|
|
21-09-2008, 12:26 PM
|
|
Anh Khùng Trốn Viện
|
|
Tham gia: Aug 2008
Đến từ: hư vô
Bài gởi: 639
Thời gian online: 21 giờ 15 phút 21 giây
Thanks: 821
Thanked 262 Times in 71 Posts
|
|
Bình Khương Phu Nhân
Dân Gian
Bình Khương Phu Nhân
Liệt nữ đời Hồ. Không rõ họ tên.
Theo truyền thuyết, bà là vợ một viên Cống sinh ở quanh vùng Tây Đô. Khi Hồ Quí Ly ra lệnh xây thành Tây Đô (tức thành nhà Hồ), chồng bà cũng bị bắt đi theo số dân phu để khiêng đá đắp thành. Vì yếu ốm đấp không đủ số 3 thước đá cao như đã định, người chồng bị tên đốc phu đánh chết rồi chôn vào chỗ tường xây thiếu. Hay tin, bà vội chạy đi tìm chồng; dưới chân thành, quá phẫn uất, bà đập đầu vào tấm đá để tự vẫn.
Về sau, cư dân trong vùng cảm thương người tiết phụ, khiêng tấm đá ra ngoài thành để lập miếu thờ. Các triều vua đều phong bà là nữ thần, gia hiệu Bình khương Phu nhân.
Danh sĩ Nhữ Bá Sĩ dưới đời vua Tự Đức triều Nguyễn có làm 2 bài thơ vịnh bằng chữ Hán như sau:
I.
Khẳng khái quyên khu xúc thạch cương,
Tòng phu thê chỉ Đốn sơn dương
Tử nhi vị tử tâm kiên thạch,
Sinh bất tử sinh tiệt ngạo sương.
II.
Xích chủy quân vương tri dả vô?
Đầu lư xúc thạch thệ tòng phu.
Túng nhiên địa lão thiên hoang hậu,
Thạch tích niên niên chỉ hậ Hồ!
(Bài dịch của Lam Giang)
I.
Quăng nằm xương mai chọi đá tường,
Non ngàn xin chứng tấm lòng thương.
Tiết trinh một thác bền hơn đá,
Nghĩa tiệt muôn đời sáng tựa gương.
II.
Mỏ đỏ vua Hồ có biết không?
Xương tan thiếp nguyện chết theo chồng.
Dầu cho trời đất thanh tro bụi,
Sắc giận nghìn thu vẫn ửng hồng.
Lời bàn:
Hồ Quý Ly ngày xưa, tuy là một nhà cải cách tài ba, nhưng cũng không tránh được tai tiếng chiếm ngôi và làm lòng người óan hận. Đáng ghét thay cái tên đốc phu kia, người cùng chung máu mủ mà nở tàn ác đến thế; cư xử với người cùng giống nòi mà còn như thế, thì việc quân Tàu bắt ông bà ta đem chiên để lấy mở, bắt xây thành đấp lũy, lên rừng tìm ngà, xuống biển mò châu, thuế má gắt gao cũng là lẽ thường tình. Tấm lòng tinh khiết của Bình Khương Phu Nhân, một viên đá vọng phu sáng ngời.
|
21-09-2008, 12:31 PM
|
|
Anh Khùng Trốn Viện
|
|
Tham gia: Aug 2008
Đến từ: hư vô
Bài gởi: 639
Thời gian online: 21 giờ 15 phút 21 giây
Thanks: 821
Thanked 262 Times in 71 Posts
|
|
Ấu Triệu
Dân Gian
Nữ đảng viên Việt Nam Quang Phục Hội đã vì nước tuẫn thân.
Tên thật là Nguyễn Thị Đang (có nơi chép là Lê Thị Đàn). Sinh trưởng trong một gia đình bình dân ở xã Thế Lại Thượng, thuộc tỉnh Thừa Thiên (Trung phần). Gia nhập Việt Nam Quang Phục Hội từ khi Hội mới thành lập. Đắc lực góp phần thoạt động cho phong trào thanh niên Dong du và tham gia phong trào kháng thuế tại các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Nam, và Quảng Ngãi vào năm 1908.
Đầu năm 1910, bị Pháp giam giữ và tra tấn hết sức tàn nhẫn, bà nhất thiết không khai một lời nào, sau dùng dây lưng thắt cổ chết trong ngục.
Nhà chí sĩ Phan Bội Châu, sau này, để tỏ lòng thương tiếc bậc liệt nữ, đã đặt câu đối hùng hồn bi tráng như sau:
“Tấm thân trót gả giang san Việt; tấc dạ soi chung nhật nguyệt Trời.
“Tơ nhân sợi nghĩa dây lưng trắng; dạ sắt lòng son nét màu hồng.”
Lời bàn:
Bọn thực dân Pháp một bề giảng đạo thánh Chúa Trời, một bề giết ông bà ta không chớp mắt. Ấy mới thấy dưới bóng mặt trời này, không một dân tộc nào mà ngu dại hy sinh cho dân tộc khác (như chính quyền Bush đang tuyên truyền). “Sự tiến hóa của một dân tộc là do cái chí nguyện, lòng nhẫn nạy, kiên trì và tranh đấu của mỗi người dân,” sử gia Trần Trọng Kim đã nhũ. Trong thời kháng Pháp, biết bao nhiêu nữ sĩ trong Việt Nam Quang Phục Hội và Việt Nam Quốc Dân Đảng đã mang chung một số mạng với anh thư Ấu Triệu. Mỗi tất đất của nước Việt ta đã thấm nhoà với những giọt máu thiêng của cái ngài. Nhờ các ngài mà chúng ta mới có một đất Việt để sinh ra; những giọt nước ngọt ngào, những dòng sửa tươi mát và sinh khí mà ta đã hưởng thụ, từng giọt một, chúng ta nợ các đấng sinh thành ra ta và những đấng anh linh nước Việt cả.
|
21-09-2008, 12:35 PM
|
|
Anh Khùng Trốn Viện
|
|
Tham gia: Aug 2008
Đến từ: hư vô
Bài gởi: 639
Thời gian online: 21 giờ 15 phút 21 giây
Thanks: 821
Thanked 262 Times in 71 Posts
|
|
Nguyễn Thị Kim
Hoàng phi, vợ vua Lê Chiêu Thống. Bậc tiết phụ thời Lê mạt.
Người làng Tùy hà, huyện Lang tài, trấn Kinh bắc (Bắc phần).
Khi vua Lê sang Tàu lánh nạn, bà theo không kịp, phải ẩn núp ở đất Kinh Bắc.
Mãi hơn 13 năm sau, hay tin chồng, mẹ chồng và con đều mệnh vong ở Trung hoa và bọn di thần sắp đem linh cửu về nước, bà lên tận quan ải để đón rước. Từ đó cho đến khi về Thăng Long, bà nhịn ăn, cả ngày gục lên linh cửu cố quân gào khóc rất thảm thiết.
Ngày 12 thang chạp năm nhâm tuấ, 1802, làm lễ tế vua Lê xong, bà bảo người xung quanh rằng: “Ta nhẫn nhục ở nơi quê nhà kể ngót mười mấy năm trời, một lòng mong đợi tin Thái hậu cùng vua ta và con ta. Nay Thái hậu và vua ta đã mất, con ta cũng chết, linh giá đã đưa về nước; thế là lòng hy vọng của ta cũng mất. Giờ đây ta nên chết theo, để xuống hầu hạ ở chốn sơn lăng.” Sau đó, bà uống thuốc độc tự tử.
Thi thể Hoàng phi được đem về an táng tại Bàn Thạch, cạnh lăng vua Lê chiêu Thống.
Về sau, theo lời tâu xin của Bắc thành Tổng trấn là Nguyễn Văn Thành, vua Gia Long cho lập đền thờ Nguyễn Hoàng phi tại làng Tùy Hà, lại ban cấp ruộng tế cùng tha thuế cho cả làng đó và có lập bia khắc mấy chữ: “Khâm tứ An trinh Thuận nghĩa Nguyện thị Kim chi mộ.”
“Việt Sử Tổng Vịnh” của vua Tự đức có bài thơ khen:
Ky đích thông mang thống mạc truy,
Thoa điền kinh bố, cữu mê ly.
Triêu triêu tuyệt lạp triều qui tẫn,
Nhất trãn phên sương cạnh dư tùy.
Bản dịch của Bửu Cầm:
Theo giá không may lạc lại sau,
Dãi gai áo vải đã mày lâu.
Chẳng ăn nhiền bữa chầu linh cữu,
Một chén nhân ngôn để xuống hầu.
Nhà thơ Dương bá Trạc, trong thi phẩm “Trai Lành Gái Tốt” đã ca tụng đức độ Hoàng phi Nguyễn thị Kim qua bài thơ vịnh sau đây:
Giong ruổi quan hà lạc Chúa công,
Ngọn mây non Bắc tịt mù trông.
Bồng mao tạm lúc nương thân liễu,
Kinh khuyết mai sau thấy mặt rồng.
Thác nghĩa đã ghi cùng sắt đá,
Sống thừa còn hẹn với non sông.
Thôi thôi nước cũ đây là hết,
Năm lạy linh tiền chứng thiếp trung.
|
|
|
| |