được nửa năm lại dấy binh Hàn Nguyên, dòm ngó nước ta, đề phòng bất trắc, Tấn quốc ta nên xuất binh chiến đấu với chúng.”
Phạm thị vội nói: “Thần cho rằng Tần xuất binh là vì thừa lúc Tấn quốc ta xung đột với Vệ Tống, ý đồ gây bất lợi, thần thấy hai nước Vệ Tống không có gì đáng ngại, duy chỉ có Tần là đại địch của ta, ta nên ngưng chiến với Vệ Tống, ép chúng cắt đất cầu hòa thế là được, sau đó tập trung binh lực tiêu diệt Tần, cho Tần từ nay không dám dòm ngó lãnh thổ Tấn quốc của ta nữa.”
Triệu Tử Giản lập tức phản đối: “Làm vậy không ổn, hai nước Vệ Tống tuy không là cường địch, nhưng chiếm được Vệ Tống, cả trung nguyên coi như phần lớn nằm trong tay ta, Tần quốc sẽ là bá chủ thiên hạ. Nay quân ta đã chiếm hơn một nửa lãnh thổ Vệ quốc, chỉ cần đánh thêm một năm vài tháng muốn diệt luôn Vệ quốc cũng không khó, đến lúc đó Tống quốc đưa tay là lấy được thôi, miếng ngon ăn đến tận miệng sao lại nhả ra? Tần vương xưa nay không hề có chí lớn, lần này xuất binh chẳng qua muốn thừa cơ ăn cướp kiếm chút lợi lộc thôi, theo ý thần chỉ cần phái một cánh quân đi nghênh chiến là quân Tần không dám manh động, Tấn quốc ta nên đặt mục tiêu chiếm Vệ lên hàng đầu.”
Triệu Giản Tử đang là trọng thần số một Tấn quốc, Phạm Thị, Trung Hành Thị không dám phản đối, Tấn hầu nghe xong nhất thời do dự chưa quyết định, thấy tam khanh ý kiến trái ngược, bèn nhìn sang Tri Thị, muốn nghe ý kiến của hắn.
Tri Thị cười nhạt, khải tấu: “Thần đồng ý với Triệu đại phu, người Tần không đủ sức đe dọa chúng ta, lần này xuất binh không có gì đáng lo ngại, nhưng người Tần chiếm vị trí hiểm yếu, ta cũng không nên khinh địch, ta cứ đưa quân day dưa với Tần, vẫn đặt nhiệm vụ đánh Vệ lên hàng đầu, chỉ cần diệt được Vệ Tống, chiếm trọn trung nguyên, lúc đó đối phó với Tần còn chưa muộn. Không quá ba năm, vùng lãnh thổ trung nguyên rộng lớn đều thuộc về Tấn quốc ta.”
Triệu Giản Tử nghe vậy cảm thấy bất ngờ, hắn và Tri Thị xưa nay bất hòa, tuy chức quan cao hơn nhưng thế lực không bằng Tri Thị, thế mà giờ đây liên quan đến lợi ích hành động quân sự Tri Thị lại bỏ qua chuyện riêng đứng về phía hắn, hắn có hơi cảm động, Ngụy Thị và Hàn Thị thế lực hơi yếu, không dám phát biểu ý kiến riêng, thấy Triệu Giản Tử và Tri Thị thống nhất với nhau, cả hai cùng bước lên tán thành.
Tấn hầu thế mới an tâm, gật gù phán: “Không sai, Tần vương xưa nay không có chí lớn, cứ trấn thủ Quan Trung không biết bành trướng, lần này vì cứu Sở thành công, lại mới kết thân với Ngô nên mới hứng lên thảo phạt quả nhân, muốn giải vây cho Vệ Tống, đến lúc đó Tần liên minh với chư hầu phương Nam, lại có Vệ Tống giúp sức, sẽ lăm le ngôi bá chủ thiên hạ. Hứ, quả nhân đâu cho chúng dễ dàng toại nguyện, bây giờ phải tiêu diệt Vệ đã, nhưng… đại quân của quả nhân còn đang chiến đấu ở Vệ, nên phái cánh quân nào đi ngăn cản quân Tần tiến công đây?”
Tấn hầu quay đầu lại nói: “À, Phạm ái khanh…”
Phạm Thị vội bước lên thoái thác: “Bẩm quốc quân, quân đội của thần đang cùng binh mã của Trung Hành Thị chia quân hai ngả, chế ngự các bộ lạc Ly Nhung, Xích Địch, nếu điều đi đối phó quân Tần, e là các bộ lạc này thừa cơ làm loạn.”
Tấn hầu không còn cách nào khác, lại quay sang Tri Thị: “Tri ái khanh…”
Tri Thị khẳng khái nói: “Đây vốn là bổn phận của thần, chỉ là…”
Hắn khẽ nhíu mày đăm chiêu, ra vẻ lo lắng: “Binh mã của thần lúc nam chinh đại chiến với liên quân Tần Sở, tổn thất nghiêm trọng, nay cần phải nghỉ ngơi chỉnh đốn, nếu gấp rút điều động e về mặt thời gian không kịp.”
“Thế thì…” Tấn hầu nhìn sang Hàn Thị và Ngụy Thị, có ý phái họ xuất chinh, nhưng binh lực của gia tộc Hàn, Ngụy không mạnh, phái họ xuất chinh lại sợ không phải đối thủ của quân Tần.
Tấn hầu cảm thấy khó giải quyết, âu sầu nói: “Chẳng lẽ… phải rút bớt binh mã từ Vệ về sao?”
Triệu Giản Tử có lòng chinh chiến thiên hạ, kiến công lập nghiệp, giờ đây binh lực tác chiến ở Vệ đã có phần phân tán, nếu lại rút bớt quân về, e cục diện chiến sự thay đổi theo chiều bất lợi, thấy các thế lực kia ai nấy tìm cớ từ chối, hắn là người ủng hộ tiếp tục đánh Vệ, chỉ còn cách gánh lấy trách nhiệm vậy, bèn bước lên khải tấu: “Thần còn một cánh quân ở Giáng thành, ngoài ra còn một đội quân trấn thủ ở Tấn Dương, quân Tần lần này tiến công mạnh mẽ, thần sẽ điều hai cánh quân này đi ứng chiến, xin hai vị đại phu Ngụy Thị, Hàn Thị điều thêm hai vạn quân của mình đến trợ giúp, cùng đánh lui quân Tần.”
“Được thế thì tốt quá, Hàn ái khanh, Ngụy ái khanh có gì dị nghị không?”
Hàn, Ngụy nhìn nhau, thấy không còn lí do gì để từ chối, cùng lên tiếng: “Thần… tuân chỉ.”
Vệ hầu thở phào nhẹ nhõm: “Cứ quyết định vậy đi, các vị ái khanh mau đi chuẩn bị, ba ngày sau xuất binh đến Hàn Nguyên chống địch.”
Các đại thần vái lạy hành lễ lui ra, khắp đại điện trong một lúc trở lại cảnh đìu hiu trống trơ.
Đêm đó, trước khi cổng thành đóng lại, vài chiếc xe ngựa thương buôn rời khỏi Giáng thành, chia nhau đi về các hướng Tiên Ngu, Ly Nhung, Xích Địch, Vệ quốc. Chúng chỉ truyền đi một câu lệnh: “Hành động vào ngày Đoan Ngọ.”
Quyển 5: Cao như mặt trời
Chương 277: Đông Di lập quốc
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
Đỉnh, vốn là vật dụng để nấu nướng, nhưng từ thời Hạ Vũ lấy vàng đúc cửu đỉnh đặt dưới Kinh Sơn tượng trưng cho cửu châu, đỉnh từ một vật dụng thông thường bỗng hóa thân thành biểu tượng quốc gia. Quốc gia diệt vong thì đỉnh bị dời đi, triều Hạ suy vong, triều Thương lên nắm quyền, cửu đỉnh được đưa về kinh đô nhà Thương tại Bạc Kinh, Thương tàn Chu lên, cửu đỉnh lại được dời đến kinh đô nhà Chu là Hạo Kinh. Trải qua mấy triều đại, đều gọi lập nên vương triều mới là “Định đỉnh”.
“Ác nhật định đỉnh”, câu nói này không cần giải thích nhiều: kế hoạch không thay đổi, cứ theo ngày tháng đã định, lập nghiệp kiến quốc.
Các thôn làng và thị trấn cư ngụ của người Đông Di, bên ngoài chỉ dùng gỗ đá thô sơ xây dựng bức tường thấp phòng chống thú rừng, nay Doanh Thiền Nhi ra sức cải tạo, xây nên một thành trì cao hai trượng trải dài hơn chín dặm.
“Đồng đã đun chảy, chuẩn bị đổ khuôn.”
Có người đứng trên một gò đất cao hét to, công nhân tứ phía lập tức bận rộn làm việc.
Doanh Thiền Nhi và các tộc trưởng bộ lạc Phong, Hành, Thỉ đứng trên tòa lầu nhỏ cao hai tầng làm bằng gỗ, hồi hợp bước tới nắm lấy lan can, dõi mắt nhìn theo, bảo đỉnh lập quốc của Đông Di sắp bắt đầu được đúc đây.
Vào thời đại này, trong lúc lập quốc mà cán cờ bị gãy, lễ đài bị sập, hay đúc đỉnh thất bại đều bị xem là niềm gở, đủ làm cho lòng dân dao động, còn với một nhà nước Đông Di mới thành lập, các thế lực chưa đạt thỏa thuận thống nhất thì cả kế hoạch càng dễ sôi hỏng bỏng không, Thành Bích sao có thể không quan tâm theo sát, nàng cảm thấy cổ họng khô khốc, có vẻ như nàng đang đứng cạnh lò lửa hừng hực đằng kia.
Binh lính xung quanh tất cả đều là thuộc hạ thân tín của nữ vương, chúng là võ sĩ thuộc hai bộ lạc lớn nhất Doanh, Phong, còn các thợ đúc đỉnh, từ thợ chế khuôn, đun vàng, tát nước làm nguội đến mài giũa đều là thợ lành nghề được nữ vương bỏ nhiều tiền ra tìm về, tất nhiên đó là nói cho người ngoài nghe, thực tế thì đám người này đều là thợ đúc ưu tú đáng tin cậy nhất của Nhâm gia do Nhâm Băng Nguyệt phái đến.
Lúc này đang giữa trưa nắng gắt, lò nung bốc lên luồng khói đen ngùn ngụt, xung quanh không một cơn gió, càng làm không khí oi bức lạ thường, cảm giác bất an ức chế lòng người.
Những tên đại hán cởi trần đang ra sức làm việc xung quanh lò lửa, thêm củi, thổi hơi, bên kia một đám người khác hò hét kéo cái khuôn mới đúc xong còn nóng hừng hực ra.
Trên đất là những khúc cây làm bánh lăn, cái khuôn to bè nặng trịch lăn trên những thanh gỗ di chuyển từ từ đến bên lò nung, các lực sĩ cẩn thận canh chỉnh lại cho khớp lỗ thông để đổ đồng vào.
Cái khuôn này được làm bằng đất nung, trên có khắc hoa văn tinh tế, bên trong cũng có họa tiết, khi cho dung dịch đồng bị nung chảy vào đợi khô cứng đập vỡ khuôn là đỉnh được đúc thành công. Quá trình làm ra cái khuôn này từ chọn đất sét, phơi khô, hòa tan, tách tạp chất, pha trộn, nặn khuôn… tất cả mất hơn một tháng, biểu tượng của một quốc gia, tượng trưng cho quyền lực Đông Di, các thợ đúc dù không biết ý nghĩa chính trị thật sự cũng cảm thấy vinh hạnh được tham dự vào công việc đúc đỉnh nên ra sức làm tốt nhất.
Các thợ đúc hét gọi đám đệ tử học nghề tránh ra, đích thân bước đến bên chiếc khuôn giám sát việc đổ đồng vào, dòng dung dịch đồng nóng chảy từ từ được chảy vào khuôn, nước đồng đỏ rực tia lửa tung tóe, khuôn phải đủ chắc chắn, bằng không khi cho dung dịch đồng nóng chảy vào sẽ nứt toạc ra, lúc đó công việc đúc đỉnh coi như thất bại.
Thành Bích hồi hộp theo dõi từ xa, hai tay nắm chặt, nín thở chờ đợi, nàng đang mặc y phục Đông Di nhưng vẫn rất xinh đẹp, nhan sắc kiều diễm của nàng nhìn vào chắc tưởng chỉ lớn hơn Huyền Điểu có hai tuổi, hai mắt chớp chớp e thẹn, các trưởng lão trong bộ lạc đều là những hán tử vạm vỡ, trong thời khắc đúc đỉnh quan trọng này, hình như số lần họ nhìn vào nàng còn hơn cả nhìn vào chiếc đỉnh.
Rất lâu sau, Huyền Điểu vui mừng hét toáng lên, níu lấy cánh tay phụ thân của nàng nhảy nhót liên hồi: “Thành công rồi, thành công rồi!”
Cùng lúc đó, đám thợ cũng hoan hỉ hò reo mừng rỡ, Thành Bích thở phào nhẹ nhõm, khuôn mặt diễm lệ nở một nụ cười say đắm, ngửa mặt lên trời nói: “Trời cao phù hộ cho Đông Di.”
Các vị trưởng lão đứng xung quanh không biết trong lòng thất vọng hay mãn nguyện, nhưng đều lên tiếng hùa theo reo hò.
Tiếp theo đó dung dịch đồng nguội lạnh nhanh chóng, bọn lực sĩ dùng búa đập vỡ lớp đất nung, một đỉnh đồng đồ sộ hiện ra trước mặt mọi người, các thợ đúc lại mau chóng chuẩn bị đồ nghề chạy đến cắt, giũa tạo dáng cho chiếc đỉnh, ai nấy ra sức làm ra chiếc đỉnh đồng trấn quốc Đông Di hoành tráng có một không hai này.
“Các vị trưởng lão, xin mời cùng Doanh Thiền Nhi đến gần xem bảo đỉnh của Đông Di quốc ta.”
Thành Bích nói xong, sải bước điệu đàng bước xuống lầu, các vị trưởng lão lật đật bám theo gót chân nàng, Huyền Điểu đeo dính lấy phụ thân, không đi mà nhảy nhót từng bước, khi bước xuống bậc thang, nàng chê phụ thân đi chậm bèn bỏ tay ra đuổi theo đến bên Doanh Thiền Nhi.
Trong số các trưởng lão bộ lạc này có người không có dã tâm, thật lòng quy thuận dưới trướng Doanh Thiền Nhi, nhưng cũng có một số không phục, ỷ vào thế lực bộ lạc hùng mạnh, không chịu tôn nữ vương liên kết các bộ lạc chống Tề lên làm chủ, nhưng gần đây họ bị Cổ Quân Hải dẫn quân đánh cho tan tác, giết người cướp của, tổn thất nghiêm trọng, đối mặt với hai bộ lạc lớn nhất Doanh thị, Phong thị ủng hộ Doanh Thiền Nhi, nay lại xây dựng xong Dư Khâu thành quy mô vững chắc, Cổ Quân Hải e sợ không dám phái quân đến đánh, thực lực của nữ vương đã vượt xa bọn họ, dù trong lòng không phục nhưng chỉ còn cách ngậm đắng nuốt cay, tạm thời đồng ý liên kết các bộ lạc thành lập nhà nước Đông Di.
Trấn quốc bảo đỉnh còn chưa được đánh bóng, bề ngoài có hơi thô kệch, nhưng khí thế hoành tránh, nhìn vào nổi vẻ uy nghi. Bảo đỉnh khai quốc này cao bảy thước, ba chân trụ vững, thân đỉnh phình ra, đuôi tròn, hoa văn họa tiết là thần thú trừ tà cưỡi trên đám mây.
Đông Di được Ngô quốc hậu thuẫn lập quốc, sách lược khai quốc có ghi rõ ràng con cháu Đông Di sau này phải quy thuận Ngô quốc, làm nước phụ thuộc của Ngô, nên nữ vương hạ lệnh khắc luôn họa tiết quốc kì của Ngô lên bảo đỉnh, các bộ lạc Đông Di phản đối lập quốc nhìn vào đương nhiên cho rằng Doanh Thiền Nhi vì muốn được Ngô quốc ủng hộ nên có ý lấy lòng Ngô quốc.
Thành Bích đi qua đi lại quanh chiếc đỉnh chưa mài giũa đánh bóng, không ngớt khen lấy khen để, cho dù số người Đông Di phản đối lập quốc, lúc này nhìn vào chiếc đỉnh hoành tráng này, trong lòng cũng nảy sinh kính phục.
Đứng trước bảo đỉnh, xem xét tỉ mỉ hồi lâu, Thành Bích mỉm cười nói: “Bảo đỉnh đúc thành, hợp với ý trời, chúng ta sẽ theo như thời gian đã định tiến hàng đại điển lập quốc. Đan Ô!”
“Có tiểu nhân!”
Võ sĩ Đông Di oai phong lẫm liệt, lưng đeo vò tên vội bước lên trước, hai mắt vừa chạm phải tia nhìn quyến rũ của Thành Bích, khuôn mặt anh tuấn của hắn đỏ ửng lên, hắn quỳ một chân xuống đất, phủ phục cung kính lên tiếng: “Đan Ô… xin nghe theo lời dạy của nữ vương bệ hạ!”
Nhan sắc của Thành Bích đã đạt đến cảnh giới mê hoặc điều khiển lớn hơn cả dùng vũ lực, các bộ lạc Đông Di đã có biết bao tráng sĩ thầm ngưỡng mộ vị nữ vương xinh đẹp này, tuy gần đây trong bộ lạc có nổi lên lời đồn nữ vương không còn nguyên vẹn, nàng đã từng hiến thân cho nam nhân, hơn nữa còn sinh hạ một đứa con, nhưng điều đó không ảnh hưởng cơn mê nàng gây ra cho các thanh niên võ sĩ bị nhan sắc của nàng điều khiển.
Chỉ dựa vào nhan sắc tuyệt trần của mình, Doanh Thiền Nhi đã đủ sức ra lệnh cho nhiều dũng sĩ chết vì nàng, hơn nữa các bộ lạc Đông Di còn giữ nếp sống từ thời thượng cổ, nam nhân không mấy quan tâm trước kia thê tử của mình từng ăn nằm với ai, hoàn toàn khác xa với lễ giáo cực đoan coi trọng trinh tiết của các nước chư hầu trung nguyên.
Chỉ là xưa nay vị nữ vương Doanh Thiền Nhi này luôn kiêu kỳ, lại thân phận cao quý, nên ai cũng không dám ngỏ lòng với nàng, ngay cả thần tiễn thủ có tiếng trong bộ lạc Đông Di như Đan Ô này, tuy yêu say đắm nữ vương, nhưng một chút lòng can đảm thổ lộ cũng không có, Đan Ô chỉ xem Doanh Thiền Nhi như thần tiên trên trời, vừa kính vừa sợ, hễ bước gần nàng là trái tim đập thình thịch muốn rớt ra ngoài.
Thành Bích lúc này đang mặc chiếc váy ngắn của Đông Di, để lộ cặp chân thon dài, Đan Ô quỳ xuống phủ phục nhìn lên, dường như nhìn thấy chút ánh sáng le loi nơi thâm sơn cùng cốc, e thẹn không dám nhìn lâu vội cúi đầu xuống, chiếc giày cỏ mềm mại của Thành Bích lộ ra mười ngón chân trắng lung linh như thủy tinh, bàn chân nhỏ nhắn đập vào mắt Đan Ô, hắn cảm thấy chỉ cần ban cho ân huệ được hôn lên đôi chân đó thôi, cũng là niềm hạnh phúc lớn lao tu mấy kiếp mới có.
Thành Bích khi còn ở Khúc Phụ nước Lỗ, đã có không biết bao nhiêu công khanh đại phu nhìn quen mỹ nhân điên đảo vì nàng, chàng trai này đang nghĩ gì sao nàng không biết chứ? Thành Bích cười nhẹ nhàng, làm bộ không để ý tới hành động ngu ngơ vừa rồi của Đan Ô, nói: “Lần trước ngươi đi sứ sang Ngô rất tốt, ta cảm thấy rất vui, lần này phiền ngươi đi thêm một chuyến…”
Huyền Điểu nghe vậy lập tức nhảy xen vào: “Nữ vương thiên vị, sao chỉ khen hắn không khen muội, muội mới là chánh sứ mà, nữ vương lại muốn phái hắn đi Ngô quốc à? Vậy muội cũng phải đi.”
Thành Bích mỉm cười: “Lần này không phải đi Ngô, mà là đi Tần, muội cũng muốn đi sao?”
Huyền Điểu le lưỡi cười trừ: “Xa vậy à, thôi muội không đi đâu, nếu đi Tần thì bỏ qua ngày lễ đăng cơ của nữ vương mất.”
Thành Bích đưa tay vào ngực lôi ra một bức thư được niêm phong giao cho Đan Ô, Đan Ô đón lấy bằng hai tay, một mùi thơm phảng phất xộc vào mũi ngất ngây, giọng nói của Thành Bích cắt đứt mạch suy nghĩ lung tung của hắn: “Ngươi lập tức khởi hành đi đến Tần quốc, dâng lá thư này lên cho Tần vương.”
“Tuân lệnh!” Đan Ô dập đầu cái mạnh cho trấn tỉnh: “Tiểu nhân nhất định hoàn thành sứ mệnh của nữ vương bệ hạ giao phó.”
Thành Bích toan bước đi khỏi, chỉ thấy phía trước một đội quân áo giáp chỉnh tề đi đến, người dẫn đầu bước đi oai vệ, thân hình rắn chắc như con sư tử, chỉ là một tay áo phất phơ trong gió, đó là tướng quân độc thủ Lương Hổ Tử.
Thành Bích dừng bước, Lương Hổ Tử bước đến trước mặt, hí hửng nói: “Bổn tướng nghe nói nữ vương bệ hạ đúc đỉnh thành công, xem ra việc Đông Di lập quốc hợp với ý trời, đó là niềm lành, Lương Hổ Tử vội đến chúc mừng.”
“Cám ơn Lương tường quân đã nói tốt.” Thành Bích tươi cười hớn hở, tiếp lời: “Đúc đỉnh thành công, các bộ lạc Đông Di ta ai nấy đều vui mừng, Thiền Nhi đang định sai người đi mời Lương tướng quân, cùng các trưởng lão Đông Di ta uống mừng cho thỏa thích. Tướng quân đến hay lắm, ta cùng nhập tiệc nào.”
“Ha ha, cung kính không bằng tuân mệnh, mời nữ vương.”
“Mời Lương tướng quân!”
Hai người khiêm nhường một câu, Thành Bích bước đi lên trước. Trong đám đông, có mấy vị tộc trưởng không phục nhìn thấy hết ánh mắt lời nói của hai người, họ lén nháy mắt ra hiệu với nhau.
Đêm xuống. Trong nơi ở của tộc trưởng bộ lạc Thành thị Thành Trí Ngọ, Dương thị, Giới thị, Tiết thị, Quách thị lục đục kéo đến họp mặt.
“Ha ha ha, nào nào, Dương huynh, Giới huynh, hai người đến muộn đó nha, mau vào đây, chúng ta trước giờ cứ ở trong bộ lạc của mình khó có dịp tề tụ, hôm nay đến xem bảo đỉnh nên tương ngộ, ha ha, đêm nay phải uống cho đã, mau vào đây nào…”
Thành Trí Ngọ vội bước ra cửa đón tiếp, ôm nhau thân thiết với Dương thị, Giới thị, vai kề vai đi vào trong phòng, vừa bước vào trong, Thành Trí Ngọ lập tức dẹp mất nụ cười trên khuôn mặt, nháy mắt ra hiệu với hai người kia, dẫn đường bước vào bên trong.
Dương thị và Giới thị đưa mắt nhìn nhau một cái, hơi chút do dự nối gót theo sau, Giới thị lo lắng nhíu chặt mày, chốc chốc lại lắc đầu thở dài.
Vào đến bên trong là một gian phòng hẹp, đã có hai người ngồi sẵn ở đó, trên bàn bày la liệt rượu thịt, hai người kia mang nặng tâm sự, đôi đũa nằm chõng trơ, hiển nhiên là họ chưa từng đụng đến.
Thấy ba người bước vào, hai người kia đứng dậy hành lễ, Dương thị và Giới thị vội đáp lại, tằng hắng nói: “Tiết huynh, Quách huynh, mời ngồi mời ngồi, huynh đệ đến hơi trễ một chút.”
Năm người ngồi theo thứ tự lớn nhỏ, Thành Trí Ngọ quét mắt khắp một lượt, chống gối mở lời: “Chư vị, hôm nay mời các huynh đệ tới đây, tin chắc mọi người đã biết ý của ta, ta muốn cùng mọi người bàn bạc tiền đồ của các bộ lạc chúng ta, không biết các huynh đệ có ý kiến gì không?”
Thành Trí Ngọ hơn năm mươi tuổi, thân hình rắn chắc, khuôn mặt vuông vức, da ngăm đen, là tộc trưởng của bộ lạc lớn thứ ba Đông Di, dưới trướng có mấy vạn người, nhất cử nhất động của hắn đều ra vẻ uy nghi của thủ lĩnh.
Giới thị nhìn xung quanh, thần sắc ủ rũ nói: “Còn ý kiến gì nữa? Doanh Thiền Nhi giờ có binh mã hùng mạnh, lại sắp lập quốc, còn chúng ta thì bị bọn cường tặc Cổ Quân Hải đánh cho trọng thương nguyên khí, đâu còn sức mà chống chọi với nàng ta.”
“Hứ!” Thành Trí Ngọ cười nhạt: “Sao Giới huynh lại cam lòng cho một nữ nhân cưỡi lên đầu lên cổ thế? Đường đường nam nhi, phải đè lên đám nữ nhân không cho chúng xoay người lại mới phải chứ.”
Giới thị xua tay phân bua: “Vốn dĩ chúng ta còn thực lực chống đối, nhưng bây giờ thì… còn gì phải bàn nữa?”
Thành Trí Ngọ cười ha hả, hỏi ngược lại: “Bây giờ thì đã sao? Các vị, chúng ta đều là tộc trưởng các cứ một phương, tiêu diêu tự tại, một khi thành lập Đông Di quốc, Doanh Thiền Nhi xưng vương rồi thì chúng ta sẽ ra sao? Chúng ta chỉ được phong chức công hầu đại thần gì đó, vậy là phải cúi đầu xưng thần với người khác à? Đạo lí thà làm vua nước nhỏ không làm tôi nước lớn, các vị không cần ta nói nhiều chứ?
Hơn nữa mấy trăm năm sau thì sẽ thế nào? Hoàng thất nối ngôi theo máu mủ ruột thịt, Doanh thị đời đời có người xưng vương, còn con cháu chúng ta chưa chắc đời đời được làm đại thần. Còn như chúng ta hiện nay, con cháu mãi mãi là tộc trưởng của bộ lạc. Không nói đâu xa, Lỗ quốc ngay kế bên nè, tên Khổng Khâu Khổng Trọng Ni đó, là cháu mười đời của Tống Tương Công, tổ tiên là quân vương một nước, còn là bá chủ thiên hạ nữa, đến đời hắn thì sao? Vừa mới làm được mấy ngày đại tư khấu đã bị điều đi đào sông vét rãnh, năm họ tộc chúng ta đời đời kiếp kiếp là bộ lạc lớn của Đông Di, một khi sát nhập lại lập quốc, mười đời sau e là con cháu của chúng ta cũng suy tàn giống Khổng Khâu rồi.”
Tộc trưởng Quách thị nhăn mày: “Chúng ta đều đã gật đầu đồng ý lập quốc Đông Di rồi, nay chẳng lẽ lại tráo trở? Hôm nay huynh cũng thấy đó, bảo đỉnh được đúc thành công, ý trời đã vậy, chúng ta còn biết làm gì hơn?”
“Ha ha!” Thành Trí Ngọ cười rú lên, vênh mặt: “Bảo đỉnh được đúc thành công, chưa chắc là Doanh Thiền Nhi có thể lên ngôi nữ vương, các huynh nên nhớ sáu mươi mấy bộ lạc lớn nhỏ Đông Di còn lại, số không chấp nhận chuyện lập quốc vẫn còn rất nhiều, chỉ là bộ lạc của họ nhỏ bé, không dám lên tiếng phản đối mà thôi, chỉ cần có người đứng ra triệu tập, những ai hưởng ứng tin chắc không hề ít.”
Tộc trưởng Tiết thị lên tiếng: “Thành huynh, với thực lực hiện nay của chúng ta, cho dù có người hưởng ứng e cũng không đủ sức đấu với Doanh Thiền Nhi rồi.”
Thành Trí Ngọ cười to: “Vậy thì chưa chắc, nội bộ Đông Di ta vẫn còn gần một nửa bộ lạc phản đối lập quốc, còn bên ngoài thì sao? Doanh Thiền Nhi này khi xưa chúng ta đã quá xem thường ả, cứ tưởng đưa một con bù nhìn lên liên kết các bộ lạc chống Tề, ai ngờ lại nuôi ong tay áo, nhưng con nữ nhân này dù thủ đoạn cao siêu nhưng vẫn còn non nớt, nay ả muốn lập quốc đi lấy lòng Ngô quốc làm hậu thuẫn, dùng điều khoản quy thuận Ngô quốc để đổi lấy sự giúp đỡ từ Ngô.
Nhưng ả mới lập quốc được thuận lợi đôi chút lại có ý nhảy qua bợ đỡ Tần quốc, ả sai sứ đi Tần có bàn qua với chúng ta, vì ả cũng mang họ Doanh, nên sai sứ đi Tần nhận họ hàng thân thích với Tần vương, muốn kết làm huynh muội, mục đích đương nhiên là muốn sau khi trở thành nữ vương sẽ từ từ thoát khỏi sự khống chế của người Ngô, làm chủ nhân thực sự của Đông Di rồi.
Tin rằng Tần vương sẽ dễ dàng chấp nhận đứa em gái tự tìm đến này, nhưng Tần nằm xa tuốt bên phía Tây, tuy Tần có liên minh với Ngô, Ngô không dám làm khó Doanh Thiền Nhi, nhưng cũng tuyệt đối không để mất miếng thịt béo bở Đông Di đâu, Doanh Thiền Nhi chưa ngồi vững trên ngôi báu mà đã muốn loại bỏ Ngô quốc, đúng là vì cái nhỏ mất cái lớn đây. Nhưng… ta vẫn có phần khâm phục ả nữ nhân này, một nữ nhân mà có dã tâm như thế, khó trách nam nhân chúng ta không sánh bằng ả được.
Ả nữ nhân này vì cái lợi trước mắt làm lu mờ đầu óc, đưa ra quyết định không sáng suốt này, chắc chắn sẽ khiến Ngô quốc phật lòng, hôm nay các huynh đều nhìn thấy rồi đấy, tên Ngô tướng Lương Hổ Tử biết chuyện ả phái sứ giả đi Tần, vẻ mặt khó coi đến mức nào, có thể hiểu là địa vị nữ vương của ả trong mắt người Ngô là thế nào rồi, người Ngô có để yên cho ả thoát khỏi sự khống chế của họ không? Một khi Ngô quốc biết ả đi bợ đỡ Tần quốc, sao không đoán ra ý đồ thật của ả chứ? Đến lúc đó liên minh giữa ả và Ngô quốc sẽ xuất hiện vết nứt.”
Giới thị lắc đầu nói: “Thành huynh, đó là chuyện sau này, còn trước mắt Lương Hổ Tử vẫn dốc toàn lực ủng hộ ả ta, nhằm giúp Đông Di mau chóng lập quốc phụ thuộc Ngô, chúng ta vẫn không có cơ hội để hành động.”
“Ai nói… không có cơ hội?”
Tộc trưởng Tiết thị vội hỏi: “Thành huynh, huynh nói có cơ hội, rốt cuộc là có ý gì?”
Thành Trí Ngọ cười hi hí nham hiểm, đanh mặt lại, nghiêm nghị nói: “Các vị, cơ hội mà ta nói đến, bao gồm nhiều mặt, nội bộ thì…, tất nhiên đến từ các bộ lạc Đông Di chúng ta, số bộ lạc không bằng lòng lập quốc còn hơn một nửa, một khi có cơ hội là họ sẽ tập hợp lại phản đối. Còn bên ngoài thì…, nguyên nhân đến từ bên ngoài này đủ để chống lại uy hiếp từ liên quân của Doanh Thiền Nhi và Lương Hổ Tử.”
Tộc trưởng Giới thị hồi hợp nhổm người lên phía trước, hỏi dồn: “Thành huynh, rốt cuộc là gì mới được?” Những người khác đều nín thở chờ câu trả lời, chăm chú nhìn cả vào mặt Thành Trí Ngọ.
Thành Trí Ngọ ra vẻ thần bí không nói trắng ra, chỉ mỉm cười bí hiểm, nói tiếp: “Trước tiên, Ngô quốc chiếm mất Bành thành của Tống quốc, vì thế kết oán với Tống, không lâu nữa hai nước sẽ xảy ra chiến loạn. Một khi chiến sự nổ ra, quân đội của Ngô sẽ được điều đi đối phó với Tống, sao còn rảnh mà lo chuyện ở Đông Di?”
Giới thị thắc mắc: “Nhưng Tống quốc hiện nay đang phối hợp với Vệ quốc chống trả Tấn quốc, có thể điều bao nhiêu quân chiến đấu với Ngô đây? Cho dù Lương Hổ Tử rút bớt quân đi đánh Tống, tin rằng chiến sự cũng không kéo dài lâu, hắn kéo quân quay lại, chúng ta biết chạy đi đâu?”
“Ha ha, e là hắn đi rồi không thể quay lại.”
“Sao lại nói thế?”
Thành Trí Ngọ cười nham hiểm, nâng ly rượu lên uống một ngụm, nhắm mắt lại hít hà thưởng thức, sau đó mở to mắt ra buông lời khen ngợi: “Rượu này thơm ngon hảo hạng, đúng là danh bất hư truyền, các vị, sao còn không nâng ly thưởng thức rượu ngon đi, đây là… Bạch mâu tửu chuyên dùng của hoàng thất Việt quốc đấy!”
Quyển 5: Cao như mặt trời
Chương 278: Thiên hạ đại thế
Dịch: Ngạo Thiên Môn
Nguồn: ST
Tiết thị cười chua chát: “Thành huynh, đã đến nước này rồi còn có tâm trạng nào mà uống rượu…”
Giới thị ánh mắt sáng lên, nói: “Bạch mâu tửu chuyên dùng cho hoàng thất Việt quốc? Huynh… sao huynh lại có được rượu này, chẳng lẽ…”
Câu này thốt ra, ai nấy biến sắc, họ đều là tộc trưởng các bộ lạc, đương nhiên thông minh hơn những thổ dân bình thường khác, tất cả cùng quay sang nhìn vào Thành Trí Ngọ.
Thành Trí Ngọ mỉm cười không trả lời, lái sang chuyện khác: “Các vị, ta có một tin tốt lành liên quan đến Cổ Quân Hải ở Chung Ly cốc, các vị muốn nghe không?”
Nhắc đến Cổ Quân Hải, mấy người nghiến răng giận dữ, chỉ vì tên Cổ Quân Hải dẫn quân cướp bóc, bộ lạc của họ mới bị suy tổn thực lực, họ hận muốn nhai xương lóc gân hắn, ai nấy mắt đỏ ngầu điên tiết lên.
Dương thị hậm hực nói: “Cổ Quân Hải? Tên ác tặc đó còn có tin tốt lành gì chứ? Nếu là tin tốt, trừ khi tên Cổ Quân Hải đã bị trời tru đất diệt.”
Thành Trí Ngọ cười hô hố: “Cũng gần như vậy, Cổ Quân Hải tuy chưa chết, nhưng… cũng không còn bao lâu đâu.”
Lại là một tin chấn động, mấy người kia nhao nhao hỏi dồn: “Thành huynh, huynh biết được tin gì vậy, mau nói ra cho mọi người nghe đi.”
Thành Trí Ngọ cười khoái trá: “Tên Cổ Quân Hải lập doanh trại ở Chung Ly cốc, hành động độc đoán, làm càn hơn cả đại đạo Triển Chích trước kia. Công Sơn Bất Nữu và Trọng Lương Hoài leo lên ngồi trên đầu chúng, bắt chúng bán mạng cho hắn, hai người này đã có lòng phản nghịch, đang bàn tính việc ám sát Cổ Quân Hải.”
Dương thị hồi hợp nói: “Sao lại thế? Chuyện cơ mật thế này mà tiết lộ ra ngoài là bị họa sát thân, sao bọn chúng lại sơ ý để lộ cho huynh biết?”
Thành Trí Ngọ hí hửng: “Không phải là ta đi dò la biết được, mà là chúng chủ động tìm đến ta.”
“Chủ động tiết lộ với huynh à?” Mọi người há hốc miệng kinh ngạc.
“Đúng vậy!” Thành Trí Ngọ ung dung nói tiếp: “Thế lực của Cổ Quân Hải mạnh hơn Công Sơn Bất Nữu và Trọng Lương Hoài, nếu giết chết Cổ Quân Hải, thực lực hai người suy giảm, họ vốn là gia nô của Tam hoàn, một khi yếu thế khó có chỗ dung thân trong thiên hạ rộng lớn, duy chỉ có nhờ bộ lạc Đông Di ta chưa chấp, họ mới có mảnh đất dung thân.
Cổ Quân Hải từng bắt đi không ít người của chúng ta, thông qua những người này Công Sơn Bất Nữu biết chúng ta phản đối việc lập quốc, nên nhớ Đông Di lập quốc xong là phụ thuộc Ngô quốc, mà Ngô vương Khánh Kỵ thân thiết với Lỗ, hai vị hoàng phi lại là con gái trong tông thất Tam hoàn, với quan hệ mật thiết này, nữ vương Doanh Thiền Nhi lập quốc thành công, họ sẽ mất luôn chốn dung thân, thế là họ tìm đến ta…”
Hắn ngừng lại giây lát, trịnh trọng tiếp lời: “Chỉ cần chúng ta cắt một mảnh đất cho họ các cứ, họ sẽ hai tay dâng thủ cấp của đại đạo Cổ Quân Hải lên, đồng thời giúp chúng ta phá hoại việc lập quốc, các huynh thấy thế nào?”
Mấy tộc trưởng đều hận thấu xương Cổ Quân Hải, nói đúng ra thì Công Sơn Bất Nữu cũng là hung thủ giúp sức cho chủ mưu, nhưng oan có đầu nợ có chủ, dù sao Cổ Quân Hải là kẻ chỉ huy, nên tất cả mũi dùi đều chĩa hết vào hắn. Hơn nữa đám cường tặc này thế lực hùng mạnh, quân Lỗ thảo phạt mạnh thế mà chúng còn chạy thoát được sang Đông Di, nếu có thể nhờ cậy Công Sơn Bất Nữu và Trọng Lương Hoài diệt trừ mối họa này, cắt một mảnh đất không thành vấn đề, dù sao lãnh thổ Đông Di rộng lớn, có nhiều đất hoang còn chưa khai phá, nhưng mà…
Ai nấy trầm ngâm suy tư, cuối cùng tộc trưởng Quách thị nói ra mối lo chung của mọi người: “Thành huynh, chấp nhận điều kiện của Công Sơn Bất Nữu và Trọng Lương Hoài không có gì to tát, chỉ cần giết được Cổ Quân Hải là đáng giá rồi. Nhưng cho dù thêm vào binh mã của họ giúp sức, chúng ta cũng chỉ ngang bằng với hai bộ lạc lớn Doanh, Phong, không chống lại quân Ngô được đâu.”
Thành Trí Ngọ cười hi hí: “Thế thì phải nói đến viện binh khác rồi, nhưng sự việc trọng đại, các vị tại đây phải cắt máu ăn thề, ta mới nói ra cho mọi người biết.”
Các tộc trưởng răm rắp làm theo, thời đó ai nấy đều mê tín tin có quỷ thần báo ứng nên thề thốt ít ai dám đem ra làm chuyện đùa. Thành Trí Ngọ thế mới yên tâm, hạ giọng nói nhỏ: “Ta nói cho mọi người biết, Tống quốc đương nhiên không duy trì chiến sự được lâu, nhưng hai nước Sở, Việt đang nuôi ý định thảo phạt Ngô quốc, diệt trừ mối họa lớn này.
Nếu Ngô đưa quân phạt Tống, hậu phương chắc chắn bỏ trống, liên quân Sở Việt thừa cơ xua quân đánh Cô Tô thành, thử nghĩ xem, liên quân Sở Việt mạnh cỡ nào, dù không diệt được Ngô thì Ngô vương Khánh Kỵ cũng buộc phải rút hết quân về cố thủ, làm gì còn sức mà lo chuyện ở Đông Di, hí hí, bây giờ các vị có lại niềm tin đứng dậy chống lại ả nữ nhân kia chưa?”
Trên mặt đất thảo nguyên mênh mông của Đông Di, mấy võ sĩ vạm vỡ phi ngựa như bay phóng đi, không ai biết họ đến từ đâu, đang chạy đi đâu.
Mấy ngày sau, trên dòng sông Trường Giang cuồn cuộn, một chiếc thuyền con lướt nhanh vào lãnh thổ Ngô quốc, một võ sĩ trung niên đứng trên mũi thuyền, chính là một trong số võ sĩ đêm đó. Tên võ sĩ chạy đến Hàn Ấp, hắn nhanh chóng được đón vào doanh trại của Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ nhận được tin tình báo mới nhất từ Đông Di, cười ha hả khoái trá: “Mọi thứ đều diễn tiến tốt đẹp! Thái đại phu, ông mau lên đường đến Bành thành, truyền ý chỉ của quả nhân cho Xích Trung tướng quân, diễn một màn kịch hay với Tống quốc.”
“Thần tuân chỉ!” Thái Nghĩa đã chuẩn bị sẵn sàng, tinh thần phấn chấn, lập tức chấp tay nhận lệnh.
“Ngọ Đông Chí, ngươi lập tức đến Chung Ly cốc, bảo họ y kế hành sự.”
“Tuân lệnh!”
Ngọ Đông Chí xoay lưng lui ra, hắn vốn là thủ hạ của Triển Chích, nay được Khánh Kỵ chiêu nạp, thân phận công khai của hắn là một thương buôn, có quan hệ buôn bán tang vật giùm đám cường đạo ở Chung Ly cốc nên có thể tự do ra vào sào huyệt của chúng.
Khánh Kỵ lấy từ trong tay áo ra một đạo hổ phù, gọi một tên tín sứ gầy gò lại gần dặn dò: “Ngươi lẻn vào Dư Khâu, đợi sau khi Doanh Thiền Nhi xưng vương ba ngày, giao hổ phù này cho Lương Hổ Tử tướng quân, hắn tự biết phải hành động thế nào.”
Tên tín sứ đưa hai tay đón lấy hổ phù, cung kính vái lạy, lặng lẽ lui ra.
“Úc đại phu…”
“Có thần!”
Khánh Kỵ mỉm cười nói: “Quả nhân gọi ông từ Cô Tô qua đây, có một việc quan trọng giao cho ông.”
Úc Bình Nhiên cảm thấy vinh hạnh nói: “Đại vương xin cứ ra lệnh.”
“Quả nhân muốn ông đi sứ sang Lỗ, xin Lỗ quốc giúp cho một chuyện.”
Khánh Kỵ nói tiếp: “Lỗ quân Cơ Tống có hiềm khích với quả nhân, người này chắc gây trở ngại công việc của ta, nhưng từ khi Khổng Khâu mất thế, thế lực Cơ Tống yếu đi không còn chống lại được Tam hoàn nữa, ông hãy bắt tay từ Tam hoàn, bắt buộc phải hoàn thành việc lớn này.”
“Dạ, không biết đại vương cần thần làm việc gì?”
Khánh Kỵ toát lên vẻ tự tin: “Mượn thuyền!”
Sau khi Úc Bình Nhiên rời khỏi, Anh Đào không chịu được tò mò hỏi: “Đại vương, doanh trại thủy quân tại Nam Vũ thành của ta có chiến hạm nhiều vô số, chiến thuyền của Ngô quốc nay được xem là thiên hạ đệ nhất, sao còn đi mượn thuyền của Lỗ quốc?”
Anh Đào dẫn quân phục kích Yển Tương Sư tại Trần quốc giành thắng lợi, trên đường về được Khánh Kỵ phái người gọi đến Hàn Ấp. Khánh Kỵ trầm ngâm giải thích: “Câu Tiễn hành sự thận trọng, quả nhân không tin hắn không rải nhiều tai mắt ở Ngô quốc ta, khi xưa quả nhân và Cơ Quang đại chiến, hắn có thể thừa cơ đánh cướp, còn tránh được vô số tai mắt của ta. Hừ! quả nhân tin chắc hắn đã sớm cài người vào theo dõi động tĩnh quân ta, vì thế chiến dịch này ta không được dùng chiến thuyền ở Nam Vũ thành, bằng không e đánh rắn động cỏ mất.”
Anh Đào hiểu ra, khâm phục nói: “Đại vương anh minh, nếu đại vương không nói ra, thần… chắc nghĩ không ra.”
Khánh Kỵ cười ha hả: “Cái này ấy hả, quả nhân không dám tranh công, người nhắc nhở quả nhân chính là một công tử xuất thân danh giá ở Việt quốc đến nương nhờ quả nhân.”
Khánh Kỵ thở phì phì, mỉm cười: “Thời tiết oi bức, lại không có chiến sự, thôi không mặc giáp nữa, quả nhân thay thường phục vào đến bên sông thả câu đây.”
Hắn vươn vai than thở: “Từ Phí thành Lỗ quốc quay về Vệ quốc cho đến nay, quả nhân chưa có dịp nào nghỉ ngơi thỏa thích, mong rằng sau này sẽ không bận bịu như thế này nữa thì tốt quá.”
Anh Đào cười trừ: “Đại vương là vua của một nước, gánh vác trọng trách quốc gia, muốn qua những ngày tháng tiêu diêu tự tại đương nhiên không dễ.”
Trên sông Trường Giang, dòng nước cuồn cuộn chảy mạnh, bọt nước trắng xóa xô bờ. Dưới một gốc cây ven sông, có hai bóng người đang ngồi trên phiến đá, hai chân đưa xuống dòng nước, tay cầm một cần câu tre dài.
Trên sông thỉnh thoảng có thuyền đánh cá đi ngang, các ngư dân đội mũ rơm nhìn thấy hai nam nhân đang ngồi câu cá bên bờ, nhưng không ai biết trong hai người mặc thường phục kia, một người là đại tướng quân nắm giữ binh quyền Ngô quốc, còn người kia chính là đệ nhất anh hùng trong thiên hạ, Ngô vương Khánh Kỵ.
“Nắng gắt thế này, ngồi ngay bóng râm dưới gốc cây to còn cảm thấy nóng nực.”
“Hô hô, đương nhiên rồi, độc nguyệt ác nhật…, ngày mai là vào Đoan Ngọ rồi.”
Khánh Kỵ đứng bật dậy, dõi mắt ra xa, nhìn vào dòng sông cuồn cuộn trôi trước mặt, Anh Đào cũng bật dậy đứng sau lưng Khánh Kỵ.
Gió thổi vù vù tung bay tóc Khánh Kỵ, hắn trầm tư hồi lâu, đột nhiên cười to tiếng, nói: “Anh Đào, còn nhớ lần đầu gặp mặt, quả nhân đã nói gì với ngươi không?”
Anh Đào ngớ người ra trong tích tắc, liền sau đó dõng dạc trả lời: “Cùng đại vương quan sát thiên hạ đại thế!”
Khánh Kỵ hùng hồn lặp lại: “Đúng vậy, cùng quả nhân quan sát thiên hạ đại thế.”
Khánh Kỵ nheo mắt vào dãy núi xanh trùng trùng điệp điệp đằng xa xa, tràn đầy tự tin phán: “Có kẻ manh động, có người chờ thời, có sụp đổ, có nổi dậy, có hưng thịnh ắt có suy vong. Cứ chờ xem, thiên hạ này sắp bước vào giai đoạn rối ren rồi đây… Ha ha ha!”
Giáng thành, màn đêm bao phủ.
Một tiếng thét cất lên, phủ đệ Tri thị đuốc lửa sáng rực như ban ngày.
Cánh cổng lớn bật mở, dòng người cầm đuốc ùa ra như thác nước ào ạt xông về hướng phủ Triệu Giản Tử, cùng lúc đó phía xa xa cũng có hai dòng người tương tự như thế nổi lên trong hai góc khác nhau trong thành, nhưng tất cả đều nhắm hướng phủ Triệu Giản Tử ùa tới.
“Bắt giữ tên đầu sỏ trước.” Từng dòng người hét to.
Cửa đông Giáng thành, tướng quân Triệu Trường Cung đang cùng mấy tên thuộc hạ đang nhấm nháp uống rượu, ngáp lên ngáp xuống, nghe tiếng ồn ào lập tức bật dậy, mấy tên thân binh đang ra sức lay cho hắn tỉnh ngủ, hắn nổi giận chưa kịp lên tiếng chửi câu nào, tên thân binh đã hốt hoảng bẩm báo: “Tướng quân, tướng quân, trong thành xảy ra biến cố, ngài mau đến đây xem.”
“Cái gì?”
Triệu Trường Cung kinh hãi chưa kịp mặc lại áo giáp hấp tấp chạy đi, hắn leo lên tường thành dõi mắt trông theo, chỉ thấy có ba dòng người ào ạt tiến về phía phủ đệ Triệu thị, hắn tỉnh rượu hẳn.
Đêm hôm khuya khoắt, nhiều người tiến đến Triệu gia để làm gì?
Vừa nghĩ đến đó, Triệu Trường Cung biến sắc, hét lớn: “Không hay rồi, có người định hãm hại Triệu đại phu, mau, mau đánh trống lên, gọi tất cả binh sĩ đến phủ Triệu đại phu tiếp ứng.”
“Tướng quân, đã xảy ra chuyện gì?”
Hai vị tướng quân mặc áo giáp chạy lên tường thành, Triệu Trường Cung nhìn thấy mừng rơn, hai người chính là Mạnh, Khúc nhị tướng đêm nay vừa uống rượu cùng hắn. Triệu Trường Cung hét lớn: “Mạnh tướng quân, Khúc tướng quân, hai vị đến đúng lúc lắm, trong thành có người định gây bất lợi cho Triệu Giản Tử đại phu, mau theo bổn tướng tập hợp binh sĩ đi cứu viện.”
“Cái gì, có chuyện này sao? Ai mà to gan thế?”
Hai vị tướng quân giật mình kinh ngạc, xẹt cái lại gần hắn, làm ra vẻ hốt hoảng, Triệu Trường Cung quay lại chỉ tay nói: “Các vị xem, đám người cầm đuốc kia đang xông… Á!”
Triệu Trường Cung chưa nói hết câu đã rú lên đau đớn, hai tướng quân Mạnh, Khúc nhảy phốc ra xa, trên tay hãy còn cầm thanh kiếm dính máu, cười mỉa nhìn vào hắn.
Triệu Trường Cung bị đâm lén sau lưng, máu tuôn như suối, tức tối lườm hai vị tướng quân hắn coi như huynh đệ tốt, rít lên: “Ngươi… các ngươi… dám…”
Hắn loạng choạng đứng không vững nữa, bước lui vài bước, toàn thân co giật mấy cái, gục đầu xuống tắt thở.
Đám binh lính trên tường thành cầm trường mâu vây lấy hai tướng, do Triệu Trường Cung đã chết, hai người này có chức vị cao nhất tại đây, nhưng do họ mới giết chết chủ tướng nên chỉ bao vây, không ai dám nhảy lên chém giết, ai nấy ngơ ngác nhìn nhau không biết phải làm gì.
Đang lúc dằng co, Khúc tướng quân hét lớn: “Triệu Giản Tử cấu kết Ngụy thị, Hàn thị ý đồ mưu phản, nay phụng mệnh Tấn hầu, Tri thị, Phạm thị, Trung Hành thị diệt gian trừ bạo cho nước nhà, các ngươi chịu hạ vũ khí đầu hàng thì còn là binh sĩ của Tấn quốc, còn dám chống cự tội như phản nghịch.”
Nghe Mạnh , Khúc nhị tướng nói thế, các binh sĩ đã tin đến tám phần, ý định chống trả đã tiêu tan một nửa, chính vào lúc này, bên dưới vọng lên tiếng ồn ào, thì ra thân tín của hai tướng đã tự ý mở cổng thành, đại quân của Tri thị lấy cớ đang cần nghỉ ngơi chỉnh đốn đã bí mật được điều động đến đây, nay ùa cả vào thành.
Mạnh tướng quân cười ha hả đắc ý: “Đại quân diệt trừ phản tặc đã đến, các ngươi định bán mạng cho Triệu thị sắp diệt tộc đó à?”
Các binh sĩ không còn ý chống trả, cùng ném vũ khí xuống đất đầu hàng, thành trì lập tức rơi vào tay Tri thị.
Các vệ binh trong hoàng cung cũng đã phát hiện trong thành có bạo loạn, tướng quân Hàn Tại Ý leo lên lầu cao, thấy phủ đệ của Triệu thị bị bao vây tấn công, sau đó phủ đệ Triệu thị, Hàn thị cháy lên, hắn biết sự tình không hay rồi, một mặt ra lệnh cho vệ binh tăng cường canh giữ cổng hoàng cung, mặt khác chạy vội đến xin gặp Tấn hầu Cơ Khí Trạch.
Tấn hầu nghe báo trong thành xảy ra binh biến, phủ đệ Triệu thị bị tấn công, toàn thân run rẩy.
Hàn Tại Ý vội bẩm báo: “Quốc quân, Triệu Giản Tử đại phu là trụ cột Tấn quốc ta, một khi Triệu thị bị diệt vong, e là họ sẽ quay sang đối phó với quốc quân, theo ý thần ta nên phái vệ binh trong cung đi cứu Triệu Giản Tử đại nhân, thừa lúc đêm tối yểm trợ đại nhân bỏ trốn, hoặc đón đại nhân vào hoàng cung cố thủ. Chỉ cần chúng ta thủ được hai ba ngày, đợi các cánh quân khác kéo đến cứu viện, hơn nữa chúng ta còn hai đạo đại quân ở Vệ quốc và Hàn Nguyên, mặc kệ là ai tạo phản cũng chắc chắn chuốc lấy thất bại.”
“Cái gì? Phái vệ binh trong cung đi cứu Triệu phủ?”
Tấn hầu nghe xong lắc đầu nguầy nguậy: “Không được, không được, nhỡ quân phiến loạn xông vào cung gây hại tới quả nhân thì sao? Hơn nữa… hơn nữa chúng chỉ tấn công Triệu phủ mà không đánh hoàng cung, chưa chắc… chưa chắc có ý gây bất lợi cho quả nhân, nếu giờ quả nhân phái binh đi cứu Triệu thị, một khi làm chúng tức giận lên đến lúc đó thì khó nói lắm.”
Hàn Tại Ý giậm chân đùng đùng: “Quốc quân à, Triệu đại phu là bậc trung lương, có Triệu đại phu ở đây nước nhà mới yên ổn, nếu mất Triệu đại phu quyền lực của ngài cũng bị suy yếu, hơn nữa quốc quân là chủ nhân một nước, bọn thần tử chưa được lệnh của người dám tự ý bao vây phủ đệ đại thần trong triều, quốc quân mà đóng cửa làm như không biết, mặc cho chúng làm bừa, một khi Triệu thị bị tiêu diệt, danh tiếng của ngài cũng trôi theo dòng nước.”
“Câm miệng!” Tấn hầu nổi giận: “Trong thành đang hỗn loạn, ngươi là tướng quân bảo vệ hoàng cung mà cứ khuyên quả nhân điều vệ binh đi là sao? Lui xuống mau, ngươi chỉ giữ vững hoàng cung là được.”
Hắn nuốt nước bọt tự trấn an, nhìn vào phủ đệ Triệu thị đang cháy hừng hực đằng xa, lẩm bẩm: “Đợi đến trời sáng, đợi đến trời sáng sẽ ổn thôi…”
Hàn Tại Ý ngao ngán chỉ còn cách quay lại tường thành hoàng cung theo dõi trận binh biến, chỉ thấy phủ đệ Hàn thị của hắn cũng đang cháy to, hắn không kiềm nén được nữa, hét lớn: “Mở cổng ra!”
Thuộc hạ của hắn vội can ngăn: “Tướng quân, không được đâu, bên ngoài chắc chắn có quân mai phục, chúng ta phải giữ hoàng cung, việc đó mới quan trọng.”
Hàn Tại Ý cắn chặt răng không nói thêm lời nào, rút kiếm ra đâm tới, tên thuộc hạ không kịp trở tay bị đâm xuyên ngực rú lên đau đớn ngã gục ra đất, Hàn Tại Ý hai mắt đỏ ngầu, hét lớn: “Triệu, Ngụy, Hàn tam khanh bị phiến quân vây đánh, quốc quân vô dụng, bổn tướng quân sẽ xuất cung cứu viện, các vị huynh đệ có ai chịu đi theo bổn tướng nào?”
Các vệ binh im lặng không dám quyết định, Hàn Tại Ý nói xong, có một số thuộc hạ thân tín của hắn bước ra dõng dạc nói: “Tướng quân, tiểu nhân nguyện đi theo tướng quân.”
“Tốt!” Hàn Tại Ý ra lệnh: “Trong màn đêm khó phân biệt quân địch quân ta, ai theo bổn tướng đều trần cánh tay trái, lần này nếu cứu được Triệu Giản Tử đại nhân lập được công lớn, ai nấy đều được ban thưởng, đi nào.”
Hàn Tại Ý dẫn theo năm sáu trăm người xông ra khỏi hoàng cung đi cứu viện, sau khi hắn đi khỏi, những vệ binh không chịu đi theo hắn lại đóng chặt cánh cổng hoàng cung.
Hàn Tại Ý dẫn theo mấy trăm thuộc hạ thân tín không về Hàn gia mà tiến nhanh về phía phủ đệ Triệu thị, hắn biết rõ lực lượng hai nhà Hàn, Ngụy yếu nên có người tạo phản chắc chắn nhắm vào Triệu thị, nên phủ đệ Hàn, Ngụy chỉ là mục tiêu đánh giả, mục đích chỉ là ngăn không cho hai nhà cứu viện Triệu thị, hắn cứu được Triệu thị là giải vây luôn hai nhà kia.
Nhưng Hàn Tại Ý chưa xông đến trước cửa phủ đệ Triệu thị đã đụng độ với một đội quân, chính là đại quân của Tri thị mới tiến vào thành, hai bên hỗn chiến một hồi, Hàn Tại Ý bị mất sáu bảy chục huynh đệ, hắn thấy kẻ địch quá đông, còn phủ đệ Triệu thị đã cháy to không cách gì cứu được nữa, Hàn Tại Ý biết đại sự đã định, e mình cũng bỏ mạnh tại đây, cắn chặt răng gào to: “Rút!”
Hàn Tại Ý là người quyết đoán, vừa rồi hắn ở trong hoàng cung còn chưa biết rõ tình hình, cứ tưởng trong lục khanh có người dẫn theo gia tướng tạo phản, nay gặp phải quân đội chính quy, hắn biết đối phương đã sớm có sự chuẩn bị, bí mật điều quân vào thành, nếu đã vậy hai nhà Hàn, Ngụy cũng xem như không cứu được, còn dằng co níu kéo thì mấy trăm người của hắn sẽ tiêu tùng theo, do đó Hàn Tại Ý không do dự nữa, cũng không tiến về Hàn phủ coi tình hình thế nào, hắn dẫn theo năm trăm mấy dũng sĩ còn lại giết ra cửa Bắc.
Lúc này trong thành hỗn loạn, người của Tri thị, Phạm thị, Trung Hành thị chỉ lo tiêu diệt người trong phủ đệ Triệu Ngụy Hàn, không ai rảnh đi ngăn cản Hàn Tại Ý, nên hắn thuận lợi xông được ra ngoài thành.
Đứng bên ngoài thành quay đầu nhìn lại, chỉ thấy trong thành lửa cháy đỏ rực, tiếng chém giết vang trời, Hàn Tại Ý thở dài, gọi mấy huynh đệ tâm phúc đến bên dặn dò vài câu, năm trăm tráng sĩ chia làm ba tốp biến vào màn đêm.
Lục khanh của Tấn quốc đều có đất riêng, người trong họ tộc không tập trung toàn bộ trong kinh đô, nay tuy phủ đệ trong kinh thành bị tiêu diệt, nhưng ba nhà Triệu Ngụy Hàn vẫn còn đất còn quân của mình, Tri thị chỉ đánh úp bất ngờ diệt được ba nhà ở kinh thành, nhưng không đủ binh lực chia ra diệt cả ba nhà ở những nơi khác, nghĩ vậy nên Hàn Tại Ý phái mấy huynh đệ từng vào sinh ra tử chia nhau ra đi báo tin khắp nơi, còn mình thì dẫn theo số người còn lại quay về vùng đất thế lực của Hàn thị.
Tấn quốc xảy ra binh biến, chỉ trong vòng mấy ngày tin tức lan truyền nhanh chóng, chiến loạn lan rộng.
Tri thị liên kết với Phạm thị, Trung Hành thị, thừa lúc đại quân của Triệu, Ngụy, Hàn đang chinh chiến ở Hàn Nguyên và Vệ quốc, bắt đầu điên cuồng xâm lấn ba nhà. Bộ tộc Tiên Ngu cũng xuất quân hỗ trợ Phạm thị, Trung Hành thị. Xích Địch phương Bắc và các bộ lạc man di phía Nam lợi dụng tình hình Tấn quốc hỗn loạn xua quân đánh vào, giết người cướp bóc, khói lửa lan xa ngàn dặm.
Ba nhà Triệu Ngụy Hàn giữ lại quá ít quân trong nước không đủ sức chống trả liên quân Tri thị, Phạm thị, Trung Hành thị, dưới sự chỉ huy của Hàn Tại Ý, hai nhà Hàn thị, Ngụy thị chạy vào Trung Đô cố thủ, đồng thời phối hợp với người của Triệu thị ở Hàm Đan, dựa vào hai thành trì hiểm yếu này chống trả ba nhà kia.
Đại quân đang chiến đấu với quân Tần ở Hàn Nguyên nghe tin trong nước xảy ra binh biến liền rút quân về ngay trong đêm, chạy về tiếp ứng Trung Đô, Hàm Đan.
Quân Tần thấy quân Tấn tự nhiên đang đánh nhau rút chạy, vì không biết rõ thực hư, sợ lọt bẫy mai phục nên không dám xua quân truy đuổi, chủ soái Công Tôn Vũ phái người về nước báo tin, mặt khác tung thám mã đi dò la động tĩnh của người Tấn, vì thời đó đưa tin khó khăn nên quân Tần bỏ qua cơ hội thừa cơ xâm chiếm, đại quân của ba nhà Triệu Ngụy Hàn ở Hàn Nguyên vẫn bảo toàn được thực lực.
Nhưng đại quân đang chinh chiến ở Vệ quốc thì không may mắn như vậy, vì chủ lực của cánh quân này trung thành với Tấn hầu, chủ soái là người xuất thân từ hoàng thất Cơ Thúc Hiến, ba nhà Tri thị, Phạm thị, Trung Hành thị bằng mọi giá không để cánh quân này toàn vẹn rút về nước.
Thống soái Cơ Thúc Hiến đang dẫn quân chinh chiến ở Vệ sau khi nghe tin bạo loạn trong nước, lập tức rút về, khi rút quân đương nhiên cũng tạo nghi binh che mắt quân địch, nhưng liên quân Vệ Tống được Tri thị thông báo tin tức trước, thấy quân Tấn rút quân là biết nội bộ Tấn quốc xảy ra binh biến.
Hiên Viên Hành dẫn liên quân Vệ Tống truy kích quyết liệt, quân Tấn không còn tinh thần chiến đấu, tử thương vô số, máu chảy thành sông, liên quân Vệ Tống không những đoạt về lãnh thổ vừa bị xâm chiếm, ngay cả vùng đất bị Tấn nuốt gọn lâu năm nay cũng được giải phóng, được đưa trở lại bản đồ Vệ quốc.
Quân Tấn bị liên quân Vệ Tống truy kích đánh cho chưa kịp thở, khó khăn lắm mới về tới Tấn, vừa bước vào lãnh thổ Tấn quốc, đại quân của Tri thị lại nhảy ra đón đầu, không còn cách nào khác, các tướng sĩ vừa mới mệt mỏi quay về lại dốc kiệt sức ra huyết chiến một trận với đại quân Tri thị.
Cơ Thúc Hiến bày trận nghênh chiến, chủ lực cánh phải là quân của Triệu thị, còn chỉ huy cánh trái là Công Tử Triều. Từ khi chạy sang nhờ cậy Tấn quốc, Công Tử Triều tài năng xuất chúng, lại khéo ăn nói nên được Tấn hầu thưởng thức, thêm vào đó hắn dẫn quân đánh Vệ lập nhiều công lao, nay đã được thăng chức chủ tướng quân cánh tả.
Tên bắn như mưa, rừng gươm sáng loáng, tiếng thét vang trời, máu chảy thành sông. Công Tử Triều cầm trường mâu chạy vào trung tâm trận địa, không ngừng hét to chỉ huy binh sĩ bày đội hình chiến đấu, nhưng đại quân Tri thị tấn công như vũ bão, quân lính của hắn càng đánh càng ít.
“Công tử, chúng ta sắp chống cự không nổi rồi!” Một viên tướng chạy vội đến bẩm báo, cắn răng nhổ mũi tên cắm trên tay ra, thở hổn hển nói: “Công tử, chúng ta thủ không nổi rồi, công tử mau rời khỏi chỗ nguy hiểm này đi.”
Công Tử Triều đứng chết lặng, ngửa mặt lên trời cười to, thở dài: “Thiên hạ rộng lớn, ta còn có thể đi đâu?”
Viên tướng đó vốn là thân tín của Công Tử Triều lúc từ Tống quốc chạy sang Vệ, hắn vội khuyên can: “Nay Tấn hầu đã bị giam lỏng, Tấn quốc hỗn loạn chia năm xẻ bảy, chúng ta giờ chiến đấu cho ai đây? Hay là công tử đi Tề đi, công tử tài năng lỗi lạc, chắc qua Tề sẽ được trọng dụng.”
Công Tử Triều dõi mắt về phía trận địa, ba cánh quân mới rút về, bao gồm cả tả quân của hắn đang bị bao vây đánh cho tan tác, chắc không lâu nữa sẽ bị đại quân Tri thị nuốt gọn.
Công Tử Triều đứng chết lặng không nói câu nào, thần sắc thểu não, dáng vẻ thảm hại.
“Hừ!” Viên đại tướng đưa mâu gạt bay một mũi tên bắn vào Công Tử Triều, hối hả giục: “Công tử, lúc này không chạy, khi đại quân Tri thị xiết chặt vòng vây, đến lúc đó muốn chạy cũng không kịp nữa đâu.”
Công Tử Triều nghiến răng, đột nhiên kiên quyết lên: “Không, không được chạy!”
Viên tướng đang định khuyên nhủ tiếp, chỉ thấy Công Tử Triều quay lại nhìn hắn, ánh mắt hừng hực, nghiêm nghị ra lệnh: “Đưa lá cờ của ta treo ngược lên.”
Viên tướng ngớ người, thất thanh nói: “Công tử muốn… ?”
Công Tử Triều rít lên chỉ một tiếng: “Hàng!”
Viên tướng há hốc miệng kinh ngạc, đứng đơ ra đó, Công Tử Triều lườm hắn, gằn giọng: “Còn không đi mau!”
“Dạ, tuân lệnh!” Người kia bừng tỉnh, vội vã quay lưng chạy đi.
Soái kì của Công Tử Triều được treo ngược, khắp trận địa lập tức ồn ào cả lên, đại quân Tri thị ngưng chiến đấu, binh sĩ quay đầu tìm chủ tướng coi chỉ thị thế nào, còn quân của Công Tử Triều thấy chủ soái đầu hàng, đều lui cả xuống.
Phía xa xa, Tri thị đang đứng trên một cỗ chiến xa quan sát tình hình chiến sự, thấy cánh tả bên kia giương cờ đầu hàng, hắn ngờ ngợ kinh ngạc, liền sau đó mỉm cười nhẹ nhõm.
“Người đâu, phái người đi nói với Công Tử Triều hạ vũ khí đầu hàng, ở yên đó đợi lệnh, còn quân chủ lực vòng qua Công Tử Triều tấn công thẳng vào đại doanh của Cơ Thúc Hiến.”
“Tuân lệnh!” Tên lính truyền tin vội chạy đi. Phía quân Công Tử Triều lại vang lên trống trận, Tri thị hồi hộp nhỏm người trông theo, chỉ thấy Công Tử Triều không hề buông vũ khí mà tập hợp binh sĩ xung trận, lần này hướng tấn công lại nhằm vào đại bản doanh của quân Tấn do Cơ Thúc Hiến chỉ huy.
Phía trận địa Tri thị, Tri Tuần Lịch thấy tình hình ngày trố mắt ra ngơ ngác, hồi sau hạ giọng nói khẽ: “Tên Công Tử Triều này, không chế ngự hắn được, hắn như con rắn độc lúc nào cũng có thể cắn trả một miếng, nay hắn lại như con chó phản bội chủ đi cắn ngược lại quân Tấn, tiếc là… hắn hết cơ hội rồi, ha ha ha…”
Mặt trời xuống núi, trong ánh chiều tà, khắp chiến trường xác nằm la liệt, máu tươi nhuộm đỏ cả mặt đất. Một chiếc xe tù đứng hiu quạnh dưới bóng hoàng hôn, trong xe là một người mặc áo bào trắng, đầu tóc bù xù.
Công Tử Triều bị trói chặt bằng gân trâu trong chiếc xe tù, bị bỏ dưới ánh nắng phơi hết nửa ngày trời, lúc này hai mắt lờ đờ, bờ môi nứt nẻ, hắn không hề cựa quậy, các sợi gân trâu thít chặt vào da thịt hắn ứa máu, hai tay hai chân hắn đã tê dại, nếu không bị trói chặt chắc giờ này hắn đã gục xuống rồi.
Hắn dõi mắt nhìn xác chết la liệt tứ phía, trong đó có xác quân địch, nhưng phần lớn là binh lính của hắn, số binh lính bị hắn bán đứng, và cả số binh lính cùng hắn bị người khác bán đứng.
Hắn không ngờ lần này hắn lại sai lầm khi đặt cược, hắn quay lại tấn công vào trung quân của Cơ Thúc Hiến, chém đầu chủ tướng dâng lên Tri Tuần Lịch, công lao ấy lớn cỡ nào, thế mà Tri thị cho người bắt giữ hắn khi hắn đem theo thủ cấp Cơ Thúc Hiến đến đầu hàng.
Tri thị thu nhận hết quân của hắn, mắng hắn tráo trở lật lọng, lúc trước phản Tống qua Vệ, phản Vệ qua Tấn, nay lại phản Tấn giúp Tri thị, bất trung bất nghĩa, không biết liêm sỉ. Thật nực cười, nếu Tri thị biết liêm sỉ sao lại phản bội Tấn hầu dấy binh làm loạn chứ?
Hắn càng không hiểu tại sao Tri Tuần Lịch bắt giữ hắn lại không giết, còn rút quân đi, bỏ lại chiếc tù ở đây, chẳng lẽ muốn mặc cho hắn chết đói chết khát ngay tại chốn hoang vu này?
Gió thoảng qua một mùi tanh hôi của máu, Công Tử Triều ớn lạnh, nếu sau khi chết đi ở đây có bao nhiêu hồn ma bị hắn phản bội đến tính sổ thì sao đây? Còn số thuộc hạ thân tín theo hắn đầu hàng bị bỏ mạng nữa, họ sẽ đối xử với hắn thế nào?
Phía sau lưng phát ra tiếng động lào xào, phía xa hình như có tiếng vó ngựa vọng đến, có phải là con đường hoàng tuyền đang mở ra chào đón hắn? Có phải các oan hồn đến đòi mạng? Công Tử Triều hoảng loạn muốn xoay đầu lại nhưng mấy sợi gân trâu thít chặt vào cổ làm hắn không thể nhúc nhích.
Công Tử Triều sợ sệt hét to: “Là ai? Ra đây, mau ra đây cho ta! Ta không sợ đâu, ta không sợ, Công Tử Triều ta là dòng dõi công thất, ta là đại tướng quân, ta giết người vô số, đám tiểu quỷ các ngươi đừng hòng dọa nạt ta!”
“Thế… con quỷ này có làm huynh sợ không?”
Công Tử Triều giật mình, toàn thân cứng đơ, tiếng bước chân càng lúc càng gần, từ phía sau của hắn một đoàn người đi đến, Công Tử Triều không để ý đến nữa, hắn nhìn trưng trưng vào người vừa phát ra tiếng nói lúc này đã đứng trước mặt hắn.
Công Tử Triều toàn thân run rẩy, trong tích tắc hắn đã hiểu chuyện gì xảy ra, nhưng hình như lại không hiểu tại sao nó lại xảy ra, chỉ kêu lên một tiếng âm u: “Nam Tử…”
Đứng nhìn bộ dạng thảm hại của Công Tử Triều hồi lâu, Nam Tử đột nhiên mỉm cười, nói giọng thân mật: “Tử Triều đó à, huynh đó, người ta còn tưởng suốt đời này không gặp được huynh nữa rồi.”
Công Tử Triều lóe lên một ý nghĩ, lập tức ra vẻ đau khổ nói: “Nam Tử, huynh lại cho rằng huynh chắc chắn sẽ được gặp lại muội. Huynh hận, hận ông trời không cho đôi ta đến được bên nhau, hận Vệ hầu chiếm lấy muội lại bỏ rơi muội. Huynh chấp nhận gánh lấy tội danh phản bội muốn mượn sức của quân Tấn đánh chiếm Vệ quốc, chỉ vì… chỉ vì huynh muốn đường đường chính chính đứng trước mặt muội, muốn được đường đường chính chính ôm muội vào lòng, tiếc là… giờ đây có nói gì cũng đã quá muộn, tất cả lòng khổ tâm của huynh…”
Hắn cố tình ngước mặt lên cho Nam Tử nhìn thấy cái cổ ứa máu của hắn, than thở: “Tiếc là huynh khổ tâm toan tính âm mưu, bây giờ có nói gì muội cũng sẽ không tin đâu. Muội giết chết huynh đi, chỉ cần… chỉ cần muội cảm thấy làm vậy muội sẽ được vui lòng, huynh bằng lòng chịu chết.”
Nam Tử mở to đôi mắt đen láy nhìn chăm chú vào Công Tử Triều hồi lâu, cười dịu dàng nói: “Tử Triều à… huynh đúng là một tên ngốc, sao huynh lại phí công sức mưu toan như thế…”
Công Tử Triều tưởng hắn đã lừa được Nam Tử, trong lòng khấp khởi vui mừng, sắc mặt lập tức cố nặn thêm mấy phần đau khổ, thổn thức: “Đúng đó, huynh… huynh chỉ là một tên ngốc si tình, huynh chỉ nghĩ ra được cách ngu ngốc này để còn chiếm lấy muội…”
Giọng nói của Nam Tử càng lúc càng dịu dàng, nhưng lúc này là mang vẻ chế giễu khinh miệt: “Huynh đó, đến lúc này rồi mà còn nói ngon nói ngọt muốn gạt muội, huynh tưởng người trong thiên hạ đều là kẻ ngốc hết đó à?”
Công Tử Triều nghệch mặt ra, Nam Tử cười khoái chí: “Huynh yêu muội sâu nặng đến thế ư? Huynh nói ra những lời này trước mặt bao nhiêu tướng sĩ Vệ quốc, huynh không sợ ngày tháng sau này của muội trước mặt Vệ hầu sẽ khó sống à? Tử Triều, con người huynh trước giờ chỉ biết tính toán cho riêng mình, bây giờ vẫn không chịu thay đổi, tại sao một người thông minh như muội, cho đến giây phút này mới nhìn rõ bộ mặt thật của huynh chứ?”
Công Tử Triều sợ xanh mặt, ngơ ngác một hồi mới hét to tiếng: “Huynh… huynh đương nhiên biết hiện nay Vệ hầu đã thành bù nhìn điều khiển trong tay muội, đại quyền hai nước Vệ Tống đều lọt cả vào tay muội.”
Nam Tử khẽ gật đầu, giọng nói vẫn dịu dàng mềm mỏng, nhưng đó là nhát dao sắc nhọn: “Đúng rồi đó, nếu huynh đã biết sao không đến tìm gặp muội, tại sao không nghĩ cách lấy lòng muội để muội tin tình cảm của huynh, mà lại dẫn quân Tấn đến tấn công Vệ quốc, đoạt thành trì của muội, huynh muốn đẩy muội vào chỗ chết đúng không?”
“Huynh… huynh…” Công Tử Triều không còn tìm được lí do gì để biện hộ, ấp úng một hồi không biết nói gì để che lấp tội ác của hắn.
“Tử Triều, huynh còn nhớ không? Lúc giúp huynh lấy trộm hổ phù muội đã nói gì với huynh?”
“Nói gì? … Muội nói gì á?” Công Tử Triều đang đờ đẫn, hoàn toàn mất đi trí khôn ngày thường, hắn ngơ ngơ ngác ngác như đứa trẻ.
Nam Tử nhếch mép cười nhạt, đôi mắt sắc lạnh bắn ra một tia sát khí: “Muội từng nói… nếu sau này huynh phụ bạc muội, muội sẽ chính tay giết chết huynh!”
Công Tử Triều thay đổi sắc mặt, giọng run lẩy bẩy: “Nam Tử, muội… muội nhẫn tâm như thế sao?”
“Huynh nhìn xem!”
Nam Tử chỉ vào vò tên đeo sau lưng nàng cho Công Tử Triều thấy: “Huynh nhìn cho rõ, trong này chỉ có một mũi tên duy nhất.”
Nam Tử cười khanh khách, tiếng cười vang cao vang xa như tiếng tru của chó sói, khuôn mặt xinh đẹp của nàng lúc này toát ra yêu khí ngùn ngụt.
“Mũi tên này chính là huynh đưa thân thể của người ta ra đỡ lấy trước Vệ hầu đó, người ta quý nó như vàng ngọc, lúc nào cũng mang theo bên mình.”
Công Tử Triều ngu ngơ không hiểu: “Mang theo bên mình? Để làm gì?”
Nam Tử không trả lời, nàng sải bước đi ra xa, tấm thân thướt tha, mùi hương phảng phất làm say đắm lòng người. Sau lưng nàng, bỏ lại một chiếc xe tù hiu quạnh, xa hơn nữa là từng tốp binh sĩ, gươm giáo sáng choang đổ bóng xuống mặt đất, ánh chiều tà buồn hiu hắt trải dài trăm dặm…
Ai nấy đứng yên lặng cả ở đó, nhìn theo bóng dáng một Nam Tử nhỏ nhắn nhu mì, vẽ nên một bức tranh huyền ảo mang một vẻ đẹp tuyệt vọng, gieo vào lòng người không phải là tia sáng hy vọng, mà là cố chấp, là chìm đắm trong đớn đau.
Công Tử Triều dõi theo Nam Tử, kí ức hiện về, những ngày tháng kỉ niệm tươi đẹp, từng cảnh từng cảnh lướt qua mắt hắn…
Nam Tử dừng lại, nàng cúi người xuống, khi đứng thẳng lên, một cây cung đã nằm trong tay, nàng đưa tay ra sau lấy mũi tên kia ra, giương cung lắp tên, dây cung được kéo căng hết cỡ, đôi mắt nàng đã ngấn lệ.
“Tử Triều!”
Nam Tử hét to, dây cung được buông ra, mũi tên lao đi xé gió, máu của Tử Triều bắn ra, hòa cùng dòng nước mắt của Nam Tử, tan biến vào cõi hư vô…
Binh loạn ở Tấn quốc càng lúc càng phức tạp leo thang, làm cho trung nguyên lòng người hoang mang, Trịnh quốc kẹp giữa Tấn và Sở e sợ Sở quốc thừa cơ xua quân Bắc tiến đánh Tấn, tiện thể diệt luôn mình, lại sợ loạn quân của Tấn xuôi xuống Nam làm hại bá tánh nước Trịnh, bèn tập trung binh lực bố phòng biên giới nam bắc, nơm nớp lo sợ bị họa lây.
Tần quốc sau khi dò thám kĩ, biết tin Tấn quốc nội loạn, tức tối vì bỏ qua cơ hội tốt để phạt Tấn, nhưng trước mắt Tấn quốc nội chiến chưa chấm dứt, Tần không chịu từ bỏ miếng thịt béo bở này, đại quân đóng tại Hàn Nguyên đang chuẩn bị nhảy vào tham chiến kiếm chác lợi ích.
Chính vào lúc này, Tề quốc sớm bố trí đại quân ở biên giới phía Bắc của Tấn mới đứng ra can thiệp.
Thượng khanh Điền Khất của Tề được Tri thị Tấn quốc nhờ cậy, dẫn bảy vạn đại quân tiến vào lãnh thổ của Tấn, đóng tại Cái Dư thành, dùng danh nghĩa Tề quốc mời lục khanh Tấn quốc cùng Tiên Ngu quốc, Vệ quốc, Tống quốc tiến hành họp mặt, giải quyết chiến loạn ở Tấn.
Do Tề đứng ra can thiệp, lục khanh Tấn quốc và các phe tham chiến bên ngoài như Tiên Ngu, Vệ, Tống tạm thời ngưng việc binh đao, cùng cử người họp bàn cách giải quyết tại Cái Dư thành dưới sự chủ trì của Tề.
Triệu Ngọ là gia chủ của Triệu thị ở Hàm Đan, xưa nay luôn bất hòa với Triệu Giản Tử cùng họ tộc, khi Triệu Giản Tử còn nắm quyền lớn luôn chèn ép hắn, nên mối thù Triệu Giản Tư chôn thân trong biển lửa hắn chả quan tâm, cũng không có ý định trả thù, bây giờ hắn chỉ muốn bảo toàn gia tộc Triệu thị, bảo vệ địa vị và quyền lợi của hắn là được.
Do thê tử của Triệu Ngọ là em gái của Trung Hành Dần, gia chủ Trung Hành thị, coi như cũng có quan hệ thân thích, Triệu Ngọ cho phu nhân về nhà ngoại thuyết phục huynh trưởng nghị hòa với hắn, Hàn Tại Ý rất bất mãn về việc này, nhưng thế lực của hắn yếu nhất, lúc này không thể trở mặt với đồng minh Triệu thị nên chỉ còn cách nuốt trôi cơn giận.
Trung Hành Dần biết rõ với thực lực của hắn, nếu cộng thêm Phạm thị và có luôn Tiên Ngu giúp sức cũng không đối chọi với Tri thị được, nay hắn với Tri thị tuy là liên minh, nhưng sau này một khi xảy ra xung đột quyền lực, khó tránh lại phải đại chiến một trận, giữ lại lực lượng tàn dư của ba nhà Triệu Ngụy Hàn có lợi áp chế Tri thị, vì thế hắn ưng thuận hòa giải, hắn sợ mình hắn không đủ sức ảnh hưởng Tri thị nên tìm thêm gia chủ Phạm thị Phạm Cát Xạ, sau khi nói rõ mối lo với nhau, Phạm Cát Xạ cũng tỏ ý ủng hộ hòa giải.
Lúc này các bộ lạc man di Lệ Nhung, Xích Địch đánh vào Tấn quốc cướp bóc giết người dã man, ngày càng táo tợn khó khống chế được nữa, thậm chí đe dọa đến lợi ích của Tri thị, Phạm thị, Trung Hành thị, hơn nữa đại quân của ba nhà Triệu Ngụy Hàn phái đi Hàn Nguyên giao chiến với quân Tần đã được rút về, Hàn thị Nguỵ thị ở Trung Đô và Triệu thị ở Hàm Đan thực lực tăng lên đáng kể, nếu dồn chúng vào chân tường chúng chưa chắc không còn sức chống trả, so sánh hai mặt lợi hại, Tri thị cuối cùng cũng chịu thuận theo lòng người chấp nhận hòa giải.
Thế là hôm qua còn đánh nhau một mất một còn, hôm nay bỗng chốc trở thành bằng hữu thân thiết, cùng ngồi xuống bàn việc phân chia Tấn quốc. Cả bọn khép cho Tấn hầu Cơ Khí Trạch mười trọng tội làm hại quốc gia, đáng bị trừng phạt, giáng Tấn hầu xuống chức Nam tước, chỉ phong cho ba ngôi làng nhỏ nhoi. Các thế lực căn cứ theo lãnh thổ chiếm đóng hiện nay để tách ra lập quốc riêng, Tấn quốc bị chia làm năm quốc gia, đó là Tuân quốc, Phạm quốc, Trung Hành quốc, Triệu quốc, Hàn quốc, trong đó Hàn thị và Ngụy thị liên kết chỉ lập ra một Hàn quốc.
Vệ quốc được quyền tiếp quản lãnh thổ trước đây bị Tấn xâm chiếm. Tiên Ngu chiếm được cả một vùng đất màu mỡ rộng cả trăm dặm sát nhập vào lãnh thổ. Tề quốc làm thuyết khách triều kiến Chu thiên tử, xin Chu thiên tử hạ chiếu phong hầu cho năm quốc gia tồn tại hợp pháp lí. Cuộc bạo loạn kết thúc tốt đẹp, ai nấy đều nhận được phần lợi ích xứng đáng.
Trong cuộc binh biến lần này, Tề quốc tuy không chiếm đóng được lãnh thổ của Tấn, nhưng do Tề đứng ra chủ trì đại cuộc giải quyết khủng hoảng, Tấn quốc nay chia năm xẻ bảy, trung nguyên đệ nhất cường quốc giờ đã không còn, Sở quốc phương Nam từ khi bị Ngô đánh vào Dĩnh Đô còn chưa hồi phục nguyên khí, giờ đây trong thiên hạ ngôi vị bá chủ chỉ còn thuộc về Tề quốc mà thôi.
Năm quốc gia mới thành lập đền ơn Tề quốc, trong cuộc họp các nước chư hầu nhất chí tỏ ra ủng hộ tiến cử Tề quốc lên ngôi bá chủ thiên hạ. Trải qua hơn một trăm năm, Tề quốc cuối cùng lại được hưởng những ngày tháng vinh quang như thời Tề Hoàn Công, trở thành thủ lĩnh của các nước chư hầu.
Tần quốc nhận được tin Tề ra mặt dàn xếp lục khanh ngưng chiến, triệu tập hội nghị Cái Dư thành, biết cơ hội tốt nhất khuếch trương lãnh thổ đã trôi qua, Tần vương trước kia lập quốc chỉ là một tên hầu nuôi ngựa bên cạnh Chu thiên tử, sau vì có công hộ giá nên được phong chức chư hầu, hơn nữa xuất thân Đông Di nên bị các chư hầu trung nguyên coi là man di dị tộc, hội họp gì đó đều không mời Tần tham dự, lúc này xuất binh thảo phạt chẳng khác nào kêu năm nước mới thành lập cùng liên minh lại chống Tần, thế là Tần đành bỏ cuộc, ấm ức rút đại quân đóng tại Hàn Nguyên về nước.
Đại hội tại Cái Dư thành diễn ra sau Đoan Ngọ tháng năm hơn một tháng, trận chiến phía Tây Bắc dính dáng tới Tiên Ngu, Tần, Vệ, Tề, Tấn vừa dẹp yên, một ngọn lửa chiến tranh lớn hơn có sự tham gia của Tống, Lỗ, Ngô, Sở, Việt, lấy việc Đông Di lập quốc làm mồi lửa, lại sắp được thổi bùng lên dữ dội ở góc Đông Nam xa xôi hẻo lánh…