Chương 407: Chính sự đường thảo luận chính sự (1+2)
Nhóm dịch: Thiên Địa Môn
Nguồn: Sưu Tầm
rầm sư gia nói: "Cũng không phải vậy. Thương nghị quân chính của Tể chấp là đại sự. Đúng hạn là họp. Bình thường cứ mười ngày họp một lần. Cứ mỗi tháng hội nghị thường kỳ của Tể chấp vào mùng mười, hai mươi và ngày ba mươi.
Mỗi khi có công việc đặc biệt phải xử lý liền thì lập tức triệu tập hội nghị. Khi đó sẽ do Tể tướng triệu tập, phát ra thông báo hội nghị như này. Có lẽ thời gian trước đây do bận rộn lo việc tang ma cùng với việc người kế vị ngôi vị Hoàng Đế nên còn đọng lại rất nhiều chuyện cần phải xử lý vì vậy phải khẩn cấp giải quyết".
Đỗ Văn Hạo hỏi: "Ồ, còn lâm triều? Khi nào thì lâm triều?'
"Lâm triều thì vào ngày năm. Ngày mùng năm, mười lăm và hai mươi lăm mỗi tháng ba lần. Khi khẩn cấp có chuyện quan trọng cần thương nghị cũng có thể mở bất kỳ lúc nào. Trước khi mở cũng cần phải có công văn thông báo".
"Tể chấp chủ trị nghị sự những vấn đề gì? Ta biết chắc chắn đều là những đại sự quân chính. Ngươi có kinh nghiệm phong phú, hãy giúp ta dự đoán ngày mai thảo luận chính sự, có khả năng thương lượng những điều gì để ta chuẩn bị trước một chút".
"Ừm. Điều này cũng rất khó nói. Bình thường khi Tể chấp thương nghị chuyện chính sự tất cả đều do nha môn Tể tướng quyết định những hạng mục công việc quan trọng cần thương nghị, nghe qua tình hình xử lý một số chuyện đại sự được phân công xử lý. Bây giờ Hoàng Đế mới đăng cơ. Thái Hoàng Thái Hậu nghe báo cáo và quyết định sự việc. Có thể bước tiếp theo là sẽ nghe các báo cáo toàn diện của các vấn đề, hiểu rõ tình hình cơ bản của tất cả các phương diện, có khả năng sẽ sắp đặt giải quyết những chuyện đó".
"Thái Hoàng Thái Hậu có tham gia hội nghị Tể chấp thảo luận chính sự không?"
"Hình như là không tham gia. Đây là chuyện của Tể chấp. Sau khi Tể chấp thương nghị xong phải bẩm báo lên Hoàng Thượng ân chuẩn. Bây giờ là Thái Hoàng Thái Hậu thẩm định. Nếu như Thái Hoàng Thái Hậu có điều gì không hiểu rõ, hoặc là có ý chỉ khác thì sẽ triệu tập Tể chấp tới điện Văn Đức để hỏi rõ".
"Đã hiểu" Đỗ Văn Hạo trầm ngâm một lát rồi hắn khẽ nói: "Trầm tiên sinh, ngươi là trợ thủ đắc lực nhất của ta. Lần này có thể thuận lợi đoạt lại binh quyền từ tay hai người Ung Vương gia và Vi Ngạn, tránh khỏi một cuộc chính biến cung đình đổ máu, ngươi đã giúp ta rất nhiều chủ ý quan trọng, công lao rất lớn".
Trầm sư gia hạ thấp người thi lễ nói: "Tướng quân quá khiêm nhường. Tướng quân thiếu niên xuất anh hùng, tiền đồ xán lạn vô hạn, có thể được phụ tá tướng quân đó chính là vinh hạnh của lão hủ".
"Ha ha. Thực không dám dấu diếm. Thái Hoàng Thái Hậu giao cho ta một nhiệm vụ gian khổ bậc nhất. Đó là ta phải chỉnh đốn lại quân đội Đại Tống sau đó phải tổ chức quân đội Đại Tống thành một đội quân sức mạnh vô địch" Sau đó giọng nói của Đỗ Văn Hạo nhỏ dần: "Thái Hoàng Thái Hậu rất phẫn nộ đối với việc hàng năm Đại Tống chúng ta phải tiến cống Tây Hạ và Đại Liêu. Trong tương lai chúng ta sẽ dụng binh giải quyết vấn đề này".
Trầm sư gia mỉm cười nói: "Thái Hoàng Thái Hậu chính là nữ lưu anh hùng".
Đỗ Văn Hạo sửng sốt nói: "Nghe tiên sinh nói những lời này, tiên sinh có ý kiến với kế hoạch của Thái Hoàng Thái Hậu sao?"
"Không dám. Nhưng mà tân Đế mới đăng cơ, tất cả đều hả lòng hả dạ. Thái Hoàng Thái Hậu buông rèm chấp chính, rất dễ hiểu việc có ý định sửa trị quân đội này. Nhưng vấn đề là cố tật của quân đội Đại Tống rất nghiêm trọng, không thể dễ dàng giải quyết".
"Đúng vậy. Vì thế ta mới lãnh giáo tiên sinh. Mặc dù Thái Hoàng Thái Hậu để cho ta đề xuất phương án cải cách, chỉnh đốn quân đội nhưng phải bẩm báo người thẩm duyệt, đồng ý mới tiến hành cải cách một cách dứt khoát".
Trầm sư gia vuốt chòm râu trắng. Ông ta cúi đầu, tỏ vẻ nhũn nhặn, trầm ngâm một lát mới nói: "Tướng quân có tính toán gì không?"
"Trên đường quay về ta một mực suy nghĩ. Trong ngàn đầu vạn mối nên bắt đầu từ chỗ nào. Suy nghĩ cơ bản là trước tiên phải nắm bắt được tình huống. Chỉ có hiểu được tình hình thực tế mới có thể đề ra phương án thích hợp nhất. Làm việc phải có mục đích rõ ràng. Lúc trước ta ở trong kho tư liệu tam nha chủ yếu đã tìm đọc tình hình chiến sự giữa Đại Tống và Tây Hạ cùng Đại Liêu. Ta muốn dùng lịch sử thê thảm đau đớn để thức tỉnh Thái Hoàng Thái Hậu bừng tỉnh, để người chính thức biết được những văn nhân luôn ca ngợi công đức triều đình chính là chính là tai hoạ của đất nước. Tiền tiến cống hàng năm cho Tây Hạ và Đại Liêu cũng không phải là tặng phẩm mà chính là đi cống, dngf tiền mua hoà bình, làm người hiểu quân đội Đại Tống chúng ta đã rơi xuống mức không thể chịu nổi một trận chiến. Vấn đề chỉ là quân đội Đại Tống chúng ta đã yếu ớt tới mức độ nào, vấn đề cụ thể nào đang tồn tại ta vẫn chưa có một suy nghĩ cụ thể. Vì vậy ta muốn đi xuống dưới tìm hiểu một cách rõ ràng xem đội quân mà ta đang lãnh đạo rốt cuộc có sức chiến đấu hay không, rốt cuộc vấn đề gì đang tồn tại, có thể bảo vệ quốc gia hay không?"
Trầm sư gia lộ vẻ xúc động, ông ta hạ thấp người thi lễ nói: "Thái độ này của tướng quân mới thực sự là thái độ chân chính một người cầm quân cần có. Con đường để binh cường, tiên đế cũng đã thử qua. Tướng quân nên suy xét cái được cái mất của biến pháp binh cường tiên đế đã uỷ thác Vương An Thạch thực hiện, tránh giẫm lên vết xe đổ, giảm việc phải đi đường vòng".
"Ừ. Ngươi nói rất đúng. Theo ngươi cái được cái mất là gì?"
Trầm sư gia cười nới: "Lão hủ chỉ là một hủ nho, cầm quân không phải sở trường của lão hủ nhưng mà tướng quân đã hỏi. Lão hủ có một số kiến giải vụng về, thỉnh tướng quân tham khảo. Kế sách binh cường của Vương An Thạch có mấy điểm: thứ nhất: cắt giảm nhũng binh, chỉnh biên cấm quân cùng Sương quân. Thứ hai là cải tiến chế tạo vũ khí. Thứ ba là huỷ bỏ chiến thuật canh giữ phòng thủ, phổ biến tương binh pháp cùng kết hợp với đội pháp, tăng mạnh quân số. Thứ ta là bảo vệ mã pháp. Thứ năm là bảo giáp pháp ( chế độ biên chế hộ tịch ngày xưa để quản lý nhân dân theo nhiều tầng. Một số nhà hợp thành một giáp;một số giáp hợp thành một bảo; giáp có giáp trưởng; mỗi bảo có một bảo trưởng). Xin thứ cho lão hủ nói thẳng phép trị quân binh cường của Vương An Thạch cũng chẳng có gì tốt. Ông ta chỉ đơn giản nói ý nghĩa của biến pháp là: luyện binh giáp, tích trừ tiền lương, tướng soái chỉ huy nghe lệnh triều đình. Suy nghĩ của ông ta ngoại trừ bảo giáp pháp có hơi mới mẻ còn lại chỉ là luận điệu cũ rích, mà bảo giáp pháp chứng minh là đã thất bại. Thái Hoàng Thái Hậu sẽ nhanh chóng bãi bỏ".
Đỗ Văn Hạo nói: "Đúng vậy. Lần trước ta theo tiên đế vi hành, cũng có rất nhiều xúc cảm với bảo giáp pháp. Quy định của pháp này về tội liên đới còn đáng sợ hơn rất nhiều so với tiền triều, khiến cho người người cảm thấy bất an. Dân chúng không được sống yên ổn. Mục đích chính của bảo giáp pháp chính là luyện dân binh. Một khi có chiến tranh có thể chuyển dân binh thành một đội dự bị chiến lược. Mục đích thì rất tốt nhưng vấn đề là binh lính là một công việc đặc thù, phải trải qua huấn luyện lâu dài mới có thể đảm nhiệm được. Phải trải qua huấn luyện trường kỳ nhiều năm mới có sức chiến đấu. Không phải biết múa đao, bắn tên dã là binh lính tinh nhuệ. Lão hủ không dám nói tâng bốc nhưng thực sự không mạnh hơn dân chúng bình thường bao nhiêu".
"Trên thực tế giáp binh bảo giáp của hầu hết các địa phương trong cả nước đều không tiến hành huấn luyện quân sự mà bị quan phủ địa phương xử dụng làm sai dịch miễn phí, đi ngược với dự tính ban đầu. Thật ra bốn hạng mục biến pháp của Vương An Thạch đều nhằm mục đích loại bỏ ung tật, lính yếu kém của quân đội. Tất cả các biện pháp đều nhằm vào điều này, hiệu quả cũng tạm được. Điều này chỉ cần theo dõi hai đại chiến với Tây Hạ là biết được".
Đỗ Văn Hạo nói: "Theo như tiên sinh nói. Kế sách cường quân của tiên đế đã nắm được vấn đề mấu chốt. Vì sao không hiệu quả?'
Trầm sư gia áy náy nói: "Tướng quân. Nói thật lão hủ không có quá nhiều ý kiến về phương pháp trị quân. Ba hoa chích choè, xa rời thực tế chỉ là nói dối tướng quân. Xin thỉnh tướng quân xuống bên dưới điều tra như vậy mới tìm được câu trả lời có sức thuyết phục, cũng có thể rìm ra biện pháp chính thức giải quýêt vấn đề".
"Được! Trước tiên không được bàn luận theo cảm xúc. Trước tiên phải điều tra hiểu rõ. Mao chủ tịch. Khụ khụ. Một vĩ nhân đã nói: Không điều tra sẽ không có quyền lên tiếng. Ngày mai bắt đầu tiến hành điều tra. Trước tiên bắt tay vào điều tra Nhung Vệ cấm quân ở kinh thành. Cải cách quân đội là một công trình theo hệ thống, liên quan tới nhiều mặt, muốn hiểu rõ tình hình tổng thể các vấn đề của đất nước, phải suy xét thông suốt mới được. Ta đã có thánh chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu, tất cả các nha môn phải tận lực phối hợp điều tra với ta. Trầm sư gia, ngươi rất thân thuộc các nha môn của triều đình. Công việc thu thập các tư liệu của các vấn đề giao cho ngươi. Ta sẽ tới điều tra tình hình trong nội bộ quân đội. Chúng ta một trong một ngoài chia nhau tiến hành. Ý tiên sinh thế nào?"
Sửo trường của Trầm sư gia là tiếp xúc với các nha môn, tất nhiên sẽ không có vấn đề gì, huống chi còn có thủ dụ của Thái Hoàng Thái Hậu. Ông ta lập tức đồng ý rời nhận thủ dụ, cáo từ.
Đêm đó là Liên nhi hầu hạ. Đỗ Văn Hạo ở trong nội cung mấy ngày liền. Mặc dù có Thái Hoàng Thái Hậu vuốt ve an ủi cho qua cơn nghiện nhưng cuối cùng vẫn không có chuyện gì, hắn đã sớm "nhịn đối nhịn khát". Liên nhi lại là người một mực khôn khéo dịu dàng ngoan ngoãn, cực kỳ hiểu lòng người. Khi ở trong hậu cung nàng thuật trung phòng ( cung nữ chuẩn bị để đề phòng Hoàng Thượng đột nhiên sủng hạnh, lại không biết ứng phó thế nào, khiến Hoàng Thượng khó chịu mà không được việc ). Nàng đã hầu hạ Đỗ Văn Hạo liên tiếp mấy lần. Mây mù dày đặc không biết người nơi đâu cho tới lúc Đỗ Văn Hạo thoả mãn. Hai người mới ôm nhau ngủ.
Tờ mờ sáng ngày hôm sau, Liên nhi đã tỉnh giấc, Đỗ Văn Hạo ngủ gà ngủ gật, lầu bầu nói: "Liên nhi, làm gì vậy? Còn muốn hả? Đến đây nào" Nói xong hắn lại ôm thân thể mịn màng của Liên nhị, định tiếp tục lên ngựa.
"Lão gia, không phải" Liên nhi cười bắt tay hắn. Trong tất cả phu nhân của hắn chỉ có Liên nhi gọi Đỗ Văn Hạo là lão gia, mãi vẫn không đổi: "Lão gia, người đúng là quý nhân hay quên. Tối hôm qua còn nói muốn Thanh Đại tỷ dạy mình luyện kiếm. Anh Tử đang gọi người ở ngoài cửa đấy. Nhất định Thanh Đại tỷ đang đợi bên ngoài. Mau dậy đi".
Lúc nãy Đỗ Văn Hạo đang ngủ nên không nghe thấy, hắn vội vàng nói vọng ra ngoài: "Anh Tử, nãi nãi của các người đã dậy rồi sao?'
Anh Tử nói vẻ tức giận: "Từ sáng sớm. Thiếu gia, chờ người cả buổi rồi".
"Ai nha thực xin lỗi" Đỗ Văn Hạo lăn lông lốc bò dậy. "Mau vào giúp ta mặc quần áo".
Anh Tử nói: "Nô tỳ là nha hoàn của phu nhân, không phải là nha hoàn của phòng này. Theo quy định không thể vào trong".
"Phiền phức. Liên nhi không thể không có nha hoàn sao? Cái gì mà là quy củ. Mau vào đi. Ta vội lắm. À đúng rồi. Lần trước ta bảo Vũ Cầm mua mấy nha hoàn, lão mụ tử, nàng có mua không?"
"Phu nhân sợ sau này tân phu nhân không vừa ý với nha hoàn, lão mụ tử mua về. Dù sao người ta cũng là nữ nhi của quan Tể tướng vì thế trong lần thương nghị trước phu nhân có buột miệng hỏi Tể tướng phu nhân. Lão phu nhân cũng rất khách khí nói cho phu nhân chúng ta biết những hạ nhân làm việc vặt thì có thể mua, chỉ cần chịu khó nhưng nha hoàn thiếp thân thì có thể mang về, không nên mua phòng trường hợp không vừa ý. Tể tướng phu nhân nói đợi khi nữ nhi của mình xuất giá sẽ cho mấy nha hoàn thiếp thân làm của hồi môn dùng làm quà ra mắt phu nhân và mấy vị di nương nên phu nhân chỉ mua mấy người làm việc vặt, không mua bất kỳ nha hoàn cho phòng nào. Trong phòng vẫn còn đóng cửa, sao nô tỳ có thể vào?"
Anh Tử đẩy cửa từ bên ngoài. Cánh cửa bị cài then bên trong, Liên nhi vội vàng để thân thể loã lồ xuống giường chạy ra ngoài cởi then cài. Anh Tử cầm đèn lồng đi vào trong phòng, nàng đặt đèn lồng trên bàn, giúp Đỗ Văn Hạo mặc quần áo.
Anh Tử nói: "Thiếu gia của ta ơi, người tóc tai bù xù như vậy đi ra ngoài. Bên ngoài trời tối om như vậy nhất định sẽ hù doạ người khác. Hơn nữa để như vậy không tiện cho luyện võ. Thiếu gia hãy để nô tỳ búi tóc lại, chậm trễ cũng không sao".
Anh Tử sừng sộ kéo Đỗ Văn Hạo ngồi xuống. Nàng cùng Liên nhi giúp hắn trải đầu. Trong tiếng giục giã của Đỗ Văn Hạo nàng vội vàng búi tóc: "Thôi tạm thời cứ như vậy. Sau khi luyện kiếm xong, nô tỳ sẽ giúp thiếu gia trải đầu lại".
Đỗ Văn Hạo vội vàng ra khỏi tiểu viện của Liên nhi. Anh Tử đứng ở bên ngoài nhìn thấy dáng vẻ của hắn cười hỏi: "Nhìn dáng vẻ lôi thôi của chàng này. Anh Tử hầu hạ chàng như vậy sao?"
"Không không. Không thể trách Anh Tử. Là ta dậy muộn, ta sợ nàng chờ lâu sốt ruột nên mới làm qua quýt như vậy" Dựa vào ánh sáng của chiếc đèn lồng treo ở cửa ra vào, Đỗ Văn Hạo nhìn thấy trán Lâm Thanh Đại lấm tấm mồ hôi, hắn ngạc nhiên hỏi: "Chẳng lẽ nàng đã luyện rồi sao?"
"Ừ. Có luyện một lát. Bình thường canh bốn thiếp đã thức dậy luyện công".
"Ai! Nàng đều luỵên một canh giờ sao? Ta không thể dậy sớm như vậy".
"Chàng dậy sớm vậy làm gì? Đây là thói quen từ nhỏ của thiếp. Dù sao chàng cứchỉ luyện kiếm, không cần dậy sớm. Canh năm dậy là được rồi. Luyện nửa canh giờ. Rửa mặt. Đi vào triều".
Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: "Sau này tới canh năm nàng cũng không cần tới gọi ta. Nàng cứ chờ ta ở rừng trúc hậu viện. Ta ngủ dậy sẽ tới đó".
"Được. Đi thôi".
Hai người đi tới rừng trúc hậu viện, Đỗ Văn Hạo bắt đầu được Lâm Thanh Đại truyền dạy kiếm pháp.
Lần trước Đỗ Văn Hạo đã học xong căn bản của Phân thân thác cốt thủ. Tố chất cơ thể hắn cũng tốt, lĩnh ngộ nhanh. Sau nửa canh giờ hắn đã có thể đại khái nuốt cả quả táo "nuốt cả quả táo; ăn tươi nuốt sống; nuốt chửng (ví với việc tiếp thu không có chọn lọc)" bộ kiếm pháp sau này sẽ từ từ luyện tập.
Sau khi Đỗ Văn Hạo quay về phòng, Anh Tử hầu hạ hắn rửa mặt, thay quan bào, ăn sáng. Anh Tử tiễn hắn rời khỏi trang viện. Khi ra tới cổng chính, đội thân binh đã đang đợi hắn ở đó.
Đỗ Văn Hạo liếc nhìn cỗ kiệu đặt ở ngay cửa ra vào, cau mày nói với đội trưởng đội thân binh Hứa Văn Cường: "Bây giờ ta là võ tướng, không phải là quan văn, sẽ không ngồi kiệu, phải tập tư duy của võ tướng, phải làm từ việc nhỏ trở đi. Sau này ta xuất môn, không phải trường hợp đặc biệt tất cả đều chuẩn bị ngựa. Thay ngựa!".
"Dạ!" Hứa Văn Cường khom người trả lời. Hắn vội vàng phân công người đi chuẩn bị ngựa.
Chiến mã của Đỗ Văn Hạo được thắng yên cương nhanh chóng được đưa tới. Đỗ Văn Hạo liếc nhìn quan bào trên người, lại cảm thấy không tự nhiên. Quan bào là áo dài của quan văn, cưỡi ngựa rất khó nhưng mà bây giờ đổi quan phục không còn kịp. Hắn quay đầu nhìn Anh Tử nói: "Nhớ kỹ Thiếu gia ta sau này là Đại tướng quân phải mặc nhung trang, không mặc quan bào của quan văn".
Anh Tử vội vàng trả lời.
Đỗ Văn Hạo nhảy lên ngựa, giật cương, giục ngựa bước trên con đường lát đá xanh đi thẳng tới nha môn Tể tướng trong Hoàng cung, cũng là Trung thư tỉnh nha môn.
Mặc dù triều Tống có tam tỉnh ( tam tỉnh là chế độ quan chế tam tỉnh. Bắt đầu vào triều Tuỳ, hoàn thiện vào đời Đường. triều Tống tiếp tục sử dụng. Tam tỉnh là Trung thư tỉnh, Môn hạ tỉnh và Thượng thư tỉnh, phân chia nhau khởi thảo chiếu thư, xét duyệt chiếu thư cùng chấp hành chính lệnh, có tác dụng phòng ngừa việc lộng quyền của một cá nhân ở một mức độ nào đó ) nhưng không còn như tam tỉnh như triều Đường. Trung thư tỉnh nắm quyền lực tối cao, ở trong Hoàng cung. Môn hạ và Thượng thư tỉnh không còn quyền quyết định những vấn đề quan trọng, nha môn bị chuyển ra ngoài Hoàng cung.
Đỗ Văn Hạo và đội thân binh cận vệ dừng lại bên ngoài cửa nha môn Tể tướng. Sau khi hắn xuống ngựa, binh lính canh gác ngoài cửa lập tức chào hắn theo nghi thức quân đội.
Đỗ Văn Hạo ngẩng đầu nhìn. Nha môn Tể tướng này quả thực cũng xoàng xĩnh. Dù ngoài cửa trông cũng quyền thế nhưng quá cổ kính. Nước sơn trên cánh cửa đã bong từng mảng, trông không khác gì ngôi miếu Long vương.
Viên quan trực cung kính dẫn Đỗ Văn Hạo vào trong. Sau khi bước qua cổng , qua cửa Thuỳ hoa (một kiểu cửa trong kiến trúc nhà thời xưa, trên có mái, bốn góc buông bốn trụ lửng, đỉnh trụ chạm trổ sơn màu) thì chính là một đại viện theo kiểu Tứ Hợp Viện. Ở chính giữa đại sảnh có treo một tấm biển, sơn đen chữ vàng: "Chính sự đường".
Xung quanh đại viện là hành lang. Hai bên là hai dãy phòng làm việc dài. Bên trong phòng tuy có rường cột chạm chổ ( ví như nhà hoa lệ ) nhưng đều rất cổ xưa. Nếu so với các thiết bị lắp đặt trong những ngôi nhà cao tầng tráng lệ của xã hội hiện đại thì quả thực khác nhau một trời một vực.
Ý một ý giải thích thì quan lại thời cổ đại là "Người đầy tớ của nhân dân". Ít nhất suy nghĩ này mạnh mẽ hơn so với thời hiện đại ở văn phòng làm việc. Thời cổ đại chú trọng "quan không tu sửa nha môn'. Thứ nhất không làm hao tổn tiền bạc cho những hạng mục này. Thứ hai là đặc điểm của tính lưu động xuất quan lại ( quan lại ở kinh thành bị điều về các địa phương làm quan ). Đặc biệt là các quan lại trung cao cấp, theo quy định ba năm chuyển đổi nhiệm vụ một lần. Nhưng trên thực tế còn ít hơn quy định này, chỉ một, hai năm đã thay đổi nhiệm sở, giống như đèn kéo quân vậy. Ngay khi tu sửa nha môn đẹp đẽ, chưa kịp ngồi hưởng thụ đã lại nhấc mông rời khỏi vì vậy không ai muốn bỏ tiền túi ra tu sửa để người khác ngồi hưởng.
Xuyên quan đại sảnh, bước lên bậc thềm chính là Chính sự đường. Hai tên lính đang canh gác cung kính chào theo nghi thức quân đội, vén màn trướng lên, Đỗ Văn Hạo bước vào nội đường.
Treo ở chính giữa đại đường là một bức tranh tiên hạc. Hai bên treo câu đối. Bên dưới, chính giữa đại đường có hai chiếc ghế làm bằng gỗ mun, phía trước là một chiếc bàn tứ phương cũng làm bằng gỗ mun.
Hai bên đại đường đều có bày ba chiếc ghế gỗ mun, cạnh ghế đều có bàn trà hình chữ nhật, cũng làm bằng gỗ mun.
Hai bên trái phải của cửa ra vào có đặt chéo một cái bàn dài cùng với hai chiếc ghế. Bên phải có hai người đang ngồi, trước mặt có giấy bút, nghiên mực, xem dáng vẻ chính là quan lại ghi chép nội dung cuộc họp. Bên kia để không, chắc là để dành cho người báo cáo.
Bên dưới cửa sổ của hai bên đại điện cũng đều đặt hai hàng ghế, chắc là để cho người ngồi dự thính, những chiếc ghế này để trống. Cửa sổ của ba mặt đều đóng chặt, có khá nhiều cửa sổ, trong phòng cũng nhiều ánh sáng.
Tể tướng Vương Giai đang ngồi trên chiếc ghế bên trái đại đường. Chiếc ghế bên phải vẫn để không. Chủ nhân của nó vẫn chưa tới. Người đó nhất định là hữu Tể tướng Thái Xác.
Trong hai hàng ghế hai bên, ghế đầu hàng bên trái vẫn trống. Ngồi nở ghế chính giữa là tả thừa Thượng thư Thái Biện, ngồi cuối cùng là hữu thừa Thượng thư Hoàng Lý.
Ngồi ở ghế đầu bên phải là Xu Mật viện sứ Hàn Chuẩn, ghế chính giữa không có ai ngồi. Ngồi ở ghế cuối chính là phó sứ Xu Mật viện Lâm Hi.
Vương Giai trông thấy Đỗ Văn Hạo bước vào. ông ta đứng dậy, khẽ cúi người chắp tay thi lễ nói: "Đỗ tướng quân tới".
Đỗ Văn Hạo vội vàng bước lên trước, chắp tay thi lễ nói: "Tể tướng đại nhân đến sớm".
"Ha ha. Mời tướng quân ngồi" Vương Giai ra hiệu cho Đỗ Văn Hạo ngồi ở ghế chính giữa bên phải.
Người ngồi đầu tiên bên phải là Hàn Chuẩn. Ông ta là Viện sứ Xu Mật viện, tòng nhất phẩm. Đỗ Văn Hạo là Đô Kiểm Điểm, chính nhị phẩm, thấp hơn một bậc. Mặc dù tam nha và Xu Mật viện đều là hai nha môn lãnh đạo quân đội nhưng cấp bậc không giống nhau. Xu Mật viện cao hơn một bậc so với tam nha. Đỗ Văn Hạo trở thành tam nha Đô Kiểm Điềm, Thái Hoàng Thái Hậu coi trọng nhân tình nên mới nâng hắn lên một bậc, nếu không thì phải kém hai bậc. Lâm Hi tuy là phó sứ Xu Mật Viện, đồng cấp với Đỗ Văn Hạo đều là chính nhị phẩm nhưng Đỗ Văn Hạo là quan chủ sự, ông ta chỉ là tá quan nên đương nhiên phải xếp sau.
Đỗ Văn Hạo chắp tay thi lễ với tử thừa Thượng thư Thái Biện, hữu thừa Thượng thư Hoàng Lý rồi mới ngồi xuống.
Không ai trên đại điện nói lời nào, đương nhiên Đỗ Văn Hạo cũng không nói gì cả. Đợi một lát thì Môn hạ thị lang Chương Hoàng tới sau đó tới hữu Tể tướng Thái Xác cũng tới.
Đã có 25 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Thinhbobo
Ngay khi hai người ngồi xuống. Tể tướng Vương Giai chắp tay về phía Hoàng cung, cất giọng khàn khàn nói: "Chư vị. Hôm qua tân đế kế vị. Thái Hoàng Thái Hậu buông rèm nhiếp chính, cũng đã qua thời gian xử lý việc tang của tiên đế và cao tổ Thái Hoàng Thái Hậu. Thái Hoàng Thái Hậu ý chỉ cho Thái đại nhân và bản tướng cùng giải quyết việc quân chính với nhị vị Vương gia. Tạm thời áp dụng biện pháp xử lý nhưng có rất nhiều sự tình không thể kịp thời xử lý vì vậy có rất nhiều chuyện xử lý chậm trễ. Vì vậy hôm nay mời các vị dự hội nghị này xử lý gấp gáp một số chuyện. Những chuyện còn lại sẽ xử lý ở hội nghị thường kỳ. Chương trình hôm nay…" Vương Giai nhìn lướt qua tờ giấy trên bàn nói tiếp: "Sẽ xử lý sáu công việc".
Hạng mục thảo luận thứ nhất là do bộ Hộ đưa ra. Tân Đế mới đăng cơ, đề nghị miễn trừ các khoản thuế ruộng trong sau năm, bày tỏ Hoàng ân. Hạng mục thảo luận thứ hai cũng do bộ Hộ đưa ra để cùng nhau thương nghị. Năm trước nạn đói ở Hà Đông, lũ lụt ở Hà Bắc, phá huỷ vô số nhà cửa tài sản của trăm họ. Lương thực cứu giúp thiên tai vẫn không đủ. Bộ Hộ đề nghị cấp thêm gạo tiền để cứu giúp nạn thiên tai.
Vương Giai nói: "Hãy gọi người bộ Hộ vào đi".
Viên ký lục ( giống như thư ký ) ngồi ở cạnh cửa trả lời rồi đứng dậy đi ra ngoài. Một lát sau Thượng thư bộ Hộ cùng hai viên quan tiến vào, thi lễ và ngồi xuống.
Tân Hoàng Đế mới đăng cơ, đại xá thiên hạ chỉ là một cách làm thông thường. Nội dung của đặc xá bao gồm đặc xá hay giảm bớt tội cho những người phạm tội, miễn cả thu thuê lao dịch vì vậy vấn đề thứ nhất không có gì cần phải thảo luận, nhanh chóng được thông qua.
Tiếp đó Thượng thư bộ Hộ trình bày đơn giản tình hình thiên tai sau đó hai viên quan đọc kế hoạch cứu giúp tiền và lương thực.
Sau khi nghe đọc xong Vương Giai nói: "Chư vị hãy cho ý kiến".
Chiếu theo quy củ, ngoại trừ hai vị Tể tướng, sau người còn lại phát biểu ý kiến không cần theo trình tự. Sau khi Thái Xác phát biểu xong, Vương Giai sẽ tổng kết lại các ý kiến. Đỗ Văn Hạo không muốn lên tiếng trước. Hắn nghĩ trước hết phải nghe xem những người khác nói gì.
Phó sứ Xu Mật viện Lâm Hi lên tiếng trước tiên. Sau một hồi xúc động, ông ta tỏ vẻ đồng ý. Sau đó tới tả thừa Thượng thư Thái Biện, hữu thừa Thượng thư Hoàng Lý tất cả trước tiên lên giọng rồi cuối cùng tỏ vẻ đồng ý. Thượng thư bộ Hộ định lên tiếng, lúc này Đỗ Văn Hạo mới phát biểu. Hắn nói đơn giản, nông dân dựa vào ông trời kiếm miếng cơm, một khi bị đại nạn như vậy nên ít nhất một năm không có lương ăn, đương nhiên nên phải giúp đỡ nạn dân sau đó cũng theo những người trước, hắn lên giọng quan trên mấy câu rồi cũng đồng ý. Cuối cùng Thái Xác mới lên tiếng, Vương Giai tổng kết lại, nhất trí kế hoạch bổ sung cứu giúp nạn dân thiên tai.
Vấn đề thứ ba là Thượng thư bộ Lễ báo cáo, dự tính tổ chức "Khôn thành tiết" mừng sinh nhật của Thái Hoàng Thái Hậu. Vấn đề này tất nhiên không có bất kỳ dị nghị nào, nhanh chóng được thông qua.
Vấn đề thứ tư là bộ Lại đưa ra. Dự thảo lựa chọn người cho hai vị trí Công bộ thị lang và Hình bộ thị lang. Vấn đề này gây ra tranh luận rất lớn. Đỗ Văn Hạo thờ ơ lạnh nhạt, Vương Giai một phái, Thái Xác một phái. Nhưng vấn đề là phe Thái Xác chiếm đa số, phe Thái Xác đồng ý với ý viên do bộ Lại đưa ra. Cuối cùng số ít phục tùng đa số, đồng ý với lựa chọn cho hai vị trí mà bộ Lại đưa ra.
Vấn đề thứ năm là quân sự Hoàn Khánh Kinh lược ti báo cáo việc quân tình khẩn cấp. Kỵ binh Tây Hạ nhiều lần xâm chiếm vùng biên giới Hoàn Khánh, cướp phá, giết người cướp của, mấy ngàn dân chúng vùng biên giới bị giết, tuy bị quân Đại Tống đánh lui nhưng chúng rút rồi quay lại, binh lực của chúng lại đa số là kỵ binh. Quân Tống mấy lần bố trí mai phục nhưng đều không thể tiêu diệt, thỉnh triều đình phái đại quân đánh dẹp.
Nói đến quân sự cả Tể chấp đều trầm mặc, hoàn toàn khác với việc đỏ mặt tía tai tranh cãi với nhau về nhân sự của hai vị trí thị lang. Tất cả đều bưng ché trà, chậm rãi uống tựa hồ như đang suy nghĩ nhưng thật ra lại đang nhìn hướng gió.
Hai lần Vương Giai lên tiếng yêu cầu mọi người cho ý kiến nhưng không ai lên tiến, ông ta đành chỉ định: "Hàn đại nhân, Xu Mật viện của đại nhân trong coi việc quân sự. Trước tiên xin mời cao kiến của đại nhân".
Lúc này Hàn Chuẩn mới ho khan một tiếng nói: "Việc Tây Hạ xâm phạm biên giới chúng ta cũng không phải là chuyện hiếm có gì chỉ có điều lần này quy mô khá lớn, thiệt hại nghiêm trọng, giết hại mấy ngàn dân chúng vùng biên giới của ta. Nếu không đánh dẹp, dân chúng vùng biên không thể nào an cư lạc nghiệp, cũng làm Tây Hạ coi thường Đại Tống chúng ta. Nhưng sau trận chiến thành Vĩnh Nhạc, nguyên khí quân ta tổn thượng nặng nề, tới nay vẫn chưa hồi phục. Nếu như lúc này tuỳ tiện phái binh chinh phạt, chưa nói tới chuyện hoạ vô đơn chí, cũng khó có thể nói tới chuyện chắc thắng hay không. Chỉ e khi quân Tây Hạ nghe tin đại quân chúng ta tiến tới liền bỏ chạy. Chờ khi quân ta rút về, chúng lại quay lại tập kích quấy rối. Vòng đi vòng lại cuối cùng cũng thế mà thôi".
phó Sứ Xu Mật viện Lâm Hi cũng phụ hoạ: "Không tới lúc vạn bất đắc dĩ không nên phát động can qua. Đại Tống ta cùng Tây Hạ chiến tranh mười năm, quân ta liên tiếp thất bại. Đặc biệt cuộc chiến thành Vĩnh Nhạc, quân ta đại tổn thương nguyên khí. Ty chức cho rằng với tình hình trước mắt của Đại Tống ta, thực sự không thể tái chiến".
Gương mặt Thái Xác lộ vẻ buồn bực nói: "Ý của nhị vị là Đại Tống chúng ta để mặc cho quân Tây Hạ cướp bóc giết người dân chúng vùng biên cương sao?"
Hàn Chuẩn, Lâm Hi liếc nhìn nhau. Hàn Chuẩn cười nói: "Ty chức không có ý này".
"Vậy theo ý kiến của Hàn đại nhân chúng ta phải làm thế nào?'
"Ty chức cho rằng. Đại Tống ta từ lúc khai quốc đã chinh chiến hai mươi năm với Đại Liêu, không thể đánh thắng. Chân Tông hoàng đế với hiệp ước Thiền Uyên, dùng hai mươi vạn tiền một năm đổi lấy sự bình an trên trăm năm của biên cương, cũng tiết kiệm được rất nhiều quân phí. Bốn mươi năm trước, Đại Tống cùng Tây Hạ cũng vốn kết chuyện Tần Tấn, tiền tiến cống hàng năm đổi lấy sự bình yên biên giới trong hơn hai mươi năm. Trước khi gây chiến lại, tại sao không thương nghị với Tây Hạ, dùng tiền tiến cống hàng năm đổi lấy bình an?"
Thái Xác cười âm trầm, ông ta nghiêm nghị nhìn lướt qua mấy văn thần bên trái hỏi: "Ý của ba vị thế nào?'
Môn hạ thị lang Chương Hoàng chắp tay nói: "Ty chức cho rằng Hàn Xu Mật cùng Lâm phó sứ nói tuy có uất nghẹn nhưng cũng chỉ là hành động bất đắc dĩ. Nếu như có thể dùng hơn mười vạn bạc mỗi năm đổi lấy sự bình yên nơi biên cương, tránh việc phải động binh đao, đó chính là thượng sách".
"Ty chức cũng cho rằng ba vị đại nhân nói rất đúng" Tả thừa Thượng thư Thái Biện liếc nhìn Đỗ Văn Hạo, thản nhiên nói: "Quân ta yếu, không đánh lại kẻ thù vậy còn biện pháp nào không? Chỉ trách bản thân không có bản lãnh, quân đội không thể đánh trận thì không nên gây chiến tranh tránh cho việc tiêu hao một lượng lớn vật tư, mồ hôi và máu của dân chúng. Hãy để dùng cho việc khác".
Hoàng Lý nói: "Đúng vậy quốc khố hao tổn mà không giải quyết được việc gì. Hoạ nhũng binh, quân đội suy nhược lâu ngày".
Thái Xác cau mày nói: "Thương nghị chuyện có dụng binh hay không với Tây Hạ, kéo theo những chuyện kia làm gì?'
Hoàng Lý vội nói: "Dạ dạ. Ty chức cũng đồng ý với cao kiến của mấy vị đại nhân. Không đánh mà có thể khuất phục người khác chính là thiện chi thiện giả vậy ( ý muốn nói đánh trăm trận, thắng cả trăm trận khuất phục người khác vẫn không được coi là cao minh nhất. Không đánh trận vẫn khuất phục được kẻ thù mới được coi là cao minh trong cao minh). Dùng tiền tiến cống hàng năm đổi lấy việc lui binh của Tây Hạ, không hẳn đã là thượng sách. Có lẽ Tây Hạ không vừa lòng với số lượng hơn mười vạn lượng, muốn nhiều hơn số đó. Ty chức cho rằng chỉ cần làm cho Tây Hạ một lần nữa lui binh, dân chúng biên cương lại được an cư lạc nghiệp vậy cũng không thể không làm. Dù sao hơn mười vạn lượng đối với Đại Tống chúng ta mà nói chỉ như là chín trâu mất một sợi lông mà thôi. Hàng năm chinh chiến hao tổn lương tiền còn vượt xa số lượng này".
Thái Xác quay đầu lại nói với Vương Giai: "Vương Tể tướng, ý của bản tướng cũng như vậy. Không bằng chúng ta thỉnh Hoàng Thượng, không thỉnh Thái Hoàng Thái Hậu cử sứ thần sang hoà đàm, dùng hai, ba mươi vạn lạng đổi lấy việc Tây Hạ bãi binh".
Vương Giai nhìn Thái Xác cười nhạt nói: "Hình như Đỗ tướng quân còn chưa phát biểu cao kiến".
Thái Xác ngẩn người, lúc này ông ta mới nhớ ra Tể Chấp còn một vị tam nha Đô Kiểm Điểm. Từ trước tới giờ người này vẫn một mực không lên tiếng. Ông ta xấu hổ, cười áy náy nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Đỗ tướng quân, tướng quân có cao kiến gì không? Khụ khụ, đúng rồi. tướng quân mới vào Tể chấp, năm nay tuổi nhược quán, chỉ e không hiểu nhiều lắm về mười năm chinh chiến trước đây giữa Đại Tống và Tây Hạ. Chắc tướng quân cũng hiểu phân tích lúc trước của mấy vị đại nhân. Hy vọng tướng quân cẩn thận cân nhắc, tránh hành động theo cảm tính. Tướng quân cho rằng Đại Tống chúng ta có nên dùng tiền tiến cống hàng năm để đổi lấy việc lui binh của quân Tây Hạ không?"
"Tiền nhiều cứ đốt" Đỗ Văn Hạo hừ nhạt một tiếng nói.
Lập tức sắc mặt mọi người có vẻ tức giận, lắp bắp kinh hãi.
Xu Mật viện Hàn Chuẩn lên tiếng chất vấn: "Đỗ tướng quân, chỉ e những lời này của tướng quân không ổn. Tiền tiến cống hàng năm đổi lấy bình yên chính là do Chân Tông hoàng đế là người mở đầu. Việc này đã duy trì sự bình an trăm năm của biên giới Tống Liêu. Nhân Tông hoàng đế cũng noi theo Chân Tông hoàng đế dùng tiền tiến cống hàng năm đổi lấy sự bình an mấy chục năm của biên giới Tống Hạ. Chẳng lẽ hai tiên đế có nhiều tiền nên đốt sao?"
Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: "Hôm qua, Thái Hoàng Thái Hậu truyền hỏi ty chức về chiến tranh Tống Liêu và chiến tranh Tống Hạ, có bình luận về việc tiến cống hàng năm đổi lấy hoà bình, người còn gọi đây là nỗi nhục của nước mất chủ quyền.
Thái Hoàng Thái Hậu từng chất vấn: Hai nước giao chiến. Hai bên đều cần hoà bình. Tại sao lần nào cũng là Đại Tống chúng ta dùng tiền đổi lấy hoà bình để đối phương bãi binh? Vì sao không phải bọn họ dùng tiền đổi lấy hoà bình để chúng ta bãi binh? Hay ít nhất cũng bình đẳng là hai bên cùng bãi binh. Hàng năm chúng ta dùng hai, ba mươi vạn lạng tiến cống cho chúng. Đây không phải là nhiều tiền đốt đi thì là cái gì? Điều ước đó có tính là ngang hàng không? Không phải là nỗi nhục nước mất chủ quyền là gì?"
"Ngươi!" Môn hạ thị lang Chương Thận đứng dậy, chỉ tay vào Đỗ Văn Hạo nói: "Ngươi lại dám nói xấu Chân Tông, Nhân Tông ký hiệp ước với Liêu, Hạ. Đây là nỗi nhục nước mất chủ quyền sao? Hay hay hay. Bản quan không thể không vạch tội ngươi tội đại bất kính".
Đỗ Văn Hạo cười ha hả nói: "Tại hạ cho rằng Tể chấp là thảo luận chính sự. Mọi người vốn có thể thoải mái phát biểu ý iến của mình, thì ra vẫn còn có người núp ở đây, đánh bằng gậy, chụp mũ, bắt thóp người khác, nịnh bợ. Ha ha ha. Thật sự được mở rộng tầm mất. Ha ha ha".
Chương Hoàng tiến lên một bước, chỉ tay vào mặt Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói: "Tể chấp thảo luận chính sự, tất nhiên có thể nói thoải mái nhưng không thể làm nhục tiên đế. Ngươi không phải mắc tội đại bất kính thì là cái gì?"
Đỗ Văn Hạo vẫn ung dung ngồi tại chỗ nói: "Chương đại nhân hãy bình tĩnh, chớ nóng vội. Đại nhân hãy nghe rõ những lời này không phải tại hạ nói, là Thái Hoàng Thái Hậu nói. Thái Hoàng Thái Hậu cũng chỉ nói hai hiệp ước này là nỗi nhục nước mất chủ quyền, chưa nói gì về tiên đế. Những lời tại hạ mới nói chẳng qua là truyền đạt lại lời của Thái Hoàng Thái Hậu mà thôi. Nếu như đại nhân không phục, muốn chất vấn, sao không tới chất vấn Thái Hoàng Thái Hậu?'
Lập tức Chương Hoàng hoảng sợ. Ông ta suy nghĩ một chút. Quả thực vừa rồi Đỗ Văn Hạo có nói đó là lời của Thái Hoàng Thái Hậu. Nhưng ông ta lại nghe như chính là Đỗ Văn Hạo nói ý kiến của mình. Chương Hoàng nóng lòng không lắng nghe cẩn thận, liền làm khó dễ nên bây giờ ở vào thế cưỡi lưng cọp.
"Chương đại nhân bớt giận. Có chuyện gì cứ từ từ nói" Hữu thừa Thượng thư Hoàng Lý đứng dậy, kéo Chương Hoàng ngồi xuống ghế của mình, ông ta nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Thái Hoàng Thái Hậu nói đương nhiên là có lý. Việc nhục quốc thể hay không vẫn còn chưa nói được nhưng thật ra trong lòng mọi người đều hiểu rõ. Tiền tiến cống hàng năm đổi lấy bãi binh ở một mức độ nào đó quả thật có làm tổn hại tới sự uy nghi của Đại Tống. Nhưng còn biện pháp nào khác không? Tướng quân muốn Đại Liêu và Tây Hạ xuất tiền ra sao? Đại Liêu và Tây Hạ là hai nước man di, cũng chỉ bởi vì nghèo hèn, không có tiền, thấy Đại Tống chúng ta phồng hoa thì tối mắt, xuất binh xuôi nam đánh cướp. Bọn chúng nguyện ý xưng đệ, nguyện ý xưng thần, ngược lại chúng ta bỏ ra một ít tiền, cũng không hẳn là không được. Cần gì phải phóng đại tới mức nỗi nhục nước mất chủ quyền?"
Tả thừa Thượng thư Thái Biện ở bên cạnh cười nhạt nói: "Tiền tiến cống hàng năm đổi lấy bình an quả thực là làm nhục sự uy nghiêm của Đại Tống. Nhưng vấn đề là trăm vạn đại quân chúng ta đánh không lại chúng. Không tốn tiền thì phải làm gì đây? Tiếp tục đánh sao? Tất cả quốc khố thu được đều ném vào đó để cho suy sụp sao? Tất cả tiền thuế đều là tiền mồ hôi nước mắt của dân chúng đều quẳng vào cái túi không đáy đó sao?"
Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: "Tại hạ đã được nghe nhiều chuyện hai nước giao chiến, thất bại đầu hàng, chuyện cắt đất, bồi thường tiền bạc cũng nghe rất nhiều. Trong lòng mọi người cũng hiểu rõ tiền tiến cống hàng năm chính là đền tiền. Lấy nỗi nhục quốc thể đổi lấy hoà bình, cũng chỉ như so với người vong quốc không còn nơi đi. Tại hạ nghĩ rằng đại đa số người trong hàng ngàn hàng vạn con dân Đại Tống chúng ta đều nguyện ý chết đứng còn hơn sống quỳ. Vấn đề chỉ là trong số đó có chư vị đại thần hay không?"
"Ngươi! Ngươi chỉ là một tiểu nhi hoàng mao sao dám ăn nói lỗ mãng?" Mấy người Thái Biện, Hoàng Lý giận tím mặt, đứng bật dậy như muốn gây sự.
Vương Giai là Tể tướng đầu triều, ai dám chống lại. Hai người Thái Biện lập tức phẫn nộ ngồi xuống ghế, cười nhạt, dáng vẻ lạnh nhạt.
Vương Giai liếc nhìn mọi người nói: "Chúng ta sẽ không thảo luận chuyện dùng tiền tiến cống hàng năm đổi lấy bình yên có phải là nỗi nhục nước mất chủ quyền hay không. chuyện này Thái Hoàng Thái Hậu đã nói, chúng ta vẫn còn nghị luận đúng sai thì chính là đang bất kính".
Vương Giai vừa mới nói mấy câu này,. sắc mặt mấy người Thái Biện, Hoàng Lý đều thay đổi.
Vương Giai ho nhẹ hai tiếng, ông ta quay đầu nhìn Thái Xác nói: "Thái Tể tướng, Đỗ tướng quân đã nghĩ việc dùng tiền tiến cống hàng năm không ổn. Tại sao chúng ta không nghe cao kiến của Đỗ tướng quân?"
Thái Xác nói: "Đúng vậy. Nếu Đỗ tướng quân không đồng ý với ý kiến của chúng ta, tướng quân hãy nói cao kiến của mình".
Đỗ Văn Hạo không nóng mà cũng chẳng lạnh nhạt, hắn chắp tay nói: "Cao kiến thì không có, chỉ có thấp kiến. Tại hạ không nói đạo lý lớn. Dù sao Đại Tống chúng ta cũng là một nước lớn, cũng không nên phải chủ động cầu hoà với Tây Hạ. Không phải Tây Hạ dùng chiến thuật du kích vận động chiến sao? Không phải chúng ta không thể đối phó với chiến thuật đó. Tại hạ nói có đúng không? Đại Tống ta dân giàu nước mạnh, muốn đối phó với loại xung đột biên giới quy mô nhỏ này, căn bản là không khó. Còn Tây Hạ thì sao? Cụ thể về năng lực nhân lực của Tây Hạ tại hạ không rõ lắm nhưng tại hạ dám khẳng định tuyệt đối Tây Hạ còn lâu mới bằng chúng ta. Đánh kéo dài nhất định chúng sẽ suy sụp, thắng lợi cuối cùng nhất định sẽ thuộc về chúng ta. Chiến thuật này gọi là đánh trường kỳ".
Lần đầu tiên mọi người nghe thấy cụm từ "đánh trường kỳ" nên ai cũng nhìn hắn vẻ dò xét.
Thái Biện ho khan rồi nói: "Đỗ tướng quân lại muốn dùng thời gian mấy chục năm chiến tranh cùng cảnh nhà tan cửa nát, chết chóc của dân chúng vùng biên để kiểm nghiệm việc Đại Tống có thể thắng Tây Hạ sao?"
Đỗ Văn Hạo nói: "Chúng ta không chọn chiến tranh nhưng chúng ta tuyệt đối không e ngại chiến tranh. Nếu như người khác mang chiến tranh áp đặt cho chúng ta, chúng ta chỉ còn cách nghênh chiến, tuyệt đối không thể quỳ gối đầu hàng, cũng không thể cắt đất, đền tiền nhục quốc thể. Có một việc tại hạ muốn tiết lộ sớm cho chư vị đại nhân. Hôm qua Thái Hoàng Thái Hậu đã trao quyền cho ty chức tiến hành điều tra kỹ lưỡng quân đội Đại Tống, tìm ra biện pháp cải cách chấn chỉnh quân đội. Thái Hoàng Thái Hậu cực kỳ thất vọng đối với tình trạng hiện nay của quân đội Đại Tống, người đã hạ quyết tâm chỉnh đốn".
phó sứ Xu Mật viện Lâm Hi cười nhạt một tiếng nói nhỏ: "Việc chỉnh đốn quân đội không phải hôm nay mới bắt đầu làm".
Ánh mắt Đỗ Văn Hạo sáng như điện, hắn nhìn chằm chằm vào Lâm Hi nói: "Hình như Lâm đại nhân không tán đồng với chủ kiến chỉnh đốn quân đội của Thái Hoàng Thái Hậu?"
"Không dám!" Lâm Hi xấu hổ, ông ta chắp tay nói: "Ty chức chỉ bàn luận về sự việc. Quân đội Đại Tống có không ít tật xấu, đương nhiên phải chỉnh đốn. Tiên đế đã làm, Thái Hoàng Thái Hậu lại tiếp tục thực hiện điều này. Đây đương nhiên là chuyện tốt. Tại hạ không có ý kiến gì. Tại hạ chỉ nói…".
Vương Giai nói: "Thế này đi. Trước hết xin mời Đỗ đại nhân nói ra ý kiến của mình. Các chư vị đại nhân sẽ phát biểu ý kiến của mình sau".
Đỗ Văn Hạo nói: "Được. Ý kiến của tại hạ rất đơn giản. Địch nhân đang đè đầu cưỡi cổ chúng ta. Nếu chúng ta vẫn còn có thể nhẫn nhịn thì không còn là người. Nhất định phải đánh cuộc chiến này. Đây ót nhất là bày tỏ thái độ".
Hàn Chuẩn lạnh lùng nói: "Liên tiếp thất bại, còn muốn đánh sao? Đánh chỉ chuốc lấy nhục mà thôi".
Giọng nói của Đỗ Văn Hạo càng thêm lạnh như băng: "Làm một người lính, liên tiếp thất bại cũng không đáng sợ. Điều đáng sợ nhất là thất bại rồi không dám đánh tiếp. Từ thời thượng cổ tới nay không có thường thắng tướng quân. Bách chiến bách thắng chẳng qua chỉ là một lý tưởng. Nên biết chuyện thắng bại là chuyện thường nhà binh. Chỉ có người có ý chí chiến đấu ngoan cường, thắng không kiêu, bại không nản mới có thể có chiến thắng cuối cùng. Lưu Bang thắng Hạng Vũ cũng chính ở điểm này".
"Đã hiểu" Hàn Chuẩn vuốt chòm râu bạc của mình, ông ta thản nhiên nói: "Người tuổi trẻ còn không hiểu thời thế, ngạo mạn khinh người, khó tránh khỏi xúc động. Chờ khi tới tuổi của ta đây".
Đột nhiên Đỗ Văn Hạo đập tay xuống bàn, hắn đứng bật dậy, lạnh lùng nói: "Nếu không chăm lo việc nước, chỉ sợ là bản thân ta không đợi được tới lúc râu hoa tóc bạc như đại nhân thì Đại Tống đã mất rồi".
Những lời này chẳng khác nào tiếng sấm. Tất cả mọi người đều sợ ngây người. "Mất nước" hai từ này không ai dám nói lung tung.
Nhưng Đỗ Văn Hạo hiểu rõ bốn mươi năm sau Bắc Tống sẽ bị Đại Kim tiêu diệt. Thời gian còn lại của Bắc Tống không còn nhiều lắm. Bây giờ hắn nhìn thấy đám quan văn này sợ hãi rụt đầu rụt cổ khi phải đối mặt với một cuộc xung đột quy mô lớn ở biên giới, chỉ nghĩ tới việc dùng tiền mua yên bình thì không thể nhẫn nhịn được, rốt cuộc hắn đã phát tiết, hắn nói như liên thanh: "Giết một vạn kẻ thù, tổn thất ba nghìn. Trận chiến thành Vĩnh Nhạc, quân ta đại bại, chết hai mươi vạn quân. Điều này ai cũng biết. nhưng Tây Hạ thì sao? Có ai biết chúng như thế nào không?"
Hàn Chuẩn cười nhạt nói: "Bọn chúng? Bọn chúng chiến thắng nên đương nhiên dương dương tự đắc".
"Sai rồi! Bọn chúng cũng phải liếm máu trên vết thương. Theo như tại hạ biết. Cuộc chiến thành Vĩnh Nhạc, tổng số chết của quân và dân Tây Hạ cũng tuyệt đối không ít hơn con số hai mươi vạn. Bởi vì ngay bên cạnh tại hạ có không ít tướng sĩ đã từng tây chinh Tây Hạ, kể cả tam nha phó Đô Chỉ Huy Sứ, Lý Phố Đại tướng quân, năm đó chính là tướng tiên phong đánh thẳng một mạch tới kinh thành Tây Hạ. Các vị có biết không? Năm đó quân ta tấn công đã sử dụng vũ khí truyền bá bệnh dịch. Loại vũ khí này có thể tạo thành dịch bệnh lưu hành trong phạm vi rộng vì thế quân dân Tây Hạ chết rất nhiều, thi thể ngổn ngang khắp nơi. Sau đó quân Tây Hạ chỉ có phòng thủ mà không chiến chính là vì lý do này. Quân ta có thể tấn công thần tốc tiến thẳng tới kinh thành Tây Hạ. Khi quân ta tiến tới một địa phương nào đó, cho dù là thành trấn hay nông thôn. Những gì có thể chở về thì đều chở về, những gì không thể chở về thì đều tiêu huỷ, đã tiêu huỷ rất nhiều thành trấn. Một nửa đất nước Tây Hạ vì trận chiến này mà bị phá huỷ tan hoang. Không biết chư vị đại nhân có biết điều này không?"
Mọi người đưa mắt nhìn nhau. Tất cả chỉ đều là quan văn, kể cả Viện sứ Xu Mật viện Hàn Chuẩn cùng phó sứ Lâm Hi, rất giỏi việc bẻ cong luật pháp làm bừa dối trá nhưng không hiểu gì về quân sự, chỉ biết là Đại Tống thảm bại, ngoại trừ việc theo Tống Thần Tông đám ngực khóc lóc, thoá mạ quân đội vô năng, đương nhiên không ngiên cứu những thảm hoạ chiến tranh bên ngoài nên cũng mờ mịt không biết điều này.
Đã có 20 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của baongoc
Tất cả đã bị những thất bại liên tiếp khi chinh chiến với Tây Hạ làm hoảng sợ.
Phản ứng đầu tiên chính là hoà đàm, cùng lắm cũng chỉ căm hận chửi mắng quân đội vô năng một trận. Dù có thể nghĩ ra cách nhưng vẫn muốn dùng tiền để dàn xếp ổn thoả vì vậy cổ nhân mới có câu:
"Tú tài tạo phản, ba năm không thành".
Đúng vậy. Đây là cách giải thích là cách tốt nhất đối với những người như vậy.
Đương nhiên cũng không thiếu những quan văn có chí khí, cứng cỏi
Nhưng bọn họ chỉ có nhiệt huyết, không hiểu thế nào là thống lãnh quân đội đánh địch nên cũng chỉ phí công.
Đỗ Văn Hạo liếc nhìn tiếng gào thét bốn phía xung quanh nói: "Nguyên khí quân ta đại thương. Tại sao quân Tây Hạ không như vậy? Hai nước giao chiến với nhau, đánh tới cuối cùng vẫn chỉ là thực lực của quân đội, là thực lực của một đất nước hợp lại. Điều này giống như một gã mập và một người gầy đánh nhau. Cho dù gã mập trúng mấy quyền, nhưng rốt cuộc vì da dầy, mỡ nhiều nên vẫn chống lại được người gầy.
Người gầy sau khi trúng mấy quyền chỉ sợ xương cốt đã muốn gãy. Cuối cùng người gục ngã chỉ sợ chính là người gầy. Vì vậy trong cuộc chiến với Tây Hạ, chúng ta có thể đánh, phải đánh, hơn nữa nhất định có thể đánh thắng. Chỉ cần chúng ta chỉnh đốn tốt quân đội chúng ta, thành tinh binh, tương lai nhất định thắng lợi sẽ thuộc về chúng ta".
Chương Hoàng cười gượng nói: "Tại hạ không hiểu vì sao nhất định phải đánh với Tây Hạ?"
Thời đó kẻ thù chủ yếu của triều Tống chính là Đại Liêu và Tây Hạ. Bây giờ Đại Liêu và Đại Tống đã ký kết đồng minh.
Quan hệ của hai nước cũng khá tốt. Biên giới giữa hai nước cũng khá yên tĩnh.
Dựa vào sử sách Đỗ Văn Hạo đã biết trong tương lai không xa nước Đại Liêu sẽ bị nước Đại Kim tiêu diệt vì vậy hắn không cần hao tâm tổn trí đi đánh Đại Liêu. Hắn chỉ cần chờ Đại Kim quật khởi, chém giết Đại Liêu tới khi đó Đại Tống sẽ đóng vai ngư ông thủ lợi là được
Nhưng trước hết nhất định phải giải quyết Tây Hạ, giải trừ nỗi buồn phiền trong lòng, tập trung lực lượng đối phó với Đại Kim trong tương lai.
Mặc khác đánh Tây Hạ còn có một mục đích rất quan trọng. Đó chính là trường nuôi ngựa. Ở Trung Quốc cổ đại có hai nơi sở hữu cơ sở nuôi ngựa với quy mô lớn. Một nơi ở nước Liêu, một nơi chính là Đan sơn mã trường của Tây Hạ.
Sau khi trải qua một thánh chiến tranh với người Thổ Phiên, Đỗ Văn Hạo đã nhận thức một cách xâu sắc rằng ở thời cổ đại muốn thành lập một đội quân có sức mạnh tấn công thì không thể thiếu kỵ binh.
Con đường tiến tới binh cường của quân đội Đại Tống có một trở ngại. Đó là thiếu chiến mã.
Vì vậy Đỗ Văn Hạo muốn đoạt lấy ít nhất một trong hai nơi nuôi ngựa này.
Nếu so sánh với nhau, trường nuôi ngựa của Tây Hạ tốt hơn nhiều so với trường nuôi ngựa của Đại Liêu.
Bởi vậy phải đánh cuộc chiến với Tây Hạ. Hơn nữa nhất định phải đánh sớm, giải quyết sớm.
Đương nhiên Đỗ Văn Hạo không thể nói cho những người ở đây biết trong tương lai Đại Liêu sẽ bị Đại Kim tiêu diệt.
Đỗ Văn Hạo đường hoàng nói: "Mở rộng biên giới lãnh thổ quốc gia chính là bổn phận của chúng ta.
Nhìn vào bản đồ Đại Tống chúng ta chẳng lẽ chư vị đại nhân không thấy xấu hổ sao?
Hơn nữa bây giờ Tây Hạ tấn công chúng ta, không phải chúng ta chủ động tấn công, khơi mào chiến tranh. Đối mặt với cuộc tấn công của Tây Hạ, chúng ta còn có sự lựa chọn khác sao? Chúng ta chỉ còn cách hăm hở đánh một trận bảo vệ quốc gia".
"Đỗ tướng quân nói sai rồi" Hàn Chuẩn lúc lắc đầu giống như chiếc trống lắc, ông ta cười khẩy nói: "Có thể dùng tiền để giải quyết sự việc này, tại sao lại muốn hy sinh tính mạng của ngàn vạn tướng sĩ?"
"Câm miệng!" Đỗ Văn Hạo nghiêm nghị cắt ngang lời của Hàn Chuẩn. Hắn quay người nhìn chằm chằm vào Hàn Chuẩn, hai mắt trợn tròn, vung tay nói: "Tại hạ vừa mới nói Thái Hoàng Thái Hậu đã trao quyền cho tại hạ định ra con đường xây dựng binh cường. Thái Hoàng Thái Hậu có nói người nhất quyết không thể tha thứ cho việc tiếp tục cống tiến hàng năm.
Nhất quyết không thể tiếp tục dùng tiền đổi lấy bình an. Thái Hoàng Thái Hậu nói tiền nhiều cầm đi nghịch nước cũng nhất định không mang đi mua lấy sỉ nhục. Thái Hoàng Thái Hậu còn nói chỉ có loại người không có cốt khí nhuyễn đản mới đi khúm núm cầu hoà ( ý mắng chửi là người không dám đứng thẳng người làm việc ).
Một khi muốn cầu hoà thì phải làm cho chúng cầu hoà với chúng ta. Là bọn chúng phải tiến cống tiền hàng năm để chúng ta lui binh. Đây mới là vương đạo. Đây mới là quân uy, quốc y của một thượng quốc".Nếu luận về tranh luận, tài ăn nói, mỗi một quan văn đang ngồi ở đây đều trên cơ Đỗ Văn Hạo, đương nhiên là không phục lời nói của Đỗ Văn Hạo. Nhưng vấn đề là Đỗ Văn Hạo câu trước Thái Hoàng Thái Hậu, câu sau lại Thái Hoàng Thái Hậu.
Sau khi dựa vào lời nói của Thái Hoàng Thái Hậu, thêm mắm thêm muối nói một hơi, cuối cùng ngay chính Đỗ Văn Hạo cũng không biết câu nào là nguyên văn của Thái Hoàng Thái Hậu, câu nào chính là suy nghĩ của hắn.
Những câu nói của hắn khi người khác nghe vào tai mình lại trở thành của Thái Hoàng Thái Hậu.
Những viên quan này cũng biết Đỗ Văn Hạo là người tâm phúc bên cạnh Thái Hoàng Thái Hậu, một bước tiến thẳng từ quan Đề Hình tứ phẩm lên tới tam nha Đô Kiểm Điểm, hơn nữa vì hắn mà Thái Hoàng Thái Hậu mở rộng Tể chấp, một tiền lệ chưa từng có.
Chỉ dựa vào điều này đã đủ hiểu phân lượng của Đỗ Văn Hạo trong con mắt Thái Hoàng Thái Hậu. Đương nhiên không một ai dám nghi ngờ những lời này không phải là của Thái Hoàng Thái Hậu, cho dù vẫn đoán rằng bên trong có một chút cường điệu.
Nhưng cơ bản là không sai nên ai nấy cũng lập tức trầm ngâm.
Đỗ Văn Hạo thuật lại lời nói của Thái Hoàng Thái Hậu, đã chỉ ra quan điểm cứng rắn của Thái Hoàng Thái Hậu trong việc chủ chiến hành động quân sự.
Ngày nay Thái Hoàng Thái Hậu buông rèm chấp chính. Ý chỉ của nàng chính là thánh chỉ. Đó là quyết định cuối cùng.
Cho dù có tài ăn nói đám quan văn này cũng không dám phân cao thấp với Thái Hoàng Thái Hậu.
Nhất là đối với biến pháp, Thái Hoàng Thái Hậu là thủ lĩnh của phái bảo thủ. Trong khi đó ngoại trừ Vương Giai và Đỗ Văn Hạo, tất cả những đại thần trong này đều thuộc phái biến pháp. Thái Hoàng Thái Hậu buông rèm chấp chính, những đại thần này còn có thể ngồi ngây ngốc ở đây hay không còn phải dựa vào sắc mặt của nàng.
Có ai dám làm trái lại ý chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu không? Trừ phi người đó không muốn cái mũ ô sa của mình.
Đối với những người trong này, chức vị lãnh đạo tối cao của Tể chấp vẫn là quan trọng nhất.
Không đáng vì một trận đánh với Tây Hạ ở biên giới mà làm cho Thái Hoàng Thái Hậu khó chịu hùng tâm binh cường của
Nhưng lúc trước lời nói của mấy người đều quá kiêu căng.
Đặc biệt là Chương Hoàng và Hoàng Lý còn phản đối gay gắt Đỗ Văn Hạo, lúc này đột nhiên muốn thay đổi thái độ, xuống thang khá nhiều.
Lúc này Vương Giai mới ho khen một tiếng nói: "Tuy Thái Hoàng Thái Hậu là nữ lưu nhưng lại có ý chí kiên định không khoan nhượng của đấng mày râu. Lão hủ đã nhiều lần được thụ giáo hùng tâm tráng chí nước giàu binh cường của người.
Nếu chúng ta bẩm báo phương án hoà đàm nộp tiền tiến cống hàng năm, không nói việc có thể bị trả lại mà chỉ e còn khiến Thái Hoàng Thái Hậu nổi giận" Dù Vương Giai không có ra mặt trực tiếp ủng hộ Đỗ Văn Hạo nhưng những lời nói của ông ta trực tiếp tỏ thái độ đó một cách rõ ràng. Hơn nữa ông ta còn chỉ ra vấn đề mấu chốt, ý tứ rất rõ ràng. Mặc dù Thái Hoàng Thái Hậu là nữ lưu, bản tính mềm yếu nhưng đó chỉ là sự mềm yếu bề ngoài. Dù sao bây giờ Thái Hoàng Thái Hậu đang nắm quyền, muốn tạo nên một sự nghiệp, đang trong lúc tinh thần hứng khởi. Lúc này đừng có ai nghĩ tới chuyện gây phiền phức với Thái Hoàng Thái Hậu. Một khi như vậy thì đừng nghĩ tới ngồi ở vị trí này nữa. Nhất định Thái Hoàng Thái Hậu sẽ bỏ cũ thay mới.
Hữu Tể tướng Thái Xác chính là người nắm bắt tình hình nhanh nhất. Ông ta chắp tay nói: "Đỗ tướng quân nói rất đúng. Quân ta thiếu ý chí quyết thắng khi thất bại liên tiếp. Dân cư và quân đội Đại Tống chúng ta gấp vô số lân so với Tây Hạ. Gạo và tiền thuế thu được cũng nhiều hơn gấp mười lần. Chúng ta hao tổn nhiều, bọn chúng còn hao tổn tới mức không chịu nổi.
Chiến tranh là do chúng áp đặt lên chúng ta, không phải là sự lựa chọn của chúng ta. Chúng ta cũng không còn sự lựa chọn nào khác, chỉ còn có thể đánh trận này.
Thà làm ngọc vỡ, không làm ngói lành. Bản tướng đồng ý với đề nghị xuất binh đánh dẹp của Đỗ tướng quân" Sự thay đổi của Thái Xác khiến mấy người Hàn Chuẩn có phần xấu hổ nhưng sở trường của những người này đều là a dua theo người khác, thấy gió trong đại điện đã đổi chiều, lập tức sắc mặt cũng thay đổi, thể hiện lòng căm phẫn tột độ.
Môn hạ thị lang Chương Hoàng nói vẻ căm hận: "Đúng vậy. Thà rằng chết vinh còn hơn sống quỳ. Có thể nhẫn cũng không thể nhẫn. Ty chức tán thành ý kiến của Đỗ tướng quân xuất binh tử chiến với Tây Hạ"
Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên. Người này trở mặt thực sự còn nhanh hơn mở sách. Lúc trước ông ta còn chỉ thẳng vào mặt hắn bác bỏ ý kiến của hắn. Trong nháy mắt đã thay đổi đồng ý với hắn.
Rất am hiểu nghệ thuật làm quan, quả thực rất bội phục.
Hàn Chuẩn cũng thực sự quá quen thuộc với chuyện gió xoay chiều, cảm giác xấu hổ trong nháy mắt đã nhường chỗ cho một dáng vẻ căm hận, ông ta lên tiếng phụ hoạ: "Đúng vậy. Quân Tây Hạ xâm phạm biên giới của ta. Kế sách hoà đàm chỉ như là nuôi hổ trong nhà.
Bản quan vốn cho rằng quân ta suy yếu, chỉ e xuất binh không dễ đánh thắng nên mới đề nghị hoà đàm. Nhưng khi nghe Đỗ tướng quân nói Tây Hạ cũng bị nội thương chồng chất, càng không thể gánh chịu chiến tranh hơn so với chúng ta. Nếu một khi tiếp tục chiến tranh Tây Hạ tất không chịu nổi mà chủ động đề nghị đàm phán. Khi đó chúng ta không những huỷ bỏ được tiền tiến cống hàng năm mà có lẽ còn có thể đắc lợi cũng không chừng. Vì vậy bản quan cũng đồng ý với ý kiến của Đỗ tướng quân".
Ba người Thái Xác đã chuyển hướng, đương nhiên ba người còn lại cũng phải chạy theo. Tất cả đều căm phẫn mắng Tây Hạ, quyết tâm tử chiến với Tây Hạ.
Kết quả này có phần vượt qua dự đoán của Đỗ Văn Hạo nhưng lại làm hắn rất cao hứng, hắn cười vui vẻ, chắp tay nói: "Chư vị đại nhân. Trên phương diện chiến lược chúng ta coi thường kẻ thù nhưng trên phương diện chiến thuật chúng ta nhất định phải coi trọng kẻ thù. Nói thật bây giờ chúng ta vẫn chưa có năng lực thực sự để đánh bại hoàn toàn Tây Hạ vì vậy bây giờ vẫn chưa phải là lúc tử chiến một trận với Tây Hạ, chưa cần phải mở rộng quy mô, cùng phạm vi xung đột. Chúng ta chỉ cần tiến hành phản kích ở những nơi quân Tây Hạ xâm lấn, không cần phải tiến hành phản kích trên diện rộng".
Vương Giai mỉm cười, gật đầu nói: "Theo ý kiến của tướng quân, trận chiến này chúng ta nên đánh thế nào?"
"Ty chức cho rằng quân Tây Hạ dùng kỵ binh tiến hành tập kích quấy rối, bắt người cướp của ở biên giới. Lúc trước quân ta chỉ muốn truy kích kỵ binh quân địch muốn tiêu diệt chúng nhưng dùng bộ binh truy kích kỵ binh Tây Hạ thì quả là không thể tưởng tượng nổi. Đây chính là dùng sở đoán đấu với sở trường. Cũng giống như kiểu gậy ông lại đập lưng ông".
Hàn Chuẩn hỏi: "Ý của Đỗ tướng quân là dùng kỵ binh truy kích kỵ binh Tây Hạ sao? Chỉ e là không thể làm được. Hiện tại kỵ binh chúng ta không thể nào bén gót kỵ binh Tây Hạ".
"Cũng không phải" Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: "Nếu dùng kỵ binh đấu kỵ binh chúng ta sẽ gặp bất lợi, cũng là dùng sở đoản đấu sở trường.
Nhưng bộ binh của chúng ta lại mạnh hơn quân Tây Hạ. Ít nhất chúng ta cũng nhiều quân hơn chúng. Đây chính là ưu thế của chúng ta. Trước kia chúng ta không tận dụng đầy đủ ưu thế này của mình. Khi tấn công luôn chia ra mấy đường cùng tiến.
Làm như vậy cũng có chỗ tốt chính là khắp núi đồi tràn ngập quân của chúng ta, trông rất hoành tráng nhưng hiệu quả thực sự thì sao?"
Những đại thần Tể chấp này gần như đều không có kinh nghiệm cầm quân tác chiến nên đều im lặng chăm chú lắng nghe.
Dù sao Đỗ Văn Hạo người ta tốt xấu gì cũng có một lần cầm quân đánh quân Thổ Phiên, hơn nữa còn là thắng lợi lấy ít địch nhiều nên kinh nghiệm tác chiến của hắn nói ra vẫn có sức thuyết phục.
Đỗ Văn Hạo liếc nhìn tất cả mọi người trong đại điện rồi nói tiếp: "Hiệu quả đương nhiên là quá tệ.
Chúng ta chia quân ra mấy đường cùng tiến, bản thân sẽ lọt vào giữa kẻ thù. Tuy tổng binh lực của kẻ thù kém hơn nhiều so với chúng ta.
Nhưng mà đại bộ phận quân đội của chúng đều là kỵ binh, chúng có ưu thế tốc độ, có thể nhanh chóng tập trung binh lực, hình thành cục diện ưu thế về mặt binh lực, liên tiếp tấn công trên đường, tiến hành tiêu diệt từng bộ phận của chúng ta.
Cuộc chiến Kỳ Câu quan là một minh chứng tốt nhất. Lúc đó quân ta chia binh làm ba đường bắc tiến. Quân Liêu tập trung binh lực mạnh hơn đánh lộ quân phía đông trước, quân ta đại bại, làm toàn bộ phòng tuyến thất bại theo. Mặt khác cuộc chiến Linh Châu mấy năm trước với quân Tây Hạ cũng thế. Chúng ta chia binh ra làm năm đường. Quân Tây Hạ tập trung ưu thế binh lực, đánh từng đường một, tiêu diệt từng bộ phận quân ta".
Vào triều Tống khi dụng binh chú trọng "Tương tòng trung ngự'. Tất cả kế hoạch tác chiến đều do triều đình "bế môn tạo xa" (nhắm mắt làm liều; xa rời thực tế; đóng cửa làm xe không quan sát đường sá - ví với chỉ theo ý chủ quan của mình mà làm việc, không cần biết đến thực tế khách quan) hoạch định trước, thậm chí còn cẩn thận lập ra bản đồ tác chiến.
Công việc này đôi khi còn do Hoàng Đế đích thân thảo ra.
Sau khi bản kế hoach tác chiến được lập ra, giao cho tướng chỉ huy để bọn họ mang tới tuyền tuyến chấp hành.
Vào thời cổ đại việc thông tin liên lạc vô cùng lạc hậu. Đối với loại hình bố trí chiến thuật, phương thức tác chiến tưởng tượng này giống như là mò trăng đáy nước. Trong khi đó thống soái ra trận lại chủ yếu là quan văn không hiểu quân sự, chỉ biết tuân theo kế hoạch tác chiến đó một cách mù quáng.
Khi quân đội hai bên tác chiến với nhau, xuất hiện vô số tình huống bất ngờ, quân tình thay đổi trong nháy mắt. Dù là thiên tài quân sự cũng không có khả năng dự đoán. Chỉ có thể căn cứ vào tình hình quân sự trước mắt để định ra kế hoạch tác chiến phù hợp vì vậy mới có câu ngạn ngữ: "Tướng ở bên ngoài có thể không tuân theo quân lệnh".
Nhưng bình thường những thống soái lãnh binh của Đại Tống không dám làm trái chiến thuật, kế hoạch tác chiến do đích thân Hoàng Đế định ra, tuân theo một cách cứng nhắc. Đây cũng chính là nguyên nhân quân Tống hễ ra trận là thất bại. Trong việc dụng binh với Tây Hạ, kế hoạch tác chiến với Tây Hạ thường do Xu Mật viện định ra.
Đối với cuộc chiến Linh Châu với Tây Hạ, khi đó Hàn Chuẩn mới nhậm chức Viện sứ Xu Mật viện ba tháng, đích thân chủ trì lập kế hoạch tác chiến.
Việc chia binh thành năm lộ cũng là ý của ông ta. ông ta thấy Đỗ Văn Hạo chê bai điều đó nên nóng mặt, cười gượng nói: "Thì ra Đỗ tướng quân cũng rất am hiểu binh pháp. Bội phục, bội phục! Chắc hẳn đã trải qua Võ Học sao? Đọc qua những binh thư tinh hoa nhất sao?".
"Võ Học" ở đây theo như lời Hàn Chuẩn nói chính là viện dạy tri thức quân sự do triều đình Bắc Tống thiết lập.
Đỗ Văn Hạo không vì bản thân mình chưa học qua quân sự mà không dám lãnh binh tác chiến. Triều Đại Thanh từng có rất nhiều tướng soái lừng danh không trải qua bất kỳ một hệ thống quân sự nào, càng không học qua binh pháp gì cả.
Chiến thuật bọn họ sử dụng phần lớn đến từ chính bộ sách "Tam Quốc Diễn Nghĩa', cũng như thu thập kinh nghiệm tác chiến trong quá trình chiến đấu lâu dài.
Vì thế tri thức tác chiến quân sự cũng không nhất thiết phải học tập qua sách vở, binh pháp ở trường, cũng có thể thu hoạch thông qua các cuốn truyện khác nhau.
Ở xã hội hiện đại, bùng nổ tri thức. Có thể học hỏi được bất kỳ tri thức quân sự nào. Ví dụ có thể thông qua các quyển sách về đề tài chiến tranh, các tin tức đưa trên ti vi, đặc biệt là hai cuộc chiến tranh thế giới có quy mô toàn thế giới, có thể thu lượm được rất nhiều tri thức quân sự từ đó. Muốn tìm hiểu cũng không mấy khó khăn. Một khi tiếp xúc với những trận đánh điển hình nhiều lần, có thể hiểu rõ cách dùng binh.
Vì thế nói chỉ nói đơn thuần trong việc bàn luận về tri thức quân sự, Đỗ Văn Hạo tuyệt đối hiểu biết hơn rất nhiều so với bất kỳ vị Đại tướng nào của Đại Tống.
Vì vậy khi Đỗ Văn Hạo nghe Hàn Chuẩn nói mấy câu mỉa mai đó, hắn cũng không tức giận. Hắn thản nhiên nói: "Tại hạ chưa học qua Võ Học, cũng không hiểu binh pháp nhưng mà cũng không chưa ăn thịt heo cũng đã thấy lợn chạy qua ( Đây là câu tục ngữ ý nói: Một người dù không tự mình trải qua một sự việc nhưng được nghe nói nên cũng hiểu chút ít )
Bên cạnh tại hạ có hơn mười tướng sĩ đã từng tác chiến với quân Tây Hạ. Tại hạ thường xuyên nghe bọn họ giảng giải kinh nghiệm tác chiến cũng có hiểu được một ít.
Khi Thái Hoàng Thái Hậu đề bạt tại hạ làm tam nha Đô Chỉ Huy Sứ, vì để không làm nhục sứ mạng của mình, tại hạ đã rành thời gian một tháng cẩn thận nghiên cứu qua những trận đánh điển hình của quân ta cùng quân Đại Liêu và quân Tây Hạ.
Vì vậy tại hạ có hiểu được cái được cái mất của các bên. Đây chỉ là một số kiến giải vụng về của tại hạ".
Tể tướng Vương Giai nói: "Đỗ tướng quân quá khiêm nhường. Bây giờ Đỗ tướng quân là Đại tướng nổi danh cả nước. Năm trước lãnh binh đã lấy ít thắng nhiều, tiêu diệt hoàn toàn hai vạn quân Thổ Phiên. Khi đó tin chiến thắng báo cề, cả nước chung vui".
Vương Giai quay đầu nhìn Hàn Chuẩn, vuốt chòm râu bạc trắng cười nhạt nói: "Vừa rôi nghe Hàn đại nhân nói mới biết thì ra Hàn đại nhân cũng đọc qua binh thư, am hiểu tường tận binh pháp. Không biết Hàn đại nhân đã từng lãnh binh đánh trận chưa? Tiêu diệt được bao nhiêu quân Tây Hạ?"
Lập tức gương mặt già nua của Hàn Chuẩn đỏ ửng lên, nhưng ông ta không dám phản ứng với Tể tướng Vương Giai, chỉ biết cười ngượng ngùng, thở dài nói: "Thật hổ thẹn. Ty chức chưa từng cầm quân. Ty chức luôn tán thưởng chiến công của Đỗ tướng quân. Khi nghe qua Đỗ tướng quân nói vậy, trong lòng lại càng kính nể Đỗ tướng quân".
"Ha ha ha" Vương Giai đã có ước định với Đỗ Văn Hạo, gả nữ nhi bảo bối của mình được xưng là đệ nhất mỹ nữ kinh thành cho Đỗ Văn Hạo.
Bây giờ chuyện này người trong toàn kinh thành cũng biết, giờ nhìn thấy nhạc phụ tương lai che chở cho con rể của mình, đương nhiên không ai dám ăn nói lỗ mãng với Đỗ Văn Hạo.
Vương Giai mỉm cười nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Đỗ tướng quân, theo ý kiến của tướng quân, lần này xuất binh nên dùng cách gì để khác chế quân Tây Hạ?"
"Dùng sở trường của mình khắc sở đoản của địch".
"Cái gì là sở trường của quân ta? Sở đoản của quân Tây Hạ là gì?"
"Quân ta đông, số lượng vượt gấp nhiều lần tổng binh lực quân Tây Hạ, binh nhiều tướng mạnh.
Lương thảo của quân ta cũng nhiều, hậu cần đảm bảo hơn quân Tây Hạ.
Những ưu thế này của quân ta lại là những nhược điểm của quân Tây Hạ. Ngoại trừ việc số lượng binh lực của quân Tây Hạ thua xa rất nhiều quân ta. Đối với các tướng sĩ quân Tây Hạ tham gia tác chiến với quân ta, hậu cần quân Tây Hạ gần như không đảm bảo nổi. Kỵ binh cũng như bộ binh của chúng gần như đều không có cung cấp lương thảo. Trong quân của chúng có kỵ binh chuyên môn phụ trách việc toả ra bốn phía đánh cướp lương thảo, cỏ cho ngựa để cung ứng lương thảo cho đại quân.
Một khi gặp phải địch nhân dùng chiến thuật vườn không nhà trống, quân Tây Hạ sẽ không thể nào duy trì được việc tác chiến liên tục.
Vì vậy bình thường quân Tây Hạ đều chọn phương pháp dụ địch nhân xâm nhập để tiêu diệt mà không chủ động tiến quân thần tốc.
Đương nhiên sau khi thắng lợi chúng sẽ nhân cơ hội tiến vào nội địa nước ta, đánh cướp một hồi rồi mới ngang nhiên quay về".
'Ừ. Phân tích rất có lý. Bình thường quân Tây Hạ đánh cướp, chúng có xâm nhập sâu vào nội địa nước ta không?"
"Căn cứ vào việc phân tích những trận tác chiến điển hình của quân ta và quân Tây Hạ thì thấy chúng sẽ không xâm nhập vượt quá một trăm dặm.
Đây chính là giới hạn xâm nhập rành cho chiến mã của chúng.
Bởi vì một khi vượt qua giới hạn này, một khi không tìm thấy lương thảo, đồng thời bị quân địch quấy rối, không thể nào kịp thời thoát thân thì rất có thể sẽ mất sức chiến đấu vì mất lương thảo. Điều này quả thực rất nguy hiểm".
Tất cả mọi người đều gật đầu. Thật ra không phải tất cả mọi người ở đây đều không biết hai đặc điểm này.
Tể chấp chủ yếu là quan tâm tới yếu tố chiến lược. Bọn họ rất ít khi quan tâm tới những vấn đề nhỏ nhặt này.
Nghe Đỗ Văn Hạo nói bọn họ cảm thấy rất mới lạ.
Đỗ Văn Hạo nói tiếp: "Nhằm vào đặc điểm này của quân Tây Hạ. Nguyên tắc cơ bản của chiến thuật quân ta có hai điều: Thứ nhất là tư tưởng. Phải thông báo cho toàn thể tướng sĩ từ trên xuống dưới, tất cả đều phải hiểu rõ tư tưởng đánh lâu dài, ngăn chặn tư tưởng mạo hiểm tốc chiến tốc thắng nguy hiểm. Thứ hai thực hiện vườn không nhà trống. Di dời toàn bộ dân chúng dọc theo tuyến biên giới tác chiến trong phạm vi một trăm dặm vào nội địa. Tất cả những gì có thể ăn, có thể xử dụng đều phải chở đi khiến quân Tây Hạ tới mà không cướp được lương thảo. Điều thứ ba của chiến thuật là kiên quyết dùng chiến thuật thành luỹ như tằm ăn rỗi. Bức quân Tây Hạ không thể quyết chiến chính diện với chúng ta. Khi đó sẽ giống như ván cờ tàn.
Chiến thuật đánh ráp lá cà làm hao tổn thực lực, rơi vào thế phải liều mạng nhưng cuối cùng chúng tất phải đầu hàng chúng ta".
Đã có 21 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của baongoc
Đương nhiên mấy người Thái Xác không hiểu từ "chiến tranh thành luỹ" mà Đỗ Văn Hạo nói nên đều quay mặt nhìn hắn.
Thái Xác nói: "Đỗ tướng quân. Nếu như là chiến tranh kéo dài, chúng ta tổn thất nhiều quá chỉ e Thái Hoàng Thái Hậu sẽ không đồng ý".
Đỗ Văn Hạo nói: "Đó là đương nhiên. Chúng ta không e ngại lâm vào chiến tranh nhưng chúng ta cũng muốn tận dụng khả năng để tránh chiến tranh.
Bởi vì bây giờ chúng ta còn chưa nắm chắc sẽ thắng nên mới không mở rộng chiến tranh, muốn dùng chiến hoà. Có nghĩa là trong thời gian tác chiến nếu quân Tây Hạ đưa ra đề nghị hoà đàm, chúng ta có thể để chúng tới biên giới đàm phán, đồng thời lại dùng thắng lợi trên chiến trường, buộc chúng nhượng bộ. Điều này gọi là chiến hoà".
Chiêu này của Đỗ Văn Hạo đương nhiên học được qua chiến tranh Triều Tiên.
Nghe vậy mọi người đều gật đầu.
Hàn Chuẩn vuốt râu nói: "Đỗ tướng quân. Theo như lời tướng quân nói lúc trước.
Hai chiến thuật đó lúc trước chiến tranh với quân Tây Hạ và Đại Liêu, quân ta đã thử dùng qua. Tướng quân đã nghiên cứu qua các trận đánh điển hình hẳn cũng biết hiệu quả cũng tạm được".
"Đó là bởi vì không có điều thứ ba" Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: "Trước kia chúng ta sử dụng chiến thuật vườn không nhà trống, tư tưởng cũng cường điệu là đánh lâu dài. Nhưng một khi xảy ra chiến trận, trước khi xuất trận tướng soái lãnh binh cực kỳ tin tưởng, chia binh tấn công.
Tất cả đều liều lĩnh tham công, nhìn thấy quân địch dễ dàng sụp đổ liền diễu võ dương oai cho là mình vô địch thiên hạ, dẫn quân đánh sâu vào nội địa mà không biết là mình bị quân thù dẫn dụ xâm nhập.
Kết quả là bị kẻ thù tập trung ưu thế binh lực một trận tiêu diệt. Vấn đề mấu chốt của tại hạ chính là điều thứ ba. Chỉ có quán triệt thông suốt điều thứ ba, thực hiện tốt, kế sách vườn không nhà trống mới có tác dụng".
Phó sứ Xu Mật viện Lâm Hi nói: "Đỗ tướng quân. Hai điểm trước của tướng quân chúng ta đều có thể hiểu. Điểm cuối cùng chiến tranh thành luỹ là có ý gì?
Tướng quân có thể giải thích kỹ lưỡng cụ thể áp dụng điều này không?"
Chiến thuật thành luỹ tằm ăn rỗi là Đỗ Văn Hạo đã học được trong thời kỳ chiến tranh cách mạng ruộng đất. Quốc Dân Đảng đã áp dụng thành công chiến thuật này trong lần thứ năm tấn công các khu Xô-Viết.
Đỗ Văn Hạo đã nhiều lần nghiên cứu kinh nghiệm tác chiến của Đại Tống với Tây Hạ. Hắn đã nhiều lần tự hỏi nếu như mình chỉ huy tác chiến cùng Tây Hạ thì sẽ áp dụng chiến thuật tác chiến như thế nào.
Giờ đây khi hắn đã bước vào Tể chấp, có quyền quyết định, đương nhiên sẽ không khiêm nhường.
Hắn quyết tâm dùng chiến tranh cục bộ này để thử nghiệm tư tưởng chiến lược của mình có được tiến hành thông suốt hay không để chuẩn bị cho các chiến dịch quy mô lớn sau này.
Đỗ Văn Hạo nói tiếp: "Đồng thời với việc làm vườn không nhà trống ở khu vực biên giới, sẽ xây dựng chiến trại ở biên giới. Mỗi chiến trại có một đô nhân mã trú đóng ( Tống binh biên chế mỗi đô là một trăm quân ), dùng hàng rào cự mã vây quanh chiến trại. Bốn phía xung quanh đào hào cự mã cùng công sự phòng ngự. Bên trong chiến trại chủ yếu sử dụng sàng nỏ bắn xa, thần tí cung ( Thần tí cung do Tống Thần Tông thời Bắc Tống phát minh, thân cung dài ba xích ba, dây cung dài hai xích năm, tầm bắn xa đạt tới hơn ba trăm bốn mươi thước, được mệnh danh là vũ khí không gì bì nổi, trở thành một trong những loại vũ khí trang bị cho quân cung nỏ của Đại Tống ) và cường nỗ. Tất nhiên cũng chuẩn bị Phong hoả đài đốt lửa báo hiệu. Tích trữ lương thảo và nước uống để dùng lâu dài.
Trong khi đó các chiến trại phân bố theo hình tam giác, hỗ trợ, dựa vào nhau. Mỗi toà chiến trại cách nhau năm trăm bước. Bởi vì tầm bắn của thần tí cung chúng ta ước chừng là hai trăm năm mươi bước ( chừng bă trăm tám mươi mét ) như vậy khi quân địch tiến vào tầm bắn có thể dùng hoả lực đan xen tiêu diệt".
Hoàng Lý hỏi: "Điều này chỉ e không ổn. Quân địch có thể dùng máy bắn đá cự ly xa công kích hay tập trung binh lực tấn công chiếm trại thì sao? Khi đó thì cần phảo làm gì?"
"Không nên nóng vội! Tại hạ vẫn chưa nói xong.
Đại đội binh lực của chúng ta bố trí ở một chỗ cách không xa tuyến chiến trại của chúng ta. Đội kỵ binh bố trí ở phía trước để có thể nhanh chóng phối hợp tác chiến. Đóng ở sau chính là đại đội binh lực.
Như vậy một khi chiến trại có địch quân tấn công, Phong hoả đầi đốt khói báo động làm hiệu.
Hậu quân sẽ lập tức tiếp viện, quyết chiến cùng quân địch.
Cần phải chú ý là hậu quân không được phân chia. Nhất định phải tập trung binh lực vào một chỗ. Nếu không rất có thể sẽ phạm phải sai lầm làm bừa.
Điểm chính của chiến thuật này chính là đánh bước nào củng cố bước ấy. Chiến trại như những chiếc vòi dài, vừa là thành luỹ tấn công, vừa là trạm gác tiền tiêu.
Đồng thời với sự hậu thuẫn của lực lượng bộ binh chiếm ưu thế, toàn tuyến chiến trại tấn công từng bước một, từng bước tiến mạnh về phía trước, bức quân địch không thể cùng quân ta quyết chiến chính diện, phát huy ưu thế binh nhiều tướng mạnh của quân ta, lấy nhiều đánh ít.
Nếu như quân địch bỏ chạy, tuyệt đối không thể tiến hành truy kích bởi vì chúng ta thận trọng tiến lên phía trước. Đối với những hạng người liều lĩnh tham công, bất luận là có lập công hay không đều xử trảm theo quân pháp".
Đối với mọi người đây là lần đầu tiên nghe thấy loại chiến thuật này. Lâm Hi hỏi: "Vậy làm thế nào có thể tiến lên phía trước giống như tằm ăn rỗi?"
Quả thực Đỗ Văn Hạo cảm thấy nhức đầu: "Điều này rất đơn giản.
Chiến trại không phải là thành trì mà chỉ là hàng rào kỵ mã hình thành tường rào chướng ngại vật tạm thời, có thể di chuyển.
Chiến tuyến hình tam giác phân ra làm ba hàng.
Một hàng ở đỉnh phía trước, hai hàng phía sau. Hàng phía sau đồng loạt dỡ xuống di chuyển lên trên ít nhất hai tầm tên bắt đầu đống trại. Đồng thời đại đội binh lực bố trí phía sau bắt đầu nhổ trại tiến theo sau. Như vậy gọi là luân chuyển tiến lên phía trước.
Đây chính là từng bước xâm chiếm".
Thái Biện cười ha hả nói: "Mỗi một chiến trại bố trí một trăm quân. Cứ mỗi khoảng cách năm trăm bước bố trí một chiến trại. Xin hỏi Đỗ tướng quân. Biên giới Tây Hạ và Đại Tống chúng ta kéo dài mấy ngàn dặm. tướng quân định chuẩn bị bao nhiêu binh lực tác chiến? Chỉ e là một trăm vạn quân cũng không đủ? Ha ha. Tần Thuỷ Hoàng xây tường thành còn không vây hết Hoa Hạ lại"
"Chỉ cần thiết lập chiến trại ở các khu vực quan trọng là được" Trong khoảng thời gian này Đỗ Văn Hạo chuyên tâm nghiên cứu tình hình tác chiến Tây Hạ nên hắn đã tương đối quen thuộc với các địa phương xung yếu ở biên giới hai nước. Đỗ Văn Hạo sai thân binh mang lên một tấm bản đồ biên giới Tống Hạ.
Đỗ Văn Hạo mở bản đồ ra, chỉ vào vùng Hoàn Châu nói: "Đây là chiến trường giao chiến chủ yếu của quân ta và quân Tây Hạ. Từ chỗ này khoảng cách tới kinh thành Tây Hạ là gần nhất.
Chỉ cách phủ Hưng Khánh, kinh thành Tây Hạ có mấy trăm dặm. Chỉ cần giục ngựa giơ rôi trong hai ba ngày là tới chân thành kinh đô Tây Hạ. Vì thế chúng ta dùng Hoàn Châu làm căn cứ tổng hậu cần, tập trung toàn bộ vật tư chiến tranh ở đây. Binh lực cũng tập trung chủ yếu ở vùng này, biến vùng này thành vườn không nhà trống. Bắt đầu kiến tạo chiến tuyến chiến trại đầu tiên sau đó thận trọng tiến lên như tằm ăn rỗi".
Hàn Chuẩn hỏi: "Nếu như đẩy quân địch lui về các thành trấn thì sao? Nên làm gì để ép chúng bỏ thành trì?"
"Dùng vũ lực ép chúng bỏ thành".
Mọi người đưa mắt nhìn nhau, Lâm Hi lại hỏi: "Bức như thế nào?"
"Trước hết vây kín ba mặt, chỉ chừa đường lui ở cửa bắc, dùng đại pháo công thành và vũ khí công thành nhưng không được công thành.
Những nơi còn lại tiếp tục tiến lên phía trước.
Nếu như viện binh quân địch tới tiếp viện thì lại chính là vây điểm đánh viện binh.
Khi quân địch rút lui tuyệt đối không thể truy kích. Tiếp tục tiến lên phía trước như chiến thuật của quân ta.
Quân thủ thành nhìn thấy thành sắp bị bao vây chặt. Nhất định chúng sẽ chọn cách bỏ thành chạy trốn. Nếu chúng không bỏ trốn thì lập tức vây thành bốn xung quanh nhưng không được công thành.
Đến giây phút cuối cùng quân địch hoặc bị ép phải ra khỏi thành quyết chiến hay là đầu hàng. Thành thì bị phá".
Hàn Chuẩn suy nghĩ một lát rồi gật đầu nói: "Ta thấy phương án tiến lên trước từng bước có thể thực hiện được".
Đỗ Văn Hạo lại nói: "Chiến tuyến của quân ta thận trọng tiến lên phía trước. Mỗi lần chúng ta tiến lên trước một bước là một bước tiến gần tới kinh thành Tây Hạ. Tây Hạ sẽ càng khẩn trương hơn, sớm muộn sẽ bức được chúng quyết chiến cùng với quân ta.
Trong khi đó một khi tiến hành quyết chiến quy mô lớn, quân ta có thể phát huy tối đa ưu thế binh lực của mình.
Một khi chúng ta có thể tiêu diệt đại bộ phận quân Tây Hạ hay chiếm được kinh thành Tây Hạ, toàn bộ phòng tuyến Tây Hạ sẽ sụp đổ".
Thái Xác nói: "Kế hoạch tác chiến này của Đỗ tướng quân nghe rất mê người. Ha ha ha. Nhưng loại chiến thuật này quân ta chưa từng áp dụng bao giờ, cũng không biết hiệu quả tới mức nào".
Vương Giai nói: "Ta lại cảm thấy có thể làm được. Thận trọng, tiến tới đâu ăn chắc tới đó. Chiến thuật thành luỹ cùng với chiến tranh tằm ăn rỗi. Điều này có thể chậm rãi, từng bước một tiến lên phía trước.
Ít nhất còn an tâm hơn nhiều so với việc triệu tập hơn mười vạn quân tấn công quy mô lớn.
Ta tán thành chiến pháp này" Vương Giai là quan Tể tướng đầu triều. Ông ta đã tỏ thái độ tán thành, trong lòng những người khác cũng bắt đầu thầm cân nhắc.
* Sàng nỏ Thần tí cung cường nỏ
Tuy chiến pháp này của Đỗ Văn Hạo lần đầu tiên bọn họ nghe thấy. Nhưng tư tưởng cơ bản của chiến thuật này là lấy thủ làm công, thận trọng, chậm rãi tiến lên. Chiến thuật này hoàn toàn phù hợp với tư tưởng chiến thuật phòng ngự truyền thống của quân đội Đại Tống, cũng có thể phát huy ưu thế phòng thủ truyền thống của quân Đại Tống nên bọn họ dễ dàng chấp nhân nên ai nấy cũng chậm rãi gật đầu.
Thái Xác mỉm cười nói: "Chiến pháp này mới lạ như vậy, chỉ e nếu để người khác lại không nắm bắt được điểm mấu chốt. Bản tướng tiến cử Đỗ tướng quân là binh mã Đại nguyên soái, thống nhất chỉ huy. Chẳng hay chư vị nghĩ thế nào?'
Đương nhiên tất cả mọi người đều lên tiếng đồng ý, kể cả Vương Giai cũng gật đầu nói: "Chi bằng hãy để Đỗ tướng quân toàn quyền phụ trách mới có thể đảm bảo chiến pháp này không bị biến dạng".
Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: "Ty chức đa tạ chư vị đại nhân tín nhiệm. Ty chức cung kính không bằng tuân lệnh, đảm nhiệm chức binh mã Đại nguyên soái của chiến dịch lần này.
Nhưng vấn đề là Thái Hoàng Thái Hậu đã lệnh cho ty chức tiến hành chỉnh đốn quân đội vì thế ty chức không thể ra tuyền tuyến trực tiếp chỉ huy tác chiến. Hơn nữa cũng nói thật ty chức chưa quen thuộc binh pháp, trực tiếp chỉ huy tác chiến chỉ e rất khó giành thắng lợi.
Tốt hơn hết vẫn nên bổ nhiệm một vị tổng chỉ huy mặt trận, cụ thể là phụ trách chỉ huy tác chiến ở tuyền tuyến".
Thái Xác nói: "Điều này chỉ sợ người khác rất khó có thể hiểu hết ý nghĩa tác chiến của tướng quân, khi đó sẽ xảy ra sự cố không hay".
Đỗ Văn Hạo cười nói: "Chỉ cần vị tổng chỉ huy mặt trận này bố trí tác chiến hoàn toàn dựa theo sắp đặt của ty chức là được. Bởi vì ý nghĩa tác chiến đã định hình. Trước tiên thiết lập cảnh vườn không nhà trống trong phạm vi một trăm dặm ở biên giới sau đó bắt đầu tiến hành kiến tạo tuyến chiến trại ở tuyến đầu, dùng cường nỏ cự địch, Phong hoả đài cảnh báo. Tuyến hai bố trí kỵ binh nhanh chóng phối hợp tác chiến. Tuyến ba bố trí đại đội binh lực chiếm ưu thế, chuẩn bị quyết chiến với quân địch.
Những vấn đề này tổng chỉ huy mặt trận chỉ cần bố trí đúng theo kế hoạch. Nơi nào cần xây dựng chiến trại, tổ chức tuyến hai. Địa điểm bố tí binh lực tuyến ba, quân địch tấn công thì ứng chiến thế nào.
Chỉ cần nhớ kỹ những điều này là có thể đẩy mạnh chiến thuật chiến trại vững bước tiến lên phía trước. Toàn bộ chiến tuyến chỉ có thể phòng thủ bị động, không được chủ động tấn công ra bên ngoài.
Phàm người nào liều lĩnh cho dù có đánh bại tiêu diệt quân địch thì cũng phải xử trảm. Đây chính là sự nghiêm minh của quân luật.
Tác chiến như vậy, nhiệm vụ tác chiến của tổng chỉ huy mặt trận sẽ tương đối đơn giản. Bình thường sẽ không phạm phải sai lầm lớn".
"Chư vị đại nhân nghĩ thế nào?" Vương Giai đã ước định hôn lễ của Đỗ Văn Hạo và nhi nữ bảo bối vào đầu tháng sáu. Đương nhiên lúc này ông ta không muốn để Đỗ Văn Hạo chạy ra tuyền tuyến chỉ huy tác chiến nên lập tức gật đầu nói: "Bản tướng cảm thấy Đỗ tướng quân nói rất đúng. Đỗ tướng quân phụ trách chỉnh đốn quân đội toàn diện. Đây chính là đại sự Thái Hoàng Thái Hậu quan tâm nhất.
Đặc điểm của chiến pháp này là thận trọng, vững chắc tiến lên trước, không liên quan tới chiến pháp phức tạp. Tướng soái bình thường cũng có thể đảm nhiệm được.
Nhưng cần phải có giám sát để tướng soái không thể liều lĩnh để tránh bị quân địch bao vây".
Thái Xác nói: "Chức vị tổng chỉ huy mặt trận này do ai đảm nhiệm?"
Vương Giai suy nghĩ một lát rồi nói: "Chức vụ tổng chỉ huy mặt trận hãy do Tư chính Đại học sĩ, Ngự sử trung thừa Lữ Công đẩm nhiệm, Tuyên Khánh sứ Lý Hiến làm giám quân".
Đỗ Văn Hạo chắp tay hỏi: "Tể tưướng đại nhân, xin hỏi Lữ Công đại nhân là quan văn hay là võ tướng?"
"Quan văn".
"Vậy còn Lý Hiến, người này đã từng cầm quân chưa?"
"Cũng đã từng cầm quân. Lần chinh chiến Tây Hạ trước đã từng đảm nhiệm chức giám quân".
Đỗ Văn Hạo cố gắn suy nghĩ để tìm ra từ diễn đạt phù hợp.
Hắn khom người nói: "Ty chức cho rằng khi đối địch dụng binh vẫn do võ tướng cầm quân thì tốt hơn.
Dù sao khi cầm quân tác chiến nhất định phải am hiểu binh pháp, quen thuộc quân sự. Chỉ có người tài năng hiểu được cách cầm quân mới có thể đảm nhiệm được".
Vương Giai và Thái Xác đưa mắt nhìn nhau. Thái Xác nói: "Đỗ tướng quân. Quan văn lãnh binh chính là di chiếu của Thái Tổ. Từ thời xưa đã vậy".
Đỗ Văn Hạo đã cẩn thận nghiên cứu qua cái được cái mất của chiến tranh Đại Tống với Tây Hạ và Đại Liêu nên hắn hiểu rất rõ. Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến quân Tống thất bại liên tiếp. Đúng vậy phần lớn các cuộc chiến của Đại Tống đều do quan văn không hiểu quân sự cầm quân.
Nhưng mà nếu nói thẳng ra như vậy nhất định sẽ đắc tội với các đại thần trong Tể chấp. Hắn mới đặt chân vào Tể chấp nên chưa muốn đắc tội với quá nhiều người. Dù sao thì Tể chấp cũng quyết định sự việc theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số.
Vừa rồi những người này đã nhượng bộ, đồng ý với kế hoạch dụng binh của hắn.
Bọn họ còn đồng ý phương án tác chiến của hắn. Bây giờ giống như ngọn cờ no gió, hắn không thể vì việc này mà làm mối quan hệ thêm căng thẳng.
Hơn nữa kiến nghị vẫn chờ cha vợ tương lai là Vương Giai phát biểu.
Hắn lại càng không thể tranh cãi lại, chỉ có thể tìm đường khác giải quyết vấn đề này, nhất định phải tìm tới Thái Hoàng Thái Hậu để nàng thay đổi quyết định này.
Hàn Chuẩn lại nói: "Vậy cần phải xuất bao nhiêu binh lực?"
Tả thừa Thượng thư Thái Biện nói: "Đỗ tướng quân nói chiến thuật này chủ yếu dùng ưu thế binh lực làm hậu thuẫn. Vì vậy nếu xuất binh ít chỉ e không ổn. Ty chức cho rằng xuất năm vạn quân. Chư vị đại nhân nghĩ thế nào?"
Hàn Chuẩn nói: "Lấy quân binh lộ nào?"
Thái Biện nói: "Chiến sự xảy ra ở chính lộ Hoàn Khánh, đương nhiên là phải dùng toàn bộ binh lực lộ Hoàn Khánh. Hình như binh lực lộ Hoàn Khánh có cửu tướng phải không Đỗ tướng quân?"
Bản thân Đỗ Văn Hạo là tam nha Đô Kiểm Điểm, sau khi nhậm chức việc cấp bách đầu tiên là phải tìm hiểu việc bố trí binh lực trong cả nước. Vì vậy trong một tháng qua hắn đã tìm hiểu rất rõ ràng các lộ binh lực bố trí trong cả nước. Hắn liền gật đầu nói: "Thái đại nhân nói không sai. Hiện tại quân đội bố trí ở lộ Hoàn Khánh có cửu tướng cùng với hơn bảy vạn người. Hơn tám ngàn chiến mã. Chỉ có điều trong số đó có chừng bốn phần là Sương quân.
Còn một phần là Phiên binh gì đó, hương binh địa phương cùng quân cung thủ nha môn địa phương".
Vốn Tống Thần Tông muốn thay đổi chế độ xã hội, tiến hành thay đổi chế độ xây dựng quân đội, thực hiện binh tướng pháp kết hợp đội pháp.
Cái gọi là nội quy quân đội "Tương" của ông ta giống như quân đoàn hỗn hợp của xã hội hiện đại.
Chủ yếu dùng cấm quân là chính.
Ngoài ra còn có Sương quân trú đóng ở địa phương, Phiên quân, Hương binh cùng quân cung thủ nha môn địa phương được sắp xếp trong biên chế.
Bởi vậy quân số của mỗi loại quân không giống nhau, chênh lệch rất lớn. Nhiều thì hơn một vạn, ít thì mấy ngàn.
Hàn Chuẩn hỏi: "Vậy chúng ta có bao nhiêu Cấm quân ở đó?"
"Nếu như tại hạ nhớ không lầm thì Cấm quân Hoàn Khánh có bốn vạn người".
Vương Giai cau mày nói: "Vẫn còn chưa đủ. Cũng không thể điều động toàn bộ binh lực của Kinh Lược Ti Hoàn Khánh lên trước".
Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: "Theo như ty chức thấy. Đây là một trận chiến đánh lâu dài vì vậy không thể chỉ trông cậy vào binh mã của một lộ quân để giải quyết vấn đề. Lúc này hẳn nên tiến hành thay đổi pháp chế quân sự. Hãy lấy toàn bộ sáu lộ binh mã của Thiểm Tây lục lộ an phủ ti đưa vào phạm vi điều động cho chiến dịch lần này".
Hàn Chẩn kinh ngạc nói: "Tổng số nhân mã của sáu lộ này có bao nhiêu?"
Những con số này Đỗ Văn Hạo đã ghi nhớ hắn liền giơ ngón tay nói: "Hoàn Khánh Kinh Lược ti là quân tác chiến chính diện với quân Tây Hạ của chúng ta vì vậy nên bố trí tại đây số binh lực chiếm từ ba tới bốn phần tổng binh lực của cả nước. Tổng nhân số đại khái từ ba mươi tới bốn mươi vạn quân. Đương nhiên trong số này có tính cả Sương quân và các loại quân không thể tác chiến chỉ có thể vận lương cùng các công việc phụ trợ. Cấm quân chính thức tác chiến ở đây chừng hai mươi vạn".
Hàn chuẩn nói: "Hai mươi vạn sao? Vậy có nhiều quá không? Trong khoảng thời gian này quân Tây Hạ mỗi lần quấy nhiễu cũng không tới một vạn quân, chỉ khoảng bốn, năm ngàn quân gì đó.
Hai mươi vạn binh lực chúng ta xuất quân chinh phạt. Thứ nhất giết gà dùng dao mổ trâu. Thứ hai rút hết binh lực ở các địa phương khác có thể khiến cho không còn binh lực, quân địch sẽ thừa cơ tràn vào".
Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: "Quân ta bố trí dọc theo tuyến phía bắc Hoàn Châu, ở chỗ gần với kinh thành Tây Hạ nhất. Mỗi một bước tiến lên phía trước là một bước tới gần kinh thành quân Tây Hạ.
Nếu như quân địch tập kích gây rối ở địa phương khác, quân ta vẫn không thể chia binh, vẫn tiếp tục xâm nhập phía trước.
Trước tình huống kinh thành Tây Hạ bị uy hiếp, quân Tây Hạ tuyệt đối sẽ không dám rút binh lực bảo vệ kinh thành đi đánh lén nơi khác
Chúng tất sẽ tập trung binh lực ngăn cản tuyến đầu quân ta.
Chính vì vậy các địa phương khác sẽ không bị quân Tây Hạ xâm lấn quy mô lớn. Mặc dù có đi chăng nữa cũng chỉ là vây Nguỵ cứu Triệu mà thôi để phân tán binh lực chúng ta".
Hàn Chuẩn gật đầu nói: "Nói vậy cũng đúng".
Đỗ Văn Hạo nói tiếp: "Lúc trước sở dĩ ty chức đề nghị dùng binh lực sáu lộ Thiểm Tây Lục lộ an phủ ti tham gia chiến dịch này, không phảo là mang tất cả binh lực tập trung ở đó mà chúng ta sẽ tiến hành chế độ thay phiên tác chiến.
Nói một cách đơn giản chính là binh mã của lục lộ an phủ ti đều thay nhau ra trận tác chiến cùng quân địch.
Mỗi lần thay phiên hai đạo nhân mã. Cấm quân trực tiếp tác chiến không thể ít hơn năm vạn quân. Sương quân phụ trách quân nhu có thể không theo giới hạn đó. Thời hạn thay phiên là nửa năm một.
Việc thay nhau ra trận như vây thứ nhất có thể tránh cho tướng sĩ tác chiến lâu dài quá mệt mỏi.
Thứ hai tướng sĩ của tất cả các lộ binh mã đều có thể thay nhau ra trận.
Tôi luyện sức chiến đấu, khảo nghiệm tướng sĩ, chuẩn bị cho sau này tác chiến quy mô lớn".
Vương Giai khen ngợi: "Chủ ý này rất hay! Thay nhau ra trận. Nửa năm một vòng. Mỗi lần đổi phiên năm vạn lập tức ra trận".
"Hay" Mọi người đều đồng ý. Tể tướng đầu triều đã tán đồng, mọi người cũng hiểu được vị Tể tướng này đã bao che cho con rể tương lai của mình.
Trong khi đó đây cũng không phải là vấn đề có tính nguyên tác gì cả.
Chủ yếu là phương pháp này phù hợp với đòi hỏi của chiến thuật đánh lâu dài nên tất cả đều đồng ý với đề nghị của Đỗ Văn Hạo.
Đã có 26 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của baongoc
Tiếng kẻng đột nhiên vang lên. Vương Giai cười nói: "Vừa vặn tới lúc nghỉ trưa. Sáng nay tới đây thôi. Hai vấn đề còn lại, buổi chiều tiếp tục thảo luận. Ha ha ha. Bản tướng cảm thấy buổi thảo luận chính sự hôm nay là lần thành công nhất, có dũng khí đưa ra ý kiến phản đối, cố gắng tranh luận. Hay!".
Mọi người thấy ông ta không chỉ đích danh Đỗ Văn Hạo, chỉ phất tay áo cười nói thì cả đám cũng vuốt râu gật gù.
Tể chấp thảo luận chính sự luôn có tiệc rượu riêng.
Sau khi cùng ăn cơm trưa còn có một khoảng thời gian nghỉ trưa.
Đỗ Văn Hạo không có thói quen nghỉ trưa. Hơn nữa vẫn còn nhiều chuyện hắn cần giải quyết nên hắn không muốn lãng phí thời gian ngủ trưa.
Đỗ Văn Hạo đi thẳng vào cung Duệ Tư của Tống Triết Tông.
Nội thị trực ở cửa ra vào vội vàng cúi đầu, khom lưng nghênh đón hắn vào trong. Một nội thị khác đang định đi vào trong thông báo đã bị Đỗ Văn Hạo giữ lại nói: "Hoàng Thượng đâu? Sáng nay làm gì?"
Một nội thị cười nói: "Sáng nay Hoàng Thượng chuyên tâm học bài, chuẩn bị cho buổi khảo khí chiều nay".
"Thật vậy sao? Ha ha. Nhị vị lão sư Triệu Ngạn và Phó Nghiêu Du đã tới đây chưa?"
"Đã tới. Buổi sáng đã tới rồi, đang giúp Hoàng Thượng học bài".
"Đề bài đã ra xong chưa?"
"Nhị vị lão sư nói đề bài đã ra xong".
"Ừ. Hoàng Thượng đang ở đâu?"
"Đang ở Ngự thư phòng".
Đỗ Văn Hạo đi tới Ngự thư phòng. Khi hắn còn chưa tới sân của Ngự thư phòng đã nghe thấy từ đó truyền ra tiếng cười khanh khách, cực kỳ khoái trá. Nghe giọng thì đúng là của vị Hoàng Đế trẻ con Tống Triết Tông.
Đỗ Văn Hạo sải bước đi vào trong. Vừa bước vào sân một cảnh tượng rở khóc dở cười đập vào mắt hắn. Hắn thấy Sơ mật trực Học sĩ Triệu Ngạn như đang quỳ trên mặt đất, chậm chạp bò xung quanh.
Tống Triết Tông đang ngồi trên cổ ông ta. Trong tay cầm một cành liễu nhỏ, làm tư thế cưỡi ngựa.
Miệng Tống Triết Tông không ngừng kêu "Giá! Giá! Giá!, hắn dùng cành liễu đánh vào mông Triệu Ngạn.
Ba đứa hài nhi đứng bên cạnh, hai nam một nữ đang ôm bụng cười khanh khách. Một đứa mập còn cầm cành liễu trợ giúp đánh vào mông Triệu Ngạn.
Ngự sử Phó Nghiêu Du đỏ mặt đứng bên cạnh, hai đầu gối ông ta dính đầy bụi bặm. Hiên nhiên ông ta cũng vừa mới quỳ bò.
Đỗ Văn Hạo hiểu rằng trước kia Tống Triết Tông cũng rất tinh nghịch.
Nhưng hắn không ngờ bây giờ đã trở thành Hoàng Đế lại dùng lão sư làm ngựa cưỡi. Đây không những là chuyện nhục mạ người khác mà còn không coi trọng bề tôi của mình.
Lập tức trong đầu Đỗ Văn Hạo bốc hoả nhưng hắn vẫn nhẫn nhịn vì dù sao Tống Triết Tông cũng là Hoàng Thượng, khi nói chuyện vẫn cần phải cung kính một chút.
Đỗ Văn Hạo nặng nề ho một tiếng rồi nghiêm nghị đi vào.
Tống Triết Tông thấy Đỗ Văn Hạo bước vào thì cười hì hì nói: "Khanh tới rất đúng lúc. Hai người bọn họ không được nữa rồi, quá già rồi, chạy không nhanh. Khanh hãy mau quỳ xuống để Trẫm cưỡi, nhất định sẽ bò nhanh hơn bọn họ".
Đỗ Văn Hạo chắp tay, lạnh lùng nói: "Hoàng Thượng, vi thần là người, không nphải gia súc!"
Tống Triết Tông đang chơi đùa cao hứng, hắn vung bàn tay nhỏ bé nói: "Ta hiểu. Bây giờ là giờ nghỉ trưa. Chơi đùa với ta một lát có sao đâu. Bọn họ đều chơi với ta".
"Hoàng Thượng, hại vị đại thần dưới háng Hoàng Thượng đường đường là Đại học sĩ, đầy một bụng kinh thi và thư kinh. Đây là cách Hoàng Thượng chiêu hiền đãi sĩ sao?
Nếu Hoàng Thượng đối xử với bề tôi như này, coi bề tôi không phải là người, đối đãi như gia súc. Theo cương thường luân lý, tất nhiên bề tôi không dám không tuân theo nhưng điều này sẽ khiến các bề tôi thất vọng đau khổ. Khi đó sao bọn họ còn dốc sức, tận lực tận tâm phò tá Hoàng Thượng trị quốc?"
"Chỉ là chơi đùa thôi mà, không cần phải nói như vậy. Hơn nữa là do bọn họ tự nguyện. Hai người các ngươi tự nguyện để ta cưỡi, đúng không?"
"Dạ dạ! Là thần tự nguyện".
Hai lão sư người đầy bụi bặm lên tiếng trả lời, gương mặt cả hai đều đỏ ửng, thẹn thùng.
Đỗ Văn Hạo nói: "Dù là bọn họ tự nguyện Hoàng Thượng cũng không nên làm thế. Cái đó gọi là dùng kiệu hoa rước nhân sĩ.
Ngôi vị Hoàng Đế của Hoàng Thượng một khi có được sự trợ giúp của mọi người mới trở nên vững như Thái Sơn. Nếu như Hoàng Thượng không coi bề tôi của mình là người, những người có tài học đều là những người trọng thể diện. Liệu có ai chịu nổi sự đối đãi như vậy của Hoàng Thượng không?
Một khi bọn họ nản lòng thoái chí, do dự thậm chí là kiếm cớ cáo quan bỏ đi, khi đó bên cạnh Hoàng Thượng chỉ còn lại một đám người chỉ biết tâng bốc nịnh bợ. Giang sơn xã tắc không thể chỉ dựa vào đám người nịnh bợ đó mà có thể duy trì được" Nụ cười trên gương mặt Tống Triết Tông biến mất. Hắn ngượng ngùng nói: "Đỗ tướng quân, không nên nghiêm trọng như vậy".
"Nghiêm trọng hay không chúng ta cứ hỏi Thái Hoàng Thái Hậu là biết liền. Nếu Thái Hoàng Thái Hậu cũng cho rằng không có gì vậy Hoàng Thượng cứ tiếp tục trò chơi của mình".
Tống Triết Tông nghe nói tới Thái Hoàng Thái Hậu thì giống như Tôn Ngộ Không bị niệm chú kim cô, sắc mặt hắn lập tức thay đổi.
Tống Triết Tông vội vàng tụt xuống khỏi người Triệu Ngạn, ném cành liễu trong tay nói: "Đỗ tướng quân, khanh tuyệt đối đừng nói cho Thái Hoàng Thái Hậu biết. Ta nghe lời khanh sau này sẽ không bắt bọn họ làm ngựa cưỡi nữa".
Đỗ Văn Hạo vẫn nghiêm mặt nói: "Hoàng Thượng đã hiểu rõ làm như vậy là không đúng với lão sư của mình vậy hẳn phải biết nên làm gì?"
Tống Triết Tông cười ngượng ngùng, cúi đầu hành lễ với hai người Triệu Ngạn và Phó Nghiêu Du: "Trẫm nhận lỗi với nhị vị sư phụ".
Triệu Ngạn mới vừa ngồi dậy, ông ta đang chuẩn bị phủi bụi trên người mình, thấy Tống Triết Tông làm như vậy lại cuống cuồng quỳ dạp xuống đất nói: "Hoàng Thượng tuyệt đối không thể, làm vậy là hại chết vi thần" Nói rồi ông ta dập đầu thình thịch.
Phó Nghiêu Du ở bên cạnh cũng cuống quýt quỳ xuống dập đầu, liên thanh nói không dám nhận.
Đỗ Văn Hạo trợn tròn mắt. Hai lão phu tử này quả thật coi trọng nghi lễ quân thần hơn rất nhiều nghi lễ thầy trò.
Coi như là uổng phí một phen vất vả của hắn.
Đỗ Văn Hạo cười gượng, chuyển sang chủ đề khác: "Hoàng Thượng, vi thần muốn hỏi một chút về tình hình sở học trước kia của Hoàng Thượng. Liêu có thể vào trong phòng nói chuyện không?"
"Được!" Tống Triết Tông bước vào trong thư phòng, Đỗ Văn Hạo bước vào theo.
Bên trong thư phòng chỉ có bày Long án cùng Long ỷ cao, không có bục giảng, bàn học. Hắn cau mày nói: "Hoàng Thượng học ở chỗ này sao?"
Tống Triết Tông nói: "Không phải. Đây chỉ là Ngự thư phòng. Khi học thì ở Tư Thiện đường".
"Vậy chúng ta cùng tới Tư Thiện đường thôi".
"Tướng quân, sau khi dùng cơm trưa xong, theo lệ phải nghỉ trưa một canh giờ".
"Hôm nay huỷ bỏ nghỉ trưa bởi vì buổi chiều vi thần còn tới Chính Sự đường thảo luận quốc sự. Vi thần muốn tìm hiểu rõ ràng việc học tập của người sau đó buổi tối còn phải bẩm báo lên Thái Hoàng Thái Hậu để mọi người cùng nhau hiệp lực trợ giúp việc học của Hoàng Thượng".
Vừa nhắc tới Thái Hoàng Thái Hậu, Tống Triết Tông lại ỉu xìu, hắn cúi đầu nói: "Vậy được rồi".
Nói xong hắn bước ra ngoài thư phòng, mấy tiểu hài tử kia cũng ra theo.
Đỗ Văn Hạo liếc nhìn Triệu Ngạn cùng Phó Nghiêu Du rồi nói nhỏ: "Nhị vị đại nhân, ba người chúng ta làm đế sư không thể quá nhân nhượng Hoàng Thượng. Chúng ta nhất định phải dạy bảo Hoàng Thượng trở thành một vị quân chủ tài đức sáng suốt mà không phải là một bạo quân không hiểu đạo lý".
Hai người Triệu Ngạn xấu hổ trả lời rồi ba người cùng nhau đi tới Tư Thiện đường.
Ở gian lớn chính giữa của Tứ Hợp Viện có treo một tấm biển viết "Tư Thiện đường". Bên trong có bày biện bốn bộ bàn ghế, trên mặt bàn có bày văn phòng tứ bảo.
Kên bên trong là một cái bàn dài. Đây hẳn là chỗ của sư phụ, trên bàn cũng bày biện giấy, bút và nghiên mực.
Tống Triết Tông và ba tiểu hài tử chia nhau ngồi xuống. Đỗ Văn Hạo đi tới chỗ chiếc bàn dài, vén áo bào ngồi xuống. Sau đó hắn sai nộ thị bên ngoài cửa mang vào hai cái ghế cho Triệu Ngạn và Phó Nghiêu Du cùng ngồi.
Triệu Ngạn và Phó Nghiêu Du thấy Đỗ Văn Hạo dám ngồi ở trước mặt Hoàng Thượng dù cả hai đã biết Đỗ Văn Hạo nói ba người bọn họ là lão sư có thể miễn trừ nghi lễ quần thần nhưng vẫn cảm thấy ngồi như vậy có vẻ không phù hợp với cương thường luân lý. Cả hai không khỏi thầm lắp bắp kinh hãi.
Ngay khi nội thị chuyển hai chiếc ghế tới cho hai người. Hai người Triệu Ngạn cũng không có gan lớn như Đỗ Văn Hạo nên vội vàng xấu hổ khoát tay nói đứng tốt hơn.
Đỗ Văn Hạo cũng không muốn cưỡng ép.
Đỗ Văn Hạo quét mắt nhìn bốn tiểu hài tử bên dưới, sắc mặt nghiêm nghị, hắn làm ra vẻ đạo mạo, cầm cái thước trên bàn, gõ hai cái vào lòng bàn tay, cao giọng nói: "Trước tiên chúng ta làm quen với nhau.
Ta tên là Đỗ Văn Hạo, tự là Vân Phàm, thừa long ân của tiên đế và Thái Hoàng Thái Hậu, ta là tam nha Đô Kiểm Điểm, Đề Cử Thái y cục, Ngự y. Thụ ý chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu phụ trách việc học tập của Hoàng Thượng. Đây là nhị vị đế sư là Thái Hoàng Thái Hậu khâm điểm ( chỉ định ). Cả hai người đều là Đại học sĩ uyên bác. Chắc hẳn vừa rồi mọi người đã làm quen với nhau. Được rồi, tam vị Hoàng tử và công chúa đang ngồi bên dưới có thể giới thiệu giới thiệu tục danh của mình để sau này tiện xưng hô không?"
"Tới ta giới thiệu".
Tống Triết Tông mỉm cười đứng lên nói.
Tống Triết Tông chỉ tay vào một Hoàng tử ngồi bên cạnh, thấp hơn mình một cái đầu nói: "Đây là nhị đệ Triệu Nhưng của ta. Đôi mắt của nhị đệ nhìn không tốt lắm. Đôi khi nhị đệ không nhìn vì vậy có lúc nào nhị đệ không chào hỏi mọi người thì không phải là hắn ngông nghênh mà là vì không nhìn thấy. Ha ha ha".
Mấy tiểu Hoàng tử, công chúa còn lại đều che miệng cười khúch khích.
Tuy Triệu Nhưng nhỏ hơn Tống Triết Tông một, hai tuổi nhưng trọng lượng thân thể lại to hơn Tống Triết Tông, béo húp.
Cổ Triệu Nhưng có mấy tầng, béo tới mức hai mắt híp lại. Hắn tươi cười hớn hở đứng dậy chắp tay nói: "Xin ra mắt Đỗ tướng quân".
Tổng cộng Tống Thần Tông sinh mười bốn con trai, trong đó có tám người chết ngay khi còn quấn tã lót.
Trong số những người con còn lại, Tống Triết Tông lớn tuổi nhất nên là Đại huynh. Cửu hoàng tử theo sắp xếp thứ hạng là lão Cửu nhưng tính những người con còn sống thì lại là lão Nhị.
Đỗ Văn Hạo cười nói: "Không cần phải khách khí. Sau này cứ gọi ta là tiên sinh là được.
Thì ra là cửu hoàng tử. Ta biết trước đây hoàng tử đã từng bị bệnh nặng. Bệnh rất nặng. Đồ đệ của ta là Thái y Tiền Bất Thu đã dùng Hoàng thổ thang trị bệnh cho hoàng tử, đúng không?'
"Ừ. Thì ra Tiền Thái y chính là đồ đệ của tiên sinh".
"Đúng vậy".
"Ông ta già cả, râu tóc bạc phơ. Già như vậy mà còn chưa xuất sư ( học thành nghề ) chứng tỏ ông ấy ngày thường không chăm chỉ học bài".
"Ha ha ha" Mấy người Tống Triết Tông đều cười ha hả.
Đỗ Văn Hạo vẫn nghiêm nghị, hắn chờ mấy người cười xong mới lên tiếng: "Cửu hoàng tử, Tiền Bất Thu là ân nhân, người không biết báo đáp thì thôi, cũng không nên trêu cợt ân nhân của mình. Ít nhất điều đó là không biết lễ nghĩa".
Triệu Nhưng vội vàng nuốt nụ cười lại, hắn ngượng ngùng, chắp tay nói: "Thật sự xin lỗi. Ta chỉ buột miệng nói như vậy. Xin tiên sinh tha thứ".
Đỗ Văn Hạo nghiêm mặt nói: "Liệt đồ Tiền Bất Thu chính là mang theo nghệ bái sư. Khi ông ấy bái ta làm thầy, tiếng tăm thần y của ông ấy đã trùm thiên hạ".
Tiểu công chúa ngồi ở phía sau, trợn tròn đôi mắt đen lay láy nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Ông ta là thần y sao lại còn bái tiên sinh làm thầy? Ông ta già như vậy, tiên sinh nhỏ như vậy".
Đỗ Văn Hạo cười nói: "Phải nói là ta sao trẻ tuổi như vậy, có phải là muốn nói tuổi ta không hơn tuổi mất người là mấy không?"
Tiểu công chúa cười khanh khách gật đầu.
Đỗ Văn Hạo nói: "Thần kỹ phẫu thuật chữa thương của ta, trong thiên hạ này chỉ có mình ta biết, kể cả ông ấy cũng không biết. Hơn nữa ta còn rất nhiều tri thứ y thuật khác mà ông ấy cũng không biết. Ta có rất nhiều thứ có thể dạy ông ấy nên ông ấy không ngại học hỏi kẻ dưới, bái ta làm thầy".
Tống Triết Tông mỉm cười nói: "Đỗ tướng quân chuẩn bị dạy ta những gì? Là tứ thư ngũ kinh sao? Hay vẫn là thi từ ca phú? Lễ nghi cung đình sao?" Lập tức ba tiểu hoàng tử, công chúa kia lại lén cười.
Đỗ Văn Hạo thản nhiên nói: "Ta có thể dạy mọi người cái gì chờ lát nữa mọi người sẽ biết. Hoàng Thượng, xin thỉnh người tiếp tục giới thiệu với vi thần nhị vị còn lại".
Tống Triết Tông vỗ vỗ đầu nói: "Đúng rồi. Ta lại quên mất việc này".
"Hoàng ca ca, bây giờ người không thể nói: Ta, phải nói Trẫm".
Tiểu công chúa sau lưng Tống Triết Tông cười khanh khách nói.
Tống Triết Tông lại vỗ vỗ đầu nói: "Coi như trí nhớ của ta. A! Không, trí nhớ của Trẫm. Hì hì" Ba người kia lại cười vang.
Tống Triết Tông khoát tay ra hiệu cho ba người không cười, hắn chỉ vào tiểu Hoàng tử thấp hơn hắn một đầu ngồi ở sau nói: "Hắn là tam đệ Triệu Cát của ta".
Đỗ Văn Hạo thầm lắp bắp kinh hãi. Triệu Cát sao? Tống Huy Tông sao? Đây chính là một vị Hoàng Đế cực kỳ nổi danh của Bắc Tống, thậm chí trong lịch sử Trung Quốc.
Tống Huy Tông nổi danh không phải là vì những thành tựu về văn trị vũ công (thành tựu về mặt quân sự) mà là những chuyện lãng mạn phong hoa tuyết nguyệt của hắn, bút pháp thần kỳ, thư pháp thể Sấu kim, còn cả kinh nghiệm đau đớn của việc tin dùng gian thần, mất nước.
Nhưng bây giờ Tống Huy Tông mới chỉ là một đứa trẻ sáu bảy tuổi, gương mặt ngây thơ hồn nhiê, chưa từng nghĩ tới một quốc gia mất trong tay mình. Giờ đây Đỗ Văn Hạo chưa cảm thấy tạo hoá trêu ngươi khi hắn lại làm đế sư của hai vị Hoàng Đế Bắc Tống mà chỉ cảm thấy trọng trách ghê gớm trên vai mình.
Hắn không biết mình liệu có gánh vác được hết trách nhiệm này hay không?
Triệu Cát đứng dậy, chắp tay bập bẹ nói: "Xin ra mắt tiên sinh".
Nếu một khi muốn cứu vớt Bắc Tống, trước tiên phải cứu với vị Đại hôn quân của tương lai này vì vậy Đỗ Văn Hạo cũng không vì Triệu Cát là Hoàng đế tương lai mà biểu lộ cảm xúc hắn chỉ mỉm cười gật đầu ý bảo Triệu Cát ngồi xuống.
Đỗ Văn Hạo lên tiếng hỏi: "Mẫu thân của người là vị nương nương nào?"
Lập tức sắc mặt Triệu Cát trở nên ảm đạm, vành mắt đỏ hoe, nước mắt tuôn rơi, cúi đầu xuống không nói.
Triệu Nhưng mập mạp chỉ ngón tay giữa vào miệng nói với Đỗ Văn Hạo: "Tiên sinh, những lời này không thể hỏi hắn. Nương nương của hắn vốn trước đây phát điên. Sau khi phụ hoàng băng hà đã uống thuốc độc tự vẫn chết theo phụ hoàng. Mỗi khi có ai nhắc tới hắn đều thương tâm khóc".
Lập tức Đỗ Văn Hạo hiểu ra. Nương nương của Triệu Cát thì ra là Trần mỹ nhân bị buộc uống thuốc độc chết thảm. Lúc này thật sự Đỗ Văn Hạo không biết nói gì.
Đỗ Văn Hạo đi tới vỗ nhẹ lên vai Triệu Cát nói: "Nam nhi không dễ rơi lệ! Hãy kiên cường lên"
Triệu Cát giơ bàn tay nhỏ bé lên lau nước mắt, hít hít mũi trịnh trọng gật đầu.
Sau đó Tống Triết Tông giới thiệu tới tiểu công chúa kia: "Đây là Hoàng muội, Phong từ quốc công chúa, chưa tới tuổi đặt tên, chỉ có một nhũ danh là Niệm Niệm. Nhưng mọi người gọi là Niêm Niêm".
Tiểu công chúa trừng mắt hạnh nói: "Tên của muội không phải Niêm trong niêm nhân mà là Niệm trong tưởng niệm. Hừ!".
Ba người còn lại đều cười vui vẻ.
Đỗ Văn Hạo quay lại ghế ngồi hỏi: "Thôi được rồi. Bây giờ chúng ta đều đã biết nhau. Ta sẽ trả lời câu hỏi của Hoàng Thượng. Rốt cuộc ta dạy mọi người cái gì? Trước tiên ta muốn biết mọi người đã học cái gì? Ai trả lời trước đây?"
Niệm Niệm giơ tay trước nói: "Ta nói!".
"Được! Tiểu công chúa nói đi".
"Chúng ta cùng Hoàng đế ca ca cùng học với nhau, thi từ ca phú, còn cả lịch sử các triều đại còn có cả các loại nghi lễ cung đình".
Trong lòng Đỗ Văn Hạo hiểu rõ điều này. Hắn liếc nhìn túi đựng tính trù để trên bàn liền cười hỏi: "Xem ra mọi người hẳn là có học qua cửu chương toán thuật đúng không?'
"Có học qua".
"Có biết tính không?"
"Đương nhiên biết"
"Trong mọi người ai là người tính nhanh nhất?"
"Hoàng đế ca ca"
Tống Triết Tông đắc ý nói: "Cửu chương toán thuật mà tiên sinh nói, tốc độ tính toán của Trẫm trên thế gian ít người sánh kịp, ngay cả tiên sinh cũng không thể so với".
"Thật vậy sao?" Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: "Xin thỉnh Phó đại nhân ra một đầu đề. Năm người chúng ta thi tính toán xem ai là người nhanh nhất, được không?"
"Được" Lập tức sắc mặt Tống Triết Tông hiện lên vẻ phấn khích, xem ra hắn rất tự tin với tốc độ tính toán của chính mình, hắn cũng rất hy vọng thắng được người đế sư trẻ tuổi này.
Lập tức Tống Triết Tông cởi túi tính trú để trên bàn nói: "Phó thị, khanh hãy mau ra một đề bài. Ra khó một chút. Rất khó. nếu không, hừ hừ. Mau lên đi" Ba hoàng tử công chúa còn lại cũng vội vàng lấy tính trù ra cầm trong tay.
Phó Nghiêu Du vội vàng trả lời, ông ta ngẩng đầu suy nghĩ một lát rồi nói: "Vi thần đã nghĩ kỹ. Sáu vạn…"
"Chờ một chút!" Tống Triết Tông khoát tay cản lại nói.
Tống Triết Tông nhìn Đỗ Văn Hạo nói: "Đỗ tướng quân khanh mau lấy tính trù ra, còn thất thần ngồi đó làm gì?"
Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: "Hoàng Thượng, không cần phải quan tâm. Ha ha ha".
Tống Triết Tông trừng mắt nói: "Được, khanh tự cao nhỉ. Lát nữa thua khanh đứng trách Trẫm không báo trước. Phó khanh hãy ra đề đi".
"Dạ dạ!" Phó Nghiêu Du lau mồ hôi trán, ho khan một tiếng rồi nói: "Sau mươi từ nghìn hai trăm bảy mươi sáu nhân với bảy nghìn ba trăm năm mươi mốt bằng bao nhiêu?" Tiếng loạt xoạt bất chợt vang lên, bốn tiểu hài tử bắt đầu lay hoay tính toán.
Dù lúc ấy đã phát minh ra bàn tính nhưng còn lâu mới phổ cập ( Vào triều Nguyên bàn tính mới phổ cập ). Một nguyên nhân là lúc ấy bàn tính vẫn còn chưa hình thành đầy đủ hệ thống khẩu quyết tính toán, đặc biệt ở phương diện nhân chia, giải toán. Tốc độ giải toán còn chậm hơn cả tính trù ( tính trù là phương pháp tính toán cổ đại, thực tế là những miếng gỗ nhỏ mịn, bình thường dài khoảng 13-14cm, dầy khoảng0,2-0,3cm, cũng có thể làm bằng trúc, răng thú, ngà voi, kim loại hay các vật liệu khác. Một bó ước chừng hai trăm bảy mươi miếng để trong bao bố hay giắt ở thắt lưng ) Hơn nữa rất dễ mắc sai sót vì vậy mọi người vẫn có thói quen dùng tính trù để tính toán.
Tính trù là một phương pháp tính toán trước khi bàn tính được hoàn thiện, dùng các mảnh gỗ xếp đặt các hình dạng khác nhau để tính toán, phép tính toán nhân chia này phức tạp hơn so với giải toán số học.
Phải hình thành ba tầng tính toán thượng trung hạ, khi tính toán theo công thức phải liên tiếp cầm lên, di chuyển liên tục nói chung rất phiền phức.
Tốc độ giải toán tương đối chậm, phức tạp hơn so với số học, khi tính toán luôn phải đặt lên bàn.
Vì vậy mới có câu: "Tính trù doanh án" chính là chỉ việc này.
Ban đầu khi Đỗ Văn Hạo mới tới, hắn thấy Lâm Thanh Đại khi tính toán sổ sách thường dùng tính trù, hắn hiểu rõ cách tính này rất chậm. Hắn thầm nghĩ có lẽ đề này đưa ra sau thời gian ăn xong một bữa cơm mà vẫn chưa tính toán xong nên trong lòng vẫn ung dung không nóng vội.
Đỗ Văn Hạo đứng dậy, chắp tay sau lưng đi tới bên cạnh mấy người Tống Triết Tông.
Hắn chăm chú quan sát giống như một giám thị vậy.
Tốc độ ngón tay của Tống Triết Tông di chuyển rất nhanh, thậm chí hắn còn không nhìn mặt bàn. Tống Triết Tông thấy Đỗ Văn Hạo đi tới, vừa ngẩng đầu nhìn Đỗ Văn Hạo vừa tính toán, cười nói: "Đỗ tướng quân, lão sư dạy tính toán của Trẫm được xưng là "Thần toán tử" Nếu khanh không mau chóng tính toán, nhất định sẽ thua trẫm. Ha ha".
Đỗ Văn Hạo vẫn chắp tay sau lưng, hắn buột miệng hỏi: "Vị lão sư Thần Toán Tử của Hoàng Thượng tên gọi là gì?"
"Tên là Thẩm Quát".
"Hả?" Đỗ Văn Hạo giật mình hỏi: "Thẩm Quát? Thẩm Quát là lão sư tính toán của Hoàng Thượng sao?"
Đã có 19 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của baongoc