Đăng trên báo điện tử Người Lao Động ngày 03-08-2008 03:03:43 GMT +7
Trời mưa dầm dề, mấy giọt mưa nặng hột rơi xối xả xuống mái chòi của Bảy Phú. Ngồi trên bộ vạt nhìn màu trắng che kín đất trời tự nhiên Bảy Phú thấy lạnh. Chả chép miệng: “Kệ, mưa vầy khỏi phải tưới mấy cây cà pháo mới xuống giống.
Lát nữa chỉ sửa cây và vun gốc lại thôi”. Buồn tình, Bảy Phú nhảy xuống bếp nấu miếng nước sôi để uống. Lò chỉ có một cái, nhờ mấy vỏ mì gói để nhúm lửa. Cây tạp, chà tre cháy rất nhanh. Lửa bùng lên một lát, nước sôi. Chắt ra chén, húp từ từ, khói phả nóng hừng làm ấm lòng.
Cái ấm nhôm còn lại chắc cũng sẽ đi thôi. Lúc Bảy Phú đi chợ để cân đồ rẫy, bọn đệ tử của “thế giới trắng” đã đến viếng nhà. Chúng rất lịch sự, không bao giờ từ chối món nào nếu bán được. Cái xoong nấu cơm, cuộn dây đồng để câu điện không cánh mà bay. Cái ấm còn vì để ngoài rẫy, bọn chúng chưa thấy. Có lẽ bọn chúng rồi giúp mình trở về thời đồ đất. Quạu quá, Bảy Phú ra chỗ bán đồ gốm mua một cái om đất. Mẫu mã đẹp, chỗ ẹo còn có hoa văn con cá nữa. Nồi đất coi tụi bay còn “chôm” không? Ngoài ra căn chòi chẳng còn gì để bán nữa. Cái chiếu rách te tua, cái mền cũ, cái mùng vá chùm vá đụp, có chỗ buộc túm lại bằng dây ni lông. Quần áo thì chỉ độc nhất cái áo kaki để đi rẫy, mấy cái quần cụt treo trên vách. Bộ đồ sạch sẽ xếp lại dằn dưới chiếu. Có bữa Bảy Phú điên tiết lên. Cái lưới để giăng cá ăn mà nó cũng cuỗm mất. Bọn bất nhân!
Ngó ra ngoài sân, mớ cà mới cắt để chiều đem giao còn nằm chườn ườn. Hết mưa mới đi được. Mua miếng ba rọi về kho ăn đỡ vài bữa. Còn phải mua thêm cái ơ đất để chiều nay kho cá nữa. Bảy Phú nhắm chừng mớ cà chắc cũng trên dưới 25.000. Tạnh mưa đi gấp rồi về tính tiếp đám cà pháo.
Cân cà xong, Bảy Phú ghé quán cà phê quen, nhâm nhi ly cà phê nóng, mua vài thứ rồi về: Một cái ơ, miếng ba rọi, vài cọng hành. Cũng tạm xong một bữa.
Lát sau đã thấy hắn xách dao đi dọc liếp cà pháo mới trồng. Cũng may, cây cứng nên không ngã, chỉ sửa mấy cây nghiêng nghiêng thôi. Gốc cũng không bị sạt bao nhiêu. Chiều không phải tưới, chỉ vãi phân cho đám xà lách. Ba bữa nữa là tới kỳ nhổ rồi đây. Mấy lá xà lách bóng lưỡng xệ xuống trông thấy phát thèm.
Bảy Phú trồng đủ thứ, cái một ít, đủ bán sống qua ngày. Không vốn nên chỉ trồng mấy món tạp nhạp: rau om, rau răm, rau tần dày lá, ngò gai... chỉ có xà lách, ngò rí và ớt là phải xịt thuốc trừ sâu và chăm sóc kỹ hơn. Nhưng loại đó trồng ít, đủ bán thôi, tiền đâu mà mua thuốc xịt sâu cho xuể.
Trước Bảy Phú đi vác lúa ở nhà máy. Lúc ba má mất được chia gần năm công ruộng. Đang có tiền, hắn mướn đào mương, xẻ liếp trồng các loại mau ăn như ổi tám tháng, đu đủ, chuối... chỉ chừa ba công làm rẫy. Cũng học người ta, từ từ mới quen được nghề mới. Đu đủ lúc đầu trồng đất mới tốt mịt, lá xòe ra xanh um. Nhưng năm đó nước dâng cao, ngập úng, cây đu đủ vàng lá thúi rễ, tiêu ráo trọi. Còn phải chọn giống nữa, giống nào tiêu thụ nhanh mới không bị ép giá. Ruột vừa đẹp, trái không to lắm thường được ưa chuộng nhiều hơn.
Bảy Phú trở về căn chòi trống vắng, ngả lưng trên chiếc chiếu nát, gối là những chiếc áo rách cuộn lại. Mền cũng là một chiếc áo khác đắp ngang ngực, cũng xong. Chòi không cửa, dụng cụ làm rẫy để dưới sàn, có khi bỏ đại ngoài rẫy. Nhìn căn chòi, qua khói thuốc, Bảy Phú nghĩ tới vợ con. Làm không đủ sống, thím Bảy phải về quê ngoại ngoài chợ Cả Đài bán hủ tiếu nuôi con. Giá bình dân nên khách cũng khá. Còn hai đứa nhỏ đi học. Đôi lúc trúng mùa rẫy Bảy Phú ra thăm vợ con, tiện gởi cho tụi nó vài ngàn ăn bánh. Thằng Cường, con trai lớn đã đi phụ hồ nên có tiền riêng. Tội nghiệp thằng nhỏ ! Nhà cơ cực nên vừa lên cấp ba không có tiền đóng học phí nó đã đi theo chú Ba nó phụ hồ. Có lẽ giờ vững tay nghề, lên thợ chính được rồi...
* * *
Cứ gieo, tưới, làm cỏ, xịt sâu, đời Bảy Phú tưởng như êm xuôi. Bỗng nhiên, có ông khách lạ đi với Năm Còi ngồi ở chòi đợi Bảy Phú. Chòi chật chội nên hắn mời lại nhà thằng em Út nói chuyện. Thay cái áo và quần sạch sẽ Bảy Phú đưa ông khách và Năm Còi vô nhà. Uống trà, mồi thuốc xong, ông khách nhờ anh Năm mở đầu:
- Anh Bảy à, anh Tư đây là bạn dì với tôi, ở thành phố. Bây giờ mở quốc lộ ổng muốn kiếm miếng đất để cất nhà dưỡng già. Tôi nghĩ tới anh nên...
Ông khách tiếp lời:
- Nghe nói chú còn khá đất, tôi tính xin chia một công để cất nhà và trồng chút đỉnh cây trái.
Thật đột ngột, Bảy Phú ngần ngừ:
- Anh Tư à, chuyện này tôi chưa tính tới, tôi muốn bàn với vợ con xem sao!
Ông khách có vẻ hy vọng:
- Thôi, anh cứ tính đi, tuần sau tôi ghé lại..
* * *
Đồ rẫy bán còn dư chút ít, tối Bảy Phú tuôn về Cả Đài - nhà của bên vợ. Nói là nhà cho ra vẻ chớ chỉ là cái chái lá ở đậu với bà ngoại, tuy vậy cũng sạch sẽ, tươm tất, cũng có hàng rào trước cửa. Thiếm Bảy đương o bế nồi xúp để bán sáng hôm sau. Đợi vợ xong việc rồi Bảy Phú mới khều nhẹ vợ:
- Đất trong đó người ta đề nghị mua một công, bán hay không?
- Bán một công thì được, bán hết còn đất đâu để làm.
- Chỉ một công thôi ! Còn mấy công dư sức làm rồi.
- Thì ông tính sao cho được. Giấy tờ xong phải chồng tiền liền, nhớ lấy tiền cọc trước.
- Được, để tôi lo.
Vợ đồng ý nhưng còn thằng nhỏ. Chưa kịp hỏi thì nó đã nghỉ làm về tới. Lúc về còn dẫn theo một cô gái. Nó chạy ra chòi tìm Bảy Phú. Thằng nhỏ giờ coi lớn bộn, gì thì nó cũng hai mươi mấy tuổi rồi.
- Nghỉ hả, về chơi hay có việc gì?
- Về thăm ba, luôn tiện cho coi mắt!
- Cái gì coi mắt, ai, ở đâu?
- Dạ... cổ tên Liên, đang ở nhà chú Út. Ba thay đồ rồi đi với con.
Con nhỏ coi cũng vừa mắt, có điều con mắt có vẻ dữ. Con này rồi sẽ quản thằng Cường chặt chẽ đây.
Xế chiều, sau khi đưa cô bạn gái ra xe, thằng Cường trở lại. Nó xin cưới trong bốn tháng nữa, má nó cũng thuận rồi. Nhưng vấn đề là tiền đâu?
Đi dọ giá đất, bàn với vợ con xong nên khi ông Tư trở lại Bảy Phú ra giá 300 triệu. Cò kè bớt tới bớt lui dứt giá 270 triệu, tiền cọc đặt trước 70 triệu, giấy biên nhận tạm có hai nhân chứng kế cận và chính quyền xã chứng nhận. Có tiền rồi làm đám cưới cho thằng nhỏ mấy hồi. Còn phải sửa sang lại cái chái nhà ngoài chợ cho đàng hoàng, lên căn gác cho cặp vợ chồng mới. Cái chòi của Bảy Phú cũng cất thành căn nhà nhỏ, cửa nẻo chắc chắn một chút. Đám cưới đãi nhà hàng cho gọn, mời ít bà con thân thuộc và chòm xóm là đủ.
Ông Tư chọn phía đất đang trồng đu đủ, đo đạc cắm cọc khi làm xong giấy tờ. Ông bảo sẽ làm chủ quyền đất sau. Bảy Phú cũng nhẹ người vì gặp người thiệt tình.
Căn nhà ngoài chợ thằng Cường và đám bạn nó làm tuần lễ là xong. Nhà khang trang, lợp tôn, lên gác. Hai đứa nhỏ sắm xe đạp và quần áo mới. Cả nhà hỉ hả, có tiền thì con người phải khác chớ. Chỉ có Bảy Phú lại về tiếp tục nghề cũ: tỉa, trồng, tưới, bón...
Đám cưới thằng Cường tổ chức trước dự tính một tháng vì coi được ngày tốt. Tiệc cưới thiệt rộn ràng, vui vẻ. Con dâu sau này sẽ tiếp tục nghề bán cá của má nó. Bảy Phú sẽ xuất tiền sang một sạp cá ở chợ Cả Đài cho nó bán gần nhà, chắc rồi sống được.
Có nhà cửa chắc chắn rồi, Bảy Phú bắt đầu sắm lại nồi niêu mới, thêm cái bếp ga để khỏi phải chụm củi mót nữa. Còn cái om đất? Tính sao đây? Cái om nấu cơm cho dề cơm cháy giòn rụm, chan mỡ hành ngon tuyệt diệu. Rắc thêm ít nước mắm chanh ớt thật quá ngon. Nửa muốn giữ lại làm kỷ niệm, nửa muốn bỏ đi...
Bảy Phú kiếm ba khúc tầm vông đóng chéo để gác cái om lên bên hè nhà. Gom mớ phân cỏ, lục bình, phân bò trộn chung để trồng hành. Cây hành độ 10 ngày sau bén rễ, tốt mịt mù. Nó búng con tràn đầy miệng om, cọng to, lá dài xanh óng, phía trên điểm một lớp phấn trắng thật dễ thương. Thấy tốt, Bảy Phú tính để làm kiểng, không nở tuốt cọng kho cá. Sau thấy nhiều quá nên rón rén tước vài bẹ. Ngày tưới nước, ngắm nó, ngó về khoảng đời cực khổ và lo toan cũ Bảy Phú không khỏi xót xa. Nhìn mảnh đất còn lại, Bảy Phú thầm nhủ “Tấc đất, tấc vàng”, chịu khó mần ăn cho hết hơi hết sức mới phải. Ông bà xưa dạy: “Đất sanh ra người, con người đừng hủy hoại đất. Người sẽ chết, nhưng đất vẫn sống, vẫn sinh sôi, vẫn tiết sữa nuôi con người. Và con người nằm trên đống vàng mà không biết. Bởi đất không có chưn cẳng nên chẳng chạy đi đâu, chỉ tại con người ăn ở với đất không trọn nghĩa, trọn tình...”.
Bảy Phú ngày trước có tật vui đâu trút đó. Làm ăn, trồng trọt gì cũng tùy hứng không nghĩ suy vậy mà không hiểu sao từ lúc bán đi công đất cha mẹ để lại để thoát khỏi nghèo túng, lại hay trầm ngâm, triết lý cũ xì như vậy. Mỗi khi đi ra, đi vô nhìn sang hàng cọc phân ranh đất mà ông Tư cắm lên, Bảy Phú vẫn bồi hồi, như có chút nắm níu, bịn rịn dù biết mình không còn cách giải quyết nào khác. Lại thêm từ khi nấu cơm, làm thức ăn bằng bếp ga, công việc có nhàn nhã hơn nhưng Bảy Phú cứ nhớ nhớ một điều gì. Mùi khói củi hăng nồng ư ? Hay dề cơm cháy ở đáy om đất giòn rụm mà hắn không được thưởng thức nữa? Hay có thể là mớ cá kho khô trong cái niêu nhỏ Bảy Phú đã bỏ xó sau vườn? Hình như là tất cả mà cũng hình như là không. Có lẽ chỉ có những cọng hành xanh mướt tốt mịt càng lúc càng ôm tròn cái om đất cũ kỹ kia là hiểu được lòng Bảy Phú. Có điều cái om đất không nói ra được, tiếc vậy thay!
Ta đăng truyện này ở đây vì ta muốn nói với các lão một điều: Giàu đó, nghèo đó, phù du cả thôi. Cái chính là phải sống vui vẻ. Ước mơ đơn giản nhưng khó lắm thay.