Một em đem bốn thư ở Thương điếm lại trường học và viên Hiệu trưởng cho mang lại nhà Umfundisi. Cả bốn bức thư đều gởi từ Johannesburg. Một bức của Absalom gởi cho vợ, một bức thì gởi cho cha mẹ; cả hai đều mang tiêu đề: Công vụ của Hoàng Đế[1] và địa chỉ khám lớn Pretoria. Bức thứ ba của Msimangu và bức thư tư của ông Carmichael. Kumalo mở bao thư cuối này mà lòng phập phồng lo ngại vì chính là bức thư của viên luật sư vì Thượng Đế mà lãnh biện hộ vụ đó, chắc là nói về việc được ân xá. Trong thư, viên luật sư dùng những lời rất nhã nhặn, thương xót cho hay rằng không được ân xá, và Absalom sẽ bị xử giảo ngày 15 tháng đó, Kumalo không đọc tiếp nữa và ngồi trơ trơ ra, cho tới một giờ, hai giờ không biết chừng. Ông không trông thấy gì, không nghe thấy gì nữa, cho tới khi bà vợ hỏi:
- Anh Stephen, phải tin đó không?
Ông gật đầu, bà nói:
- Đưa em coi.
Tay ông run run chìa bức thư ra, bà đọc xong rồi cũng ngồi ngó đăm đăm phía trước, cặp mắt đờ đẫn, coi ghê sợ, vì nó là đứa con bà mang nặng đẻ đau, cho bú cho mớm. Nhưng bà không ngồi lâu như ông; bà đứng dậy bảo:
- Ngồi không thế này không nên. Mình đọc hết mấy bức thư đi, rồi đi thăm em bé ở nhà Kusule và em gái Elizabeth đau ốm gì đó. Còn em, em phải làm việc nhà.
Ông bảo:
- Còn bức thư này nữa?
- Của nó?
- Của nó.
Ông chìa bức thư, bà ngồi xuống, kỹ lưỡng bóc ra đọc. Khoé mắt, nét mặt, cả trên bàn tay bà đều hiện lên nỗi đau khổ, ông không nhìn bà mà gục đầu xuống đất, nhưng mắt ông không nhìn đất, chẳng nhìn gì cả, và mặt ông thỏn ra, cũng có những nét đau khổ như trước kia, những nét mà ông trút được từ hồi về thung lũng này.
Thình lình bà gọi ông:
- Mình.
Ông ngửng lên nhìn.
- Đọc đi này, đọc cho xong đi. Rồi chúng mình đi làm công việc.
Ông cầm lấy bức thư để đọc. Bức thư ngắn đơn sơ, theo tục lệ viết bằng tiếng Zulu, trừ hàng đầu:
“ Thưa ba má.
“ Con mong rằng ba má cũng mạnh giỏi như con. Sáng nay người ta cho con hay rằng con không được ân xá. Thế là con không được gặp ba má nữa, không được thấy Ndotsheni nữa.
“ Chỗ này dễ chịu. Con bị giam, không ai được phép vô thăm con cả. Nhưng con được hút thuốc, đọc sách, viết thư; các người da trắng khi nói với con không có vẻ gì ác.
“ Có một vị mục sư da đen ở Pretoria lại chuẩn bị tinh thần cho con và âu yếm nói với con.
“ Không có tin gì khác nữa, nên con ngừng bút. Con nhớ tất cả bà con ở Ndotsheni và nếu con được trở về đó thì không bao giờ con rời nó nữa.
Con của ba má.
Absalom.
“ Cháu đã sanh chưa? Nếu nó là con trai, con muốn đặt tên nó là Peter. Có tin tức gì về vụ của Matthew và Johannes không? Con có ra toà làm chứng trong vụ xử đó, nhưng người ta không cho con ở lại xem kết thúc ra sao.
“ Thưa ba, ba đã lãnh số tiền trong sổ trương mục bưu điện của con chưa? ”.
- Thôi anh Stephen, chúng ta đi làm việc đi.
- Ừ, như vậy hơn. Nhưng còn bức thư của Msimangu anh chưa đọc. Và đây bức thư cho con dâu chúng mình nè.
- Em sẽ đưa cho nó. Mình đọc thư của mình đi đã. Và lát nữa mình có lại nhà Kusule không?
- Anh sẽ lại.
- Nhân tiện mình ghé Thương điếm được không? Có mệt cho mình quá không?
Ông nhìn qua cửa sổ, bảo:
- Coi kìa, có mây kìa.
Bà tiến lại đứng gần chồng, nhìn những đám mây nặng tụ lại ở phía bên kia thung lũng Umzikulu.
- Trời sắp mưa. Tại sao em lại muốn anh lại Thương điếm? Có việc gì cần lắm không?
- Không em có cần gì đâu. Nhưng em nghĩ nên lại Thương điếm nói với người da trắng ở đó rằng có thư từ thuộc về Công vụ Hoàng Đế gởi từ khám trung ương tới cho mình thì xin cứ giữ lại, mình sẽ tới lấy. Như vậy cũng nhục lắm rồi, còn cho thiên hạ biết làm chi nữa.
- Ừ, ừ, thế nào anh cũng lại dặn ông ta như vậy.
- Thôi, mình đọc thư đi.
Kumalo mở bức thư của Msimangu ra, đọc hết các tin tức về Johannesburg và ngạc nhiên thấy mình hơi nhớ nhớ châu thành cuồng loạn đó. Đọc xong ông bước ra ngoài nhìn mây, sau mấy tuần nắng chang chang, thấy mây thật là thích thú. Một vài đám mây đã trôi trên đầu ông, chiếu những bóng râm lớn xuống thung lũng; nó chầm chậm di chuyển đều đều lên sườn đồi, rồi tới đỉnh đồi, rồi thình lình trôi nhanh qua và biến mất. Không khí oi ả, ngộp thở: thế nào rồi sấm cũng sắp vang dội ở bên kia sông Umzikulu và hôm nay sẽ hết hạn hán, chắc chắn vậy.
Trong khi ông đứng đó thì thấy một chiếc xe hơi chạy từ Carisbrooke xuống thung lũng. Cảnh đó thật hiếm; chiếc xe chạy chậm vì con đường không phải dành cho xe hơi đi, mà cho xe bò, xe ngựa, và bò đi. Rồi ông thấy ở cách giáo đường không xa có một người da trắng ngồi yên trên lưng ngựa, có vẻ đợi chiếc xe hơi tới. Khi nhận ra người đó là Jarvis, lòng ông xúc động. Một người da trắng bước ra khỏi xe hơi, và ông ngạc nhiên hơn nữa, nhận ra ông này là viên Tỉnh trưởng, tức thì ông nhớ lại lời nói đùa đêm trước.
Jarvis xuống ngựa, bắt tay viên Tỉnh trưởng; mấy người da trắng nữa cũng ở trong xe bước ra, người thì cầm gậy, người thì cầm cờ. Ủa, ở từ phía kia, viên Tù trưởng đẫy đà, bận quần cụt, đội mũ nồi bằng da lông đương phi ngựa lại, chung quanh có nhóm cố vấn. Viên Tù trưởng chào viên Tỉnh trưởng, viên Tỉnh trưởng đáp lễ; viên Tù trưởng và mấy người kia cũng chào nhau nữa. Rồi họ đừng nói chuyện với nhau; rõ ràng là có chuyện gì nên họ hẹn nhau lại đó.
Họ đưa tay chỉ chỗ xa chỗ gần. Rồi một người cố vấn của Tù trưởng cưa một cây nhỏ có cành thẳng, chặt những cành này thành từng khúc đều nhau, vạt nhọn đầu, làm cho Kumalo càng chẳng hiểu gì cả. Mấy người da trắng lấy trên xe xuống nhiều gậy và nhiều cờ nữa, rồi một người dựng một cái hộp đặt trên một cái giá ba chân, như để chụp hình vậy. Jarvis cầm một bó gậy và một bó cờ; viên Tỉnh trưởng cởi áo ngoài ra vì nực quá, cũng lấy mỗi thứ một bó. Họ cũng chỉ trỏ mấy đám mây và Kumalo nghe Jarvis nói:
- Có mòi sắp mưa rồi đấy.
Viên Tù trưởng không chịu thua mấy người da trắng, cũng xuống ngựa, cũng cầm lấy mấy cây gậy, nhưng Kumalo thấy ông ta không hiểu rõ phải làm gì. Jarvis có vẻ là người điều khiển công việc, cắm một cây gậy xuống đất và viên Tù trưởng đưa một cây gậy cho một người cố vấn, nói với người này câu gì đó. Người này cũng cắm cây gậy xuống đất, nhưng người da trắng có cái thùng đặt trên giá ba chân, la lên:
- Không cắm ở đó, không cắm ở đó. Nhổ đi.
Viên cố vấn lưỡng lự không biết sao, rụt rè nhìn viên Tù trưởng; viên Tù trưởng quát:
- Không cắm ở đó, không cắm ở đó. Nhổ đi.
Rồi viên Tù trưởng lúng túng, lại càng không hiểu phải làm gì, lại leo lên lưng ngựa, ngồi trên đó, để các người da trắng cắm gậy.
Sau một giờ như vậy, cả một hàng gậy và cờ dựng lên. Kumalo vẫn đứng nhìn, mỗi lúc một thêm ngạc nhiên. Jarvis và viên Tỉnh trưởng đứng với nhau, vẫn đưa tay chỉ trỏ hết các ngọn đồi rồi tới thung lũng. Rồi họ nói gì với viên Tù trưởng và các cố vấn đứng bên cạnh nghiêm trang chăm chú nghe. Kumalo nghe thấy Jarvis nói với viên tỉnh trưởng:
- Lâu quá.
Viên Tỉnh trưởng nhún vai đáp:
- Như vậy đó.
Jarvis bảo:
- Tôi sẽ đi Pretoria, nếu không có gì trái ý ông?
Viên Tỉnh trưởng đáp:
- Không có gì trái ý tôi cả; có lẽ cách đó là cách tốt nhất để cho mau được việc.
Jarvis bảo:
- Tôi muốn hầu chuyện ông lâu nữa, nhưng nếu ông không sợ ướt thì nên về thôi. Con dông này không phải thường đâu.
Nhưng chính Jarvis lại không về vội. Ông chào viên Tỉnh trưởng, đi ngang qua các thửa ruộng trụi, vừa đi vừa đếm bước. Kumalo nghe thấy viên Tỉnh trưởng nói với một người da trắng:
- Người ta bảo rằng ông ấy hơi khùng khùng rồi; theo tôi thì chẳng bao lâu nữa gia tài ông ấy sẽ khánh tận.
Rồi viên Tỉnh trưởng bảo viên Tù trưởng:
- Ông coi chừng đừng cho ai động tới hoặc dời cây gậy nào đi.
Ông ta chào viên Tù trưởng rồi cùng leo lên xe với mấy người da trắng khác. Xe chạy trở lại lên đồi. Viên Tù trưởng bảo các cố vấn:
- Các thầy ra lệnh cấm không cho ai được động tới hoặc dời một cây gậy nào đi nhé.
Các cố vấn bèn leo lên ngựa mỗi người đi về một ngả, còn viên Tù trưởng đi ngang qua giáo đường. Kumalo chào, ông ta đáp lễ nhưng không ngừng lại để giảng về cái việc cắm gậy đó.
Jarvis đã nói đúng; con dông này không phải là cơn dông thường. Vòm trời trên thung lũng đã u ám, ghê sợ. Không còn những bóng mây trôi trên cánh đồng nữa vì trời đất đã tối sầm rồi. Ở phía bên kia sông Umzikulu, sấm gầm liên hồi và thỉnh thoảng chớp loé ra trên những ngọn đồi xa. Mọi người đều chờ đợi cảnh đó, cảnh mưa trút xuống. Đàn bà bước vội vã trên đường, và bỗng như ong vỡ tổ, trẻ em từ trong trường ùa ra; viên Hiệu trưởng và các cô giáo thúc chúng:
- Mau lên các con, mau lên, đừng thơ thẩn dọc đường nhé.
Cơn dông như vầy thật là một cảnh đáng coi. Một đám mây lớn, đen, nặng bay qua trên sông Umzikulu và Kumalo đứng nhìn nó một hồi. Từ đám mây đó sấm nổ, chớp loé làm sáng cả mặt đất. Gió bỗng nổi lên trong thung lũng Ndotsheni và bụi cát cuốn xoáy tít lên trên đồng ruộng và dọc theo các đường cái. Trời tối mù mịt và lát sau, các đồi bên kia sông Umzikulu bị che khuất sau một màn mưa. Kumalo thấy Jarvis chạy vội về phía con ngựa cột ở hàng rào, con vật đương hí, tỏ vẻ lo sợ không yên. Lanh tay và khéo léo ông gỡ yên cương, nói với nó một câu gì đó rồi thả nó ra. Rồi ông chạy về phía Kumalo, vừa chạy vừa gọi:
- Umfundisi.
- Umnumzana.
- Umfundisi, tôi để mấy cái này ở dưới cổng rồi vô đụt trong giáo đường được không?
- Dĩ nhiên là được. Tôi xin dắt Umnumzana vô.
Họ vô giáo đường, thật vừa đúng lúc, vì tiếng sấm vừa vang trên đầu họ và tiếng mưa rào rào đổ xuống cánh đồng. Chỉ vài giây sau, nó rớt lộp độp trên mái tôn, nghe điếc tai, không còn nói chuyện gì được nữa. Kumalo đốt một cây nến trong giáo đường, Jarvis ngồi xuống một chiếc ghế dài, không nhúc nhích.
Chẳng bao lâu nước mưa chảy qua những lỗ sét trên mái tôn quá cũ, và Jarvis phải ngồi tránh qua chỗ khác.
Kumalo hơi bực bội, hét lớn như để xin lỗi:
- Dột!
Jarvis cũng la lớn, đáp lại:
- Tôi thấy rồi.
Chỗ Jarvis mới ngồi cũng lại dột nữa, ông ta phải kiếm chỗ khác. Ông ta đứng dậy, sờ soạng chiếc ghế dài trong bóng tối mờ mờ, nhưng khó kiếm được chỗ nào để ngồi, vì chỗ nào ghế khô thì dưới sàn lại ướt, chỗ nào sàn khô thì trên ghế lại ướt.
Kumalo la lớn:
- Dột nhiều chỗ quá.
Jarvis cũng la lớn, đáp lại:
- Tôi thấy rồi.
Sau cùng Jarvis kiếm được một chỗ ngồi tạm được, Kumalo cũng vậy và hai người cùng ngồi yên, im lặng. Nhưng cảnh ở ngoài không được yên lặng, sấm nổ ầm ầm mà mưa trút xuống ào ào trên mái, nghe điếc cả tai.
Họ ngồi một lúc lâu như vậy cho tới khi nghe thấy tiếng suối chảy, nghe tiếng những dòng sông khô cạn hồi sinh lại, họ mới biết rằng cơn dông bắt đầu ngớt. Quả vậy, tiếng sấm đã xa dần, một ánh sáng mờ mờ chiếu vô giáo đường và tiếng mưa độp độp, trên mái đã giảm đi.
Mưa đã gần tạnh khi Jarvis đứng dậy, bước lại đứng gần Kumalo tại gian bên giáo đường, rồi không nhìn ông lão, cất tiếng hỏi:
- Có được ân xá không?
Kumalo lấy bức thư trong cái túi nhỏ ra, tay run run một phần vì đau khổ, một phần vì hễ đứng gần Jarvis thì ông luôn như vậy. Jarvis cầm lấy bức thư, đưa ra một chỗ có ánh sáng mờ mờ. Đọc xong, bỏ lại vào bao thư trả Kumalo, mà bảo:
- Tôi chẳng rõ chuyện đó ra sao, nhưng về phương diện khác thì tôi hiểu lắm.
- Tôi hiểu, Umnumzana.
Jarvis làm thinh một lát, nhìn lên bàn thờ và cây thánh giá trên đó. Ông ta bảo:
- Tới ngày mười lăm đó, tôi sẽ nhớ. Thôi, Umfundisi ở lại mạnh giỏi.
Nhưng Kumalo không chào lại: “ Umnumzan về mạnh giỏi ”. Ông cũng không nói để xách giùm yên và cương cho, cũng chẳng cảm ơn Jarvis đã cho sữa. Ông lại càng không nghĩ tới chuyện hỏi cắm nấy cây gậy đó để làm gì. Và khi ông đứng dậy bước ra thì Jarvis đã đi rồi. Trời vẫn còn mưa nhỏ, và thung lũng vang lên tiếng ào ào của nước sông, nước suối đỏ ngầu như máu của đất.
Buổi chiều đó mọi người đều ra ngoài đường trong ánh hoàng hôn hồng hồng, ngắm nghía mấy cây gậy mà chẳng ai hiểu cắm xuống để làm gì. Bọn em trai làm bộ nhổ những cây đó lên, nắm lấy chân gậy, trợn mắt ngó lên trời, giả vờ gắng hết sức. Bọn em gái ngó bọn em trai, nửa vui vui, nửa lo ngại. Chúng chơi cái trò đó cho tới khi một đứa con trai út của Dazuma vô ý nhổ một cây lên, rồi đứng ngây người ra vì việc nó mới làm. Mọi đứa làm thinh, đứa nhỏ hoảng hốt ngó đứa lớn. Còn các em gái chạy về phía mẹ, đứa thì khóc lóc, đứa thì mếu máo sợ sệt, đứa thì nói:
- Tụi tôi đã bảo trước mà, tụi tôi đã bảo trước mà.
Đứa em trai có tội kia bị mẹ lại lôi đi, đập cho mấy cái, rầy la:
- Tao xấu hổ vì mày, tao xấu hổ vì mày.
Vài người đàn ông còn ở lại trong thung lũng, ngó đất chung quanh chỗ đó và một người bảo:
- Lỗ nó đây này.
Và họ cẩn thận cắm cây gậy vào lỗ cũ, một người quỳ xuống nén nén đất chung quanh cây gậy, để không cho ai nhận được vết nhổ.
Nhưng một người khác bảo:
- Cào cào đất lên đi, vì đất ướt như vậy người ta không thấy có vết nén.
Họ bèn cào cào đất lên, kiếm ít cỏ và đá cuội, rải ở chung quanh, và quả thực, không ai có thể biết được đất ở đó đã bị nén xuống.
Chiếc xe chở sữa tới; mẹ mấy em nhỏ đích thân tới hoặc nhờ người tới giáo đường lãnh phần sữa.
Kumalo hỏi người đem sữa thân tín của ông:
- Cắm mấy cây gậy đó làm chi vậy hả?
- Thưa Umfundisi, tôi không rõ. Nhưng sáng mai tôi rán tìm hiểu xem sao.
Mấy ngày sau, các cây gậy vẫn còn nguyên ở chỗ cũ, nhưng không thấy một người da trắng nào trở lại. Có tiếng đồn rằng sẽ xây một cái đập ở đó, nhưng không hiểu được nước đâu để chứa cho đầy đập vì những dòng suối nhỏ chảy qua khu đất của giáo đường nhiều khi cạn khô và không có mùa nào thành một dòng suối lớn được. Người thân tín của Kumalo bảo ông ta rằng: ông Jarvis đi Pretoria chắc là để lo công việc về mấy cây gậy đó, tức công việc xây đập.
Thời gian trôi qua, mặt trời mỗi ngày vẫn mọc và lặn đều đều, Kumalo vẫn cầu nguyện đều đều cho sự phục sinh của Ndotsheni.
Đứa con bé nhà Kuluse đã bình phục, và Kumalo lo công việc mục sư của mình. Trường vẫn dạy học, các em vẫn học về các hạt giống, các loài cây, về loại cỏ nào tốt nhất cho đồng cỏ, về loại phân bón nào tốt nhất, về thức ăn nào tốt nhất cho bò. Ông ngạc nhiên thấy rằng mình mỗi ngày thêm nóng ruột đợi Jarvis về để biết kế hoạch đã dự tính ra sao, và càng ngày ông càng có cảm tưởng rằng chính ông là Jarvis, một mình ông Jarvis là có thể thực hiện được phép mầu đó thôi.
Con dâu ông sung sướng được ở với ông bà, vì tính tình nàng nhu thuận, dịu dàng, âu yếm. Đứa cháu nhỏ chơi với các trẻ khác, có đòi mẹ một hai lần nhưng chẳng bao lâu nữa nó cũng sẽ quên mẹ đi. Không ai hỏi thăm về Absalom cả, và nếu thiên hạ có thì thầm bàn tán với nhau trong nhà, thì họ vẫn quý trọng ông Umfundisi già như xưa, không giảm chút nào.
Một hôm em trai da trắng phi ngựa tới và khi Kumalo thấy vui mừng gặp lại cậu khách bé con này.
Em bảo:
- Tôi lại để nói tiếng Zulu đây.
Em từ lưng ngựa tụt xuống, quấn dây cương vào cái cọc. Em bước vô nhà chững chạc như người lớn, chùi chân, cất nón rồi mới vô. Em ngồi ở bàn nhìn chung quanh trong lòng khoan khoái, và Kumalo có cảm tưởng rằng có cái gì rực rỡ đã vô nhà mình.
- Umfundisi đã làm xong sổ sách chưa?
- Xong rồi, Inkosana.
- Có đúng không?
Kumalo không thể nhịn được cười.
- Đúng, nhưng không khả quan lắm.
- Không khả quan lắm ư? Umfundisi có sẵn sàng không để nói tiếng Zulu nào.
Kumalo lại cười nữa, ngồi xuống chiếc ghế dựa ở phía bên kia bàn bảo:
- Sẵn sàng nói tiếng Zulu đây. Bao giờ ông nội Inkosana về?
- Tôi cũng không biết. Tôi mong nội về lắm, tôi yêu nội lắm.
Kumalo muốn cười nữa, nhưng có lẽ nghĩ rằng điều đó có gì đâu mà cười. Nhưng chính em cười lên và ông cũng cười theo. Nói chuyện với em nhỏ này, người ta dễ cười lắm, cơ hồ trong lòng em tràn trề cái vui cười.
- Bao giờ Inkosana trở về Johannesburg?
Em đáp:
- Khi nào nội về nhà.
Rồi Kumalo nói bằng tiếng Zulu:
- Khi Inkosana đi rồi thì Ndotsheni sẽ mất một cái gì rực rỡ.
- Umfundisi nói gì đó?
Nhưng khi Kumalo bắt đầu dịch ra tiếng Anh thì em lại la lên:
- Không, đừng giảng. Nói lại bằng tiếng Zulu đi.
Kumalo lặp lại:
Em bảo:
- Nghĩa là khi Inkosana đi rồi, rồi làm sao nữa, Umfundisi nói lại đi.
Kumalo lặp lại bằng tiếng Zulu:
- Ndotsheni sẽ mất một cái gì rực rỡ.
- Cái gì về Ndotsheni. Khó quá tôi không hiểu. Thôi Umfundisi nói bằng tiếng Anh đi.
Kumalo nói bằng tiếng Anh:
- Ndotsheni sẽ mất một cái gì rực rỡ.
- À, tôi hiểu. Khi tôi đi rồi thì Ndotsheni sẽ mất một cái gì rực rỡ.
Em cười một cách thích thú, rồi nói bằng tiếng Zulu:
- Tôi hiểu, Umfundisi.
Kumalo vỗ tay ngạc nhiên bảo:
- À, Inkosana nói được tiếng Zulu rồi!
Em lại cười thích thú hơn nữa. Kumalo lại vỗ tay khen lấy khen để.
Cánh cửa mở ra, bà Kumalo bước vô. Ông nói với cậu bé:
- Cậu này là con ông đó.
Cậu bé đứng dậy cúi đầu chào bà Kumalo, bà ngó cậu, vừa sợ vừa buồn. Cậu bảo:
- Ngôi nhà của bà đẹp quá.
Rồi cậu cười. Bà nói với chồng bằng tiếng Zulu:
- Em ngạc nhiên quá không biết nói sao.
Cậu bé nói bằng tiếng Zulu:
- Tôi nghe ra rồi.
Bà đâm hoảng, lùi lại một bước.
Kumalo vội vàng bảo vợ:
- Cậu ấy không hiểu mình nói gì đâu, biết được mấy tiếng thì lập lại thế thôi.
Rồi quay lại phía cậu bé, vỗ tay, tỏ vẻ ngạc nhiên khen:
- A, a, Inkosana nói được tiếng Zulu.
Bà vợ quay trở lại phía cửa, mở cửa bước ra ngoài rồi khép cửa lại. Trong phòng chỉ còn lại có hai người.
- Umfundisi đã sẵn sàng nói tiếng Zulu chưa?
- Sẵn sàng.
- Cây là umuti, phải không Umfundisi?
- Phải, Inkosana.
- Nhưng dược phẩm cũng gọi là umuti, Umfundisi.
Cậu nói câu đó, có vẻ vừa đắc thắng vừa làm bộ ngạc nhiên, và cả hai cùng cười.
Kumalo nghiêm trang đáp:
- Inkosana thấy chứ, hầu hết dược phẩm của chúng tôi đều lấy ở cây ra. Vì vậy tiếng cây cũng chỉ dược phẩm nữa.
Lời giải đó làm thoả mãn cậu bé, cậu bảo:
- Tôi hiểu rồi. Còn cái hộp là ibokisi.
- Đúng Inkosana. Chúng tôi không có hộp, nên mượn tiếng của người Anh.
- Tôi hiểu, còn xe máy dầu là isitututu.
- Đúng. Đó là tiếng xe máy dầu nổ: isi-tu-tu-tu. Này, Inkosana thử làm một câu xem nào. Vì biết được tiếng nào, nói hết ra với tôi như vậy thì có học thêm được gì nữa đâu. Nào: “ Tôi thấy một con ngựa ” thì Inkosana nói sao?
Bài học tiếp tục như vậy cho tới khi, Kumalo bảo:
- Gần mười hai giờ rồi, có lẽ Inkosana tới lúc phải về thôi.
- Phải, tôi phải về. Nhưng tôi sẽ trở lại nói tiếng Zulu nữa.
- Inkosana cứ trở lại, chẳng bao lâu sẽ nói tiếng Zulu thạo hơn nhiều người Zulu. Và có thể nói trong bóng tối mà người ta tưởng lầm là người Zulu.
Cậu bé mừng lắm và khi họ bước ra ngoài rồi, cậu bảo:
- Umfundisi đỡ giúp tôi leo lên yên.
Kumalo đỡ cậu lên, cậu cất nón chào rồi phi ngựa về phía đường cái. Một chiếc xe hơi đương lên con đường đó, cậu kìm ngựa lại, la lớn:
- Ông nội tôi về kìa.
Cậu đập con ngựa, phi tới, rán đuổi theo chiếc xe.
Một người trẻ tuổi đứng trước giáo đường, mặt mũi vui vẻ, trạc hai mươi lăm tuổi. Chàng đặt mấy cái xắc xuống đất, cất nón, hỏi bằng tiếng Anh:
- Ông phải là Umfundisi không?
- Phải.
- Tôi là cán sự canh nông mới tới. Tôi có giấy tờ đây, Umfundisi.
Kumalo hân hoan bảo:
- Mời thầy vô nhà.
Họ vô nhà và thanh niên đó, lấy giấy tờ ra đưa cho Kumalo coi. Đó là những bức thư của các mục sư, thanh tra học đường và vài người khác nữa, đại ý nói rằng người giới thiệu trong thư, Napoleon Letsitsi là một thanh niên nghiêm trang, hạnh kiểm tốt; lại có một tấm chứng nhận rằng chàng tốt nghiệp trường Transkei, cấp bực cán sự canh nông.
Kumalo bảo:
- Tôi thấy rồi. Nhưng xin thầy cho biết thầy tới đây làm gì? Ai phái thầy lại đây?
- Chính người da trắng đã đưa tôi lại đây.
- Có phải tên ông ta là Jarvis?
- Thưa Umfundisi, tôi không biết tên ông ấy, nhưng chính ông da trắng mới đi khỏi đó.
- Phải rồi, ông Jarvis đấy. Kể đầu đuôi cho tôi nghe nào.
- Thưa Umfundisi, tôi lại đây để dạy dân làm ruộng.
- Dạy cho chúng tôi ở Ndotsheni này ư?
- Thưa phải.
Mặt Kumalo tươi rói, mắt ông long lanh ngó người đó, ông bảo:
- Thầy là thiên sứ Trời sai xuống giúp chúng tôi.
Ông đứng dậy, vừa đi đi lại lại trong phòng vừa vỗ tay nọ vào tay kia, trong khi thanh niên đó kinh ngạc đưa mắt nhìn theo. Kumalo thấy vậy cười, lặp lại:
- Thầy là thiên sứ Trời sai xuống giúp chúng tôi.
Ông lại ngồi xuống hỏi chàng thanh niên:
- Ông da trắng gặp được thầy ở đâu?
- Ông ấy lại nhà tôi ở Krugersdorp. Tôi dạy tại một trường học ở đó. Ông ấy hỏi tôi có muốn làm một việc quan trọng không, rồi mời tôi về miền Ndotsheni này. Thế là tôi có ý muốn tới đây.
- Thế còn việc dạy học.
- Tôi không phải là một giáo sư thực thụ, lương không được bao nhiêu. Ông da trắng bảo tôi lại đây sẽ lãnh được mười bảng mỗi tháng, tôi bằng lòng. Nhưng không phải chỉ vì tiền mà tôi lại. Tại trường học công việc chẳng có gì cả.
Kumalo thấy xót xa vì ghen tị; suốt sáu mươi năm từ thuở cha sinh mẹ đẻ, ông chưa bao giờ lãnh được mười bảng mỗi tháng. Nhưng gạt bỏ ý nghĩ đó đi.
- Ông da trắng hỏi tôi có biết nói tiếng Zulu không, tôi đáp không. Nhưng tôi nói tiếng Xosa gần thạo như tiếng của tôi, vì má tôi là người Xosa. Ông ấy bảo được, vì tiếng Xosa với tiếng Zulu cũng gần như nhau.
Bà Kumalo mở cửa vô cho hay tới giờ ăn. Kumalo giới thiệu bằng tiếng Zulu:
- Nhà tôi đấy. Và đây thấy Letsitsi lại dạy dân chúng làm ruộng.
Rồi ông bảo Letsitsi:
- Thầy ở lại dùng bữa với chúng tôi.
Ông giới thiệu Letsitsi với con dâu và cháu ông. Khi ông đọc kinh Tạ Ân rồi, mọi người ngồi xuống và ông hỏi bằng tiếng Zulu:
- Thầy tới Pietermaritzburg hồi nào?
- Sáng nay, thưa Umfundisi. Và từ đó, chúng tôi lên xe hơi về đây.
- Thầy thấy ông da trắng ra sao?
- Ông ấy ít nói lắm, thưa Umfundisi. Chỉ nói với tôi có vài lời.
- Tính ông ấy vậy đấy.
- Chúng tôi ngừng lại ở giữa đường để nhìn một thung lũng. Ông ấy bảo: “ Thầy tính làm gì trong một thung lũng như vầy? ”. Đó là những lời đầu tiên ông ấy nói với tôi trong khi đi đường.
- Và thầy có nói thầy làm gì không?
- Thưa Umfundisi có.
- Ông ấy nói sao?
- Ông ấy không nói gì hết, Umfundisi. Chỉ “ hừ, hừ” trong cuống họng, thế thôi.
- Rồi sao nữa?
- Ông ấy không nói thêm một lời nào nữa cho tới khi tới đây. Tới đây rồi ông ấy bảo tôi: “ Thầy lại thăm Umfundisi, nhờ ông ấy kiếm cho chỗ ở trọ. Nói với ông ấy rằng, tôi ân hận không ghé được vì tôi nóng lòng về nhà ”.
Ông bà Kumalo đưa mắt nhìn nhau. Kumalo bảo:
- Phòng thì nhỏ mà nhà này là nhà mục sư, nhưng thầy muốn ở lại đây cũng được.
- Thưa Umfundisi, tôi cũng ở trong một gia đình mục sư. Tôi được ở đây thì còn gì bằng.
- Và thầy tính làm gì trong thung lũng này?
Viên cán sự trẻ tuổi cười:
- Trước hết tôi phải đi coi thung lũng đã.
- Thế còn cái thung lũng kia, thầy tính làm gì?
Thanh niên đó trình bày tất cả những việc chàng dự tính làm cho thung lũng kia. Chàng bảo phải ngưng đừng đốt phân[1] nữa, mà chôn phân xuống đất; phải cắt cỏ, gom lại thành đống rồi dùng làm phân, chứ đừng để nó khô héo dưới ánh nắng; phải bỏ cái lối cày xuôi theo đường dốc ở sườn đồi; phải trồng cây để làm củi, loại cây mau lớn như miên liễu, ở những nơi nào không thể cày bừa được, ở trên bờ dốc của các dòng suối để giữ nước mưa lại, cho nó khỏi chảy ào ào thành thác. Nhưng những việc đó khó thực hành vì trước hết phải giảng cho dân chúng hiểu rằng, mọi người cứ lo cày bừa khoảng đất nho nhỏ của mình để sống lây lất, thì sẽ có hại. Phải có một số người chịu bỏ đất ruộng để trồng cây hoặc làm đồng cỏ. Khó khăn nhất là làm sao bỏ được cái tục lobola, tục dẫn cưới bằng bò, tức là mua vợ bằng bao nhiêu con bò đó; tục lệ đó làm cho người ta nuôi quá nhiều bò, đếm số bò để xem gia sản giầu hay nghèo, thành thử cỏ không sao mọc được nữa.
Kumalo hỏi:
- Có tính xây đập ở đây không?
Thanh niên đó đáp:
- Thưa có, người ta sẽ xây một cái đập để cho bò luôn luôn có nước uống. Nước ngăn lại ở phía trên cái đập, sẽ chảy ra một cửa rào vô ruộng lúa và đồng cỏ.
- Nhưng nước từ đâu tới?
- Nước từ một dòng sông sẽ dẫn lại đây bằng một cái ống. Ông da trắng bảo tôi vậy.
Kumalo nói:
- Chắc là từ con sông của ông ấy rồi. Nhưng tất cả những điều thầy nói đó, có thể thực hành ở Ndotsheni này ư?
Viên cán sự cười, đáp:
- Thưa Umfundisi, tôi phải đi coi thung lũng đã, rồi mới biết được.
Kumalo có vẻ nóng lòng:
- Nhưng trên đường lại đây, thầy đã đi ngang qua nó rồi mà?
- Thưa, đi ngang qua tôi đã thấy dĩ nhiên. Nhưng tôi cần phải coi cho kỹ hơn nữa. Vâng, tôi nghĩ rằng tất cả những cái đó có thể thực hành ở đây được.
Họ ngồi cả ở chung quanh bàn, người nào nét mặt cũng hào hứng, phấn khởi vì thanh niên khéo diễn tả cho họ thấy mọi vật như ở trước mắt. Kumalo nhìn vợ con, bảo:
- Tôi đã nói với thầy ấy rằng, thầy ấy là thiên sứ Trời sai xuống đây.
Tâm hồn kích thích quá, ông ngồi không yên, đứng dậy đi đi lại lại trong phòng. Ông hỏi:
-Thầy có nóng lòng muốn khởi sự ngay không?
Thanh niên cười, hơi ngượng nghịu:
- Thưa có.
- Thầy sẽ làm cái gì trước hết.
- Thưa Umfundisi, trước hết tôi phải lại chào ông Tù trưởng đã.
- À, phải, việc đó phải làm trước hết.
Lúc đó, ở ngoài nghe có tiếng vó ngựa, Kumalo bước ra xem, lấy làm lạ. không biết có phải cậu bé không, mà sao mà trở lại đây mau vậy. Quả nhiên là cậu ta thật, nhưng cậu không tuột xuống mà ngồi trên lưng ngựa nói với Kumalo, nhanh nhẩu, hoan hỉ, như thể là một việc rất quan trọng. Cậu bảo:
- Thật là sát nút.
Kumalo hỏi:
- Sát nút? Cái gì mà sát nút?
- Đó là tiếng lóng – Nhưng cậu không cười mà rất nghiêm trang – Có nghĩa là vừa kịp. Nếu ông nội tôi không về sớm như vầy, thì tôi không có thì giờ lại chào Umfundisi.
- Inkosana đi ngay bây giờ sao?
Cậu bé không trả lời thẳng câu đó; vì thấy Kumalo ngạc nhiên nên cậu muốn giảng giải:
- Nếu ông nội tôi về trễ chút nữa thì có lẽ tôi không kịp trở lại đây. Nhưng may quá, ông nội tôi về hơi sớm.
- Nghĩa là sáng mai Inkosana đi hả?
- Vâng, sáng mai, đi chuyến xe lửa đường rầy hẹp đó, chuyến xe lửa nhỏ đó, Umfundisi biết chứ?
- Biết, Inkosana.
- Nhưng nghỉ lễ tôi sẽ về, và chúng ta lại nói tiếng Zulu nữa.
Kumalo chỉ đáp:
- Vậy thì vui lắm.
- Thôi chào Umfundisi.
- Chào Inkosana.
Rồi ông nói bằng tiếng Zulu:
- Inkosana đi mạnh giỏi.
Cậu bé cau mày suy nghĩ một chút, rồi nói bằng tiếng Zulu:
- Umfundisi ở lại mạnh giỏi.
Kumalo ngạc nhiên thốt lên: “ A, a! ”; cậu bé cười, cất nón chào rồi phi ngựa đi trong đám bụi mù. Ra tới đường cái, cậu ngừng lại, quay lại chào một lần nữa rồi lại tiếp tục đi. Kumalo còn đứng ở cửa, viên cán sự trẻ tuổi bước ra đứng cạnh ông, hai người cùng nhìn theo cậu bé. Kumalo bảo, giọng nghiêm trang:
- Còn cậu đó là một thiên thần nhỏ Trời sai xuống.
Họ trở vô nhà, Kumalo hỏi:
- Vậy thầy nghĩ rằng ở đây có thể làm được nhiều việc ư?
- Thưa Umfundisi, làm được nhiều ạ.
- Thực không?
Thanh niên đáp nét mặt có vẻ rất hăng hái:
- Thưa Umfundisi, không có lý gì thung lũng lại không tươi tốt lại như hồi xưa. Nhưng không thể làm mau được, không thể một ngày mà xong được.
Kumalo kính cẩn nói:
- Nếu Thượng Đế phù hộ, thì xin cho tôi được thấy trước khi tôi nhắm mắt. Vì tôi đã sống suốt cuộc đời trong cảnh điêu tàn này.
[1]Xứ đó nuôi nhiều bò mà ít củi, dân phơi khô phân bò để đốt thay củi, như ở Ấn Độ.
Lễ Kiến Tín đã sửa soạn xong rồi. Các phụ nữ trong giáo khu đã tới, mình bận áo dài trắng, cổ quàng một chiếc khăn màu xanh lá cây. Những người đàn ông thuộc về giáo khu mà không bỏ đi nơi khác làm ăn, cũng lại dự lễ, bận quần áo tết, nghĩa là những bộ quần áo ngày thường nhưng đã giặt vá và chải kỹ lưỡng. Những trẻ em làm lễ hôm đó đã tới đủ, gái thì bận áo dài, mũ nồi trắng, trai thì bận những bộ đồ đi học nhưng đã giặt vá, và chải kỹ lưỡng. Bọn phụ nữ lăng xăng trong nhà tiếp tay bà vợ Umfundisi, vì làm lễ xong sẽ có một bữa ăn xoàng gồm món bánh ngọt chắc dạ làm bằng bột bắp, giải khát thì có nước trà nấu cho tới khi cánh trà không còn chút hương vị nào nữa. Bữa ăn đạm bạc nhưng vui vì mọi người sẽ cùng ăn với nhau.
Ở trên trời mây đen tụ lại, trong không khí oi ả, và người ta không biết vui mừng hay nên lo. Những đám mây lớn trôi trên mặt đất đỏ, leo lên đỉnh cái đồi đỏ và trọi. Người ta nhìn lên trời rồi nhìn con đường đức Giám mục sắp tới, tự hỏi không biết nên mừng hay nên lo. Vì chắc chắn rằng trước khi mặt trời lặn, chớp sẽ loé ra, sấm sẽ gầm vang lên trên các ngọn đồi.
Kumalo lo lắng nhìn lên trời và con đường mà đức Giám mục sắp tới; và ngạc nhiên thấy người thân tín của ông đương đánh xe sữa tiến lại. Sao sữa hôm nay tới sớm như vậy?
- Hôm nay em tới sớm nhỉ?
Người đó rầu rầu đáp:
- Thưa Umfundisi, tới sớm vì hôm nay nghỉ, Inkosikazi[1] mất rồi.
Kumalo thốt lên:
- Mất rồi? Có lý nào.
- Thưa Umfundisi, mất rồi. Khi mặt trời ở kia – người đó đưa ngón tay chỉ lên trời, ngay trên đầu – thì Inkosikazi tắt thở.
- Ôi! Bi thảm quá.
- Bi thảm thật Umfundisi.
- Thế còn Umnumzana?
- Ông không nói năng gì cả. Umfundisi biết tính ông ấy rồi. Nhưng lần này sự im lặng của ông thật trầm uất. Thưa Umfundisi, tôi về nhà tằm rửa xong, sẽ trở lại dự lễ.
- Ừ, em về đi.
Kumalo trở về nhà cho vợ hay là Inkosikazi đã mất. Bà kêu lên: “ Chao ôi! Chao ôi! ”. Các người đàn bà khác cũng vậy. Có vài người khóc và khai người mất là nhân từ hiền hậu. Kumalo lại ngồi ở bàn viết suy nghĩ nên phải làm gì đây. Làm lễ Kiến Tín xong ông sẽ lên điền trang ở High Place và thay lời dân chúng trong thung lũng và chia buồn với ông Jarvis. Nhưng rồi ông tưởng tượng ngôi nhà có tang, tất cả các xe hơi của người da trắng đậu ở đó, các tá điền bận áo đen họp nhau thành từng nhóm nhỏ, nghiêm trang thì thầm với nhau, vì ông đã từng trông thấy cảnh đó rồi. Ông nghĩ rằng mình không nên tới, như vậy không hợp tục lệ. Có tới thì cũng đứng lẻ loi một mình tại một góc nào đó, trừ phi chính là ông Jarvis lại tiếp ông, còn thì không có ai biết rằng ông thay mặt dân ở trong miền lại chia buồn với tang gia. Ông thở dài, kéo hộc tủ ra lấy một tờ giấy. Ông nghĩ phải viết bằng tiếng Anh mới được, vì mặc dầu hầu hết các người da trắng ở đây nói được tiếng Zulu, nhưng ít ai đọc được, viết được tiếng đó. Và ông bắt đầu viết. Ông viết nhiều lắm, xé liệng đi, sau cùng mới được bức thư này:
“ Kính thưa Umnumzana.
“Ở trong giáo đường này chúng tôi đau đớn hay tin rằng Inkosikazi đã từ trần, chúng tôi hiểu và xót xa tới rơi lệ. Chúng tôi chắc chắn rằng Inkosikazi biết những việc Umnumzana đã giúp đỡ chúng tôi, và chính Inkosizana cũng dự vào công việc đó nữa. Trong giáo đường này chúng tôi cầu nguyện cho linh hồn người được an lạc ở Thiên Đàng, và cũng cầu nguyện cho Umnumzana trong cái tang lớn này nữa.
Kẻ thuộc hạ trung thành của Umnumzana.
Mục sư S . Kumalo ”
Viết xong rồi ông ngồi suy nghĩ không biết nên gởi thư đó không. Có thể rằng vì con trai bị giết mà bà ấy đau xót trong lòng mà không sống nổi nữa. Nếu quả vậy thì mình là cha kẻ sát nhân kia có nên gởi bức thư như vậy không? Ông đã chẳng nghe nói rằng gần đây bà Jarvis gầy sút đi và đau ốm đấy ư? Thật là khó xử quá, Kumalo bứt đầu bứt tóc, do dự chưa biết tính sao thì nhớ tới việc ông Jarvis cho sữa, mướn viên cán sự trẻ tuổi lại dạy cho dân chúng làm ruộng, nhất là nhớ cái giọng ông Jarvis hỏi ông: “ Có được ân xá không? ”, cái giọng đó như hiện còn văng vẳng trong phòng này vậy. Và ông biết con người đó khi đã quyết tâm theo con đường nào rồi thì không còn ai ngăn cản làm cho đổi ý được nữa. Nghĩ vậy Kumalo bèn dán bao thư lại, bước ra ngoài gọi một em nhỏ lại bảo:
- Con đưa giùm ta bức thư này nhé.
Em nhỏ đáp:
- Thưa vâng.
- Em lại nhà chú Kuluse, mượn con ngựa của chú ấy rồi đem bức thư này tới nhà ông Jarvis. Đừng làm rộn Umnumzana nhé, tới nơi gặp người nào thì cứ đưa thư cho người đó. Và con nhớ này, phải im lặng, kính cẩn, đừng lớn tiếng gọi nhé, đừng cười nói lăng xăng, vì Inkosikazi mất rồi. Con hiểu không?
- Thưa Umfundisi con hiểu rõ rồi.
- Thôi đi đi con. Ta ân hận rằng con không kịp về coi lễ.
Rồi Kumalo báo cho mọi người biết rằng Inkosikazi đã mất. Mọi người im lặng, và một vài người đang la cười hoặc nói lăng nhăng cũng vội vàng ngừng lại.
Sau đó họ nghiêm trang nói nho nhỏ với nhau cho tới khi đức Giám mục tới.
Giáo đường tối om om nên phải đốt đèn lên để làm lễ. Những đám mây lớn bay ngang qua thung lũng, chớp loé lên trên những ngọn đồi đỏ trọi mà đất đã rớt ra từng mảng như mảng thịt, còn trơ lại đá. Sấm vang lên trong thung lũng chỉ còn lại ông già bà cả, đàn bà và trẻ con này. Vì đàn ông, thanh niên, thiếu nữ đều đã bỏ đi hết rồi, đất đai không thể nuôi họ được. Mấy đứa em bé hôm nay, lại làm lễ Kiến Tín ở giáo đường này ít năm nữa cũng bỏ đi nơi khác thôi, vì đất đai không thể nuôi được chúng.
Giáo đường tối om om và nóc lại dột. Trên sàn, nước đọng lại từng vũng, người ta phải dời chỗ để tránh nước mưa. Vài ba chiếc áo dài trắng đã bị ướt, một em gái run lên lập cập vì lạnh: em thấy buổi lễ long trọng này nên đứng yên, không dám tìm chỗ khác tránh dột. Và giọng đức Giám mục cất lên:
“ Xin Chúa đem Thánh sủng che chở đứa con của Chúa đây, để cho nó hoài hoài là con chiên của Chúa, mỗi ngày mỗi tiến bộ nhờ Thánh Linh của Chúa, cho tới khi nó được vô cõi Thiên Đàng vĩnh viễn của Chúa ”.
Đứa trẻ nào đi tới trước mặt ông để nhận lễ Kiến Tín, thì ông cũng lặp lại câu đó.
Tan lễ, họ quây quần trong nhà để dự bữa ăn thanh đạm. Những người hôm đó không dự lễ Kiến Tín hoặc không phải là người thân của những người làm lễ, Kumalo cũng mời ở cả lại giáo đường vì vẫn còn mưa lớn, mặc dầu đã hết sấm chớp. Thành thử nhà ăn chật cứng, trong bếp, trong phòng tính sổ sách của Kumalo, trong phòng ăn, trong các phòng ngủ, và ngay cả trong phòng của viên cán sự trẻ tuổi nữa, phòng nào cũng đầy người.
Sau cùng mưa tạnh, đức Giám mục và Kumalo ngồi một mình trong phòng tính sổ sách. Đức Giám mục đốt ống điếu và nói với Kumalo:
- Tôi có chuyện muốn nói với ông.
Kumalo ngồi xuống, lòng thắt lại, sợ phải nghe những lời Giám mục sắp nói.
- Tôi rất buồn rầu vì những điều bất hạnh của ông.
- Bẩm, thực đau đớn quá.
- Tôi không muốn làm cho ông thêm buồn đâu vì ông đã đau khổ nhiều rồi. Vì vậy tôi nghĩ nên đợi đến buổi làm lễ Kiến Tín này.
- Bẩm, vâng.
- Lời tôi nói với ông đây là chí tình, ông nên tin chắc như vậy.
- Bẩm, vâng.
- Theo tôi, ông nên rời Ndotsheni thì hơn, ông Kumalo ạ.
Phải, đức Giám mục muốn nói điều đó và ngài đã nói ra rồi. Phải, chính mình vẫn sợ điều đó. Đưa tôi lại chỗ khác đi, cho tôi chết đi, vì tôi già quá rồi, lập lại cuộc đời sao được. Tôi già cả, yếu ớt. Nhưng tôi đã hết lòng coi dân chúng ở đây như con tôi. Bẩm, đức Giám mục, sao ngài không có mặt ở đây cái buổi tôi về Ndotsheni này, để được thấy dân chúng vẫn yêu quý tôi mặc dầu tôi già cả? Để được nghe em gái đó nói như vầy: “ Umfundisi về, chúng con thích quá; còn Umfundisi kia, chúng con không hiểu được ”. Ngài đưa tôi đi giáo khu khác, đúng vào cái lúc ở đây bắt đầu có nhiều việc mới mẻ xảy ra: có sữa cho trẻ em này, có một cán sự trẻ tuổi lại này, có những cây gậy cắm xuống đất để xây đập này. Nước mắt rưng rưng, Kumalo nhắm mắt lại, lệ ứa ra rớt xuống chiếc áo đen mới sắm để làm lễ Kiến Tín này, nhờ số tiền của người bạn rất thân: Msimangu. Đầu bạc của ông gục xuống và ngồi im như một em bé không thốt một lời.
Đức Giám mục ôn tồn gọi:
- Ông Kumalo - rồi lập lại lớn tiếng hơn – Ông Kumalo.
- Thưa ông. Bẩm ngài.
- Làm ông đau khổ tôi rầu lắm. Tôi rầu lắm đã làm ông đau khổ. Nhưng ông nghĩ coi, đi nơi khác có phải hơn không?
- Bẩm, xin tùy ý ngài.
Đức Giám mục cúi xuống phía trước, khuỷu tay chống lên đầu gối.
- Ông Kumalo có phải cha nạn nhân là ông Jarvis, người láng giềng của ông tại Ndortsheni này không?
- Bẩm, phải.
- Chính vì lẽ đó mà tôi nghĩ ông nên đi nơi khác.
À, thì ra vì lẽ đó. Nhưng chính ông Jarvis đã chẳng cưỡi ngựa lại đây thăm tôi đấy ư? Và cậu bé chẳng phải vào nhà tôi chơi đấy ư? Chẳng đi đón thầy cán sự trẻ tuổi đó lại dạy dân chúng làm ruộng đấy ư? Và lòng tôi chẳng đau xót cho ông ấy vì bà vợ mất đấy ư? Nhưng làm sao nói những điều ấy với đức Giám mục, một nhân vật rất quan trọng trong miền được? Những điều đó không thể nói ra được.
- Ông hiểu lòng tôi chứ, ông Kumalo?
- Bẩm, tôi hiểu ngài.
- Tôi sẽ đưa ông lại Pietermaritzburg, gần người bạn già Ntombela của ông. Ở đấy ông có thể giúp ông ấy được mà cũng đỡ một gánh nặng cho ông. Ông ấy sẽ lo công việc xây cất, trường học và tiền nong, còn ông thì chuyên về tôn giáo. Đó là tôi tính như vậy.
- Bẩm, tôi hiểu ngài.
- Ông Kumalo ạ, nếu ông ở lại đây thì ông phải đảm đương nhiều gánh nặng lắm. Không riêng cái điều ông Jarvis là người láng giềng của ông, rồi đây sớm muộn gì ông còn phải xây cất lại giáo đường, tốn tiền và phải lo lắng. Ông thấy đấy nó hư nát quá rồi.
- Bẩm vâng.
- Và tôi nghe nói rằng ông đã đưa người con dâu ông về đây ở, và cô đó sắp tới ngày sanh đẻ. Ông nghĩ coi họ ở đây có tiện không? Lại ở nơi nào không ai biết những chuyện đã xảy ra, có phần hơn chứ?
- Bẩm, tôi hiểu ngài.
Lúc đó có tiếng gõ cửa, đứa nhỏ đem bức thư lại nhà ông Jarvis đã trở về đứng đó. Nó chìa một bức thư ra, Kumalo đỡ lấy, thư gởi cho mục sư Kumalo ở Ndotsheni. Ông cảm ơn nó, khép cửa lại rồi trở về ngồi ở ghế để nghe đức Giám mục nói tiếp.
Đức Giám mục bảo:
- Ông cứ đọc thư đi, ông Kumalo.
Kumalo mở thư ra đọc;
“ Umfundisi.
Tôi cảm ơn Umfundisi đã chia buồn với tôi và hứa cầu nguyện ở giáo đường cho chúng tôi. Umfundisi đoán đúng đấy: nhà tôi biết hết những việc đương làm và đã dự một phần lớn vào. Vợ chồng tôi vì nhớ người con trai yêu quý của chúng tôi mà làm mấy việc đó. Một trong những ước vọng cuối cùng của nhà tôi là xây cất một giáo đường mới ở Ndotsheni, để hôm nào tôi sẽ lại cùng bàn với Umfundisi.
Chân thành…
James Jarvis. ”
“ Umfundisi nên biết rằng nhà tôi đã đau từ trước khi đi Johannesburg ”
Kumalo đứng dật nói bằng một giọng làm cho đức Giám mục ngạc nhiên:
- Thật là Thượng Đế đã sắp đặt cho cả.
Giọng đó là một giọng vui vẻ trút được hết nỗi lo lắng, nửa như cười, nửa như khóc. Ông ngó các bức vách bốn bề, lập lại:
- Thật là Thượng Đế đã sắp đặt cho cả.
Đức Giám mục lãnh đạm hỏi:
- Cái gì mà Thượng Đế đã sắp đặt đó, đưa tôi coi nào.
Kumalo vội vàng chìa bức thư ra. Đọc xong rồi, đức Giám mục nghiêm trang bảo:
- Tôi đã coi thường, bậy quá.
Ông ta đọc lại lần nữa, xỉ mũi, ngồi xuống, tay vẫn cầm bức thư, hỏi Kumalo:
- Những việc đương làm đó là việc gì vậy?
Kumalo bèn kể cho ông ta nghe việc cho sữa, việc dự tính xây đập, việc phái thầy cán sự trẻ tuổi lại. Đức Giám mục xỉ mũi mấy lần, bảo:
- Thật là chuyện lạ lùng. Tôi chưa bao giờ nghe nói một chuyện lạ lùng như vậy.
Kumalo giảng cho ông ta hiểu câu tái bút: “ Umfundisi nên biết rằng nhà tôi đã đau từ trước khi đi Johannesburg ”. Ông giảng rằng câu đó chứa cái tình thương xót, hiểu biết. Ông lại kể lời Jarvis hỏi ông: “ Có được ân xá không? ”, kể chuyện cậu bé lại thăm ông, cậu bé lòng lúc nào cũng hân hoan, phát ra tiếng cười.
Đức Giám mục bảo:
- Chúng ta qua giáo đường cầu nguyện đi, nếu bên đó còn có được một chỗ khô ráo. Rồi tôi phải đi thôi vì đường còn dài. Nhưng trước hết tôi muốn từ biệt bà Kumalo và người con dâu của ông bà đã. Này, thế còn cái chuyện người con dâu đó với đứa bé sắp sanh?
- Bẩm Ngài, chúng tôi đã thẳng thắn cầu nguyện trước mặt mọi người. Có cách nào khác được đâu?
- Hồi xưa, cổ nhân làm vậy, thời đó các cụ có đức tin. Nhưng hôm nay, hay được những chuyện như vậy, tôi nghĩ chẳng riêng cổ nhân mới vậy.
Kumalo từ biệt các người trong nhà rồi cùng Giám mục qua bên giáo đường. Tới trước cửa giáo đường ông ta đứng lại, nghiêm nghị nói với Kumalo:
- Tôi thấy rằng Thượng Đế không muốn ông rời Ndotsheni.
Đức Giám mục đi rồi, Kumalo đứng trước giáo đường trong bóng hoàng hôn. Mưa đã tạnh, nhưng trời vẫn còn u ám, sẽ còn mưa nữa. Không khí mát mẻ, gió hây hẩy từ dưới sông đưa lên, tâm hồn con người nhẹ nhàng. Trong khi ông đứng đó nhìn xuống thung lũng lớn thì văng vẳng có tiếng từ trên trời đưa xuống: “ Cứ an tâm, cứ an tâm, các con, ta sẽ làm những việc đó cho các con, ta không bỏ các con đâu ”.
Những tiếng nói đó không do một phép mầu, như người ta tưởng tượng đâu. Nó không phải là phép mầu. Nó là ảo tưởng, hoặc là sự tưởng tượng của những người kiệt sức, hoặc là sự ám thị thần bí.
Khi ông trở vô nhà thì thấy bà vợ, người dâu và vài ba người đàn bà nữa ở giáo đường và người thân tín đã xách tay nải giúp ông, đương lúi húi kết một vòng hoa. Họ kiếm được một cành trắc bá, vì có một cây trắc bá cô độc ở gần chòi người thân tín đó, cây trắc bá duy nhất trong khắp thung lũng Ndotsheni, không ai nhớ do cách nào mà nó mọc ở đó. Họ quấn cành nó lại thành một cái vòng, cột chắc cho vòng khỏi bung ra; rồi họ kết đầy những hoa trong đồng cỏ, những hoa vẫn còn trổ mặc dầu hạn hán.
- Thưa Umfundisi tôi không vừa lòng chút nào cả. Có cái gì coi không được. Không giống vòng hoa của người da trắng.
Cô giáo mới bảo rằng:
- Họ kết hoa trắng. Tôi thường nhận thấy ở Pietermaritzburg họ kết hoa trắng.
Người thân tín của Kumalo nói giọng hăng hái:
- Thưa Umfundisi, tôi biết một chỗ có hoa trắng, hoa ráy và hoa huệ.
Cô giáo mới cũng rất hăng hái:
- Hoa ráy và hoa huệ. Phải, họ kết bằng những hoa đó.
- Nhưng ở xa lắm. Thứ đó mọc ở gần đường xe lửa, phía Carisbrooke, trên bờ một giòng suối nhỏ mà tôi biết.
Kumalo bảo:
- Ừ, xa quá.
Người thân tín của ông bảo:
- Tôi xin đi. Một việc như việc này thì xa mấy cũng không đáng kể. Umfundisi cho tôi mượn cái đèn gió nhé?
- Ừ, thì lấy đi.
Cô giáo mới nói thêm:
- Còn cần một giải lụa trắng nữa.
Một người đàn bà bảo:
- Ở nhà tôi có, tôi về lấy.
- Còn anh, anh Stephen, anh phải viết một tấm thiếp chứ? Anh có một tấm thiếp tốt đấy không?
Cô giáo mới bảo:
- Thiếp phải viền đen mới được.
Kumalo nói:
- Có, tôi có tấm thiếp, tôi sẽ tô mực đen ở chung quanh.
Ông vô căn phòng để tính sổ, kiếm được một tấm thiếp ở trong hộc.
Ông nắn nót viết chữ như chữ in:
Chân thành phân ưu.
Tín đồ của giáo đường Thánh Mark.
Nđotsheni.
Ông còn đương cặm cụi tô mực đen bốn mép, rán cho khỏi lem, thì bà vợ vô mời ông ăn bữa tối.
Ở Ndotsheni và tất cả các trại chung quanh, mọi nhà đều bắt đầu cầy ruộng. Nhưng công việc tiến hành rất chậm, vì thầy cán sự trẻ tuổi có viên Tù trưởng theo sau, đi chỉ cho mọi người không được cầy dọc theo sườn đồi nữa. Nông dân lấy đất đắp thành những tường nhỏ và cầy vòng vòng như trôn ốc ở chung quanh sườn đồi, thành thửa ruộng coi lạ hẳn đi, không giống trước chút nào cả. Đàn bà và trẻ em đi hốt phân bò, khi trải lên ruộng thấy chẳng được bao nhiêu, nên viên Tù trưởng ra lệnh rào một khoảng đất, gom bò vào trong đó để dễ hốt phân, nhưng việc đó bất tiện lắm vì bò không có gì ăn trong khu rào đó. Thầy cán sự trẻ tuổi lắc đầu nhưng bảo sang năm sẽ khá hơn. Người ta nấu những hột miên liễu, trong thung lũng này chưa ai thấy làm như vậy, nhưng các người làm công trong các trại ruộng của người da trắng bảo là phải đấy, thế là họ nghe lời nấu. Người ta lựa vài chỗ điêu tàn để rắc những hột đó, nhưng thầy cán sự trẻ tuổi lại lắc đầu, bảo những chỗ đó đất cằn cỗi, miên liễu mọc làm sao được. Và thầy bảo phải liệng bỏ những hột bắp họ giữ để làm giống đi, vì ở nhà ông Jarvis có nhiều hột giống tốt hơn. Dĩ nhiên họ không liệng đi mà dùng để ăn.
Tất cả những việc đó không phải làm mau lẹ như ảo thuật đâu. Phải mất bao nhiêu buổi hội họp, có bao nhiêu kẻ lầm lì, nhăn nhó. Chỉ vì sợ viên Tù trưởng, nên những cuộc hội họp đó mới không biến thành những cuộc gây lộn, cãi vã. Bất bình nhất là những người bắt buộc phải bỏ ruộng nương của mình.
Người em ông Kusule suốt mấy ngày hờn dỗi, không nói một lời vì cái đập lấn vào đất của chú ta và miếng đất người ta bù lại không làm cho chú vừa lòng. Umfundisi phải nói mãi chú ta mới chịu nghe, chú ta không lẽ từ chối, vì chính nhờ Umfundisi mà đứa con người anh của chú mới có sữa uống mà khỏi chết.
Viên Tù trưởng đã nói bóng nói gió rằng ông sẽ đòi hỏi những điều khó khăn hơn nữa, và thầy cán sự bực mình rằng muốn gì thì sao không nói hết đi. Nhưng khó mà bắt dân chúng chấp nhận mọi sự cải cách luôn một lúc được. Thầy ta bảo rằng ngay năm nay, dân chúng có thể thấy được vài sự tấn bộ, mặc dầu thầy chán nản lắc đầu vì đất đai cằn cỗi quá.
Có tin đồn chính phủ sẽ tặng viên Tù trưởng một con bò mộng, và thầy cán sự trẻ tuổi bảo Kumalo rằng dân chúng phải giết những con bò sức sản xuất thấp nhất đi, nhưng trong các buổi họp thầy không tuyên bố ra như vậy, vì dân chúng có tục tính tài sản theo số bò, dù là bò bịnh hoạn, gầy ốm, họ sẽ cho biện pháp đó là tàn khốc quá.
Nhưng làm cho họ kinh ngạc nhất là cái máy lớn mà họ bảo là đã “ tham chiến ” trong chiến tranh vừa rồi, cái máy nó ủi đất của người em ông Kusule lên lấp hàng gậy mà người da trắng đã cắm và đùn đất lên mỗi ngày mỗi cao. Và chính người em ông Kusule cau có nhìn cảnh đó cũng không thể không bật cười lên, rồi sực nhớ lại, làm bộ bí xị như trước. Nhưng chú ta được an ủi đôi phần khi nghĩ rằng sang năm, hồ nước trên đập đầy rồi thì hai anh em nhà Zuma cũng phải bỏ khu ruộng của họ ở phía dưới, vì người ta định trồng cỏ của người da trắng ở dưới đó, tưới cỏ bằng nước ở đập, rồi khi cỏ cao thì cắt, liệng vào khu đất rào cho bò ăn. Hai anh em nhà Zuma đã chế diễu chú ta, khi chú ta cau có về cái đập chiếm đất của chú, thì lúc đó chú sẽ có dịp trả thù mà chế diễu lại họ.
Quả thực đang có cái gì thay đổi trong thung lũng này, một tinh thần mới, một đời sống mới và trong chòi nào người ta cũng bàn tán rất nhiều. Tuy chưa sản xuất được gì cả, nhưng đã bắt đầu có cái gì rồi.
Kumalo bảo:
- Có một người nữa cũng tên là Napoleon. Ông ta làm được rất nhiều việc, nhiều tới nỗi người ta đã viết vô số sách về ông ta.
Thầy cán sự trẻ tuổi cười mà cúi xuống nhìn đất, cà chiếc giầy nọ vào chiếc kia.
Kumalo nói tiếp:
- Thầy có thể hãnh diện được vì đã có một đời sống mới trong thung lũng này. Tôi đã sống ở đây già đời rồi mà chưa bao giờ thấy người ta hăng hái cầy ruộng như vậy. Ở đây đã có một cái gì mới. Tôi không nói tới mưa đâu, mặc dầu mưa làm mát mẻ tâm hồn con người. Tôi nói tới hy vọng, chưa bao giờ thấy ở đây người ta tràn trề hy vọng như vậy.
Người trẻ tuổi đó có vẻ lo ngại, đáp:
- Không nên nuôi nhiều ảo tưởng quá. Riêng tôi, năm nay tôi không hy vọng gì nhiều. Bắp sẽ cao một chút, thu hoạch sẽ tăng được một chút, thế thôi, vì đất xấu quá.
- Nhưng sang năm, sẽ có khu rào bò đó.
Người trẻ tuổi hăng hái đáp:
- Vâng. Nhờ khu rào đó, sẽ khỏi mất đi nhiều phân. Umfundisi, họ hứa với tôi dù mùa đông này lạnh nhiều thì họ không đốt phân bò để sưởi nữa.
- Phải mấy năm cây mới lớn nhỉ?
Thầy cán sự rầu rầu, đáp:
- Phải nhiều năm. Thưa Umfundisi, họ có thể chịu được lạnh sáu bảy năm không nhỉ?
- Đừng nản chí. Ông Tù trưởng và tôi sẽ hết sức giúp thầy.
- Vâng. Tôi nóng lòng về việc xây đập quá. Xây xong thì sẽ có nước để tưới các bãi cỏ. Và thưa Umfundisi - giọng chàng hoá hăng hái - lúc đó thung lũng này sẽ có sữa để uống, và chúng ta sẽ không cần tới sữa của người da trắng nữa.
Kumalo ngó thầy ta, hỏi:
- Không có sữa của người da trắng thì chúng ta sẽ ra sao? Người da trắng không giúp chúng ta tất cả những việc đó thì chúng ta sẽ ra sao? Và chính thầy nữa, lúc này thầy sẽ ở đâu? Thầy không đương làm việc cho ông ấy đấy ư?
Thầy ta đáp, giọng hơi sẵng:
- Vâng, ông ấy trả lương tôi. Tôi không phải là người vong ân.
Kumalo có giọng lạnh lùng:
- Vậy không nên ăn nói như vậy.
Hai người hơi ngượng với nhau, cho tới khi thầy cán sự ôn tồn nói:
- Thưa Umfundisi, tôi đã tận tâm với công việc ở đây. Umfundisi thấy chứ?
- Thấy.
- Tôi tận tâm như vậy là để phụng sự quê hương tôi, dân tộc tôi. Xin Umfundisi hiểu cho như vậy. Tôi không thể tận tâm như vậy vì bất kỳ ông chủ nào được.
- Nhưng nếu thầy không làm cho ông chủ thì lúc này thầy có ở đây không?
- Tôi hiểu Umfundisi. Con người đó tốt và tôi ca tụng ông ta. Nhưng việc không nên xảy ra cách đó.
- Thế thì việc nên xảy ra cách nào?
Thầy ta bướng bỉnh đáp:
- Không phải cách đó.
- Thế thì cách nào?
- Thưa Umfundisi, bọn da trắng để lại cho chúng ta rất ít đất, họ lôi chúng ta ra khỏi đất đai của chúng ta để bắt chúng ta làm công cho họ. Rồi chúng ta lại dốt nát. Chính vì những nguyên nhân đó mà thung lũng này mới điêu tàn. Vậy những việc thiện của người da trắng đó chỉ là một cách đền bù lại thôi.
- Tôi không ưa cái giọng đó.
- Tôi hiểu Umfundisi, hiểu lắm. Nhưng Umfundisi cho tôi hỏi một điều.
- Cứ hỏi.
- Nếu thung lũng này phục sinh lại được như Umfundisi vẫn luôn cầu nguyện, thì theo Umfundisi, nó có thể nuôi được hết người của bộ lạc này không, nếu những kẻ đi nơi khác đều trở về đây hết?
- Điều đó tôi không biết.
- Nhưng tôi biết thưa Umfundisi. Phục sinh lại được thì thung lũng này đủ nuôi những người hiện ở đây, nhưng khi con cái họ lớn lên thì lại không đủ nuôi nữa, sẽ đông quá, một số lại sẽ phải đi nơi khác kiếm ăn.
Kumalo làm thinh, không biết đáp sao. Ông thở dài:
- Thầy thông minh hơn tôi nhiều.
- Tôi xin lỗi Umfundisi.
- Thầy có lỗi gì đâu. Tôi thấy rằng thầy rất yêu sự thực.
- Thưa Umfundisi, tôi đã được một người dạy cho tôi yêu sự thực, một người da trắng. Ông đó bảo: “ Không yêu sự thực thì ngay việc trồng cây cũng không thể có kết quả tốt được ”.
- Ông đó sáng suốt.
- Chính ông ấy cũng dạy tôi rằng: chúng ta làm việc không phải cho chủ mà cho quốc gia, dân tộc. Ông ấy còn bảo: “ Cũng không làm việc vì tiền nữa ”.
Kumalo cảm động, nói:
- Có nhiều người nghĩ như thầy không?
- Thưa Umfundisi, tôi không biết được. Tôi không biết có nhiều người không, nhưng có.
Thầy ta hăng hái, nói tiếp:
- Chúng ta làm việc cho châu Phi, chứ không phải cho người này, người khác. Không phải cho người da trắng hay da đen, mà cho châu Phi.
- Sao thầy không nói là cho Nam Phi?
Thầy ta vắn tắt đáp:
- Nếu nói được thì chúng ta sẽ nói như vậy?
Thầy suy nghĩ một lát:
- Chúng ta nói như trong bài chúng ta hát Nkosi Sikelel’i Afrika.
Kumalo bảo:
- Tối rồi, thôi đi tắm rửa thôi.
Thầy cán sự rất nghiêm trang nói thêm:
- Xin Umfundisi hiểu cho tôi. Tôi không phải là người làm chính trị, tôi không phải là người khuấy động thung lũng của Umfundisi. Tôi chỉ muốn phục sinh nó thôi.
Kumalo cũng nghiêm trang đáp:
- Cầu trời phù hộ cho thầy thành công.
- Dạ.
- Tôi không thể ngăn cản cháu có những tư tưởng đó được đâu, một thanh niên nên có những tư tưởng sâu sắc như vậy. Nhưng cháu đừng nên oán thù ai hết nhé, đừng mong có uy quyền đối với ai hết nhé. Vì một ông bạn tôi đã bảo tôi rằng: uy quyền làm hư hỏng con người.
- Thưa Umfundisi, cháu không oán thù ai hết, không muốn có uy quyền đối với ai hết.
- Vậy thì tốt. Vì ở trên quê hương chúng ta đã có nhiều oán thù quá rồi.
Chàng trẻ tuổi vô nhà để tắm rửa. Ông lão còn ngồi nán lại trong bóng tối. tinh tú bắt đầu lấp lánh ở trên vòm trời thung lũng sắp được hồi sinh này. Ông chỉ mong thung lũng được hồi sinh thôi vì đời ông đã sắp tàn. Ông già quá rồi, không quan tâm tới những tư tưởng mới mẻ lộn xộn đó, nó còn làm ông thêm khổ vì nó đả kích nhiều cái quá. Phải, nó đả kích con người ít nói, nghiêm nghị ở High Place, con người chịu cảnh đau lòng như vậy mà vẫn tỏ lòng nhân từ mực đó. Ông già quá rồi, không quan tâm tới những tư tưởng mới mẻ, lộn xộn đó. Người ta gọi ông và hạng người như ông là chó săn của bọn da trắng. Thì từ trước ông vẫn sống như vậy, nay cũng sẽ sống như vậy cho đến tàn niên.
Ông quay vào nhà với chàng thanh niên.
Ngày mười bốn tháng đó, Kumalo bảo vợ:
- Anh phải vô núi.
Bà vợ đáp:
- Em hiểu mình.
Vì bà thấy ông đã hai lần hành động như vậy rồi; một lần: Absalom còn nhỏ đau xuýt chết, và một lần nữa: ông muốn bỏ chức mục sư mà quản lý một cửa hàng bản xứ ở Donnybrook cho một người da trắng tên là Baxter, để kiếm được nhiều tiền hơn ở giáo đường. Còn một lần thứ ba nữa, nhưng lần này bà đi vắng nên không biết: hồi đó ông bị cám dỗ ghê gớm, xuýt mắc tội thông dâm với một cô giáo cô đơn, dễ mềm lòng ở trường Ndotsheni.
Ông nói bà:
- Mình có muốn đi với anh không? Anh không muốn mình phải ở nhà một mình.
Bà cảm động đáp:
- Em không thể đi được, vì con dâu nó sắp tới ngày sanh rồi, không biết bất thần lúc nào. Nhưng mình cứ đi đi.
Bà nấu cho ông một bình trà, gói vài cái bánh bột bắp chắc dạ cho ông mang theo. Ông lấy một chiếc áo choàng và cây gậy và leo con đường mòn đưa lên nhà viên Tù trưởng. Nhưng tới ngã ba đầu tiên, ông quẹo về phía tay lấy thức ăn, leo một ngọn đồi nữa, tiến tới những cái chồi ngay ở chân núi. Tới đây lại quẹo nữa, đi men theo chân núi về phía đông, tức về phía thung lũng Empayeni ở xa tít mù, một thung lũng đất cũng đỏ và trụi, cũng chỉ có toàn ông già bà cả, đàn bà và con nít.
Nhưng chưa tới thung lũng mới tới con đường phẳng, tới chỗ nó bắt đầu đổ xuống thung lũng thì ông bỏ con đường đó mà leo lên núi. Núi này tên Emoyeni, có nghĩa là: Ở trong gió, nó cao ngất, nhìn xuống Carisbrooke và các ngọn núi khác, nhất là mặt ngó xuống thung lũng Ndotsheni và Empayeni thì nó lại càng cao. Nó quả là bức thành của thung lũng Umzimkulu và đứng trên núi đó nhìn xuống, người ta thấy được một cảnh đẹp nhất của châu Phi.
Trời đã gần tối và Kumalo đi một mình trong cảnh chạng vạng; như vậy càng tốt vì không nên cho nhiều người biết. Nhưng khi ông bắt đầu leo con đường mòn ở giữa các tảng đá thì thấy bóng một người cỡi ngựa và có tiếng gọi:
- Phải Umfundisi đấy không?
- Thưa phải, Umnumzana.
- May quá, tôi tính lại nhà Umfundisi đây. Trong túi tôi có một bức thư gởi cho các người ở giáo đường.
Ông ta im lặng một lát, rồi nói thêm:
- Vòng hoa hôm đó đẹp quá, Umfundisi.
- Cảm ơn Umnumzana.
- Còn cái chuyện giáo đường? Umfundisi có muốn cất một giáo đường mới không?
Kumalo chỉ mỉm cười lắc đầu chứ không biết đáp ra sao. Và mặc dầu ông ta lắc đầu như thể đáp : “ không ”, Jarvis cũng hiểu ý.
- Bản đồ sắp gởi tới cho Umfundisi coi, và Umfundisi phải cho tôi biết có vừa ý không.
- Thưa Umnumzana, tôi sẽ trình lên đức Giám mục.
- Đó là việc của Umfundisi, tôi không bàn tới. Tôi chỉ muốn rằng đừng lâu lắc quá, vì tôi sắp rời khỏi miền này.
Nghe mấy lời đau buồn đó, Kumalo ngây người ra, lo sợ. Mặc dầu trời tối, Jarvis cũng đoán được tâm trạng của ông, vội nói thêm:
- Nhưng tôi cũng sẽ thường trở về đây, vì Umfundisi cũng biết, tôi có một công việc dở dang ở Ndotsheni. Này, chàng thanh niên đó ra sao?
- Làm việc suốt ngày đêm. Không lúc nào nghỉ ngơi cả.
Người da trắng khẽ cười:
- Tốt lắm.
Rồi ông ta rầu rầu nói thêm:
- Nhà tôi bây giờ chỉ còn một mình tôi. Vì vậy tôi ra Johannesburg ở với con dâu và các cháu. Umfundisi biết thằng cháu nhỏ của tôi đấy chứ?
- Thưa Umfundisi, tôi biết cậu ấy.
- Nó có giống ba nó không?
- Thưa giống, Umnumzana.
Kumalo nói thêm:
- Thực tình tôi chưa thấy em nhỏ nào như cậu ấy.
Ngồi trên lưng ngựa, Jarvis quay mặt đi, và trong bóng tối, con người nghiêm nghị ít nói đó như bừng lên chút nhiệt tình.
- Umfundisi, muốn nói gì vậy?
- Thưa Umnumzana, ở cậu ấy tôi thấy có cái gì rực rỡ.
- Ừ, ừ , đúng đấy. Ba nó cũng vậy.
Rồi Jarvis nói thêm, như một người đương khát khao:
- Umfundisi, còn nhớ không?
Và biết ông ta đương khát khao, nên Kumalo mặc dầu chẳng nhớ rõ, cũng đáp:
- Thưa nhớ.
Họ làm thinh một lát rồi Jarvis bảo:
- Tôi phải đi thôi Umfundisi.
Nói vậy mà ông ta vẫn không đi. Trái lại, ông ta còn hỏi thêm:
- Umfundisi, đi đâu vào giờ này?
Kumalo lúng túng, không biết nói sao, nhưng rồi cũng đáp:
- Tôi vô núi.
Thấy Jarvis làm thinh,Kumalo tìm lời để giảng giải thêm, nhưng chưa kịp nói thì Jarvis bảo:
- Tôi hiểu, tôi hiểu lắm.
Giọng Jarvis đầy tình thương xót, làm cho ông lão khóc và Jarvis ngồi trên lưng ngựa, thấy ngượng ngượng. Ông ta có thể xuống ngựa an ủi ông lão, nhưng việc đó không nên khinh xuất. ông ta dang tay trỏ thung lũng chìm trong bóng tối bảo:
- Có một việc đương sắp xong, nhưng ở đây một công việc khác mới đương bắt đầu. Tôi còn sống ngày nào nó sẽ còn tiếp tục ngày đó. Thôi Umfundisi đi mạnh giỏi
- Thưa Umnumzana.
- Cái gì nữa?
- Umnumzana đừng đi vội, cho tôi cảm ơn đã. Cảm ơn về thanh niên đó, và về sữa. Bây giờ cảm ơn thêm về giáo đường.
Jarvis nói, giọng nửa vui mà nửa buồn:
- Tôi biết một người, người đó ở trong bóng tối cho tới khi Umfundisi tìm ra được. Nếu đó là công việc Umfundisi làm thì tôi sẵn lòng tặng.
Có lẽ câu nói có ý nghĩa gì rất thâm thúy, hoặc giả vì ở trong bóng tối, nên Kumalo hoá bạo dạn và đáp:
- Thú thật, trong số tất cả những người da trắng mà tôi được biết…
Jarvis vội ngắt lời một cách xẵng:
- Tôi đâu phải là một vị thánh.
- Cái đó, tôi không thể biết được. Nhưng Thượng Đế đã đặt bàn tay của Ngài lên Umnumzana.[1]
Jarvis bảo:
- Có thể như vậy, có thể như vậy.
Rồi ông ta thình lình quay lại, chào:
- Umfundisi đi mạnh giỏi. Suốt đêm nay ở lại mạnh giỏi.
Kumalo chào lại, trong khi Jarvis thúc ngựa đi:
- Umnumzana đi mạnh giỏi.
Thực ra còn nhiều điều khác sâu sắc mà ông lão muốn nói thêm, nhưng không dễ gì mà nói. Đợi cho tiếng vó ngựa chìm hẳn trong cảnh tịch mịch rồi, ông mới bám vào các phiến đá lớn mà khó nhọc leo lên vì sức đã suy. Lên tới đỉnh, ông đã mệt đừ, hổn hển, ngồi xuống một phiến đá để nghỉ, nhìn dãy núi Ingeli và Đông – Griqualand đen sẫm ở bên kia thung lũng lớn. Nghỉ khoẻ rồi, ông tiến thêm một quãng ngắn nữa, tìm thấy chỗ mà mấy lần trước ông đã tới.
Chỗ đó là một góc trong đám đá, khuất gió, có thể ngồi bỏ chân thõng xuống được. Ông nhớ nhất là lần đầu tiên lại đó, có lẽ là vì lần đó là lần đầu, mà cũng có lẽ là vì lần đó ông cầu nguyện cho đứa con trai của ông, mà không còn lời cầu nào có thể cứu nổi nữa. Thời đó nó không biết viết, bây giờ thì nó viết ba bức thư và cả ba bức đều bảo: “ Nếu con được về Ndotsheni, thì không bao giờ con rời nơi đó nữa ”. Trong một hai ngày nữa ông bà sẽ nhận được bức thư cuối cùng trong đời nó. Lòng ông xúc động, vô cùng thương xót đứa con sắp chết đó, đứa con đã hứa sẽ không bao giờ phạm tội nữa, nhưng nó đâu có được ân xá. Nếu ông gặp được nó sớm hơn thì có thể….Ông cau mày nhớ lại những câu hỏi tàn nhẫn và vô ích này: “ Tùy ý ba, như ba nói đó. Con không biết ”. Nó trả lời như vậy để làm gì kìa?
Ông gạt bỏ những hồi ức vô ích đó đi, và bắt đầu một đêm không ngủ. Ông xám hối, rán nhớ lại hết các tội lỗi từ lần cuối cùng ông vô núi này. Có những tội ông nhớ dễ dàng như tội nói dối trong chuyến xe lửa, tội nói dối với em ông, làm em ông giận dữ đuổi ông ra khỏi nhà, khép cửa, cài chốt lại; tội mất lòng tin ở Johannesburg; tội dằn vặt làm khổ thiếu nữ sa đoạ mà ngây thơ như em bé nọ. Ông rán ôn lại kỹ tất cả các lần và cầu nguyện để được xá tội.
Rồi ông tạ ân Thượng Đế, nhớ một cách rõ rệt rằng ông có nhiều lý do để tạ ân Thượng Đế về nhiều việc. Ông xét từng việc một, tạ ân về từng việc một và cầu nguyện cho mỗi người mà ông nhớ lại. Trước hết là ông Msimangu rất thân mến đã rộng rãi cứu mạng ông. Rồi tới người da trắng trẻ tuổi ở trại Cải huấn, đã cau mày bảo ông: “ Tôi xin lỗi Umfundisi, đã thốt ra những lời giận dữ đó ”. Rồi tới bà Lithebe từ tâm vẫn thường nói: “Ở đời thì phải giúp đỡ lẫn nhau ”. Rồi tới cha Vincent chìa hai bàn tay ra bảo: “ Umfundisi muốn gì thì cứ cho tôi hay, bất kỳ là việc gì, giúp được thì tôi sẽ giúp ”. Rồi tới ông luật sư vì Thượng Đế mà lo việc ấy, và đã viết thư nhã nhặn thân mến báo tin không được ân xá.
Rồi tới ngày về Ndotsheni, bà vợ và người thân tín đi đón, còn người đàn bà vắt tấm tạp dề lên đầu đó nữa. Rồi bọn phụ nữ đợi ông ở giáo đường. Hôm đó về tới nhà vui quá, ông quên hết nỗi đau khổ của mình.
Ông trầm ngâm một hồi lâu, vì một người khác trở về một thung lũng khác, không phải thung lũng này, có được tiếp đón niềm nở như vậy không? Tại sao riêng ông lại được thấy nỗi đau khổ biến thành nỗi vui mừng như vậy? Tại sao riêng ông giác ngộ về Thượng Đế như vậy?
Một người khác không được giác ngộ như vậy, có thể là sẽ phải sống trong cảnh đau khổ bất tuyệt. Tại sao lại có cái gì thúc đẩy, ông cầu nguyện cho Ndotsheni được phục sinh. Và tại sao lại có một người da trắng, ở trên đỉnh đồi kia làm những công tác đó cho cái thung lũng này, những công tác mà người khác không bao giờ làm. Và tại sao lại xui khiến cho người đó chính là người có con bị con trai ông giết? Một người khác không phải là ông có thể nào cũng bị thúc đẩy, cầu nguyện ngày đêm không ngừng, cho sự phục sinh của một thung lũng nào khác, không bao giờ được phục sinh không?
Nhưng óc ông không thể suy nghĩ hơn được nữa. Cái đó đầu óc con người không sao hiểu nổi. Ông gạt bỏ những ý nghĩ đó đi vì nó huyền bí quá.
Rồi lại còn ông da trắng Jarvis, bà vợ mới chết, cậu bé có cái gì rực rỡ kia. Óc ông cũng không sao hiểu nổi. Nhưng ông thấy những cái đó đủ cho ông tạ ơn Thượng Đế cho tới hết đời. Và ngay bây giờ ông rán tạ ơn vài điều.
Ông giật mình tỉnh dậy. Trời lạnh nhưng không lạnh lắm. Mấy lần trước ông không bao giờ ngủ, nhưng bây giờ ông già nua rồi, đời tuy chưa tàn hẳn, nhưng cũng gần tàn rồi. Ông nghĩ tới tất cả người đau khổ, tới cô Gertrude tâm hồn nhu nhược, điên khùng. Tới những người ở Shanty Town và Alexandra. Tới bà vợ lúc này. Người ông nghĩ tới nhiều hơn cả là Absalom, con trai ông. Lúc này nó thức hay ngủ, cái đêm cuối cùng trong đời nó này, nó thể chợp mắt được không? Ông gào lên: “ Con ơi! Con, con! ”.
Gào thế rồi ông tỉnh hẳn dậy, ngó đồng hồ, thấy một giờ khuya. Quá năm giờ một chút, thì mặt trời sẽ mọc và người ta bảo lúc đó là xong rồi. Nếu con ông còn đương ngủ thì cứ để cho nó ngủ, như vậy là hơn. Nhưng nếu nó đã tỉnh dậy, thì – Ôi! Chúa Ki Tô chí nhân chí từ - xin Chúa ở bên cạnh nó. Ông cầu nguyện như vậy rất thành tâm và rất lâu.
Còn bà vợ ông đã tỉnh chưa? Có nghĩ tới cái đó không? Không vì người con dâu thì bà đã cùng tới đây với ông rồi. Và đứa con dâu đó nữa, ông quên nó chứ? Chắc chắn là nó đương ngủ, không phải vì vô tình với chồng nó, mà vì chồng nó có ân nghĩa gì nhiều với nó đâu, không nhiều gì hơn những người chồng khác của nó.
Ông nghĩ tới Jarvis có tang vợ và tang con, nghĩ tới nàng dâu của ông ta goá bụa, và những đứa nhỏ mồ côi cha, nhất là cậu bé rực rỡ hay cười đó. Cậu ta đứng trước mặt ông và bảo ông: “ Khi tôi đi rồi thì Ndotsheni mất một cái gì rực rỡ ”. Cậu nói: “ Phải, tôi hiểu, tôi hiểu ”. Cậu không bẽn lẽn, không xấu hổ, mà bảo: “ Phải, tôi hiểu ”, rồi cậu cười vui vẻ.
Bây giờ ông nghĩ tới tất cả những người châu Phi, quê hương yêu dấu của ông. Nkosi Sikelel’ i Afrika. Xin Thượng Đế che chở cứu vớt châu Phi. Nhưng ông không được thấy sự cứu vớt đó. Nó còn xa vời quá, vì con người sợ nó. Nói cho đúng, họ sợ ông, sợ vợ ông, sợ Msimangu, sợ thầy cán sự trẻ tuổi.
Mà trong những nguyện vọng, những khao khát của những người này có gì xấu đâu? Đòi được đi đứng hiên ngang trên non sông của tổ tiên mình, nơi chôn nhau cắt rốn của mình, đòi được tự do hưởng huê lợi của đất đai thì có gì xấu? Vậy mà những kẻ kia sợ, sợ ghê gớm tận trong đáy lòng, sợ tới nỗi phải giấu lòng tốt của mình đi, hoặc có biểu lộ ra thì lại biểu lộ một cách tàn bạo, giận dữ, cau mày nhăn mặt. Họ sợ vì họ là thiểu số. Chỉ có tình thương mới diệt được nỗi sợ đó.
Chính Msimangu, con người không thù oán ai hết đó, đã bảo:
- Tôi chỉ có một nỗi sợ trong lòng tôi, sợ một ngày kia khi họ bắt đầu có tình thương yêu, thì thấy chúng mình đã hoá ra thù ghét họ rồi.
Ôi! những lời đó nghiêm trọng và bi thảm làm sao!
Khi ông thức dậy lần nữa thì ở phương Đông trời đã hơi thay đổi; ông hơi hoảng hốt nhìn đồng hồ. Nhưng ông yên tâm lại: mới có bốn giờ. Bây giờ thì cần phải tỉnh hẳn, vì có lẽ người ta đương đánh thức con ông bảo nó sửa soạn rồi đây. Ông đứng lên, nhưng chân lạnh và tê cóng, khó đứng vững được. Ông kiếm một chỗ khác để nhìn về phương Đông, vì nếu lời người ta nói mà đúng, thì khi mắt trời ló ở chân trời là mọi sự đã xong.
Ông nghe nói buổi sáng đó, muốn ăn cái gì người ta cũng cung cấp cho. Lúc đó mà còn có người đòi ăn, thì ông cho là điều kỳ dị. Một sự bí mật thầm kín nào đó không biết rằng sắp phải chết, còn thúc đẩy cơ thể làm cho nó thấy đói chăng? Con nó có tĩnh tâm không? Có bình tĩnh bận quần áo không? Hiện lúc này có nghĩ tới Ndotsheni không?
Mắt nó rưng rưng không? Nó có chùi nước mắt không? Nó có đàng hoàng đứng thẳng lên mà ra vẻ con người không? Nó có bảo: “ Không, tôi không muốn ăn, tôi muốn cầu nguyện ” không? Ông Msimangu có ở đó với nó không? Cha Vincent hoặc một mục sư nào có tới an ủi cho nó mạnh bạo lên không? Vì nó sợ treo cổ quá.
Mà nó có hối hận không hay chỉ còn sợ hãi thôi? Lúc này còn có thể làm gì được nữa không? Có một đấng thiên thần nào xuống bảo: “ Việc phán quyết là việc của Thượng Đế, không phải của loài người. Lại đây với ta, đi với ta, con ”.
Cặp mắt nhạt nhoà của ông nhìn ánh sáng còn yếu ớt nhưng mỗi lúc một thêm tỏ ở phương Đông. Ông bình tĩnh lại, lấy gói bánh bột bắp và bình trà ra đặt trên phiến đá, đọc lời kinh Tạ Ân, bẻ bánh ăn và uống trà. Rồi ông thành tâm cầu nguyện, cứ cầu nguyện xong một điều lại ngước mặt lên nhìn về phương Đông. Phương Đông mỗi lúc một sáng lên và ông biết sắp tới lúc đó rồi. Khi ông đoán rằng việc đó đương xảy ra thì ông đứng dậy, dỡ nón, đặt nó xuống đất, chắp tay ở trước ngực. Trong khi ông đứng như vậy, mặt trời ló dạng ở phương Đông.
Phải, trời đã bình minh. Con chim Titihoya bừng tỉnh, cất tiếng hót khắc khoải. Tia sáng bình minh lướt trên đỉnh núi Ingeli và đông – Griqualand. Thung lũng lớn Umzimkulu còn chìm trong bóng tối nhưng ánh sáng sẽ giọi xuống đó. Ndotsheni còn chìm trong bóng tối nhưng ánh sáng cũng sẽ giọi xuống đó. Vì bình minh đã hiện, như nó đã hiện hàng ngàn thế kỷ nay, không hề sai chạy. Nhưng còn cái bình minh kia, cái bình minh của thời giải thoát chúng ta khỏi sự sợ hãi của cảnh nô lệ, khỏi bị nô lệ sự sợ hãi, cái bình minh đó bao giờ mới hiện thì không ai biết được.
[1]Cũng như ta nói: Thượng Đế đã phù hộ Umnumzana.