Thuyền nhỏ lắc lư trôi trên dòng nước biếc, rẽ qua mấy khung quanh, liền thấy một bãi cồn nổi lên giữa mặt hồ, xung quanh bãi cồn hoa nở trắng như tuyết.
Am nhỏ núp bóng dưới tàng cây rậm rạp, hẳn vì thế mà có tên Thu Tuyết.
Lên bờ, đường mòn khúc khuỷu, hai bên đều là kỳ hoa hương thảo, tùng xanh trúc biếc, mọi người thấy tấm biển đề ba chữ " Am Thu Tuyết".
Vị hòa thượng trụ trì sớm đã đợi ở của, dẫn mọi người vào bên trong, sau khi dâng trà lên, mời mọi người vào hậu viện, giúp bọn họ sắp đặt đồ tế lễ rồi lui ra.
Mọi người cũng chẳng có nhiều trình tự rắc rối, trước tiên là xếp thành vòng tròn, khom mình bái nhau, rồi đứng xếp theo thứ tự tuổi tác. Trong bảy người Từ Vị lớn tuổi nhất, tiếp đó là Ngô Đoái, Tôn Lung, Chư Đại Thụ, Tôn Đĩnh, nhỏ nhất là Thẩm Mặc.
Tiếp đó đốt đồ tế, Từ Vị đứng trước ánh lửa hừng hực, mở văn tế, cao giọng đọc:
- Chúng tôi Từ Vị, Ngô Đoái, Tôn Lung, Chư Đại Thụ, Tôn Đĩnh, Đào Đại Lâm, Thẩm Mặc người phủ Thiệu Hưng Chiết Giang nước Đại Minh, tay chắp nén hương xin thưa, phục nghĩa đào viên, chung lòng ngưỡng mộ mà học theo; dù không phải tình thâm, họ tộc cũng khác, nhưng cùng chung chí hướng. Lưu Quan Trương kết nghĩa vì cứu Hán thất, giữ gìn thiên hạ. Nay vương triều Đại Minh, mưa gió bất thường, trong có gian đảng hoành hành, ngoài có giặc Oa Yêm Đáp, sinh linh đồ thán, bách tính khốn đốn.
- Chúng tôi phận thư sinh, nhưng nát lòng vì nước, hận không thể gan góc lầy đất, trả lại trời đất trong sáng cho Đại Minh. Hận thay không có dũng hơn đời của Quan Trương, không có trí trị thiên hạ của Quản Trọng. Cùng đường hết kế, chỉ có cách tâm hợp lực.
- Ngày sáu tháng tam năm Gia Tĩnh thứ ba mươi tư, chuẩn bị sĩnh lễ dê lợn, tắm rửa trai giới, thành kính thỉnh cầu, vái lậy Hạo thiên kim khuyết Ngọc hoàng đại đế, công tào năm phương, Thành Hoàng bốn huyện, cùng giám sát. Đám chúng tôi tuy thấp kém, nhưng lòng trung thành, lập hội Phục Hưng, lời thề vĩnh viễn ...
Mọi người cùng nghiêm trang nói:
- Đồng tâm hợp lực, phục hưng Đại Minh, tế thế cứu dân, có đầu có cuối, nếu như trái lời, mặc chúng sinh xử phát.
Đợi mọi người đọc xong, Từ Vị tiếp tục:
- Chúng tôi phú quý nhớ tới lúc bần cùng, hoan lạc nhớ khi đau khổ, hưng thịnh không quên lúc suy vong. Bỏ qua vinh nhục cá nhân, thủy chung không quên cái chí hôm nay.
- Sau khi ăn thề kết minh sẽ tương thân tương ái, chung hưởng an lạc, tương trợ khổ nạn. Càng mong Đại Minh quốc thái dân an, nhà nhà hạnh phúc. Văn tấu ngày mùng sáu tháng tám năm Gia Tĩnh thứ ba mươi tư.
Đọc xong liền đốt văn tế, xem như gửi cho thần phật các phương đọc.
Mọi người lại lần lượt báo danh tính, học cổ nhân cắt máu ăn thể, nhỏ vào vò rượu, chia ra làm bảy chén rượu máu, sau khi uống vào. Lần lượt vài lạy nhau tám lạy trước mặt thần, sau đó tiễn thần, đốt tiền giấy, thu lễ lại.
Không bao lâu sau, vị hòa thượng trụ trì dọn một bàn cơm chay, bảy người chia lớn nhỏ ngồi xuống. Trước khi vào bữa tiệc, Từ Vị nói:
- Có câu chim không đầu không bay được, rắn không đầu không xong. Chúng ta phải tiến cử một hội chủ, có đại biểu đối ngoại của hội Phục Hưng chúng ta.
Mọi cười cùng nói:
- Văn Trường huynh đề cử mọi người đi.
Từ Vị cười:
- Ta xin xung phong .... thì mọi người khẳng định không chịu.
Sáu người cười rộ lên, hắn tiếp tục nói:
- Kỳ thực chẳng có gì để chọn lựa cả. Chuyết Ngôn huynh đệ mặc dù tuổi nhỏ nhất, nhưng kiến thức trác tuyệt, trầm ổn độ lượng. Việc này do huynh đệ ấy đề nghị, càng không thể đẩy cho người khác.
Những người khác đều gật gù:
- Đúng thế, không thể đẩy cho người khác.
Thẩm Mặc vội khiêm tốn, nhưng bị mọi người cùng đẩy lên vị trí chính, mới miễn cưỡng nói:
- Các các huynh đệ yêu quý , Thẩm Mặc chi đành tận tâm tận lực. Nếu như làm không tốt, không cần mọi người thay, ta tự mình vỗ mông chạy.
Mọi người cười ầm lên:
- Nếu huynh làm không tốt, hội Phục Hưng chúng ta bị giải tán mất rồi, cho nên ngàn vạn lần phải làm tốt.
Thẩm Mặc mắng đùa:
- Chưa chi đã ỷ vào ta rồi.
Sáu người đều nâng chén mời rượu y, sau khi uống vào, coi như đã xác lập vị trí hội chủ.
Nếu đã tại vị rồi, Thẩm Mặc không khách khí nữa, trầm giọng nói:
- Có hoài bão cao lớn thì dễ, khó là con đường thực hiện hoài báo, chắc chắn gập ghềnh gian nan, thậm chí có nguy hiểm không nhỏ.
Tôn Đĩnh biến sắc mặt, khẽ nói:
- Liệu chúng ta có bị coi là kết băng đảng không?
Thẩm Mặc liếc nhìn qua mọi người, thấy Từ Vị, Chư Đại Thụ, Tôn Lung, Ngô Đoái mặt thản nhiên, Đào Ngu Thần Tôn Đĩnh thì có chút lo lắng. Y biết mấy vị "thản nhiên" kỳ thực không thản nhiên được, chẳng qua tuổi cao hơn một chút, che dấu được tâm sự trong lòng mà thôi.
"Cần phải đánh tan băn khoăn này." Có chủ ý rồi, Thẩm Mặc liền trịnh trọng nói:
- Trước tiên mặc kệ người khác thấy thế nào, phải hỏi bản thân chúng ta, phải coi chữ "đảng" này ra sao?
- Thánh nhân nói :" Quân tử nghiêm trang mà không tranh với ai, hợp quần với mọi người mà không bè đảng."
Đào Ngu Thần lên tiếng:
- Tiểu nhân bè đảng mà không hợp quần, có thể thấy chữ đảng không phải là hay ho gì.
- Sai rồi.
Thẩm Mặc kiên định định lắc đầu:
- Nếu là ta nói thì, tiểu nhân vô đảng, quân tử mới có đảng.
- Cách nói này rất mới mẻ...
Mọi người cũng không giáo điều cứng nhắc, kiên nhẫn nghe y nói.
- Theo ta thấy, đảng có nghĩa là cùng chung chí hưởng, một nhóm người vì cùng một chí hướng cao cả mà tụ lại với nhau, cùng một ý chí, cùng nhau phấn đấu, đó mới gọi là đảng.
Ánh mắt Thẩm Mặc sáng quắc:
- Còn đám tiểu nhân tụ lại với nhau âm mưu trục lợi, đó gọi là gian đảng, cùng với chúng ta là hai mặt chính phản, vĩnh viễn đối lập với nhau. Gian đảng là cái xấu, tức đảng là tốt, nếu không đã chẳng cần thêm chữ gian.
- Cho nên ta nói, người quân tử cùng đạo mà kết bạn, để đoạn tuyệt cùng đảng với tiểu nhân, lấy cùng chung chí hưởng kết đảng.
Y đem "đảng" thành danh từ đại diện cho chính nhân quân tử, đem lại cách giải thích mới ẩn chứa trong khái niệm "đảng".
Mọi người nghe thấy cách nói mới mẻ này, trong lòng phấn khích, bất giác đều gật đầu:
- Như thế chúng ta không cần phải kiêng kỵ băng đảng.
- Phải làm băng đảng lớn nhất thiên hạ.
Thẩm Mặc cười:
- Chuyện này không vội, hiện giờ chúng ta chẳng qua có sáu bảy người, ngay cả thi hương cũng chưa tham gia, căn bản là không đáng nhắc tới, nếu như hiện gờ đem tái tên "hội Phục Hưng" này nói ra, chỉ e là sẽ bị chết non.
Mọi người đều gật đầu, Từ Vị nói:
- Thái tổ sở dĩ thành bá nghiệp là vì chín chữ "xây tường cao, trữ nhiều lương, hoãn xưng vương." Chúng ta hiện nay ý đồ trùng hưng Đại Minh, độ khó không kém gì thái tổ lập quốc khi xưa, chiếu theo đó mà làm là biện pháp tốt.
- Lời này đúng lắm.
Chư Đại Thụ gật đầu:
- Không bằng chúng ta trước tiên dùng danh xưng thông tục, cũng không tuyên bố chí hướng của mình, chỉ nói với bên ngoài là văn xã bình thường.
- Không ổn, không ổn.
Tôn Lung lắc đầu:
- Như thế làm sao thu hút anh tài khác gia nhập.
Từ Vị đột nhiên cười lớn:
- Cái này quá đơn giản, chúng ta chỉ cần tuyên bố với bên ngoài, mục đích của hội là "nghiền ngẫm bát cổ, luận bàn học vấn, rèn luyện phẩm hạnh", lại có được thành tích tốt trong khoa cử, lo gì sĩ tử thiên hạ không đi theo xu nịnh.
- Lời này mặc dù khó nghe ... Nhưng là sự thực.
Mọi người gật gù:
- Cũng được, hội văn của chúng ta tuyên bố với bên ngoài là rèn luyện văn chương, cầu lấy công danh, còn tên gọi là ..
- Hội Quỳnh Lâm đi.
Tôn Đĩnh cười hăng hắc:
- Nếu đã tục thì tục cho tới cùng.
*** Quỳnh Lâm , quỳnh thụ chi lâm, thường được hình dung chốn bồng lai tiên cảnh. Thực ra thì đám công tử tụ nhau đi chơi lầu xanh cũng lấy cái tên như thế cho sang ... Nói chung nó có thể đại biểu sang tục tùy hoàn cảnh sử dụng.
- Không tệ, làm người ta nghe một cái biết ngay là làm gì rồi.
Mọi người gật gù.
Đợi mọi người hưng phấn nói hết, Thẩm Mặc nghiêm túc nói:
- Nếu như lấy tên hội Quỳnh Lâm, thì chư vị, những người khai sáng chúng ta phải lấy mục tiêu là đề danh bảng vàng, khiến thiên hạ phải ghé mắt, dánh được danh vọng tột cùng.
Mọi người cùng gật đầu:
- Đi ngàn dặm đường thế nào phải có bước khởi đầu, trước tiên phải thi hương cho tốt.
Rồi cùng nâng chén chúc nhau thi tốt.
~~~~~~~~~~~~
Cùng lúc hội Quỳnh Lâm nâng chén chúc mừng thì trong trường thi Hàng Châu, đặt ở đông bắc Tây Hồ ...
Trường thi Hàng Châu trải qua năm ngày quen dọn, ba ngày đóng cửa, cuối cùng bụi bẩn đi hết, rực rỡ hẳn lên .. Chí ít nhìn bề ngoài là như thế.
Thế nhưng cả một trường thi lớn suốt ba năm không có người ra vào, trừ bụi bẩn ra, khó tránh khói có những thứ không sạch sẽ bên trong ... Thực tế trường thi là nơi hỏa hoạn, phát bệnh, nổi điên thậm chí là tự sát cực cao. Thường thường mỗi khi tới kỳ thi lớn thế nào cũng có điều cổ quái xuất hiện.
Mọi người không giải thích được, chỉ đành đổ cho quỷ thần gây ra, cho rằng xuất hiện chuyện này là do ai đó làm chuyện trái với lương tâm gặp phải chuyện báo ứng. Qua một thời gian dài đồn thổi, bất kỳ là khảo quan hay khảo sinh đều rất tin vào chuyện ân oán ắt có báo ứng, mà không chỉ là tin, còn thành một loại ước thúc về đạo đức làm người đọc sách kiềm chế hành vi của mình.
Đương nhiên trừ quét dọn ra, còn phải mời nhân sĩ chuyên nghiệp tới xử lý. Cái gọi là nhân sĩ chuyên nghiệp chính là tăng nhân đạo sĩ, bọn họ lập tế đàn ba ngày trước khi thi, gọi Minh Viễn lâu, bày đủ thứ đồ cúng tế chay mặn. Mục đích chủ yếu là mời thổ địa đại tiên, du hồn dã quỷ tạm thời chuyển qua đó ở tạm, đợi thi xong hãy quay về.
Tới canh năm ngày mùng tám, trước trường thi nổ ba tiếng pháo, mở hàng rào ngăn với bên ngoài, lại nổ ba tiếng pháo nữa, mở đại môn; ba tiếng pháo tiếp theo, mở long môn. Sau chính tiếng pháo, trên đường phố chiêng trống ầm ĩ, cờ quạt phủ kín, tuần phủ Chiết Giang, tri phủ Hàng Châu dẫn các quan viên dưới xuất hiện, bày hương án trước cửa trường thi. Hồ trung thừa mặc mãng bào, đội khăn vấn đầu, hành lễ xong đứng dậy, dùng hai chiếc ô che mặt.
Quan viên của nha môn tuần phủ quỳ xuống nói:
- Mời tam giới Phục ma đại đế Quan thánh đế quân vào trường thi trấn áp, mời Chu tướng quân tiến vào trường thi tuần thị.
Bỏ ô che ra, Hồ Tôn Hiến lại hành lễ,, viên quan kia tiếp tục mời Thất khúc văn xương khai hóa đễ quân, Khôi tĩnh lão gia ... Vào trường thi.
Sau khi nghi lễ này kết thúc mới là nghênh đón khảo quan vào trường thi, bọn họ bái tế Khổng Tử, phát lời thề độc, kiểm tra kỹ càng trong trường thi, xác nhận không khâu nào có vấn đề, mới chuẩn bị công tác đánh số, phân bài thi ...
Trong đêm đó hai vị chủ khảo, tám vị phó khảo, mười mấy thư bạn liền ở trong Chí Công đường, đợi ngày mai bắt đầu cuộc thi. Trong truyền thuyết phàm kẻ nào có tư tâm , muốn làm trò gian trá, sẽ chết bất đắc kỳ tử trong đêm đó ...
Ngày mùng chín tháng tám năm đối với bảy thành viên "băng đảng" hội Quỳnh Lâm mà nói thì đó là một ngày đáng ghi nhớ, vì bọn họ sẽ tham gia một cuộc thi quyết định vận mệnh, sau này là quan hay là dân ở trong cuộc thi này. Nếu như không thành, phải quay về đợi ba năm nữa.
Không một ai muốn trì hoãn thêm ba năm, cho nên bọn họ đều ở thế bắt phải thành công.
Đêm qua mọi người trời vừa tối liền ai về phòng người nấy, hẹn giờ giờ Sửu ( 1-3 am) lên đường, tới giới, thân binh trực đêm gõ cửa từng phòng, đánh thức bảy vị đại gia.
Thiết Trụ đích thân đi gọi đại nhân dậy, còn chưa gõ cửa đã tự động mở ra, nghe thấy bên trong nói:
- Tà dậy từ trước rồi.
Thiết trụ nâng đèn lồng lên nhìn, thấy Thẩm Mặc đầu vấn khăn màu ngọc, người mặc trường sam màu hạt dẻ, ăn mặc chải chuốt chỉnh tề nhưng quên mất ... mặc quần.
Thấy ánh mắt Thiết Trụ nhìn trừng trừng vào nhìn vào eo mình, Thẩm Mặc theo tiềm thức sờ xuống dưới, mặt đỏ bừng quát:
- Nhìn cái gì mà nhìn.
Rầm một cái đóng cửa lại, thiếu chút nữa làm Thiết Trụ dậm mũi, Thiết Trụ theo đại nhân lâu rồi, xưa nay luôn thấy đại nhân ung dung đâu ra đấy, ít khi khẩn trương như thế.
Trở ra lần nữa, Thẩm Mặc quả nhiên mặc quần thắt đai lưng cẩn thận, trợn mắt nhìn hắn hầm hừ:
- Đây là bí mật.
Thiết Trụ vội gật đầu:
- Bí mật, bí mật.
Đi vào trong nhà chính, một bàn thức ăn thanh đạm dinh dưỡng đã bày sẵn, Đào Ngu Thần vành mắt thâm xì ngồi đó thành thực nói:
- Đệ mất ngủ, có điều rất hưng phấn.
Đánh chết Thẩm Mặc cũng không nói là y cũng như thế, gật đầu đầy phong độ đại tướng:
- Không đợi bọn họ nữa, ai tới thì ăn thôi.
Liền bóc một quá trứng gà.
Đảo Ngu Thần cũng múc một bát cháo, gắp chút dưa muối ngồi ăn. Hắn liếc thấy Thẩm Mặc đã bóc trứng tới chỉ còn lòng đỏ, liền tốt bụng nhắc:
- Sư huynh, trứng bóc xong rồi.
Thẩm Mặc giờ mới phát hiện ra vừa rồi mình thất thần, nhưng trấn tĩnh nói:
- Lòng trắng không có dinh dưỡng, ta chỉ ăn lòng đỏ thôi.
Đào Ngu Thần phục sát đất, không biết là bội phục sư huynh mặt dầy hay cái gì.
Một lúc sau huynh đệ họ Tôn đi vào, cả hai đều mặt mày tiều tụy, Tôn Lung múc cho đệ đệ một bát mỳ.
Thấy Tôn Đĩnh ngồi xuống còn mơ mơ màng màng, Đào Ngu Thần cười hỏi:
- Sao thế, không ngủ ngon à?
- Tại đại ca của ta hết, ngáy như sấm.
Tôn Lung bực bội nói.
- Đệ thì cứ làm nhảm, còn đánh rắm nữa.
Tôn Đĩnh thường ngày điềm đạm cũng cáu kỉnh đốp chát, rồi cầm lấy một cái bánh.
" Phụt.." Tôn Đĩnh vừa mụt một sợi mỳ liền phun ra, làm Đào Ngu Thần cười phá lên.
- Làm sao thế, căng thẳng à?
Chư Đại Thụ và Từ Vị ở cùng một phòng, cùng nhau đi vào, Từ Vị ngồi xuống bên cạnh Tôn Đĩnh, vỗ lưng giúp hắn thông khí, cừa hăng hắc nói:
- Không sao hết, trước lạ sau quen, lần sau sẽ không căng thẳng nữa.
Tôn Đĩnh vốn sắp ổn rồi, nghe thế lại ho khù khụ, tức tối nói:
- Mả mẹ thứ rảnh rỗi gạt chân người, mới sáng sớm ngày ra không biết nói câu nào may mắn à?
Hắn tức lên tuôn luôn ra thổ ngữ Thiệu Hưng.
Từ Vị cười hăng hắc:
- Ta nói thật đấy, ngươi nhìn Tiểu Chư kìa, qua một lần tốt hơn rất nhiều, ta thi ba lần rồi, có thể đạt tới mức đi thi như đi chơi, hoàn toàn không khẩn trương nữa.
Chư Đại Thụ cười lớn chen vào:
- Đúng thế, chỉ có điều cả đêm đi tiểu tám lần.
Từ Vị đỏ mặt:
- Ngươi tung tin đồn, ngươi ngủ thì biết sao được ta làm cái gì?
- Vấn đề là đệ không ngủ.
Chư Đại Thụ cười khổ:
- Vừa buồn ngủ một chút thì huynh lại dậy, lát nữa vừa mơ màng huynh lại dậy. Làm đệ cả đêm nằm đó ngủ không nổi, đầu ù ù cả lên.
Thấy mọi người đều khẩn trương, Đào Ngu Thần cảm khái:
- Nói ra phải bội phục Quân Trạch huynh, người ta vừa đặt lưng xuống đã ngày pho pho, ngủ ngon lành tới gọi cũng không dậy.
Hắn ở cùng phòng với Ngô Đoái.
Mọi người tâm phục khẩu phục:
- Chúng ta không bằng Quân Trạch huynh ... Nhưng hắn ngủ hơi say quá thì phải, sao giờ còn chưa dậy?
Cho tới tận khi mọi người ăn xong Ngô Đoái mới xuất hiện, làm mọi người bất ngờ là sắc mặt vị lão huynh này săc mặt cực kém, cứ như đêm qua không phải ngủ , mà là vác bao tải trăm cân, chạy một vòng quanh Hàng Châu vậy.
Đào Ngu Thần không khỏi lấy làm lạ:
- Không phải huynh ngủ ngon lắm sao? Thế nào trông còn tệ hơn bọn đệ.
- Uầy, đừng nhắc lại nữa, hôm qua vừa mới ngủ đã nằm mơ.
Ngô Đoái buồn bực nói:
- Trông mơ thấy thi liền chín ngày chính đêm, đệ nói xem ta có mệt không hả?
Mọi người bò lăn ra cười.
Thấy mọi đều đang đợi mình, Ngô Đoái híp vội và chén cháo, lấy mấy quả trứng gà rồi đứng dậy nói:
- Đi thôi.
Mọi người liền ai nấy mang rương của mình, lên xe ngựa tới trường thi. Mỗi một cỗ xe đều treo đèn "thi hương Hàng Châu". Hôm nay toàn thành giới nghiêm, nếu như xe kiệu không treo loại đèn này thì không được phép ra đường.
Lúc này ngày dài đêm ngắn, khi tới đường trước trường thi thì trời đã tờ mờ sáng.
Xa phu đánh xe liền xin thưởng lấy may, Thẩm Mặc tuy không tin vào những điều này, nhưng cũng thích điềm tốt, trọng thượng xa phu rồi mới xuống xe.
Các thân binh giúp chuyển rương tới đường trước trường thi, liền bị nha dịch ngăn lại, mỗi người chỉ được phép mang một thư đồng vào, giúp vận chuyển hành lý, hầu hạ trong trường thi, đó chính là ý nghĩa tồn tại của thư đồng.
Nhóm bảy tên thư đồng Thẩm An, vác rương nặng nề, theo sau bảy người Thẩm Mặc, tới sân rộng trước trường thi. Cái sân này chu vi chừng hai dặm, thường ngầy là chợ phồn hoa, Thẩm Mặc còn từng dẫn A Man tới đây mua đồ.
Đương nhiên mục đích thiết kế ban đầu của nó khẳng định không phải là để người ta bày hàng mở quán, mà là để cho các khảo sinh tập hợp. Thẩm Mặc nhìn bốn xung quanh, thấy hai bên đều có tấm bia tráng lệ, tấm bên trái viết hai chữ "Đằng Giao" tấm bên phải viết "Khởi Phượng", trước đại môn trường thi cũng có tấm bia viết bốn chữ " Thiên Khai Văn Vận."
*** Đằng Giao, Khởi Phượng : Đều có ý nỏi vươn mình lên.
Tới phía bắc lại nhìn thấy có hai hàng bai viết "minh kinh thủ sĩ" " vì quốc cầu hiền" ... Chứng minh nó không phải là chỗ họp chợ.
Trường thi nằm theo hướng bắc nam, cửa treo tấm biển có bốn chữ đen lớn "trường thi Hàng Châu", đề tên không ngờ là Lưu Bá Ôn danh tiếng lẫy lừng.
Trước đại một hai trượng còn có một cánh cổng tròn, một hàng trào gỗ màu đỏ, một số nha môn lớn đều có cái này, ngăn người không liên quan tiến vào.
Các khảo sinh tập trung ở trước hàng rào này, bảy người Thẩm Mặc đã có chút tên tuổi, đi tới đâu cũng có người hỏi thăm, cũng có không ít người đi theo, dần dần thành đội ngũ lớn.
Thấy Đào Ngu Thần có vẻ không khỏe, Thẩm Mặc hỏi:
- Làm sao thế?
Đào Ngu Thần cười khổ:
- Không quen lắm.
Từ Vị cười ha hả:
- Thân là nguyên lão của hội Quỳnh Lâm, sau này sẽ thường xuyên bị tiền hô hậu ủng, Tiểu Đào mau chóng làm quen đi.
Đào Ngu Thần cười nói lảng đi:
- Thấy mọi người đến khá đủ rồi, sao còn chưa bắt đầu?
- Chưa tới giờ.
Chư Đại Thụ nói khẽ:
- Giờ Mão mới có người ra mở cửa.
Anh bạn Chư rất có kinh nghiệm, vừa tới giờ Mão, ba tiếng phảo nổ vang, đại môn của trường thi chầm chậm mở ra, cuối cùng cũng nhìn thấy được cảnh trí bên trong trường thi, mọi người bất giác nín thở, ai nấy căng thẳng vô cùng.
Chỉ thấy hai hàng binh sĩ mặc áo đỏ tươi, một đội tay cầm cờ đỏ, một đội cầm cờ trắng, đứng trước hàng rào vẫy cờ, đồng thanh hô vang:
- Ân quỷ tiến, hữu ân báo ân, oán quỷ tiến, hữu cừu báo cừu.
Cảnh này làm các khảo sinh đi thi lần đầu đưa mặt nhìn nhau, có người cứ nhìn lên biển trước cửa , nghĩ :" Mình có tới nhầm chỗ đâu? Sao lại bắt đầu hô thần gọi quỷ thế này?"
Có khảo sinh hiểu chuyện nhỏ giọng giải thích:
- Đó là triệu tập quỷ hồn, những ân quỷ tới đền ơn khảo sinh tụ tập dưới cở đỏ, những oán quỷ tới báo thù thì đều tới cờ đen. Đợi lát nữa sẽ mang những lá cờ này vào, mời quỷ hồn vào trong trường thi, nếu không có Văn Xương đế quân trấn giữ, bọn chúng không dám vào.
Chính đang nói chuyện thì hai vị quan chủ khảo được các đồng khảo quan tháp tùng xuất hiện trước cổng trường thi. Chính khảo quan cao giọng đọc:
- Phụng chỉ khai khảo, không được phép gian dối, nếu không v..v..v...
Toàn lời cũ đến phát nhàm, cuối cùng nói:
- Mở cửa.
Chương 249 : Ta không đi thi, ta đi khảo nghiệm bản thân.
Dịch:lanhdiendiemla.
Sưu Tầm: Soái Ca
Dòng người chầm chậm đi qua cửa trong, đi theo đại môn vào bên trong gặp nghi môn, qua nghi môn là long môn, giữa nghi môn và long môn là đường kiểm tra tiến vào trường đi.
Vì kiểm tra cực kỳ cẩn thận, cho nên rất tốt thời gian, có nhiều khảo sinh không chen vào vội, mà ngồi nghỉ ở quản trưởng, mặt trời lên lại trốn dưới bóng tường. Thẩm Mặc lúc này mới phát hiện tường bao cao tới hai trượng , hơn nữa bên trên trải đầy bụi gai, chẳng khác gì trại giam đời sau, hẳn tác dụng giống nhau.
Tới hai canh giờ sau mới có binh sĩ đi ra nói:
- Kiểm tra tới Thiệu Hưng.
Thẩm Mặc vội theo dòng người đi vào, tới đại môn thì Thẩm An không vào được nữa, Thẩm Mặc đành vác rương đi vào trường thi.
Mẹ nó, đúng là giống cái nhà tù.
Đó là cảm tưởng đầu tiên của của y về trường thi thần thánh.
Nhưng nhìn người làm quan đi đến đâu cũng đường đường có đội nghi trượng tiền hô hậu ủng, làm người ta hâm mộ, bất kể thân thể hay tâm linh, thậm chí là tự tôn, đều muốn vượt qua kỳ thi này ... Mạnh lão sư nói rất đúng, trời cao trước khi trao ô sa cho một người, phải làm người đó hao tổn tâm chí, mệt mỏi gân cốt, đói khát thân thể, cho nên phải có nhẫn nại chịu đựng, mới có đủ tư cách làm quan.
Đương nhiên đó là suy nghĩ của các khảo sinh thi đỗ, bởi vì khoa cử trở thành cơ hội cho bọn họ bay cao vươn xa, cho nên coi đó thành sự trải nghiệm bình thường nhân sinh. Còn với người thi trượt thì phải trả giá bằng tâm huyết cả một đời, gặp phải khổ nạn hơn người thi đỗ chục lần, song chẳng được chút báo đáp nào, bị thế gian coi thường nhạo báng. Cho nên thường thường coi khoa cử thành vết thương lòng lớn nhất, căm hận nó vô cùng.
Không thấy gần như tất cả văn chương miêu tả thi cử đều xuất phát từ tay những người thi trượt sao, sự bi thảm trong đó, khỏi nghĩ cũng biết.
Thẩm Mặc không muốn mình cũng trở thành nhân vật bi thảm trong sách giáo khoa văn học của hậu thế, cho nên cuộc thi này không thể có chút sơ sót nào. Sau khi được kiểm chứng thân phận đi vào, y giống như người khác ngồi xuống đất cởi đai lưng tháo giày, đương nhiên không phải đi ị, mà là chuẩn bị soát người.
Vì khao cử là con đường làm quan duy nhất, làm quan có quyền lực địa vị mỹ nữ, cho nên dù các triều đại nghiêm cấm khắt khe, vẫn có số ít khảo sinh bất chấp danh dự, tìm đủ mọi cách gian lận.
Trong đó việc mang tài liệu vào phong thi càng cấm mãi không hết, bọn họ dùng chữ cực nhỏ viết kinh thư, chủ giải của Trình Chu viết vào tài liệu. Cũng có người mời người khác viết văn chương bên ngoài, ghi lên quạt, sổ nhỏ, giống trong người, giỏ mang vào trường thi.
Một khi mang tài liệu vào trót lọt thì chuyện dễ dàng hơn nhiều rồi, vì khi thi hương mỗi người ở trong một căn lều nhỏ riêng biệt, cho dù có người theo dõi thì trong ba ngày thế nào cũng có cơ hội lật sách gian lận.
Cho nên trước khi tiến vào trường thi đều phải kiểm tra thân thể nghiêm ngặt, nhất là triều Minh, hoàng đế lão Chu định ra chế độ trừng phạt rất nặng, nếu khảo sinh bị tra ra có vấn đề sẽ bị nhốt giam, sau đó sẽ "vấn tội vi dân", tức là thủ tiêu học tịch, cả đời đừng mong thi cử nữa.
Nhưng giống như đồ đao cũng không giết hết được tham quan, nghiêm trừng của lão Chu cũng không thể khiến các khảo sinh tâm thuật bất chính chùn bước. Lệnh cẩm không đủ sức chặn đứng gian lận. Triều đình chỉ đành tăng cường kiểm tra, tăng cường trừng phát.
Thẩm Mặc còn nhớ kiếp trước mình đi thi, trước khi thi các giảm khảo đều nói lớn :" Đem tất cả những thứ co liên quan tới thi cử đặt lên trên!: Nhưng không bắt khảo sinh phải cởi y phục kiểm tra cơ thể, không khỏi thầm chửi :" Xã hội cũ khốn kiếp,"
Chính đang suy nghĩ lung tung thì nghe bên trong có người hô lớn, chuẩn bị kiểm tra, thể là một đám quan viên dẫn sai dịch kiểm tra đi vào một cái ngõ.
- Mười người một hàng đứng sát vào tường!
Tiếp đó quan kiểm tra hạ lệnh, các khảo sinh đứng dậy, đi chân đất mặc nội y, tay cầm tất, xếp hàng đứng vào trong.
Mỗi một khảo sinh do hai người kiểm tra thân thể, kiểm tra từ đầu tới nhân, những quan viên thì đừng ở một bên nhìn chăm chăm, để đề phòng có sai sót xảy ra. Đám người này kiểm tra cực kỳ biến thái, nách, bụng, đầu gối, không bỏ sót chút nào. Chẳng hề có ý dùng lễ đãi người hiền.
Kỳ thực đám người kiểm tra này sử dĩ nghiêm ngặt như vậy không phải vì trách nhiệm hay vì tính công bằng thi cử. Mà kiểm tra ra được một người gian lận, sẽ được thưởng ba lượng bạc. Đương nhiên có thể chà đạp đám người đọc sách lúc nào vênh váo cao ngạo một lần là cơ hội hiếm có, lào sao không quý trọng.
Đám kiểm tra này đều có kinh nghiệm, trừ kiểm tra trong ngoài cơ thể khảo sinh, thì đồ đạc mang theo càng là trọng điểm kiểm tra, như dùng búa nhỏ ngõ quản bút xem có rỗng không, nghiêm mực, rương sách có ngăn ngầm không, chăn cũng bị tháo ra kiểm tra, thậm chí cả bánh bao cũng bị bẻ ra kiểm tra bên trong.
Nếu mỗi lần kiểm tra ra được có người gian lận, kiếm được thêm thu nhậm, đám kiểm tra đều hưng phấn reo lên, lôi kẻ gian lận như tang cha mất mẻ ra ngoài. Mỗi lần như thế các khảo sinh khác không khỏi thỏ chết cáo thương, ấn tượng với khảo thí càng xấu thêm vài ba phần.
Loại kiểm tra này cực kỳ chậm chạm, khi kiểm tra tới Thẩm Mặc thì mặt trời đã chuyện về phía tây, hai tên lính kiểm tra vừa mới định ra tay thì tên bên trái đột nhiên giật mình, nhảy mắt với tên bên phải, tên kia cũng kinh hãi, lập tức khôi phục lại vẻ bình thường, làm bộ kiểm tra rất qua loa.
Thấy ánh mắt thắc mắc của Thẩm Mặc, tên bên trái nhân cơ hội tới gần nói khẽ bên tai y :
- Bọn tiểu nhân là lính Hải Diêm.
Thẩm Mặc hiểu ra, năm ngoái khi y đi tuần thị có tham ga cuộc chiến bảo vệ Hải Diêm, hiển nhiên hai người ngày nhận ra mình.
Đã có người quen liền tránh khỏi một trận ngược đãi, chỉ kiểm tra che mắt người khác rồi cho tiến vào. Nhận lấy giấy thi ở cửa rồi tiến vào long môn. Đôi bên là câu đối, vế thượng liên ghi : "hạ bút thiên ngôn, chánh quế tử hương thì, hòe hoa hoàng hậu ; về hạ liên là "xuất môn nhất tiếu, khán tây hồ nguyệt mãn, đông chiết triều lai. "
Nhìn câu đối ấm áp lòng người này, tâm khí vốn nóng nảy vì cuộc kiểm tra dài dằng dặc liền bình tĩnh trở lại, tinh thần phấn chấn bước qua cửa trường thư. Thấy ngay con đường trải đã xanh rộng rãi, đội diện với "Minh Viễn lâu" đó là trung tâm của trường thi, cao ba tầng, trừ tầng một có tường có cửa sổ thì tầng hai tầng ba đều chỉ có cột không có tường. Đương nhiên không phải vì hậu quả ăn bớt nguyên vật liệu, mà vì ý tứ "minh viễn", kiến trúc này dùng cho giám khảo.
Khi khảo thí những quan viên như tuần sát, đề điều, giám lâm phụ trách kỷ luật trường thi đều sẽ trèo lên tòa Minh Viễn lâu này, nhìn từ trên cao xuống, giám thị các khảo sinh, binh sĩ, giảm khảo có hành vi thông đồng gian dối hay không.
Nhưng nghĩ tới công danh ngay trước mắt, các khảo sinh vứt bỏ hết mọi vất vả xấu xa, chỉ hận không thể lập tức chui vào lều thi, bắt đầu cuộc thi lớn trong đời.
Lều thi được bó trí chỉnh tề bốn xung quanh Minh Viễn lâu, trông cứ như một cái tổ ong. Mỗi một lều đều có một cái tên hiệu, dùng Thiên Tự Văn sắp xếp, để cho các thí sinh mau chóng tìm được vị trí lều thi của mình. Đồng thời ngoài lều thi ghi tên khảo sinh cho mọi người cùng biết.
Lúc này các khảo sinh đang mở to mắt tìm vị trí của mình, đợi tìm ra rồi, mỗi người có một vẻ mặt khác nhau, người thì cười tươi hơn hớn, kẻ thì tức tối chỉ muốn bỏ về cho xong.
Thẩm Mặc sớm được nghe kể, lều thi bên trong chia làm bốn loại, mực độ thoải mái mỗi loại cách biệt một trừi một vực. Tốt nhất là các lều cũ, cao rộng, hơn nữa lại gần Minh Viễn lâu, dưới ngay vành mắt các đại nhân nên được tu sửa kịp thời, không bị dột.
Nhưng vì sau khảo sinh ngày càng nhiều, lều thi liên tục phải tăng lên, một số tên tham quan ô lại ăn bớt nguyên vật liệu đút vào túi riêng, nên lều thi vừa thấp, vừa bé. Đứng không thẳng mình, nằm chân lộ ra ngoài, thi ở trong lều như thế, trước tiên chịu được đau lưng chuột rút đã rồi hẵng nói tiếp.
Nhưng khảo sinh được xếp vào loại lều này cùng lắm là mặt mày ấm ức, chưa tới mức đấm ngực dậm chân, thầm nuốt lệ vào tm. Vì so với hai loại lều khác là "lều mưa" "lều thối" thì còn khá lắm rồi.
Lều mưa là cái hết sức cũ nát, ngoài mưa lớn trong mưa nhỏ, phải biết bài thi tuyệt đối không được làm uớt, không được tổn hại gì, nếu không bị quan duyệt bài lấy ra, dùng mực xanh khoanh lên, đó gọi là "lên bảng xanh", tức là khẳng định hết hi vọng rồi.
Đám Thẩm Mặc đem "mái nhà" là tránh gặp phải thứ lều mưa này.
Cuối cùng là loại "lều thối", đa phần gặp phải là bỏ thi luôn, vì nó đặt bên nhà xí, lúc này thời tiết nóng nực, lúc này e rằng trừ Sở Lưu Hương ra thì không còn ai chịu đựng nổi nữa.
Tưởng tượng đi, ăn ngủ ở nơi người ta đi qua phải bịt mũi, không nôn ọe, hôn mê mới là lạ. Còn thi cử quái gì nữa.
Thẩm Mặc tốn sức tìm kiếm một hồi, mới tìm thấy tên của mình, nhìn tên lều thi là " số bảy chữ nhật", có câu "thiên địa huyền hoàng, vũ trụ hồng hoang, nhật nguyệt doanh..." Tức là lều 7 hàng 9.
Nhìn số ở gần như thế, Thẩm Mặc biết chắc chắn là loại lều cũ rồii, liền thở phào.
Thẩm Mặc theo chỉ dẫn tìm tới lều 7 hàng 9, đứng trên đường nhìn tới, chỉ thấy có bảy tám chục lều xếp thành một cái ngõ dài, đều có có hàng rào, lính gác kiểm tra đối chiếu tên tuổi, mới cho Thẩm Mặc vào.
Thẩm Mặc thấy con ngõ rộng chưa tới năm xích, nhưng rất dài, giống con ngõ khu dân cư, bên ngoài mỗi một gian lều có một người lính canh giác. Thực tế giám quan không trực tiếp đi tới ngõ kiểm tra, nhiệm vụ giám thị chủ yếu là những quân sĩ một chữ cắn đôi không biết này. Một vì không có nhiều khảo quan như vậy, hai là phòng khảo quan và khảo sinh thông đồng.
Thực ra lại giám thị một kèm một này không có gì khó làm, chỉ cấm hỏi han, cầm trao đổi là được rồi.
Trong ngõ còn có mấy chum lớn đựng nước, chủ yếu dùng phòng hỏa hoạn và cho khảo sinh uống.
Thẩm Mặc nhìn nhìn phía xa, thấy ngay nhà xí, liền thu ánh mắt lại, tìm gian lều thứ bảy, quả nhiên đúng như đám Từ Vị nói, ba mặt có tường, phía nam để trống, kích cỡ chừng bằng nhà xí trên tàu hỏa sau này, có thể tưởng tượng ra lều nhỏ thì ra sao.
Thẩm Mặc nhấc ván lều lên, chỉ thấy bên trong đầy tơ nhện, mặt đất cũng phủ lớp bụi dầy. Vừa rồi y vào cửa trường thi, thấy khắp nơi sạch sẽ, mặt đất được vẩy nước, còn vui mừng một hồi, ai ngờ người ta chỉ quét được, còn lều ai người nấy đi mà dọn.
Lều thế này thi cử gì? Hết cách, y đành sắn tay áo lên quét dọn lều thi rồi hẵng nói. Đương nhiên không phải chỉ mỗi mình y, các khảo sinh khác trong ngõ cũng đang tiến hành tổng vệ sinh. Khi quét dọn, Thẩm Mặc thấy trên vách có không ít bài thơ méo mó do các bậc tiền bối trong lúc không làm được bài để lại. Nhưng làm y kinh ngạc là y thấy hàng chữ nhỏ -- Dư Diêu Vương Thủ Nhân năm nhậm thi ở đây.
*** Vương Dương Minh, hay còn gọi là Dương Minh Công tổ sư của tâm học.
Thẩm Mặc ra sức dụi mắt, y xác định không phải gặp ma, thật sự không sao ngờ được nơi này lại là chỗ thánh hiền đã từng phấn đấu, xem tiếp phía dưới, còn có mấy vị khảo sinh mấy chục năm trước viết lời ngưỡng mộ, y mới tin rằng sáu mươi năm trước thánh nhân từng quét dọn vệ sinh nơi này , tâm lý bất giác thăng bằng hơn rất nhiều.
Nhưng chuyện này quá trùng hợp, quá lộ liễu. Thẩm Mặc cảm giác tới tám chín phần đây là do môn nhân Vương Học an bài, y không khỏi rùng mình, lòng thầm kinh hãi :" Đám người này thật đáng sợ, nếu muốn chơi đùa chết ta thật quá đơn giản." Không khỏi sinh lòng kính sợ những người kia, không dám coi thường nữa.
"Đám người đó định làm gì?" Thẩm Mặc nhắm mắt suy nghĩ chốc lát, cảm thấy không phải chuyện xấu, liền mặc kệ, tiếp tục làm vệ sinh.
Khi quét dọn xong thì trời chập choạng tối, Thẩm Mặc không khỏi thầm chửi :" Ba ngày thi mất một, mà đề thi còn chưa mở." Liền dứt khoát để ngày mai hẳng hay, cất cẩn thận bài thi vào trong túi giấy dầu, chuẩn bị làm cơm ăn.
Thẩm Mặc mở rương lấy lò than , bê ra ngoài ngõ, lều thì quá nhỏ, tất cả mọi người muốn làm cơm đều phải ra cái ngõ này. Nhưng khi y ra ngoài thì gần như không có mấy người.
Vì sau khi qua đại môn, không một ai được mang thư đồng theo. Cho nên tất cả mọi việc đều do những thư sinh trói gà không chặt đó làm, e rằng họ cả đời tới lúc này mới cảm nhận được thế nào là lao động chân tay. Người nào người nấy đều trong tình trạng kiệt sức, ngay cả cơm cũng không muốn ăn. Đương nhiên khả năng do lười làm càng lớn hơn.
Tất nhiên khả năng không biết nấu cơm còn lớn hơn nữa, các vị này toàn là bậc "tiên nhân" không nhuốm bụi trần, nấu cơm nóng e rằng còn hại người hơn cơm nguội.
Trong hoàn cảnh như thế, đúng là không phải chỉ so học vấn, mà còn biết chiếu cố bản thân. Nếu làm miệng nôn trôn tháo, đầu choáng mắt hoa sao còn làm được văn chương hay lấy lòng khảo quan?
Nhưng Thẩm Mặc từ nhỏ từ nhỏ phải nấu cơm, hơn nữa năm ngoái tuần thị ăn gió nằm sương, khổ cực không ít, cũng rèn luyện thể chất và ý chí, nên lúc này có thể chăm sóc tốt cho bản thân.
Cho nên nếu chỉ biết đọc sách, không biết giúp cha mẹ làm việc nhà, không kiên trì rèn luyện sức khỏe là không được.
Nấu một nồi cháo loảng, rồi bẻ bánh mang theo vào trong bát, tiếp đó y rưới cháo nóng lên trên, tức thì có bát cháo thơm ngào ngạt làm người ta chảy nước miếng.
Ăn liền hai bát chào trong ánh mắt hâm mộ của người khác, Thẩm Mặc thấy bất kể tinh thần hay thể xác đều thư thái hơn rất nhiều.
Y vào trong lều hoạt động thân thể vừa phải, đợi thức ăn tiêu hóa kha khá, liền đi ngủ, y không định lãng phí thời gian hôm nay nữa.
Sách lược này là đúng, hôm qua y không ngủ ngon, hôm nay lại vật lộn suốt một ngày, dù muốn tranh thủ thời gian làm bài thì đầu óc cũng không điều khiện nổi nữa, chẳng bằng ngủ ngon, bồi dưỡng tinh thần còn hơn.
Thẩm Mặc lấy ván lều lắp thành giường, trải chăn đềm, bôi thuốc trừ muỗi, cảm tạ hiền thê chu đáo xong chui vào chăn cầu nguyện:
- Dương Minh công, đêm nay ngàn vạn lần đừng đến tìm học sinh.
Rồi lăn ra ngáy khò khò.
Giấc ngủ này đúng là sảng khoái, Dương Minh Công cũng không đến quấy nhiễu, ngủ cho tới lúc đã mắt tự tỉnh lại, mở mắt vặn mình, thấy quân sĩ giám thị mới nhớ ra là đang ở trong trường thi.
Y thấy quân sĩ kia nhìn y đầy khẩm phục, lại nhìn trời, thấy mặt trời đã lên tới ba cây sào rồi, không khỏi mặt đỏ bừng, vội thu dọn chăn đệm, lấy bếp nồi ra nấu mỳ, còn cho hai quả trứng gà vào. Tên quân sĩ kia không khỏi thầm kinh bỉ :" Ăn no lại ngủ, ngủ dậy lại ăn, thứ áo túi cơm vô dụng."
Thẩm Mặc còn không biết gì, vẫn ung dung nấu mỳ, thấy mỳ hơi nhạt còn cho thêm chút dầu muối, quả nhiên ngon hơn nhiều, trong lòng càng thêm yêu thương Ân tiểu thư.
Tới khi ăn no bụng, lau sạch ván lều, y mới thong thả ngồi xuống, mở để thi ra.
Bên trong có ba đề Tứ Thư và hai mươi đề Ngũ Kinh, đương nhiên không phải là làm hết, nếu không Thẩm Mặc cũng chẳng thể thong dong như vậy, ba đề Tứ Thư phải đáp hết, còn Ngũ Kinh chỉ cần làm một kinh tức là bốn đề, tức là phải viết bảy bài văn.
Tất nhiên là không hải ngươi có thể chọn đề kinh nào đơn giản thì làm đề đó, mà là ba ngày trước trên đề đã ghi khảo sinh chọn cái nào. Đương nhiên không phải vì trường thi có tài tiên tri, mà trước khi thi tất cả khảo sinh tới nha môn bố chính sứ ti, đem tên tuổi, quê quán, lý lịch ba đời cùng với Kinh chuẩn bị thi báo ra. Sau đó đóng dấu lên giấy thì, phát cho khảo sinh.
Thẩm Mặc chọn bốn đạo đề Xuân Thu, y đã biết từ nhiều năm trước , đã hình thành việc chỉ coi trọng vòng thi đầu, nhất là coi trọng Tư Thư, chỉ cần bài thi Tứ Thư được khảo quan nhìn trúng, thì bài thi trong hai vòng khác không coi trọng lắm nữa.
Cho nên y đem đa phần tinh lực đặt lên ba đạo đề của Tứ Thư, cố gắng làm thật hoàn mỹ rồi mới nghĩ đến bốn đạo đề Xuân Thu.
** Ngũ Kinh có: Kinh thi, Kinh dịch, kinh lễ, kinh thư, kinh xuân thu.
Xem kỹ bốn đề Tứ Thư, Thẩm Mặc không thể không thừa nhận đem so với thứ tiệt đáp đề đầu một nơi thân một nẻo của thi đồng sinh, thì đại đề đương đường chính chính càng có thể kiểm tra học vấn của một người hơn. Ba đề thi đều là câu chữ hoàn chỉnh, vì tránh nhầm lẫn còn trích dẫn ra cả đoạn , chỉ cần là người đọc qua Tứ Thư sẽ biết nó ở đâu, hoàn toàn không phải tốn sức đoán đề.
Xem qua ba đạo đề thi, Thẩm Mặc toàn tâm toàn ý tập trung vào làm bài, phân ra ý trọng điểm, nắm chắc quan hệ các đoạn, mới cầm bút vào đề. Mặc dù văn chương chưa chắc mới mẻ độc đáo, nhưng gắn sát với đề, mạch văn đường đường chính chính, từng từ đều phát ra từ lời thánh hiền, mang phong cách đại gia, hoàn toàn vượt trội khảo sinh bình thường.
Làm xong ba đạo đề thì đã tới trưa ngày hôm sau, Thẩm Mặc dùng nửa ngày còn lại làm bốn đạo đề Xuân Thu, mặc dù mắc độ chuyên tâm không thể so với ba đề Tứ Thư, nhưng trình đồ y quá cao, vẫn có thể viết cho lý cao nghĩa sâu, văn chương như dệt gấm.
Đợi nộp bài ra ngoài thì người đã mệt nhoài rồi, y không về Tây Khê nữa, đi thẳng tới một khách sạn ở đó, Ân tiểu thư đã bao cả một biệt viện cho y, vào trong có người hầu hạ ăn uống. Thẩm Mặc thấy Từ Vị và Chư Đại Thụ cũng đã ra, mọi người đều mặt mày mỏi mệt, tới cả sức nói chuyện cũng chẳng còn. Ăn qua loa một chút, Thẩm Mặc đi tằm, ngâm mình trong trong nước nóng, không ngờ dựa vào thành thùng nước ngủ mất ....
Sau vòng thi đầu tiên, bài thi bị tập trung lại, đưa vào trong một tiểu viện độc lập ở đằng sau Minh Viễn lâu, đó là phần ngoại vi của nơi duyệt bài. Kiến trúc hạch tâm của nó chính là Chí Công đường, do quan ngoại liêm phụ trách trường thi tọa trấn tại đây, giám sát công tác xử lý tiền kỳ duyệt bài.
*** Trong thi hương, thi hội, quan viên chỉ huy giám thị là ngoại liêm, quan viên duyệt bài gọi là nội liêm.
Dưới sự giám thị của quan ngoại liêm, bài thi trước tiên được đưa tới nơi thu bài phía đông Chí Công Đường, ở trong đó chỉnh lý phách, đếm số lượng, đồng thời tiến hành tuyển chọn sơ bộ. Phàm là bài thi bị tổn hại, bị dính bẩn đều bị lấy ra, đưa về trong chí công đường do quan giám sát thẩm hạch, đánh dấu xanh.
Những bài thi hợp cách thì dùng con dấu, sai người đem tới phòng bên trái, dùng hồ đem niêm phong lại phần thông tin của khảo sinh ... Trước khi công bố bảng, không một ai được phép mở ra xem.
Sau khi hoàn thành, giao cho sở ghi chép lớn nhất, hơn một trăm văn lại, chép bài viết của khảo sinh ra, nếu như trong bài thi có thí sinh có chữ sai, phải viết đúng theo như vậy, đồng thời ghi chú ra.
Chép xong giao cho sở đối độc bên cạnh, do thư lại của sở đối độc kiểm tra kí hiệu dấu của khảo sinh có chính xác chưa. Sau khi không có gì nhầm lẫn nữa mới giao cho sở giữ bài bênh cạnh, thống nhất kí hiệu lần nữa, rồi đưa lại Chí Công đường.
Quan giám sát đi về phía bắc, dừng chân trước một chiếc cầu đỏ, thông báo với nội liêm. Quan chủ khảo cùng với hội đồng nội liêm tới bên kia cầu, hai bên không lên cầu, do một đội quân sĩ đưa bài thi tới, rồi do quân sĩ phía đối diện nhận lấy.
Hai bên thi lễ với nhau rồi ai về chỗ nấy, từ đầu tới cuối không nói một câu.
Đương nhiên không phải là hai bên không có lễ phép, mà đề phòng nhân viên gánh vác nhiệm vụ khác nhau thông đồng với nhau gian lận. Hậu viện phụ trách duyệt bài càng tuyệt đối độc lập với bên ngoài, trừ chuyển bài thi, tuyệt đối không cho phép ai ra vào.
Kiến trúc trung tâm của hậu viện là Hành Giám đường. Trừ duyệt bài ra, hậu viện còn có một tác dụng cực kỳ quan trọng là trước mỗi vòng thi, quan chủ khảo ra đề, do phòng khắc chữ và phòng in ấn in ra, hôm sau đưa ra ngoại liêm.
Sau khi bài thi được đưa vào nội lêm, quan chủ khảo Nguyễn Ngạc nói với tám vị đồng khảo quan:
- Chứ vị, rút thăm đi.
Các đồng khảo sinh đi tới rút thăm, đem những bài thi mang ký hiệu tương tự đi.
Nhưng không được mang vào phòng, mà phải duyệt bài trong hành giám đường, chủ phó khảo quan ngồi bên trai, tám vị đồng khảo quan chia ra trái phải. Quan giám sát nội liêm ngồi bên cạnh các khảo quan mở to mắt theo dõi quá trình duyệt bài.
Bị quan giám thị nhìn chằm chằm, cả Hành Giám đường trở nên yên tĩnh. Vì những quan giám thị này thường thường do Cẩm Y vệ đảm nhận làm các khảo quan sởn gai ốc. Đương nhiên, chỉ cần khảo quân không ghé đầu ghé tai trao đổi, đánh mắt ra hiệu thì các quan giám thị không quấy nhiễu quá trình duyệt bài.
Các đồng khảo quan đều xuất thân tiến sĩ, tuổi dưới bốn mươi, sức lực sung mãn, thị lực tốt. Bọn họ cần đọc kỹ ghi chú từng bài văn, đồng thời đọc qua xem có mạch lạc không. Nếu như trúc tra trúc trắc thì bỏ qua bên luôn.
Nếu văn chương mạch lạc, hơn nữa viết sai không quá ba chữ mới có tư cách để đồng khảo quan xem lần thứ hai. Trong lần n ày khảo quan phải xem từ bốn phương diện "lý, pháp, tử ,khí"
*** Nếu quên Lý, Pháp, Tử , Khí có thể xem lại bài học cuối của Thẩm Luyện.
Tiêu chuẩn đánh giá bốn phương diện là ngôn ngữ phải đơn giản, điển nhã, lưu loát , trình bày chính diện đạo Khổng Mạnh, học thức Trình Chu mà mình lĩnh ngộ được.
Đồng khảo quan căn cứ vào đó phân hơn kém của bài thi, đồng thời viết lời bình cho mỗi một bài thi, trình bày lo do có tiến cử bài hay không. Bất kể có hay không, bọn họ đều phải phụ trách với quyết định của mình.
Đồng khảo quan đem bài tự cho rằng đủ tư cách "cao cử" giáo cho thư lại bên cạnh, trình lên cho chủ phó khảo quan, nếu như là bài viết thực sự xuất sắc còn có "cao tiến" tức là tiến cử mạnh mẽ.
Tức là có thi đỗ hay không, hoàn toàn do chính phó khảo quan quyết định, nếu bài thi đưa lên được phó khảo quan tán thành như vậy sẽ dùng bút đen viết chữ "chọn" lớn, ròi giao cho quan chủ khảo.
Nếu như chủ khảo cũng đồng ý, liền viết thêm chữ "trúng" đồng thời viết rõ lý gio, để tiện đưa lên lễ bộ "ma khám".
Đối với bài thi quan phó khảo bác bỏ, quan chủ khảo có quyền xem lại, nhưng như vậy thì quá làm mất mặt phó khảo đại nhân, cho nên thường thì quan chủ kháo không dùng quyền lực này, trừ khi có bài văn làm người ta đặc biệt thích thú, trong mắt người khác ít nhất ở trình độ rất cao, nhưng lại không được chọn, cho nên bình thường tình huống này không xuất hiện.
Thời gian duyệt bài là ban ngày, tới tối thì dừng lại nghỉ ngơi, lúc này hai vị chủ khảo và quan giám thị cùng đếm bài, xác nhận không có gì sơ sót, dùng ba chiếc khóa khóa Hành Giám đường lại. Ngày mai ca ba vị tới cùng mở ra, tiếp tục duyệt bài.
Thường thì thời gian duyệt bài không tới hai mươi ngày, trong đó tuyệt đại đa số thời gian đều dùng để chấm bài vòng thi thứ nhất. Mặc dù trong quá trình duyệt bài vòng thi thứ hai thứ ba, đồng khảo quan có thể tiếp tục tiến cử. Nhưng chủ phó khảo quan chỉ chú trọng vòng thi đầu, nhất là bài thi Tứ Thư, cơ bản bỏ qua vòng thứ hai thứ ba. Tức là chỉ cần được tuyển trúng vòng đầu, thì vòng thai vòng tha cần văn chương mạch lạc là được ...
~~~~~~~~~
Sau nửa tháng duyệt bài, tất cả bài thi vòng đầu được duyệt xong, có 89 bài thư được hai vị quan chủ khảo tuyển túng. Nhưng hạn ngạch thi hương Giang Chiết có tới 95 bài, con số này không thể hơn cũng không thể kém. Nếu như ở nơi khác trải qua quá trình quyệt bài hành hạ người ta như vậy, các khảo quan sẽ lỏng tay, gom đủ số bài hạn ngạch là được.
Nhưng ở nơi này thì chớ mơ. Vì quan chủ khảo là hữu thiêm đô ngự sử Nguyễn Ngạc, người này ngươi như cái tên, thân hình gầy gò, nhưng ánh mắt sắc bén như chim ưng. Nhìn một cái biết ngay không dễ chọc vào. Ít nhất các khảo quan phía dưới đều lĩnh giáo sự nghiêm khắc của ông ta. Trong quá trình duyệt bài, ông ta nhiều lần yêu cầu khảo quan nghiêm túc với mỗi một bài thi, để tuyển chọn được khảo sinh có thực tài thực lực, để họ vươn lên người khác.
Không chỉ đốc thúc các khảo quan khác, bản thân ông ta cũng nghiêm khắc kiểm định, tiền hành đánh giá tỉ mỉ ưu khuyết của mỗi một bài thi, tuyệt đ không để bài thi vàng thau lẫn lộn.
Sau khi duyệt bài xong còn thiếu 6 bài được trúng tuyển, đảm bảo không để bị sót, ông ta còn nghiêm túc xem lại mỗi bài bị đánh rớt, cho tới tận khi công bố bảng, ông ta mới chọn ra sáu bái nữa, gom đủ 95 bài.
Công tác còn lại chỉ là xếp hạng, vì khảo quan đều do lâm thời điều động, sau việc thì giải tán, không có quan hệ cấp trên cấp dưới, cho nên không ai sợ ai, thường thường vì ý kiến chia rẽ mà tranh cãi kịch liệt.
Nhưng ở chỗ này không có chuyện đó, vì Nguyệt Ngạc nắm bắt ưu khuyết của văn chương rõ như lòng bàn tay, bình phẩm nói một câu là trúng, mọi người không cần tranh chấp, chỉ dùng nửa ngày đã định xong thứ hạng thi đỗ, làm quan nội giám thở phào, lau mồ hôi, cười nói:
- Ta còn tưởng phải mất nhiều thời gian hơn nữa chứ.
Ngyên Ngạc cười, tay tầm danh sách thứ hạng, đứng dậy nói:
- Đi vào các vị, chúng ta tới Chí Công đường.
Liền suất lĩnh toàn bộ khảo quan đi ra ngoài cầu đỏ, tới Chí Công đường, cùng quan ngoại liêm chuẩn bị bảng niêm yết.
Một canh giờ sau chân dung của 95 vị cử nhân lộ diện, nhìn quê quán các thi sinh trúng tuyển, thiên hộ Cẩm Y Vệ Chiết Giang làm quan giám thị nói với Nguyễn Ngạc:
- Chiết Giang chúng tôi có một câu nói "chọn được tốt, nhìn Thiệu Hưng", văn tài của Thiệu Hưng lấn áp toàn tỉnh, hiện giờ nhìn thấy đa phần là Sơn Âm, Hội Kê và Dư Diêu, có thể thấy lần tuyển chọn này là công chính.
Năm vị trí đỗ đầu của kì thi này toàn bộ của ba địa phương kia, nhưng không một ai chất vấn gì, ngược lại đều nói:
- Tâm phục khẩu phục.
Có thể thấy trình độ khảo sinh Thiệu Hưng cao siêu là điều được tất cả mọi người công nhận.