Hỏi:Hiện nay báo chí thường dùng từ “bức xúc”, nhiều khi tôi không thể xác định chính xác đó là danh từ, tĩnh từ hay động từ. Tôi xin nêu vài ví dụ trong bài viết “Khi bức xúc của SV bị gỡ khỏi diễn đàn!” trong đó sử dụng khá nhiều từ “bức xúc” (http://www.svvn.vn/vn/news/thoisu/555/index.aspx 07/06/2008):
* Rất nhiều ý kiến, bức xúc của SV vừa mới post chưa nóng chỗ lên diễn đàn đã thấy admin hăm hở... kéo xuống.
* Rêu phủ trên những bức xúc của SV
* Như chuyện đóng học phí theo tín chỉ, sinh viên bức xúc từ đầu năm đến giờ vẫn không có gì thay đổi.
* Điều đó khiến nhiều sinh viên bức xúc và khó hiểu.
Xin cho biết nguồn gốc và ý nghĩa của từ “bức xúc” mà báo chí thường dùng hiện nay. Từ này đã có trong các văn bản cổ của Trung Quốc hay từ mới được người Trung Quốc sử dụng gần đây? (Cô giáo Trần Thanh Thảo, TP Vinh, Nghệ An).
Trả lời: Từ “bức xúc” theo cách dùng trên báo chí hiện nay hàm ý nói lên sự tức tối, bực tức, bực bội, khó chịu gần như phẩn nộ, trước những điều bất công vô lý cần phải giải quyết ngay. Theo như những câu mà cô trích dẫn ở trên thì từ “bức xúc” được sử dụng chưa có sự phân biệt rõ ràng về từ loại, có thể hiểu như là danh từ hoặc tĩnh từ. Từ “bức xúc” mới được sử dụng phổ biến trong những năm gần đây. Chúng tôi chưa có tài liệu để khẳng định nguồn gốc của từ “bức xúc” trên báo chí hiện nay có phải là một từ Hán Việt hay không. Trong một vài văn bản tiếng Hán vẫn có từ 逼 蹙, nhưng trong các tự điển chúng tôi đang sử dụng lại không có từ này. Chúng tôi xin nêu ra vài ví dụ trong các văn bản cổ mà chúng tôi tra cứu được (trong các câu trích dẫn sau đây, chúng tôi chỉ ghi phần chữ Hán có liên quan trực tiếp đến từ “bức xúc”):
1. Theo Tấn thư, trong Nhị thập tứ sử hộ liệt, liệt truyện thứ 25, có câu:
Kim bị vi bức xúc tàm trí vô địa 今被圍逼蹙慚置無地 (Tạm dịch: Nay bị vây ngặt, thật xấu hổ (là) không còn đất (để xoay xở)).
2. Trong Chư bệnh nguyên hậu luận, quyển 5, của Sào Nguyên Phương đời Tuỳ có một đoạn nói về cách chữa bệnh tiêu khát (tức bệnh đái tháo đường) như sau:
Giải y giả, vô sử quái ngại Ngoại giả, vô ngoại tưởng, sử khí dị hành Thân yêu giả, sử thận vô bức xúc 伸腰者, 使腎無逼蹙 (Tạm dịch: Cởi áo là để thoải mái không còn vướng víu, nằm không nhĩ vẫn vơ đến ngoại cảnh là để khí dễ lưu thông, dãn eo là để thận không bị ép ngặt).
3. Trong Tống sử có câu:
Ngũ đại cương cảnh bức xúc, phiên trấn ích cường 五代疆疆逼蹙, 藩鎭益彊 (Tạm dịch: Thời Ngũ đại, nơi biên giới bị ép ngặt, mà cá phiên trấn lại ngày càng lớn mạnh).
Trên đây là các ví dụ về từ “bức xúc” mà chúng tôi tra cứu được, và trong các ngữ cảnh trên thì nó có nghĩa đại khái là “ngặt; ngặt nghèo; nhỏ; hẹp; bị ép ngặt”. Tự điển trên mạng “Tại tuyến Tân Hoa tự điển” cũng định nghĩa “bức xúc” ( 逼 蹙 cũng ghi là 逼 蹴 ) là “bức bách 逼 迫 ”, hoặc “quẫn bách 窘 迫 ”.
Như vậy, nếu từ “bức xúc” mà báo chí chúng ta đang dùng hiện nay là 逼 蹙 trong các văn bản cổ nêu trên thì nó không còn mang ý nghĩa ban đầu nữa. Đây cũng là hiện tượng khúc xạ ý nghĩa thường thấy trong quá trình giao lưu ngôn ngữ Hán – Việt: Có nhiều từ tiếng Hán khi dùng trong tiếng Việt thì ý nghĩa lại đổi khác so với ý nghĩa ban đầu. Ví dụ “tử tế” trong tiếng Hán là có nghĩa là “cẩn thận, kỹ lưỡng” thì trong tiếng Việt lại có nghĩa là “tốt bụng”; hoặc “tài tử” trong tiếng Hán có nghĩa là “người có tài” thì trong tiếng Việt lại được dùng phổ biến theo nghĩa “không chuyên” hay “nghiệp dư” (amateur), dùng để chỉ người theo một nghề hoặc một nghệ thuật nào đó chỉ vì ham thích chứ không phải để kiếm sống v.v. Có thể “bức xúc” cũng nằm trong các trường hợp trên.
Có phải bài thơ vịnh cửa biển Tư Dung là của chúa Nguyễn Phước Thái?
Trích:
Hỏi:Trong sách “Tản mạn Phú Xuận” (Trình Đình Sơn – Hoàng Anh, Nxb Trẻ, 2001, tr. 33-34) có giới thiệu bài thơ chữ Hán của chúa Nguyễn Phước Thái vịnh cửa biển Tư Dung với nguồn tài liệu: Sách Đại Nam nhất thống chí – Thừa Thiên phủ (tập thượng), dịch giả: Tu Trai Nguyễn Tạo (Sai Gòn: Nha Văn hoá Bộ QGGD – 1961), tr. 99-102. Cửa tấn Tư Hiền.
Xin cho biết: Thông tin trên có chính xác không? (Ông Trần Viết Đắc, TP Huế)
Trả lời: Trong bản dịch Đại Nam nhất thống chí (ĐNNTC) dẫn trên, phần giới thiệu bài thơ vịnh cửa biển Tư Hiền (tức Tư Dung) (1) như sau:
“Đầu niên hiệu Hồng Đức, vua Lê Thánh Tôn đi đánh Chiêm Thành ngang qua cửa biển Tư Dung, bùi ngùi than rằng: “Núi sông này khí thế hùng dũng lắm thay! Đời sau chắc có kẻ anh hùng chiếm cứ chỗ này”. Sau vua Thái Tổ (Nguyễn Hoàng) dựng cơ nghiệp ở miền Nam, Anh Tôn (Nguyễn Phước Trăn) đóng đô ở Phú Xuân, lời nói ấy quả có ứng nghiệm. Có bài thơ rằng: v.v.”
Tiếp theo, dịch giả chép bài thơ chữ Hán, kèm bản phiên âm và bản dịch:
Phiên âm: (không ghi nhan đề)
Lâu thuyền kích cổ đáo Ô Long,
Bách nhị sơn hà thử yếu xung.
Liệt chướng huyền nhai thanh súc súc,
Man thiên phách lãng bích trùng trùng.
Tiên triều sự nghiệp truyền di tích,
Nam quốc dư đồ chí cựu phong.
Nạp cấu tàn ô hà hải lượng,
Cử gian vô xứ bất triều tôn.
Dịch thơ:
Lầu thuyền đến cửa Ô Long,
Nhìn xem thiên hiểm non sông khác thường.
Núi cao xanh, dăng sườn đồ sộ,
Biển chập chồng, sóng vỗ dậy trời.
Tiên triều công nghiệp còn đời,
Dư đồ Nam quốc vẽ vời đã lâu.
Lượng hải hà tàng thâu ô cấu,
Cả tư bề bức tấu về đây.
Đối chiếu đoạn dịch trên với nguyên bản chữ Hán trong sách ĐNNTC (Bản in 1910, quyển 2, tờ 52a, hiện lưu tại Thư viện Khoa học Xã hội, TPHCM, ký hiệu HNv 200), chúng tôi thấy dịch giả dịch rất sát. Những sự kiện nêu dẫn về Thái Tổ Nguyễn Hoàng và Anh Tôn Nguyễn Phước Trăn (?) là để chứng tỏ lời tiên đoán của Lê Thánh Tông quả đã ứng nghiệm. Câu giới thiệu bài thơ (Hữu thi vân/ Có bài thơ vịnh rằng) không có chủ ngữ. Anh Tôn chỉ là chủ ngữ của một “tiểu cú” trong câu trước, nên không thể ngầm hiểu là chủ ngữ của câu ấy; chủ ngữ của câu đầu đoạn văn (là Lê Thánh Tông) thì có thể ngầm hiểu cũng là chủ ngữ của cây ấy. Nhưng cách diễn đạt như vậy rất dễ dẫn đến hiểu lầm bài thơ ấy là của một người nào khuyết danh, hoặc như trường hợp sách Tản mạn Phú Xuân nói trên.
Tuy vậy, qua tìm hiểu thơ văn Lê Thánh Tông, chúng ta biết được bài thơ trên chính là một trong số 14 bài của vua Lê Thánh Tông vịnh các cửa biển trên đường bình Chiêm mở nước vào những năm 1470-1471. Bài thơ này có nhan đề Tư Dung hải môn lữ thứ (Nghỉ lại ở cửa bể Tư Dung) chép trong tập Minh Lương cẩm tú. Sách này hiện lưu tại thư viện của Viện nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội). Trước đây trong sách Thơ văn Lê Thánh Tông (Mai Xuân Hải chủ biên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1986, tr. 194-195) có in bài thơ này với bản dịch của Ngô Linh Ngọc.
Như vậy, bài thơ vịnh cửa biển Tư Dung đã ra đời 216 năm trước khi Anh Tông Nguyễn Phước Thái kế vị ngôi chúa (1687-1471) (2). Cũng cần nói thêm: Trước đây các sách đều nhầm chúa Ngước Thái tên “Trăn”, bản dịch ĐNNTC trên cũng vậy. Trong đoạn trích từ ĐNNTC, những chữ Tông đều viết thành chữ Tôn (Thánh Tôn, Anh Tôn) là do kiêng tên huý vua Thiệu Trị (Miên Tông).
(KTNN số 650, ngày 01.09.2008)
-----------------
Chú thích của Goldfish:
(1) Cửa biển Tư Hiền (tức Tư Dung) là “một trong hai cửa biển của tỉnh Thừa Thiên, ở về hướng đông bắc huyện Phú Lộc, cách kinh thành Huế về phía nam chừng ba mươi cây số. (…) cửa biển này xưa thuộc về đất nước Chiêm Thành, đời Lý gọi là Ô Long 烏 龍 . Đến đời Trần, vua Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân, đưa công chúa tới đây, nên đổi tên thành Tư Dung 思容 (…). Mãi đến năm Thiệu Trị nguyên niên (1841), cửa Tư Dung mới đổi tên thành cửa Tư Hiền 思 賢 ”(Theo Đoàn Khoách trong bài Thắng cảnh Tư Dung, http://www.nhohue.org/thangcanhtuhien.htm)
(2) Có lẽ do lỗi in ấn. Có tài liệu ghi: (1687–1691).
Ai là người phụ nữ viết tiểu thuyết đầu tiên bằng chữ quốc ngữ?
Trích:
Hỏi: Gần đây, trên sách báo có nhiều tác giả cho rằng Nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hoà ở Đà Nẳng là người phụ nữ viết tiểu thuyết đầu tiên bằng chữ quốc ngữ. Điều này có đúng không?(Ông Phan Trọng Ngữ, Buôn Mê Thuộc)
Trả lời: Truyện Tây phương mỹ nhân của Nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hoà (HTBH) xuất bản năm 1927. Bi tình tiểu thuyết Kim Tú Cầu của nữ sĩ Đạm Phương (Công Tôn Nữ Đồng Canh) xuất bản năm 1928, nhưng trước đó đã đăng nhiều kỳ trên báo Trung Bắc Tân Văn từ 25.5 đến 21.7.1923 (Đạm Phương nữ sử, Nguyễn Khoa Diệu Biên – Nguyễn Cửu Thọ biên soạn, Nxb Trẻ, TPHCM, 1995 và Tự điển Văn học bộ mới, Nxb Thế giới, 2004).
Như vậy không thể nói nữ sĩ HTBH là người phụ nữ đầu tiên viết tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ (1). Trong bài “Nữ sĩ Việt Nam” đăng trên báo Phụ Nữ Tân Văn (tháng 1.1934), Thiếu Sơn đã giới thiệu ba nữ sĩ tiền phong viết tiểu thuyết vào những năm 1920 theo thứ tự: Đạm Phương (Kim Tú Cầu, Hồng phấn tương tri), Nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hoà (Tây phương mỹ nhân) và Phan Thị Bạch Vân (Nữ anh tài). Hai nữ sĩ trước đã được ghi vào Tự điển Văn học, còn nữ sĩ họ Phan (người chủ trương Nữ lưu Thơ quán Gò công từ 1928 đến 1930, phải ra toà bị phạt tiền và đóng cửa thư quán) nay không còn tác phẩm nào.
(KTNN số 650, ngày 01.09.2008)
-------------------------
Chú thích của Goldfish:
(1) Đạm Phương nữ sử (1881-1947), theo Lê Thanh Hiền trong Tuyển Tập Đạm Phương Nữ Sử, còn là:
“1. (…) Người phụ nữ Việt Nam đầu tiên thông thạo nhiều sinh ngữ như: Hán văn, Pháp văn, quốc văn... do đó bà cũng là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên có tầm nhìn ra thế giới tiếp thu tinh hoa nhân loại như hệ lý luận tiến bộ về quy trình dưỡng dục trẻ thơ, hệ tư tưởng tiến bộ về nhân quyền: dân chủ, tự do, bình đẳng... và chuyển tải qua các phương tiện báo chí, văn sách, dịch thuật phổ biến cho đồng bào lạc hậu của nước mình. (…) là nữ tác gia dẫn đầu về số lượng tác phẩm gồm nhiều thể loại xuất bản trước năm 1945.
2. (…) nữ trí thức Việt Nam đầu tiên đặc biệt quan tâm đến sự dưỡng dục thế hệ trẻ thơ Việt Nam từ khi lọt lòng mẹ đến tuổi cắp sách tới trường. (…) Bà cũng phát hiện ra rằng người mẹ giữ vai trò hết sức quan trọng trong giai đoạn tiền phát triển ở trẻ thơ mà không người nào khác thay thế được vai trò người mẹ. Bà tâm huyết với những phát hiện này và nỗ lực nhiều năm khảo cứu biên soạn công trình Giáo dục nhi đồng ra đời năm 1942 có giá trị được coi như sách giáo khoa đầu tiên tặng các bà mẹ Việt Nam làm công cụ giáo dưỡng, giáo dục con em mình trong giai đoạn tiền phát triển. Đây là công trình có ý nghĩa nhất của bà Đạm Phương Nữ Sử cống hiến vào sự nghiệp giáo dục nhi đồng Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ XX…
3. (…) người tổ chức Hội nữ công đầu tiên ở nước ta hoạt động mở mang giới chí. Tuy Hội nữ công chỉ ra đời ở một số thành phố hồi đầu thế kỷ và tồn tại trong một thời gian nhưng đã có ảnh hưởng chung và cất tiếng nói riêng, tiếng nói đại diện của phụ nữ Việt Nam đòi nhân quyền dưới chế độ thực dân, phong kiến cai trị”.
Nguyên bản chữ Hán và ý nghĩa hai câu thực trong bài thơ “Nghe tiếng sóng chùa Thiên Thai” của chúa Nguyễn Phúc Chu?
Trích:
Hỏi:Trong sách “Tự điển danh nhân văn hoá và thắng cảnh Việt Nam” (GSTS Nguyễn Như Ý chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 2004), đoạn viết về Ngũ Hành Sơn (Đà Nẳng) có giới thiệu bản dịch bài thơ “Nghe tiếng sóng chùa Thiên Thai” của chúa Nguyễn Phúc Chu. Hai câu “thực” có tứ thơ rất lạ và khó hiểu:
Như Lai vượt biển nghe sóng xuân
Giữa sông hồ lảnh vang chuông đá.
Đề nghị cho biết nguyên bản chữ Hán và giải thích ý nghĩa hai câu thơ ấy. (Ông Phạm Văn Thiện, Đà Nẳng)
Trả lời: Các nhà biên soạn tự điển trên đã sử dụng bản dịch bài thơ “Tam Thai tự thính triều” của nhóm biên soạn do Nguyễn Đức Thọ chủ biên. Cụ thể như trong các sách Di tích lịch sử văn hoá Việt Nam (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1990) và Từ điển di tích văn hoá Việt Nam (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993 và Nbx Văn học, 2003), hai câu thơ ấy đều được phiên âm và dịch nghĩa thống nhất là:
Như Lai việt hải văn xuân lãng
Tự tại Bà Dương thính thạch chung.
(Như Lai vượt biển nghe sóng xuân
Giữa sông hồ lảnh vang chuông đá).
Nguyên văn chữ Hán bài thơ chép trong tập Minh Đô thi tuyển (MĐTT) lưu tại thư viện của Viện nghiên cứu Hán Nôn (Hà Nội, ký hiệu A. 2171. Hình bên là bản photocopy của cả bài ở trang 13a - 14a của MĐTT (có đánh dấu bài thơ). Ngoài tên Tam Thai ở nhan đề, trong bài không có dấu chỉ tên riêng; nhân danh, địa danh do người đọc tự hiểu.
Bài “Tam Thai tự thính triều” trong Minh đô thi tuyển.
Trang ĐNTTC chép đoạn giới thiệu bài thơ
Người dịch bài thơ cho rằng “như lai” là tên hiệu đức Phật và “việt hải” là “vượt biển” thì hai câu “thực” đối không chỉnh vì hai cặp từ Như Lai/Tự tại và việt hải/Bà Dương không cùng từ loại. Hơn nữa, tứ thơ cũng không hợp với tác giả là đệ tử rất sùng đạo Phật, đã thọ giới bồ tát với pháp danh Hưng Long.
Hai câu thơ ấy phiên âm đúng như sau:
Như lai Việt hải văn xuân lãng,
Tự tại Bà Dương thính thạch chung.
Tạm dịch:
Đến miền biển Việt xuân nghe sóng,
Ngỡ chốn Bà Dương đá vọng chuông.
Hồ Bà Dương ở phía nam Trường Giang, thuộc miền bắc tỉnh Giang Tây. “Thạch chung” là tiếng vang dội như tiếng chuông từ những hang đá ở Thạch Chung Sơn trước cửa hồ Đà Dương. Tô Đông Pha trong bài “Thạch Chung Sơn ký” đã giải thích: “Phía dưới núi có nhiều hang đá, gió nước dội vào tạo thành tiếng vang như chuông lớn”. Chúa Nguyễn Phúc Chu viết hai câu “thực” như trên vì cho rằng núi Tam Thai có những đặc điểm giống với Thạch Chung Sơn: nhiều hang đá và đứng sát biển; do đó, tiếng sóng ở vùng biển này vào mùa xuân cũng nghe như tiếng sóng ở cửa hồ Bà Dương.
Trước đây, các tác giả sách Tản mạn Phú Xuân (Sđd, tr. 50-53) (1) đã giới thiệu bản in bài thơ này trên tô sứ Thanh Ngoạn xưa và đưa ra một bản dịch khác để đính chính bản dịch trên. Nhưng các tác giả này lại vấp một sai lầm khác ở câu thơ dưới: Bà Dương đọc thành Phiên Dương (không phải dị bản) và ghi chú là tên của tỉnh thành Quảng Đông tức Ngũ Dương thành, trong thành có hồ lớn phát ra tiếng chuông đá. Thực ra, hồ Bà Đương ở miền bắc tỉnh Giang tây, chứ không phải tỉnh Quảng Châu (tỉnh thành Quảng Đông); Ngũ Dương thành là biệt danh của thành Quảng Châu, không có liên quan gì đến hồ Bà Dương cả.
Trong ảnh “Bài “Tam Thai tự thính triều” trong Minh đô thi tuyển”, phần tô màu có hai chữ “thính”: một chữ trong nhan đề và một trong chữ cặp thực. Cả hai chữ “thính” này đều viết giống nhau có nghĩa là nghe. Tôi tra tự điển Hán Việt không thấy chữ này. Tôi nêu thắc mắc và đã được bác Vnn hồi âm. Xin chân thành cảm ơn bác Vnn. Nguyên văn thư hồi âm như sau:
“Vâng chữ thính của bác rất lạ…
Vvn sưu tầm 1 bức hình trên đồ cổ của lò "Bát Cổ" có bài thơ này. Chữ thính 听 viết bình thường, bộ khẩu 口 với chữ cân 斤 bên phải.
Nhân tiện, cách phiên âm, vị trí một số chữ cũng khác với 2 câu thực của bác (Như, Tự). Xin chép ra đặng cùng tham khảo.
Tam Thai thính triều
Kỳ tú Tam Thai tòng bích phong
Trung hư ngoại hữu bạch vân phong Tự lai Việt hải văn xuân lãng Như tại Phiên dương thính thạch chung (*)
Bất đoạn phong thinh bôn bạch mã
Hoàn nghi vũ sắc khởi thương long
Dục tầm thanh mộng hà tằng khán
Hưởng triệt nham tiền kỷ thọ tùng
Nghe sóng Tam Thai
Tam Thai chất ngất đỉnh non xanh
Động vắng mênh mông vây phủ quanh
Dào dạt sóng xuân trào Việt hải
Ngân vang chuông dã vọng Phiên thành
Gió reo ngựa trắng liên hồi trẩy
Mưa cuốn rồng xanh thấp thoáng doanh
Mộng đẹp mong tìm sao chửa thấy
Rì rào vách núi cụm tùng xinh
Trần Đình Sơn dịch”
Như vậy, chỉ xét về nhan đề và hai câu thực chúng ta thấy giữa bản của Liêu Hân dẫn chứng và bản của Vnn cung cấp có mấy chỗ khác biệt. Đó là nhan đề (bản Vnn không có chữ “tự”); chữ “thính”; vị trí hai từ “Như” và “Tự”; địa danh “Bà Dương” (bản Liêu Hân) và “Phiên Dương” (bản Vvn).
Ghi chú:
(*) Theo Wikipedia, Hồ Bà Dương(tiếng Hoa: 鄱阳湖; pinyin: Póyáng Hú), tọa lạc tại tỉnh Giang Tây của Trung Quốc. Hồ này còn có các tên gọi là hồ Phàn Dương, hồ Phiền Dương hoặc đôi khi là hồ Phồn Dương, do chữ 鄱 được phiên sang âm Hán-Việt trong các từ điển và sách không thống nhất: Phàn, Phiền, Bà, thậm chí Phồn.
Đây là hồ nước ngọt rộng nhất Trung Quốc với diện tích mặt nước là 3.585 km² và thể tích nước là 25 km³. Độ sâu trung bình là 8 m. Hồ Bà Dương thông ra sông Trường Giang. Hồ này là nơi sinh sống của các loại chim di cư và là một nơi đến tham quan ưa thích cho những ai ưa thích các loài này. Trong mùa đông, đây là nơi sinh sống của sếu trắng.