Thủy Kinh vân: "Bành Lãi chi khẩu hữu Thạch Chung sơn yên". Lịch Nguyên dĩ vi hạ lâm thâm đàm, vi phong cổ lãng, thủy thạch tương bác thanh như hồng chung.
Sách Thủy Kinh chép: “Cửa hồ Bành Lãi có núi Thạch Chung.”([90]) Lịch Nguyên cho rằng phía dưới nơi đó có đầm sâu, gió nhẹ cũng động sóng, nước vỗ vào đá, tiếng như tiếng chuông lớn.
Chú thích [90]: Hồ Bành Lãi, núi Thạch Chung đều ở Giang Tây, Thạch Chung có nghĩa là chuông đá”.
----------------
Ghi chú (dữ liệu do Vnn cung cấp):
- Tác giả Kim Định, trong Tinh Hoa Ngũ Điển, cho biết: “…hồ Bành Lãi rất rộng (450 dặm) giáp với bốn quận, trên có núi Bà Dương nên cũng gọi là hồ Bà Dương (Poyang)”.
- Theo Từ Điển Hán Việt của Hanosoft, chữ 蠡 này đọc là Lễ nhưng tên người, địa danh thì đọc là Lãi.
Trích: 蠡 lễ
① Con mọt gỗ, đồ đạc dùng lâu sứt lở cũng gọi là lễ.
② Một âm khác là lê. Quả bầu lọ. Như quản khuy lê trắc 管窺蠡測 nhòm trong ống, ngắm trong bầu, ý nói kẻ nghe thấy hẹp hòi. Ta quen đọc là chữ lãi.
③ Tên người. Như Phạm Lãi 笵蠡 người thời Xuân Thu 春秋.
④ Lại một âm là lỏa. Thốc lỏa 瘯蠡 bệnh ghẻ của các loài vật.
Tại sao ngày nay môn Taekwondo không còn gọi là Thái cực đạo nữa?
Trích:
Hỏi:Trước năm 1975, tôi biết ở miền Nam rất phổ biến môn Taekwondo, lúc bấy giờ được gọi là Thái cực đạo. Sau này, tôi thấy trên các phương tiện truyền thông đại chúng, ba từ Thái cực đạo, không còn được nhắc nữa, mà bị thay đổi hẳn bởi tên gốc là Taekwondo. Có phải người ta không gọi là Thái cực đạo mà là Taekwondo để tránh nhầm lẫn với môn Thái cực quyền? (Ông Võ Hùng Dũng - Đà Nẳng)
Trả lời: Môn Taekwondo là môn võ cổ truyền của người Hàn Quốc, còn được gọi là Đài quyền đạo 跆拳道 chứ không phải Thái cực đạo như cách gọi phổ biến ở miền Nam trước 1975. Đài có nghĩa là đá/đạp chỉ đòn đánh bằng chân; quyền là nắm tay, chỉ cho đòn đánh bằng tay. Hiện môn võ Teakwondo được gọi bằng tên gốc là chính xác, chứ không phải tránh nhầm lẫn với Thái cực quyền là môn võ cổ truyền của người Trung Quốc với đặc trưng là các động tác trường quyền uyển chuyển, chậm rãi kết hợp với việc điều hòa hơi thở. Tương truyền, Thái cực quyền do một đại hành gia trong võ học Trung Quốc là Trương Tam Phong sáng tạo vào khoảng cuối đời Tống.
Hỏi:Hồi còn học tiểu học (cấp I bây giờ), tôi được một thầy giáo dạy cho một bài hát nhân dịp hè, có tên là “Trường cũ”. Đã lâu lắm rồi nên dù bài hát khá ngắn, tôi chỉ còn nhớ được mấy câu đầu: “Bao tháng ngày xa vắng trôi còn đâu mái trường xưa. Xa vắng càng thiết tha mong, bên mấy khung song thưa…”. Bây giờ đang là mùa hè, bỗng nhiên tôi lại nhớ bài hát đó vì nó gắn liền với những kỷ niệm đẹp của thời học sinh. Nếu được xin báo KTNN cho đăng lại toàn bộ bản nhạc này và cho biết thêm về tác giả của nó. (Ông Nguyễn Đức – 133/8A Lê Đình Cẩn, Q.Bình Tân, TPHCM)
Trả lời: Vì thư ông gởi đến tòa soạn bị trễ nên chúng tôi chỉ kịp trả lời ông khi mùa hè đã hết. Chúng tôi rất cảm động khi nhận được câu hỏi này. Giữa thời buổi mà sự đơn bạc về tình cảm đã trở thành một nét đặc trưng đáng buồn trong sinh hoạt xã hội và trong cả lòng người thì hoài niệm về quá khứ của ông là điều vô cùng đáng quý. Có lẽ ông thuộc thế hệ “5x” hoặc trước nữa?
Rất may mắn là chúng tôi cũng biết bản nhạc này. Đây là bản nhạc chúng tôi rất yêu thích hồi còn đi học, và được thầy giáo dạy cho hồi còn học lớp 3 (cũng là lớp 3 bây giờ). Dù được viết ở điệu trưởng (ton majeur), nhưng giai điệu bản nhạc Trường cũ vẫn rất buồn, gợi lên nỗi nhớ thương của người học sinh về ngôi trường cũ. Theo lời thầy giáo chúng tôi kể thì tác giả là một sinh viên (1) trường Bưởi ở Hà Nội, viết cho ngày xa trường. Nhưng trong bản nhạc lại có câu: “Cây sầu đông xưa lá tốt xanh tươi, chạnh lòng ai nhớ tiếc khôn nguôi”, nên chúng tôi cho rằng bản nhạc này có thể được viết ở Huế hoặc tác giả bản nhạc phải là người Huế, vì người Hà Nội không gọi cây sầu đông mà gọi là cây soan. Chắc ông còn nhớ bài nhạc nỗi tiếng (vào những năm 1960) “Hoa soan bên thềm cũ” của nhạc sĩ Tuấn Khanh?
Bản nhạc Trường cũ dường như không được xuất bản mà chỉ lưu hành trong giới học sinh, sinh viên thời trước. Bản nhạc này ngắn và dễ nhớ. Chúng tôi cố gắng ký âm theo trí nhớ và ghi lại đây (2). Có thể không hoàn toàn chính xác, nhưng về cơ bản chắc là đúng. Rất mong bạn đọc nào biết được bài hát này xin bổ sung thêm.
Chúc ông sống lại với những kỷ niệm đẹp của tuổi học trò.
(KTNN số 652, ngày 20.09.2008)
----------------
Chú thích của Goldfish:
(1) Có lẽ gọi là học sinh thì đúng hơn vì trường Bưởi là trường trung học.
(2) Do ảnh chúng tôi chụp lại không rõ, nên chúng tôi xin chép lại lời bản nhạc dưới đây để các bạn tiện tham khảo:
Trường cũ
Bao tháng ngày xa vắng trôi, còn đâu mái trường xưa.
Xa vắng càng thiết tha mong bên mấy khung song thưa.
Xa vắng trường xưa lớp xinh càng xao xuyến tình thơ.
Bao tình thơ ngây những lúc vui chơi, cùng ngồi quanh bóng mát cùng reo cười.
Cây sầu đông xưa lá tốt xanh tươi, chạnh lòng ai nhớ tiếc khôn nguôi
Hỏi:Trong phần trả lời cho ông (bà?) Thi Ngọc ở Cao Lãnh về từ “lai căn” (KTNN số 644, ngày 1.7.2008), ông Liêu Hân có nêu một ý như sau:
“Có ý kiến cho rằng “lai căn” là cách đọc trệch của “ly căn” là “xa rời gốc rễ”, hoặc là cách đọc trại của một từ tiếng Pháp, song dù rất cố gắng, chúng tôi vẫn chưa tra cứu được từ “ly căn” trong cuốn tự điển Hán Việt nào, cũng như chưa tìm được từ tiếng Pháp nào tương tự như “lai căn” nên chưa dám khẳng định, mà chỉ ghi thêm lại đây cho rộng đường dư luận, để độc giả tham gia ý kiến” (1).
Với tư cách là bạn đọc, tôi đóng góp một ý nhỏ: Tôi thấy ý kiến ly căn đọc trại thành lai căn cũng có lý, vì tôi tra trên mạng vẫn thấy chữ “ly căn” 離 根. Hơn thế nữa, tôi thấy có mối tương quan cách phát âm giữa i và ay. Ví dụ mi trong tiếng Hán đọc thành mày (lông mày) trong tiếng Việt, thì li cũng có thể đọc thành lai lắm chứa sao không? Nếu ông chưa cho là phải, thì thử hỏi “ly căn” trong tiếng Hán có nghĩa là gì, ngoài nghĩa“lìa gốc” hay “xa rời gốc rễ”? (Ông Lê Thiên Minh – Q.5, TP HCM)
Trả lời: Cám ơn ông đã đóng góp một ý kiến lý thú cho diễn đàn Chuyện Đông Chuyện Tây. Từ phát hiện của ông, chúng tôi tìm hiểu thì thấy có thêm một số trường hợp chuyển đổi giữa i/y trong tiếng Hán sang ai/ay/ây trong tiếng Việt, như sau:
vi 圍 => vây (bao vây) mi 眉 => mày (lông mày) quí 貴 => quái (quí nhân phò hộ => quới nhân phò hộ) thi 屍 => thây (xác chết) v.v.
Song các trường hợp trên chưa thể là cơ sở ngữ âm để chúng ta đoán được rằng ly đọc trại thành lai, và do đó ly căn đọc trại thành lai căn được. Đã đành là trong tiếng Hán có từ “ly căn”, đặc biệt là trong kinh sách Phật giáo, song lại dùng theo nghĩa hoàn toàn khác. “Ly căn” ngoài nghĩa đen là “lìa gốc”, thì trong thuật ngữ Phật học có nghĩa là “lìa các căn”. Trong triết học Phật giáo thì “căn” được dùng để chỉ lục căn hay “sáu gốc rễ”, tức sáu cơ quan dùng để nhận thức sáu đối tượng là lục trần, tức thế giới ngoại lai. Lục căn gồm: nhãn căn (mắt), nhĩ căn (tai), tỵ căn (mũi), thiệt căn (lưỡi), thân căn (thân thể), và ý căn (ý thức); còn lục trần gồm: sắc (màu sắc), thanh (âm thanh), hương (mùi thơm, thối), vị (mùi vị), xúc (tiếp xúc, chạm), và pháp (các sự vật hiện hữu).
Lục căn Lục trần
Nhãn --=> Sắc
Nhĩ ----=> Thanh
Tỵ -----=> Hương
Thiệt --=> Vị
Thân --=> Xúc
Ý ------=> Pháp
Do đó, ly căn ở đây, như thường dùng trong kinh điển Phật giáo, hàm nghĩa ly căn thoát trần 籬 根 脫 塵 , nghĩa là lìa xa lục căn, xả bỏ lục trần để giữa cho tâm thân được thanh tĩnh mà nhận ra chân tướng của thế gian, chứ không phải theo nghĩa là lai căn mà chúng ta đang tìm hiểu.
Vừa rồi, chúng tôi có nhận được thư đóng góp ý kiến của bạn đọc Nguyễn Văn Thuấn (TP Cao Lãnh, Đồng Tháp) cho biết, căn cứ vào tư liệu nghiên cứu của học giả An Chi thì từ lai căn đã có trong các tự điển từ trước năm 1930. Chúng tôi xin ghi nhận thiếu sót của mình và chân thành cám ơn ông.
Câu đối dùng tên các nhân vật trong Tây Du Ký và Tam Quốc Chí
Trích:
Hỏi:Tôi nghe nói có hai câu đối dùng tên các nhân vật trong Tây Du Ký như Tam Tạng, Tề Thiên để đối với các nhân vật trong Tam Quốc Chí như ba anh em Lưu, Quan, Trương song không có tư liệu và điều kiện để tìm. Nhờ báo KTNN sưu tầm giúp tôi. Xin cám ơn. (Bác Lê Văn Thìn – huyện Duy Xuyên, Quảng Nam)
Trả lời: Câu đối dùng tên các các nhân vật lịch sử của người Trung Quốc có khá nhiều. Chúng tôi chỉ tìm kiếm được câu đối sau đây, rất mong đúng ý bác:
籠中鳥, 望孔明, 想張飛, 無柰關羽
庵中僧, 著玄奘, 念八戒, 此乃悟空 (1)
Lung trung điểu, vọng khổng minh, tưởng trương phi, vô nại quan vũ
Am trung tăng, trước huyền trang, niệm bát giới, thử nãi ngộ không.
(Tạm dịch:
Chim trong lòng, nhìn lỗ sáng, muốn bay cao, ngại chi lông cánh
Tăng trong am, mặc tràng đen, nghĩ tám giới, ngộ lẽ sắc không)
Điểm thú vị là trong vế trước có ba tên nhân vật nổi tiếng trong truyện Tam quốc chí là Khổng Minh (có nghĩa là lỗ trống trong cái lồng), Trương Phi (có nghĩa là giương cánh để bay) và Quan Vũ (có nghĩa là quan tâm đến lông cánh). Vế saulại dùng ba tên nhân vật nổi tiếng trong truyện Tây du ký: Huyền Trang (có nghĩa là áo đen), Bát Giới (có nghĩa là tám điều răn), Ngộ Không (có nghĩa là liểu ngộ được lẽ sắc không).
Năm 1977, tạp chí Sơn hải kinh Trung Quốc ra lại câu đối trên có đổi một chữ. “Lung trung điểu” (Chim trong lồng) thành “Điểu tại lung trung” (Chim ở trong lòng). Câu đối như sau: “Điểu tại lung trung, vọng khổng minh, tưởng trương phi, vô nại quan vũ”. Trịnh Ngọc Thụ đối lại: “Nhân du viên nội, quán hoa vinh, thưởng thạch tú, hữu cảm nhạc hòa”
人游園內, 觀花榮, 賞石琇, 有感樂和 (2)
(Tạm dịch: Người chơi trong vườn, xem hoa tươi, ngắm đá đẹp, cảm nhạc ôn hòa).
Câu đối này dùng ba tên hảo hán Lương Sơn Bạc trong truyện Thủy Hử là: Hoa Vinh, Thạch Tú và Nhạc Hòa.
Có người lại đối: “Nhân nhàn song hạ, thưởng hoa vinh, hý phi yến, bất giác thời thiên”
人閑窗下, 賞花榮, 戲飛燕, 不覺時遷
(Tạm dịch: Người bên song cửa, ngắm hoa tươi, đùa én lượn, chẳng biết ngày trôi). Thời Thiên có nghĩa là “thời gian trôi qua” cũng là một nhân vật chuyên ăn trộm trong Thủy Hử. Song câu này bị chê là không đạt vì Phi Yến (nghĩa đen là con én lượn) dùng để chỉ Triệu Phi Yến là một mỹ nhân đời Hán Thành Đế, nổi tiếng về tài múa hát, chứ không phải là một nhân vật trong Thủy Hử, như Hoa Vinh và Thời Thiên.
(KTNN số 653, ngày 01.10.2008)
------------------
Chú thích của Goldfish:
(1) Dùng chữ 中 (trung) trong vế này xem ra không ổn vì nó giống hệt chữ 中 (trung) ở vế trên. Chúng tôi tìm thấy hai “dị bản” của vế này với ba chữ đầu như sau:
廟內僧 (Miếu nội tăng: tăng trong miếu)
廟裡僧 (Miếu lý tăng: tăng trong miếu)
(2) Câu này trong bản nguồn in như sau: 人游園內, 觀花榮, 觀花榮, 有感樂和. Tức là thừa ba chữ 觀花榮 (quán hoa vinh), nên tôi tạm thay ba chữ này bằng 賞石琇 (thưởng thạch tú).