Gia đình họ Lê tiễn Phùng lão ra tới tận cổng, Phùng lão xoay người lại nói với gia đình Lê Đinh:
- Các vị dừng ở đây được rồi, không cần tiễn lão xa đến vậy đâu. Lão đi đây, tạm biệt các vị.
- Vâng, tạm biệt bác ạ.
Nhìn theo bóng lưng của Phùng lão khuất dần trong màn đêm, Ngọc Thương nói với Lê Khoáng:
- Ông ấy tốt bụng quá chàng nhỉ?
Chàng gật đầu đáp:
- Ừ, cũng may nhờ có ông ấy mà thằng bé mới hết bệnh, chỉ tiếc tính tình ông ấy hơi khác người một chút, thật không biết có cách gì để báo ơn ông ấy đây?
Ông lão Lê Đinh cười cười:
- Cuộc đời là những chuyến đi. Có duyên ắt sẽ có ngày gặp lại.
Lê Khoáng nói với ông:
- Đúng vậy, thưa cha! Chúng ta vào nhà thôi cha, trời bắt đầu trở lạnh rồi.
- Ừ!
...
Phùng lão trở về quán trọ, trong lòng nửa buồn nửa vui. Ông vui vì Tru Hồn Kiếm đã có được người kế thừa và ông buồn vì Tam Giáo Tiên Thiên Tâm Kinh vẫn chưa tìm ra người xứng đáng, phải nói là đã có người xứng đáng nhưng không có duyên để nhận nó.
Theo ông đánh giá, Lê Lợi là người có đủ phẩm chất để nhận được nó, chỉ tiếc võ công Lê gia cũng đủ để cho cậu bé tu luyện trở thành một đại cao thủ, đủ khả năng giúp cậu bé làm nên nghiệp lớn sau này. Tru Hồn Kiếm ông phải dùng đến cớ chữa bệnh cho Lê Lợi họ mới chịu nhận, nếu ông tặng thêm cuốn Tiên Thiên Tâm Kinh thì có khác gì bảo võ công Lê gia không tốt bằng, vậy thì thật là không phải phép rồi. Hoàn cảnh lúc ấy khác với khi ông ở nhà Đặng Tất, ông làm theo di nguyện của sư đệ nên gia đình Đặng Tất khó mà từ chối được. Chẳng qua dẫu trong lòng buồn nhưng ông vẫn hi vọng có ngày tìm được đệ tử vừa ý. Hai ngày sau, Phùng lão quay trở về kinh thành.
Bây giờ thế cục trong triều đã ngã ngũ, lợi thế đang nghiêng về Lê Quý Ly. Sau khi Quý Ly diệt xong chướng ngại vật lớn nhất của mình là Trần Thì Kiến, ông ta quay sang đối phó với vua Phế Đế. Ông ta vào tâu với thượng hoàng Nghệ Tông về chuyện của vua, tất nhiên, không có gì tốt. Ông ta đề nghị thượng hoàng phế truất ngôi vị của Phế Đế. Nghệ Tông vốn rất tin dùng Quý Ly nên làm theo. Cuối năm Mậu Thìn, Phế Đế bị vua truất ngôi và bị giam lỏng tại chùa Tư Phúc. sau đó đưa Chiêu Định Vương lên thay. Cuộc nói chuyện giữa Lê Quý Ly và Thượng Hoàng tuy rất kín đáo nhưng Phế Đế bị truất, ai cũng đoán ra được người đứng phía sau là ai.
Sau sự việc xảy ra với vua Trần bị Thượng Hoàng phế truất thì tinh thần đấu tranh của phe trung thần với nhà Trần suy giảm mạnh, phe Lê Quy Ly lại được nước lấn tới, thế lực ngày càng mạnh hơn. Phế Đế suy sụp tinh thần, đến khi biết một số tướng lĩnh định đưa quân vào điện cứu thì ông viết hai chữ giải giáp có ý buông xuôi, rồi bảo với họ:
- Không đựợc trái ý Thái Thượng hoàng.
Phế Đế đã nói vậy thì các tướng lĩnh dưới trướng của ông cũng không dám trái lời, buông vũ khí, bỏ đi ý định ban đầu. Nhưng sự việc vẫn chưa dừng lại, sau đó không bao lâu, Phế Đế lúc này là Linh Đức Đại Vương bị thượng hoàng ép buộc treo cổ tự vẫn. Toàn bộ tướng tâm phúc đều bị giết. Tình hình triều chính đã tới mức không thể hỗn loạn hơn được nữa. Phùng lão bấy giờ đã ở bản môn, nghe được tin này thì biết can qua đã bắt đầu, dù muốn thay đổi thời cuộc nhưng lực bất tòng tâm, ông chỉ mong tìm được cách nào đấy để giảm bớt đau thương.
Tình hình triều chính vốn hỗn loạn lại thêm điên đảo, các đời vua sau bất lực hơn đời vua trước, không còn ai có thể ngăn cản được Quý Ly nữa, và chuyện gì đến sẽ phải đến, mười hai năm sau, tức đến năm Canh Thìn, Quý Ly lật đổ đế vị cháu ngoại là Trần Thiếu Đế, kết thúc triều đại nhà Trần kéo dài hơn hai trăm năm. Quý Ly không từ bỏ được mộng làm vua, ông ta đã quên mất lời khuyên của Trần Thì Kiến, trực tiếp lên ngôi làm Hoàng Đế, đổi họ Lê thành họ Hồ và đổi tên nước từ Đại Việt sang Đại Ngu. Một năm sau, ông truyền ngôi cho con thứ, lên làm Thượng Hoàng, nắm quyền quyết định mọi việc.
Lúc bấy giờ lòng dân vẫn còn hướng đến "tiền triều" nên mặc dù ông ta đã đưa ra nhiều chính sách cải cách khá tốt nhưng nhân dân vẫn oán giận nhà Hồ. Ngoài ra, phương Bắc chưa lần nào thôi mộng bành trướng về Nam của mình, chỉ đợi thời cơ là mang quân xâm chiếm.
Cha con Hồ Quý hiểu rõ điều này nên trước nạn xâm lăng của nhà Minh, họ tích cực củng cố quân sự. Một mặt nhà Hồ liên tục mở rộng mặt trận phía Nam, đem quân xâm lấn Chiêm Thành, chiếm được Chiêm Động và Cổ Luỹ, lập ra 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, mặt khác tăng cường phòng thủ để chuẩn bị đối phó quân Minh.
Sự chuẩn bị này diễn ra trên khắp cả nước, vùng núi Lam cũng không thoát khỏi. Lê Khoáng là hào trưởng, không khỏi cảm thấy lo âu. Việc chuẩn bị cho chiến sự, ông đương nhiên có thể nhận ra rất dễ dàng. Hằng ngày ông đều đi khắp nơi trong vùng để theo dõi tình hình, nhìn thấy cảnh vật xơ xác hoang tàn, trong lòng cảm thấy đau xót khôn nguôi, thầm nghĩ không biết đến bao giờ thiên hạ mới được hưởng thái bình.
Ông hồi tưởng lại cảnh tiền triều hưng thịnh, lòng ngổn ngang trăm mối...
Quả thực nếu cứ tiếp tục như vậy cũng không có lối thoát. Nhưng dân chúng Đại Việt vốn đã quen với truyền thống tận trung với vua, cách nghĩ này đã ăn sâu vào tiềm thức bao đời, nay muốn họ cứ vậy chấp nhận thuận theo thiên tử mới thì chẳng khác nào bảo họ đi ngược lại di huấn tổ tiên. Lê Khoáng cứ đứng ngẩn ngơ suy nghĩ không hề hay biết Mặt Trời đã ở trên đỉnh đầu tự lúc nào. Ông quay trở về nhà. Ông cầm lấy ấm rót một cốc trà. Miệng thì uống trà nhưng trong đầu thì lại không ngừng nghĩ cách làm sao để chấm dứt nạn can qua này. Bỗng nhiên vợ ông đi lại gần, bà nói dịu dàng:
- Khoáng, chàng đã về rồi.
Ông sực tỉnh, ngẩng đầu lên đáp:
- Là nàng đấy à? Ừ, ta vừa mới về xong.
Lê thị bước ra sau lưng ông, dùng tay nhẹ nhàng bóp vai cho ông. Bà hỏi:
- Chàng đi đâu mà trong có vẻ mỏi mệt vậy?
Ông ngả người ra sao, dựa lưng vào người bà, thở dài một hơi rồi nói:
- Ta vừa đi xem xét một vòng quanh đây, thấy cảnh vật tiêu điều, lòng ta cứ không yên.
Bà đưa tay xoa xoa hai thái dương cho chồng. Bà nhẹ nhàng nói:
- Em hiểu tâm trạng của chàng, thời loạn lạc, lòng dân bất an, chàng được mọi người tôn làm hào trưởng sao có thể kê cao gối ngủ yên được.
Hai vợ chồng đắm chìm trong trong suy tư, nhỏ tiếng tâm sự với nhau những điều trăn trở trong lòng. Bất chợt một cô gái nhỏ tuổi từ ngoài cửa tiến vào, cúi đầu nói:
- Dạ thưa lão gia, phu nhân, nhà chúng ta sắp hết muối rồi ạ.
Lê thị hỏi nàng ta:
- Vậy sao? Nhà còn bao nhiêu muối?
Cô gái trả lời nhỏ nhẹ:
- Dạ thưa, muối chỉ còn đủ cho hai ngày nữa thôi ạ.
- Ít vậy à, con cầm số tiền này bảo Ngô Từ đi mua nhé.
- Dạ thưa, số tiền phu nhân đưa hôm qua vẫn còn nên phu nhân không cần đưa thêm nữa ạ. Con đã đi mua nhưng các cửa hàng quanh đây cũng không còn bao nhiêu để bán nữa. Họ bảo muối đã hết rồi ạ.
- Ồ thế à? Được rồi, số tiền thừa kia con cứ cầm lo việc khác, còn muối thì ta và lão gia sẽ tìm cách.
- Vâng ạ.
Sau khi cho cô hầu gái ra ngoài, bà quay sang nói với chồng:
- Thật không ngờ ngay cả cửa hàng cũng đã hết muối, không biết các nhà khác như thế nào.
Lê Khoáng trầm ngâm suy nghĩ một chốc rồi đáp:
- Vậy chúng ta sẽ đi xa mua muối số lượng lớn, sau đó chuyển cho các cửa hàng, có lẽ cả làng đang thiếu muối.
- Em cũng nghĩ ý này rất hay.
- Thế để ta bảo Ngô Kinh đi sang bên ông Hội mua muối. Muối của ông ấy rất tốt, mà không sợ thiếu.
Bà đáp nói:
- Tiếc quá, Ngô Kinh bị em sai đi việc rồi, chàng bảo người khác đi, mà mau lên nhé.
- Ừ, thế thì bảo Ngô Từ đi vậy.
Lúc này ông bỗng nhìn thấy một chàng trai vừa đi ngang qua sân thì gọi lại:
- Trừ, lại đây cha bảo chút chuyện.
Lê Trừ là con trai cả của ông, năm nay hai mươi bốn hai mươi lăm tuổi, dáng người cao to, thân hình vạm vỡ, có dáng dấp một chàng trai con nhà võ. Chàng ta đi tới, cúi đầu một cái rồi đáp:
- Dạ thưa cha, cha gọi gì con ạ?
- Nhà chúng ta chỉ còn ít muối, con chạy sang cửa hàng chú Hội mua về nhé.
- Dạ mua bao nhiêu cha!
- Cũng khá nhiều đấy, con gọi thêm Ngô Từ đi cùng, một mình con mang không nổi đâu.
- Vâng ạ.
Lê Khoáng nói với vợ:
- Ngọc Thương, nàng liệu xem chúng ta mua bao nhiêu để đưa tiền cho con nhé.
- Vâng!
Khi hai mẹ con sắp ra khỏi cửa thì ông sực nhớ điều gì, bèn bảo con trai:
- À quên, con ra ngoài gọi em về cho cha luôn, lát nữa cha sẽ đưa em về bên ngoại có chút việc.
- Dạ vâng ạ.
Trừ theo lời cha ra ngoài tìm em. Chàng chạy tới một bãi đất trống rất lớn của làng, ở đấy đang có một đám trẻ tụ tập thành một nhóm chơi đùa. Nổi bật trong nhóm đó là hai cậu bé trạc tuổi nhau, mặt mũi đỏ bừng, gồng sức đánh vật với nhau. Cậu bé này bị vật xuống thì cậu ta lại lập tức chồm dậy xông tới, vật ngã lại đối phương, mặc kệ trên người đã lấm lem bùn đất.
Hai cậu bé có vẻ ngang tài ngang sức. Những đứa trẻ đứng xung quanh reo hò cổ vũ ầm ĩ cả một góc làng. Lê Trừ dễ dàng nhận ra em mình là một trong hai cậu bé, bèn cất tiếng gọi:
- Lợi ơi, lại đây anh bảo!
Lê Lợi nghe có người gọi thì quay đầu lại nhìn, nhất thời phân tâm để cậu nhóc kia vật ngã rầm xuống nền đất. Cậu nhóc kia cười nói:
- Ha ha ha, thua rồi nhé.
Đây là bạn từ thuở nhỏ của Lê Lợi, tên là Nguyễn Thận, cũng là một cậu nhóc nổi tiếng khoẻ mạnh bên làng Mục Sơn. Hai làng rất gần nhau, Nguyễn Thận nghe tiếng Lê Lợi bên này bèn sang thách đấu. Hai cậu nhóc đấu nhiều hiệp bất phân thắng bại, trong lòng sinh ra quý mến lẫn nhau, từ đó thành bạn chí thân. Trận đấu vật này bị xét thua, Lê Lợi không phục cãi lại:
- Đấy là do anh tao gọi nên tao mới thua, chúng ta đấu lại hiệp nữa.
Thận từ chối:
- Thôi, anh mày gọi rồi, bữa sau chúng ta vật tiếp.
Lợi do dự giây lát rồi gật đầu:
- Thôi được, hôm nay tao phải về, để sang bữa sau.
Lê Lợi vỗ bùn đất bám trên người rồi chạy tới chỗ anh mình, cậu hỏi:
- Anh cả, anh gọi em có việc gì không?
Lê Lợi giờ đã là một thiếu niên mười lăm, mười sáu tuổi, thân thể rắn chắc, khỏe mạnh, đám trẻ trong làng không ai là đối thủ của cậu về môn vật, tất cả bọn trẻ đều tôn cậu lên làm anh cả. Khuôn mặt cậu ta dính đầy vết bùn đất, nhưng không dấu được vẻ anh tuấn và mắt thì sáng rực, tinh anh, hiện rõ nét thông minh lanh lợi.
Nguyễn Thận cùng đám bạn làng của cậu bé đến chào chàng ta một cái. Lê Trừ gật đầu đáp lễ lại. Chàng ta dùng tay lau sạch mấy vết bùn dính trên mặt em mình rồi nói:
- Về rửa sạch tay chân, cha có việc bảo em làm đấy.
Lê Lợi hỏi:
- Việc gì thế ạ?
- Anh cũng không rõ lắm, em cứ về nhà rồi biết.
- Vâng ạ!
Lợi xoay người lại chào tạm biệt với những người bạn của mình rồi theo anh trở về nhà. Khi cậu về nhà thì thấy cha mẹ đang đứng trong sân cùng với vài chiếc xe ngựa. Cậu lấy làm ngạc nhiên, bèn hỏi:
- Ơ, gia đình chúng ta định đi đâu mà dùng nhiều xe thế này ạ?
Cha cậu trả lời:
- Không, những xe đấy là đi chở muối con à.
Lợi nghe thế thì hớn hở nói:
- Cha cho con đi với, con cũng muốn đi mua muối một chuyến xem thế nào.
Lê Khoáng lắc đầu:
- Lần này cha không đi mà anh hai con sẽ đi mua cùng Ngô Từ, còn con sẽ cùng cha và anh cả của con đi sang ngoại có chút việc.
- Ơ thế không đợi anh hai đi mua về để anh cùng đi ạ?
- Không con à, chỉ có có cha và hai đứa đi thôi. Chuyến đi mua muối của nó lần này phải mất ít nhất hai ba ngày, đến tận lò muối của chú Hội kìa.
- Mẹ cũng không đi cùng mình hả cha?
Ngọc Thương xoa đầu con trai bảo:
- Không con à, mẹ phải còn giải quyết việc nhà nữa mà, ba cha con đi vui vẻ nhé.
- Vâng ạ!
Vẻ mặt của Lê Lợi có vẻ buồn buồn, không hiểu vì không được tham gia đi mua muối cùng anh cả của cậu hay vì không có đủ cả gia đình đi về quê ngoại. Cha cậu bé bỗng lên tiếng:
- Được rồi, mọi người đi chuẩn bị hành lý, sau bữa trưa sẽ khởi hành.
- Dạ vâng ạ.
Sau khi bữa trưa kết thúc, mọi người đi nghỉ ngơi lấy sức rồi bắt đầu khởi hành. Vì Lê Khoáng bận chút việc ở nhà nên nhóm người Lê Trừ và Ngô Từ đi trước. Nhà ông Nguyễn Hội ở làng Hải Tân thuộc xã Thượng Xá, Nghệ An. Ông ấy làm nghề nấu muối. Nghề bán muối của ông Hội rất phát đạt, muối gia đình ông nấu rất ngon, danh tiếng nổi như cồn. Ông đem muối mình làm ra bán đi khắp mọi nơi, lên đến tận vùng thượng du Thanh Hoá, nhờ thế mà ông đã kết tình thâm giao với Lê Khoáng. Nhiều năm nay, Lê Khoáng thường mua muối của ông, lần này cũng không phải ngoại lệ. Hơn nữa, hôm nay vì muối thiếu hụt nghiêm trọng, đoạn đường đến đó lại rất xa nên đoàn người Lê Trừ thúc ngựa phi nước đại.
Đoàn người chạy được chừng tám chín chục dặm thì Lê Trừ nhìn thấy phía trước có một đám cháy khá lớn. Tiếng hò hét kêu gọi dập lửa xen lẫn với tiếng kêu la thất thanh. Lê Trừ quay đầu lại bảo những người đằng sau:
- Chúng ta lại đó xem thế nào, nếu giúp được thì giúp họ một tay.
Ngô Từ gật đầu đồng ý
- Vâng thưa cậu cả.
Lê Trừ dẫn đầu đoàn người chạy tới nơi đám cháy. Khi tới nơi thì họ thấy khung cảnh cực kỳ hỗn loạn. Tiếng hò hét ồn ào xen lẫn với tiếng gào khóc của những người đau đớn của phụ nữ. Đám cháy càng lúc càng bốc lên cao. Không thể để chậm trễ hơn nữa, Lê Trừ lập tức phân phó cho một người ở lại giữ xe hàng, sau đó cùng đoàn tùy tùng tham gia dập đám cháy. Chàng hỏi một người đàn ông ở gần đấy:
- Thưa chú, có dòng sông hay suối gì ở đây? Chúng cháu mang theo nhiều người và ngựa, sẽ dập lửa nhanh hơn.
Ông ấy nghe thế thì cả mừng, gật đầu liên tục và nói liền một hơi:
- Ồ! Tốt quá! Tốt quá! Sông cách đây gần nửa dặm.
- Vâng ạ!
Lê Trừ bảo tùy tùng:
- Mau đi lấy những chiếc hũ vừa phải để đựng, chúng ta cưỡi ngựa đến sông lấy nước.
Nhờ đoàn người Lê Trừ mang đến, lượng nước chữa cháy đã tăng lên nhiều nên ngọn lửa đã được kiềm chế phần nào. Sau khoảng gần một canh giờ, đám cháy ở nhà trước đã được dập hoàn toàn, chỉ còn nhà sau vẫn đang cháy. Bỗng nhiên từ trong đó vang lên tiếng kêu khóc non nớt của một đứa bé:
- Mẹ ơi! Nóng quá! Cứu con với!
Người mẹ đang ngồi phệt dưới đất nghe thế thì rùng mình, mặt cắt không còn hột máu, vội vàng bật dậy, ba chân bốn cẳng chạy nhanh tới nhà sau. Mấy người ở xung quanh hoảng hốt, lập tức đưa tay ra ngăn lại. Một người đàn ông nói:
- Mình à, không nên vào đó, nếu mình vào đó e rằng cả mẹ lẫn con đều gặp nguy hiểm.
Ông ấy là trượng phụ của người phụ nữ nọ. Bà ấy giãy dụa rất mạnh, cố sức thoát ra khỏi vòng tay của trượng phu để chạy vào căn nhà đang bốc cháy cứu con mình. Bà liên tục lắc đầu, nước mắt tuôn chảy giàn dụa trên gương mặt khắc khổ. Bà gào lên thật to, giọng lạc hẳn đi:
- Không! Em phải cứu con, mình mau buông em ra, con trai chúng ta đang ở trong đó.
Bà cũng biết nếu vào sẽ nguy hiểm vạn phần, nhưng tấm lòng xót con của người mẹ, nào có nề hà gì. Người đàn ông đáp:
- Không được, nếu vào thì tôi vào, mình ở ngoài này.
Người đàn ông buông lỏng tay và đưa vợ mình cho những người bên cạnh ngăn lại, rồi xoay lại chạy đi. Giữa lúc cấp bách, bất ngờ một bóng đen lao vụt vào trong đám cháy rất nhanh khiến tất cả kinh ngạc. Tiếng của Ngô Từ vang lên thất thanh:
- Cậu cả!
Tất cả bị tiếng thét thu hút, quay đầu sang bên này. Lê Trừ vốn đứng cạnh Ngô Từ đã không thấy đâu nữa, hai mắt Ngô Từ lại đang hướng vào nhà sau. Hóa ra chàng ta chứng kiến cảnh đau lòng nên quyết định mạo hiểm cứu đứa bé. Bản thân chàng cũng là một người cha nên rất hiểu tâm trạng của họ. Vì thế chàng thi triển tuyệt kỹ khinh công xông vào để cứu đứa bé. Mọi người bên ngoài đều rất hồi hộp, tập trung quan sát đến nhà sau. Người mẹ đáng thương nọ cũng thôi giãy dụa, ngẩng đầu lên nhìn đăm đăm vào đám cháy Đám cháy mỗi lúc một lớn, những tiếng nổ lép bép vang lên. Nước đem tới để dập dướng như không đủ để dập tắt nó nữa. Mọi người đứng chờ lo lắng thấp thỏm không yên.
- Rắc!!
Một âm thanh giòn tan phát ra từ ngọn lửa khiến cho ai nấy đều hoảng hốt. Mẹ đứa bé sợ hãi, kêu khóc gọi con. Trượng phu của bà nãy giờ dù rất bĩnh tình cũng phải nói:
- Nguy hiểm quá, cột kèo sắp đổ, sao vẫn chưa thấy họ ra chứ.
Gương mặt Ngô Từ lộ rõ sự lo lắng. Ông lẩm bẩm:
- Cậu cả làm gì trong đó mà lâu thế, có chuyện gì rồi sao?
Một tiếng cằc vang lên, bốn năm thanh xà ngang rơi xuống. Trần nhà mất đi thanh giữ, lập tức đổ rầm xuống. Những người chứng kiến mặt mày thất sắc, bật thốt "A" một tiếng. Mẹ đứa bé kêu lên thảm thiết:
- KHÔNG! CON TÔI!
Ai nấy đều trợn to mắt, đứng bần thần, nhìn vào ngọn lửa. Giữa lúc tất cả đang bàng hoàng, trần nhà dần rơi xuống đất bỗng nhiên bị vỡ bung ra thành hai nửa, bắn tung lên trời. Tro bụi bay mù mịt. Sau đó một bóng người tung vọt lên cao hơn hai trượng, rồi lộn hai vòng trong không trung và đáp nhẹ nhàng xuống trước mặt người phụ nữ đáng thương. Người này không ai khác ngoài Lê Trừ. Chàng ta đã cứu được đứa bé. Cả hai bị tro bụi nhuộm đen gần hết cả mặt. Quần áo trên người Lê Trừ bị lửa bén, rách vài chỗ. Ấy vậy mà chàng vẫn nở nụ cười, chuyển đứa bé sang cho mẹ nó một cách cẩn thận và nói:
- Xin gửi thằng bé lại cho chị.
Bà mẹ vội vàng ôm lấy con mình, miệng cám ơn chàng ta rối rít. Cậu bé sau khi phải trải qua giây phút kinh hoàng, trở về trong lòng mẹ, lập tức bật khóc nứt nở ;làm cho bà mẹ thêm một phen hoảng hốt, phải dỗ liên tục.
Ngô Từ đưa tới cho Lê Trừ một tấm vải, nói:
- Cậu cả, người cậu dính đầy tro, mau dùng cái này lau đi ạ.
- Ồ, cám ơn ..........
Lê Trừ đưa tay nhận lấy, lúc này người cha của đứa bé đi tới nói với chàng:
- Tôi là ......................................, tôi cám ơn ân nhân rất nhiều, xin ân nhân cho biết danh tính ................................?
- Tôi tên Lê Trừ, tôi chỉ góp ít sức lực nào có là ân nhân gì. Anh bất tất phải nói thế.
Người cha lắc đầu:
- Sao như vậy được chứ, hôm nay nếu không có đoàn người của cậu, thật không biết hậu quả sẽ ra sao nữa. Ơn cứu mạng cháu nó, gia đình tôi dù mất mạng cũng quyết đền ơn.
Lê Trừ xua xua tay đáp:
- Ấy chớ, giúp người lúc hoạn nạn là việc nghĩa, tôi chỉ làm việc nên làm, anh không cần phải nói ân đức gì đâu. Hơn nữa, tôi chỉ cứu được cháu bé mà không dập được lửa gian nhà sau của anh, lòng áy náy vô cùng.
- Không sao cả, người còn thì vẫn có thể xây lại được mà.
- Phải phải...
Chợt Ngô Từ chen vào:
- Cậu cả, xin lỗi vì đã cắt ngang lời cậu, nhưng chúng ta phài đi ngay. Nếu bây giờ không đi, e rằng sẽ muộn mất.
Lê Trừ nghe thế thì sực tỉnh, gật đầu:
- Ờ nhỉ, tôi quên mất, phải đi thôi.
Rồi chàng quay sang người đàn ông nọ nói:
- Tiếc quá, chúng tôi có việc gấp phải đi bây giờ, không thể giúp các vị nữa, chúng tôi xin từ biệt các vị tại đây.
- Ơ, thật sự các vị đi gấp vậy sao? Vậy xin ân nhân uống nước cho đỡ mệt rồi hẵng lên đường.
- Vâng, cám ơn anh... Được rồi, xin tạm biệt, hẹn gặp lại các vị.
Đoàn người Lê Trừ sửa soạn lại đồ đạc xong xuôi thì lên ngựa lao đi, chớp mắt không thấy đâu nữa, chỉ để lại đám bụi mù phía sau. Hai vợ chồng nọ quay đi vào nhà và được bà con làng xóm an ủi sau khi tai qua nạn khỏi. Đứa bé ngủ thiếp đi trong lòng mẹ vì quá mệt mỏi.
Về phía đoàn người của Lê Trừ, do đã mất quá nhiều thời giờ cho việc dập lửa nên ai nấy đều giục ngựa phi hết tốc lực, mong sao tới nơi kịp lúc trời chưa tối. Lê Trừ vẫn không ngừng nhớ lại cảnh vật lộn trong đám cháy. Đáng lý chàng đã có thể ra ngoài sớm hơn, nhưng khi đấy, cậu bé trong tình trạng sợ hãi cực độ không dám ra khỏi chỗ trốn. Chàng phải khuyên nhủ, dỗ dành hết lời, cậu bé mới nghe theo. Đúng lúc trần nhà đổ sập, chàng bèn vận công, phóng chưởng đánh vỡ trần nhà rồi vọt ra ngoài. Ngô Từ cất tiếng hỏi, kéo chàng khỏi dòng suy tư:
- Cậu cả, có thật là cậu không sao chứ?
- Tôi đã nói là không sao cả mà, quần áo chỉ bị cháy chút ít thôi. Từ đây đến nhà bác Hội còn bao nhiêu xa nữa nhỉ?
- Theo tôi nghĩ thì còn khoảng hơn trăm dặm nữa.
- Còn xa vậy sao? Thế thì phải tăng tốc thêm nữa đi.
Dù rất cố gắng nhưng trải qua đợt dập lửa thì mấy con ngựa đã không khoẻ như lúc đầu nữa. Vì thế, khi đoàn người tới nơi thì trời đã sập tối. Lê Trừ bảo đoàn tuỳ tùng:
- Giờ đã muộn, chúng ta tìm một quán trọ nào đấy để nghỉ chân, ăn tối trước, sáng mai hãy đi mua muối.
- Vâng thưa cậu cả.
Đoàn người của chàng nói ít thì không ít, nói nhiều không nhiều, việc tìm quán trọ cho tất cả khá là khó khăn, cuối cùng chọn được quán trọ lớn cách nhà ông Hội một ba dặm.
Sau khi chạy trên chặng đường rất dài, hầu như ai cũng đều đã thấm mệt, ăn xong bữa tối, trò chuyện thêm một lúc nữa là đặt lưng xuống giường nằm ngủ.
Sáng hôm sau tỉnh dậy, Lê Trừ cùng tuỳ tùng nai nịt gọn gàng đi tới nhà ông Nguyễn Hội. Khi sang tới nơi thì chàng thấy cửa hàng muối của ông ấy vẫn chưa mở cửa. Chàng lấy làm lạ vì theo như chàng biết thì bình thường ông ấy thức dậy rất sớm. Chàng bèn gõ cửa. Lát sau, ông Hội ra mở, trông thấy chàng, ông ấy rất ngạc nhiên, ông hỏi:
- Xin hỏi cậu là?
Lê Trừ cúi đầu lễ phép, đáp lại:
- Thưa chú, cháu là Lê Trừ, cháu đến để mua muối ạ.
Ông Hội mừng rỡ hỏi dồn:
- Cháu Lê Trừ con cả của anh Khoáng phải không?
- Vâng ạ, cháu thật thất lễ quá, sớm thế này đã làm phiền gia đình chú nghỉ ngơi.
- Ha ha, không sao đâu, mau vào đi cháu.
Con trai của bạn đến nhà, ông rất vui mừng, đang định hỏi thăm tình hình gia đình bạn thì bỗng có tiếng của ai đấy ở bên ngoài nói vọng vào làm hai người giật mình:
Ông Hội ngạc nhiên, không hiểu đã xảy ra chuyện gì, ông quay sang xin lỗi vì đã thất lễ rồi đi ra ngoài xem sao thì bắt gặp có người hớt hơ hớt hải chạy vào. Đó là một người đàn ông mặt khá to, dáng người tầm thước, vạm vỡ. Ông nheo mắt nhìn kỹ thì nhận ra là ông hàng thịt ở cạnh nhà. Ông Hội hỏi:
- Có chuyện gì mà ông chạy vội chạy vàng sang nhà tôi thế?
Ông hàng thịt không đợi nghỉ mệt, nói hổn hà hổn hển:
- Ông hại tôi rồi ông Hội ơi... ông... làm tôi lỡ hết cả việc rồi.
Ông Hội nghe thế hoảng hồn, lòng rất lo lắng. Ông hỏi dồn:
- Sao cơ? tôi hại ông lỡ việc là sao? Tôi chưa hiểu.
Ông hàng thịt hít sâu một hơi rồi trả lời:
- Thì sáng nay tôi không nghe tiếng chuông chùa ông đánh nên tôi không dậy làm thịt lợn được.
Tại làng Thượng Xá gia đình ông Hội sống có một ngôi chùa cổ tên là chùa Vàng. Ông vừa nấu muối vừa là người canh giữ ngôi chùa này. Mỗi buổi sáng, cứ tới canh tư là ông Hội thức dậy điểm chuông chùa, tiếng chuông vang to cả một vùng lớn. Dần dà dân chúng xung quanh đều dựa vào tiếng chuông ông ấy đánh mà tỉnh dẩy chuẩn bị cho ngày mới.
Chỉ là tối hôm qua, ông Hội mệt mỏi nên ngủ quên mất, không dậy đánh chuông khiến ông hàng thịt nhỡ công việc. Ông Hội vô cùng áy náy trong lòng, nên liên tục nói xin lỗi. Ông hàng thịt than thở:
- Khốn khổ ở chỗ là sáng nay tôi vào chuồng định làm thịt lợn thì phát hiện con lợn mua chiều qua đã sinh ra một đàn lợn con.
Ông Hội sửng sốt, đứng ngây ngốc hồi lâu, trong đầu liên tưởng tới giấc mộng đêm qua, ông bèn nói:
- Thật sao? Bác đưa tôi sang xem.
- Được được, ông đi theo tôi.
- Cháu có thể đi cùng chú được không ạ?
Lê Trừ rất tò mò muốn biết có gì mà ông hàng thịt hoảng hốt như thế. Ông Hội đồng ý:
- Cũng được, mau đi thôi.
Ông Hội lật đật theo ông hàng thịt đến chuồng lợn. Sang đến nơi quả đúng là con lợn nái đã sinh ra đàn lợn con thật. Ông Hội lẩm bẩm: "Là thật rồi, kỳ lạ quá."
Ông hàng thịt và Lê Trừ nhìn nhau, không hiểu ông ấy có ý gì. Bỗng nhiên Lê Trừ chỉ vào đàn lợn hô lên:
- Hai chú nhìn kìa, con lợn kia trông lạ quá.
Hai người nhìn theo hướng chỉ của Lê Trừ thì phát hiện một con trong mấy con lợn con có hình dạng rất quái dị, vừa giống lợn vừa giống hổ. Ông hàng thịt phát hoảng, kinh hô:
- Sao con lợn lại sinh ra một con quái thú vậy chứ? Đây chắc chắn là điềm gở, nên mau giết nó đi.
Rồi ông quay sang bảo vợ mình:
- Mình vào lấy cho tôi con dao bầu, tôi giết con quái thú đó.
- Vâng.
Ông Hội và Lê Trừ nghe thế thi sửng sốt. Hai người tuy e sợ con quái thú kia nhưng vẫn không nỡ hại nó. Ông Hội vội vàng ngăn lại:
- Đừng, đừng giết nó. Nếu ông không thích nó thì để tôi nuôi nó.
- Cái gì? Bác muốn nuôi con quái thú đó sao? Không nên, nó là điềm gở đấy.
- Đúng vậy, con lợn nái đã van xin tôi cứu mẹ con nó nên tôi không muốn con lợn con đó bị giết chết.
Ông Hội khiến cho ông hàng thịt và Lê Trừ kinh ngạc hết lần này đến lần khác. Ông hàng thịt hỏi:
- Bác đang nói cái gì vậy? Sao con lợn nái van xin bác cứu mạng chứ?
Ông Hội biết lời vừa rồi của mình vô cùng quái lạ. Ông thở dài, bèn kể lại chuyện kỳ dị gặp phải đêm qua:
- Chuyện là thế này, nửa đêm hôm qua, lúc đang thiu thiu ngủ thì bỗng tôi nằm mộng thấy một người phụ nữ dắt theo mấy đứa con quỳ xuống trước mắt tôi xin tôi gia ân sáng nay đừng đánh chuông chùa. Nếu tôi điểm chuông thì mẹ con nhà bà ấy sẽ bị giết oan. Đến đây thì tôi sực tỉnh, mới hay đó chỉ là một giấc chiêm bao.
Mọi người cùng bật thốt lên kinh ngạc, chuyện này đúng là quá ly kỳ, cứ như đang nghe kể chuyện thần tiên vậy. Nhưng không ai ngắt lời ông ấy. Ông ấy lại kể tiếp:
- Tôi nằm trằn trọc cả đêm, thao thức suy nghĩ điều này, trong làng vốn rất yên bình, cũng đâu có ai phạm trọng tội bị xử tử, mãi mà không ngủ được. Đến mờ sáng, tôi quyết định không điểm chuông chùa nữa. Sau tôi chợp mắt được một chút thì cháu Lê Trừ này sang gõ cửa. Rồi khi sang chuồng lợn nhà ông, thấy số con lợn con bằng với số con của người phụ nữ nọ, tôi mới tá hỏa, nghĩ rằng con lợn nái đã báo mộng cho tôi. Đã cứu thì cứu cho trót, nếu ông không nuôi con lợn con đó thì tôi nuôi vậy.
Hai vợ chồng ông hàng thịt nhìn nhau, chưa bao giờ hai người được nghe kể một chuyện quái lạ như vậy, lợn báo mộng cho ông Hội để bảo vệ đàn con khỏi chết ư? Thật kỳ dị! Trong khi đó,ông Hội đi tới chỗ con lợn nái, bê con lợn giống hổ lên và quay lại nói với ông hàng thịt:
- Vậy tôi xin ông đen con lợn con này về nhà nhé.
Ông hàng thịt dĩ nhiên là đồng ý. Ông Hội vui mừng, chào gia đình hàng thịt rồi ôm con lợn con trở về nhà. Lê Trừ hỏi ông:
- Chú muốn nuôi con lợn này thật sao?
- Ừ, dù sao nó cũng là một sinh mạng mà.
Hai người đi khỏi rồi, hai vợ chồng ông hàng thịt đóng cửa chuồng, vào lại trong nhà, ngồi cạnh nhau hồi lâu mà không nói gì cả. Ông hàng thịt cứ nghĩ mãi về giấc mơ kỳ dị mà ông Hội đã kể. Ánh mắt thay đổi liên tục, thể hiện sứ phức tạp trong nội tâm của ông. Không biết trôi qua bao lâu, dường như ngộ ra được điều gì đấy, ông đột ngột đứng dậy, chạy vào gian bếp, cầm con dao bầu vẫn thường dùng để giết thịt lợn chạy phăm phăm ra sân. Vợ ông thấy thế tức thì hoảng hốt, không biết ông muốn làm gì, nên hớt hơ hớt hải chạy theo định mở miệng ngăn lại.
Chỉ thấy ông đi thẳng một mạch cổng chùa Vàng, sau đó đến trước bàn thờ cúng, quỳ xuống bái lạy tượng thần. Lạy xong ông chạy ra sân chùa, vung tay ném manh con dao bầu xuống nền sân. Lực ném mạnh vô cùng, con dao ngập sâu vào trong đất. Cuối cùng, ông xoay lại vái tượng thần một vái rồi ra về.
Hành động của từ đầu chí cuối của ông hàng thịt đều khiến bà vợ ngơ ngác, không hiểu gì. Đợi lúc ra khỏi chùa, bà mới hỏi:
- Này, rốt cuộc ông muốn làm cái gì? Sao lại cắm con dao trước sân chùa như thế?
Ông thở dài một hơi rồi trả lời vợ mình:
- Sau khi nghe ông Hội kể lại giấc mộng kỳ lạ của ông ấy, tôi đã suy ngẫm rất nhiều. Rõ ràng linh hồn người đàn bà ẩn trong con lợn đã tìm cách báo mộng để bảo vệ đàn con của mình. Nghĩ tới đây, tôi sực tỉnh, thì ra bao nhiêu năm nay, hai bàn tay tôi đã vấy máu của vô số sinh mạng vô tội. Tôi... tôi bỗng rùng mình sợ hãi. Bởi vậy tôi mới chạy đến chùa, xin thần phật tha thứ và cũng quyết định từ nay không làm đồ tể nữa.
Vợ ông gật đầu:
- Em cũng có suy nghĩ như mình, đến giờ em vẫn chưa hết bàng hoàng đây. Bỏ nghề này đi thôi mình ạ.
- Ừ, tôi đã có ý định chuyển nhà đi nơi khác sinh sống, mình nghĩ sao?
- Chuyển nhà ư? Cũng được, chúng ta về nhà bán hết đàn lợn rồi sẽ chuyển nhà đi.
- Ừ!
Ngày hôm ấy, quả thật ông hàng thịt đem chợ bán hết đàn lợn của mình, rồi quay về nhà thu dọn đồ đạc bỏ nhà ở làng Thượng Xá đi đâu không rõ. Ông Hội hay những người hàng xóm cạnh đấy hoàn toàn không hề hay biểt về việc ông hàng thịt chuyển nhà. Đến tận khi ông sang mua thịt, thấy nhà ông ấy trống trơn, đi hỏi thăm các nhà xung quanh mới biết. Hiện tại ông khoe con lợn con giống hổ nọ với hai đứa con trai của mình. Hai cậu nhóc tỏ ra rất thích thú với nó, thay nhau ôm lấy nó rồi cười tít mắt. Ông Hội giới thiệu hai con trai cho Lê Trừ:
- Đây là hai đứa con của chú, thằng anh là Nguyễn Biện, đứa em là Nguyễn Xí.
Mặc dù Lê Trừ cũng rất hứng thú với con lợn, nhưng chàng còn nhiệm vụ cha mẹ giao cho, không thể vì cá nhân mà chậm trễ. Chàng bèn nói:
- Dạ vâng, cháu rất vui khi gặp gia đình bác. Thưa bác, thực ra hôm nay cháu tới đây là để mua muối ạ.
- A, thật vậy sao, xin lỗi cháu nhé, bác vô ý quá. Nếu cháu nói sớm hơn thì... được rồi, cháu muốn lấy bao nhiêu?
- Dạ vâng, cháu mua cũng khá nhiều ạ, xe cháu đang để ở ngoài cửa ạ.
- Ồ, nhiều à? Thế cháu theo chú ra lò muối nhé.
- Vâng ạ.
Tiếng tăm muối ngon của ông Hội vang rất xa. Khi Lê Trừ tới nơi, tức thì choáng ngợp trước những cách đồng muối rộng lớn. Ông Hội dẫn chàng đến khoảnh ruộng tốt và bảo:
- Đây, cháu lấy muối tại khoảnh này và khoảnh bên cạnh nhé.
- Vâng ạ!
Chàng cùng tuỳ tùng nhận muối từ người làm của gia đình ông Hội và chuyển muối lên xe. Khi đã đủ số lượng cần thiết và thanh toán tiền xong, chàng từ biệt ông ấy, lên đường quay trở về nhà lập tức. Đoàn người của chàng đã trễ mất một ngày so với dự định, nếu không lên đường ngay, thì có thể bị trễ một hai ngày nữa, vậy tình trạng thiếu ở Khả Lam lại càng trầm trọng hơn.
Trên đường quay về, cũng giống như nhà hàng thịt nọ, câu chuyện con lợn nái báo mộng cho ông Hội để cứu đàn con của nó cứ luẩn quẩn trong đầu óc chàng. Nó làm chàng phải suy tư mãi. Chàng cũng không hề biết rằng giấc mộng kỳ lạ đó ảnh hưởng rất lớn tới tâm tưởng ông của hàng thịt. Về sau, chuyện này trở thành truyền thuyết trong làng.
Người ở đấy truyền miệng nhau, con dao ông cắm trước cổng chùa như có pháp thuật khiến nó gắn chặt vào đấy, không một ai có thể rút nó ra khỏi nền đất, thậm chí lại còn được nâng lên cao hơn rằng một ngày nọ, con dao bỗng dưng biến mất, thay vào đó, ở đấy mọc lên một loài cây có lá rất lạ, lá cây màu đỏ và nhọn như lưỡi dao bầu mà ông ấy vẫn thường dùng để làm thịt. Người ta đặt tên cho nó là cây huyết dụ.
Đáng tiếc, sau này, Lê Trừ không có cơ hội được thấy lại con hổ tinh cũng như biết được những truyền thuyết đó nữa. Đoàn người Lê Trừ đi thẳng một mạch về nhà. Khi chàng về tới nơi thì trời đã về chiều. Lê Trừ xuống ngựa, bước vào nhà. Mẹ chàng đang đứng đợi ngoài hiên. Bà đã nghe thấy tiếng vó ngựa từ trước đó nên chờ sẵn. Chàng chào mẹ:
- Thưa mẹ, con đã về rồi.
Bà ấy mỉm cười hiền từ:
- Ừ, đi đường có mệt không con?
- Dạ không, con đi về trễ mất một ngày, con xin lỗi mẹ ạ.
- Không sao đâu. Vào trong nhà nào con.
- Dạ khoan đã mẹ, con chuyển số muối ngoài xe đã ạ, có lẽ các cửa hàng muối cũng đang cần gấp.
- Ừ, thế cũng được.
Lê Trừ chạy ra ngoài phân công cho tùy tùng chuyển một phần muối vào trong nhà, phần còn lại thì đưa sang các cửa háng muối khác mà không thu đồng nào. Gia đình chàng không hề nhân cơ hội người ta gặp khó khăn để kiếm lợi. Đây là nguyên tắc cơ bản của gia quy nhà chàng. Xếp đặt công việc xong xuôi, Lê Trừ mới vào lại phòng khách ngồi xuống. Chàng uống nước ngồi nghỉ hồi lâu mà chỉ thấy có mỗi mẹ ở trong phòng thì ngạc nhiên hỏi:
- Ơ! Thưa mẹ, cha vẫn chưa về nhà ạ?
Bà gật đầu:
- Ừ, cha con nói đi hai ngày rồi sẽ về, giờ đã gần bốn ngày rồi vẫn chưa thấy hai cha con về.
Bà vừa dứt lời thì ngoài cổng kêu lạch cạch và rồi được mở ra, sau đó là cha con Lê Khoáng và Lê Lợi đi vào. Hai người bèn đứng dậy ra đón. Lê Lợi chạy nhanh vào trong, chào lớn:
- Dạ thưa mẹ con đã về.
Bà xoa xoa đầu Lợi, tươi cười niềm nở, nói với trượng phu:
- Chàng về rồi.
- Cha, cha về ạ.
- Ừ, chúng ta vào nhà nào, không nên đứng nói chuyện ngoài cửa thế này.
- Thế thằng cả đâu rồi chàng?
- À, nói đi thăm nhà một người bạn của nó rồi.
Gia đình vừa đi vào vừa chuyện trò. Lê Khoáng bắt đầu hỏi tình hình chuyến đi mua muối của Lê Trừ cũng như hỏi thăm sức khoẻ ông Hội thế nào. Lê Trừ cứ theo những gì mình biết mà trả lời. Sau đó Lê Khoáng cùng thê tử trao đổi chuyện nhà ngoại. Qua hồi lâu, bỗng Lê Trừ hô lớn:
- Lợi, lưng của em bị sao thế này?
Cha mẹ chàng đồng thời cùng nhìn vào lưng cậu bé, tức thì giật mình. Lê Lợi hiếu động, chạy nhảy khắp nơi, bất ngờ đang chạy thì áo vướng phải một khúc gỗ nên bị xé rách làm lộ ra dấu bầm tím có hình của một bàn tay trên lưng. Tuy nó chỉ mờ mờ nhưng với người có kiến thức uyên thâm như bà Ngọc Thương thì vẫn dễ dàng nhận ra dấu tay này do một đòn chưởng rất mạnh đánh lên lưng cậu bé.
Không phải Lê Lợi đi cùng cha ư? Cha cậu bé là cao thủ võ công vào hàng bậc nhất, tại sao cậu lại có thể bị trúng chưởng nặng vậy chứ?
p/s: Chuyện này có sử dụng tư liệu cái chết oan của cha danh tướng Nguyễn Xí và sự tích cây huyết dụ
Mẹ cậu bé vô cùng sợ hãi, vội vội vàng vàng ôm lấy cậu xem xét dấu tay đó. Lớp da trên dấu tay mềm, trơn láng hơn vùng da bao quanh, rõ ràng đây là da mới. Bà lại càng hoảng sợ, hỏi cậu bé dồn dập:
- Lợi, sao lưng con bị bầm dập thế này? Mau nói mẹ nghe nào.
Lê Lợi dường như chột dạ, tránh ánh mắt của mẹ, trả lời một cách lúng túng:
- Dạ con bị ngã đập lưng thôi mẹ ạ. Con không sao đâu ạ.
Dĩ nhiên bà không thể tin được, bà lập tức hỏi lại ngay:
- Con đừng nói dối mẹ, đây rõ ràng là dấu bị người đánh, con nói thật đi.
- Ơ dạ... dạ... con...
Lê Lợi có vẻ muốn giấu chuyện này nên khi bị mẹ ép, câu bé bắt đầu trở nên ấp úng không phát ra thành câu hoàn chỉnh. Cậu bé âm thầm liếc nhìn cha. Lê Khoáng bắt gặp ánh mắt khó xử của con mình, ông thở dài một hơi, mở miệng nói:
- Thôi nàng đừng ép con nữa, để ta nói cho nàng vậy.
Bà làm mặt giận, nghiêm giọng:
- Thế sao nãy giờ chàng không chịu nói ra? Chàng cũng biết con mình bị thương, em rất lo mà.
- Ta biết, ban đầu ta và Lê Lợn đâu muốn chuyện này lộ ra, chỉ vì con nó hiếu động quá.
Bà nóng ruột, giục:
- Thôi chàng mau nói con chúng ta đã xảy ra chuyện gì đi.
- Ừ, chuyện là thế này... sau khi công việc bên ngoại đã xong thì Học nó xin phép qua thăm nhà bạn. Trên đường trở về nhà, đang lúc ngắm cảnh núi non thì thì hai cha con bị giật mình bởi những tiếng nổ to như sấm vang lên từ đằng xa. Ta chạy đến trước chắn cho Lê Lợi và hướng về phía trước thì thấy cách đó chừng hai ba chục trượng có hai bóng người đang đánh nhau giữa hai người đàn ông một mặc áo đen, một mặc áo nâu. Võ công họ rất lợi hại, ta thấy mà cũng thất kinh. Trên tay người áo đen ôm một bé gái khoảng mười bốn mười lăm tuổi. Vì vướng bé gái nên người áo đen chỉ dùng một tay để đánh nên lâm vào tình thế khó khăn. Trên mặt bé gái rất sợ hãi, mấy lần muốn mở miệng mà không phát ra thành lời, cô bé nhìn người áo nâu đầy lo lắng. Lúc đấy ta đứng ở bên ngoài quan sát, ban đầu chưa hiểu tình hình ra sao, ai xấu ai tốt nên chưa dám có hành động gì. Trận đánh càng lúc càng ác liệt, mấy lần người áo nâu muốn ra đòn sát thủ thì người áo đen lại đưa bé gái ra chắn trước mặt hắn, thế là ông kia phải thu chiêu lại, dường như ông ta không muốn làm hại đứa bé. Cứ sau mỗi lần như vậy, người áo đen lại chiếm chút lợi thế, tình thế đảo ngược hẳn. Khi đấy ta mới dần dần nhận ra ai xấu ai tốt. Bất chợt người áo nâu thét lớn: "Tên khốn, mau thả con gái của ta ra, có giỏi thì một đấu một đấu, dùng một đứa con nít làm vật cứu mạng thì còn gì là đại trượng phu cơ chứ." Hóa ra bé gái đó là con của ông ấy. Người áo đen cười gằn không đáp, tiếp tục tấn công dữ dội. Rõ ràng võ công người áo nâu không hề dưới ta, chỉ vì vướng con mà chịu thua thiệt. Ta rất tức giận, muốn can thiệp nhưng lúc đấy không có kẽ hở nào để chen vào. Rồi người áo đen hét thảm, ông ta bị kẻ địch đâm một kiếm trúng bả vai, máu đỏ tuôn ra làm cô bé sợ hãi gọi cha liên tục. Nhưng cũng phải khâm phục cha cô bé, ông ta cắn răng chịu đau, bàn tay kẹp chặt lấy lưỡi kiếm và vận kình rút ra thật mạnh. Kiếm vừa rút ra, tức thì máu bắn thành vòi, tuôn ra xối xả; đồng thời ông lắc cổ tay bẻ gãy đôi thanh kiếm. Kình lực lắc tay rất mạnh, cổ tay tên ác nhân bị chấn động, không thể đâm kiếm vào sâu hơn. Gã ta bèn tung một cước bèn tung tiếp một cước đá bay người cha tội nghiệp ra xa hơn ba thước. Ông ấy trúng đòn hiểm, vết thương lại càng thêm nặng. Gã cướp cười lớn, tiếp tục cầm nửa kiếm gãy còn lại đâm thẳng tới, uy hiếp tính mạng của cha cô bé. Đến lúc này thì ta không thể đứng ngoài được nữa...
Lê Khoáng chỉ tay vào Lê Lợi rồi nói tiếp:
- Ta quay đầu lại định dặn con đứng chờ để ta đi cứu ông ấy thì không thấy nó đâu nữa. Ta hoảng hốt ngẩng lên tìm xung quanh thì thấy nó đã phóng tới sau lưng gã ác nhân từ lúc nào không hay. Có lẽ nó tức giận trước cảnh tàn ác, nóng lòng muốn cứu người nên âm thầm lẻn ra phía sau tên ác nhân, tung ra liền ba quyền đấm mạnh vào lên gã ta. Gã đang tập trung vào người đàn ông nọ, để hở lưng nên bị trúng đòn. Không rõ đòn đó có gây cho gã đau nhức hay không, chỉ thấy gã giật mình hoảng hốt. Gã xoay người, vứt nửa thanh kiếm gãy đi, vỗ chưởng xuống đầu nó.
- A!
Bất ngờ Lê Trừ và bà mẹ hô lên. Hai người lo lắng quay sang nhìn cậu bé. Bà lại sờ lên vết thương sau lưng Lê Lợi rồi lại nhìn sang trượng phu. Lê Khoáng bật cười:
- Không phải vậy đâu, Lợi nhà ta đâu kém thế, trong lúc nguy cấp, con nó ứng biến rất khéo léo, lách người sang bên, đồng thời ngón trỏ và ngón giữa duỗi thẳng ra, kẹp sát vào nhau, những ngón khác co lại, tạo thành chỉ, đâm tới trước, là một chiêu Tru Hồn Kiếm. Kiếm pháp nó luyện mới được bốn năm phần nhưng cũng đủ khiến gã ác nhân lúng túng, đã phá vỡ thế công của gã. Con nó đã đâm trúng ngay ngực y, đáng tiếc uy còn non, chưa đủ sức làm y bị thương. Gã ta bị một đứa trẻ đánh trúng hai lần nên giận dữ, phóng chưởng tấn công ào ạt. Lợi nó lại thi triển tài năng một lần nữa, thi triển khinh công tránh né, sau đó đấm mạnh vào mạng sườn y. Nhưng nội công hộ thể của gã quá mạnh khiến con nó phải lật đật lùi về hai bước.
Lê Lợi được cha khen thì vỗ ngực cười lớn rồi giành luôn lời cha:
- Con mẹ giỏi lắm chứ, đánh trúng hắn ba lần, chỉ là nội lực còn kém xa hắn nên đấm vào người hắn như đấm vào bị sắt vậy, cả cẳng tay cẳng chân đều đau đớn. Hắn ta quát lớn rồi tung chưởng đánh tiếp. Lúc đấy con sợ mất hồn luôn. May sao cha đến cứu con kịp.
Mẹ cậu bé gõ vào trán cậu, mắng:
- Đã dại dột mà lại còn khoác lác nữa hả, sau này cấm con làm bậy nữa. Mà mẹ cũng cấm con cắt ngang lời cha, thế là hỗn đấy biết không hả?
- Dạ con biết rồi.
Lê Lợi xoa xoa chỗ đau. Cha cậu bé trừng mắt nhìn cậu hàm ý khiển trách khiến cậu sợ mà cúi đầu xuống, sau đó ông kể tiếp:
- Thằng bé này thật là... Rồi, lúc đó ta kịp phóng tới đánh ra một chưởng. Vì để cứu kịp con, ta đã dùng toàn lực. Gã ác nhân không muốn chết nên chuyển hưởng chưởng đánh ngược lại. Hai luồng chưởng lực đụng nhau bật ra tiếng sấm rùng rợn, ta khựng người lại một chút, còn đối phương thì phải lùi về sau ba bốn bước. Mà ta cũng không tấn công ngay mà bảo Lợi lại chăm sóc cho người đàn ông kia rồi mới phóng ra ba chưởng tấn công. Gã ác nhân biết không thể tránh khỏi, bèn ném bé gái ra trước mặt để giảm lực chưởng rồi vung tay hóa giải. Gã có biết đâu đó là kế nghi binh của ta, bé gái tới gần ta thì ta lại biến sang âm kình hất cô bé sang bên cho con. Nàng cũng biết ta vốn rất ghét kẻ dùng người khác để uy hiếp nên không nương tay, đánh ra Toái Cốt Trảo. Hai bên đánh qua lại mấy chục chiêu thì tay trái ta phóng ra, đánh vào yết hầu gã...
Bà Ngọc Thương biết Toái Cốt Trảo rất lợi hại, trượng phu bà đã tốn hơn mười năm ngẫm nghĩ mới hoàn thiện nó, kết hợp với nội công của Lê gia lại càng lợi hại. Ông ấy sáng tạo ra nó là để khắc chế Đả Ngưu Chưởng và khinh công ma mị của Quỷ Ảnh nhằm bảo vệ gia đình mình. Chiêu ông kể là chiêu nhanh và hiểm nhất trong mười bảy chiêu, nó không chỉ lợi hại ở tốc độ mà còn ghê gớm ở những biến hóa sau đó. Nếu đối phương nghiêng đầu hay ngả người ra vẫn khó lòng thoát khỏi phạm vi sát thương của nó, chỉ cần sơ hở một chút thôi thì đầu, cổ hoặc ngực lập tức bị xé toạc. Bà nghĩ gã ác nhân ắt hẳn sẽ trọng thương dưới chiêu này. Bà nghe ông nói tiếp:
- Gã ta đột nhiên xuất ra kỳ chiêu, ta cả đời trải qua nhiều trận chiến nhưng chưa thấy chiêu này bao giờ, thoáng cái không hiểu sao gã nhún chân vọt về hơn một trượng. Cũng may ta đã dành lại hậu chiêu, lập tức áp sát, tay phải tống ra một chưởng. Hai bên lại đối chưởng lần nữa, lần này ta phải lùi lại hơn một bước còn gã lùi lại hơn hai bước. Ta không để gã kịp thở, lao lên đánh tiếp, gã thi triển khinh công tránh né rồi phóng chỉ đâm ta một kiếm. Gã là cao thủ kiếm thuật, thuật dùng tay thay kiếm gã hiểu rất rõ, hơn nữa chiêu kiếm đó rất lợi hại, buộc ta phải vung chưởng chống đỡ. Ngờ đâu chỉ là hư chiêu khiến ta đánh vào khoảng không. Gã chớp thời cơ nhảy tới chỗ Lợi và hai cha con nọ. Ta bị chậm một nhịp nên không thể cứu kịp.
Thê tử của Lê Khoáng lại bị một phen tái mặt vì sợ hãi. Ông kể:
- Người đàn ông kia bị trọng thương nhưng vẫn cố chắn gã lại, bị gã đá vào vết thương cũ làm máu lại chảy ra xối xả. Ông ta không di chuyển được, đành đau khổ nhìn con gái phải táng mạng dưới tay kẻ ác. May thay ngay khi chưởng lực còn cách cô bé chưa đầy hai thước thì một vật nhọn bất ngờ đâm vào bụng dưới của y. Lợi nó đã nhặt nửa thanh kiếm gãy, lao ra đứng chắn trước người cô bé rồi xuất ra một chiêu trong Tru Hồn Kiếm. Kiếm đánh vào phương vị rất quái dị khiến tất cả giật mình. Ấy thế mà tên cướp lại nhếch mép cười. Tay gã đang đánh từ trên xuống bất ngờ chuyển hướng chộp lấy cổ tay Lợi, lại là hư chiêu, hóa ra mục tiêu của gã chính là con mình chứ chẳng phải cô bé. Gã vận kình kéo một cái, chuyển hông, tay kia năm lấy lưng con, đề khí chạy đi, trong chớp mắt đã chạy xa mười lăm mười sáu trượng. Lúc đấy ta... ta...
- Chàng làm sao nữa?
- Ta... ta...
Bà Ngọc Thương và Lê Trừ đều dồn mắt nhìn vào ông. Bỗng dưng bà có cảm giác Lê Lợi sắp gặp gì đó chẳng lành, lòng mẹ xót con nên bồn chồn trong ruột, lập tức hỏi ngay:
- Chàng làm sao nữa? Làm sao mà con bị thương? Chàng nói đi chứ.
Thấy trượng phu im lặng không trả lời, bà tiếp tục hỏi:
- Chàng đã làm gì thì chàng mau nói đi chứ.
Bà Ngọc Thương hỏi dồn khiên Lê Khoáng lúng túng. Ông ấp úng mãi mới trả lời thê tử:
- Sau đó ta... ta không đuổi theo gã ác nhân mà đứng lại trị thương cho người đàn ông nọ trước rồi mới truy đuổi hắn ta.
Bà nghe thế thì biến hẳn sắc mặt. Việc trượng phu không đuổi theo để cứu con khiến bá rất tức giận. Bà nói lớn tiếng:
- Cái gì chứ? Tại sao chàng không cứu con má lại cứu người đàn ông không quen biết kia chứ. Chàng... chàng... thật...
Nói đến đây thì bà nghẹn ngào, lệ tuôn ra từ đôi mắt phượng. Lòng mẹ thương con, người mẹ nào chả phản ứng gay gắt như vậy chứ. Lê Khoáng hiểu điều này nên ông chỉ thở dài buồn rầu:
- Ta mâu thuẫn lắm chưa, ta cũng biết nếu lám thế sẽ có lỗi với nàng và con rất nhiều, nhưng ông ta bị thương rất nặng, chỉ cần cầm máu chậm trễ tích tắc thôi thì ông ta sẽ mất mạng ngay.
Ông dừng một chút rồi nói tiếp:
- Hơn nữa ta thấy gã cướp có ý đồ khác, không muốn giết hại bé gái hay Lợi ngay nên ta... hừmm... ta mối quyết định cứu ông ta trước. Sau khi giúp ông ta thoát khỏi nguy hiểm thì tức tốc đuổi theo.
- Chàng... chàng... chàng còn nói.
Bà nấc lên, giọng nghẹn ngào. Lê Lợi thấy cha mẹ bất hoà vội vàng lên tiếng:
- Mẹ đừng trách cha nữa, cha cứu người cũng là việc nên làm mà.
- Lợi, con...
Bà kinh ngạc nhìn con trai, bà chẳng thể ngờ cậu bé lại nói như vậy. Lê Lợi lại nói tiếp:
- Hơn nữa con cũng đã tự thoát khỏi tay tên xấu xa đó được.
- Con đừng nói dối mẹ để bảo vệ cha con. Con bị tên cướp đó nắm như vậy thì sao tự thoát ra được chứ.
Cậu bé lắc đầu:
- Con nói thật mà, con đã dùng Tru Hồn Kiếm để thoát ra. Con ném kiếm sang tay trái rồi đâm ra sau lưng thế này... thế này nữa.
Cậu diễn lại y như lúc cậu tìm cách thoát khỏi tên cướp như thế nào. Nhưng dĩ nhiên là mẹ cậu không tin. Bà mắng:
- Hừ, càng nói thì càng lộ ra con đang nói dối. Con đã thoát rồi thì tại sao trên lưng lại có dấu chưởng thế này chứ.
Cậu bé không hề lúng túng, trả lời một cách dứt khoát:
- Thì con rơi xuống đất rồi con sử dụng khinh công mẹ dạy con để chạy. Hắn ta chộp hụt con bốn lần mới tức quá mà phóng chưởng đánh vào lưng con.
Sự thật thì quả đúng như lời Lê Lợi kể, chỉ là cậu đã rút gọn đi rất nhiều chứ thực ra hoàn cảnh lúc đấy vô cùng hung hiểm. Cậu vừa ngã xuống đất lập tức chồm dậy chạy đi. Vì quá chủ quan nên để mất con mồi, tên cướp nổi giận. Gã quát lớn rồi đuổi theo. Lê Lợi cắm đầu cắm cổ chạy vào khoảng rừng trước mặt. Bỗng nghe "roạt" một tiếng. Phần áo sau lưng cậu bị một trảo của gã xé rách toạc, hở cả da thịt. Bốn đường xước bật máu đỏ hiện rõ trên lưng. Cậu sợ bở vía, bèn đem môn khinh công thượng thừa theo mẹ học bao năm ra dùng. Trước giờ cậu ít khi coi trọng nó, tới hôm nay mới thấy tác dụng của nó. Lúc thì cậu chạy sang phía Đông, lúc lại lạng sang mé Tây, lúc lại vòng vèo, luồn lách qua lùm cây kẽ lá. Mấy lần gã ác nhân sắp sửa đến gần thì cậu lại chạy theo phương vị quái dị khiến y chộp hụt. Hai người đuổi bắt hơn một dặm, Lê Lợi nội lực không thâm hậu như gã nên dần đuối sức. Khi hai bên chỉ còn cách nhau hai thước, gã e sợ lại bắt hụt, bèn vung tay đánh một chưởng. Chưởng lực hùng hồn xô tới ào ạt, trúng ngay lưng Lê Lợi. Cậu bé cảm thấy đầu óc quay cuồng, hai mắt bỗng tối sầm rồi mất đi tri giác.
Chuyện này quả có thực, có điều mẹ cậu mới nghe lần đầu, chắc chắn khó mà tin được, bà hỏi vặn lại:
- Thế càng vô lý hơn, con ngất xỉu thì sao có thể về nhà được.
- Thật mà mẹ, trước đó con nghe thấy tiếng quát rằng không được hại người rồi con ngất luôn. Khi con tỉnh lại thì con gặp lại cha và cha bảo có một ông lão đã cứu con.
Mẹ cậu nhìn chằm chằm vào mắt cậu rồi nhìn sang trượng phu, ông ấy gật đầu. Bà nghĩ từ trước tới này con mình không bao giờ nói dối. Bây giờ nó kể mạch lạc câu chuyện, lại không hề có biểu hiện lạ thường, chắc hẳn nó không nói dối. Bà lại quay sang hỏi trượng phu:
- Có thật không đấy?
Ông gật đầu, đáp:
- Con mình nói thật đấy, nó bị gã ác nhân đuổi đến gần làng Dựng Tú thì bị hắn ta đánh chưởng vào lưng. May sao có một ông lão đi trong rừng chạy lại cứu giúp. Khi ta đuổi đến tới thì thấy con mình nằm ngất cạnh gốc cây gần đó, còn ông lão thì đang ác chiến với hắn. Hắn thấy ta đến thì hoảng sợ bỏ chạy. Ta lo cho con nên không đuổi theo nữa.
- Đến lúc đấy chàng mới biết lo cho con sao.
Bà hừ một tiếng tức giận, thấy vậy ông lại thở dài, im lặng không nói gì nữa. Căn bản thì bà đã tin chuyện này, dù đang rất tức giận. Bà ngoảnh đầu sang nơi khác, lấy khăn lau nước mắt. Bà thấy trời đã chuyển về hoàng hôn, không tiện làm khó trượng phu nữa nên lảng sang cái khác:
- Được rồi, được rồi, em cũng không muốn làm lớn việc này nữa, chàng và con đi thu dọn đồ đạc, còn em đi nấu bữa cơm chiều.
- Ừ, để ta giúp nàng.
- Không cần đâu, em làm một mình được, còn có thêm mấy đứa trong nhà giúp nữa.
- Hừm... thôi được rồi.
Bà đi vào bếp để chuẩn bị bữa ăn. Lê Lợi nghe theo lời mẹ đi tắm rửa trước đó. Lê Trừ đang định đứng dậy rời đi thì cha chàng gọi lại bảo:
- Trừ, con vào phòng đọc sách với cha nhé.
- Dạ vâng ạ.
Lê Trừ ngạc nhiên, theo cha đi vào phòng. Ông ấy đưa cho chàng một quyển sách bìa xanh. Khi nhìn thấy ba chữ Thiên Cang Khí, chàng vô cùng kinh ngạc.
- Thưa cha, đây là Thiên Cang Khí Công, sao cha lại đưa con ạ?
Cha chàng ngồi xuống ghế và trả lời:
- Việc bé gái nọ và sau đó là em con bị bắt cóc khiến cha suy nghĩ rất nhiều. Thời buổi ngày càng trở nên loạn lạc, nhiều kẻ ác bắt đầu lộng hành khắp nơi. Cha lo một ngày nào đấy sẽ ảnh hướng tới gia đình mình. Vì vậy giờ cha đưa nó cho con mong sao con luyện thành, trước hết để bảo vệ mình, sau đó là những người xung quanh. Con hiểu lời ta nói chứ?
Chàng gật đầu đáp:
- Dạ con đã hiểu rồi ạ.
- Ừ, con cầm lấy mà luyện tập, có gì không hiểu thì cứ hỏi cha, nếu không gặp được cha thì hỏi anh con, nó luyện cũng lâu rồi.
- Dạ, con xin nghe lời cha. Con xin phép cha con ra ngoài ạ.
- Ừ, con đi đi.
Trong bữa ăn, ngoại trừ người con cả của Lê Khoáng là Lê Học vắng mặt vì thăm bạn thì thành viên trong gia đình ông không vì việc buổi chiều mà thiếu ai cả. Dẫu vậy, không khí bữa ăn khó tránh khỏi có chút nặng nề. Lê Trừ thấy vậy, bèn đem câu chuyện quái lạ mà mình đã gặp kể cho mọi người nghe. Câu chuyện ngay lập tức thu hút sự chú ý của tất cả. Lê Lợi vẫn còn là một đứa trẻ, lần đầu nghe chuyện ly kỳ như vậy, hào hứng hỏi anh trai đủ mọi thứ, ít ra cũng đã xuất hiện tiếng cười đùa. Lê Khoáng thầm thở phào nhẹ nhõm, ông tự nhủ đến tối phải tìm cách làm hoà với thê tử.
Trời chuyển dần sang khuya, gia đình Lê Khoáng bắt đầu nghỉ ngơi. Trong phòng ngủ của hai vợ chồng ông, như dự tính trước đó, hai tiến lại gần vợ, đặt tay lên bờ vai bà nắn bóp nhẹ nhàng. Ông nói nhỏ nhẹ:
- Thương, nàng vẫn còn giận ta sao?
Bà đẩy tay ông ra rồi lẳng lặng đi tới giường ngồi xuống, quay mặt sang nơi khác, tỏ vẻ không chú ý đến ông. Ông thở dài, lại đến ngồi cạnh bà, tiếp tục cố giảng hòa:
- Nàng nói gì đi chứ, đừng im lặng như thế.
Bà vẫn ngồi yên lặng. Ông không chịu thua, bèn vòng tay ôm lấy bà. Bà trừng mắt nhìn ông và giãy dụa muốn thoát ra. Ông càng ôm chặt hơn, đồng thời thì thầm vào tai bà:
- Ta biết ta đã gây ra lỗi lầm rất lớn nên bây giờ ta xin lỗi nàng đây. Nàng cho ta một cơ hội nhé.
Bà biết không thoát được vòng tay của ông, đành ngưng giãy dụa và mở miệng nói:
- Không thể nào, giờ em đang rất giận, đừng mong em tha thứ cho chàng.
- Ta biết, ta biết chứ. Chỉ là lúc đấy ta nghĩ gã cướp chưa có ý hại con mình nên đã ở lại giúp người đàn ông kia cầm máu. Ta đã không nghĩ tới cảm giác của nàng khi biết chuyện này, là lỗi của ta, ta xin lỗi nàng.
Lúc này thì bà không kìm nổi nữa, thế là bao nhiêu uất ức đè nén cả buổi tới giờ tuôn ra ào ạt. Bà vung tay đấm lên ngực ông liên hồi, nức nở:
- Tại sao chàng làm vậy? Tại sao chàng không đuổi theo hắn ngay? Lợi là con của chàng kia mà. Tại sao? Tại sao?...
Ông biết giờ có nói gì cũng vô ích. Ông ôm chặt lấy bà, cứ để cho bà trút hết tức giận, uất ức lên người ông. Sau hồi lâu, khi mọi bực tức, muộn phiền đã được trút ra hết, bà cũng nguôi giận phần nào. Ông mới bắt đầu nói lại:
- Nàng đỡ hơn chút nào chưa?
Bà lại lẳng lặng không đáp. Ông bật cười, lau khô nước mắt cho bà rồi thủ thỉ:
- Được rồi, được rồi, nàng tha thứ cho ta nhé?
Bà hừ một tiếng đáp:
- Chưa, em vẫn rất giận chàng.
Thực ra bà chỉ tỏ vẻ ngoài mặt vậy thôi chứ thực ra cũng đã tha thứ cho ông, bởi dẫu sao chuyện đã qua rồi, bà không muốn vì thế mà hai phu thê bất hòa. Ông cười cười:
- Ừ, ừ, không tha thứ thì không tha thứ.
Bà bĩu môi bất mãn rồi dựa vào người ông. Kể cũng thú vị, đây rõ ràng là cảnh đang giận nhau của đôi phu thế mới cưới, nào phải là cặp phu thê đã gần ngũ tuần như hai người. Ông bà ôm nhau trong yên lặng như thế một chốc rồi ông đỡ bà từ từ nằm xuống. Bá ngạc nhiên hỏi:
- Chàng muốn làm gì?
- Thì ngủ chứ làm gì.
Bà trừng to mắt nhìn ông:
- Ngủ nghỉ gì chứ, em chưa muốn ngủ.
Ông bật cười:
- Thì nên đi ngủ thôi chứ có gì đâu.
Ông thổi tắt đèn, sau đó lên giường nằm xuống cạnh bà. Thấy ông hình như đang suy nghĩ gì đó đến ngẩn người ra, bà lấy làm lạ, bèn hỏi:
- Chàng đang nghĩ gì thế?
- À không, ta không nghĩ gì cả.
- Chàng đừng giấu em, em biết rõ chàng đang nghĩ đến chuyện vừa qua.
- Hừm, đúng lá không có gì giấu được nàng. Ta đang nghĩ đến những người mới làm quen mấy ngày qua. Ta không ngờ đều là những người có vai vế lớn.
- Ồ, những ai vậy ạ?
- Đầu tiên là cha cô bé bị bắt cóc, tên của ông ấy là Trịnh Quốc Đạt, theo như uy tín của ông ấy thì có thể xem ông ấy là hào trưởng ở Thuỷ Chú đấy.
Bà kinh ngạc, nghiêng người hỏi:
- Sao cơ? Là hào trưởng ở Thuỷ Chú ư? Sao em chưa nghe bao giờ nhà ngoại nhắc đến người này.
- Cũng tại chúng ta chưa quan tâm nhiều đến những vùng xung quanh thôi.
- Ừ, có lẽ chàng nói đúng, em nghĩ chúng ta nên tìm hiểu một chút.
- Ừ. À rồi cả hào trưởng của làng Dựng Tú là Lê Kiều nữa, ông ta rất giỏi đấy. Những người đó đáng để chúng ta kết giao.
- Vâng.
Bỗng bà xoay người gối đầu lên tay ông, rồi thủ thỉ nhẹ nhàng:
- À mà chàng này, lúc nào đấy phu thê chúng ta phải đến gặp ông cụ nọ để trả ân ông ấy đã cứu con chúng ta.
- À, ông cụ...
Nhắc tới ông cụ đã cứu Lê Lợi, vẻ mặt ông đột nhiên thay đổi hẳn, trở nên buồn bã hơn rất nhiều. Bà nhận ra sự thay đổi này rất dễ, bà hỏi:
- Chàng sao thế? Sao tự dưng lại buồn vậy?
Ông thở dài, im lặng giây lát rồi trả lời:
- Ta cũng muốn như nàng lắm chứ nhưng... tiếc là ông ấy đã... tạ thế rồi.