Hai bên đường, hoa xoan tây đỏ ối xen lẫn vào những tầu lá xanh rờn. Những cánh hoa rụng rải rác trên mặt đất. ánh nắng gay gắt của buổi đầu hè đã làm cho mọi người uể oải, khó chịu.
ở các lớp dưới, nhất là ở lớp ba mới thi Sơ học Yếu Lược xong, học trò làm việc chán nản, chỉ mong cho chóng đến hè. Chán nản là phải! Giời đã nóng bức, các bài lại phải ôn lại từ đầu năm. Bao nhiêu thì giờ thầy giáo dùng để giảng bài mới khi trước, nay dùng để học trò đọc bài cả. Đối với những học trò lười, những phút dùng để học bài ấy sao mà dài thế! Chỉ chậm lại một phút cũng đủ đến lượt các cậu, các cậu sẽ phải quở mắng, chép bài, ở lại. Vụ nghỉ hè càng gần, bầu không khí trong lớp càng thấy buồn tẻ, chán ngắt.
Nhưng ở lớp nhất thì trái hẳn, ở đây, càng về cuối năm, học trò càng gắng sức. Đối với họ, thì giờ qua vùn vụt. Họ ước ao ngày tháng giật lùi trở lại để kỳ thi còn xa. Những sự ước ao hão huyền ấy, họ nhắc tới mỗi khi họ nhận thấy sức học của mình còn kém, bài học ôn còn nhiều.
Nhưng ngày qua, lại ngày qua; thời giờ cứ tiến một cách êm đềm bình tĩnh. Tháng năm tây hết. Còn mười hôm nữa, các cậu học trò lớp nhất sẽ biết cái kết quả tốt đẹp hay chẳng may của mình.
Muốn hiểu trình độ của học trò một cách chắc chắn, và phỏng đoán cái kết quả của kỳ thi sắp tới, Thọ soạn bài cho họ thi thử. Chàng cố ý chọn các đầu bài hơi khó.
Khi đã chấm xong các bài, cộng các điểm số của từng người một để đặt thứ tự trên dưới. Thọ xoa tay, mỉm cười sung sướng, vì thấy công khó nhọc của mình không phải là công uổng. Trừ Nhung và Thanh ra là hai tay xuất sắc nhất, không kể các người khác phần nhiều cũng khá cả. Cứ lấy sức học mà xét, không kể đến sự may rủi, Thọ chắc số học trò trong lớp có thể đỗ được quá nửa.
Thấy tên mình đứng đầu bảng, trên cả các bạn giai, trên cả Thanh là người đã được nàng giúp sức, đã được Thọ săn sóc đến, đã được cha mẹ nàng rộng phép cho đến học thêm buổi tối, Nhung mỉm một nụ cười tự đắc, sung sướng nhìn Thọ.
Mười hai tháng sáu tây! Cái ngày làm cho học trò lớp nhất các trường trong toàn hạt Bắc Kỳ năm ấy phải hồi hộp, vui tươi hớn hở, hay lo sợ phân vân. Ngày ấy sẽ làm cho bao người được thỏa lòng mong ước, và cũng sẽ làm cho bao người khác phải chán nản, đau đớn, ê chề, tủi phận.
Mười hai tháng sáu tây năm ấy là ngày thi Sơ học tốt nghiệp.
Chưa bẩy giờ sáng hôm ấy, cùng với các thí sinh khác, học trò lớp nhất trường Vĩnh Yên đã tề tựu tại trước cửa trường Bảo Hộ Hà Nội. Cậu nào cũng cầm một cuộn giấy trắng, trong có kèm miếng giấy thấm, thước, bút chì, bút viết và mực. Các cậu đi đi, lại lại, hoặc họp từng bọn nói chuyện. Mỗi cậu có một vẻ mặt riêng: có cậu thản nhiên như không, có cậu làm ra vẻ vui tươi, có cậu lo lắng, có cậu trầm ngâm suy nghĩ. Ai đã đi thi qua, cũng hiểu được tâm lý của các cậu lúc ấy, một thứ tâm lý phức tạp đầy sự mong ước, nửa mừng nửa lo.
Thỉnh thoảng các thí sinh lại dãn ra hai bên, nhường chỗ cho chiếc ô tô của ông chính chủ khảo từ từ đi vào trong sân trường hay chiếc xe tay của các ông giám khảo đỗ ngay trước cửa.
Không ai bảo ai, bỗng một phần đông thí sinh nhìn cả về một phía, đằng đầu trường, chỗ bọn học trò con gái đứng. Trên một chiếc xe tay nhà sơn vàng bóng lộn, một thiếu nữ xinh tươi ung dung bước xuống, nhẹ nhàng uyển chuyển trong bộ quần áo tân thời nhã nhặn.
Họ thì thầm bảo nhau:
- Nhung đã đến. Oai không.
- Thí sinh đấy!
Ba hồi trống trong trường vang lên. Các học trò kéo nhau vào trong sân, đến cửa các buồng thi, trông lên những tờ giấy vuông dán ở cánh cửa, xem mình sẽ vào buồng nào, rồi đứng đợi hay đi lại lảng vảng gần đấy.
Bẩy giờ rưỡi.
Trước cửa các buồng thi, người ta bắt đầu gọi học trò vào lớp. Sân trường vắng dần, rồi không còn một ai. Ngoài cửa trường, mấy ông cụ già phe phẩy chiếc quạt, đứng nói chuyện với anh bán bánh tây, chị hàng nước, dưới bóng mát của mấy cây bàng.
Trong lớp, các thí sinh im lặng, cắm cúi làm bài. Cứ xong mỗi bài, số học trò vui vẻ, vững dạ lại giảm đi, và số học trò lo ngại chán nản tăng lên.
Rồi hết buổi sáng đến buổi chiều, ta thấy nhiều cậu hớn hở khoe bài mình với bạn, nhiều cậu phân vân hỏi nhau về những điều mình ngờ vực, nhiều cậu đi riêng ra một mình buồn tẻ.
Buổi chiều xong. Suốt ngày hôm sau là ngày các cậu mong đợi, nghe ngóng, băn khoăn, hỏi han, bàn tán cho đến lúc các cậu chen nhau vào xem mấy tờ giấy đánh máy dán ở cửa trường. Lúc này là lúc ta nhận rõ hạng người đỗ vui tươi với hạng người hỏng bơ phờ rầu rĩ.
Cái cảnh học trò vào thi vấn đáp thật là một cảnh vui mắt. Mỗi cậu cầm một quyển sổ học khóa, và một tờ căn cước, đi từ lớp nọ sang lớp kia, ở đâu cũng dừng lại dăm phút, lắng tai nghe người đang giả lời giám khảo, rồi sẽ gật đầu khen ngợi hay mỉm cười chế riễu. Những cậu học khá chắc ở sức học của mình, thì vào buồng nào cũng đến cho giám khảo hỏi ngay cho chóng xong, để có thì giờ đi kèm các bạn, tìm cách giúp nhau. Còn những cậu, sức học vừa phải, bài học chỗ thuộc chỗ không, thì phải nghe ngóng, suy tính, nghĩ ngợi, so sánh, xem lúc nào nên vào thi, mà vào buồng nào trước.
Nhung đi đâu cũng có một bọn theo sau, vào lớp nào cũng thấy họ xúm quanh mình, vừa để ý nghe, vừa chăm chú nhìn mình nói. Nhiều cậu giả vờ như vô tình đi đến; có cậu không đủ can đảm theo nàng, chỉ đứng ngẩn ngơ trông.
Ngoài sân, tiếng cười nói xôn xao. Họ chê nhau nói sai; họ khen nhau giả lời đúng; họ mời nhau uống nước chanh, rượu bia, hút thuốc lá. Có mấy cậu đứng bình phẩm nhỏ với nhau về quần áo và dáng điệu của những người qua trước mặt, và mỗi khi thoáng thấy Nhung đâu, thì trố mắt nhìn cho đến khi không thấy bóng nàng nữa.
Lúc yết bảng là lúc vui chung của mọi người được vào kỳ vấn đáp, vì không một ai hỏng. Nhìn lớp sóng người từ trong sân trường kéo ra, ta nhận rõ sự lanh lợi hoạt bát của tuổi trẻ đầy hy vọng.
Thọ đang soạn lại sổ sách trong lớp thì nhận được giây thép gửi về:
Các trường nghỉ hè. Thầy giáo và học trò tạm biệt nhau trong hai tháng rưỡi. Cửa trường đóng kín mít. Ngoài sân trường vắng tanh, cỏ bắt đầu mọc cao dần.
Một năm học qua, Thọ thấy rất chóng. Ngẫm lại công việc mình làm trong chín thắng rưỡi, chàng không thấy có một sự gì đáng ghi nhớ. Một vài sự bực mình vì học trò lười hay vô lễ, một vài thú vui trong khi chấm một bài hay hoặc nghe đọc một bài rành mạch. ấy chỉ có thế. Nhưng Thọ thấy khoan khoái nhẹ nhàng, tâm hồn bình tĩnh. Chàng đã làm trọn bổn phận; chàng đã thành thực yêu nghề, đã săn sóc đến lũ trẻ thông minh, lanh lợi, nhanh nhảu một cách chu đáo. Đối với các học trò lười biếng, chàng không ghét mà chỉ thương hại.
Rồi bao việc xẩy ra từ khi Thọ mới bước chân đến đất Vĩnh Yên, lần lượt hiện ra trong trí nhớ của chàng, khiến chàng có lúc mỉm cười sung sướng, có lúc chau mày nghĩ ngợi.
Nhớ đến Loan, chàng không khỏi ngậm ngùi. Không biết đời nàng bây giờ ra sao? Sướng hay khổ? Nghĩ đến cảnh đau khổ của một nàng dâu bị mẹ chồng cay nghiệt, của một người vợ sống gượng với chồng không chút tình yêu, mà Loan có thể gặp được, Thọ băn khoăn hối hận.
Rồi Quảng đến chào Thọ và báo tin cho chàng biết là hắn đã thi đỗ ở Việt Trì. Thọ cảm động.
Những ngày hè nắng bức liên tiếp nhau. Suốt từ sáng đến chiều, mặt giời chói lọi gay gắt, tỏa ánh sáng. Trên cành cây, tiếng ve kêu ran. Khi mặt trời đã lặn, chỉ trên đường Tam Đảo mới có gió mát. Còn ở trong phố khuất gió, hơi nóng ở đường nhựa bốc lên, ở tường gạch và mái ngói xông ra, khiến ta có cái cảm giác như bị đè nén khó thở. Nét mặt người nào cũng có vẻ mệt nhọc, uể oải. ở xứ ta, mùa hè là mùa khó chịu nhất trong một năm. Người mệt nhọc dễ sinh ra lười biếng, hay cau có, hay gắt gỏng.
Mỗi khi gặp trận mưa rào, thì người vật hớn hở, cây cối xanh tươi, đường phố sạch lầu, không khí mát mẻ; nhưng cái mát mẻ ấy mất dần khi mặt trời vén mây giọi ánh sáng.
Thọ về thăm nhà nửa tháng, rồi giữ lời hứa với cụ Tuần, lên nghỉ mát với cụ trên Tam Đảo, nhân tiện dạy thêm Nhung để hết hè thi vào trường Nữ Sư Phạm. Bích cùng đi với Thọ. Mới gặp nhau Nhung và Bích thân yêu nhau ngay. Nhung hỏi Bích về sự thi vào Nữ Sư Phạm, về cách ăn ở của học trò trong trường. Bích kể lại tường tận và khéo thêm bớt đến nỗi Nhung mơ mộng, ước ao, chỉ mong cho chóng hết hè, để được hưởng cái đời lý thú, vui vẻ, hoạt động, nhí nhảnh của cô nữ học sinh mà Bích đã tả; nghĩa là Nhung thèm muốn cái đời của Bích; nhưng mỗi khi nhìn Thọ, nàng lại sẽ thở dài; về Hà Nội học, nàng sẽ phải xa Thọ, mà xa Thọ thì nàng vui tươi sao được.
Chiều nào cũng vậy, Thọ, Nhung và Bích dạo chơi trên những con đường sỏi nhỏ, vòng theo sườn núi, giữa hai giặng cây xanh um tùm. Hễ gặp con bướm nào bay là là mặt đất hoặc nhởn nhơ rời cành này sang cành khác, Nhung và Bích thi nhau đuổi bắt, rồi khi thấy bướm bay đã quá tầm, hai nàng nhìn theo khúc khích cười.
Có khi ba người rủ nhau lên tận đỉnh đèo Thái Nguyên, đứng nhìn con đường dốc chạy vòng sang bên kia sườn núi, hay trèo lên nhà lục lăng ở đỉnh ngọn, ngồi nhìn những ngọn cây mọc thoai thoải xuống chung quanh, mà tưởng tượng như cùng nhau lạc vào một thế giới khác.
Có khi cùng nhau đứng tựa bên cầu, lặng ngắm làn nước từ từ chẩy trên những tảng đá nhẵn thín, những viên sỏi sạch lầu, và nghe tiếng nước reo ào ào từ đằng xa đưa lại, không bao giờ dứt.
Có lúc cùng nhau ngồi hàng giờ trên những phiến đá to dưới chân thác Bạc say sưa trông ngọn nước trắng xóa, từ trên cao reo xuống, ào ào cuồn cuộn, như muốn dội lên đầu mình; những tia nước mát lạnh bắn ra như mưa bụi.
Trong những đêm giăng tỏ cảnh rừng núi bao la, mịt mùng, biến ảo, tiếng thác chẩy rì rào, như đứt, như nối, như gần như xa, đã gợi trong tâm hồn ba người bao cảm giác mới lạ, êm đềm, phảng phất, mơ màng.
Ngày vui chóng qua. Thấm thoát đã gần hết hai tháng, từ ngày Thọ và Bích lên Tam Đảo. Chỉ còn một tuần lễ nữa, các trường tiểu học sẽ bắt đầu khai giảng, Thọ và Bích phải về Hà Nội để sắp sửa đến kỳ vào học. Cảnh Tam Đảo đối với Nhung hết thi vị, nàng chỉ còn đợi đến ngày khai trường là nói với cha mẹ dọn nhà về Vĩnh Yên.
Những ngày vui đã qua chỉ để lại trong trí ta những nỗi nhớ nhung mến tiếc, và làm tăng sự buồn tẻ của cuộc đời hiện tại.
Vắng Thọ và Bích, Nhung kém hẳn vẻ tươi. Nàng không hay ra khỏi nhà. Những buổi chiều tà, ngồi tựa khung cửa sổ, nàng mơ màng nhìn tận cõi xa xăm trước mắt, và tưởng lại những phút êm đềm bên cạnh người yêu. Tiếng suối reo, làn nước chẩy, cảnh rừng núi thâm u, ngọn gió chiều nhẹ nhàng lướt trên những bông hoa tươi thắm, phe phẩy những cành lá rung rinh, bao cảnh dịu dàng ấy chỉ gợi cho nàng những nỗi nhớ mong.
Mồng một tháng chín tây. Ngày khai trường. Trên đường cái học trò hớn hở cắp sách đi học. Đã hai tháng rưỡi, hôm nay mới lại thấy các cô bé, các cậu bé, họp từng bọn đi với nhau, nói cười vui vẻ. Khác ngày thường, là bên cạnh những bạn trẻ nhanh nhẹn, liến thoắng, ta thấy những học trò ngây ngô, ngơ ngác, dụt dè đi sau ông cụ già hay người lớn tuổi. Đấy là các cậu học trò mới theo cha anh đến trường xin học.
Với những bức tường mới quét vôi lại sáng sủa, với cái sân rộng sạch sẽ, cỏ cắt sát mặt đất, trường có vẻ mới hẳn.
Trong sân trường, vẻ tấp nập lại hiện ra. Các cậu bé chạy, nhẩy, đuổi nhau, gào thét. Các cậu nhớn ra vẻ đứng đắn hơn họp lại từng bọn, nói chuyện về các thú vui của mình trong những ngày nghỉ. Những người mới học một năm ở lớp nhất và thi hỏng kỳ mới rồi, lại bẽn lẽn cắp sách đi học, đứng riêng ra một góc trường. Còn học trò mới thì đứng ngây người ra xem các học trò cũ cười nói nô đùa, ước ao được vào học như họ, hoặc đi lại trước cửa các lớp, nhìn vào những dẫy bàn ghế kê có thứ tự, những địa đồ tranh ảnh treo trên tường.
Các thầy giáo đến. Rồi đến giờ vào học, đến giờ các học trò cũ thi lên lớp, đến giờ các học trò mới thi vào học, đến lúc mấy cụ già dẫn cháu vào, khúm núm nộp đơn.
Qua hai ngày đầu, khi các học trò mới cũ đã lớp nào vào lớp ấy, thầy giáo và học trò lại cùng nhau kéo dài cái đời chăm chỉ, bình tĩnh, yên lặng, không một sự gì quan trọng xẩy ra và đáng chú ý hơn là ông thanh tra đến khám trường hay một người học trò vô lễ phải đuổi.
Mấy hôm đầu, Thọ bận nhiều công việc, nên thời giờ chàng thấy qua rất chóng. Nhưng nay mọi việc bận về đầu năm đã xong, Thọ lại cảm thấy trong lớp thiếu sự đầm ấm, thiếu vẻ vui tươi: chàng nghĩ đến Nhung.
Những giờ nghỉ học, những khi nhàn rỗi, Thọ không thể không tưởng tượng đến Nhung được. Rồi những cảnh êm đềm chàng được hưởng trong mấy tháng hè lại lần lượt hiển hiện trong trí nhớ, khiến chàng càng nhận thấy rõ rệt sự rỗng không mà Nhung đã để lại trong lớp, trong nhà chàng và khắp mọi nơi chàng đi đến. Phải. Chỉ vắng một mình Nhung, đối với Thọ, cả tỉnh Vĩnh Yên buồn tẻ.
Những lúc vui sướng, là lúc Thọ nhận được thơ của Nhung. Những lúc ấy chàng sống trong mộng tưởng mà chàng tự xây đắp lấy.
Báo tin đưa về làm cho Thọ hớn hở, trong chốc lát: Nhung đỗ đầu kỳ thi vào trường Nữ Sư Phạm; những ngày chủ nhật, Bích thường rủ nàng về nhà chơi, hai chị em cùng học làm bánh, nấu ăn. Nhưng sau những giờ vui ngắn ngủi ấy, sự buồn tẻ hiu quạnh bao giờ cũng rõ rệt thêm lên.
Nhưng dần dần, lòng mong nhớ cũng cùng thời gian giảm bớt. Công việc làm là môn thuốc giải phiền rất hiệu nghiệm. Nên một tháng sau, Thọ đã trở lại vui vẻ như trước. Chàng lại yêu nghề, quý học trò mà chàng ân cần săn sóc đến. Bao nhiêu thì giờ, chàng dùng cả vào việc dạy dỗ trẻ em.
Nếu cứ thế mãi. Thọ có thể quên hẳn Nhung được, hoặc một đôi khi có nhớ đến chăng nữa, sự nhớ ấy cũng chỉ thoảng qua như khi ta nhớ đến một vật quý bỏ mất đã lâu ngày.
Nhưng thỉnh thoảng, Nhung lại gửi thư về cho Thọ. Những thơ ấy nhắc Thọ nhớ đến Nhung, mà nhớ một cách nồng nàn đằm thắm. Rồi bao giọng nói, bao dáng điệu, bao vẻ đẹp của Nhung lại hiển hiện trong trí nhớ của Thọ.
Trong thư gửi cho Thọ, Nhung chỉ viết những câu hỏi thăm trường, hoặc nói về sự học của nàng, hoặc tả những buổi chủ nhật nàng ở nhà Bích, nhưng đối với Thọ, mỗi chữ, mỗi câu trong thư ấy như có ngụ những ý nghĩa yêu đương. Rồi những khi nhàn rỗi, Thọ lại đem thư của Nhung ra đọc lại một lượt. Những bức thư ấy, chàng xếp cẩn thận trong một hộp giấy rất xinh.
Nhưng lòng người thật nhiều nỗi éo le phiền phức. Có khi xem xong thư của Nhung, Thọ quẳng xuống bàn, thở dài, chán nản: "Hừ!... Thư thường của học trò gửi cho thầy giáo...! Viết lấy lệ!..." Nghĩ thế rồi Thọ thấy nghẹn ngào uất ức.
Ai đã trải qua một thời kỳ yêu nồng nàn đắm đuối, đều hiểu lòng cho Thọ. Trong thời kỳ ấy, ta chỉ tưởng nhớ đến người yêu, âu yếm mọi cái có dính dáng đến người yêu, rồi lại sợ người yêu không để ý đến mình.
Những ngày chủ nhật, Thọ muốn về thăm nhà, vì may ra được gặp Nhung, nhưng không hiểu sao Thọ không làm theo ý muốn.
Về phần Nhung, lòng tưởng nhớ Thọ còn nhiều hơn nữa. Những lúc vui sướng nhất của nàng là lúc viết thư cho Thọ, những phút hồi hộp nhất là phút mở thư của Thọ ra xem và nếu lâu Thọ không trả lời nàng thì nàng thấy băn khoăn buồn nản. Muốn Thọ trả lời, trong thư nào gửi cho chàng, Nhung cũng cố thêm vào mấy câu hỏi về nghĩa sách hay về tin tức. Nhưng khi nào cho là cần lắm, Thọ mới viết thư cho nàng.
Thường không mấy chủ nhật Nhung không đến chơi nhà Bích. ở đấy nàng được ngắm ảnh Thọ treo trên tường, được cha mẹ Thọ yêu quý, được em gái Thọ săn sóc đến, được dùng các thứ mà nàng chắc là Thọ thường dùng.
Rồi nàng tưởng tượng đến dáng điệu của Thọ, ở buồng ăn, ở bàn làm việc, ở phòng tiếp khách. Đứng ngắm bóng mình trong chiếc gương to, nàng nghĩ ngay rằng Thọ cũng đã soi gương ấy không biết bao nhiêu lần rồi.
Nhung lấy làm lạ, không hiểu tại sao những ngày chủ nhật Thọ không về thăm nhà, nơi mà nàng cho là êm đềm đầm ấm, không đâu bằng. Nàng chép miệng thở dài. Hồi tưởng lại từ khi gặp Thọ, nàng chưa thấy sự gì tỏ ra rằng Thọ yêu nàng.
Phải. Thọ có săn sóc đến nàng, chịu khó dạy bảo nàng thật, nhưng biết đâu không vì nàng chăm học, vì Thọ làm trọn phận sự, hoặc nể lời cha mẹ nàng. Còn Thọ yêu nàng? nàng ngờ lắm, nàng không dám tin, nàng không thể tin được. Yêu, mà biết chủ nhật nào nàng cũng ra chơi nhà, Thọ không về. Yêu, mà gửi đi ba bốn cái thư mới thấy trả lời một. Yêu, mà lời lẽ trong thư đạo mạo đứng đắn, không một câu, một chữ nào ngụ ý nhớ thương.
Nhưng chính những bức thư nhạt nhẽo ấy đã làm cho Nhung nhiều lần hớn hở. Không kể gì lời lẽ trong thư, cứ trông nét chữ của Thọ, Nhung cũng đã đủ sướng rồi.
Mỗi khi đến chơi nhà Bích, hễ thấy cuốn sách nào có chữ ký của Thọ là Nhung mượn về ngay. Trong khi nói chuyện, hễ thấy Bích nói Thọ ưa dùng thứ gì, Nhung cũng mua dùng và ưa dùng thứ ấy.
Bích thấu rõ lòng Nhung lắm. Nàng thường làm như vô tình nói chuyện đến Thọ luôn và nhận thấy Nhung chăm chú nghe, nhưng vẫn giữ ý không dám hỏi. Giữ ý tức là có ý.
Một ngày chủ nhật, Thọ đi tầu sáng về Hà Nội. Chàng không có đủ can đảm chống lại với sự nhớ mong nữa. Đã gần hai tháng, Thọ chưa được giáp mặt Nhung, chưa được ngắm cái dáng điệu nhẹ nhàng tha thướt, cái vẻ mặt thắm tươi ôn hoà, chưa được nghe cái giọng nói êm ái, ngọt ngào của nàng. Cái dáng điệu ấy, cái vẻ mặt ấy, cái giọng nói ấy, chàng không bao giờ quên, và trong hơn một tiếng đồng hồ nữa, chàng sẽ được trông thấy nghe thấy.
Xe lửa vẫn ầm ầm tiến nhanh, nhưng Thọ thấy nó chạy rất chậm. Chàng đã xếp đặt sẵn trong trí tưởng tượng những cảnh chàng sẽ thấy ở nhà khi chàng bước chân vào. Bích và Nhung có lẽ đã ở nhà rồi. Hai nàng đang cùng nhau xem truyện, hoặc tập làm bánh nấu ăn. Trong khi ấy mẹ Thọ lặng ngồi âu yếm nhìn hai nàng, thỉnh thoảng lại ngọt ngào hỏi chuyện. Rồi Thọ ở trên xe tay bước xuống, rồi Bích và Nhung hớn hở ra chào, rồi trong khi mẹ và em ra quấn quít hỏi mình. Nhung e lệ, hai má ửng hồng, sẽ lấy ngón tay vén những sợi tóc phất phơ trước mặt.
Nghĩ đến đấy, Thọ mỉm cười, khoan khoái. Xe hỏa dừng lại trước ga Thạch Lỗi. Một tiếng còi từ đằng xa đưa lại, mặt đất hơi chuyển, chuyến xe từ Hà Nội lại rầm rộ kéo đến, chậm dần, rồi đỗ ngay bên ngoài xe Thọ ngồi.
Thọ thấy xe mình rung động rồi bắt đầu chạy. Đứng tựa khung cửa, chàng nhìn chiếc xe kia khuất dần. Bỗng Thọ giật mình, tê tái: trong toa hạng ba chiếc xe ấy, chàng thoáng nhìn thấy Nhung. Phải, chính Nhung; tuy mới thoáng trông, Thọ đã nhận rõ khuôn mặt thanh tú, đều đặn của nàng, và cái áo màu đỏ thẫm mà nàng thường ưa mặc; có lẽ không nhìn thấy Thọ, nên nàng trông đi nơi khác.
Thọ ngồi xuống ghế, buồn tênh. Chàng cho việc về chơi Hà Nội là vô lý, tuy về thăm nhà, thăm cha mẹ và em, sau một thời kỳ vắng mặt đã lâu. Rồi chàng trách Nhung cớ sao không ở Hà Nội, và cớ sao định về Vĩnh Yên lại không viết giấy cho chàng biết được; rồi chàng lại tự trách mình sao về nhà đúng vào ngày Nhung vắng mặt.
Thọ thở dài. Chàng không để ý xem xe đã chạy đến đâu và đã qua những ga nào.
Nhưng tầu vẫn chạy, qua Mỹ Nội Thôn, Đông Anh, Yên Viên, Gia Lâm, rồi đến Hà Nội.
Thọ ở trên xe hỏa bước xuống. Một thiếu nữ sang trọng lại gần, cúi đầu chào:
- Lạy thầy ạ.
Thọ ngạc nhiên một phút, rồi nhận ra, vui mừng nói:
- à chị Loan; mới đầu tôi không nhận ra. Bây giờ chị ở đâu?
- Thưa thầy, nhà con được bổ làm thư ký ở tòa sứ Hà Đông đã ba tháng nay...
Rồi Loan chỉ Thọ, nói với một người trẻ tuổi lịch sự đứng gần đấy:
- Thầy giáo dạy em ở Vĩnh Yên đấy.
Người trẻ tuổi cúi đầu chào Thọ. Thọ ngả mũ bắt tay người ấy, và hỏi:
- Ông bà định đi đâu bây giờ?
Loan nói:
- Thưa thầy, chúng con đi đón me chúng con ở Vĩnh Yên về chơi.
- Cùng đi một chuyến tầu mà tôi không gặp. Nếu có thì giờ, tí nữa mời ông bà vào chơi nhà tôi, 175 phố hàng Lọng.
Thọ chào vợ chồng Loan, rồi ra cửa ga giả vé lên xe tay. Chàng thấy mình nhẹ nhàng khoan khoái như mới làm được một việc gì đắc trí. Là vì từ khi Loan về nhà chồng, hễ nghĩ đến nàng Thọ lại không được yên tâm. Chàng chỉ sợ Loan gặp cảnh khổ, mà lỗi là ở chàng, vì chàng đã khuyên Loan lấy chồng để giữ lại hạnh phúc gia đình. Lòng thi xả vẫn là đáng tôn sùng, nhưng ta không thể không thương người quên mình vì nghĩa vụ được. Nay thấy Loan vui sướng, vợ chồng Loan âu yếm nhau, Thọ không còn nghĩ gì về việc Loan nữa. Chàng mừng.
Về đến nhà, Thọ ngạc nhiên và vui sướng xiết bao, vì chàng thấy Nhung và Bích đang ngồi cắm cúi xem báo. Thì ra người mà chàng thoáng thấy trên tầu lúc nãy không phải Nhung, mà chỉ là một người giống nàng.
Bích nhìn thấy Thọ trước, vội đứng dậy reo lên:
- A! Anh giáo đã về!
Nhung cũng gọi theo:
- Anh Thọ!
Mẹ Thọ ở nhà trong cũng chạy ra đón con.
Nhưng Nhung thấy mặt nóng bừng. Nàng nhận ra rằng, trong khi vô tình nàng đã thốt ra một lời mà nàng cho là quá đường đột. Thật thế, hai tiếng "Anh Thọ" có thể bảo là lời nói của trái tim nàng được. Ngày thường, những khi tưởng nhớ đến Thọ, nàng hay nghĩ đến hai tiếng ấy mà nàng cho là êm ái và muốn nói to lên. Có lẽ vì thế, có lẽ vì đang mong mỏi Thọ, nên nhân khi tình cờ, thấy Bích reo lên, Nhung không kịp suy xét, nghĩ ngợi, đắn đo, buột miệng kêu lên hai tiếng ấy như thể ta thường nói to trong giấc mộng, nhưng khi nói xong, Nhung biết là lỡ lời và hối ngay.
Muốn cho Bích không để ý đến và không nghi ngờ mình, Nhung cố giữ vẻ mặt thản nhiên, vui vẻ đứng lên chào Thọ:
- Lạy thầy ạ!
- Cô Nhung. Cô ra chơi với em Bích.
Nhưng Bích nhí nhảnh và tinh ý lắm. Nàng để tâm xét từng cử chỉ của Nhung một, nên hai tiếng "Anh Thọ" Nhung thốt ra đã lọt vào tai nàng.
Bích vui cười nói:
- Thầy với trò gì! ở đây không phải là ở trong lớp học; Chị với tôi đã thân nhau như ruột thịt, thì anh tôi tức là anh chị. Vậy từ nay giở đi chị cứ gọi anh tôi là anh. Chị không để ý rằng anh Thọ gọi chị bằng "Cô" chứ có gọi bằng "Chị" như khi chị còn đang học đâu.
Mẹ Thọ nhìn Nhung, âu yếm nói:
- Em nó liến lắm, nhưng nó nói phải đấy, cô ạ.
Nhung cúi đầu e lệ, nhưng nàng cảm thấy sung sướng vì mọi người nhà Thọ đều yêu quý nàng.
Mẹ Thọ nói:
- Hôm nay anh về chơi, hai chị em thử đi chợ tập mua thức ăn rồi về làm cơm xem có khéo không.
- Vâng. Me nói phải đấy.
Bích vừa nói vừa chạy vào bếp lấy rổ, rồi rủ Nhung đi chợ. Nàng nói:
- Me ở nhà ạ. Anh giáo ở nhà, chúng em đi chợ.
- Thưa cụ ở nhà, chúng con đi chợ ạ.
- Vâng, hai cô đi chợ mua cho khéo nhé.
Nhung e lệ nói với Thọ:
- Anh ở nhà...
- Vâng. Hai cô đi chóng lên nhé.
Bích đi trước, cúi mặt mỉm cười.
Thọ hỏi mẹ, mới biết là cha mình đi chơi vắng; chàng đến ngồi chỗ Nhung ngồi lúc nãy và cầm tờ báo nàng đã cầm lên xem.
Trong khi ấy, mẹ Thọ hỏi chuyện Thọ ở Vĩnh Yên và nhất là nói đến Nhung, khen Nhung đẹp, có duyên, vui tính, lễ phép, nhanh nhẹn. Thôi thì không còn nết hay nào là Nhung không có. Cụ lại nói cho Thọ biết rằng Nhung và Bích quyến luyến nhau lắm, chủ nhật nào nàng cũng đến chơi, cùng Bích vào bếp tập làm bánh, nấu ăn; nàng có phần khéo hơn Bích. Thỉnh thoảng Bích cũng đến chơi nhà bác ruột Nhung ở phố hàng Bông và một đôi khi ăn cơm ở đấy. Trong khi mẹ nói chuyện, Thọ ngồi im để lặng hưởng hết nỗi vui man mác trong lòng.
Suốt ngày hôm ấy, Nhung không về nhà bác. Nàng đi chơi phố với Bích và Thọ, rồi vào hiệu Gô đa chọn mua cho Thọ một vài thức cần dùng.
Năm giờ chiều, Nhung và Bích đưa Thọ ra ga. Khi tầu đi Vĩnh Yên đã chạy khuất, Bích chợt thấy mắt Nhung ngấn lệ, nhưng nàng làm ngơ đi như không biết.