Đỗ Văn Hạo e dè đáp: “Vâng, nhưng cũng không phải hoàn toàn như vậy, những bệnh lặt vặt thông thường thì có thể mở xưởng chế biến thành thuốc để bán đại trà, ngoài ra vi thần vẫn còn một số phát minh về các sản phẩm dùng trong đời sống hàng ngày, cái này có thể mở xưởng đầu tư, nhưng vi thần có một yêu cầu.”
“Yêu cầu gì?” Tống Thần Tông lạnh lùng nói.
“Ban bố chế độ luật bảo vệ thương hiệu sản phẩm, bảo hộ bản quyền phát minh.”
Tống Thần Tông kinh ngạc cau lông mày lại tỏ ra vô cùng khó chịu: “Thế nghĩa là gì?”
“Đó chính là khi vi thần phát minh ra một sản phẩm, sau đó sẽ dán nhãn mác hiệu sản phẩm lên nó, cái này chứng tỏ rằng sản phẩm đã thuộc về vi thần, và chỉ có vi thần mới có quyền phát hành buôn bán nó, người khác nếu muốn bán sản phẩm này thì buộc phải trả tiền cho vi thần thì mới được phép bán, cái này gọi là mua bản quyền sử dụng.”
“Nếu người ta không tuân thủ như vậy, thì sẽ coi như là phạm luật, và như vậy sẽ phải chịu trách nhiệm của pháp luật, và sẽ bị pháp luật trừng phạt theo quy định.”
Sắc mặt của Tống Thần Tông lúc này đã sa sầm xuống hết mức có thể, chỉ lạnh lùng hỏi lại: “Còn gì nữa không?”
Đỗ Văn Hạo cũng đã phát giác ra được thần sắc không vui của Tống Thần Tông, bất giác suy nghĩ xem mình đã nói sai ở chỗ nào, đồ của mình phát minh ra mà người khác muốn sử dụng thì dĩ nhiên phải đưa tiền cho mình rồi, lẽ nào nói như vậy cũng không đúng sao? Nghĩ vậy hắn bèn cố gắng kiên trì nói tiếp: “Vi thần cho rằng, quốc khố lúc này trống rỗng, nguyên nhân chủ yếu là do ba yếu tố, đó là: Quan, binh và phí. Quan chức hiện nay quá nhiều, quân đông mà không tinh, các công tác hành chính chi tiêu hoang phí, ba vấn đề này không giải quyết được thì những lợi ích mà biến pháp mang lại cũng chẳng khác gì một cốc nước nhỏ chẳng thể cứu nổi cả một tòa nhà đang cháy cả!”
Đối với ba yếu tố nan giải này, Tống Thần Tông dĩ nhiên cũng không phải là lần đầu tiên nghe, từ hồi Tống Nhân Tông tích cực tiến hành chính sách “Khánh Lịch Tân Chính” (là tên một chế độ cải cách của Tống Nhân Tông, nhưng hiệu quả thu lại không tốt) là một chính sách nhằm vào ba yếu tố trên, nhưng cuối cùng vẫn thất bại. Bởi vì để giải quyết được ba vấn đề này, thì lại liên quan đến những quốc sách cơ bản của triều Tống và cũng liên quan đến rất nhiều người nữa, hơn nữa những lợi ích của nó đem lại cơ bản cũng chẳng có những công hiệu đặc biệt nào cả.
Nhưng Tống Thần Tông nghe thấy Đỗ Văn Hạo chỉ ra những cái bất cập làm cho mình đau đầu bấy lâu nay, nên cũng có chút tán thưởng, sắc mặt lúc này cũng đã giãn ra đôi chút, sau đó còn gật gật đầu ra hiệu cho hắn nói tiếp.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy cũng thấy vững tâm, bèn tiếp tục nói: “Thần cho rằng, muốn đất nước giàu mạnh thì nhất thiết phải phát triển mạnh hai mặt công nghiệp và thương nghiệp, đặc biệt là về mặt phát triển thương nghiệp, phải hỗ trợ, khuyến khích thương nghiệp, từ bỏ những chính sách bất lợi, kìm hãm thương nghiệp phát triển, một đất nước văn minh cao độ là một đất nước có nền thương nghiệp phát triển, dân chúng linh hoạt trong việc làm giàu.”
“Đủ rồi!” Tống Thần Tông lúc này đúng là đã nổi giận thực sự, đập vào bàn chát lên một tiếng khô khốc: “Ngươi muốn thần dân thiên hạ trở thành những kẻ hám lợi, bất lương hay sao? Ngươi muốn dân chúng lúc nào cũng cơ hội, có cái gì thì cũng đem ra buôn bán ư? Ừm! Ngươi còn ý nghĩ gì nữa?”
Đỗ Văn Hạo lúc này đã sợ đến xanh mét cả mặt mày, khi Hoàng Thượng vỗ bàn đập ghế cũng đã làm hắn hoảng sợ lùi về sau hai bước rồi, những câu nói của Tống Thần Tông chẳng khác nào tiếng sét giữa trời xanh giáng hẳn vào đôi tai của hắn, làm cho hắn đang chìm đắm trong việc phân tích làm cho dân giàu nước mạnh cũng phải giật mình bừng tỉnh, Đỗ Văn Hạo lúc này cuống cuồng vén áo lên quỳ xuống nói: “Vi thần biết tội!”
Trung Quốc từ hồi Thương Ưởng (còn có tên Vệ Ưởng, là người thực hành biến pháp cho nước Tần thời chiến quốc, làm cho nước Tần dân giàu nước mạnh về sau thống nhất Trung Quốc) biến pháp bắt đầu cho đến những năm cuối đời nhà Thanh đều thực hành những chính sách trọng về nông nghiệp mà kìm hãm thương nghiệp, những chính sách này không chỉ xuất phát từ tư tưởng Nho Giáo “Trọng lợi khinh nghĩa”, mà còn là tình hình trong nước của Trung Quốc ảnh hưởng lên nó nữa. Hơn nữa Trung Quốc thời cổ đại thì cũng vẫn thuộc vào một đất nước có diện tích trồng trọt, cày cấy vô cùng rộng lớn, vậy nên nông nghiệp dĩ nhiên sẽ rất phát triển. Hơn nữa theo quan điểm của người xưa thì phát triển nông nghiệp không chỉ đảm bảo vấn đề cấp thiết nhất là có cơm ăn, không bị chết đói, mà còn giải quyết được vấn đề quản lý nhân sự, vì người nông dân cả đời họ chỉ có một lý tưởng duy nhất đó là có một mẫu ruộng để cày cấy, sau đó lấy vợ sinh con, như vậy đã là quá đủ đối với họ rồi.
Còn đối với bọn con buôn hám lợi thì không những đi ngược lại hoàn toàn với tư tưởng nho giáo còn nặng nề trong tư tưởng của người Trung Quốc, mà còn làm cho nông dân vì lợi ích của đồng tiền mà bỏ rơi ruộng đất, từ bỏ công việc cày cấy mà đi buôn bán, như vậy hệ thống nông nghiệp sẽ trở nên vô cùng bấp bênh, vì chỉ cần cả nước xuất hiện một số lượng lớn người đi buôn bán thì hệ thống quản lý chính trị của nhà nước sẽ gặp phải nhiều vấn đề vô cùng nan giải, do vậy coi trọng nông nghiệp tự làm tự ăn mà kìm hãm thương nghiệp là một chính sách hàng đầu của các triều đại trong lịch sử Trung Quốc. Cũng vì người hưởng lợi nhiều nhất trong chính sách này thì vẫn là Hoàng Đế trong chế độ phong kiến. Vậy nên Đỗ Văn Hạo mang kiến thức của người hiện đại đem đi khuyên giải cho người đứng đầu trong chế độ phong kiến từ bỏ chính sách nông nghiệp chuyển sang phát triển kinh tế là chuyện hết sức hoang đường, hoang đường chẳng khác gì người ta bắt ép gà trống đẻ trứng, bảo lợn leo cây cả.
Tuy ở thời nhà Tống thì thương nghiệp cũng đã có những sự phát triển nhất định, tư bản chủ nghĩa cũng đã manh nha xuất đầu lộ diện, nhưng từ khâu sinh trưởng sản xuất đến những điều kiện xã hội và những quan hệ cho thuê đồn điền thì việc phục dịch thuế má và công thương nghiệp đều bị chế độ phong kiến cưỡng chế, kìm hãm, những nét tư tưởng văn hóa đặc trưng (chủ yếu là tư tưởng Nho Giáo) cùng với chế độ chuyên chế vô cùng cứng nhắc, thậm chí chế độ của thời nhà Tống còn cứng nhắc hơn cả thời nhà Đường nữa, điều này làm cho đại bộ phận dân chúng trở nên nghèo đói, do vậy bọn họ cũng chẳng có khả năng kinh tế mà mua bán sản phẩm, như vậy cũng chẳng thể nào hình thành được một thị trường buôn bán sản phẩm trong cả nước.
Chính vì nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp tự làm tự ăn nên cũng làm cho thị trường thời này thiếu hụt sự mua bán trao đổi và tiêu thụ hàng hóa, thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa chính vẫn chỉ là tơ tằm, bạc gia công, những đồ sành sứ mỹ nghệ cao cấp..vv.. Những thứ này thì lại thuộc vào những loại sản phẩm xa xỉ cao cấp chỉ dành cho giới thượng lưu sử dụng, do vậy dẫn đến phạm vi tiêu thụ mua bán sản phẩm sẽ bị thu nhỏ. Chính vì tình hình xã hội, hoàn cảnh kinh tế như vậy nên không thể mở ra những công xưởng sản xuất sản phẩm theo quy mô lớn như kiểu cạnh tranh của tư bản chủ nghĩa. Đỗ Văn Hạo không tìm hiểu cặn kẽ tình hình văn hóa cũng như chính trị của đời nhà Tống, nên bê nguyên những nguyên tắc của thời hiện đại lắp vào hệ thống này, do vậy sẽ vô cùng khập khễnh và không thực tế, chính vì thế mà Tống Thần Tông chẳng mấy hứng thú với ý tưởng này của hắn.
Cũng may mà Tống Thần Tông giữ lời của mình, nên dù ông ta vô cùng tức giận nhưng cũng tha thứ cho Đỗ Văn Hạo và những lời nói phi lý của hắn. Tống Thần Tông lúc này cũng chỉ biết căm giận trừng mắt nhìn về phía Đỗ Văn Hạo mà phất tay lên nói: “Thôi ngươi ra ngoài đi!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì thấy mình như vừa được chết đi sống lại vậy, hắn lùi lại vài bước, rồi quay người đi ra ngoài.
“Đứng lại! Quay lại đây!!!” Giọng của Tống Thần Tông lạnh lùng cất lên.
Đỗ Văn Hạo bỗng thấy thân hình của hắn bây giờ cứng đờ như đá, chầm chậm quay người lại, từng bước từng bước một đi về chỗ đứng của hắn vừa nãy để chờ lệnh.
Tống Thần Tông nhìn hắn một lúc, rồi hỏi: “Bệnh của Tư Mã Quang thế nào rồi?”
Đỗ Văn Hạo nghe Tống Thần Tông hỏi hắn về tình hình bệnh tật của Tư Mã Quang thì thở hắt ra một cái nhẹ nhõm, hắn thấp giọng đáp: “Hồi bẩm Hoàng Thượng! Trưa ngày hôm nay, vi thần đã làm một ca phẫu thuật mổ bụng cho Tư Mã Quang đại nhân rồi ạ, mọi việc đều diễn ra suôn sẻ, bệnh tình của Tư Mã Quang đại nhân vô cùng nghiêm trọng, đại nhân cũng vừa mới làm phẫu thuật xong, nếu muốn biết công hiệu ra sao thì phải chờ một thời gian quan sát nữa mới biết được ạ!”
“Vậy sao?” Gương mặt của Tống Thần Tông lúc này mới nở ra được một nụ cười: “Y thuật của ngươi rất cao, có thể nói là thiên hạ đệ nhất rồi, nên có lẽ bệnh tình của Tư Mã Quang cũng sẽ ổn thôi!”
Đỗ Văn Hạo nghe Hoàng Thượng khen ngợi mình như vậy cũng hiểu ra rằng Tống Thần Tông lúc nãy cũng hơi quá đà với hắn, đòi hỏi ở hắn quá cao nên bây giờ mới nói những câu như vậy, hắn biết rằng Hoàng Thượng thực chất đang dùng chiêu vừa đánh vừa xoa, trước thì làm cho hắn sợ đến gần chết, vậy mà bây giờ lại khen ngợi hắn, trong thâm tâm hắn cũng thầm cảm thấy được an ủi đi rất nhiều, liền vội vã cúi người nói: “Thưa không phải như vậy đâu ạ! Bẩm Hoàng Thượng, bệnh của Tư Mã Quang đại nhân đúng là vô cùng nghiêm trọng, bệnh của ông ấy có tên là ung thư dạ dày, là một loại bệnh do tế bào ung thư xâm nhập vào dạ dày mà ra, loại ung thư này đã bắt đầu di căn sang các bộ phận khác, chỉ cần nó di căn ra toàn thân thì đến cả thần tiên cũng không chữa khỏi được cho Tư Mã Quang đại nhân nữa!”
“Vậy bây giờ nên làm thế nào?”
“Bời vì tế bào ung thư đã bắt đầu di tán vì vậy hiện giờ điều đáng lo nhất là ca phẫu thuật vừa rồi có lẽ vẫn chưa hoàn toàn cắt bỏ hết những tế bào ung thư đó trong cơ thể của Tư Mã đại nhân, bởi vì nó có thể ẩn chứa trong huyết dịch, hoặc tuyến hạch của bệnh nhân sau đó sẽ di căn sang những bộ phận khác, như vậy sẽ không còn cách nào để trừ bỏ được tế bào ung thư này được nữa. Nhưng mà vi thần đã kê một đơn thuốc cho Tư Mã đại nhân chủ yếu là dùng để bổ trợ nguyên khí, bình ổn khí huyết.”
“Ừm! Như vậy là tốt rồi, ngươi nhất định phải tìm đủ mọi cách chữa trị cho Tư Mã Quang, người này là người có tài hiếm có!”
“Vi thần tuân chỉ!” Đỗ Văn Hạo nghĩ ngợi một lúc rồi lại nói thêm vào: “Bẩm Hoàng Thượng! Vi thần biết ở Thổ Phồn có một loại thuốc có tên Đông Trùng Hạ Thảo có thể bổ trợ nguyên khí, bình ổn khí huyết, nếu có được loại thuốc này thì rất có lợi cho việc điều trị căn bệnh ung thư của Tư Mã đại nhân, loại thuốc này chỉ có ở Thổ Phồn còn ở nơi này thì không tìm thấy nó, đúng rồi, loại thuốc này cũng rất có ích cho việc chữa trị bệnh thận của Hoàng Thượng nữa!”
Đông Trùng Hạ Thảo là loại thuốc vô cùng có ích nhưng ở thời nhà Tống thì loại thuốc này vẫn chưa được phát hiện ra, cũng không quý hiếm như thời hiện đại, và dĩ nhiên cũng không dễ để bảo quản nó, chính vì lý do đó mà nước Thổ Phồn khi cống nạp cho nước Tống không hề có loại thuốc này, loại thuốc này thời đó có thể nói là không có ai biết đến nó cả, chính vì vậy cho nên Tống Thần Tông nghe Đỗ Văn Hạo nói xong cũng hiếu kỳ hỏi: “Đông Trùng Hạ Thảo?”
“Thưa vâng! Đó là một loại thuốc vô cùng đặc biệt và kỳ lạ, vào mùa đông thì nó là một con giun nhỏ, nhưng đến mùa hè thì nó lại biến thành một lại thảo dược nhỏ, loại dược thảo này chỉ sinh trưởng ở nơi ít người sinh sống cho đến những đồng cỏ trên những dãy núi tuyết cao, chính vì điều kiện hoàn cảnh sinh trưởng vô cùng khắc nghiệt nên số lượng cũng vô cùng ít, và cũng rất khó tìm!”
Loại Đông Trùng Hạ Thảo này bề ngoài thì trông rất giống với những loại cỏ thông thường, cơ hồ như không khác nhau một chút nào, cho dù có dí sát mắt vào nó nếu như không phải là người có kinh nghiệm thì cũng chẳng nhận ra được.
“Ha ha, cái này hay đấy, loại thuốc này có tác dụng gì vậy?”
“Tác dụng của nó vô cùng lớn, bệnh thận mà Hoàng Thượng mắc phải bây giờ là chứng suy thận, cách chữa trị cơ bản nhất của căn bệnh này là bổ thận, hoạt huyết và đào thải chất độc ra ngoài. Trong đó bổ thận thì chủ yếu là bổ khí, Đông Trùng Hạ Thảo có vị ngọt mát, hiệu lực rất lớn nhưng tính thuốc lại rất ôn hòa âm dương, nhiệt hàn đều có thể dùng nó. Khi mà bổ dương thì có thể dùng nó kết hợp với Ngũ Hoàng Dân, Bạch Thuật; còn khi bổ huyết thì kết hợp với Đương Quy, Hoàng Tinh; Hoàng Uy, Bạch Thuật kết hợp với nó thì có thể bổ khí, nếu Hoàng Thượng có vị thuốc này thì việc chữa bệnh suy thận của Người trở nên đơn giản vô cùng!”
Tống Thần Tông nghe thấy giọng nói của Đỗ Văn Hạo nghiêm túc, trịnh trọng như vậy thì ngoan ngoãn lắng nghe, sau đó thấp giọng hỏi: “Bệnh của Trẫm có thật là rất nghiêm trọng không?”
“Thưa vâng! Bệnh tình của Hoàng Thượng hiện giờ vẫn chưa thể hiện rõ ra, nhưng chờ đến khi nó phát tác rồi thì rất khó chữa khỏi, loại bệnh này muốn chữa thì nên ra tay từ sớm là tốt nhất!”
Tống Thần Tông chắp hai tay ra đằng sau đi đi lại lại, sau đó đứng lại nói: “Công hiệu của loại thuốc này ra sao?”
“Vi thần lấy một ví dụ rất dễ hiểu như thế này, nếu không có vị thuốc này bệnh của Tư Mã Quang đại nhân thì chỉ có bốn phần thành công, và chỉ có thể sống được thêm năm năm nữa, nhưng nếu có vị thuốc này thì khả năng thành công tăng lên ít nhất là bẩy phần!”
“Vậy bệnh của Trẫm thì sao?”
“Bệnh của Hoàng Thượng cũng khác với bệnh của Tư Mã Quang đại nhân, cho dù không có vị thuốc này, chỉ cần Hoàng Thượng làm theo những lời dặn dò của thần, điều dưỡng thân thể, thì có thể chữa khỏi, còn khi có vị thuốc này vào thì tiến độ chữa bệnh của Hoàng Thượng sẽ tăng lên rất nhiều, chính vì vậy khi có loại thuốc này thì sẽ làm cho thời gian khỏi bệnh của Hoàng Thượng sớm hơn dự kiến rất nhiều, còn đối với Tư Mã Quang đại nhân thì vị thuốc này làm tăng khả năng thành công chữa lành căn bệnh của ông ấy.”
Thực ra độ khó của việc chữa trị căn bệnh suy thận mãn tính này cũng không hề kém cạnh với việc chữa bệnh ung thư dạ dày của Tư Mã Quang, hơn nữa tác dụng của Đông Trùng Hạ Thảo dành cho bệnh suy thận mãn tính có tác dụng lớn hơn bệnh ung thư dạ dày rất nhiều, do vậy Đông Trùng Hạ Thảo có tác dụng trị liệu cho bệnh quan trọng hơn cho Hoàng Thượng, có thể nói rằng có vị thuốc này sẽ làm gia tăng khả năng thành công chữa bệnh cho Hoàng Thượng, nhưng hắn không dám nói ra. Hắn thực chất cũng không nắm chắc khả năng thành công chữa khỏi bệnh cho Hoàng Thượng, để Hoàng Thượng đỡ phải lo lắng, do vậy Đỗ Văn Hạo mới nói kiểu mập mờ như vậy.
“Thì ra là vậy à…” Tống Thần Tông lại đi đi lại lại mấy vòng nữa rồi nói: “Vị thuốc này có mua được không?”
“Theo tương truyền, thì từ đời Đường, Đường và Thổ Phồn đã có đi lại với nhau, hồi đó Thổ Phồn đã dâng cho Hoàng Đế đời Đường, khi đó Dương Ngọc Hoàn Dương Quý Phi đã sử dụng loại thuốc này, nhưng sau đó thì không thấy có ai nhắc đến nó nữa. Hiện giờ Thổ Phồn đang tứ bề tan rã, thành vô số bộ lạc nhỏ rồi, do vậy loại thuốc này không còn xuất hiện ở Trung nguyên nữa, nhưng mà theo như vi thần dự tính theo đường biên giới tiếp giáp với Thổ Phồn có thể sẽ tìm thấy nơi bán loại thuốc này.”
“Vậy thì tốt, ngươi vẽ hình dạng của nó đi, Trẫm sẽ sai người đi tìm nó về!”
“Tuân lệnh!”
Tống Thần Tông lại đi đi lại lại thêm mấy vòng nữa, rồi lại đứng lại nhìn Đỗ Văn Hạo, sau đó chầm chậm lên tiếng: “Trẫm lần trước có xem Lưu Dân Đồ, lại còn đem các ngươi đi vi hành nữa, sau đó những thứ mà ta thấy, ta nghe làm cho ta phải suy nghĩ nếu biến pháp đem đến cho bách tính sự khổ đau vậy thì chi bằng không có biến pháp, khi đó ta đã có ý tạm ngừng tiến hành tân pháp. Hôm nay lại nhận được rất nhiều mật báo của mật thám gửi về, hầu hết mật báo đều nói rằng có rất nhiều người bất mãn với tân pháp, cộng thêm với chuyện Thái Hoàng Thái Hậu ngày nào cũng khóc lóc ỉ ôi với ta, làm cho ta càng muốn tạm ngừng cải cách biến pháp lại một thời gian. Trẫm đã quyết định ban bố mệnh lệnh miễn toàn bộ phí đi lại trong Khai Phong Phủ, hạ lệnh Tư Tế và Tư Nông cùng lo liệu đến kho lương thực của cả nước, điều giảm binh lực ở Hi Hà, thấu hiểu và giúp đỡ dân chúng ở Chư Châu cung cấp thóc giống, miễn hết các nô dịch cùng với thuế đồn điền của dân chúng nơi đó.”
Đỗ Văn Hạo nghe xong kinh ngạc đến há hốc cả miệng ra không hiểu tại sao Tống Thần Tông nghe hắn bàn chuyện quốc sự xong lại có những quyết đinh như vậy, tạm ngừng toàn bộ quá trình tiến hành cải cách tân pháp. Kỳ thực Tống Thần Tông vốn đã có ý dừng tiến hành tân pháp từ trước rồi, nhưng chỉ là trong lòng vẫn đau đáu không nỡ lòng hạ quyết tâm tạm dừng nó lại, nhưng sau khi nghe Đỗ Văn Hạo phân tích tình hình xong, đã nhìn nhận ra mặt hạn chế cũng như khuyết điểm của tân pháp, những lời nói của Đỗ Văn Hạo chẳng khác nào đóng vai trò giọt nước làm tràn ly mà thôi, chính vì giọt nước này mà Tống Thần Tông mới hạ quyết tâm tạm dừng tiến hành cải cách tân pháp lại.
Tống Thần Tông nói ra những lời này xong bỗng nhiên cũng cảm thấy trong người nhẹ nhõm đi rất nhiều, trên mặt liền lộ ra một nụ cười thoải mái, dễ chịu: “Được rồi, Trẫm ra cho ngươi một nhiêm vụ là bây giờ ngươi về nhà đem những lời ngươi vừa nói khi nãy viết lại tường tận từng chi tiết đến cho ta xem!!”
“Vâng thưa Hoàng Thượng!! Có phải về chuyện Đông Trùng Hạ Thảo không ạ??”
“Vớ vẩn! Dĩ nhiên là không phải rồi! Ta muốn ngươi ghi lại những lời nói lúc nãy chúng ta cùng bàn về phép trị nước, ta cũng nghĩ rồi, chặn nguồn nước lại thì chi bằng khai thông một dòng nước mới, tư tưởng cũng vậy, nên có những ý tưởng mới mẻ cải cách, như vậy có lẽ sẽ tìm ra được một đường lối mới hợp lý hơn, cái mà ngươi nói cái gì mà thành lập công ty nhà nước tiến hành mậu dịch buôn bán trên toàn quốc, rồi lại mở xưởng sản xuất sản phẩm gì nữa đó, nghe có vẻ kỳ quái nhưng Trẫm lại thấy nó vô cùng mới mẻ, chính vì vậy Trẫm mới bảo ngươi về nhà suy nghĩ cho kỹ rồi viết lại cho Trẫm xem, để Trẫm nghiên cứu kỹ càng xem xem có cái nào hay mà áp dụng được không?”
Đỗ Văn Hạo nghe xong cũng thấy bất ngờ vô cùng, nhất thời không hiểu ý tứ lời nói của Tống Thần Tông có nghĩa là gì.
Tống Thần Tông lại nói tiếp: “Ngươi không cần viết tư tưởng cải cách của cả một đất nước to lớn như vậy, chỉ cần viết làm sao để quản lý một cái huyện hoặc một cái xã nào đó, cũng không cần ngươi phải đao to búa lớn gì cả chỉ cần ngươi tìm ra những phương thức cụ thể là được rồi, dĩ nhiên là ngươi cũng nên cho thêm ý kiến về nâng cấp và cải tạo tân pháp nữa. Phép trị nước và phép chữa bệnh cho người ta nghĩ cũng hao hao giống nhau, ngươi cần chữa bệnh cho một người nào đó, thì đầu tiên ngươi phải nắm bắt được nguyên nhân rồi đưa ra phương thức chữa trị, trị nước cũng vậy ngươi muốn quản lý một đất nước cho tốt thì cũng phải tìm ra được đường lối đúng đắn, Trẫm rất muốn xem ngươi có những đường lối đúng đắn, chính xác nào dành cho đất nước này!”
Đỗ Văn Hạo không biết tại sao Tống Thần Tông khi nãy còn mắng hắn một trận tơi bời như vậy, thế mà bây giờ lại muốn hắn ghi chép lại những ý tưởng mà Tống Thần Tông cho là vớ vẩn đó lại, rồi còn đem về nghiên cứu nữa chứ. Chính vì vậy, trong lòng hắn bất giác cảm thấy hồ nghi, nhưng lại không dám hỏi nhiều, mà chỉ dám đoán già đoán non ở trong bụng mình mà thôi, nghĩ vậy bèn cúi người đồng ý.
Tống Thần Tông lại nói tiếp: “Mấy người bên Thái Hoàng Thái Hậu đến giờ này vẫn chưa biết chân tướng sự việc, nhưng có ngươi ở bên cạnh bọn họ lo liệu Trẫm cũng yên lòng, bởi sức khỏe của Trẫm bây giờ cũng đã khá hơn nhiều rồi, nhưng những lời nói của Thái Hoàng Thái Hậu thì không thể không nghe được, Tư Mã Quang cũng vừa trải qua một cuộc phẫu thuật, nên cũng rất cần ngươi ở bên cạnh, như thế này vậy, ngươi ban ngày cứ ở đây mà chữa bệnh, còn đến tối thì có thể về, như vậy có lẽ là tốt hơn cả!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong liền tuân lệnh đồng ý, sau đó quay người đi ra ngoài. Lúc vừa ra đến ngoài thì hắn cảm thấy cột xương sống của mình lạnh toát. Khi nãy hắn mạnh mồm đưa ra những kế sách trị nước lại không ngờ giúp cho Tống Thần Tông có được quyết tâm tạm dừng cải cách biến pháp, nhưng mà chỉ hiềm một nỗi, những ý tưởng của hắn quá đề cao kiếm tiền buôn bán lấy lời làm cho Hoàng Thượng tức giận, cũng may mà Hoàng Thượng đã có lời tha tội cho hắn từ trước nên hắn mới thoát tội, nhưng Đỗ Văn Hạo cũng không tránh khỏi một phen khiếp sợ kinh hồn bạt vía.
Đỗ Văn Hạo được Ninh công công sắp xếp cho một căn phòng ở ngay bên cạnh tẩm cung của Hoàng Thượng, nơi này cái gì cũng có, lại còn có thêm mấy viên thái giám và cung nữ phục vụ mình nữa.
Đỗ Văn Hạo về đến phòng, lúc này thấy toàn thân mỏi mệt rã rời, sức lực cứ như bay đi đâu hết vậy, hắn quăng người nằm trên giường, tim của hắn giờ đây vẫn đập thình thịch sợ hãi, đúng là ở bên cạnh vua chẳng khác nào ở bên cạnh cọp, chẳng biết lúc nào mất mạng nữa.
Nằm được một lúc, Đỗ Văn Hạo mới trở mình ngồi dậy trước bàn giấy, hắn đưa bút lên vẽ hình Đông Trùng Hạ Thảo lên đó, rồi lại bắt đầu đưa bút viết về những tư tưởng đường lối của mình cùng với những ý kiến cải cách nâng cấp tân pháp.
Những ý tưởng này vốn đã cuồn cuộn chảy trong đầu của hắn từ rất lâu rồi, nhưng khi đưa bút lên viết thì mới thấy ý tưởng của hắn có rất nhiều chỗ rất không làm hắn ưng ý, hắn cứ hỳ hục viết rồi lại xóa, xóa rồi lại viết, cứ như vậy cho đến khi trời tối mịt rồi mới viết được một đoạn khởi đầu.
Khi trời gần tối thì có một cung nữ cầm đèn bước vào, Đỗ Văn Hạo bèn ngẩng đầu lên hỏi: “Hoàng Thượng đâu?”
“Hoàng Thượng vẫn đang ở trong thư phòng phê duyệt tấu chương ạ!”
Khi cung nữ vừa nói đến đây thì bên ngoài bỗng nhiên có tiếng sét kêu lên đùng đùng, làm cho cung nữ cũng phải giật mình sợ hãi, chân tay run run làm cho cái đèn lồng trên tay rơi luôn xuống đất.
Tiếp sau đó là một tia chớp kéo dài trên bầu trời, làm cho căn phòng của Đỗ Văn Hạo ánh lên một ánh sáng màu bạc ghê rợn, cung nữ thấy vậy hồn phiêu phách lạc, nét mặt trắng bệch trông như một con ma nữ trong những bộ phim ma vậy, làm cho Đỗ Văn Hạo trông thấy cũng phải giật mình cái thót.
Một trận gió tiếp đó kéo đến làm cho cửa sổ của căn phòng va đập vào nhau kêu lên cạch cạch, Đỗ Văn Hạo liền bước đến bên cửa, đang định đóng nó lại thì lại nghe thấy một tràng âm thanh nổ trên đỉnh đầu của hắn, làm chấn động cả mấy cái cửa sổ kêu lên ken két.
Lẽ nào sắp mưa rồi sao?
Đỗ Văn Hạo thấy vậy mừng rỡ, đã mấy tháng nay không có một giọt mưa nào rồi, đất đã khô nứt hết cả ra, lúc này mà có một trận mưa kéo đến thì đúng là ứng nghiệm câu nói nắng hạn gặp phải mưa dầm rồi. Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy vui sướng vô cùng, liền vén áo bước thẳng luôn ra bên ngoài ngửa mặt ngước nhìn bầu trời sám sịt trên đầu mình.
Đột nhiên, có tiếng rơi độp một cái, một hạt mưa to bằng hạt đậu rơi luôn vào giữa mặt của hắn, đúng là trời mưa rồi sao? Không cần chờ Đỗ Văn Hạo dơ tay ra dò xét, những hạt mưa nặng hạt bắt đầu rơi lên trên mặt hắn kêu lên tanh tách, tiếp sau đó mưa rơi xuống càng lúc càng mau, rất nhanh tiếng lộp độp đã vang lên rộn rang khắp nơi trong vườn.
“Mưa rồi! Đúng rồi *** Mưa rồi!”
Đỗ Văn Hạo dang thẳng hai tay ngửa mặt lên trời cười lớn, viên quan chức nhỏ canh thành vẽ bức Lưu Dân Đồ đã thề rằng, chỉ cần tạm dừng biến pháp thì trong vòng mười ngày, nếu không có mưa thì hắn ta sẽ nguyện bị chặt đầu để chịu tội. Quả nhiên Hoàng Thượng vừa tạm dừng biến pháp thì đến tối đã có bạo vũ đến rồi, lẽ nào trong cõi u minh trời đất này lại đúng là có ý trời thật sao?
Tên tiểu thái giám thấy Đỗ Văn Hạo đứng trần bên ngoài trời mưa như vậy thì vội vã cầm cái ô chạy lại che cho hắn: “Đỗ đại nhân, đại nhân mau quay về phòng đi không bị nhiễm lạnh mất!”
Đỗ Văn Hạo lúc này mới đi ra chỗ hành lang bên ngoài trời, nhưng nhất định không chịu chui vào trong phòng nữa, hắn vẫn đứng ở hành lang, vịn vào lan can dõi mắt nhìn khắp khu vườn đang được che phủ bởi những hạt mưa nặng trĩu, thỉnh thoảng còn ánh lên bởi những tia chớp nhập nhằng, Đỗ Văn Hạo sau khi vui sướng quá độ giờ đây lại ngây dại thất thần.
Đúng là nhìn người khác gánh nước thì chẳng bao giờ cảm thấy nặng nhọc, nhưng khi chính mình đưa đòn gánh lên vai thì mới thấy đôi vai mình như muốn gẫy làm đôi vậy, khi bình phẩm một chính sách của người khác ra sao thì vô cùng dễ dàng, nhưng khi chính mình đứng ra thiết lập một chính sách khác thì mới thấy khó khăn muôn trùng. Đã mấy canh giờ trôi qua rồi, hắn khó khăn lắm mới viết được vỏn vẹn một đoạn mở đầu ngắn ngủi, nhưng hắn vẫn thấy đoạn mở đầu đó vẫn chưa làm hắn hài lòng cho lắm! Ài! Thật đúng là không biết nên hoàn thành nhiệm vụ Hoàng Thượng giao phó kiểu gì cho hợp lý đây.
Cũng may mà Hoàng Thượng không quy định cho hắn thời gian là bao lâu, thôi thì cứ từ từ mà tính, nhưng cũng không nên nói lung tung gì đến chuyện làm ăn buôn bán thế nào thế nào nữa, cứ tìm hiểu trước xem người xưa họ quản lý đất nước ra sao đã. Kinh tế đời nhà Tống là đi theo đường lối phát triển tiểu nông vừa và nhỏ, vậy nên muốn phát triển cũng phải nên dựa vào cái kinh tế tiểu nông này mà học hỏi, sau đó dựa trên đó mà tạo ra đường lối mới, cuối cùng là hoàn tất đem nộp cho Hoàng Thượng, ít ra cũng không đến nỗi làm Hoàng Thượng xem xong rồi chê cười lần nữa.
Sau khi có được ý tưởng mới mẻ này, Đỗ Văn Hạo liền bắt đầu đi tìm những quyển sách của người xưa bàn về chuyện quản lý đất nước như thế nào về xem. Hắn cứ suy đi tính lại suốt như vậy được một lúc thì mắt của hắn sáng lên, đúng rồi! Sao mình lại không đi tìm Tư Mã Quang thảo luận nhỉ, ông lão này không phải là đang biên soạn bộ sách có tên Tư Trì Thông Giám (đây là một tác phẩm vô cùng nổi tiếng của Trung Quốc, nó bao gồm lịch sử, chính trị, tư tưởng của người Trung Quốc bắt đầu từ thời nhà Chu đời Xuân Thu Chiến Quốc cho đến thời Ngũ Triều) đó sao? Đây là một bộ sách tổng quát các cách thức quản lý trị nước của các triều đại trước kia. Chỉ cần nghe ông ấy giảng một hồi thôi, là cũng biết nên viết như thế nào rồi, cần gì phải mở sách dò tìm tài liệu nữa chứ!
Nghĩ đến đây thì Đỗ Văn Hạo cảm thấy chuyện phải nộp bài cho Hoàng Thượng cũng đã có cách đối phó rồi, nên thở hắt ra một cái nhẹ nhõm. Chờ đến tối cổng Hoàng Cung đóng lại rồi thì Đỗ Văn Hạo mới lên kiệu rời khỏi Hoàng Cung đi về Ngũ Vị Đường.
Lúc này Tư Mã Quang cũng đã tỉnh lại, Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi đang chăm sóc ông ấy, sau đó hai người cho thuốc sát trùng, chống viêm từ từ thông qua ống truyền vào trong dạ dày, nơi này còn có phu nhân của Tư Mã Quang và hai người con của ông ta nữa.
Đỗ Văn Hạo kiểm tra ống dẫn lưu, sau đó lại hỏi lượng nước tiểu, cuối cùng là bắt mạch cho Tư Mã Quang, Đỗ Văn Hạo thấy tình hình của ông ta bây giờ rất ổn, không có biểu hiện nguy cấp nào cả, do vậy hắn cũng hơi yên tâm một chút, suy cho cùng thì Tư Mã Quang cũng đã tuổi cao sức yếu, qua đợt phẫu thuật này, thân thể của ông ta trở nên vô cùng suy yếu, khi Đỗ Văn Hạo khám bệnh cho ông, Tư Mã Quang cũng chỉ mở mắt ra cười với hắn một cái rồi lại nhắm mắt lại, ngủ thiếp đi.
Đỗ Văn Hạo thấy trong lỗ mũi của ông vẫn đang cắm ống dẫn, nói chuyện không tiện nên hắn cũng biết vấn đề trị nước của hắn giờ này chưa thể phó thác được cho Tư Mã Quang được, chắc phải chờ thêm hai ba ngày nữa mới giải quyết xong.
Mưa rơi đúng đủ một đêm, đến ngày hôm sau thì ngớt. Đỗ Văn Hạo vào cung đem dâng lên bức tranh mà hắn vẽ hình dáng của Đông Trùng Hạ Thảo lên cho Tống Thần Tông. Tống Thần Tông hôm nay lên triều thì văn võ bá quan đều bàn luận rằng chính vì do tạm dừng tân pháp mà trời mới đổ mưa.
Tống Thần Tông lúc này cũng chẳng hỏi han đến chuyện hắn viết ý tưởng đường lối quản lý, cai trị đất nước ra sao nữa, dường như Tống Thần Tông biết rằng Đỗ Văn Hạo nhất thời cũng chẳng viết ra được cái gì ra hồn cả.
Đến buổi chiều tối khi Đỗ Văn Hạo trên đường về Ngũ Vị Đường thì thấy mưa lại bắt đầu rả rích rơi.
Bệnh tình của Tư Mã Quang lúc này cũng đã ổn định khá nhiều, không có hiện tượng nguy hiểm nào xuất hiện làm cho người khác phải lo lắng nữa, điều này làm cho Đỗ Văn Hạo cảm thấy được an ủi đi rất nhiều, mặc dù điều kiện chữa trị thời nhà Tống này vô cùng lạc hậu, thiếu thốn, nhưng chế độ tiệt trùng của hắn lại vẫn tiến hành một cách nghiêm khắc và thành công. Ống thông vào dạ dày của Tư Mã Quang đã được rút xuống, ông ta vẫn đang nằm mê man trên giường có vẻ vẫn rất mệt mỏi, Đỗ Văn Hạo thấy vậy nên cũng không tiện hỏi chuyện Tư Mã Quang nữa.
Ngày hôm sau trời lại mưa cả ngày, chờ cho Đỗ Văn Hạo về đến nhà thì trước thềm nhà hắn đã xuất hiện rất nhiều vũng nước lõng bõng.
Đối với ca phẫu thuật của Tư Mã Quang mà nói, thì khi trời nóng sẽ làm cho vết mổ trở nên vô cùng khó chịu, bởi vì trời nóng thì sẽ dễ ra mồ hôi, mà ở thời cổ đại này mà làm phẫu thuật thì ra mồ hôi rất dễ dẫn đến vết mổ bị nhiễm trùng, do vậy trời cứ mưa mãi thế này cũng là một điều tốt lành, tuy là có chút ẩm ướt nhưng cơ hội xảy ra nhiễm trùng sẽ giảm đi trông thấy, đúng là ông trời có mắt.
Đỗ Văn Hạo vào đến bên trong phòng bệnh của Tư Mã Quang, thì đã thấy ông ta đã xuống giường đi lại được rồi, mặc dù vẫn có người dìu đỡ nhưng bệnh tình của ông ta lúc này cũng khá khả quan. Phu nhân của Tư Mã Quang cũng đang ngồi khâu vá lại quần áo cho ông, mặc dù ông chức vụ rất cao, nhưng lại vô cùng liêm khiết, làm quan bao năm như vậy mà cũng chẳng có bao nhiêu tiền của, đến cả quần áo của ông cũng phải khâu vá lại mà dùng chứ không mua đồ mới. Đỗ Văn Hạo lúc này mới để ý phu nhân của Tư Mã Quang, tuy bà nhỏ hơn ông ta những mười tuổi, nhưng mấy ngày gần đây vất vả chăm ông mà đầu tóc cũng đã bạc phơ hết cả, sắc mặt cũng tiều tụy đi khá nhiều.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền đi đến chắp tay nói: “Phu nhân! Xin phu nhân cứ nghỉ ngơi cho khỏe, những việc nữ công như thế này vô cùng nhức mắt, phu nhân cứ sai một đứa nha hoàn đó nào làm là được rồi, phu nhân ngày nào cũng phải chăm sóc Tư Mã đại nhân như vậy rất mệt đấy, phu nhân cần phải cẩn thận không thì ngã bệnh mất!”
Ngô Thị nghe xong Đỗ Văn Hạo nói liền đặt đồ nữ công trên tay mình xuống, gật đầu cười nói với Đỗ Văn Hạo: “Không sao đâu! Làm phiền Đỗ đại nhân nhiều quá, nếu không nhờ y thuật thần thông của đại nhân, e rằng lão gia của ta đã không còn hy vọng gì nữa rồi!”
Khi hai người vẫn đang nói chuyện thì từ bên ngoài có một tiếng nói của một cô gái nói vọng vào: “Mẫu thân! Con đã bảo là việc đó cứ để con làm rồi mà con mới vào bếp có một lúc mà mẫu thân đã dành lấy việc của con rồi!” Tiếp sau đó là một cái đầu tết tóc bím cùng với gương mặt tươi cười ló vào nhìn Đỗ Văn Hạo và Ngô Thị, đó chính là Tuệ Nhi.
Nụ Hồng Trắng Ngẩn Ngơ Xuân Mười Chín
Nhớ én CHợt Về Mang Đến Tuổi Đôi Mươi
Ôi!!!Thói Đời Nghĩ Mà Đau Lòng
Ta Cười Cuộc Đời Lắm Nỗi Đau Thương
Đã có 6 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của baongoc
Đỗ Văn Hạo vô cùng kinh ngạc, mấy ngày trước hắn gặp Tuệ Nhi, trông nàng vô cùng thương tâm, sắc mặt u uất, vậy mà bây giờ sắc mặt của nàng lại trông rất sáng sủa, hoạt bát, trông thấy chân của Tuệ Nhi vẫn còn khập khiễng, Đỗ Văn Hạo bèn lên tiếng: “Chân của nàng đã đỡ đi nhiều rồi đấy, đi lại tuy vẫn còn chậm chạp nhưng cũng đã là tốt lắm rồi. Mấy ngày hôm nay trời lại mưa dầm đừng để chân bị nhiễm lạnh!”
“Đa tạ Đỗ đại nhân đã quan tâm!” Tuệ Nhi nói xong liền đưa mắt nhìn Đỗ Văn Hạo một cái, nghe hắn cất tiếng quan tâm đến mình như vậy bất giác gương mặt xinh đẹp của nàng ửng đỏ, rồi từ từ ngoảnh mặt sang phía khác.
Thần sắc của Tư Mã Quang bây giờ cũng đã đỡ hơn rất nhiều, ông ta mới chỉ đi vài bước ở trong căn nhà này đã thở không ra hơi, phải nhờ con trai của mình dìu về bên chiếc ghế ở cạnh giường mình rồi chầm chậm ngồi xuống, đây là một yêu cầu của Tuyết Phi Nhi đề xuất ra, nàng muốn Tư Mã Quang cố gắng xuống giường hoạt động càng sớm càng tốt.
Đỗ Văn Hạo liền đưa tay lên bắt mạch cho Tư Mã Quang, một lúc sau hắn mỉm cười nói: “Sức khỏe của Tư Mã đại nhân đang hồi phục rất nhanh, cũng không có bệnh chứng nào làm cho chúng ta phải lo lắng thêm cả, cái này cũng là do thân thể của Tư Mã đại nhân từ xưa đến giờ có một thể chất rất tốt, ít khi bị bệnh, nguyên khí tràn trề!”
Tư Mã Quang nghe xong cũng có phần đắc ý, bèn vuốt vuốt râu nói: “Ha ha! Cũng may mà nhờ có bàn tay kỳ diệu của Đỗ lão đệ, nên lão phu mới có thể cây già nảy lộc!”
Hai người cùng quay vào nhau mà cười, Đỗ Văn Hạo lại nói tiếp: “Bệnh của Tư Mã đại nhân không phải là qua một lần phẫu thuật mà có thể chữa khỏi hoàn toàn được, về sau vẫn phải tuân thủ những quy trình chữa bệnh nghiêm khắc của ti chức đề ra, sau đó còn phải uống thêm một vị thuốc chỉ có ở Thổ Phồn có tên Đông Trùng Hạ Thảo thì bệnh của đại nhân mới có những tiến triển tốt. Vị thuốc này ở Đại Tống chúng ta không có bán, nhưng ti chức đã bẩm báo với Hoàng Thượng, Hoàng Thượng đã bảo ti chức vẽ ra hình thù của nó rồi cho người đi ra biên giới tiếp giáp với Thổ Phồn tìm mua, nếu có thể, thì Hoàng Thượng cũng sẽ phái người đi hẳn vào Thổ Phồn mà mua cũng được.”
Tư Mã Quang nghe xong, bất giác hai hàng lệ từ khóe mắt già nua của ông ta túa ra chứa chan, sau đó Tư Mã Quang quỳ luôn xuống, mặt hướng về Hoàng Cung dập đầu nói: “Hoàng Thượng! Ơn nghĩa của Hoàng Thượng lão thần dù cho thịt nát xương tan cũng không dám quên, lão thần không biết lấy gì để báo đáp công ơn của Hoàng Thượng!”
Con trai của Tư Mã Quang, Tư Mã Dung cùng con gái Huệ Nhi trông thấy ông ta quỳ xuống lạy như vậy, hai người cũng lập tức quỳ xuống dập đầu côm cốp, sau đó mới đứng lên đỡ Tư Mã Quang ngồi dậy.
Tư Mã Quang đưa tay lau nước mắt của mình đi, rồi quay sang Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: “Đa tạ Đỗ lão đệ đã tận tâm tận lực chữa bệnh cho lão phu, công ơn của lão đệ lão phu luôn luôn khắc cốt ghi tâm!”
Đỗ Văn Hạo mỉm cười đáp: “Tư Mã đại nhân đừng khách khí như vậy, hơn nữa ti chức lúc này cũng có chuyện muốn nhờ đại nhân đây, mong đại nhân chỉ bảo cho ti chức.”
Tư Mã Quang vui vẻ đáp: “Lão đệ không khinh thường lão ca này, thì về sau đừng khách khí như vậy nữa, cứ gọi đại nhân đại nhiếc cái gì nghe nó xa lạ ra, lão đệ cứ xưng hô với ta là lão ca, chúng ta là hai người bạn không cần phân biệt tuổi tác của nhau, như vậy có được không?”
“Cái này ti chức không dám!” Đỗ Văn Hạo vội vã trả lời.
“Sao lại không dám cơ chứ, lão đệ đã ra tay cứu mạng lão phu như vậy, lại còn tìm cách mua thuốc tốt cho lão phu dùng nữa, lão phu cảm kích vô cùng, hơn nữa lão phu đã nghe tiếng Đỗ lão đệ có trái tim nhân từ, đôn hậu đối đãi với mọi người từ lâu. Đỗ lão đệ không hề phân biệt giàu sang phú quý, hay nghèo hàn cơ nhỡ đều ra tay giúp đỡ không nề hà gì cả, trái tim nhân ái như vậy quả là trên đời hiếm gặp, lão phu vô cùng khâm phục Đỗ lão đệ, nếu Đỗ lão đệ không chê bai gì lão phu mong lão đệ hãy gọi lão phu là lão ca, còn nếu chê bai lão phu thì cứ gọi là Tư Mã đại nhân cũng được!” Tư Mã Quang nói xong còn làm bộ tức giận râu tóc rung lên bần bật.
Đỗ Văn Hạo mỉm cười đứng dậy chắp tay nói: “Tư Mã lão ca đã coi trọng lão đệ như vậy, lão đệ chỉ còn cách cung kính không bằng tuân mệnh!”
“Ha ha ha! Như vậy mới đúng chứ! Lão đệ có chuyện gì cứ nói đừng ngại, lão ca sẽ dốc hết sự hiểu biết của mình ra giúp lão đệ!!”
“Thế thì tốt quá, chuyện là thế này, Hoàng Thượng đã hạ chỉ tạm dừng tiến hành cải cách biến pháp rồi!”
“Cái gì? Lão đệ nói sao?” Tư Mã Quang vừa mừng vừa kinh ngạc, đứng bật luôn dậy làm rách luôn vết khâu của ca phẫu thuật trên bụng miệng kêu lên ối chao một tiếng, Tuệ Nhi đứng cạnh đó vội vã chạy đến dìu đỡ Tư Mã Quang từ từ ngồi xuống, Tư Mã Quang vẫn không thèm quan tâm đến vết rách đó, vội vã hỏi tiếp: “Lời của lão đệ là thật đấy chứ?”
“Ha ha, tiểu đệ không dám đem chuyện này ra nói đùa đâu!”
“Ha ha! Ha ha ha!” Tư Mã Quang ôm lấy bụng mình ngửa mặt lên trời cười lớn, hai hàng lệ lăn dài trên gương mặt già cỗi nhăn nheo của mình: “Hoàng Thượng anh minh! Hoàng Thượng anh minh! Ha ha ha ha!”
Tuệ Nhi cũng vui mừng thay cho cha của mình, nàng đưa mắt quay nhìn Đỗ Văn Hạo rồi thấp giọng nói với cha của mình: “Phụ thân! Phụ thân đừng mừng rỡ như vậy vội, Đỗ đại nhân vẫn đang chờ người chỉ dạy một số vấn đề nữa kìa!”
“Ừ! Đúng rồi” Tư Mã Quang cố nhịn cười lại, một tay ôm bụng, một tay vuốt vuốt bộ râu hoa râm của mình nói: “Mong Đỗ lão đệ đừng trách lão ca, lão ca vui quá nên mới thô lỗ như vậy!”
“Ha ha Lão ca vì dân vì nước, nghĩa trọng tình thâm, lão ca không hề thô lỗ chút nào, tiểu đệ vô cùng khâm phục lão ca!”
“Thôi thôi! Đỗ lão đệ đừng khen lão ca này nữa, nói đi, lão đệ muốn hỏi gì?”
“Đệ muốn hỏi về phép trị nước!” Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói.
“Cái gì? Lão đệ là một Ngự Y, lão đệ hỏi cái này để làm gì? Lẽ nào lão đệ nhàm chán việc chữa bệnh rồi hay sao mà định đổi nghề sang làm chính trị vậy hả?”
“Ha ha ha! Tiểu đệ không dám có ý nghĩ xa xỉ như vậy, chỉ là nghe Tư Mã lão ca đang biên soạn một bộ tuyệt tác có tên Tư Trì Thông Giám bắt đầu từ các vị vua đời nhà Châu cho đến đời Ngũ Đại (thời Ngũ Đại là thời đại khi nhà Đường sụp đổ thì Trung Quốc trải qua thời kỳ phân tranh lần lượt bao gồm các nước Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán và Hậu Châu, đời Ngũ Đại sau đó được Triệu Khoang Dận tiêu diệt và lập ra nhà Đại Tống), trong đó có bình luận về các sự kiện lịch sử, do vậy tiểu đệ muốn đến thỉnh giáo đôi chút.”
Tư Mã Quang nghe xong sửng sốt vô cùng, sau đó lại cười ha ha trả lời: “Không sai, lão ca ta đang biên soạn một bộ sách như vậy, nhưng mà tên sách vẫn chưa nghĩ ra, vậy mà lão đệ đã khen ngợi bộ sách của lão ca có tên Tư Trì Thông Giám thật là coi trọng lão ca quá, tên sách hay như vậy lão ca không dám nhận!”
Đỗ Văn Hạo lúc này mới nhớ ra bộ sách Tư Trì Thông Giám này Tư Mã Quang hoàn thành nó xong, Tống Thần Tông khen ngợi không tiếc lời mới đặt ra cái tên này. Bây giờ bộ sách này vẫn còn chưa viết xong, thế nên cái tên Tư Trì Thông Giám mà Đỗ Văn Hạo vừa đề cập đến bây giờ chưa hề tồn tại và xuất hiện, nghĩ vậy nên Đỗ Văn Hạo liền chắp tay mỉm cười nói: “Nghe nói lão ca viết bộ sách này là để đánh giá, bình phẩm các phép trị nước, chính trị, lịch sử, nó bao gồm ngàn năm lịch sử từ trước đến giờ, cùng với những ý kiến đánh giá của mình về phép trị nước qua các thời kỳ nữa, do vậy tiểu đệ muốn tìm hiểu đôi chút, mong lão ca chỉ dạy!”
Tư Mã Quang vô cùng sung sướng, ông ta đưa tay lên vuốt vuốt bộ râu của mình, rồi bắt đầu nói về bộ sách này của mình, trong bộ sách này ông đưa ra những lời bình phẩm của bản thân về cách trị nước, chế độ cai trị qua các thời kỳ lịch sử, vết thương của ông vẫn chưa lành, nên ông nói chuyện cũng khá khó khăn, do vậy Tư Mã Quang nói rất ngắn gọn xúc tích, nếu như mà cứ giới thiệu rườm rà thì có lẽ mất cả hai canh giờ nữa cũng không nói hết.
Đỗ Văn Hạo rất chăm chú lắng nghe, nhưng sau khi nghe xong, thì vẫn hoang mang không biết nên viết thêm gì nữa, nếu hắn cứ bê nguyên những lời này của Tư Mã Quang vào sách của hắn thì Tống Thần Tông chắc chắn sẽ phát hiện ra, bởi vì chỉ e rằng những quan điểm được Tư Mã Quang viết vào sách đã sớm được bẩm báo, trình tấu lên Tống Thần Tông rồi, nếu mà hắn cứ chép nguyên văn như vậy thì Tống Thần Tông sẽ phát hiện ra ngay.
Đỗ Văn Hạo lại bắt đầu hỏi những vấn đề có liên quan đến kinh tế, có những biện pháp cụ thể nào để quản trị hành chính, Tư Mã Quang cũng giúp hắn phân tích rõ ràng, từng ly từng tý đều nói ra hết, Đỗ Văn Hạo nghe xong cảm thấy có ích vô cùng, hai người cứ ngồi bàn chuyện với nhau như vậy cho mãi đến tận nửa đêm canh ba.
Bên ngoài mưa vẫn rơi tí tách không ngừng, Bàng Vũ Cầm thỉnh thoảng lại vén rèm lên đi vào nói: “Tướng Công, đêm đã khuya rồi, tướng công để cho Tư Mã đại nhân sớm được nghỉ ngơi!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn đứng dậy chắp tay nói: “Đa ta Tư Mã lão ca! Lời dạy của lão ca làm cho lão đệ mở rộng tầm mắt!”
“Ha ha ha! Không ngờ lão đệ lại quan tâm đến vấn đề trị nước như vậy, đúng là hậu sinh khả úy!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn cáo từ cùng Bàng Vũ Cầm về phòng.
Anh Tử lúc này liền đi tới cởi áo và đem nước đến cho Đỗ Văn Hạo rửa chân, khi nàng giúp Đỗ Văn Hạo rửa chân thì thấy sắc mặt của hắn đờ đẫn, ngơ ngác không biết là đang suy ngẫm cái gì, bèn cười nói: “Thiếu gia làm sao vậy? Nói chuyện với Tư Mã đại nhân mới có một đêm đã bị ngây dại, đờ đẫn hết cả người như vậy sao?”
Đỗ Văn Hạo cũng chỉ ừm lên một tiếng xong rồi lại tiếp tục đơ mặt ra.
Bàng Vũ Cầm trông thấy bèn suỵt lên một tiếng, thấp giọng nói: “Đừng cắt ngang suy nghĩ của thiếu gia, để thiếu gia suy nghĩ!”
Anh Tử nghe xong thì lè lưỡi ra rồi lại tiếp tục rửa chân cho Đỗ Văn Hạo.
Sau khi rửa sạch chân cho hắn, Anh Tử liền kéo bàn chân hắn lên, tiếp tục bấm huyệt bàn chân cho hắn, lúc này Đỗ Văn Hạo mới bừng tỉnh, cười nói:
“Kỹ thuật xoa bóp giỏi hơn hồi trước rồi đấy!” Anh Tử cười nói: “Hi hi! Cái này làm nhiều thành quen, tất cả đều do thiếu gia chỉ dạy tận tình cả!”
“Vậy ngươi có biết tại sao người ta lại bấm huyệt dưới lòng bàn chân không?”
“Thiếu gia đã nói rồi, bàn chân của con người bao gồm hết tất cả lục đại kinh mạch, gắn liền với Gan, Tỳ, Vị, Thận xuyên suốt toàn thân huyết mạch và kinh mạch, là nơi có khả năng điều giải lục phủ ngũ tạng, do vậy khi kích thích các huyệt vị dưới lòng bàn chân sẽ giúp cho máu huyết thông suốt, Hi hi! Nói như vậy đã đúng chưa ạ?”
“Ừm! Không sai!” Đỗ Văn Hạo cúi đầu ngắm nhìn dưới cái cổ trắng ngần của Anh Tử ẩn hiện cái khe ngực, bất giác thất thần, nhưng Đỗ Văn Hạo lại vội vã đưa ánh mắt của hắn sang chỗ khác rồi lại nói tiếp: “Ài! Chỉ tiếc là ta chỉ hiểu việc chữa bệnh cho người mà không biết cách quản lý đất nước!”
“Quản lý đất nước? Thiếu gia là một đại phu tốt là được rồi, còn phép cai trị, quản lý đất nước thì cứ để cho Tư Mã đại nhân và những đại thần khác lo!”
“Bây giờ ta không thể chỉ biết chữa bệnh mà còn phải học cách quản lý đất nước nữa, đây là yêu cầu của Hoàng Thượng đối với ta!”
“Hả?” Bàng Vũ Cầm và Anh Tử đều há hốc mồm kinh ngạc: “Hoàng Thượng muốn thiếu gia quản lý đất nước sao?”
“Cũng không hẳn là như vậy, mấy hôm trước ta và Hoàng Thượng có nói chuyện với nhau về mấy ý tưởng làm thế nào để cai trị và quản lý đất nước, Hoàng Thượng cũng khá hứng thú với ta, muốn ta viết một chính sách quản lý đất nước đưa cho Hoàng Thượng xem, ta chỉ là một thầy thuốc, làm gì có ý tưởng gì hay để đề xuất ra ý kiến trị nước cơ chứ!”
Bàng Vũ Cầm lúc này cũng lên tiếng nói: “Chẳng trách lúc tướng công mới về đến nhà, là lập tức tìm đến Tư Mã đại nhân để bàn đến chuyện trị nước, thì ra là như vậy!”
“Đúng vậy! Tiếc là ta và ông ấy bàn cả một đêm rồi mà vẫn không thể cất bút lên viết ra được cái gì cả!”
“Sao vậy?”
“Những điều ông ấy nói thì đều rất có lý, nhưng tất cả những thứ đó đều là ý tưởng và đường lối của ông ta, nếu ta cứ bê nguyên những lời của ông ta cho vào của ta thì Hoàng Thượng chắc chắn sẽ phát hiện ra, bởi vì Hoàng Thượng hiểu rất rõ nguyên lý quản trị đất nước của ông ấy, có khi còn rất quan tâm đến bộ tuyệt tác trị quốc sách mà ông ấy đang dầy công viết ra nữa, do vậy nếu ta cứ bê nguyên ý tưởng của ông ta vào thì Hoàng Thượng lại trách ta không có ý tưởng riêng của mình, không sáng tạo!”
Bàng Vũ Cầm nghe xong cũng gật gật đầu nói: “Nhất thiết phải viết ra được một ý tưởng có sáng tạo, một ý tưởng mà Hoàng Thượng từ trước đến giờ chưa bao giờ gặp, như vậy Hoàng Thượng mới chú ý đến nó, hơn nữa ý tưởng này là ý tưởng mà tướng công phải vô cùng quen thuộc.”
“Ý tưởng gì mà quen thuộc với ta? Thế thì có mỗi chuyện chữa bệnh mà thôi!”
Anh Tử vui vẻ nói chen vào: “Đúng rồi! Sao thiếu gia không dùng đạo lý chữa bệnh cho người mà áp dụng vào chuyện cai trị, quản lý đất nước ấy, trị nước cũng như trị bệnh mà!”
Hai mắt của Đỗ Văn Hạo sáng ngời lên nói: “Ừ, đúng rồi! Dùng ý tưởng chữa bệnh áp dụng vào trị nước! Đây đúng là một ý tưởng vô cùng sáng tạo, nhưng e rằng chúng ta nghĩ ra được, thì Hoàng Thượng chắc cũng đã biết rồi, hay là đem những ý tưởng của ta ra so sánh với ý tưởng của Tư Mã đại nhân, rồi từ đó đưa ra kết luận riêng cho mình, như vậy có lẽ sẽ tốt hơn!”
Bàng Vũ Cầm nghe xong vui vẻ đáp: “Đúng vậy! Nhưng mà, nhất định phải có lý lẽ riêng của mình, không thể bê nguyên cái nguyên lý trị bệnh vào trị nước được, nói gì thì nói thì hai thứ này cũng rất khác nhau!”
“Cái đó là đương nhiên rồi!” Đỗ Văn Hạo có được chủ ý này thì vui mừng khôn xiết, bất giác đưa tay lên bẹo má của Anh Tử nói: “Đúng là Anh Tử của ta thông minh thật đấy!”
Anh Tử thẹn đỏ cả mặt, cúi đầu, trong lòng không giấu nổi niềm hạnh phúc.
Đỗ Văn Hạo đi đôi tất vào, sau đó kéo giầy lên buộc lại, chạy thẳng luôn đến thư phòng cất bút bắt đầu viết lại những ý tưởng của mình vừa mới nghĩ ra. Khi hắn đã có ý tưởng rồi, thì dĩ nhiên cũng biết nên viết như thế nào, chính vì vậy khi vừa đặt bút xuống, nét mực đã như rồng bay phượng múa kín đầy cả trang giấy.
Bàng Vũ Cầm và Anh Tử lúc này trông thấy Đỗ Văn Hạo như vậy cũng không dám làm phiền hắn nữa, Anh Tử đem nước rửa chân của hắn đi đổ, còn Bàng Vũ Cầm thì pha cho hắn một tách trà, Anh Tử lại bê lên một ngọn nến nữa, sau đó hai người cứ đứng bên cạnh Đỗ Văn Hạo, người nào trong tay cũng có đồ nữ công của mình, ai làm việc của người đó im lặng ngồi chờ Đỗ Văn Hạo.
Đỗ Văn Hạo cứ viết xong lại ngừng, ngừng xong lại viết, có lúc hắn lại đứng dậy đi đi lại lại mấy vòng, rồi lại ngồi xuống viết tiếp, cứ như vậy hắn viết đến canh năm thì mới xiêu xiêu vẹo vẹo đứng dậy, hắn đã viết được mấy chục trang lấy y đạo mà luận đàm trị nước của mình. Xong xuôi đâu đó hắn mới mãn nguyện cởi quần áo của mình ra mà ôm Bàng Vũ Cầm đi ngủ.
Hắn chỉ ngủ một canh giờ thì trời cũng đã sáng, trong lòng Đỗ Văn Hạo vẫn còn có việc, nên hắn liền dậy từ khá sớm.
Ngày hôm nay mưa vẫn dầm dề rơi rả rích.
Tuyết Phi Nhi hôm nay đích thân xuống bếp chuẩn bị bữa sáng, nàng trông thấy mắt của Đỗ Văn Hạo đỏ ngầu, trông rất mệt mỏi thì thấy thương hắn vô cùng, liền mở miệng nói: “Hoàng Thượng cũng thật đúng là, biết tướng công đêm về còn lo chuyện chữa bệnh cho Tư Mã đại nhân, ban ngày thì lại mời tướng công vào cung, làm gì có ai bắt người ta làm việc cật lực để chết như vậy chứ!” Bàng Vũ Cầm đứng cạnh đó cũng chỉ biết chu môi lên cũng thể hiện rõ bộ mặt không hài lòng.
Đỗ Văn Hạo ngáp dài một hơi rồi cười nói: “Nhận bổng lộc của triều đình, thì dĩ nhiên phải tận tâm tận lực rồi, còn việc ở trong cung thì ta cũng không thấy mệt mỏi gì cả. Phi Nhi, phu nhân của Tư Mã đại nhân rất hay khách khí, vậy nên có chuyện gì nàng cứ đi qua đó giúp hộ ta nhé, cho dù bên cạnh có hai con chăm sóc nhưng chân của Tuệ Nhi vẫn chưa khỏi hẳn còn Tư Mã Dung thì lại là đàn ông không có tính tỉ mỉ, cẩn thận gì cả.”
“Được, được rồi, thiếp đã biết rồi!” Tuyết Phi Nhi thấy Đỗ Văn Hạo đã ăn xong, bèn nói: “Thôi tướng công mau đi đi, đi sớm về sớm.” Tuyết Phi Nhi không chờ Đỗ Văn Hạo nói xong liền đem cái ô nhét vào trong tay của hắn, rồi đưa hắn ra cổng lên kiệu.
Đỗ Văn Hạo lên kiệu xong vẫn cố thò đầu ra dặn dò: “Vậy ta đi đây, nàng phải nhớ....”
“Tướng công nhiều chuyện quá! Nhớ rồi, nhớ rồi! Ha ha ha” Tuyết Phi Nhi cười lớn, nàng đưa tay lên vẫy vẫy ra hiệu cho Đỗ Văn Hạo mau mau lên đường, sau đó thấy kiệu của hắn đã đi khuất thì mới quay người đi thẳng đến phòng của Tư Mã Quang.
Đỗ Văn Hạo sau khi vào cung, đến điện Cần Chính, Hoàng Thượng lúc này đang lên triều, hắn nghe Ninh công công nói Hoàng Thượng vừa nhận được tin tình báo quân đội, dường như là chuyện quân cơ bên Thổ Phồn, Hoàng Thượng đang triệu tập quần thần thương thảo.
Đỗ Văn Hạo đành ôm trong người kế sách mà hắn lĩnh hội áp dụng từ y đạo ra để trị nước, ngồi chờ nơi hậu điện
Cho đến tận trưa, Hoàng Thượng cho người đem luôn cả bữa ngự thiện buổi trưa vào trong điện Cần Chính, xem ra mọi người trong đó đang thảo luận rất gắt gao, đến cả ăn uống cũng không thể ngừng được.
Đến chiều mưa vẫn chưa ngừng rơi, lúc to lúc nhỏ, Đỗ Văn Hạo cứ ngồi trơ mặt nơi hậu điện mãi cũng thấy nhàm chán, thấy vậy bèn mở cửa bước ra ngoài, đầu đội mưa rơi lất phất trên đầu chạy vào trong cái đình thoáng ở trong hoa viên, rồi ngồi lên cái ghế đá ở trong đó. Đỗ Văn Hạo gọi một tên tiểu thái giám mang cho mình một bình trà đặc đến. Hôm qua hắn ngủ ít quá nên người vô cùng mệt mỏi, Đỗ Văn Hạo định ngồi chỗ này uống tách trà đặc cho tỉnh ngủ, ai ngờ trà chưa kịp đến thì hắn đã ngủ gật trên cái bàn đá ở đó tự lúc nào mà không hay.
“Đỗ đại nhân, Đỗ đại nhân...”
Đang trong lúc say giấc nồng thì bên tai của Đỗ Văn Hạo có một tiếng gọi, hắn mở mắt ra thì thấy khuôn mặt một người đang áp sát ngay trước mắt, hắn không khỏi giật mình suýt ngã ngửa người ra đằng sau.
“Đỗ đại nhân, xin lỗi đã làm đại nhân giật mình!”
Đỗ Văn Hạo nhìn kỹ lại người này, thì nhận ra đó chính là Diệp công công ở tẩm cung của Chu Đức Phi nương nương đang mỉm cười với hắn.
“Ha ha, lúc nãy bổn quan vừa nằm mơ thấy ác mộng nên mới giật mình như vậy, thật là ngại quá, không ngờ bổn quan lại nằm ngủ ngay giữa ban ngày, ha ha! Đúng rồi! Diệp công công đến tìm bổn quan có việc gì vậy?” Đỗ Văn Hạo đưa tay lên dụi dụi mắt sau đó vươn vai hỏi.
“Lão nô biết Đỗ đại nhân rất mệt, vừa nãy gặp Ninh công công thì ông ấy có nói cho lão nô biết rồi, lão nô vốn không định làm phiền Đỗ đại nhân, nhưng phu nhân của Đỗ đại nhân vào trong cung, bảo là tìm đại nhân có chuyện vậy nên bảo lão nô đến đây để thông báo cho đại nhân đó!”
Đỗ Văn Hạo lúc này mới phát hiện ra hắn không biết từ lúc nào trên người có thêm một chiếc áo nữa, chắc là do lúc nãy nằm ngủ viên tiểu thái giám khoác lên cho hắn khỏi lạnh.
Đỗ Văn Hạo kinh ngạc hỏi: “Sao cơ? Cầm Nhi vào trong cung rồi sao?”
“Vâng! Phu nhân đang ở ngoài cổng, lão nô lúc đó đang trên đường về cung, khi đi qua cửa cung thì gặp phu nhân ở đó, phu nhân nói Tư Mã đại nhân...”
Đỗ Văn Hạo vừa nghe đến đây thì cảm thấy lo lắng muôn phần, lẽ nào bệnh tình của Tư Mã Quang có tín hiệu xấu hay sao? Nếu không phải như vậy thì Cầm Nhi không bao giờ vội vàng vào trong cung để tìm mình cả, Đỗ Văn Hạo nghe thấy vậy bèn nói: “Hả? Có phải bệnh tình của Tư Mã đại nhân xấu đi rồi không? Vậy thì công công nên nói sớm cho bổn quan biết chứ, bổn quan phải đi luôn đây, bổn quan phải ra nói trước cho Ninh công công biết một câu, sau đó bổn quan sẽ ra khỏi cung ngay!”
Diệp công công nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy, bèn kéo tay hắn lại mỉm cười nói: “Đỗ đại nhân nghe lão nô nói xong cái đã!”
“Vừa đi vừa nói không được sao?” Giọng của Đỗ Văn Hạo vô cùng sốt ruột và lo lắng, đang định chạy đi thì Diệp công công lại kéo hắn lại, Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì lại càng cuống hết cả lên.
“Thôi được rồi, vậy thì Đỗ đại nhân cứ đi tìm Ninh công công trước vậy, nhưng đừng có nói là bệnh tình của Tư Mã đại nhân có biến cố nhé, bởi vì người bị bệnh là phu nhân của Tư Mã đại nhân!”
“Hả? Không phải Tư Mã đại nhân sao? Công công làm bổn quan lo sốt vó lên rồi đây này!” Đỗ Văn Hạo thở phào nhẹ nhõm, sau đó dừng chân lại không chạy đi đâu nữa cả.
Diệp công công lúc này mới tiến tới nói tiếp: “Đại nhân vẫn chưa kịp nghe hết lời của lão nô nói đã vội vội vàng vàng đòi đi rồi, nghe phu nhân của đại nhân nói rằng Tư Mã đại nhân đang hồi phục rất tốt, giờ có thể tự xuống giường đi lại được rồi, mặc dù vẫn cần có người dìu đỡ, nhưng phu nhân của Tư Mã đại nhân do mệt mỏi quá độ mà cũng ngã bệnh rồi. Nghe phu nhân nói là cao đồ của Đỗ đại nhân đã chữa trị cho bà ấy nhưng lại không có kết quả gì cả!”
Đỗ Văn Hạo nói: “Tư Mã Phu nhân bị bệnh chắc không phải là bệnh tầm thường, nếu không Cầm Nhi cũng không vội vã chạy đến đây làm gì, bổn quan phải quay về xem một chuyến mới được. Dù gì thì Hoàng Thượng cũng đang phải bàn chuyện quân cơ, có lẽ đến tối mới xong, bổn quan đi tìm Ninh công công nói trước vài câu cái đã.”
Đỗ Văn Hạo tìm đến bên Ninh công công hỏi chuyện của Hoàng Thượng đã tiến triển ra sao rồi, hắn nghe nói bên trong đó đang bàn tán xôn xao, vô cùng quyết liệt, không biết đến bao giờ mới xong. Đỗ Văn Hạo bèn đem chuyện phu nhân của Tư Mã Quang bị bệnh nói cho Ninh công công biết, Ninh công công nghe xong bèn nói: “Chỗ Hoàng Thượng hiện giờ cũng chẳng có vấn đề gì, Đỗ đại nhân cứ quay về trước chữa bệnh cho phu nhân của Tư Mã đại nhân trước đi đã, sau đó quay lại đây cũng được, lão nô sẽ chờ đại nhân ở đây!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong liền gật đầu cảm ơn, sau đó vội vội vàng vàng lên kiệu ra khỏi cung, quả nhiên Bàng Vũ Cầm đã đứng đợi hắn ở cổng cung tự lúc nào, sau vài câu hỏi đơn giản, hai người bèn cùng nhau quay về Ngũ Vị Đường.
Đỗ Văn Hạo đi vào trong phòng bệnh của Tư Mã Quang, hồi trước hắn cho Ngô Thị chăm sóc Tư Mã Quang, nên cũng chuẩn bị cho nơi này thêm một chiếc giường. Ai ngờ, vì chăm sóc cho Tư Mã Quang mà phu nhân của ông ấy đã ngã bệnh nằm luôn trên cái giường đó.
Lúc này Đỗ Văn Hạo chỉ trông thấy Tư Mã Quang đang ngồi trên chiếc ghế gần giường, Tuệ Nhi thì buồn bã quỳ ngay phía trước giường, còn Ngô Thị thì đang nằm trên đó, hai mắt nhắm nghiền hơi thở yếu ớt.
“Đỗ đại nhân, đại nhân đã về rồi! Mẫu thân!” Tuệ Nhi trông thấy Đỗ Văn Hạo đi vào trong phòng bèn vội vã đứng dậy, khập khiễng đi đến bên hắn, sau đó lại quay lại nhìn mẫu thân của mình đang nằm trên giường, nàng chỉ nói lên được mấy câu mà mắt đã đỏ hoe, nấc nghẹn lên.
Đỗ Văn Hạo đi đến bên giường rồi ngồi xuống, hắn thấy Tuệ Nhi thương tâm như vậy, bèn lên tiếng an ủi: “Đừng lo lắng quá! Để ta xem xem thế nào đã!”
“Vâng!” Huệ Nhi nghe xong liền đứng sang một bên chờ đợi.
“Cầm Nhi, lúc trước có phải Diệu Thủ khám bệnh cho phu nhân không?”
“Vâng, thiếp đã cho người đi gọi Diệu Thủ đến đây ngay bây giờ đây!”
Bàng Vũ Cầm vừa nói xong câu này, thì đã nghe thấy có tiếng nói từ bên ngoài vọng vào: “Sư tổ! Người đã về rồi!”
Đỗ Văn Hạo quay đầu ra cửa thì đã thấy đồ tôn của hắn Diêm Diệm Thủ đang bước vào trong này.
Đỗ Văn Hạo đưa tay lên khoát khoát ra ý bảo Diệu Thủ không nói gì vội, sau đó hắn quay sang nhẹ nhàng hỏi Ngô Thị: “Lão phu nhân, phu nhân nói cho tại hạ biết chỗ nào không được khỏe?”
Giọng của Ngô Thị yếu ớt, đứt quãng trả lời: “Ta thấy hơi mệt, toàn thân nóng bừng!”
Đỗ Văn Hạo lại dò xét cẩn thẩn sắc mặt của bà ta, thì thấy mặt của Ngô Thị đỏ ối, đưa tay lên trán thì thấy nóng như nước sôi, Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn nói: “Lão phu nhân, phu nhân đưa lưỡi ra cho tại hạ xem xem!”
Ngô Thị nghe xong bèn há miệng cho Đỗ Văn Hạo xem lưỡi, hắn đưa mắt ngó vào thì thấy màng lưỡi trắng có một lớp màu lợt trắng nhờn nhờn dính trên đó.
Đỗ Văn Hạo xem xong bèn nói: “Lão phu nhân muốn uống nước không? Để tại hạ bảo Tuệ Nhi đi pha ít nước cho lão phu nhân uống nhé, được không?”
Tuệ Nhi nghe xong định tự mình đi lấy nước thì bỗng nghe thấy Ngô Thị lên tiếng nói: “Đúng là ta có khát nước, nhưng ta không muốn uống đâu. Đừng đi lấy nữa, để ta ngủ một chút rồi sẽ khỏe lại ngay thôi!” Ngô Thị nói xong liền nhắm luôn mắt lại.
“Mẫu thân!! Mẫu thân đừng ngủ nữa, mẫu thân đã ngủ như vậy hai ngày rồi, Đỗ đại nhân đang hỏi mẫu thân đó, mẫu thân đừng ngủ nữa!” Tuệ Nhi đứng bên cạnh đó lên tiếng, nước mắt nàng cũng lăn theo lời nói của nàng, tuôn rơi lã chã.
Đỗ Văn Hạo nghe Tuệ Nhi nói vậy cũng kinh ngạc vô cùng: “Hai ngày? Lão phu nhân đã ngủ được hai ngày rồi sao?”
“Cũng không hẳn là như vậy, ngày hôm trước thì không đến nỗi, nhưng đêm hôm qua thì nặng hơn hẳn, mẫu thân cứ ngủ vùi như vậy cho đến tận bây giờ, chính vì vậy tiểu nữ mới bảo Bàng phu nhân đi mời đại nhân về!”
“Diệu Thủ! Ngươi xem bệnh cho lão phu nhân từ lúc nào vậy?”
Diêm Diệu Thủ đáp: “Là ngày hôm trước, trưa hôm đó sư tổ vào trong cung vậy nên đồ tôn đã xem bệnh thay cho sư tổ, từ đó đến nay đồ tôn đã xem bệnh tổng cộng là hai lần hôm trước và hôm qua, mỗi hôm một lần.”
“Khi đó bệnh tình của lão phu nhân ra sao?”
Tuệ Nhi đáp: “Khi mới bắt đầu, thì chỉ thấy mẫu thân hơi có hiện tượng sốt cao, sau đó Diêm đại phu kê thuốc cho mẫu thân uống thì đêm hôm đó mẫu thân toàn thân đều ướt nhẹp, do ra mồ hôi ra quá nhiều ngấm vào hết quần áo, chính vì vậy mà cả đêm mẫu thân không ngủ được cho đến tận sáng hôm nay. Tiểu nữ vốn định bảo Đỗ đại nhân đến xem thế nào thì nghe hôm nay Đỗ đại nhân có việc vào trong cung không có thời gian rảnh rỗi, do vậy tiểu nữ định chờ đến đêm nay đại nhân quay về xem thế nào, nhưng không ngờ mới đến trưa ngày hôm nay thì bệnh tình của mẫu thân lại quá nặng, thở ra nhiều hơn là hít vào, gọi mãi mà không tỉnh lại, do lo lắng quá mới nghĩ đến việc vào trong cung tìm đại nhân quay về xem xem.”
Đỗ Văn Hạo quay sang Diêm Diệu Thủ hỏi: “Diệu Thủ, ngươi đem phương thuốc của ngươi kê cho lão phu nhân ra đây cho ta xem nào!”
Diêm Diệu Thủ liền móc trong người ra phương thuốc, hai tay dâng đến cho Đỗ Văn Hạo xem.
Đỗ Văn Hạo xem một lúc rồi thở dài đứng dậy đi ra cái bàn giấy ở góc phòng, Tuệ Nhi trông thấy vậy cũng đi theo sau hắn rồi chuẩn bị hết bút nghiên, đứng cạnh mài mực, rất nhanh Đỗ Văn Hạo đã viết xong đơn thuốc rồi đưa cho Diêm Diệu Thủ.
Diêm Diệu Thủ đưa lên xem một cái thì kinh ngạc vô cùng, đang định mở miệng hỏi thì thấy Đỗ Văn Hạo đã khoát khoát tay ra hiệu, Diêm Diệu Thủ chỉ biết im lặng đi ra ngoài tiền đường để bốc thuốc.
Rất nhanh thuốc đã được đun xong, Tuệ Nhi liền cầm lấy bón cho mẫu thân của mình uống.
Đến tầm chiều chiều chập choạng tối, cơn sốt trong người của Tư Mã phu nhân cũng đã thuyên giảm, người cũng bắt đầu tỉnh táo trở lại.
Tư Mã Quang trông thấy thì mừng rỡ vuốt vuốt bộ râu của mình, cảm ơn Đỗ Văn Hạo rối rít, còn Tư Mã Dung và Tuệ Nhi cũng nước mắt ngắn nước mắt dài tạ ơn hắn.
Đỗ Văn Hạo trông thấy Diêm Diệu Thủ vẫn đang vô cùng thắc mắc, bèn cười nói: “Ngươi nói xem, ngươi biện chứng chữa bệnh cho lão phu nhân thế nào?”
“Thưa sư tổ! Đồ tôn thấy lão phu nhân tai mặt đỏ ối, sốt cao không ngừng, thì biện chứng nó là Ôn Nhiệt Chứng, phương thuốc đầu tiên thì khai bài thuốc Trà Ngôi Dược. Nhưng sốt vẫn không giảm, đồ tôn lại biện chứng tiếp có lẽ lão phu nhân là Âm Hư Nội Nhiệt, lại khai bài thuốc có Sanh Địa, Thạch Giải cùng với rất nhiều bài thuốc hàn lạnh khác, nhưng lão phu nhân lại càng sốt nặng thêm, cả đêm vì thế mà không ngủ được, mồ hôi ra nhiều, thở gấp, đồ tôn ngu muội không biết bệnh tình của lão phu nhân rốt cuộc là ra sao nữa!”
“Ừm! Vậy ngươi có để ý thấy tuy lão phu nhân sốt cao như vậy, nhưng lại không thấy khó chịu bên trong không?”
Diêm Diệm Thủ nhất thời trợn tròn mắt cũng không hiểu tại sao.
Đỗ Văn Hạo cười nói: “Khi nãy ta hỏi lão phu nhân có khát nước không, tuy là lão phu nhân có nói là khát, nhưng lại nhất quyết không chịu uống nước, điều này chứng tỏ rằng bệnh chứng của lão phu nhân không phải là Ôn Nhiệt, ngươi lẽ nào mấy ngày hôm nay không để ý sao? Mấy ngày hôm nay khí trời âm u mù mịt, mưa dầm cũng lâu, chỗ nào cũng có mùi ẩm mốc, người ở trong phòng rất dễ cảm nhận sự ẩm thấp khó chịu, vậy nên phải thanh nhiệt để hóa giải sự ẩm thấp đó. Nhưng ngươi lại dùng các bài thuốc có vị hàn lạnh, như vậy càng làm cho sự ẩm thấp bên trong bị chế ngự không thông thoát ra ngoài cơ thể được. Sau đó ngươi lại chẩn đoán là Âm Hư Nội Nhiệt, như vậy càng làm tăng thêm ẩm nhiệt trong cơ thể, vì thế nên lão phu nhân mới ra nhiều mồ hôi, thở gấp như vậy, chỉ cần kê đơn thuốc có các vị Quế, Gừng thì dương khí sẽ được thông suốt, người lúc đó cũng sẽ khỏe lên nhất nhiều!”
Diêm Diệu Thủ lúc này mới ngộ ra được, cúi người nói: “Phương pháp của sư tổ quả nhiên kỳ diệu!”
“Không phải là phương pháp của ta kỳ diệu, mà là khi biện chứng thì không thể giới hạn trong các loại bệnh ở bản thân của người bệnh được, có lúc phải tham khảo những yếu tố xung quanh người bệnh nữa, như vậy mới biện chứng chính xác được!”
Đỗ Văn Hạo dạo gần đây rất bận, trong cung ngoài cung hắn đều phải lo hết, chạy đi chạy lại, khó khăn lắm mới lo xong việc chữa bệnh cho Tư Mã Quang thì lại lo lắng sức khỏe của Hoàng Thượng, thế nên hắn phải lên xe vào lúc nửa đêm để vào cung khám bệnh.
Sau chuyện Lưu Quý Phi giả vờ có thai, Đỗ Văn Hạo lĩnh ngộ được một đạo lý trong chuyện này, đó là chuyện của mấy chị em trong cung thì hắn càng ít tiếp xúc vào càng tốt, ai cũng nói tâm tư của người phụ nữ như kim trong bể, làm cho người khác chẳng biết đâu mà lần. Ngày trước Đỗ Văn Hạo cho rằng Dụ Cáp Nhi là một người con gái không bị nhiễm thói hư tật xấu trong cung, nhưng sau đó hắn phát hiện ra rằng, người con gái nào đã được Ninh công công ngắm phải, và được ba người cầm đầu Hậu Cung yêu quý thì không hề đơn giản chút nào. Có lẽ nàng ta trước mặt người khác giả vờ ngoan hiền, không tranh giành với ai bao giờ, nhưng thực chất trong lòng nàng ta lại còn muốn tranh giành hơn người khác rất nhiều.
Dụ Cáp Nhi có lẽ biết Đỗ Văn Hạo cố ý lảng tránh khỏi phải gặp mình, hai tháng đã trôi qua rồi cũng không đến làm phiền, cho dù có đồ gì muốn đem đến cho Lâm Thanh Đại, cũng đều nhờ thái giám ở trong cung trực tiếp đem đến cho Ngũ Vị Đường.
Đỗ Văn Hạo nghe Ninh công công nói mấy ngày trước Dụ Cáp Nhi xuất cung cùng Thái Hoàng Thái Hậu đi thắp hương, trên đường về chẳng may bị nhiễm mưa lạnh cũng đều gọi Thái Y khác đến xem bệnh, Hoàng Thượng trông nàng ta ngày càng gầy gò ốm yếu thì lại càng thấy thương tâm, đau lòng vô cùng, mấy lần định gọi Đỗ Văn Hạo đến chữa trị, nhưng đều bị nàng khéo léo khước từ.
Đỗ Văn Hạo nghĩ tốt nhất là cả đời này nàng ta cũng đừng tìm đến hắn nữa, nhưng không ngờ hắn mới nghĩ vậy thôi mà hai ngày gần đây đều không may bắt gặp nàng trên đường.
Chuyện này muốn nói thì cũng nên bắt đầu từ chuyện của một người họ Triệu, chức Tiệp Trữ mới được Hoàng Thượng sủng ái.
Ngày mùng năm tháng sáu, cũng vừa vặn là ngày sinh nhật của Triệu Tiệp Trữ vừa tròn mười bảy tuổi, có lẽ mới là người được Hoàng Thượng ân sủng, nên cũng có vẻ dương dương tự đắc. Nàng ta trước đó một tháng đã rêu rao rằng sẽ tổ chức một bữa tiệc sinh nhật cho ra trò, theo luật lệ trong cung thì bắt đầu từ Thái Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thái Hậu và Hoàng Hậu trở xuống đến các phi tử khác ở trong cung, không được phép tổ chức sinh nhật. Nhưng Hoàng Thượng vì nghĩ nàng ta mới xa nhà nên cũng nhún vai đồng ý mà thôi. Bởi vì nàng ngày nào cũng vậy, cứ mặt mày ủ rũ không cười không nói gì cả, nên Hoàng Thượng mới mềm lòng đồng ý cho nàng tổ chức sinh nhật, những Phi Tần khác thì còn lâu mới có được đặc cách như vậy. Vị Triệu Tiệp Trữ này dĩ nhiên là không thể bỏ qua cơ hội mà có khi cả đời cũng khó mà có được này, nàng ta cho mời hết những vị quan trong triều có chức tam phẩm trở lên, Đỗ Văn Hạo cũng nằm trong số được nàng ta mời đến.
Ngày hôm đó, trời cũng khá đẹp, trong khuôn viên của Triệu Tiệp Trữ đều rộn ràng ánh náng, hoa tươi đua nở, chim ca ríu rít vô cùng vui vẻ, đèn đỏ được treo từ bên ngoài vào sâu tít trong hậu viện, con sư tử đá bên ngoài cổng cũng được buộc vào cổ một bông hoa màu đỏ to tướng, trong phòng giờ đây như được biến thành một màu đỏ lan rộng khắp mọi nơi.
Khi Đỗ Văn Hạo mới đến đây hắn cứ tưởng giờ đây hẳn rất đông người, dù sao thì Triệu Tiệp Trữ cũng là người được Hoàng Thượng rất sủng ái, các quan lại trong triều không nể mặt nàng thì cũng phải nể mặt Hoàng Thượng nữa chứ, ai ngờ lúc này người cũng không phải đông lắm, chỉ lèo tèo vài mống người lác đác ngồi tản mác ở đình, và trong mấy phòng chờ nói chuyện với nhau.
“Đỗ đại nhân đến!” Người canh cửa tẩm cung của Triệu Tiệp Trữ trông thấy Đỗ Văn Hạo đến thì hô lên thông báo.
Đỗ Văn Hạo đến chỗ bàn giấy gần đó ghi danh tính mình vào đó, rồi đặt lễ vật xuống tiến vào trong cung, đột nhiên hắn nghe thấy phía sau có người gọi hắn, Đỗ Văn Hạo bèn dừng chân đứng lại ngoảnh đầu nhìn ra phía sau.
Hắn chỉ trông thấy một người mặc một bộ váy tơ tằm uyên ương nguyệt nha quần, thanh tao nho nhã, chân đi đôi giầy tú hoa mầu hồng, tóc tết theo kiểu Phi Nguyệt, trên đó còn cắm một chiếc trâm Khổng Tước lấp lánh, nữ tử đó nhoẻn miệng cười tươi đi đến bên hắn nói: “Đỗ đại nhân đến sớm thật đấy!”
Đỗ Văn Hạo lúc này mới nhận ra, nữ tử xinh đẹp đó chính là Dụ Cáp Nhi, phía sau nàng là tên tiểu thái giám Tiểu Tề hai tay bưng lễ vật đứng đằng sau, Đỗ Văn Hạo thấy vậy cũng mỉm cười đáp lại: “Nương nương đến cũng sớm mà!”
Hai người cùng sánh vai bước vào trong cổng, bên trong có một tên thái giám chạy đến tươi cười đưa tay lên thi lễ với hai người: “Mời Dụ nương nương và Đỗ đại nhân lên phòng dùng trà, nương nương của nô tài cũng sắp tới rồi!”
“Không cần làm phiền công công như vậy đâu, ta với Đỗ đại nhân đi đi lại lại trong này cũng được rồi, nghe nói hoa viên của Triệu nương nương rất đẹp, ta muốn vào trong đó xem không biết có được không?” Dụ Cáp Nhi nói xong thì đưa mắt ra bốn phía dò xét, không hề để ý vị công công trước mắt thêm một lúc nào nữa.
“Dĩ nhiên là được ạ! Để nô tài đưa hai vị đi xem”, tên tiểu thái giám trả lời.
Dụ Cáp Nhi nghe thấy vậy bèn khoát khoát tay nói: “Không cần đâu! Hôm nay ngươi cũng bận rồi, chúng ta tự mình đi được, chỉ cần ngươi không lo lắng về chuyện chúng ta chẳng may dẫm phải những kỳ hoa dị thảo trong hoa viên của Triệu nương nương là tốt rồi, ta nói vậy có đúng không Đỗ đại nhân?”
Đỗ Văn Hạo cũng không tiện từ chối lời mời thịnh tình của Dụ Cáp Nhi trước mặt người khác, nên cũng đành phải gật đầu đồng ý.
Viên tiểu thái giám thấy vậy vội vã gọi đến một đứa cung nữ nói: “Vậy mời hai vị cứ tự nhiên, lát nữa mời nương nương và Đỗ đại nhân đến phòng Nhược Đồng ở phía đông dùng bữa, mong nương nương và Đỗ đại nhân đừng bỏ lỡ, Hoàng Thượng cũng sẽ đến đó ạ!!!”
Dụ Cáp Nhi nở một nụ cười nhạt, trong ánh mắt của nàng hiện rõ lên vẻ hờ hững hơn bao giờ hết.
“Nghe nói mấy ngày trước sức khỏe nương nương không được tốt lắm, không biết hôm nay thế nào rồi, đã khỏe lại chưa?” Đợi cho viên thái giám kia đi rồi thì Đỗ Văn Hạo và Dụ Cáp Nhi dưới sự dẫn dắt của đứa cung nữ nọ, một bên chào hỏi những quan lại đi ngược chiều đến, một bên bước vào trong hoa viên của Triệu Tiệp Trữ.
“Tiểu muội vẫn chưa thể quen được cái khí hậu miền bắc này, lúc nóng lúc lạnh, chẳng thể nào thoải mái dễ chịu bằng được thời tiết của Giang Nam, hơn nữa thời tiết miền bắc còn vô cùng ẩm ướt, chính vì thế mà tiểu muội toàn mắc phải mấy cái bệnh lặt vặt, may mà vấn đề không lớn lắm, uống vài thang thuốc là khỏe lại rồi, không có gì đáng ngại lắm.” Dụ Cáp Nhi vừa nói, vừa đưa tay lên hái lấy một bông hoa màu vàng bên đường đưa lên mũi ngửi.
“Xin lỗi nương nương! Loại hoa này nương nương của nô tỳ không cho phép….” Đứa cung nữ đi cùng hai người đứng cạnh đó e dè lên tiếng.
Dụ Cáp Nhi nghe xong quay lại nhìn đứa cung nữ đó một cái, đứa cung nữ nọ trông thấy ánh mắt sắc như dao của nàng thì hồn phách lên mây, sợ quá không dám nói thêm câu nào nữa, đứa cung nữ giờ đây do sợ hãi mà đã cố tình bước chân chậm lại cách Đỗ Văn Hạo và Dụ Cáp Nhi một đoạn khá xa.
“Vậy thì tốt, nương nương cũng nên chú ý đến sức khỏe của mình hơn.” Đỗ Văn Hạo giờ đây tận mắt trông thấy Dụ Cáp Nhi cầm bông hoa khi nãy trong tay đang từng cánh hoa một ngắt vứt xuống dưới đường, sau đó lại đặt nó vào trong lòng bàn tay, nắm chặt lại đến cho nát nhừ rồi tung vứt nó lên cao, vung vãi khắp vườn.
Đỗ Văn Hạo nhìn vậy thì có chút băn khoăn nhưng vẫn không nói gì. Khi hai người đi đến một ngã ba trong vườn, đứa cung nữ nọ mới vội chạy đến cúi người, lấy hết can đảm nói: “Bẩm nương nương, bên trái là hậu hoa viên rồi!”
Dụ Cáp Nhi khó chịu đưa tay lên khoát khoát hai cái, đứa cung nữ nọ biết ý bèn lùi lại ra phía sau.
Đỗ Văn Hạo đã muốn tìm cớ tách ra từ lâu, thấy đứa cung nữ lùi xuống như vậy đang định mở miệng thì nghe thấy Dụ Cáp Nhi thở dài lên một tiếng ngẩng đầu lên nhìn hắn, Đỗ Văn Hạo phát hiện ra trong mắt của nàng phút chốc đã nước mắt nhạt nhòa, sắc mặt trở nên đáng thương vô cùng.
“Tiểu muội biết Đỗ đại ca giờ đây rất sợ muội, lần trước việc của Lưu Quý Phi tiểu muội đã làm liên lụy đến Đỗ đại ca, cũng may là vẫn chưa có chuyện gì xảy ra, nhưng mà…”
Đỗ Văn Hạo không chờ cho Dụ Cáp Nhi nói xong bèn cướp lời nói: “Nương nương không cần phải tự trách mình như vậy, lỗi cũng tại vi thần, tại sao vi thần dám trách nương nương được cơ chứ?”
Hai mắt của Dụ Cáp Nhi ánh lên, hai dòng nước mắt bắt đầu lại lăn dài trên má chảy xuống dưới cằm, trông vô cùng đáng thương.
Phàm là nam nhi, bất cứ ai trông thấy nữ nhi với đôi mắt long lanh và dòng nước mắt lấp lánh vậy chắc cũng không tránh được niềm thương cảm. Đỗ Văn Hạo nhất thời không biết nên nói thế nào, hắn suy nghĩ một chút rồi bất giác mỉm cười, khiến Dụ Cáp Nhi ngạc nhiên nói: “Đỗ đại ca cười gì vậy?”
Đỗ Văn Hạo ra ý bảo nàng và hắn tiếp tục đi tiếp, vì có người nào đó từ con đường khác đang tiến lại gần đây, Dụ Cáp Nhi đành phải kín đáo quay người nghiêng ra rồi rút khăn tay lau nước mắt đi, rồi đi theo Đỗ Văn Hạo.
“Đỗ đại ca, đại ca vẫn chưa nói tại sao đại ca lại cười như vậy, có phải do tiểu muội vừa khóc nên chảy hết son phấn hóa trang trên mặt không?”
Đỗ Văn Hạo lắc lắc đầu cười nói: “Không phải, vi thần trông thấy nương nương tội nghiệp như vậy đột nhiên nhớ đến một câu thơ!”
Dụ Cáp Nhi cũng là một người yêu thích thơ phú, nên khi nghe Đỗ Văn Hạo nói như vậy bèn vội vàng hỏi: “Thật sao? Là bài thơ nào vậy? Do ai viết?”
Đỗ Văn Hạo thấy Dụ Cáp Nhi hứng thú như vậy bèn lúc lắc cái đầu đọc bài thơ đó lên: “Năm ngoái giọt lệ tương tư chảy, đến hết năm nay mới tới cằm. Câu thơ này vi thần nghĩ nương nương đã nghe qua rồi, đúng không?”
Nhưng không ngờ Dụ Cáp Nhi gương mặt ửng đỏ đưa tay lên che miệng của mình, đưa mắt lên liếc Đỗ Văn Hạo một cái, rồi cúi đầu xuống thấp giọng nói: “Đây là thơ của ai vậy? Tại sao tiểu muội chưa từng nghe ai nói đến bao giờ cả, có phải là của Đỗ đại ca tự làm ra để chế nhạo muội đó không?”
Đỗ Văn Hạo kêu á lên một tiếng rồi đáp: “Đây là do Tô Tiểu Muội em gái của Tô Đông Pha Tô Thức làm đó, vi thần cứ tưởng rằng nương nương nghe qua rồi chứ!”
Dụ Cáp Nhi nghe Đỗ Văn Hạo giải thích như vậy, cũng biết có bài thơ như thế, nên cũng cười gượng nói: “Tiểu muội đúng là rất thiếu hiểu biết, vậy Đỗ đại ca hãy thử đọc cho tiểu muội nghe xem, muội cũng muốn biết nguyên văn của cả bài thơ đó có ý là gì nữa!”
Đỗ Văn Hạo dò xét Dụ Cáp Nhi một cách thận trọng, Dụ Cáp Nhi thấy hắn nhìn mình như vậy bất giác tức giận nói: “Xem Đỗ đại ca kìa, tiểu muội không ăn thịt đại ca đâu mà lo, muội cũng biết điều đại ca nói là sự thật, bài thơ đó cũng là có thật, Đỗ đại ca cứ đọc nguyên văn cả bài thơ đó ra đi, muội không tức giận đâu.”
Đỗ Văn Hạo nghe xong mới bắt đầu nói: “Tô Đông Pha và em gái của mình rất hay trêu ghẹo nhau. Đông Pha trên miệng có một bộ râu nên em gái ông ta thấy vậy mới chọc rằng: ‘Muốn gõ vào răng mà không thấy, chỉ nghe thấy tiếng từ râu ra.’ Còn Tiểu Muội của Đông Pha thì lại trán dô nên Đông Pha mới chế giễu rằng: ‘Chưa ra khỏi đình dăm ba bước, trán thì đã chạm ngay cổng rồi.’ Tiểu Muội lại cười nhạo chiếc cằm dài của Tô Đông Pha rằng: ‘Năm ngoái giọt lệ tương tư chảy, đến hết năm nay mới tới cằm.’ Tô Đông Pha lại thấy đôi mắt của Tiểu Muội hơi sâu vào trong nên đáp lại rằng: ‘Mấy lần rửa mặt khó lắm thay, chỉ vì hai mắt hõm ao này..”
“Ha ha ha!!! Tiểu muội hôm nay đúng là được mở rộng tầm mắt rồi, muội nhất định phải kể cho Hoàng Thượng nghe mới được, nhưng cằm của muội lại không dài như vậy, tại sao Đỗ đại ca lại cười muội như thế chứ?”
“Thực ra vi thần không phải cười nương nương đâu, vi thần sao dám cười nhạo nương nương cơ chứ? Vi thần chỉ không muốn nương nương không vui như vậy thôi, chính vì vậy nên vi thần mới nghĩ ra chuyện cười này để làm cho nương nương vui vẻ hơn mà thôi!”
“Tiểu muội lại thấy rằng Đỗ đại ca chê mặt của muội dài thì đúng hơn đó, Đỗ đại ca đừng có chối như vậy nữa…”
Đỗ Văn Hạo biết Dụ Cáp Nhi cũng đang đùa lại mình nên cũng vui vẻ đáp lại: “Nếu như mặt của nương nương mà dài như vậy thì e rằng nước mắt tương tư của viên thái giám canh cổng của nương nương chắc phải mười năm nữa mới chảy xuống cằm được mất!”
Dụ Cáp Nhi nghe xong thì cười lăn cười bò, hai người lại tiếp tục đi đến bên một dãy hành lang dài, chỗ này toàn một màu hoa tường vi màu trắng hồng, hương thơm tỏa ra thơm mát.
“Tiểu muội cứ tưởng rằng Đỗ đại ca không còn biết trêu đùa muội vui vẻ như vừa rồi nữa đấy.” Tuy câu nói này của Dụ Cáp Nhi có vẻ ngẫu hứng, nhưng trong lời nói lại tràn đầy vẻ cảm kích.
“Vi thần không dám!”
Dụ Cáp Nhi đi đến đây, đột nhiên dừng chân lại, chỗ nàng đứng vừa vặn có một cành hoa rơi đúng vào bờ vai của nàng, rồi nàng đưa một cái nhìn sâu lắng về phía Đỗ Văn Hạo nói: “Đừng có trước mặt muội mở miệng ra là vi thần vi thiếc mãi như vậy, muội coi huynh là huynh trưởng của muội, mong Đỗ đại ca đừng như vậy nữa. Hôm trước Đỗ đại ca mượn cớ về trước, không muốn nghe tiểu muội nói về mấy chuyện ngày xưa nữa, muội biết đại ca không muốn ở gần muội thêm một phút nào nữa. Sau đó, muội cũng về suy nghĩ rằng tại sao Đỗ đại ca lại có thể xưng hô tỉ đệ với Chu Đức Phi nương nương được, nhưng với muội thì không thể xưng hô huynh muội được cơ chứ?”
Đỗ Văn Hạo không biết nói gì nữa cả, bời vì hắn cũng chẳng biết nên nói thế nào cho phải cả.
Dụ Cáp Nhi vẫn tiếp tục nói: “Tiểu muội vốn cũng định không làm phiền Đỗ đại ca nữa, cứ để sự việc tiển triển theo cách tự nhiên vốn có sẵn của nó, nhưng hôm nay trông thấy Đỗ đại ca ở ngoài cổng, không biết tại sao, tiểu muội muốn cho Đỗ đại ca biết rằng muội đối xử với ai cũng không giống như đối xử với Lưu Quý Phi.”
“Nương nương hơi quá lời rồi, vi thần không có ý gì khác cả, chỉ là gần đây nương nương cũng biết rồi đấy, vi thần bận hết việc trong cung rồi lại đến ngoài cung, không thể nào lo lắng hết cho xuể được, mong nương nương thông cảm cho vi thần.” Đỗ Văn Hạo đúng là không muốn ở bên cạnh Dụ Cáp Nhi thêm một phút nào nữa, hắn bây giờ chỉ mong có một người nào đó chạy ra gọi hắn đi ăn cơm cho nó nhẹ nợ, hắn cũng chẳng muốn quan tâm đến chuyện Dụ Cáp Nhi nói, cũng chẳng muốn có thêm một người em gái như vậy nữa. Có những lúc một người con trai thích hoặc không thích một ai đó thì cũng chẳng có lý do nào hết cả. Thích thì là thích, không thích thì chỉ là không thích, đơn giản vậy thôi.
“Đỗ đại ca có biết không? Khi một người đánh mất người mà mình yêu quý nhất sẽ muốn làm điều gì nhất không?” Dụ Cáp Nhi có lẽ cũng không thích nhìn khuôn mặt quan trường của Đỗ Văn Hạo nữa, nên mới quay đầu đi nói câu như vậy.
Đỗ Văn Hạo lặng thinh không nói, ngươi không phải rất yêu Hoàng Thượng đó sao? Lẽ nào ngươi đã thay đổi, lẽ nào ngươi lại yêu ta sao?
Đỗ Văn Hạo nghĩ ngợi một lúc rồi ngập ngừng nói: “Vi thần chưa có cảm giác đó, vi thần thật sự không biết là sẽ làm như thế nào cả!”
“Nếu như lúc sáng sớm đại ca mới bước ra khỏi nhà, thì Thanh Đại tỷ của đại ca nói rằng tỷ tỷ sẽ chờ đại ca đến tối đi xem hội hoa đăng, nhưng đến lúc đó thì tỷ đã chết rồi, thì đại ca cảm thấy thế nào?”
Đỗ Văn Hạo giật mình cái thót, hắn nói luôn mà không cần suy nghĩ: “Thanh Đại tỷ công phu giỏi như vậy, chắc không có chuyện gì đâu! Nếu có chuyện thì cũng chỉ có vi thần gặp chuyện bất trắc mà thôi!”
Dụ Cáp Nhi nghe xong nhoẻn miệng cười, môi nàng nhếch lên hở một hàng răng trắng bóng, trông nàng ngây thơ trong sáng vô cùng, Đỗ Văn Hạo lại cảm nhận được Dụ Cáp Nhi đã lại quay về là chính nàng khi xưa, khi hắn mới quen biết nàng.
“Muội biết đại ca rất thương Thanh Đại tỷ, đại ca chỉ mong chuyện xấu nhất xảy ra với mình, chứ cũng không đành lòng để chuyện xấu xảy ra trên người của Thanh Đại tỷ cả.”
“Đó là điều dĩ nhiên rồi.” Đỗ Văn Hạo trả lời chắc nịch.
Ánh mắt của Dụ Cáp Nhi dần dần ảm đạm hẳn xuống, nàng chẳng buồn đi nữa, mà ngồi luôn hẳn xuống chiếc ghế gỗ trong dãy hành lang này, trong mắt nàng hiện lên sự buồn bã vô bờ.
“Tiểu muội nhớ rằng, muội đã kể cho đại ca nghe muội có một người anh trai cũng trạc tuổi Đỗ đại ca, muội và anh trai mình sống với nhau từ bé, huynh ấy rất tốt với muội.”
Thanh Mai Trúc Mã ư? Vậy tại sao không cưới luôn trước khi bị vào cung chứ? Có lẽ không phải là anh ruột của ngươi. Đỗ Văn Hạo nghĩ bậy bạ lung tung như vậy, vì hắn đọc được trong ánh mắt của Dụ Cáp Nhi một tình yêu đã chôn sâu tận đáy lòng. Xem ra hắn đã có một phen ăn dưa bở rồi! Nhưng Đỗ Văn Hạo từ trước đến giờ chưa một lần hẳn hoi nghe Dụ Cáp Nhi kể chuyện riêng của nàng cho hắn bao giờ cả, vậy nên khi nghe nàng nói vậy cũng ậm ừ đồng ý.
“Huynh ấy là con trai của cô cô của muội.”
Đỗ Văn Hạo sửng sốt, mắt hắn mở to ra, không phải chứ, cô cô của Dụ Cáp Nhi không phải là thiếp của Vương Gia hay sao? Vậy thì anh trai của nàng cũng là Hoàng Thân Quốc Thích rồi còn gì nữa?
“Hai người chắc yêu nhau lắm phải không?” Đỗ Văn Hạo nhẹ nhàng lên tiếng hỏi.
Dụ Cáp Nhi ngước mắt lên nhìn Đỗ Văn Hạo đang ngồi đối diện ngay trước mặt mình, nàng cười với hắn một cái rồi nói tiếp: “Đỗ đại ca muốn nghe chuyện của tiểu muội rồi sao?”
Đỗ Văn Hạo ngồi đó nghe thấy Dụ Cáp Nhi nói như vậy bất giác cười gượng lên một cái, nhưng trong lòng lại thầm nghĩ, ngươi đã có ý kể chuyện cho ta nghe rồi, thì ta muốn tránh cũng chẳng thoát được, sớm muộn gì cũng phải nghe, thôi thì nghe trước cho nó sớm chợ, nghe xong còn đi ăn cơm, nếu không ăn cơm xong rồi mới nghe chắc là cũng quên béng hết rồi cũng nên, ngươi cứ bày tỏ hết cõi lòng ra cho thoải mái, ta cũng giải phóng luôn đôi tai của ta, đôi bên cùng có lợi.
“Mời nương nương nói tiếp! Vi thần vẫn đang nghe đây.” Đỗ Văn Hạo tìm một chỗ dựa thoải mái, sau đó dựa lưng vào một cái hàng rào bằng trúc, dùng để làm chỗ đỡ cho cây tường vi leo lên, hắn lại còn sợ đang nghe thì gật mất nên hắn ngồi hơi chếch lưng với Dụ Cáp Nhi, như vậy khi hắn không may đang gật gù thì cũng không dễ bị Dụ Cáp Nhi nhìn thấy.
“Sau khi cô cô mất, cha của muội rất lo lắng người đàn bà hại chết cô cô của muội bắt nạt huynh ấy, nên ông đã tìm đến Vương Gia thương lượng, rồi đưa huynh ấy về Giang Nam. Cũng may là sau đó, sự việc hãm hại cô cô của muội bị bại lộ, người đàn bà đó bị đuổi ra khỏi nhà, nghe nói sau này bà ta về làm vợ của một người họ Lưu.”
Đỗ Văn Hạo gật gật đầu, cứ như là đang nghe chăm chú lắm vậy, đến lúc này thì hắn vẫn còn khá tỉnh táo, bỗng có một cơn gió man mát thổi đến, đập vào mặt của hắn, làm hắn đã có đôi chút gật gù buồn ngủ.
“Từ đó trở đi, muội và huynh ấy ngày nào cũng ở bên cạnh nhau, đối xử với nhau rất tốt, rồi cho đến một ngày…Đỗ đại ca, đại ca vẫn nghe muội nói đấy chứ?”
Đỗ Văn Hạo quay đầu lại mỉm cười, một nụ cười quyến rũ có thể làm chết bao nhiêu người, Dụ Cáp Nhi lúc này mới lại nói tiếp: “Cho đến một ngày huynh ấy biến mất, không thấy đâu nữa!!”
Đỗ Văn Hạo lúc này mới bắt đầu chăm chú nghe câu chuyện của Dụ Cáp Nhi, đột nhiên nghe đến câu “huynh ấy biến mất, không thấy đâu nữa!” thì hả lên một tiếng, người ngồi thẳng lên, quay đầu lại nhìn Dụ Cáp Nhi, chỉ thấy khóe mắt của nàng giờ đây đã có một hàng lệ tuôn dài.
“Đúng vậy, huynh ấy không biết đi đâu nữa rồi!”
“Sao lại có thể biến mất được chứ? Một người lớn phải khác một đứa trẻ chứ, huynh ấy khi đó cũng được coi là người lớn rồi chứ nhỉ?”
“Đúng vậy, đó là hồi mùng hai tháng hai năm ngoái, huynh ấy đưa muội cùng nhị ca, tam ca, tứ ca đi ra ngoại ô thả diều, sau đó mấy người bọn muội chơi đùa rất vui vẻ, chơi được một lúc thì huynh ấy đột nhiên biến mất, bọn muội đều không ai hay biết chuyện gì đang xảy ra cả!!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong, cũng thấy câu chuyện của nàng đã đến hồi cao trào, vội quay mặt lại nói: “Sau đó thì thế nào?”
Dụ Cáp Nhi nhất thời nhắm mắt lại, dưới hàng mi mắt đen tuyền của nàng nhỏ xuống hai hàng nước mắt.
“Bọn muội đã đi tìm rồi, thậm chí còn đi báo quan nữa, một tháng sau thì bọn muội tìm ra huynh ấy!”
Đỗ Văn Hạo thở phào nhẹ nhõm nói: “Như vậy thì tốt rồi, có phải là huynh ấy bị bọn cướp bắt đi, rồi đến tống tiền nhà muội không?” Trong đầu Đỗ Văn Hạo đã bắt đầu nghĩ đến những tình huống giống như trong những bộ phim mà hắn đã từng xem ở thời hiện đại.
Dụ Cáp Nhi cười mếu máo, nấc lên đáp: “Nếu như chỉ vì tiền, thì cha của muội chắc chắn sẽ chuộc lại huynh ấy bằng mọi giá, cho dù có khuynh gia bại sản đi chăng nữa, chỉ cần bọn chúng tha cho huynh ấy, thì cha của muội cái gì cũng có thể làm được.”
Đỗ Văn Hạo lại cảm thấy chuyện lại đến hồi gay cấn nên hỏi tiếp: “Rồi sao?”
Dụ Cáp Nhi gật gật đầu, rồi đưa chiếc khăn tay lên lau lau nước mắt, tiếp tục nói: “Khi bọn muội tìm được huynh ấy thì đồng thời cũng tìm được một bức thư nói rằng huynh ấy là con trai của Vương Gia, chính vì vậy nếu không vì huynh ấy thì Vương Gia đã không từ bỏ một người đàn bà tên Ngô Tình rồi, bọn cướp vì báo thù cho người đàn bà tên Ngô Tình này mà đã bắt cóc huynh ấy.”
Đỗ Văn Hạo trông thấy thần sắc của Dụ Cáp Nhi đang từ đau thương bỗng chốc trở nên căm hận, hàm răng trên của nàng cắn chặt vào hẳn môi dưới, cảm giác như máu của môi dưới như sắp trực trào ra đến nơi rồi vậy.
“Bọn chúng cuối cùng cũng đưa thi thể của huynh ấy trả về phải không?” Đỗ Văn Hạo lúc này cũng đã tỉnh cả ngủ, hắn không ngờ rằng Dụ Cáp Nhi lại có một quá khứ đau buồn như vậy.
“Hứ!! Bọn chúng làm gì có chuyện tốt bụng như vậy, bọn muội phát hiện ra xác của huynh ấy nằm bên cạnh mộ của cô cô, khi đó xác của huynh ấy đã thối rữa hết cả rồi, bọn muội đứng cạnh xác của huynh ấy thì mới phát hiện ra bức thư đó!!”
“Vậy thì không đúng rồi, nếu mà đã là ám sát, thì dĩ nhiên bọn chúng sẽ không hy vọng có người biết bọn chúng là hung thủ được, tại sao bọn chúng lại dám cả gan để lại bức thư tự tố cáo mình như thế được?” Đỗ Văn Hạo nghi hoặc hỏi.
“Khi đó quan phủ cũng nghĩ như vậy, sau đó cha của muội cũng đi dò hỏi xem người đàn bà hồi trước bị Vương Gia từ bỏ đích xác tên là Ngô Tình, hơn nữa bà ta còn vào làm vợ của một người ở Giang Tây, người này mà không phải ai khác chính là Tuần Phủ Giang Tây đại nhân.”
“Ý của nương nương là bọn chúng to gan để lại bức thư như vậy vì bọn chúng đã có người đỡ lưng đằng sau, không sợ có người đến trả thù ư?” Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên.
“Việc này sau đó được cha muội dùng tiền mua người điều tra việc này, thì biết được chính người đàn bà Ngô Tình đó đã thuê người trên giang hồ làm việc đó!”
Đỗ Văn Hạo càng nghe thì càng thấy tình tiết chuyện này càng ngày càng giống mấy bộ phim chuyên đi trả thù của Hồng Kông: “Quan phủ không cho người đi tìm bọn chúng ư?”
Dụ Cáp Nhi cười lạnh lên một tiếng đáp: “Quan phủ cũng cho người đi điều tra và quả nhiên phát hiện ra Ngô Tình là người đứng đằng sau vụ việc, sau đó vị Tuần Phủ đại nhân cho người đến khuyên giải cha của muội nói rằng huynh ấy dù sao cũng không phải con đẻ của ông, rằng Vương Gia bây giờ cũng chẳng để ý đến huynh ấy nữa, và hơn nữa mẫu thân của huynh ấy cũng đã qua đời, và chúng ta cũng chẳng thể đấu lại nổi vị Tuần Phủ đó, nghe nói Tuần Phủ đại nhân có một người anh làm quan rất to trong triều đình.”
“Vậy sau khi nương nương vào cung thì đã biết ai là người làm quan to đó chưa vậy?”
Dụ Cáp Nhi thở dài một cái, rồi quay sang Đỗ Văn Hạo cười nói: “Nếu như muội mà nói ra, thì về sau Đỗ đại ca đã là đại ca thật sự của muội rồi, vì chúng ta khi đó đã là người cùng hội cùng thuyền rồi, đại ca có đồng ý gia nhập không?”
Đỗ Văn Hạo không trực tiếp trả lời nàng, mà lại hỏi ngược lại: “Vi thần chỉ muốn hỏi nương nương một điều rằng, nương nương hiện giờ và Dụ Cáp Nhi ở Đông Minh Huyện là cùng một người phải không? Nương nương vào cung không phải là để phục vụ Hoàng Thượng, mà là để trả thù có phải không?”
Dụ Cáp Nhi gật gật đầu đồng ý, rồi nói: “Muội vẫn là muội, muội không bao giờ là người đóng kịch trước mặt Đỗ đại ca cả, muội tin đại ca và Thanh Đại tỷ, và cả Ninh công công nữa.”
“Hả! Còn cả Ninh công công nữa!” Đỗ Văn Hạo há hốc miệng kinh ngạc.
“Không! Ông ấy không biết chuyện này đâu, Ninh công công là người hầu thân tín của Hoàng Thượng, muội không dám mạo hiểm như vậy đâu, muội biết điều này chứ!”
Đỗ Văn Hạo lúc này mới thở hắt ra một cái nói: “Nương nương không thấy rằng mình đang đơn cô thế cô hay sao?”
“À! Kỳ thực khi muội, Dụ Cáp Nhi này trông thấy huynh ấy chết thảm ngay trước mặt mình như vậy thì trái tim của muội cũng đã chết theo từ khi đó rồi, nếu như không phải vì báo thù cho huynh ấy, thì ngày hôm đó muội cũng đập đầu chết ngay bên mộ của cô cô rồi, làm gì mà phải ngày nào cũng cúi người, chào hỏi tươi cười với kẻ thù của mình cơ chứ?”
“Đúng rồi! Nương nương nói rằng kẻ thù của nương nương là một quan to trong triều, quan to đến mức nào vậy?”
Dụ Cáp Nhi nở một nụ cười giảo hoạt đáp: “Chắc chắn đại ca không thể nào tưởng tượng được đâu. Đó là Binh Bộ Thượng Thư Lưu Húc!”
“Hả! Không phải chứ?” Đỗ Văn Hạo vẫn chưa hết kinh ngạc, câu chuyện của Dụ Cáp Nhi quá đỗi động trời, một cô gái vì trả thù đã dấn thân vào trong cung, cố gắng lấy lòng những người cần lấy rồi bắt đầu kết bè kết phái để thực hiện mục đích của mình, cái này sao mà giống trong phim truyền hình hiện đại vậy!
Dụ Cáp Nhi chợt im một chút, rồi cười nói: “Thật không ngờ Đỗ đại ca lại có thể làm cho muội buột miệng nói cho đại ca biết người đó là ai. Bí mật này trước giờ muội vẫn tự nhủ sẽ phải giữ thật kỹ. Thôi chết rồi, vậy là đại ca đã trở thành người cùng hội cùng thuyền với Dụ Cáp Nhi rồi!”
Đỗ Văn Hạo nét mặt nghiêm túc đi đến bên Dụ Cáp Nhi thấp giọng nói: “Nương nương cũng biết rằng thế lực của nhà họ Lưu mạnh như thế nào rồi đấy, đến cả Hoàng Thượng còn phải nể họ vài ba phần, nương nương sao có thể?”
Dụ Cáp Nhi hứ lên một tiếng cười lạnh đáp: “Gã họ Lưu đó thực chất cũng không biết muội là ai, cũng có nghĩa là ông ta ở ngoài ánh sáng mà muội thì lại ở trong bóng tối, muội cũng chẳng trực tiếp làm gì ông ta cả, chỉ giải quyết việc cháu gái của ông ta trước cái đã.”
Đỗ Văn Hạo lúc này mới chợt hiểu ra hết mọi chuyện, hắn trợn mắt lên nhìn vào Dụ Cáp Nhi, còn nàng thì cười với vẻ đắc ý, hai tay khoanh ở trước ngực, đứng dậy đi đến bên Đỗ Văn Hạo, giọng nói vô cùng thân thiết: “Đỗ đại ca!”
“Đừng có xưng hô lung tung như vậy!! Ngươi định hại ta hay sao? Ta là người đã có gia thất rồi, đừng có gọi ta như vậy, ta có thể đảm bảo với ngươi rằng ta sẽ không nói chuyện này ra đâu, ngươi đừng kéo ta vào chuyện rắc rối này, ta không mắc lừa ngươi đâu.” Đỗ Văn Hạo nói xong liền quay người đi luôn.
“Đỗ đại ca! Đại ca nên biết rằng, vật mà người ta không bao giờ tin được chính là miệng lưỡi của mình, bởi vì tai và mắt vĩnh viễn chỉ là người nghe và người trông thấy mà thôi, còn miệng lưỡi mới là cái đem những việc mà mình nghe và nhìn thấy được đi nói cho người khác biết, muội không bao giờ tin vào sự đảm bảo của người khác, trừ phi người đó là người cùng một hội với muội!”
Nụ Hồng Trắng Ngẩn Ngơ Xuân Mười Chín
Nhớ én CHợt Về Mang Đến Tuổi Đôi Mươi
Ôi!!!Thói Đời Nghĩ Mà Đau Lòng
Ta Cười Cuộc Đời Lắm Nỗi Đau Thương
Đã có 6 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của baongoc
Đỗ Văn Hạo ghét nhất Dụ Cáp Nhi ở điểm hay giở nhiều trò âm mưu, chơi xấu người khác, tuổi còn nhỏ như vậy mà lại có một bộ não suy nghĩ già dặn không kém những người tuổi cha tuổi ông mình là mấy. Tuyết Phi Nhi lớn hơn nàng ta mấy tuổi, nhưng cũng không thể nào ranh ma bằng Dụ Cáp Nhi được, cho dù mục đích của nàng là vì người sư huynh thanh mai trúc mã của mình đi chăng nữa, thì cũng không nên như vậy!!
Đỗ Văn Hạo sau khi nghe Dụ Cáp Nhi nói thì mặt hắn đanh lại đáp: “Vậy nương nương muốn vi thần làm thế nào đây? Vi thần cũng chẳng có hứng thú gì với màn đấu đá nhau trong cung cả, vi thần chẳng qua là nghe nương nương kể một câu chuyện mà thôi, nếu như chỉ vì câu chuyện cỏn con này mà nương nương muốn lôi kéo vi thần vào chuyện thị phi thì e rằng cũng hơi quá đáng rồi đấy!”
Dụ Cáp Nhi có lẽ cũng không thể ngờ được là một người thường nhật nho nhã, lịch sự như Đỗ Văn Hạo lại có thể trở nên lạnh lùng, nghiêm túc đến như vậy, lúc này nét mặt đanh thép của Đỗ Văn Hạo cũng làm cho nàng cảm thấy ngượng ngùng, xấu hổ. Dụ Cáp Nhi mất một lúc mới ấp a ấp úng trả lời: “Thực ra thì muội cũng không có ý cưỡng ép Đỗ đại ca, nhưng chẳng qua muội chỉ muốn đại ca hiểu cho muội rằng, muội không phải là một người âm mưu nham hiểm gì cả, huynh có thế không muốn trở thành người cùng hội cùng thuyền với muội, vậy cứ coi như Dụ Cáp Nhi đã nhìn nhầm người rồi, đại ca cũng đã lên tiếng bảo đây chỉ là một câu chuyện cỏn con mà thôi, nếu đã là một câu chuyện cỏn con thì dĩ nhiên là có lúc là sự thật có lúc là bịa đặt. Đỗ đại ca cứ coi như mình chẳng có việc gì để làm đến đây nghe Dụ Cáp Nhi lảm nhảm cũng được!” Dụ Cáp Nhi nói xong liền đứng dậy cúi đầu lướt người qua mặt Đỗ Văn Hạo đi mất.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy cũng chẳng thèm đuổi theo, cũng chẳng buồn nói thêm câu nào nữa, chỉ im lặng nhìn theo dáng người dong dỏng cao của Dụ Cáp Nhi dần dần biến mất sau những khóm hoa. Đỗ Văn Hạo còn cố tình đi đi lại lại trong hoa viên thêm một lúc nữa, rồi mới đi ra ngoài, cũng vừa vặn là giờ ăn tối nên hắn cũng vào phòng ăn luôn. Khi vào trong này thì Đỗ Văn Hạo để ý không thấy có Dụ Cáp Nhi xuất hiện ở đây, nghe mấy viên quan nói rằng, nàng kêu trong người không được khỏe đã bỏ ra về trước rồi.
Lúc này, Đỗ Văn Hạo không biết sao tinh thần của hắn bỗng chốc trở nên lo lắng, bất định, Triệu Tiệp Trữ cũng là lần đầu tiên hắn gặp mặt, nghe nói nàng là một người con gái vô cùng xinh đẹp, nhưng hôm nay gặp rồi, thì Đỗ Văn Hạo cũng chỉ cảm thấy bình thường chẳng có gì nổi bật cả, hắn lúc này chợt nghĩ nếu bên cạnh Hoàng Thượng lúc nào cũng có những người con gái thanh cao, thoát tục như Lâm Tiệp Trữ thì e rằng trong hậu cung chẳng bao giờ xảy ra chuyện đấu đá nhau đến mức không còn nhân tính như vậy. Nhưng nghĩ lại cũng phải thông cảm cho các mỹ nhân nơi thâm cung, ở đây nếu mà không có chút thủ đoạn thì làm sao lấy lòng được một người đã ngắm nhàm mỹ nhân như Hoàng Thượng được cơ chứ?
Triệu Tiệp Trữ hôm nay mặc một bộ váy dài mầu đỏ, đeo một chiếc dây lưng thêu hoa vàng, một chiếc vòng ngọc trai lấp lánh trên cổ, khoác bên ngoài một bộ gấm bào ánh bạc, trên đầu cài một chiếc trâm phượng ngọc lúng liếng, mặt nàng đánh một lớp phấn nhẹ, nhưng trông cũng khá hấp dẫn, duy nhất có một điều là trông nàng cũng chẳng có vẻ đẹp gì đặc sắc cả, nàng có lẽ cũng chỉ được coi là có chút nhan sắc mà thôi.
Triệu Tiệp Trữ thực ra cũng chỉ đi ra ngoài gặp mặt mọi người một chút, rồi nâng vài chén rượu gọi là tượng trưng, rồi lại đi vào trong, những người ngồi ở đây thấy vậy bắt đầu thầm thì to nhỏ với nhau, Đỗ Văn Hạo đối với những chuyện tầm phào tán gẫu đó cũng chẳng có gì hứng thú, chỉ chăm chăm vào các món ăn cùng rượu thơm trên bàn, nên hắn cứ cắm đầu cắm cổ vào thưởng thức ngon lành, sau khi no say thoải mái đang định cáo từ ra về thì đột nhiên nghe tiếng gọi:
“Đỗ đại nhân định về rồi ư?”
Đỗ Văn Hạo lúc này cũng đã ngà ngà say, vừa bước đến cổng thì bỗng nghe thấy có người gọi mình, thì quay đầu lại nhìn, nhưng do vì trời tối quá nên hắn cũng chẳng nhận ra người gọi hắn là ai nữa.
“Hoàng Thượng đang tìm đại nhân để truyền khẩu dụ đây, may quá nô tài đuổi kịp đại nhân rồi!”
Đỗ Văn Hạo nghe giọng nói, xưng hô cùng với chuyện Hoàng Thượng muốn tìm mình, thì cũng đoán ra được đó là ai rồi, hắn tìm một chỗ có ánh sáng tốt hơn một chút để nhìn rõ hơn người vừa mới lên tiếng, quả nhiên không ngoài sự dự đoán của hắn, Ninh công công đang khoanh tay đứng cúi người vẻ mặt méo mó chờ đợi. Đỗ Văn Hạo trông thấy bộ dạng của ông ta cũng không nhịn được, bất giác mỉm cười một cái.
“Trông bộ dạng của Công công kìa! Có phải dạ dày khó chịu không?” Đỗ Văn Hạo bước đến vỗ vỗ vào vai của Ninh công công nói.
Ninh công công cười khổ đáp: “Ài! Nô tài làm sao mà so bì với đại nhân được? Hoàng Thượng lúc nãy ngồi ăn thấy đại nhân dường như không vui, nên rất lo lắng, nói là đại nhân chắc là do lo lắng cho việc làm sao tìm ra được một chính sách hoàn hảo để trị quốc nên mới mệt mỏi như vậy, vì thế mà Hoàng Thượng đã đồng ý ân chuẩn cho đại nhân về nhà tĩnh dưỡng vài ngày, đại nhân mệt mỏi thì được Hoàng Thượng quan tâm như vậy, còn nô tài mệt mỏi thì nào có ai biết đâu?”
Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ, Hoàng Thượng cũng quả là để ý vô cùng kỹ lưỡng, lúc nãy rõ ràng là mình có vẻ không vui, nhưng Hoàng Thượng lại tưởng mình suy nghĩ quốc sách mà mệt mỏi, chán chường như vậy, thực ra thì mình đã làm cũng hòm hòm rồi, chỉ là chưa dâng lên cho Hoàng Thượng ngự lãm mà thôi. Thế nhưng, Hoàng Thượng đã ân chuẩn cho mình nghỉ ngơi tĩnh dưỡng mấy ngày rồi, tội gì mà không đồng ý, mấy ngày này không vào trong cung cũng tốt, đỡ phải chẳng may bắt gặp Dụ Cáp Nhi mà cảm thấy gượng gạo, như vậy cũng tốt. Ở nhà thì cũng có thể xem xét lại đường lối quốc sách ra sao cho nó cẩn thận hơn một chút, mình không trông mong gì Hoàng Thượng xem trọng mình quá, nhưng cũng không nên để Hoàng Thượng cảm thấy mất mặt vì tin tưởng mình.
Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy bèn ôm lấy vai của Ninh công công mà nói: “Ninh công công! Ai mà không biết Ninh công công ngài vất vả thế nào cơ chứ! Hay là để bổn quan nói với Hoàng Thượng một câu, để công công cũng được tĩnh dưỡng mấy ngày? Mà về sau công công cũng đừng xưng hô nô tài này nô tài nọ nữa nghe nó chướng tai lắm, thật đấy, chướng tai vô cùng, lại còn giả tạo nữa!”
Ninh công công nghe xong thì cười ha hả đáp: “Thôi bỏ đi! Lão nô cũng chỉ có mỗi ở trước mặt của Đỗ đại nhân là có thể nói đùa được thôi, còn trước mặt người khác thì đừng hòng bắt lão nô thốt ra hai chữ mệt mỏi, đi thôi, lão nô đưa đại nhân ra ngoài, hiếm khi Hoàng Thượng cho đại nhân nghỉ ngơi vài ngày như vậy, Đỗ đại nhân nên nhân cơ hội này mà nghỉ ngơi cho nó thoải mái!”
Nói xong hai người liền đi thẳng ra ngoài cổng.
“Công công không nên dễ dàng mà tin người khác như vậy, cẩn thận bổn quan đem chuyện này đi rêu rao khắp nơi đó!” Đỗ Văn Hạo vừa cười vừa trêu ghẹo Ninh công công.
Ninh công công nghe xong cũng trừng mắt nhìn hắn, rồi đưa tay lên chỉ chỉ vào mặt của Đỗ Văn Hạo thấp giọng nói: “Lão nô biết đại nhân sẽ không nói ra đâu, tiểu Dụ Cáp Nhi nói đúng, đại nhân là một người rất đáng tin cậy! Nếu không thì lão nô cũng chẳng ăn nói như vậy trước mặt của đại nhân rồi!”
Ninh công công vừa nhắc đến Dụ Cáp Nhi thì Đỗ Văn Hạo bỗng cảm thấy khó chịu trong lòng, hắn miễn cưỡng nở ra một nụ cười, rồi lảng sang chủ đề khác nói: “Mệt rồi thì cũng nên nghỉ, cũng không nên cố quá, công công mà bị bệnh, thì ai chăm sóc Hoàng Thượng đây?”
“Ha ha! Đỗ đại nhân nói câu này lão nô thích nghe, nhưng đây là sứ mệnh, là trọng trách của lão nô! Lão nô không thể chối từ nó được!”
Đỗ Văn Hạo và Ninh công công vừa đi vừa nói thì đã ra đến ngoài cổng, sau khi đưa hắn lên kiệu, Ninh công công liền mỉm cười đưa tay lên vẫy tạm biệt, rồi quay người đi vào trong.
Lúc này ánh đèn lồng treo trước cổng của Ngũ Vị Đường đang đong đưa trước gió, cổng đã được đóng kín, bên trong đại đường vẫn còn ánh đèn hắt ra le lói, Đỗ Văn Hạo đứng ở ngoài cổng bất giác thấy trong người trào dâng một nỗi niềm khó tả. Từ trước đến giờ hắn không cảm thấy về nhà lại có cảm giác gần gũi và thân thiết như vậy, đây là nhà của mình, gia đình của mình, nghĩ đến đây Đỗ Văn Hạo phảng phất trông thấy sự hiền dịu, đảm đang của Bàng Vũ Cầm, sự hoạt bát, nhanh nhẹn của Tuyết Phi Nhi, và còn có Lâm Thanh Đại, người mà chỉ có hắn nàng mới mỉm cười duyên dáng dịu dàng, cuối cùng là Liên Nhi, nàng đang chăm sóc Trần Mỹ Nhân nơi Lãnh Cung. Đỗ Văn Hạo bỗng nở một nụ cười đầy ngụ ý ở trên miệng, chầm chậm bước đến gõ cổng.
“Ai thế?”
Đỗ Văn Hạo nghe ra được đó là tiếng nói của Hàm Đầu, bèn lên tiếng trả lời: “Ta đây!”
Rất nhanh, cánh cổng đã được mở ra, Hàm Đầu lúc này đang cởi trần, trên vai còn vắt một chiếc khăn mặt, hai mắt cười híp tịt lại ân cần lên tiếng hỏi Đỗ Văn Hạo: “Sư tổ! Đồ tôn nghe giọng là biết ngay người đã về, sao hôm nay sư tổ về sớm thế?”
Đỗ Văn Hạo mỉm cười đáp: “Nghe lời ngươi nói thì hình như là ta không được phép về đây vậy!”
Hàm Đầu nghe xong liền vội tránh người sang một bên, hai tay đưa ra mời Đỗ Văn Hạo vào trong, cúi người đáp: “Không không! Ha ha! Đồ tôn cứ tưởng sư tổ đang bận việc ở trong cung cơ! Bữa tối hôm nay, phu nhân còn nói rằng không biết sư tổ ở trong cung có tốt không, sư tổ mau vào đi, để con đi bẩm báo với phu nhân!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong liền bước vào cửa, Hàm Đầu cũng nhanh chân tiến đến cài cửa lại, sau đó đi ra phía tiền đường.
“Hàm Đầu! Ngươi bận gì thì cứ đi làm đi, ta tự đi được rồi!”
Hàm Đầu quay đầu lại đáp: “Vâng! Hôm nay cũng có đại tỷ phu (anh rể cả- nhưng để đại tỷ phu nghe cho nó pờ rồ) của phu nhân đến đây, nên phu nhân giờ này có lẽ đang ngồi trong phòng nói chuyện với tỷ phu của mình đó ạ!”
“Sao? Đại tỷ phu đến rồi ư? Sao không cho người vào trong cung thông báo cho ta biết một tiếng?” Đỗ Văn Hạo vừa đi vừa nói.
Hàm Đầu đi theo phía sau hắn vừa cười vừa đáp: “Người bệnh lúc nào cũng cảm thấy bệnh tình của mình chẳng có gì nghiêm trọng cả, nên nói là hôm nay sư tổ bận việc trong cung, không nên cho người vào làm phiền, rồi cứ bảo sư huynh đến khám cho, vì thế mà đồ tôn mới không cho người vào trong cung thông báo cho sư tổ đó ạ!”
Đỗ Văn Hạo lúc này đã vào trong tiền đường, quả nhiên hắn trông thấy cánh cổng tương phòng ở mặt phía đông vẫn đang hé mở, có tiếng người ngồi nói chuyện với nhau ở trong đó.
Từ khe cửa nhìn vào thì có thể trông thấy Diêm Diệu Thủ đang đứng bên cạnh giường, Bàng Vũ Cầm thì ngồi ở trước giường an ủi tỷ phu của mình: “Tỷ phu! tỷ phu đừng suy nghĩ nhiều nữa, uống thuốc của Diêm Diệu Thủ kê cho này nếu mà vẫn không có gì khởi sắc thì bọn muội sẽ cho người vào trong cung mời tướng công của muội về chữa cho tỷ phu.”
“Không cần phải cho người đi gọi đâu! Ta đã về đây rồi!” Đỗ Văn Hạo đứng ở ngay cửa lên tiếng chen vào.
Bàng Vũ Cầm nghe thấy tiếng của hắn thì ngay lập tức quay người lại nhìn, quả nhiên Đỗ Văn Hạo đang đứng ở ngay cửa, nàng vừa mừng vừa kinh ngạc, đứng luôn dậy chạy đến đón tướng công của mình: “Tướng công! Chàng sao lại về thế? Có phải là có người chạy vào trong cung nói cho chàng biết không? Thiếp đã nói là tạm thời không nên vào trong cung làm phiền tướng công rồi!” Bàng Vũ Cầm trông thấy Đỗ Văn Hạo lúc này có vẻ gầy hơn lúc trước, nên nàng cảm thấy xót phu quân mình vô cùng, nhưng chỉ là ở đây đang có người ngoài, nên cũng không tiện biểu lộ ra ngoài.
Đỗ Văn Hạo kéo lấy bàn tay của Bàng Vũ Cầm lại, rồi vỗ vỗ nhẹ lên đó: “Không có ai vào thông báo cho ta biết cả đâu! Cái này là do Hoàng Thượng thấy ta mấy ngày hôm nay cũng vất vả, nên đã hạ chỉ cho phép ta ở nhà nghỉ ngơi tĩnh dưỡng mấy ngày, đại tỷ phu bị làm sao vậy?”
Đỗ Văn Hạo đi đến bên giường, thì thấy một người thanh niên, tuổi tác trên dưới ba mươi tuổi, trong bóng đèn hiu hắt, ánh mặt của người thanh niên này hiện lên ảm đạm, mệt mỏi, hai mắt của người này cũng đang mở to ra nhìn hắn, rồi cất lên một giọng yếu ớt nói:
“Đỗ lão gia! Thảo dân không thể đứng dậy bái kiến được, mong lão gia thứ lỗi!”
“Đại tỷ phu nói gì vậy! Sao lại gọi đệ là lão gia? Tất cả đều là người trong một nhà cả, đừng xưng hô xa lạ như thế, tỷ phu cứ gọi tên đệ cũng được rồi!”
“Không! Không! Đại nhân là quan ngũ phẩm trong triều, chức còn to hơn cả huyện đại lão gia nữa, đây là quy định không được phép loạn!”
“Quy định gì cơ chứ, đây là ở trong nhà, thôi đừng khách khí nữa, để đệ xem bệnh cho tỷ phu xem nào! Tỷ phu có chỗ nào khó chịu?”
“Mấy ngày hôm trước bọn ta nhận được gia thư, nói là Bàng mẫu bị bệnh rất nặng, mà tỷ tỷ của ngươi sức khỏe lại không được tốt, thế là ta một mình một ngựa đi về thăm, nhưng thật đen đủi trên đường đi ta lại đổ bệnh, mới đầu thì thấy nó cũng chẳng có gì đáng ngại cả, cứ nghĩ là chỉ bị nhiễm một chút lạnh, toàn thân nhức mỏi mất sức. Hơn nữa phần vì muốn nhanh chóng tới nơi thăm mẫu thân nên chỉ tìm đại một cái y quán trên đường đi mua vài thang thuốc uống. Ai ngờ sau khi uống thuốc xong thì cảm thấy trong người vô cùng khó chịu, không những sốt cao mà còn bị đau bụng đi ngoài nữa, trên đường đi ta suýt chút nữa thì đã bỏ mạng rồi!” Nói xong đại tỷ phu của Đỗ Văn Hạo thở ra hổn hển.
Đỗ Văn Hạo nghe xong liền quay sang Bàng Vũ Cầm nói: “Nàng viết thư cho đại tỷ phu đúng không?”
“Không! Bức thư đó là do mẹ của thiếp viết, trong thư mong muốn thấy đại tỷ quay về, nhưng đại tỷ lại có thai, đại tỷ phu thương đại tỷ đường xá lặn lội vất vả, nên mới ngày đêm chạy vội về đây thế này, ai biết trên đường đi lại bị bệnh khổ như vậy!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong gật gật đầu, đây là lần đầu tiên hắn gặp mặt đại tỷ phu, bởi vì khi hắn lấy Bàng Vũ Cầm thì đại tỷ của nàng đã lấy chồng xa rồi, do vậy vẫn chưa có cơ hội gặp mặt, hắn chỉ nghe nói đại tỷ lấy một thương gia có tên Lý Kiện. Đỗ Văn Hạo nhớ lại hồi hắn học đại học, trong khu ký túc xá của hắn có một người anh lớn tuổi cũng có tên này, do vậy khi mẹ vợ của hắn nhắc đến cái tên này thì hắn cũng đã có ấn tượng và nhớ luôn trong lòng rồi.
Nghe chuyện của Lý Kiện, Đỗ Văn Hạo cũng thấy có chút thương cảm, lên tiếng an ủi: “Đại tỷ phu đừng nóng vội, huynh có thấy mệt mỏi lắm không?”
Lý Kiện chỉ ừm lên một tiếng.
“Bài thuốc mà vị thấy thuốc kê cho huynh, huynh còn giữ nó không?”
Diêm Diệu Thủ nghe xong bèn bước đến bên Đỗ Văn Hạo đưa đơn thuốc ra nói: “Sư tổ! Người xem xem, chỉ có mấy tờ như vậy!”
Đỗ Văn Hạo tiếp lấy xem xét xong rồi trả lại cho Diêm Diệu Thủ. Thực ra, ngay khi nhìn thấy Đỗ Văn Hạo trở về, Diêm Diệu Thủ đã cảm thấy mình có chút may mắn, hắn nhìn đơn thuốc thì biết rằng trình độ của mình và người thầy thuốc kia cũng ngang tầm như nhau. Thế nhưng giờ đây Diêm Diệu Thủ thấy Đỗ Văn Hạo trả lại mình đơn thuốc như vậy thì rõ ràng đơn thuốc có vấn đề, do vậy hắn vội chạy ra ngoài cổng bảo Hàm Đầu thôi không đun thuốc nữa.
“Đại tỷ phu! Huynh có thể nói cho đệ biết toàn bộ quá trình phát bệnh cùng với việc trước khi phát bệnh huynh ăn những thứ gì, làm những cái gì được không?”
Lý Kiện nghe xong liền gật đầu đồng ý, rồi đột nhiên đưa mắt lên nhìn Bàng Vũ Cầm, Đỗ Văn Hạo hiểu ý liền quay sang Bàng Vũ Cầm nói: “Nàng đi nấu cho ta bát cháo được không? Ta khi nãy uống rượu cảm thấy hơi khát nước, lúc nãy ở trong cung mà ta thèm bát cháo nàng nấu quá!”
Bàng Vũ Cầm nghe vậy nhoẻn miệng cười tươi như hoa, gật gật đầu rồi bước luôn ra ngoài.
Lý Kiện thấy Bàng Vũ Cầm đi rồi mới bắt đầu mở miệng nói: “Chỗ này chúng ta chỉ còn hai người đàn ông với nhau, thì ta cũng không dám dấu ngươi điều gì nữa, nương tử của ta hiện giờ đang có thai, ta và nàng đều có tình cảm vô cùng mặn nồng, nên vẫn chưa nạp thêm người thiếp nào cả! Nhưng ngươi cũng biết đấy, đàn ông con trai mà...”
“Đại tỷ phu cứ nói tiếp đi, cái này đệ hiểu!” (Mịa, còn hơn cả hiểu đấy chứ) Lý Kiện nghe xong liền tiếp tục nói: “Ta và một cô gái tên Tiểu Ngọc ở Lưu Xuân Quản trên huyện thành có quan hệ khá tốt với nhau, điều này phu nhân của ta cũng biết, nhưng cũng chẳng nói gì cả. Ngày hôm đó, ta qua đêm với Tiểu Ngọc thì đột nhiên có người nhà đến tìm nói là Bàng Mẫu bị bệnh, phu nhân của ta nghe xong thì lo lắng quá mà ngất đi, ta làm sao còn tâm trí đâu mà ở lại với Tiểu Ngọc nữa, thế là vội vã chạy về!” Nói đến đây đột nhiên Lý Kiện cảm thấy mất sức, ngừng lại không nói nữa, Đỗ Văn Hạo bèn đến bên chiếc bàn rót một cốc nước nóng đưa cho Lý Kiện.
Được một lúc, thì Lý Kiện lại thều thào nói tiếp: “Ai ngờ, đêm hôm đó mưa to quá, ta không thể nào chờ cho đến trời sáng được, tuy là Tiểu Ngọc có khuyên ta rằng từ huyện thành về nhà ta phải mất hai canh giờ liền, nhưng ta lại quá lo lắng cho phu nhân của mình, thế là cứ đội mưa cưỡi ngựa chạy về, nhưng vì mưa ướt đường trơn, nên khi đi qua một chiếc cầu thì con ngựa xảy chân ta liền ngã luôn xuống nước, cũng may là nước cũng không sâu, nên ta và ngựa cũng lên bờ bình an, nhưng toàn thân ướt nhẹp. Ta không mấy quan tâm, vẫn cưỡi ngựa chạy được hơn mười dặm thì cảm thấy khó chịu quá, không chịu nổi nữa bèn tìm một thầy thuốc khám xem sao. Thầy thuốc nói là ta bị Hư Chứng bảo ta uống thuốc của ông ta sẽ khỏi, ta liền uống luôn rồi lại tiếp tục lên đường, nhưng ai ngờ bệnh tình của ta ngày càng nặng, người cứ run lên vì lạnh, tay chân nhức mỏi, trong đêm tối ta lại đi tìm tiếp thầy thuốc khác.”
“Thầy thuốc nói sao?”
“Thầy thuốc nói rằng ta do mệt mỏi quá độ, nên uống Tứ Vật Thang cho thêm cái gì mà Chí Mẫu, Địa Cốt Bì cùng với Đan Khê Đại Bổ Âm Hoàn gì gì đó cho ta uống, nhưng cũng chẳng có công hiệu gì cả.”
“Đại tỷ phu có trí nhớ quả là siêu phàm, đến cả mình uống tên thuốc là gì cũng ghi nhớ rõ đến như vậy!” Đỗ Văn Hạo mỉm cười khen ngợi.
Lý Kiện chỉ thở dài ra một cái rồi lại nói tiếp: “Liên tục uống thuốc, thay thuốc, lại liên tục bị các thầy thuốc hỏi trong một thời gian dài như vậy cho dù là một đứa bé cũng biết là mình đang uống cái gì!”
“Ừm! Huynh cứ tiếp tục nói tiếp đi!”
“Sau khi uống thuốc xong, ta lại thấy chẳng có tác dụng gì cả, mà ngược lại cảm thấy bệnh tình càng trầm trọng hơn, ngay cả đến việc xuống giường đi lại cũng cảm thấy khó khăn, do vậy lại đành tìm đến mấy vị thầy thuốc nữa ở trên thị trấn đến chữa trị, trong đó có một vi nói rằng bệnh của ta không cần uống thuốc, chỉ cần uống một bát sữa mẹ là khỏi, ta cũng chẳng biết nó có hiệu nghiệm hay không, nhưng cũng cho người đi tìm những người phụ nữ vừa mới sinh nở để xin sữa uống. Nhưng không ngờ sau khi uống xong thì ngày hôm sau ta chẳng ăn được thứ gì nữa cả, ta cứ nghĩ rằng mình sẽ chết trên đường mất, nhưng may mà ta nhớ ra em rể của mình là Ngự Y do vậy mới thuê người đánh xe đến đây tìm Đỗ đệ cứu mạng!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong cũng thấy cảm khái vô cùng, xem ra đại tỷ phu trên đường đi đúng là nếm trải bao nhiêu là đau khổ rồi.
Đỗ Văn Hạo đưa tay lên bắt mạch, rồi lại xem lưỡi, xong rồi nói: “Mạch của đại tỷ phu chậm ấn mạnh vào thì thấy nó rất cứng, tay bên phải hiện tượng này lại càng rõ hơn, cái này là do thân thể bị nhiễm lạnh nên mới bị nghẽn như vậy, huynh không cần phải lo lắng, chỉ cần uống vài thang thuốc là khỏi thôi, việc của huynh bây giờ nhắm mắt tĩnh dưỡng lại cho khỏe người!” Lý Kiện thấy Đỗ Văn Hạo nói như vậy liền cũng không tiện hỏi thêm nữa, chậm rãi nhắm mắt tĩnh dưỡng.
Đỗ Văn Hạo rất nhanh đã kê xong một đơn thuốc rồi giao cho Diêm Diệu Thủ dặn dò nói: “Mau đi cắt thuốc nhanh! Cứ uống trước một bát, tới giờ sửu thì lại uống thêm bát nữa, nếu như phát hiện thấy trên người của người bệnh có nốt đỏ thì đừng để bệnh nhân gãi nó, sau khi trời sáng thì chắc sẽ khỏi thôi.”
Khi trời chập tối, thì có một vị công công truyền khẩu dụ của Hoàng Thượng bảo Đỗ Văn Hạo vào trong cung.
Đỗ Văn Hạo chỉ biết cười khổ lắc đầu ngao ngán, nhưng cũng lập tức lên kiệu vào cung, sau khi đến Điện Cần Chính thì Ninh công công thông báo rằng Hoàng Thượng đang nghị chính, nhưng đàm luận đã nửa ngày trời rồi mà mãi vẫn chưa xong, Đỗ Văn Hạo thấy vậy cũng đành phải ngồi chờ phía bên ngoài điện.
Cho đến tận đêm khuya thì nghị chính mới kết thúc.
Tống Thần Tông lúc này sắc mặt sáng lạng, cười tươi roi rói, trông không hề có dấu hiệu mệt nỏi nào cả, khi trông thấy Đỗ Văn Hạo liền mỉm cười gật đầu.
Đỗ Văn Hạo trông thấy vội vã chạy đến thi lễ: “Vi thần bái kiến Hoàng Thượng!”
Tống Thần Tông liền đứng lại hỏi: “Trẫm giao việc cho ngươi, ngươi làm đến đâu rồi?”
Đỗ Văn Hạo không ngờ Tống Thần Tông gọi hắn đến là vì hỏi chuyện này, do vậy hắn liền móc luôn từ trong người ra tập Y Đạo Luận Trị Quốc mà hắn đã chuẩn bị từ lâu ra nói: “Vi thần đã chuẩn bị xong rồi! Vi thần đã suy đi xét lại khá lâu, nhưng vẫn không biết có hợp ý của Hoàng Thượng hay không? Mong Hoàng Thượng đừng chê cười vi thần!”
“Thật sao?” Tống Thần Tông vẫn không hề tiếp lấy tập tài liệu của hắn mà nói: “Ngươi cùng Trẫm đến Ngự Thư Phòng, Trẫm muốn nghe xem cái kế sách mà ngươi nói rốt cục nói về cái gì!” Nói xong liền bước luôn về phía Ngự Thư Phòng của mình.
Tống Thần Tông nghị chính cả một ngày trời, giờ lại nghe một người ít có kiến thức về mảng quản trị đất nước này đúng là cũng làm cho Đỗ Văn Hạo cảm thấy lo lắng đứng ngồi không yên.
Tống Thần Tông lúc này đã ngồi trên bàn nghị án, Ninh công công cũng đã dâng lên một tách trà cho Tống Thần Tông. Đỗ Văn Hạo lại một lần nữa đem tập tài liệu của mình dâng lên, Tống Thần Tông giờ này mới tiếp lấy văn thư của hắn đặt lên trên bàn, sau đó một bên thưởng thức trà đạo, một bên xem xét bài viết của Đỗ Văn Hạo.
Tống Thần Tông xem xét vô cùng kỹ lưỡng, cứ như xét nét từng từ từng chữ một vậy, thỉnh thoảng còn im lặng trầm ngâm, rồi có lúc lại đưa bút lên viết viết làm cho Đỗ Văn Hạo càng thêm thấp thỏm. Hắn đem những đạo lý trong Y Đạo ra để áp dụng vào chính sách quản trị đất nước không biết có được hợp lý hay không? Hắn chỉ sợ Hoàng Thượng xem xong rồi lại mù quáng làm theo thì hắn có tội chết mất.
Cuối cùng, Tống Thần Tông xem xong liền đặt bút xuống, ngẩng đầu lên rồi nhìn về phía Đỗ Văn Hạo rồi nói: “Ha ha! Đỗ Văn Hạo, chính sách mà ngươi đề ra vô cùng khác biệt đó!”
Khác biệt? Hoàng Thượng dùng từ này hình dung bài viết của mình thìcó thể thấy nó có phần hợp lý, tạm chấp nhận được, chỉ sợ mỗi là Hoàng Thượng kêu là không tốt mà thôi. Đỗ Văn Hạo nghe xong mà thở hắt ra nhẹ nhõm, hơn nữa hai từ khác biệt này cũng có vẻ là một lời khen ngợi, do vậy hắn càng cảm thấy tự tin hơn bao giờ hết, vội cúi người đáp: “Bẩm Hoàng Thượng! Vi thần chỉ rành về mặt Y Đạo, do vậy lúc suy tính kế sách không biết tự lúc nào đã đứng trên phương diện đó mà suy xét tình hình, chắc chắn là còn nhiều chỗ không hợp lý, nhưng đổi lấy một nụ cười của Hoàng Thượng cũng đã là một thành công rất lớn rồi đó ạ!”
“Ha ha ha! Ngươi ngồi xuống đi!” Vẻ mặt Tống Thần Tông tỏ ra khá thoải mái.
“Tuân chỉ!” Đỗ Văn Hạo cúi người tạ ơn, rồi ngồi xuống chiếc ghế đặt ở cạnh đó, rồi nghiêng người chờ đợi Tống Thần Tông.
Tống Thần Tông tiếp tục nói: “Kế sách của ngươi có nhiều chỗ Trẫm xem cũng không hiểu, có quá nhiều từ vựng làm Trẫm không biết đâu mà lần, mấy chỗ này ngươi giải thích cho Trẫm nghe được không?”
Đỗ Văn Hạo đúng là trong bài viết này cho thêm rất nhiều tự vững của thời hiện đại vào, hắn không thể nào nghĩ ra được những từ này trong cổ văn nó có nghĩa là gì, biểu đạt ra sao, nên cứ bê nguyên chúng vào trong bài viết của mình, cái này chả trách Tống Thần Tông xem xong mà cứ như vịt nghe sấm vậy. Vì vậy, khi nghe Tống Thần Tông yêu cầu, Đỗ Văn Hạo liền vội vã đứng dậy giải thích.
Tống Thần Tông liền đem những đoạn khó hiểu nói cho Đỗ Văn Hạo nghe: “Đoạn mở đầu bài viết của ngươi nói <Trang Tử> có viết: ‘Nhân chi sinh, khí chi tụ dã, tụ dã trạch vi sinh, tán trạch vi tử’ (tạm dịch: Sức sống của con người là nằm trong nguyên khí được tụ hội lại, nếu khí của con người không tụ hội lại được, thì người đó không có thể sống sót được nữa). Ngươi đem pháp luật ra so sánh với tinh khí của người, nói rằng nếu không có pháp luật, thì chẳng khác gì người không có tinh khí, đây chính là câu này: ‘Nhân vô tinh khí trạch tử, Quốc vô pháp độ trạch vong (tạm dịch: Người không có tinh khí thì sẽ chết, nước mà không có pháp luật sẽ không tồn tại)’. Câu này ngươi dẫn chứng rất tốt, từ khi Trẫm lên ngôi đến nay, pháp lệnh ban bố cũng không ít, vậy theo ý của ngươi pháp luật của ta còn thiếu những điều gì nữa!”
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đáp: “Tinh khí của con người truyền đi khắp thân thể, pháp luật của một quốc gia cũng nên đề cập đến mọi vấn đề to nhỏ, từ <Hiến Pháp> quy định chế độ của một đến nước, đến <Tổ Chức Pháp> quy định thiết kế kết cấu, chức năng của bộ máy quốc gia, rồi <Hình Pháp> để trị các tội nghiêm trọng, đến <Dân Pháp> để điều chỉnh quan hệ dân sự, <Thương Pháp> dùng để cân bằng thương nghiệp trong xã hội, và các biện pháp trị tội, giải quyết tranh chấp, tố tụng trong thương trường, rồi luật hành chính quản lý trong bộ máy hành chính của một quốc gia..vv...”
Tống Thần Tông nghe xong thì há hốc mồm kinh ngạc hỏi: “Nhiều thế cơ à?”
“Đây chỉ là một cách nói khái quát mà thôi, còn các chi tiết về phân phối từng bộ môn trong bộ máy quản lý thì còn rất nhiều.”
“Ồ? Phân phối thế nào?”
“Cái này thì nhiều vô kể, ví dụ như: Pháp luật hành chính, có thể phân thành <Thuế Pháp> (thu thuế như thế nào), <Công Thương Hành Chính Quản Lý Pháp> (Mở rộng và quản lý công thương, nói nôm na theo kiểu tiếng việt là quản trị và kinh doanh), cùng với luật pháp về xuất nhập khẩu nữa. Ở thành thị thì nên xây dựng bộ luật quản lý thị chính, quản lý vệ sinh công công, quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm, và còn quản lý về tài nguyên thiên nhiên quốc gia, quản lý tài nguyên quốc gia thì lại có <Luật trồng cây gây rừng>, <Luật bảo vệ môi trường tự nhiên>...v....v... Tiếp đến là nói về dân pháp và luật kinh doanh, cái này cũng vô vàn vô cùng, ví dụ như <Luật hợp đồng> để điều chỉnh về quan hệ mua bán song phương, <Luật xâm phạm hành chính> dùng để bảo vệ tài sản sở hữu <Luật ý thức tài sản > dùng để điều chỉnh về ý thức của dân chúng với tài sản sở hữu của mình, ngoài ra còn có <Luật hôn nhân>, <Luật thừa kế>, <Luật nuôi dưỡng> ...v...v... Trong luật kinh doanh còn có <Luật phản cạnh tranh> dùng để xử lý giải quyết những vụ cạnh tranh phi pháp, <Luật chống lũng đoạn thị trường>”
Tống Thần Tông nghe đến đây thì thấy chóng hết cả mặt vội lên tiếng: “Thôi! Thôi được rồi, bao nhiêu là luật lệ như vậy đề ra để làm gì?”
“Mỗi một bộ luật đều có tác dụng riêng của nó, giống như con người vậy, người có móng tay, râu tóc, lông mi, nước mắt…Chỗ nào cũng có tác dụng của nó!”
“Những bộ luật này ngươi có thể làm ra sao?”
“Thần đại khái cũng biết, nhưng mà đây cũng chỉ là do thần tự lần mò mà ra, không có điều tra hiệu quả cụ thể, nếu như muốn ban bố những bộ luật này, thì phải có thêm thời gian nghiên cứu, rồi mới dựa theo thực tế mà ban bố những bộ luật gì, tuần tự ra sao, thứ nào quan trọng thứ nào không! Từ dễ đến khó ra sao thì mới thực sự phát huy tác dụng được!”
Tống Thần Tông nghe xong thì trợn mắt nhìn Đỗ Văn Hạo, dường như bây giờ mới tin lời hắn nói là sự thật: “Nếu ngươi không phải là thần y thì có lẽ Trẫm đã bắt ngươi tham gia vào biên tập tân pháp rồi!”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy cười nói: “Vi thần xin tuân theo ý chỉ của Hoàng Thượng!”
“Ừm! Trẫm hỏi tiếp ngươi câu này! Ngươi đem việc đồng áng ra so sánh với dạ dày, dạ dày phụ trách tiếp nhận và tiêu thụ thức ăn, là nguồn sống để sinh tồn, cách ví von này của ngươi vô cùng chính xác, ngươi trên đó viết rằng <Tố Vân Nghịch Điều Luân> có nói: ‘Vị bất hòa tắc ngọa bất an’ (tạm dịch: dạ dày không yên ổn thì sẽ dẫn đến ăn ngủ không yên)”
Đỗ Văn Hạo lại kính cẩn giải thích: “Dạ bẩm Hoàng Thượng, đối với con người mà nói, khi dạ dày mất cân bằng thì không chỉ ảnh hưởng đến lục phủ, mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ khí trong cơ thể con người, từ đó mà dẫn đến các loại tai ương bệnh tật, điều này cũng giống như việc trị quốc có đề ra rằng nông nghiệp là căn cơ, là cơ sở của một quốc gia, nếu như nông nghiệp có vấn đề thì quốc gia đó cũng sẽ có vấn đề xảy ra, luận điểm này rất hay, cũng rất dễ hình dung.”
Đỗ Văn Hạo cúi người đáp: “Đa tạ Hoàng Thượng đã khen thưởng!”
Tống Thần Tông lại nói: “Ngươi nói về việc tăng cường sinh trưởng cho nông nghiệp có vẻ long trọng, chỉ nói về chuyện chăm chỉ cày cấy, dựa theo nguyên tắc trồng trọt mà tiến hành nhưng dường như không có một đường lối cụ thể nào cả?”
Nụ Hồng Trắng Ngẩn Ngơ Xuân Mười Chín
Nhớ én CHợt Về Mang Đến Tuổi Đôi Mươi
Ôi!!!Thói Đời Nghĩ Mà Đau Lòng
Ta Cười Cuộc Đời Lắm Nỗi Đau Thương
Đã có 6 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của baongoc
Đỗ Văn Hạo lại nói tiếp: “Sản xuất nông nhiệp, không thể nào tách rời được với công việc mở rộng diện tích cày cấy, nên việc mở rộng ruộng đất là vô cùng cấp thiết. Từ khi Đại Tống ta khai quốc trở lại đây thì quốc thái dân an, nhân dân vô cùng tích cực tham gia khai hoang trồng trọt, diện tích cầy cấy do vậy mà cũng được mở rộng ra rất nhiều, cứ như vậy thì những vùng đất hoang vắng đã được khai phá triệt để và sẽ không còn đất hoang mà khai thác thêm nữa, hơn nữa chúng ta cũng không có đủ nhân lực để khai hoang, do vậy để phát triển nông nghiệp, thì bắt buộc phải nâng cao sản lượng sản xuất của từng mẫu đất lên. Chính vì vậy, công việc lúc này sẽ đòi hỏi rất nhiều vào sự kỹ lưỡng tỉ mỉ của từng hộ, ví dụ như chúng ta có thể sản xuất theo kiểu tập trung lại cùng sử dụng những loại sản phẩm tốt nhất, cải thiện phương thức thủy lợi, phát triển ngành nông nghiệp theo một thể thức lập thể!”
“Nông nghiệp lập thể? Thế có nghĩa là gì?”
“Ví dụ như là: lợi dụng cát sỏi dưới lòng sông để làm vật dụng xây dựng, hồ nước thì thả cá, còn đất thừa thì trồng mía, cây ăn quả, rau củ hoặc những loại hoa quả gì gìđều được cả, nói chung là trồng trọt hỗn hợp, lợi dụng mọi thứ một cách tối đá, phát triển nông lâm nghiệp, chăn thả cá kết hợp với trồng trọt….vv….”
Cho dù người xưa đã biết đến việc trồng trọt hỗn hợp, nhưng họ lại không được quảng bá, nghiên cứu rộng rãi như thời hiện đại. Hơn nữa ý thức, kinh nghiệm trồng trọt của nông dân thời xưa đều thuộc vào loại thô sơ, không có được một tư duy hệ thống như thời ngày nay, càng không thể xem nó như một kỹ thuật hiện đại để quảng bá cho dân chúng được, người nông dân bình thường còn chưa dễ gì hiểu được, huống hồ là Tống Thần Tông. Hoàng Đế đương triều suốt ngày ở trong cung làm sao mà hiểu hết được công việc đồng áng ra sao, do vậy nét mặt trở nên nghi hoặc cũng không phải là điều đáng ngạc nhiên.
Cha mẹ của Đỗ Văn Hạo đều có xuất thân từ nông thôn nên khi hắn còn nhỏ rất hay được cha mẹ hắn dắt về quê chơi, do vậy hắn cũng được chứng kiến nhiều thứ ở nơi đây, từ chuyện trồng trọt đến chăn nuôi ra sao, hắn đều biết hết. Thêm nữa hắn lên lớp học môn địa lý cũng được truyền bá một số kiến thức về nông nghiệp, vả lại ở thời hiện đại hắn cũng được chứng kiến bao nhiêu thành quả của nghành nông nghiệp tạo dựng nên do vậy khi hắn đem những thành tựu từ tương lai quay về một nghìn năm trước như vậy dĩ nhiên sẽ là một sáng kiến mang tính đột phá của thời nông nghiệp thời nhà Tống rồi.
Đỗ Văn Hạo nói: “Để vi thần lấy một ví dụ rất đơn giản về mô hình nông nghiệp lập thể, khi trồng lúa thì có thể nuôi cá và bèo trong đồng ruộng, như vậy cá vừa có cái ăn, mà lợn, vịt cũng có cái chúng cần, không những thế nó làm sạch, phân hủy những nguyên liệu khí mê tan trong đầm nước, một công mà được vô khối việc!”
“Khí mê tan?” Tống Thần Tông đối với từ này cảm thấy lạ lẫm vô cùng.
Đầm khử khí mê tan thì ở quê của Đỗ Văn Hạo nhiều vô kể, do vậy hắn rất hiểu về nó, nghe Tống Thần Tông hỏi vậy nên vội vàng giải thích: “Làm sạch, phân hủy khí mê tan chính là giải quyết làm sạch phân bón ở trong đầm, như vậy vừa vệ sinh sạch sẽ lại còn có thể dùng nước đó để tưới bón cho đồng ruộng, đây là một cách bón phân hữu cơ tốt nhất thuận tiện nhất. Ngoài ra khí mê tan mà thông qua một thiết bị xử lý đặc biệt sẽ biến thành một khí đốt vô cùng an toàn tiện lợi, vừa có thể nấu cơm nấu nước, mà chất thải của nó lại còn là mồi ăn cho cá nữa!”
“Hay! Hay lắm!” Tống Thần Tông nghe rất nhập tâm, vô cùng hứng thú lên tiếng nói: “Trẫm không ngờ ngươi lại hiểu biết về nông nghiệp một cách rành rọt như vậy, những biện pháp này của ngươi nghe rất hay!”
“Đa tạ Hoàng Thượng đã quá khen, nếu muốn phát triển nông nghiệp, thì còn một phương pháp nữa là gia tăng dân số, vi thần có một biện pháp làm gia tăng dân số một cách vô cùng nhanh chóng!”
Tống Thần Tông nghe thấy mắt sáng lên hỏi: “Ố? Ngươi nói Trẫm nghe xem sao!”
Gia tăng tốc độ tăng trưởng dân số để trở thành một nguồn nhân lực dồi dào là một vấn đề giải quyết vô cùng cấp bách đối với các triều đại của mỗi vị Hoàng Đế. Trong thời buổi nông nghiệp phát triển hạn chế như thời nhà Tống này thì dân số chính là nguồn nhânh lực chính, nguồn binh lực chính, nguồn sức mạnh chính của cả một quốc gia. Dân số mà đông, thì sẽ có nguồn lao động phụ trách khâu sản xuất lương thực, sẽ có nguồn binh lực dồi dào để bảo vệ biên cương tổ quốc, như vậy quốc gia sẽ trở nên vô cùng phồn vinh thịnh vượng, do vậy khi nghe Đỗ Văn Hạo nói đến cách gia tăng dân sô thì Tống Thần Tông bất giác cảm thấy hứng thú vô cùng.
Đỗ Văn Hạo đáp: “Muốn tăng cường dân số thì phải có chế độ khuyến khích tăng trưởng dân số, điều chỉnh những yếu tố, chế độ khách quan hạn chế việc gia tăng dân số.”
“Làm thế nào để khuyến khích? Và làm thế nào để điều chỉnh những chế độ hạn chế đó?”
“Bách tính thường không muốn gia tăng dân số là vì bọn họ không đủ sức mà nuôi con cái, người giàu có tiền ăn của để thì ta không bàn tời, chúng ta nên quan tâm đến những người nghèo khó, bọn họ mà có thêm một người mới nữa, thì tức là bọn họ sẽ có thêm một miệng ăn, nếu như người nào không đủ ruộng đất để nuôi, hay họ là những người làm thuê cơm không đủ no, áo không đủ mặc thì sinh nở là một vấn đề rất đáng suy nghĩ với bọn họ, chính vì vậy mà lựa chọn phương pháp nào hợp lý nhất để bọn họ không có ý nghĩ về gánh nặng nuôi dưỡng và sinh nở nữa thì mới có thể khuyến khích sinh nở được!”
“Phương pháp gì?”
“Phương pháp triệt để nhất dĩ nhiên là phải tiến hành một cuộc cải cách ruộng đất.”
“Cải cách ruộng đất ư? Cải cách ra sao?”
“Thu hồi hết lại ruộng đất về triều đình quản lý, cấm không cho bất kỳ ai tiến hành buôn bán ruộng đất, sau đó ban bố lệnh bao đất, thầu đất, hạn định là ba mươi năm, sau đó lại phân phối điều chỉnh lại ruộng đất, nhưng mà việc này dường như lại không thể thực hiện được!”
“Vì sao không thể thực hiện được cơ chứ?” Tống Thần Tống hỏi.
“Dạ bẩm! Bởi vì như vậy thì các địa chủ sẽ không đồng ý với chính sách như vậy, ngoại trừ việc dùng biện pháp mạnh mà thu hồi lại, thì e rằng quốc khố trong chính phủ cũng không đủ tiền mà mua nổi hết số đất đang có!”
Tống Thần Tông nghe vậy liền hỏi: “Vậy những chế độ nào đã kìm hãm sự tăng trưởng dân số vậy?”
“Chế độ kìm hãm tăng trưởng dân số trước mắt chính là chế độ thu thuế, Đại Tống thi hành hai bộ luật thu thuế, thuế đất và thuế thân đánh lên mỗi đầu người. Thuế thân là một trở ngại vô cùng to lớn cho việc tăng trưởng dân số! Bởi vì trong nhà có thêm người mới thì chẳng khác gì việc phải nộp thêm tiền cả, do vậy mà những người nông dân thường chỉ cần nguồn nhân lực tạm được để lo việc đồng áng xong là không muốn sinh nở thêm nữa!”
Tống Thần Tông nghe xong thì ngây người ra nói: “Ý của ngươi là muốn trừ bỏ thuế thân sao?”
“Cũng không hẳn như vậy! Nói một cách chính xác là đem thuế thân bỏ vào thuế ruộng đất, cái này gọi là thuế Thôi Đinh Nhập Mẫu! (Đinh ở đây chính là đầu người, còn mẫu ở đây là ruộng đất). Thuế này có nghĩa là khi ruộng đất nhiều thì thuế thân cũng nhiều theo, khi ruộng đất ít thì thuế thân sẽ giảm đi, như vậy thì sẽ không vì chuyện thuế thân mà hạn chế sinh nở rồi!”
Tống Thần Tông nghe xong đứng thẳng người dậy, chắp tay ra phía sau chầm chậm đi đi lại lại trong phòng rồi nói: “Phương pháp này của ngươi cũng không tồi, nhưng không biết là có tiến hành được không thôi!”
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đáp: “Tiến hành thuế Thôi Đinh Nhập Mẫu thì người nào ruộng đất càng nhiều thì thuế sẽ càng cao, địa chủ dĩ nhiên sẽ không hài long, muốn tiến hành bộ luật này thì trở ngại chắc chắn là sẽ có!”
“Ừm! Cái này Trẫm phải suy ngẫm thật kỹ mới được, ngươi nói tiếp đi, ta thấy ngươi so sánh ngành công nghiệp không khác gì với phổi của người, khí trong người đến từ trong phổi, người mà không có phổi thì sẽ không hít thở được, mà không hít thở được thì tức là tính mạng không còn nữa, một nước mà không có nền công nghiệp thì cũng sẽ bị diệt vong. Luận điểm này của ngươi cũng có một đạo lý nhất định, ngươi nói nên phát triển thêu dệt trên một quy mô lớn, nhưng ta không biết ngươi có những kế hoạch cụ thể ra sao?”
“Cái này thì liên quan tới vấn đề lần trước vi thần đã nói rồi, vi thần có những phương thuốc vô cùng hữu dụng, có thể làm thành một mặt hàng mà tiêu thụ, và vi thần cũng còn những phát minh nhỏ khác dùng để nâng cao khả năng sinh sản. Những mặt hàng và thiết bị này nhất định sẽ được thần dân bách tính tin tưởng mua dùng, chỉ là mặt hàng sản phẩm này bán hàng chạy quá thì sẽ bị những kẻ hám lợi bắt trước làm theo, như vậy sẽ làm tổn hại đến lợi ích vốn có của vi thần, do vậy khi chưa có một chế độ bảo vệ vi thần không dám công bố mặt hàng sản phẩm cùng với thiết bị này.”
“Ừm, vậy ngươi nói xem nên làm cái gì trước? Nên ban bố bộ luật nào?” Tống Thần Tông nghe ý này của Đỗ Văn Hạo ngày hôm nay đã không còn sự cáu giận như trước nữa.
“Luật về tài sản trí tuệ chính là để bảo vệ sản phẩm của người nào phát minh ra nó, và chỉ có một mình người đó mới được có quyền sản xuất tiêu thụ nó. Nếu như người khác muốn sản xuất nó thì phải trả một khoản tiền, còn về chuyện bao nhiêu tiền thì hai bên có thể thương thảo hội ý, nếu chưa được đồng ý mà đã tiến hành sản xuất tiêu thụ thì sẽ bị quy vào tội làm hàng nhái, hàng giả, như vậy sẽ phải bồi thường cho người đã phát minh, thậm chí người vi phạm còn phải chịu phạt, có khi còn phải ngồi tù nữa!”
“Cái này!” Tống Thần Tông nghe xong nét mặt hiện lên một chút chần chừ do dự: “Lần trước đúng là ngươi có nói qua cho Trẫm nghe về chuyện này rồi, Trẫm cảm thấy nó không được ổn cho lắm, ban bố điều luật thì đơn giản vô cùng, nhưng nếu dân chúng không chịu trả tiền cho người phát minh, mà cứ làm nhái, làm giả theo thì làm sao, Trẫm không thể cho người đi bắt hết bọn họ vào được chứ?”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì im lặng chẳng biết nên nói thế nào nữa, hắn biết người xưa làm gì có cái ý thức độc quyền, hay phải mua bản quyền đâu cơ chứ. Do vậy hắn đột nhiên đưa vào một cái vấn đề bản quyền trí tuệ tân tiến như vậy về thời cổ đại, bách tính nhân dân dĩ nhiên là không thể nào chấp nhận nổi rồi. Xem ra, hắn đã đi vào đúng con đường sai lầm của Vương An Thạch đã từng đi, hắn đã quá vội vã hấp tấp mau chóng thành công y hệt như Vương An Thạch vậy, như vậy thì cái phát minh của hắn giờ chỉ còn mỗi một cách bảo vệ duy nhất chính là bảo mật, giấu thật kỹ không cho ai biết mà thôi.
Tống Thần Tông trông thấy vẻ mặt của Đỗ Văn Hạo cứ ngây ra như vậy thì bất giác mỉm cười nói: “Thế này vậy! Ngươi cứ làm đi, phát minh thử đi, nếu như đó là một phát minh tốt thì Trẫm sẽ bảo vệ cái phát minh đó cho ngươi, không cho phép bất kỳ ai được phép làm nhái nó cả!”
“Đa tạ Hoàng Thượng!” Đỗ Văn Hạo lại nói tiếp: “Vậy những kỹ thuật của công nghiệp thì vi thần để lúc sau nói vậy!”
“Cũng được!” Tống Thần Tông cầm lấy bài viết của Đỗ Văn Hạo lên rồi nói: “Trong bài tấu trình này ngươi có nói, huyết mạch trong cơ thể người vận động không ngưng nghỉ, tuần hoàn một khối, lại nói rằng trong <Tố Vấn> có viết: ‘Gan có máu mà làm cho hoạt động, chân có máu thì đi lại được, tay có máu thì có thể cầm nắm được’. Ngươi đem thương nghiệp ra so sánh với huyết mạch, nói rằng thương nghiệp, kinh doanh là động cơ để thúc đẩy sự vận động của cơ thể con người. Về điểm này thì Trẫm không cùng quan điểm với ngươi, từ xưa tới nay tất cả mọi người đều trọng nghĩa mà khinh lợi, trọng nông nghiệp mà áp chế thương nghiệp, là một tôn chỉ mà các triều đại từ đời này qua đời khác đều tuân thủ theo một cách không khoan nhượng. Vì từ cổ chí kim nhân dân đều an cư lạc nghiệp cũng thấy đất nước nào bị diệt vong đâu?”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền đáp: “Nhưng mà, từ xưa đến nay những người đảm bảo cơm no áo mặc thì trong mười nhà cũng chỉ có một nhà đáp ứng được điều kiện này mà thôi. Đây chính là hậu quả của việc không xem trọng phát triển thương nghiệp, kinh tế. Nếu như chú trọng vào phát triển kinh doanh kinh tế thì dân chúng bách tính sẽ có cơm ăn áo mặc, sẽ trở nên giàu có hơn bây giờ rất nhiều.”
“Thật sao?” Tống Thần Tông nhếch mép lên cười mỉa mai, nhưng mà lần này Tống Thần Tông không hề cảm thấy giận dữ như lần trước, cũng chẳng buồn đôi co thêm với Đỗ Văn Hạo làm gì nữa, chỉ nhẹ nhàng chuyển sang một đề tài khác để nói chuyện: “Vấn đề này bây giờ tạm thời không bàn đến nữa. Ta tiếp tục bàn luận tiếp những vấn đề khác trong bản tấu này của ngươi. Trong bài ngươi đem việc quân ra so sánh với chân, tay quyền cước, coi quân địch là ngoại cảm lục dâm (ngoại cảm lục dâm bao gồm: phong, hàn, thự, thấp, tháo, hỏa sáu loại ngoại cảm tà khí xâm nhập cơ thể gây nên ốm yếu), rồi lại coi nội loạn là thất tình nội thương (thất tình bao gồm: hỷ, nộ, ưu, tư, bi, khủng, kinh là trạng thái tinh thần của cơ thể biến hóa mà thành; Vui (hỷ) quá thì hại tim, tức (nộ) quá thì hại gan, lo lắng (ưu) quá thì hại phổi, suy nghĩ (tư) quá thì hại tỳ (lá lách), sợ (khủng) quá thì hại thận) rồi lại dẫn câu nói trong <Tố Vấn> ra rằng: ‘Người hiểu biết không chữa khi bị bệnh mà thường là phòng ngừa mình bị bệnh, trị quốc không nên chờ đến khi nội loạn rồi mới trị, mà nên trị quốc sao cho nội loạn xảy ra. Người bị bệnh thì mới uống thuốc, nước bị loạn rồi mới trị như vậy chẳng khác nào khát nước rồi đâm đầu xuống giếng tìn nước uống, giặc đến chân rồi mới đi chuẩn bị dao, tất cả đều đã quá muộn!’ Ngươi lại dẫn từ trong <Lã Thị Xuân Thu> ra nói: ‘Nước thông suối chảy thì mới không có ao tù nước đọng, hình khí trong cơ thể người cũng có quy luật như vậy, khi hình không động thì tinh sẽ không thông, tinh mà không thông thì sẽ dẫn đến tụ khí.’ Ngươi nói thành lập quân đội là phòng vệ với những việc bất ngờ xảy ra, điểm này nói rất hay. Còn về cụ thể thì ngươi có đưa ra đường lối thiết lập bộ đội chuyên nghiệp hóa, quán triệt tinh hoa hóa quân đội! Vậy phải tinh hoa như thế nào cho phải?”
Đỗ Văn Hạo đáp: “Bẩm Hoàng Thượng! Mong Hoàng Thượng cho thần mạn phép được nói, quân đội Đại Tống của ta có gần trăm vạn quân, nhiều hơn Liêu, Hạ, Thổ Phồn…rất nhiều lần, vậy tại sao mỗi lần đi chinh phạt thì lại thua nhiều hơn thắng?”
Vẻ mặt của Tống Thần Tông lúc này trở nên khó coi vô cùng, nhưng rất nhanh lại khôi phục lại như cũ, nhẹ nhàng lên tiếng: “Vậy ngươi nghĩ sao?”
“Vấn đề của chúng ta ở chỗ binh lính không tinh nhuệ, tướng tá thì bất tài vô dụng, quân đội thiếu những bài luyện tập chuyên nghiệp, binh sĩ thì chủ yếu là lao dịch mà thành, khi vào trận chiến cùng lắm cũng chỉ nắm vai trò hùa theo mà thôi, không hề có chút gì là có tính chiến đấu cả.”
“Đặc biệt là chuyện quan văn là thống soái quân đội, tướng soái lại bị thay đổi quá nhiều, binh sĩ không biết tướng cầm quân là ai, tướng cầm quân cũng chẳng biết binh sĩ mình ở đâu nữa, vi thần cũng biết rằng chế độ này là dùng để hạn chế tướng soái nơi biên cương có binh trong tay sẽ làm càn, thậm chí còn có thể xưng bá một phương nữa. Nhưng mà, chế độ này lại ảnh hưởng vô cùng nghiêm trọng đến sức mạnh chiến đấu của quân đội.” Tống Thần Tông nghe xong thì vô cùng kinh ngạc đưa mắt lên nhìn Đỗ Văn Hạo một lúc lâu, rồi mới chầm chậm nói: “Chẳng có mấy người dám nói những câu như vậy ở trước mặt của Trẫm như vậy đâu, ha ha ngươi hôm nay cũng cả gan lắm!”
“Vi thần thấy Đại Tống chúng ta lớn như vậy mà lại bị bắt nạt không làm gì được, cảm thấy bất bình vô cùng, chính vì vậy mới bạo dạn nói ra những câu tự đáy lòng mình như vậy, mong Hoàng Thượng thứ tội!”
“Ha ha! Nói như vậy thì ngươi đúng là có một dạ trung thành lắm! Ngươi nói cũng không sai, tình hình Đại Tống của chúng ta hiện giờ đúng là như vậy, Trẫm từ trước đến nay đều vô cùng lo lắng việc này, xa thì chưa nói, ngay đến việc tây chinh Tây Hạ mà trận chiến tại thành Vĩnh Thành, hai mươi vạn quân cùng tướng lĩnh Đại Tống đều bại trận. Nguyên nhân thất bại của cuộc tây chinh này suy cho cùng thì cũng chỉ có nguyên nhân đó mà thôi! Nhưng mà, đây là di nguyện của Thái Tổ Hoàng Đế đặt ra, Trẫm không tiện thay đổi!”
“Nếu như không thay đổi, thì chúng ta chắc chắn sẽ lại có những trận thua khác nữa!” Đỗ Văn Hạo lên tiếng nói.
Tống Thần Tông nghe xong thân hình hơi rung động, rồi lại chầm chậm gật gật đầu, sau đó hai tay chắp ra đằng sau lưng, từ từ đi đi lại lại trong căn phòng.
Đi được mấy vòng, thì Tống Thần Tông liền đứng lại, rồi quay người lại nói: “Ngươi có biết tại sao tối hôm nay ta lại gọi ngươi vào đây gặp ta không?”
“Vi thần không biết!”
“Nhã Châu ở Thành Đô là nơi tiếp giáp với Thổ Phồn, ở Nhã Châu thì lại bùng phát bệnh dịch làm cho người và gia súc chết hàng loạt, những người thầy thuốc nơi đó đang không biết làm sao cả, đều đã bó tay chịu thua. Đúng lúc này thì bộ lạc Tây Sơn của Thổ Phồn nhân cơ hội đến gây hấn ở biên giới, giờ đã đánh chiếm thành Nhã Châu, Tri Phủ Nhã Châu và Chỉ huy thống lĩnh quân đội, cùng với các quan lại ở đó đều đã tử trận. Trẫm hôm nay cũng đã hạ chỉ, phong Hán Tu làm Chinh Tây Đại Tướng Quân lãnh một vạn cấm vệ quân cùng với ba vạn quân ở Thành Đô xuất Quân chinh phạt bộ lạc Sơn Tây của Thổ Phồn. Hôm nay, Trẫm gọi ngươi đến đây là muốn ngươi xuất quân cùng đến Tây Vực để an ủi dân chúng.”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì vô cùng kinh ngạc, thì ra Hoàng Thượng hôm nay gọi hắn đến đây là bảo hắn xuất chinh. Mấy hôm trước hắn cũng hay tin Thổ Phồn đến quấy nhiễu ở biên giới, vậy mà không ngờ hôm nay Hoàng Thượng đã quyết định xuất binh đánh Thổ Phồn rồi.
Thời nhà Tống, Thổ Phồn vẫn ở trong trạng thái phân tranh, nội chiến liên miên, cả nước bị tách ra làm rất nhiều bộ lạc to nhỏ, trong bốn trăm năm liền không có lấy một năm nào là thống nhất cả. Lần này đến quấy nhiễu biên giới của Đại Tống là một trong các bộ lạc của Thổ Phồn, có tên là Sơn Tây. So với Đại Tống mà nói thì dân số của Thổ Phồn vốn đã không nhiều, giờ đây phân ra làm nhiều bộ lạc như vậy thì đã ít lại càng ít, Tống Thần Tông xuất quân bốn vạn như vậy chẳng khác nào dùng dao mổ trâu đi cắt tiết gà cả.
Đỗ Văn Hạo chưa từng tham gia bất kỳ một trận chiến nào ở thời cổ đại cả, sau khi nghe xong thì tim của hắn cứ nhảy lên thon thót. Lần viễn chinh này xuất phát từ Đông Kinh Khai Phong Phủ đến đất thục ở Thành Đô, đường xá vô cùng xa xôi vất vả, nhưng mà trong lời nói của Hoàng Thượng thì dường như có một sự sắp xếp nào khác thì phải, Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy bèn dỏng tai lên nghe ngóng chờ đợi.
Tống Thần Tông tiếp tục nói tiếp: “Sau khi nghe xong những đường lối chính sách mà ngươi mới vạch ra thì Trẫm đã thay đổi quyết định của mình, Trẫm không biết những lời mà ngươi nói có tiến hành thực thi được hay không. Nhưng mà, nghe cũng có thấy nó khá có lý, do vậy Trẫm đã quyết định cho ngươi một cơ hội để ngươi có thể bộc phát tài năng của ngươi ra, Trẫm muốn xem xem cái luận điệu Y Đạo Trị Quốc này của ngươi rốt cuộc có thực hiện được hay không!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì sửng sốt vô cùng, hắn viết bài tấu trình này chẳng qua là do Tống Thần Tông ra nhiệm vụ cho hắn, không muốn Tống Thần Tông tỏ ra khinh thường hắn mà thôi, hắn có bao giờ nghĩ đến việc thực tế chính sách của hắn bao giờ đâu cơ chứ, ai ngờ hôm nay Tống Thần Tông xem xong lại quyết định luôn như vậy, lại còn nói là cho hắn một cơ hội để thi thố tài năng nữa chứ, nghe đến đây Đỗ Văn Hạo đột nhiên cảm thấy mình lẽ nào đã được thăng chức lên làm một vị tể tướng đi theo con đường biến pháp của Vương An Thạch?
Đỗ Văn Hạo nghĩ đến đây thì bất giác tim đập chân run, miệng hắn trở nên khô khốc, không biết nên nói sao cho phải, lắp ba lắp bắp nói: “Bẩm Hoàng Thượng!...Vi thần….Vi thần….!”
“Đỗ ái khanh quỳ xuống nghe chỉ!”
Đỗ Văn Hạo nghe thấy thì chỉ muốn nhảy dựng lên, nhưng vẫn vội vã vén áo lên quỳ xuống.
Tống Thần Tông chầm chậm nói: “Trẫm phong ngươi làm Câu Quản Nhã Châu Thường Bình Quảng Bình Huệ Thương, kiêm chức Câu Quản Nông Điền, Thủy Lợi, Bảo Giáp, Nghĩa Dũng, Dệt May. Ngươi có thể thi hành chính sách mới của ngươi ở Nhã Châu, Trẫm sẽ hạ chỉ nghiêm cấm bất kỳ ai cũng không được can thiệp vào việc ngươi làm ở đó. Ngươi có thể yên tâm ở Nhã Châu mà tiến hành cải cách theo ý của ngươi. Hạn của ngươi là ba năm, nếu như ngươi có những cống hiến to lớn thì Trẫm sẽ trọng dụng ngươi!”
Ở đời nhà Tống thì cấp bậc cơ cấu cao cấp hành chính khu vực chủ yếu bao gồm bốn bộ phận: Soái, Tào, Hiến, Thương. Bốn bộ phận này được đích thân Hoàng Thượng ủy thác, Soái chính là An Phủ Sứ là người quản lý về mặt quân đội; Tào là Chuyển Vận Sứ, là người chuyên phụ trách bảo đảm cung cấp kinh phí đến các địa phương khác, đồng thời còn kiểm sát quan lại; Hiến là Hình Ngục Công Sự, chuyên quản về lao ngục; Thương là Đề Cử Thường Bình Ti, ngoài việc cung cấp cứu tế ra, hàng ngày còn phải lo việc nông nghiệp, thủy lợi, bảo giáp, dệt may…Dưới các huyện phủ có các bộ phận khác là Câu Quản Quan.
Do vậy, Tống Thần Tông bổ nhiệm Đỗ Văn Hạo làm chức Câu Quản Nhã Châu Thường Bình Thương này cũng giống với chức Cục Trưởng Bộ Dân Chính, Cục Trưởng Bộ Nông Nghiệp, Cục Trưởng Bộ Thương Nghiệp kiêm Bộ Trưởng Vũ Trang…Bình thường thì các Câu Quản quan chức vô cùng thấp, chỉ là thất phẩm quan, Đỗ Văn Hạo giờ đây đã là Ngự Tiền Chính Thị Đại Phu, quan đến ngũ phẩm, theo lẽ thường thì hắn đi đảm nhiệm chức vụ quan Câu Quản nhỏ bé này thì chẳng khác nào bị cách chức cả. Nhưng, thực tế thì đây là Tống Thần Tông muốn tặng cho hắn một vùng đất để hắn thử nghiệm chính sách của mình, cho hắn ở Nhã Châu làm việc mà không bị kiềm chế, hắn có thể dựa vào tư tưởng, cách nghĩ, đường lối riêng của mình để thi hành chính sách mới mẻ của hắn. Do vậy, quyền lực của Đỗ Văn Hạo lúc này cũng tương đối là to, đồng nghĩa với việc Nhã Châu bây giờ đã là một thành phố trực thuộc trung ươrng, đặc khu kinh tế vậy. Còn Đỗ Văn Hạo chính là thị trưởng thành phố, được toàn quyền phụ trách xây dựng vùng kinh tế mới này.
Tống Thần Tông thực ra cũng có tính toán của riêng mình, một mặt là do Đỗ Văn Hạo đưa ra quá nhiều đường lối tư tưởng mới mẻ về mặt công, nông, thương, binh mà mình từ trước đến giờ chưa từng được nghe qua, do vậy vô cùng hứng thú với kế sách của hắn. Tống Thần Tông suy đi tính lại cũng thấy trong đường lối tư tưởng mà Đỗ Văn Hạo vạch ra đều có những điều được đề ra vô cùng hợp tình hợp lý, cũng muốn thử xem hắn thực hiện chính sách mới mẻ đó có hiệu quả ra sao, do vậy mới hạ quyết tâm bổ nhiệm hắn như vậy. Mặt khác, Tống Thần Tông lại lo lắng đường lối mới mẻ của Đỗ Văn Hạo không được thành công, làm cho tình hình biến pháp hiện nay vốn đã như một mớ bòng bong lại càng trở nên rối loạn hơn. Chính vì thế mà Tống Thần Tông mới cho hắn đi ra biên giới để thử nghiệm. Nhã Châu nơi đó cách xa kinh thành, cách xa trung ương, cho dù có xảy ra vấn đề gì đi chăng nữa cũng chẳng ảnh hưởng gì lớn lắm đến tình hình của đại cục.
Đỗ Văn Hạo mới đầu cứ tưởng mình được phong chức làm tể tướng, sau khi nghe xong mới biết mình bị phân phối ra cái nơi chó ăn đá gà ăn sỏi, mù cang chải làm một viên Câu Quản bé tí tẹo như vậy cũng cảm thấy thất vọng vô cùng. Nhưng, bây giờ hắn dời khỏi được kinh thành, xa rời vua chúa, người ta thường nói ở bên cạnh vua chẳng khác nào ở bên cạnh một con cọp, do vậy âu cũng là một điều tốt với hắn. Hơn nữa Hoàng Thượng còn ban cho hắn nguyên hẳn một vùng đất rộng lớn cho hắn thả sức tung hoành, thực hiện những chính sách mới mẻ của hắn, như vậy làm hắn cảm thấy làm một Ngự Y trong triều hầu hạ Hoàng Thượng có ý nghĩa hơn rất nhiều. Ngoài ra, nếu hắn chẳng may làm ra trò thì có khi lại được Tống Thần Tông trọng dụng cũng nên, nghĩ vậy nên Đỗ Văn Hạo mừng rỡ vội vã dập đầu tạ ơn.
Tống Thần Tông lại nói: “Ngươi có thể đem theo gia quyến cùng với đại quân của Hàn Tu mà tây tiến, khi đến được Thành Đô rồi thì ngươi cứ chờ đợi ở đó, chờ cho đại quân quyét sạch xong bọn Thổ Phồn, thu lại Nhã Châu rồi thì ngươi có thể đến Nhã Châu mà tiến hành chính sách mới mẻ của ngươi. Ngươi nên ghi nhớ là đừng để Trẫm phải thất vọng đấy!”
“Vi thần nguyện đem hết sức mình ra để làm việc, quyết không thể để phụ lòng mong đợi của Hoàng Thượng!”
“Được như vậy thì quá tốt rồi! Thôi được rồi, bây giờ ngươi có thể ra về được rồi đấy, ba ngày sau ngươi sẽ tây tiến cùng đại quân.”
“Vi thần tuân chỉ!”
Khi Đỗ Văn Hạo về đến nhà của mình thì cũng đã đêm hôm khuya khoắt cả rồi.
Khi Đỗ Văn Hạo đi qua phòng của Lâm Thanh Đại thì thấy bên trong vẫn còn hắt ra ánh đèn mờ, thấy vậy bèn dừng chân lại tiến đến gõ cửa.
Có tiếng nói dịu dàng truyền ra từ trong phòng nói: “Ta ngủ rồi, ai vậy? Có chuyện gì không?”
Đỗ Văn Hạo nghe thế bèn mỉm cười nói: “Sao hôm nay lại ngủ sớm như vậy?”
Trong phòng lúc này vang lên tiếng của một vật gì đó vừa rơi xuống dưới đất, sau đó Lâm Thanh Đại nói tiếp thêm một câu: “Văn Hạo, đề sao về giờ này vậy? Chờ tỷ một chút nhé, tỷ sẽ ra mở cửa ngay đây!”
Đỗ Văn Hạo vẫn đứng ở bên ngoài cửa chờ đợi, thì bỗng thấy Bàng Vũ Cầm bưng lên một chiếc khay từ trong nhà bếp đi lại, Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ Lâm Thanh Đại chắc đúng là đã đi nghỉ rồi, giờ đây hình như cũng mới ngồi dậy chuẩn bị mặc lại quần áo để ra đón mình, nhưng lúc này trời cũng khuya rồi, nếu như đem chuyện hắn vừa được bổ nhiệm đến Tứ Xuyên Nhã Châu làm chức Câu Quản nói ra, thì e rằng cả nhà sẽ không khủ được mất, dù sao thì vẫn còn ba ngày để chuẩn bị, ngày mai nói cũng không muộn, nghĩ vậy bèn nói: “Thanh Đại! Nàng thôi không phải chuẩn bị nữa đâu, cứ đi ngủ đi, mai ta sẽ quay lại tìm nàng!”
Trong phòng lúc này cũng im lặng không có tiếng trả lời lại nữa, cho đến khi Bàng Vũ Cầm sắp bước gần đến nơi, thì ánh đèn trong phòng của Lâm Thanh Đại mới vụt tắt.
“Tướng Công! Sao chàng lại đứng đây vậy?” Bàng Vũ Cầm vừa nói vừa đưa mắt lên trông vào phía căn phòng của Lâm Thanh Đại, nét mặt vô cùng tò mò hỏi.
“Lúc nãy ta thấy phòng của Thanh Đại tỷ vẫn còn sáng đèn, nên muốn vào trong đó tìm nàng ta nói vài câu, ai ngờ khi ta vừa đi đến thì đèn nó lại vừa tắt rồi, ta cũng đang định ra về đây!” Đỗ Văn Hạo bịa chuyện nói.
Bàng Vũ Cầm nghe vậy bèn mỉm cười một tay cầm chiếc khay, một tay thì quắp vào cánh tay của Đỗ Văn Hạo nói: “Đi thôi! Mình về đi ăn trước cái đã, ngày mai đến tìm Thanh Đại tỷ cũng chưa muộn mà, chàng chắc là chỉ ở đây một đêm thôi đúng không? Mai chàng lại phải vào cung? ”
“Không! Lần này thì ta không cần phải vào cung thêm lần nào nữa rồi, ha ha ha! Về sau ta sẽ được ở nhà vui vẻ với mấy người rồi!” Đỗ Văn Hạo còn cố tình nói to lên hai từ “mấy người”, sau đó lại quay đầu nhìn về phía căn phòng của Lâm Thanh Đại, hắn mơ hồ nghe thấy một tiếng thở nhẹ phát ra từ nơi đó.
Bàng Vũ Cầm dường như cũng không hiểu ẩn ý trong câu nói của Đỗ Văn hạo, vẫn nhẹ nhàng dựa người vào hắn, hai người cùng bước về phòng ngủ.
Đỗ Văn Hạo đi qua phòng của Tuyết Phi Nhi, thì thấy trong đó tối mù mịt không có lấy một ánh đèn nào cả thì lên tiếng hỏi: “Sao không thấy tiểu nha đầu Tuyết Phi Nhi đâu nhỉ, lẽ nào cũng ngủ rồi sao?”
“Sau bữa tối hôm nay thì Phi Nhi đòi về nhà thăm cha của muội ấy rồi, chàng nói xem tiểu nha đầu này ngày nào cũng gặp cha mình rồi thế mà vẫn bảo nhớ, thiếp nghĩ chắc là chàng ít về nhà, Phi Nhi ở đây cũng thấy chán, còn Thanh Đại tỷ thì mấy hôm gần đây lại bận việc ở tiệm thuốc, cũng đi sớm về muộn. Thiếp cũng không có thời gian để ngồi nói chuyện Phi Nhi, thế nên chắc muội ấy cảm thấy chán quá mới đòi về tìm cha mình chơi cho đỡ buồn, do vậy thiếp cũng đồng ý để nàng ấy đi rồi, hay là bây giờ thiếp cho người đến gọi Phi Nhi về nhé?”
“Thôi! Không cần đâu! Ngày mai hẵng hay, đêm nay ta muốn ngủ với một mình nàng là được rồi.”
Nghe thấy Đỗ Văn Hạo nói vậy Bàng Vũ Cầm liền mở một nụ cười tươi, nét mặt tràn đầy hạnh phúc. Khi Bàng Vũ Cầm và Đỗ Văn Hạo đi về đến cửa phòng của nàng thì Anh Tử nghe thấy tiếng chân của hai người vội chạy ra ngoài cửa phòng, tiến đến đỡ lấy cái khay trên tay của Bàng Vũ Vầm. Sau lưng của Nàng vẫn là chú hổ con Tiểu Khả, lúc này nó đã có kích thước bằng một con chó to rồi.
“Thiếu gia người vừa về đấy ạ?” Anh Tử trông thấy Đỗ Văn Hạo đi đến bèn nở một nụ cười chào đón, rồi bưng chiếc khay thức ăn đi vào trong phòng.
“Ừm! Anh Tử, phu nhân hiện giờ sức khỏe vẫn chưa được tốt lắm, ngươi đừng có suốt ngày cứ chăm chăm trông nom Tiểu Khả mà quên mất phu nhân của ngươi đấy nhé! Nếu ngươi mà lơ là việc chăm sóc phu nhân là ta không tha cho ngươi đâu đấy!” Khi Đỗ Văn Hạo đang nói thì Tiểu Khả đã tiến đến bên hắn, le cái lưỡi to lớn của nó ra liếm liếm lấy cánh tay của Đỗ Văn Hạo làm cho hắn có cảm giác buồn buồn đến sởn gai ốc.
Anh Tử sau khi thắp sáng đèn lên liền đưa Bàng Vũ Cầm và Đỗ Văn Hạo dẫn đi vào trong phòng, sau đó đặt một chiếc đèn lên bàn, sắp cho Đỗ Văn Hạo một đôi đũa, xong đâu đấy mới ngượng ngùng quay sang hắn nhoẻn miệng cười gật gật đầu nói: “Anh Tử biết rồi ạ!”
Bàng Vũ Cầm ngồi bên cạnh cũng lên tiếng bênh vực Anh Tử nói: “Anh Tử đối xử với thiếp rất tốt, nhưng chỉ khi đến tối thì Tiểu Khả nhất định không theo một ai cả, chỉ thích theo chân của Anh Tử thôi, Anh Tử đến đây thắp hương đuổi muỗi cho thiếp mà nó cũng đi theo đến đây!”
Đỗ Văn Hạo lúc này cũng múc lên một thìa cháo đưa lên miệng mình thổi thổi, sau đó đút vào miệng hút soạp lên một tiếng, gương mặt của hắn hiện rõ lên sự mãn nguyện tấm tắc khen: “Phu nhân của ta nấu cháo vẫn là ngon nhất trên đời này, đến cả đầu bếp trong cung Ngự Thiện của Hoàng Thượng cũng chẳng bằng, ngon, ngon thật!”
Bàng Vũ Cầm cầm lấy đôi đũa rồi đưa đến khay thức ăn gắp lên cho Đỗ Văn Hạo một miếng gì gì đó màu đỏ cho vào bát của Đỗ Văn Hạo, mỉm cười nói: “Cái này là mấy ngày trước thiếp mới làm đó, hôm qua bọn thiếp cũng nếm thử rồi, chờ chàng mãi mà không thấy về, cho nên mấy người trong nhà cũng đã ăn qua hết cả rồi!”
Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn bỏ miếng đó vào trong miệng nếm thử, thì bất giác hắn cảm thấy hương thơm ngào ngạt, khẩu vị mềm mại, mới bỏ vào miệng mà đã tan hết ra rồi, ngoài ra nó còn có một mùi vị vô cùng thanh đạm.
“Ngon quá! Nhưng mà ta không biết đó là thứ gì nữa, ta biết phu nhân của ta tay nghề nấu ăn tuyệt đỉnh rồi, mau nói cho biết đây là món ăn gì vậy để ta được mở rộng tầm mắt!”
Anh Tử nghe thấy hai người bọn họ nói chuyện với nhau tình tứ như vậy thì thấy ở lại cũng không tiện, bèn thi lễ xong rồi đem Tiểu Khả dẫn ra bên ngoài.
Nụ Hồng Trắng Ngẩn Ngơ Xuân Mười Chín
Nhớ én CHợt Về Mang Đến Tuổi Đôi Mươi
Ôi!!!Thói Đời Nghĩ Mà Đau Lòng
Ta Cười Cuộc Đời Lắm Nỗi Đau Thương
Đã có 7 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của baongoc