TTCT - Tháng 2-1972, lần đầu tiên một tổng thống Mỹ đến thăm Trung Quốc. sau đây là những bí mật ở hậu trường của một trong những sự kiện lớn nhất thế giới vào hậu bán thế kỷ 20.
21-2-1972. Air Force One, chiếc máy bay của tổng thống Mỹ, lao về hướng Bắc Kinh. Có mặt trên đó: Richard Nixon. Chuyến đi không tưởng này đã được chuẩn bị trong hậu trường từ nhiều tháng. Các điệp vụ bí mật, nhắn tin qua nhiều trung gian, những cuộc mặc cả lén lút, chỉ nhằm vào một mục tiêu là cho phép Nixon bắt tay với lãnh tụ nước Trung Hoa cộng sản: Mao Trạch Đông. Quả thật, kể từ khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời ngày 1-10-1949 đến nay, cả hai quốc gia vẫn chưa bao giờ đối thoại với nhau.
Trong máy bay, Nixon đang thật bối rối. Ông không biết có được người cầm lái vĩ đại tiếp kiến hay không. Đây là một cuộc phiêu lưu rất lớn: nếu bị Mao khinh khi ra mặt, Hoa Kỳ sẽ bị nhục nhã chưa từng có trong lịch sử. Ngay trong giữa thời kỳ chiến tranh lạnh này, một chút sai lầm có thể dẫn đến những tác hại khôn lường. Nhưng nếu Mao chấp nhận gặp ông thì diện mạo thế giới sẽ có thể thay đổi, và - tại sao không?- sự đối đầu ý thức hệ giữa hai khối sẽ bị xóa bỏ vì một cân bằng quốc tế mới...
“Đến Trung Quốc cũng giống như đi lên mặt trăng"
Chiếc Air Force One đã sẵn sàng cất cánh từ Washington. Bộ trưởng Ngoại giao William Rogers cùng cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger đang đợi Richard Nixon và phu nhân. Hôm ấy là ngày 17-2-1972. Tổng thống đến bằng trực thăng. Khi chuẩn bị bước lên máy bay, một nhà báo đưa cho ông tấm bản đồ TQ, đóng dấu của CIA. Nixon nói đùa: “Anh có tin rằng họ cho phép tôi vào với cái này chăng?”.
Chuyến đi dài ngày hôm đó là “một chuyến đi vì hòa bình” như ông đã mơ ước từ lâu. Nhưng “đến TQ cũng giống như đi lên Mặt trăng vậy”. Thật ra lúc đó hiếm có người phương Tây nào am hiểu đất nước này, nơi không một tin tức nào lọt ra được bên ngoài và chưa có tổng thống Mỹ nào đến thăm. Tệ hơn nữa là từ năm 1949, Hoa Kỳ và TQ lại không hề có quan hệ ngoại giao nào.
Chiếc Air Force One cất cánh, nhắm hướng Hawaii, nơi nó nghỉ lại hai ngày. Sau đó đến Guam, thuộc quần đảo Mariannes, để thẳng đường đến Thượng Hải cho một tuần lễ thương thuyết tập trung. Trong máy bay, Nixon cố ngốn những tư liệu mà các cố vấn đưa cho mình, truy sát Kissinger bằng nhiều câu hỏi hóc búa và tập ăn... bằng đũa!
Ngày 21-2, chiếc Air Force One đáp xuống Thượng Hải. Điều hết sức bất thường: phi công TQ thay tay lái. Chính họ sẽ lái chiếc máy bay đến điểm dừng chân cuối cùng. 11g20, máy bay chuẩn bị hạ cánh xuống phi trường dân sự của thủ đô TQ. Lúc đó là 22g20 ở bờ biển phía đông Hoa Kỳ và 19g20 trên bờ biển phía tây: tất cả các đài truyền hình Mỹ có thể loan báo tổng thống vừa đặt chân đến đất Trung Hoa. Một bản tin gây chấn động loan đi khắp thế giới.
Cái bóng của Mao...
Hôm đó là một buổi sáng lạnh lẽo và xám xịt tại Bắc Kinh. Thủ tướng TQ Chu Ân Lai mặc áo khoác màu xanh đen và bộ đồ đại cán kiểu Mao màu xám, xuất hiện với gần 20 quan chức. Họ đứng giữa một đoàn quân danh dự lẫn lộn màu áo xanh lá của quân giải phóng và màu xanh dương của hải quân. Ngôi sao đỏ rực sáng trên mọi chiếc mũ. Lá cờ Mỹ và TQ bay phần phật trước gió. Tại phi trường vắng tanh, nhân chứng duy nhất là những nhà báo Mỹ, họ đã có mặt tại chỗ từ trước đó mấy hôm để ghi lại sự kiện này. Còn đối với một số nhà ngoại giao phương Tây tỏ ý muốn tham dự lễ đón tiếp này, Chính phủ TQ đã khuyên họ nên nộp đơn xin phép... trước khi nói rõ: không cấp giấy phép cho ai cả!
Cũng không có đám đông dân chúng nào tiếp đón cả. Tháng 10-1971, cũng tại phi trường này, hoàng đế Ethiopia Hailé Sélassié đã được hàng trăm trẻ em, công nhân và ca sĩ nồng nhiệt đón chào... Nhưng bóng dáng của Mao ngự trị khắp nơi. Một trong những câu nói của ông ta được viết trên bức tường ở cuối phi đạo: “Khiêu khích bằng cách gây rối loạn, thất bại. Khiêu khích tiếp tục, lại thất bại, và cứ thế cho đến khi sụp đổ hoàn toàn. Đó là cái lôgic của bọn đế quốc và phản động trên toàn thế giới đối với chính nghĩa của nhân dân”.
Do Chu Ân Lai vẫn mặc áo khoác nên Nixon cũng không cởi chiếc áo khoác mặc ngoài bộ quần áo màu xanh biển của mình. Ông bước khỏi máy bay trước tiên, tiếp theo là vợ ông, và bất chấp lời khuyên của các chuyên gia Mỹ về TQ, đệ nhất phu nhân Pat vẫn mặc chiếc áo màu đỏ. Nixon tiến về phía Chu. Hai người đàn ông nắm tay nhau thật lâu. Khi Kissinger xuất hiện, Chu mỉm cười: “À! Chào ông bạn cũ!”. Họ đã bí mật gặp nhau trước đó hai lần để chuẩn bị chi tiết cho chuyến đi này.
Quốc ca hai nước vang lên, tiếp đến là những bài ca cách mạng, trong lúc Chu và Nixon duyệt hàng quân danh dự. Sau buổi lễ chỉ kéo dài chừng 15 phút, các nhà báo quay trở lại xe buýt và các quan chức chui vào những chiếc Limousine màu đen. Trên đường đi, dân chúng khá lèo tèo, tất nhiên rồi, như không mấy chú ý đến đoàn xe lạ. Họ đã nhận được thông báo từ phía chính quyền: không tỏ ra tò mò gì cả đối với người Mỹ. Còn trên các phương tiện truyền thông hôm ấy, thông tin về chuyến viếng thăm của tổng thống Nixon là tin tức cuối cùng được đề cập.
“Chủ tịch đang ở đâu?”
Những chiếc Limousine chạy qua quảng trường Thiên An Môn, nơi đặt một bức tượng Mao khổng lồ. Trong xe, Chu Ân Lai quay qua nói với Nixon: “Bàn tay của ngài đã vượt qua đại dương lớn nhất thế giới: 25 năm vắng bóng đối thoại”. Câu nói này không phải vô tình. Năm 1954, tại hội nghị Genève, khi vấn đề Đông Dương được quyết định và khi khả năng thống nhất Triều Tiên trở thành vô vọng, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ John Foster Dulles đã công khai... không bắt tay Chu Ân Lai. Một hành động khinh thường mà người TQ vẫn chưa quên.
Đoàn xe đi về hướng phía bắc thành phố, đến Điếu Ngư Đài - nơi được canh giữ cẩn mật mà người TQ quen dành cho khách nước ngoài trú ngụ. Xưa kia, nơi nổi tiếng với hồ nước và kỳ hoa dị thảo này đã được các nhà quí tộc xây dựng những tòa biệt thự lộng lẫy và câu cá từ trên... sân thượng. Xung quanh nơi yên tĩnh này là tường cao, kẽm gai, đèn pha và tháp canh. Vào lúc ấy, Mao và phu nhân mỗi người đều nó một biệt thự ở đây. Trước Nixon, Kim Il-Sung, Nikita Khrouchtchev, Che Guevara và thủ tướng Bắc Việt Nam cũng từng cư trú ở đây. Ba ngày trước khi tổng thống Mỹ đến là ông hoàng Sihanouk của xứ Cambodge.
Khi vừa đến nơi, Nixon và Chu Ân Lai ngồi cạnh nhau trên một chiếc tràng kỷ ở phòng tiếp tân, đối diện là các quan chức TQ và Mỹ đang theo dõi cuộc chuyện trò - xem ra say sưa- của họ quanh một tách trà. Các phiên dịch TQ đảm nhận việc dịch mặc dù phía Mỹ có hẳn một đội thông dịch riêng của mình. Sau cuộc tiếp đón sơ bộ này, phía TQ dành thời gian cho khách nghỉ ngơi. Nhưng Kissinger vốn ở chung biệt thự với tổng thống Mỹ không sao ngồi yên được. Ông có hẹn lúc 15 giờ với Chu Ân Lai. Nixon tỏ ra lo lắng vì cuộc tiếp đón có phần sơ sài này. Dù sao ông cũng cảm thấy an ủi khi người TQ đã hát lên quốc ca Hoa Kỳ, bản Star Spangled Banner.
Trong lúc đó, ở phía nam thành phố Bắc Kinh, trong khu Trung Nam Hải, Mao mặc một bộ đồ mới và mang đôi giày vừa đóng để ông mang vào dịp này. Ông đang bệnh, huyết áp cao, tim đập yếu và chưa dứt ho. Ông chỉ mới chịu cho chữa bệnh từ 20 ngày qua. Bệnh viện Trung Nam Hải đã dọn sạch các thiết bị cấp cứu. Tất cả được chuyển sang nhà của Mao.
Mao rất phấn khích. Ông muốn gặp Nixon ngay từ lúc xuống máy bay, nhưng đã bị thủ tướng can ngăn. Lúc 14g30, Mao không còn kiên nhẫn được nữa. Chu Ân Lai gọi Kissinger: Mao muốn gặp Nixon. Rất nhanh. Chẳng cần nói cũng thấy tổng thống Mỹ đón nhận thông tin này với sự nhẹ nhõm: cho đến lúc này, ông chẳng biết mình có thể gặp được người cầm lái vĩ đại hay không! Đi cạnh Kissinger, ông tức khắc nhảy lên một chiếc Limousine. Chu Ân Lai, Winston Lord, phụ tá của Kissinger, và một nhân viên mật vụ đi theo họ. Chuyện gì sẽ xảy ra? Chủ tịch Mao đang ở đâu?
Giai đoạn này đánh dấu một khúc quanh trong cuộc chiến tranh lạnh và đã được nhà sử học Margaret MacMillan thuộc Trường đại học Toronto kể lại với những chi tiết chưa từng được biết trong quyển sách mang tựa đề Nixon và Mao - Một tuần lễ làm thay đổi thế giới (NXB Random House, 2007). Bằng ngòi bút của một tiểu thuyết gia cùng sự nghiêm túc của một nhà sử học, bà kể lại một cách đầy hấp dẫn những chi tiết bằng cách nào Hoa Kỳ và TQ đã nối lại đối thoại sau bao năm tháng vắng bóng hầu như mọi quan hệ.
ĐINH CÔNG THÀNH dịch
Nicolas Michel (La Revue tháng 9&10-2007
TTCT - Chiếc xe hơi đậu trước cửa một tòa biệt thự của Trung Nam Hải. Dù hết sức tinh vi, hệ thống bảo vệ an ninh của nó gần như vô hình. Những người Mỹ bước nhanh qua phòng tiếp tân, có đặt một bàn bóng bàn. Ông bác sĩ của Mao đón rồi dẫn họ đến phòng làm việc của Mao.
Chỉ các phóng viên Trung Quốc (TQ) mới được phép chụp ảnh cảnh này: được một trong số các nữ trợ lý xinh đẹp dìu đi, người cầm lái vĩ đại tiến về phía Nixon. Ông chủ một đất nước đông dân nhất thế giới và tổng thống Hoa Kỳ. Người phát động cuộc Cách mạng văn hóa và người cùng lúc ra lệnh ném bom B-52 xuống Việt Nam cuối cùng đã ngồi lại với nhau. Mặt đối mặt. Mỉa mai hơn nữa: từ lâu Nixon là một kẻ chống cộng điên cuồng, không hề ngần ngại đầu quân dưới trướng thượng nghị sĩ McCarthy trong cuộc truy sát những người cộng sản từ những năm 1950-1956. Phó tổng thống của Dwight D. Eisenhower, bị J.F. Kennedy đánh bại trong cuộc bầu cử năm 1960, ứng cử viên dài dài của Nhà Trắng này, trong bao năm qua, chưa bao giờ ngừng xem Liên Xô và các đồng minh của Liên Xô là một mối hiểm họa.
“Tổng thống làm ngoại giao”
Con người hành động này, dẫu sao, lại biết tỏ ra thực tế. Thích quan hệ quốc tế, ông ghê tởm sự quan liêu. Nixon đã từng tuyên bố: “Muốn cai trị nước Mỹ, phải có một êkip có khả năng. Đối với đường lối ngoại giao, phải có một tổng thống. Không một bộ trưởng ngoại giao nào là đáng mặt cả. Tổng thống phải làm ngoại giao”. Đi đây đi đó nhiều, ông rất ngưỡng mộ tổng thống Pháp De Gaulle và thủ tướng Anh Winston Churchill. Trước khi chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1968, Nixon đã từng viết trên tạp chí Foreign Affairs: “Chúng ta không thể để TQ nằm ngoài dàn hợp xướng của các quốc gia”.
Là con người thực dụng, Nixon biết biến đổi mình khi tình hình thay đổi. Như tác giả Margaret MacMillan nhấn mạnh, có lẽ ông sống theo phương châm của chính trị gia người Anh Lord Palmerston: “Chúng ta không có kẻ thù vĩnh viễn cũng như bạn bè muôn đời. Chỉ có quyền lợi là vĩnh viễn và muôn đời mà thôi!”.
Tháng 1-1969, ngay trước khi nhậm chức tổng thống, Nixon đã muốn chấm dứt tình trạng cô lập bằng cách bổ nhiệm Henry Kissinger làm cố vấn an ninh quốc gia. Sáu tuần sau, ông đi thăm nhiều nước châu Âu. Đến Trung Quốc, ngay từ đầu, đã là một trong các mục tiêu chính yếu. Như ông nói, “đưa Trung Quốc vào lòng cộng đồng quốc tế không phải với tư cách một trung tâm cách mạng của thế giới, mà như một cường quốc tiến bộ”.
Đúng là tình thế đã thay đổi. Trong Thế chiến thứ hai, Hoa Kỳ đã từng hỗ trợ TQ chống Nhật. Nhưng, vì là đồng minh trung thành của Quốc dân đảng, Hoa Kỳ đã không công nhận nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, khi Mao Trạch Đông chiến thắng vào năm 1949 và Tưởng Giới Thạch phải chạy ra Đài Loan. Tệ hơn nữa: trong cuộc xung đột vũ trang đầu tiên của cuộc chiến tranh lạnh, vốn đã làm chết hơn 1 triệu người, lính Mỹ và TQ đã đối đầu nhau trên lãnh thổ Triều Tiên. Bão tố đã nổi lên trong quan hệ song phương của hai nước. Những khẩu hiệu chống đế quốc Mỹ tràn ngập trên tường của các thành phố TQ, trong lúc Đài Loan vẫn nhận được sự hỗ trợ của Washington...
Khi Mao phát động cuộc cách mạng văn hóa, TQ lại càng tự cô lập hơn nữa. Mối quan hệ càng tồi tệ hơn khi Mỹ đánh bom Việt Nam. Nhưng, năm 1969, tình thế đã không còn hoàn toàn giống như cũ. Mao biết rõ đất nước mình đang bị cô lập, thậm chí bị đe dọa. Bởi vì những cuộc đụng độ liên tục xảy ra với “người anh vĩ đại” Liên Xô ở biên giới phía Bắc. Đỉnh điểm là cuộc xung đột ác liệt tại hòn đảo Chen-Pao (mà phía Liên Xô gọi là Damansky) trên sông Oussouri vào tháng ba. Mối lo sợ bị sức mạnh tên lửa của Liên Xô tấn công ngay vào ngày Quốc khánh 1-10-1969 lan truyền trong hàng ngũ các lãnh đạo chóp bu TQ.
Bên kia bờ Thái Bình Dương, Nixon muốn bằng mọi giá tìm một giải pháp cho cuộc xung đột Việt Nam vốn đã quá tốn kém và đã làm hoen ố hình ảnh của nước Mỹ, cũng như mang lại mỗi ngày những làn sóng thương vong và những cuộc biểu tình phản đối. Liên Xô đã nhiều lần từ chối dùng ảnh hưởng của mình giúp Mỹ tìm một lối thoát danh dự. Còn nếu như TQ chịu hợp tác hơn thì sao?
Khi một cân bằng thế giới mới dường như đang hình thành, hai kẻ thù ngày hôm qua còn phải bỏ ra ba năm mới có được một cuộc hội ngộ. Để bắt đầu, Nixon phải thuyết phục... Kissinger. Bộ ngoại giao đứng ngoài cuộc: do quá quan liêu, bộ ngoại giao đánh bài rút dù, còn Nixon, vốn có tài đi đêm, lại tìm cách tránh né mọi tranh luận công khai trước khi loan báo chuyến công du của mình.
Pakistan làm trung gian....
Thoạt đầu, và trái với điều được ông ta xác nhận sau này, Kissinger tỏ ra rất hoài nghi. Ông ta tiết lộ với phụ tá, tướng Alexander Haig, vào năm 1969: “Tổng thống đã mất hết cảm giác thực tế. Ông ta bảo tôi biến điều huyễn hoặc này thành hiện thực”. Mấy tháng sau, ông lại ngả theo ông chủ của mình. Kissinger viết trong hồi ký:” Chúng ta đến Bắc Kinh không phải để đền tội về lỗi lầm của chúng ta về chính sách của chúng ta đối với TQ vào cuối những năm 1940, nhưng để tạo lập một sự cân bằng toàn cầu”.
Cuối những năm 1960, không cho Bộ trưởng Ngoại giao Williams Rogers biết, Nixon và Kissinger tìm cách tiếp cận qua trung gian. Tiếp xúc duy nhất giữa các nhà ngoại giao TQ và Mỹ hiện có lúc đó là qua con đường visas và trao đổi tù binh chiến tranh. Những việc này đã diễn ra tại Varsava, Ba Lan, nơi chính phủ Ba Lan dành cho họ một tòa lâu đài tuyệt đẹp.
Suốt mùa thu 1969, Nixon gửi đi thông tin đầu tiên: “Chúng tôi luôn khẳng định rõ rằng chúng tôi không có kẻ thù vĩnh cửu và chúng tôi đối xử với các nước khác, bắt đầu là Trung Hoa cộng sản, dựa vào các sự việc cùng hành động, chứ không dựa vào ý thức hệ”. Người ta đã nhận ra nhiều tín hiệu rụt rè nhằm giảm bớt căng thẳng. Đài VOA không còn gọi “Beiping” để chỉ thủ đô nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa giống như thường gọi ở Đài Loan mà là “Beijing” (Bắc Kinh) một cách nghiêm chỉnh. Nixon ra lệnh giảm rồi sau đó bãi bỏ những cuộc tuần tra của hải quân Hoa Kỳ tại eo biển Đài Loan. Tháng 7-1969, chính quyền Mỹ đơn giản hóa các thủ tục thương mại giữa hai nước và tạo dễ dàng cho các chuyến du lịch qua lại giữa hai nước. Thông tin gián tiếp chuyển qua trung gian Ba Lan, Campuchia và Pháp nói rằng Washington sẵn sàng bắt đầu cuộc đối thoại.
Nhưng chính qua trung gian Pakistan và tướng Yahya Khan mà Nixon có thể tiếp cận mục tiêu trực tiếp hơn. Bắc Kinh tỏ ra sẵn sàng lắng nghe. Bởi thế, khi một chiếc du thuyền Mỹ bị bắt trong vùng biển TQ, người trên thuyền đã được thả ra nhanh chóng, không bị kết án như từng diễn ra trong quá khứ, là điệp viên CIA. Đích thân Chu Ân Lai đã thu xếp chuyện này.
Mùa thu năm 1969, Nixon và Kissinger quyết định tăng tốc. Đại sứ Mỹ tại Varsava Walter Stoessel được yêu cầu bí mật tiếp xúc với các nhà ngoại giao TQ vào ngày 3-12 trong một cuộc biểu diễn thời trang do Nam Tư tổ chức. Ngày 20-1-1970, Stoessel thông báo với các đối tác rằng Hoa Kỳ sẵn sàng gửi một sứ giả cao cấp đến Bắc Kinh.
TTCT - Nhưng, vào tháng 3, Lon Nol - người của Mỹ tại Cambodge - lật đổ chính phủ của ông hoàng Sihanouk. Thế mà ông này lại là người được Trung Quốc hậu thuẫn. Quan hệ lại trở nên nguội lạnh. Nỗ lực của những tháng qua đã trở nên vô ích? Tuy nhiên, một vài dấu hiệu tích cực cho thấy chưa mất hẳn hy vọng: Trung Quốc thả một giáo sĩ người Mỹ bị cầm tù suốt nhiều năm liền, Hoa Kỳ không ngăn cản Ý xuất khẩu xe tải sang Trung Quốc.
Mùa hè 1970, cặp Kissinger-Nixon thay đổi chiến thuật. Họ quyết định tạo đường dây liên lạc riêng nằm ngoài Bộ ngoại giao và bắt đầu những cuộc thương lượng bí mật. Tùy viên quân sự Mỹ tại Paris, tướng Vernol Walters chuyển thông tin cho tòa đại sứ Trung Quốc. Không nhận được trả lời tức khắc, nhưng Nixon và Kissinger lại có thêm một ý tưởng khác: sử dụng trở lại kênh Pakistan. Cách này chậm và phức tạp - không sử dụng điện thoại hay vô tuyến vì sợ bị nghe lén -nhưng lại tỏ ra hiệu quả.
Khi Nixon muốn gởi một thông tin cho Bắc Kinh, ông đánh máy trên một tờ giấy thường, không ký tên, và giao cho Agha Hilaly, đại sứ Pakistan tại Washington để chuyển giao cho tướng Yahya Khan... Ông tướng này lại gọi cho đại sứ Trung Quốc để... đọc cho nghe! Địa chỉ cuối cùng: Mao và Chu Ân Lai. Thư trả lời cũng đến cùng cách đó. Ngày 1-10-1970 Mao lại bí mật gởi một tín hiệu đến Hoa Kỳ: mời ông bạn cũ, nhà báo Mỹ Edgar Snow, tham dự lễ Quốc khánh Trung Quốc. Và nhắn qua ông này:” Tôi sẵn sàng đối thoại với[ Nixon ], nếu ông ta sẵn sàng đến. Không cần biết thương lượng thành công hay thất bại, chúng ta có nói chuyện hay không, ông ta hãy đến như một du khách hoặc như một tổng thống”.
Cùng tháng này, sau khi gặp Nixon, Yahya đi tìm Chu Ân Lai và trực tiếp chuyển đến thông tin mở ngỏ tương tự. Câu trả lời đến vào tháng 12: TQ sẵn sàng nói chuyện rút quân Mỹ ra khỏi Đài Loan. Một câu trả lời khô khan và đáng thất vọng. Nhưng Nixon đã nhìn thấy ở đó một điều khích lệ. Ông ta trả lời:” Cuộc gặp gỡ tại Bắc Kinh không chỉ giới hạn ở vấn đề Đài Loan, mà còn bao gồm nhiều đề mục khác, nhằm cải thiện mối quan hệ và giảm bớt căng thẳng”. Không có câu trả lời suốt nhiều tháng dài...
Kissinger bay đêm...
Ngày 15-3-1971, Hoa Kỳ cho phép công dân nước mình du lịch sang Trung Quốc. Ngày 6-4, chính phủ Trung Quốc làm một động tác chưa từng thấy: mời đội tuyển bóng bàn Mỹ tham gia giải vô địch thế giới tại Nhật Bản. Lời mời đến từ chính Mao. 3 tuần sau, qua trung gian Pakistan, Trung Quốc cho biết sẵn sàng mở cuộc thảo luận, dù rằng rút quân khỏi Đài Loan vẫn là yêu cầu hàng đầu của mình. Nixon ngần ngại: có cần gởi Kissinger đến?
Đại sứ Mỹ tại Pakistan, Joseph Farland được khẩn cấp triệu hồi về California, đến một căn nhà tại Palm Springs. Ông không được quyền nói, cũng không biết tại sao. Khi gặp mặt, Kissinger chỉ nói:” Tôi muốn ông dẫn tôi sang Trung Quốc”. Thoạt tiên Farland tưởng nói đùa, nhưng rõ ràng: Kissinger chưa bao giờ nghiêm chỉnh hơn thế. Hai người lập ra một kế hoạch bí mật, mang một bí danh mỹ miều:” Polo One”.
Ngày 1-7, Kissinger bay một chuyến dài sang châu Á. Chương trình làm việc: vô số những cuộc gặp gỡ, để ru ngủ các nhà báo. Ngày 8-7, ông có mặt ở Rawalpindi, Pakistan. Ông thường xuyên than vãn đau bao tử. Nhưng hiếm người chú ý ông ta vẫn ăn... như trâu! Yahya Khan mời người bệnh dỏm này đến nghỉ ngơi tại dinh tổng thống. Thức dậy lúc 3 giờ 30 sáng, Kissinger đội mũ trùm đầu, mang mắt kính đen và leo lên chiếc xe hơi nhỏ màu xanh do chính ông Bộ trưởng ngoại giao Pakistan lái.
Một chiếc máy bay dân sự của hãng Pakistan International Airlines chờ đợi ông ở cuối phi đạo, động cơ đang nổ sẵn. Bên trong, các quan chức Trung Quốc và Nancy Tang, thông dịch viên của Mao, đón tiếp Kissinger và những người đi theo. Mấy giờ sau, máy bay đáp xuống một phi trường quân sự Bắc Kinh. Kissinger tức tốc được đưa đến Điếu Ngư Đài và nói chuyện rất lâu với Chu An Lai. Trọng tâm cuộc nói chuyện: vấn đề Đài Loan và Việt Nam, nhưng cũng nói đến các nghi thức cho một chuyến đi của Nixon. Không bên nào tỏ ra là kẻ muốn đòi hỏi quá nhiều.
Ngày 13-7, Kissinger quay trở về California. Không ai biết ông ta đã đi Bắc Kinh. Sáng hôm sau, lúc 17 giờ 45', Nixon vén màn bí mật. Nhân dân Mỹ kinh ngạc khi nghe Nixon nói mình sắp sang Trung Quốc:” Một chuyến đi vì hòa bình, hòa bình không chỉ cho thế hệ chúng ta mà còn cho các thế hệ tương lai trên trái đất này nữa mà chúng ta đang cùng chia sẻ”.
Tháng 10, Kissinger quay trở lại Bắc Kinh, lần này chính thức, để vạch chi tiết cho chuyến viếng thăm của tổng thống Mỹ. Chi tiết ra sao? Ông sẽ đi trên một chiếc Limousine bọc thép của Mỹ hay một chiếc xe của Trung Quốc?
Cho đến cuối cùng, vấn đề Đài Loan vẫn là cản trở chính dù rằng, từ ngày 26-20, nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đã được công nhận là đại biểu hợp pháp của TQ tại LHQ.
Tháng giêng 1972, phụ tá của Kissinger, tướng Alexandre Haig, đến TQ lần nữa cho những chuẩn bị cuối cùng. Ông gặp một vài trục trặc có lẽ do các phần tử quá khích, chống lại chính sách mở cửa của Mao gây ra. Nhưng Người cầm lái vĩ đại, mặc dù đang mắc bệnh, vẫn không bỏ cuộc. Sự cô lập của đất nước làm cho ông lo lắng. 4 cựu chiến binh của cuộc Cách mạng, được ông giao nhiệm vụ nghiên cứu vấn đề “một cách hoàn toàn độc lập” đã đề nghị sử dụng lá bài Mỹ đối phó với Moscow, dù rằng Hoa Kỳ vẫn còn là một tên đế quốc nguy hiểm. Như vậy cuộc hội ngộ sẽ diễn ra.
“Tôi chỉ nói về các vấn đề triết học”
Đèn flash chớp liên hồi. Nixon và Mao ngồi, Chu và Kissinger bên cạnh. Mao nói một cách khó khăn, bằng giọng Hồ Nam không sao mất đi được. Cuộc nói chuyện kéo dài một giờ. Ông nói:” Tôi đã bầu cho ông trong cuộc bầu cử của các ông. Tôi thích người cánh hữu”. Khi Nixon muốn lái đề tài sang các vấn đề chính trị, như mối quan hệ Trung-Xô, vị khách của ông đã tránh né ngay:” Chuyện này không nên nói ở đây. Phải nói với Thủ tướng. Tôi chỉ muốn bàn về triết học thôi. Đài Loan? Việt Nam? Triều Tiên? “Tôi không muốn chen vào những chuyện rắc rối đó”.
Trước khi từ biệt, Nixon chân thành cam kết:” Ngài sẽ thấy tôi không nói cái gì mà tôi không thể làm được”. Ngay sau khi chia tay, cả hai đều nói cảm tưởng của mình với những người đi theo. Mao thấy Nixon thẳng thắng hơn tất cả những người cánh tả, vốn chẳng bao giờ nói thật ra điều mình suy nghĩ. Nixon rất ấn tượng về nét uy phong của Mao, nhắc ông ta nhớ đến De Gaulle.
Sau cuộc gặp từng mong đợi từ quá lâu, giờ đến lúc tranh luận và mặc cả. Kéo dài suốt cả một tuần. Tối 22-02, đại tiệc chiêu đãi phía Mỹ được tổ chức tại Đại sảnh đường nhân dân. Chỗ ngồi được chỉ định bằng những tấm thẻ ngà có khắc tên từng người, và đũa cũng được khắc tên. Một giàn nhạc chơi các bài ca Cách mạng và những tác phẩm cổ điển của Mỹ. Các món ăn được dọn lên: vịt, tôm, gà, vi cá mập, cá chép, dứa...Chỉ vào gói thuốc lá có in hình hai con gấu trúc, Chu ân Lai nói với bà Pat Nixon:” Chúng tôi sẽ tặng cho các vị hai con gấu trúc”. Đệ nhất phu nhân Hoa kỳ không dằn được tiếng kêu vui sướng. Đổi lại Hoa kỳ tặng hai con bò mộng và hai cây cù tùng California, mà việc chuyên chở cực kỳ không đơn giản....
Trước khi đến TQ, đoàn tùy tùng của Nixon đã nhận được một cảnh báo: chớ có uống quá nhiều rượu Mao đài, vì nồng độ lên đến trên 50o. Nhưng không thể nào tránh né được. Giữa bữa tiệc, Chu nâng cốc chúc mừng cuộc hội ngộ đầu tiên, không cần biết những khác biệt giữa hai nước. Nixon đáp trả bằng cách đưa ly rượu về phía Mao, vốn chẳng bao giờ rời ghế trong các dịp tương tự, để chúc mừng tình hữu nghị Trung-Mỹ. Ong ta còn đọc lên mấy câu thơ của Người cầm lái vĩ đại. Giàn nhạc chơi bài Nước Mỹ đẹp xinh do Chu chọn. bài hát đã được cử trong lễ nhậm chức của Nixon.
“Một tuần làm thay đổi thế giới“
Sáng hôm sau, tổng thống Mỹ tỉnh giấc ở Điếu ngư đài. Ông vẫn còn rất vui sướng: những món ăn của buổi tiệc hôm trứơc rất tuyệt diệu và nhất là ai ai cũng trầm trồ khen ngợi... tài cầm đũa của mình! Suốt một tuần, Nixon và Kissinger gặp Chu ân Lai nhiều lần, để bàn về các vấn đề chiến lược, trong lúc Bộ trưởng ngọai giao Rogers cùng đối tác phía TQ bàn những chuyện kém quan trọng hơn vào lúc đó là thương mại và trao đổi.
Trước cuộc họp, Nixon ghi trong sổ tay các ý tưởng chính:
“Cái mà họ muốn: 1/ Củng cố niềm tin quốc tế của mình; 2/ Đài Loan; 3/ Đuổi Mỹ khỏi châu Á.
Cái mà chúng ta muốn: 1/ Đông dương (?); 2/ Truyền thông - Hạn chế ảnh hưởng của TQ tại châu Á; 3/ Tương lai: giảm đối đầu với siêu cường TQ.
Cái mà cả hai cùng muốn:1/ Giảm nguy cơ đối đầu và xung đột; 2/ Một châu Á ổn định hơn; 3/ Hạn chế thế lực Liên Xô.
Trong cuộc họp dài vào ngày thứ tư, 23-02, Kissinger tặng cho TQ một món quà bất ngờ: một số thông tin mật về khả năng quân sự của LX! Tình hình các bệ phóng, tầm xa, tốc độ, công suất... gần như toàn bộ đều rơi vào tay giới quân sự TQ. Kissinger nhấn mạnh rằng nếu các vũ khì này đang chĩ a về hướng Hoa Kỳ thì cũng không có gì ngăn cản chúng nhắm về phía TQ... Chưa hết: Kissinger báo cho TQ diễn tiến các thương lượng Xô-Mỹ và nhất là một hiệp ước có thể được ký kết về vũ khí chiến lược (SALT).
Cùng ngày, Nixon gặp riêng Chu Ân Lai lần thứ nhì và ghi trong nhật ký: “Đài Loan-Việt Nam = thỏa hiệp. 1/ Nước các ông đang chờ một động tác về Đài Loan. 2/ Nước chúng tôi đang chờ một động tác về Việt Nam. Không vấn đề nào có thể hành động tức khắc, nhưng cả hai đều không thể tránh né được. Đừng làm cuộc sống của chúng ta phức tạp thêm”.
Tuy nhiên, TQ không thể, cũng không muốn can thiệp với đồng minh Việt nam của mình - đó là môt dân tộc tự do - Và nếu người Mỹ có thể rút khỏi Đài Loan dần dần thì họ lại không thể phản bội Hiệp ướp phòng thủ ký kết với đảo quốc này.
Hôm trước, Nixon và phu nhân đã tham gia một vở nhạc kịch Cách mạng do người vợ thứ 4 và cuối cùng của Mao là bà Giang Thanh sáng tác. Bà nổi tiếng là người nhiều mánh khóe trong giới chóp bu Trung Quốc. Thứ tư, họ đi xem biểu diễn bóng bàn và thể thao. Sáng thứ năm, dù ghét du lịch, Nixon không thể từ chối đi thăm Vạn Lý trường thành. Cảm tưởng của ông:” Người ta chỉ có thể kết luận rằng bức tường này đã được một dân tộc vĩ đại xây dựng”. Ngày thứ sáu, đi thăm lăng mộ các hòang đế nhà Minh và Tử cấm thành. Mất gần một tiếng rưỡi đồng hồ. Mệt mỏi, buổi tiệc vào chiều tối hôm ấy do người Mỹ tổ chức đã thiếu hào hứng.
Thứ bảy, 26, phái đoàn Mỹ rời Bắc Knh đi Hàng Châu, một trong những thành phố đẹp nhất nước, bằng máy bay TQ. Thông cáo chung phải được công bố sau một chuyến đi của tổng thống vẫn chưa hoàn tất. Trong lúc các cuộc thảo luận vẫn tiếp tục về vấn đề Đài Loan, Nixon được ăn cá chép hồ của Hàng Châu. Ong kêu lên:” Tôi chưa bao giờ nhìn thấy những con cá đỏ to đến như thế! “Sáng 27, chỉ trước khi quay lại Thượng Hải ông mới chấp thuận những chi tiết cuối cùng cho bản thông cáo chung. Mao cũng thế.
Tối hôm đó, có lẽ trong hơi men của rượu Mao đài, Nixon tuyên bố: “Tuần lễ này đã làm thay đổi thế giới!”. Sáng thứ hai, sau lần gặp cuối cùng với Chu Ân Lai, ông leo lên chiếc Air Force One. Nhắm hướng Washington, nơi công chúng đang nhiệt liệt chào đón ông.
Một bước tiến nhảy vọt?
Tuần lễ này có thực sự làm hay đổi thế giới? Có và không. Thông cáo chung mà hai bên đã mất bao công sức để soạn thảo là một văn kiện nước đôi, mơ hồ và sáo rỗng với một thứ ngôn ngữ ngọai giao che đậy các định kiến đối kháng nhau. Các lập trường được trình bày riêng rẽ, một dấu hiệu cho thấy họ đã không thể hòa hợp với nhau được. Chẵng hạn:” Hoa kỳ ủng hộ tự do cá nhân và tiến bộ xã hội cho mọi dân tộc trên thế giới, được giải phóng khỏi mọi can thiệp hay áp bức từ bên ngòai” trong khi TQ lại khẳng định:” Các quốc gia muốn có độc lập, các dân tộc muốn có tự do, nhân dân muốn có Cách mạng. Đó là xu thế không thể đảo ngược của Lịch sử”.
Tuy nhiên, các kẻ thù ngày hôm qua lại đồng tình muốn bình thường hóa quan hệ để “giảm nguy cơ một cuộc chiến tranh thế giới”, lại muốn chống lại mọi mưu toan bá quyền trong vùng Châu Á-Thái Bình Dương. Hai vấn đề cốt lõi: Đài loan và Việt Nam, vẫn còn bỏ lửng! TQ vẫn tiếp tục ủng hộ nhân dân VN, còn Hoa kỳ sẽ cam kết rút dần dần khỏi Đài Loan mà không đề vập gì đến Hiệp ước phòng thủ ký kết với Tưởng Giới Thạch.
Nhưng, nói cho cùng liệu người ta có thể chờ đợi gì từ một tuần lễ thương thảo sau bao năm tháng im lặng ngay giữa thời kỳ chiến tranh lạnh? Chỉ mỗi việc Mao và Nixon chịu ngồi lại nói chuyện với nhau cũng đã đủ đảo lộn thế cân bằng địa- chiến lược thế giới. Trước sự xích lại gần nhau này, LX đột nhiên tỏ ra sẵn sàng hơn trong thương thuyết. Ngay khi về đến nhà, Kissinger đã gọi cho đại sứ LX Anatoly Dobrynin để trấn an ông ta rằng: Hoa kỳ vẫn luôn muốn cải thiện quan hệ với LX, và rằng chuyến đi TQ của Nixon không “nhắm vào nước thứ ba”. Trong vùng Thái Bình Dương, bị sốc nhất là các đồng minh của Hoa Kỳ: Nhật Bản và nhất là Đài Loan, cảm thấy bị bỏ rơi.
Cuối tháng 3-1972, Bắc Việt tấn công miền Nam. Nhưng khi Hoa kỳ ném bom Hải Phòng rồi Hà Nộiă, TQ chỉ phản đối chioếu lệ mà không hành động gì! Tháng 5-1972, Nixon đến Moscow để ký hiệp ước SALT 1. Tháng 1-1973, chiến tranh Việt Nam kết thúc trên lý thuyết... Tháng 9, Henry Kissinger được bổ nhiệm làm Bộ trưởng ngọai giao Hoa Kỳ. Kissinger và ông Lê Đức Thọ được trao giải Nobel hòa bình, nhưng ông này đã từ chối. Năm 1975, Bắc Việt tổng tấn công và thống nhất hai miền.
Năm 1974, vũ bê bối Watergate buộc Nixon phải từ chức, chẳng có gì thực sự thay đổi, nhưng thế giới lưỡng cực không còn nữa. Sau này, vào năm 1993, nhân chuyến thăm TQ cuối cùng, Nixon đã nói: “Tên của tôi gắn liền trong Lịch sử vào hai sự kiện: Watergate và mở cửa TQ. Tôi không muốn tỏ ra bi quan, nhưng Watergate, một vụ ngu xuẩn, rồi đây sẽ được so sánh với việc tôi đã làm ở đó”.
Năm 1994, Nixon qua đời, thọ 81 tuổi, sau khi bị đứt mạch máu não. Mao qua đời năm 1976 vì chứng bệnh Charcot. Chu ân Lai trước đó mấy tháng, cũng đã ra đi vì ung thư bàng quang. Henry Kissinger nay đã 84 tuổi. LX không còn nữa. TQ đang trên đường trở thành siêu cường... và vẫn không từ bỏ Đài Loan.
Nicolas Michel
ĐINH CÔNG THÀNH dịch
(La Revue tháng 9-10-2007))