Tôi đã giữ cho huynh một phòng trong nhà một bà già, bà Lithebe, một người hiền lương trong giáo khu. Bà ta là người Msutu, nhưng nói thạo tiếng Zulu. Bà ta sẽ lấy làm hân hạnh có một mục sư trong nhà. Tiền phòng rẻ, có ba si-ling một tuần thôi, còn ăn uống thì huynh qua đây ăn với anh em trong hội Truyền Giáo. Ủa, chuông đánh báo tới bữa ăn rồi này. Mời huynh đi rửa tay.
Họ rửa tay trong một phòng rất tân thời, có một la-va-bô trắng tinh, đủ nước nóng nước lạnh, mấy chiếc khăn mặt tuy đã cũ nhưng rất trắng, cầu tiêu cũng tân thời. Xong rồi chỉ cần ấn một cái nút nhỏ là nước ồ ồ chảy ra như có cái gì bể vậy, không biết trước thì giật mình.
Họ vô một căn phòng bàn ăn đã dọn sẵn và Kumalo gặp mấy mục sư nữa cả da trắng lẫn da đen; họ đọc kinh tạ ơn rồi bắt đầu ăn. Kumalo nhìn thấy có nhiều đĩa, dao và nĩa, hơi hoang mang, nhưng rồi để ý ngó các người khác làm ra sao và cũng làm vậy.
Ông ngồi bên một mục sư trẻ tuổi, cặp má hồng hào từ Anh qua; mục sư này hỏi ông từ đâu tới và miền ông ở ra sao. Một mục sư khác, da đen la lên:
- Quê tôi cũng ở Ixopo. Song thân tôi còn sống ở đó, trong thung lũng Lufafa. Miền đó lúc này ra sao?
Và Kumalo nói chuyện về những miền đó cho họ nghe, tả những đồi cao và thung lũng của xứ xa xôi mà ông yêu quí đó. Giọng ông chắc nồng nàn vì mọi người đều làm thinh, chăm chú nghe ông. Ông cũng tả bệnh cằn cỗi của đất đai, cây cỏ chết lụi, khe suối khô cạn; cảnh tiêu điều trong miền chỉ còn các ông già bà cả, đàn bà và con nít; bắp thì cao không tới đầu người mà bộ lạc thì tan tác, nhà cửa hoang tàn, con người thất vọng; mà khi họ bỏ nhà ra đi rồi thì nhiều kẻ không khi nào trở về nữa, nhiều kẻ không viết một bức thư nào về nữa. Ông bảo rằng tình cảnh đó không chỉ riêng ở Ndotsheni, mà chung cho cả các thung lũng Lufafa, Imhlavini, Umkomaas và Umzimkulu. Nhưng về Gertrude và Absalom thì ông không nói gì cả.
Thế là mọi người cùng bàn bạc về bệnh cằn cỗi của đất đai, về những bộ lạc tan tác, nhà cửa hoang tàn, những trai gái bỏ quê hương ra đi, quên cả tục lệ và sống một đời phóng túng, biếng nhác. Họ nói đến bọn thiếu nhi phạm pháp, bọn phạm pháp lớn tuổi hơn và nguy hiểm hơn nữa. Họ bảo rằng người da trắng sống trong cảnh sợ hãi vì bọn bất lương da đen. Một người đi kiếm một tờ nhật báo, tờ Johannesburg Mail, chỉ cho Kumalo một tít in chữ lớn: MỘT CẶP VỢ CHỒNG GIÀ, BỊ ĐÁNH ĐẬP CƯỚP BÓC TRONG NGÔI NHÀ HẺO LÁNH, BỐN THỔ DÂN BỊ BẮT, và bảo:
- Những chuyện như vậy xảy ra gần như hằng ngày. Mà không phải chỉ riêng người Âu sợ hãi đâu. Chúng tôi cũng sợ nữa, ngay ở Sophiatown này. Mới cách đây không lâu, bọn thanh niên đó cướp giật một thiếu nữ Phi, lấy xắc và tiền nong, và nếu người ta không chạy tới kịp thì chắc là thiếu nữ đó đã bị chúng hiếp rồi.
Ông mục sư mặt hồng hào bảo:
- Ở Johannesburg này ông sẽ biết được nhiều chuyện nữa. Không phải chỉ riêng miền của ông bị tàn phá đâu. Chúng ta còn phải nói chuyện với nhau nhiều nữa. tôi muốn được nghe ông nói tiếp về xứ sở của ông, nhưng bây giờ tôi có việc phải cáo biệt.
Câu chuyện tới đó ngừng lại và Misimangu muốn dắt Kumalo về phòng riêng của mình. Ông ta bảo:
- Chúng tôi có nhiều chuyện phải nói với nhau.
Hai người trở lại phòng riêng của Msimangu. Khi cửa khép lại rồi, họ cùng ngồi xuống rồi, Kumalo bảo:
- Xin huynh thứ lỗi cho, tôi nóng ruột muốn biết tin tức về em gái tôi.
- Vâng, vâng, tôi biết chắc rằng huynh nóng ruột lắm, và chắc huynh cho tôi là có vẻ thản nhiên. Nhưng xin lỗi, trước hết tôi muốn biết cô ấy tới Johannesburg này làm gì vậy?
Câu hỏi đó làm Kumalo bối rối, nhưng ông không dám giấu, phải nói thẳng rằng em gái ông ra đây tìm chồng. Chồng đã đăng phu mỏ, hết hạn rồi mà không về, cũng không cho biết tin tức gì cả. Em gái ông không biết chồng còn sống hay chết, đành dắt đứa con nhỏ ra đây tìm chồng.
Thấy Msimangu làm thinh ông lo lắng hỏi:
- Cô ấy đau nặng lắm không?
Msimsngu nghiêm nghị đáp:
- Vâng, đau nặng lắm. Nhưng không phải thứ bệnh đó mà là một thứ bệnh khác; tệ hơn nhiều. Tôi đã nhắn huynh ra đây vì thiếu phụ đó cô độc mà lại là em ruột một mục sư. Tôi không biết cô ấy có tìm được chồng không, nhưng hiện nay cô ấy không có chồng.
Ông ta ngó Kumalo, nói thêm:
- Nói cho đúng hơn cô ta có rất nhiều chồng.
Kumalo khẽ kêu lên:
- Tixo! Tixo!
- Hiện nay cô ấy ở Charemont, cũng gần đây. Khu đó là một trong những khu tồi tệ nhất ở Johannesburg. Sau các cuộc bố ráp của cảnh sát, rượu chảy ra cùng đường. Vô cái khu đó là ngửi thấy nồng nặc mùi rượu, không có mùi gì khác hơn là mùi rượu.
Ông ta nghiêng mình về phía Kumalo, bảo:
- Hồi xưa tôi cũng thường uống rượu, nhưng đó là thứ rượu tốt như rượu của ông cha chúng mình cất. Bây giờ tôi đã thề rồi, không đụng tới một giọt rượu nữa. Thứ rượu ở đây xấu, người ta bỏ thêm vô những cái quái gì đó cho nó thêm nồng mà trước kia người mình có bao giờ dùng đâu. Đó, cái nghề lúc này của cô ấy là chế tạo thứ rượu đó rồi bán. Nói ra thì đau lòng nhưng tôi cũng phải nói hết. Bọn đàn bà đó ngủ với bất kỳ người đàn ông nào để kiếm tiền. Một người đàn ông bị giết ở nhà cô ấy. Họ đùa giỡn, nhậu nhẹt và đâm chém nhau. Cô ấy đã bị nhốt khám mấy lần rồi.
Ông ta ngả lưng vào chiếc ghế bành, đẩy một cuốn sách ở trên bàn ra xa rồi lại kéo nó về, bảo:
- Những tin đó đau xót cho huynh lắm.
Kumalo gật đầu và làm thinh.Msimangu lấy gói thuốc lá mời:
- Huynh hút một điếu.
Kumalo lắc đầu
- Tôi có biết hút thuốc đâu.
- Đôi khi hút thuốc làm cho thần kinh dịu được. Trong con người chắc còn có một thứ an tĩnh nào khác, lúc đó cứ để cho người ta hút để hưởng cái an tĩnh ấy. Nhưng ở Johannesburg, nhiều khi khó mà tìm được cái thứ an tĩnh ấy.
- Tại sao lại ở Johannesburg? Ở đâu mà chẳng vậy? Sự an tĩnh của Thượng Đế rời bỏ chúng ta rồi?
Cả hai lại im lặng, như thể một lời nào đó đã thốt ra rồi thì có nói gì thêm nữa cũng hoá ra vô nghĩa. Sau cùng Kumalo hỏi;
- Đứa nhỏ hiện ở đâu?
- Cùng ở đó với má nó. Nhưng nơi đó không phải là chỗ cho trẻ ở, và đó cũng là lý do tôi đã mời huynh ra đây. Nếu huynh không thể cứu được người mẹ thì may ra có thể cứu được đứa con.
- Nơi đó ở đâu?
- Cách đây không xa. Ngày mai tôi sẽ dắt huynh tới.
- Tôi còn một nỗi rầu rĩ nữa.
- Huynh cứ nói tôi nghe.
- Tôi sung sướng được thổ lộ với huynh.
Nhưng rồi Kumalo làm thinh, ran nói mà không thốt nên lời.
Msimangu bảo:
- Chẳng có gì gấp, huynh ạ…
- Khó nói quá. Đó là nỗi rầu rĩ nhất của chúng tôi.
- Chuyện cậu con trai chăng? Hay là cô con gái?
- Con trai.
- Cứ nói tôi nghe.
- Tên cháu là Absalom. Nó cũng ra đây để tìm cô nó, nhưng đi rồi không về và đã lâu rồi nó không thư từ gì về nhà nữa. Má nó và tôi gởi cho nó mấy bức thư, bức nào cũng gởi trả lại. Bây giờ nghe những lời huynh kể, tôi lại càng lo sợ.
- Chúng mình sẽ rán tìm kiếm nó. Có lẽ cô em đó biết nó ở đâu. Huynh mệt rồi, để tôi đưa huynh lại căn phòng tôi đã giữ cho huynh.
- Vâng, tôi cũng cần phải nghỉ ngơi.
Họ đứng dậy, Kumalo bảo:
- Tôi có thói quen, hễ cầu nguyện thì lại giáo đường. Huynh làm ơn chỉ lối cho tôi.
- Chúng mình đương đi về phía đó đây.
Kumalo có giọng khiêm cung:
- Ước gì huynh cầu nguyện cho tôi.
- Tôi sẵn lòng lắm. Huynh ạ, tôi cũng có nhiều công việc lắm, nhưng huynh còn ở đây ngày nào thì công việc của huynh là công việc của tôi.
- Huynh tốt bụng quá.
Giọng nói của Kumalo có cái gì khúm núm làm cho Msimangu cảm động.Msimangu đáp:
- Tôi không tốt bụng đâu. Tôi là một người ích kỷ và nhiều tội lỗi, nhưng được Thượng Đế ra tay cứu vớt thế thôi.
Ông xách giùm cái tay nải cho Kumalo nhưng trước khi tới cửa, Kumalo níu tay ông lại, bảo:
- Tôi có một điều muốn nói nữa.
- Cái gì vậy?
- Tôi cũng có một người em cũng ở Johannesburg. Chú ấy không bao giờ viết thư cho tôi cả. Tên là John Kumalo, làm thợ mộc.
Msimangu mỉm cười:
- Tôi biết ông ta. Còn thì giờ đâu nữa mà viết thư. Một đại chính trị gia ở Johannesburg đấy.
- Chính trị gia? Chú ấy mà là chính trị gia?.
- Phải, có uy thế về chính trị đấy.
Msimangu ngừng một chút rồi nói tiếp:
- Tôi mong rằng điều tôi nói đây sẽ không làm cho huynh đau lòng thêm nữa. Ông em của huynh từ bỏ giáo hội rồi. Ông ta bảo cái gì mà Thượng Đế không làm cho Nam Phi, thì con người phải làm. Nói vậy đó.
- Chuyến đi này của tôi thật chua chát quá.
- Đúng vậy.
- Đôi khi tôi lo sợ….Đức Giám mục mà hay thì không biết ngài sẽ nói sao? Một mục sư của ngài…
- Một đức Giám mục thì nói gì được? Một cái gì đó đã xảy ra mà không đức Giám mục nào có thể ngăn nổi? Ai có thể ngăn nổi những cái đó xảy ra? Nó đã xảy ra thì nó phải tiếp tục như vậy.
- Sao huynh có thể nói như vậy được? Làm sao huynh có thể nói được rằng những cái đó phải tiếp tục?
Msimangu nghiêm nghị lập lại:
- Nhưng cái đó phải tiếp tục. Không ai có thể ngăn cản được thế giới tiến tới. Tôi là người theo đạo Ki Tô. Trong thâm tâm tôi không oán người da trắng. Chính người da trắng đã kéo thân phụ tôi ra khỏi cảnh tối tăm. Nhưng xin lỗi bạn cho tôi nói thẳng. Cái bi kịch không phải là có những cái đã đổ vỡ. Bi kịch là đổ vỡ mà không sửa chữa lại được nữa. Người da trắng đã làm cho bộ lạc tan rã. Và tôi tin chắc rằng – tôi xin lỗi bạn lần nữa – tôi tin chắc là không sao sửa chữa được nữa. Nhà cửa tan tành, con người phiêu tán, những cái đó mới là bi thảm. mà hậu quả là trẻ ngày nay bất chấp pháp luật mà các người da trắng già thì bị đánh đập, cướp bóc.
Ông đưa tay lên trán, nghiêm nghị nói tiếp:
- Người da trắng cho rằng làm cho bộ lạc tan rã là điều có lợi. Nhưng họ không thấy cần phải xây dựng cái gì để thay thế. Tôi đã suy nghĩ rất nhiều vế vấn đề đó, và tôi cần phải nói ra vì tôi cho là điều tôi nói đây là sự thực. Không phải mọi người da trắng đều như vậy. Cũng có vài người da trắng hy sinh để rán xây dựng lại cái gì đã đổ vỡ. Nhưng số người đó ít lắm – ông nói tiếp - Họ sợ, sự thực như vậy. Chính sự sợ hãi chi phối, thống trị xứ này.
Ông ngừng lại ở giữa lề đường, nghiêm trang và bình tĩnh nói với bạn:
- Vì người da trắng nắm quyền hành mà chúng ta cũng muốn có quyền hành. Nhưng khi người da đen có được quyền hành, khi họ có nhiều tiền thì sẽ thành một vĩ nhân nếu không tham nhũng. Tôi đã thường thấy như vậy. Họ muốn có quyền hành và tiền bạc để sửa đổi những bất công trong xã hội và khi họ có được cái đó rồi thì họ chỉ lo lợi dụng và hưởng thụ thôi. Lúc đó họ có thể mua vui, có thể tìm cách mua được rượu của người da trắng. Có thể nói với cả ngàn người và nghe người ta vỗ tay hoan nghênh mình.
- Trong bọn chúng ta có vài người nghĩ rằng khi chúng ta có quyền hành thì có thể trả thù những người da trắng trước kia đã có quyền hành, và cái ý muốn đó xấu xa, vì chúng ta xấu xa nên quyền hành của chúng ta không có sức mạnh. Nhưng đa số người da trắng không hiểu sự thực đó về quyền hành và họ sợ chúng ta có quyền hành.
Ông đứng yên như suy nghĩ về những điều mới nói:
- Phải, đúng là quyền hành như vậy đó, nếu nó đồi bại thì không có sức mạnh. Chỉ có mỗi một cái là quyền hành tuyệt đối, tức tình thương. Vì khi có tình thương thì người ta không cầu có quyền hành, mà vì không cầu có quyền hành thì tự nhiên có quyền hành. Tôi chỉ thấy có mỗi một niềm hy vọng cho quê hương chúng ta, là người da trắng và người da đen không cầu có quyền hành và tiền bạc, chỉ mưu cái ích lợi cho xứ này và cùng hợp lực với nhau để thực hiện việc đó.
Ông ngừng nói, vẻ trầm tư, rồi rầu rĩ nói tiếp:
- Tôi sợ nhất một điều là tới khi họ biết có tình thương thì họ thấy chúng mình đã hoá ra thù ghét họ.
Và Kumalo lặng lẽ theo ông ta, lòng thấy trầm uất vì những lời nghiêm nghị và buồn bực đó.
*
* *
Họ tới Doorfontein mà cũng chẳng được việc gì mặc dầu người da trắng ở đó nể nang họ. Msimangu biết cách cư xử với người da trắng và họ chịu khó tìm hỏi, sau cùng hay rằng Absalom Kumalo đã thôi không làm ở xưởng đó một năm rồi. Một người nhớ rằng Absalom chơi thân với một người thợ trong xưởng tên là Dhlamini, và cho gọi anh thợ này lại. Anh ta bảo tin tức cuối cùng anh ta được biết là Absalom ở trọ nhà một bà tên là Ndlela ở đường End, con đường phân cách Sophiatown và khu Westdene của người Âu. Anh ta nhớ mài mại số nhà là 105, nhưng không chắc chắn lắm.
Kumalo và Msimangu lại trở về Sophiatown, quả nhiên gặp được bà Ndlela ở số 106, đường End. Bà nhã nhặn tiếp họ, trong khi mấy đứa con của bà núp sau váy mẹ mà ngó trộm khách. Bà ta bảo Absalom không còn ở đó nữa, nhưng yêu cầu họ đợi một chút, vì bà ta nhớ Absalom có viết cho bà một bức thư để xin lại những đồ vật để lại nhà bà. Và trong khi Kumalo chơi với mấy đứa nhỏ, Msimangu nói chuyện với chồng bà ta thì bà ta lấy ra một hộp lớn chứa đầy giấy má và đồ lặt vặt rồi lục lọi, tìm kiếm bức thư của Absalom. Msimangu nhận xét nét mặt hiền từ mệt mỏi của bà, thấy bà ngừng tay một chút, nhìn Kumalo có vẻ vừa tò mò vừa thương hại. Sau cùng bà ta kiếm được bức thư, chỉ cho họ địa chỉ: 79 đại lộ 23, Alexandra, nhờ bà Mkige giao lại giùm.
Chủ nhân pha trà, họ phải uống một chén, khi họ đứng dậy ra về thì trời đã tối. Ông chồng tiễn Kumalo ra tới tận ngoài đường.
Msimangu ở lại phía sau, hỏi bà vợ:
- Tại sao bà ngó ông bạn tôi mà có vẻ thương hại?
Bà ta nhìn xuống rồi lại ngước mắt lên đáp:
- Ông ấy là một Umfundisi?
- Phải!
- Tôi không ưa bọn bạn bè của con trai ông ấy. Nhà tôi cũng vậy. Vì vậy mà cậu ấy bỏ đi nơi khác.
- Tôi hiểu bà. Nhưng ngoài ra còn có gì nghiêm trọng hơn nữa không?
- Không, tôi không thấy gì khác nhưng tôi không ưa bạn bè của cậu ấy.
Vẻ mặt bà ta chân thành cởi mở, bà không nhìn xuống nữa.
- Xin chào bà.
- Xin chào Umfundisi.
Ra tới đường, Msimangu và Kumalo từ biệt người chồng rồi đi về phía hội Truyền giáo.
Msimangu bảo:
- Ngày mai chúng ta lại Alexandra.
Kumalo đặt bàn tay lên cánh tay bạn:
- Tôi lại Johannesburg này toàn là vì những chuyện không vui, nhưng được quen biết huynh, thật là niềm vui sướng cho tôi.
- Thôi chúng mình mau lên, kẻo trễ bữa tối rồi.
Sáng hôm sau, ăn điểm tâm ở hội Truyền giáo rồi, Msimangu và Kumalo đi qua một con đường lớn rất rộng có nhiều xe buýt qua lại.
Msimangu bảo:
- Ở đây đón thì chuyến xe nào cũng tới chỗ.
Kumalo mỉm cười vì bạn muốn giãi nỗi sợ đón lầm xe của mình.
Msimangu bảo:
- Tất cả xe buýt ở đây đều đi Johannesburg. Vậy khỏi phải sợ lầm xe.
Họ đón ngay chiếc xe buýt đương chạy tới, và chiếc xe đưa họ tới chỗ mà mấy hôm trước Kumalo đã bị mất một bảng. Từ đó họ đi ngang qua nhiều con đường đầy xe hơi, xe buýt, kẻ qua người lại và sau cùng tới bến xe buýt đi Alexandra. Nhưng họ bị ngăn cản bất ngờ, vì một người tiến lại họ, hỏi Msimangu:
- Umfundisi muốn đi Alexandra?
- Phải!
- Chúng tôi đứng đây để cản Umfundisi. Không phải bằng sức mạnh đâu - người đó đưa tay chỉ - cảnh sát đứng sẵn kia rồi. Chúng tôi dùng lời lẽ để thuyết phục. Đi xe buýt đó là Umfundisi làm hại quyền lợi của người da đen. Chúng tôi đã quyết định tẩy chay những xe buýt đó cho đến khi nào họ phải trở lại giá cũ là 4 pen-ni thì mới thôi.
- À! Phải, tôi có nghe nói về chuyện đó.
Msimangu quay lại nói với Kumalo:
- Tôi điên rồi huynh ạ. Tôi quên bẵng rằng không có xe buýt, quên rằng đương có cuộc tẩy chay xe buýt.
Kumalo nói nhỏ nhẹ, như năn nỉ:
- Chúng tôi có việc khẩn cấp.
Người đó lễ phép đáp:
- Vụ tẩy chay này cũng cấp thiết. Họ đòi chúng tôi phải trả 6 pen-ni, như vậy là mỗi ngày mất 1 si-ling, một tuần 6 si-ling, mà anh em chúng tôi có người chỉ kiếm được mỗi tuần 35 hay 40 si-ling.
Kumalo hỏi:
- Đi bộ có xa không?
- Thưa xa Umfundisi. Mười bẩy cây số.
- Xa quá, đối với một người già.
- Thưa, có những người già như Umfudisi mà ngày nào cũng phải đi đấy. Rồi đàn bà nữa, có người đau, có người tàn tật, cả con nít cũng phải đi đấy. Họ ra đi từ bốn giờ sáng và tám giờ tối mới về tới nhà. Nuốt vội một miếng, vừa mới ngả đầu trên gối chợp mắt được một chút thì phải dậy rồi để ra đi, có khi bụng rỗng không, chỉ uống có hớp nước nóng. Tôi không thể ngăn cấm Umfundisi đi xe buýt được, nhưng tôi nghĩ nó là một quyền lợi đáng cho chúng ta tranh đấu. Nếu chúng ta thua phen này thì những người khác ở Sophiatown, Claremont, Kliptoonn, Pimville cũng phải trả tiền xe tăng lên.
- Tôi hiểu lắm bạn. Chúng tôi sẽ không đi xe buýt đâu.
Người đó cảm ơn họ, rồi tiến lại gần một người khác có vẻ muốn đi xe buýt.
Kumalo bảo:
- Người đó có tài thuyết phục thật.
Msimangu nói, giọng dịu dàng:
- Ông ta là Dubula, con người nổi tiếng, bạn của ông John lệnh đệ đấy. Người ta bảo – huynh thứ lỗi cho nhé. Tomlinson có đầu óc, lệnh đệ có được cái giọng nói, còn ông này thì có nhiệt tâm. Chính quyền sợ ông ta nhất, vì chính ông ta không sợ gì cả. Ông ta không mưu tính cái gì riêng cho mình cả. Người ta bảo ông ta đã bỏ chỗ làm của mình để đứng gác ở đây cản người ta đi xe buýt, và vợ cũng đứng gác ở bến xe buýt Alexandra như chồng.
- Hai vợ chồng như vậy thật hãnh diện. Johannesburg là một nơi có nhiều cái đáng kỳ dị.
Msimangu nói, giọng có vẻ tiếc hận:
- Trước họ ở trong giáo phái của mình đấy, nhưng rồi bỏ ra ngoài. Cũng như ông em của huynh, họ bảo rằng giáo hội nói thì hay mà không hành động. Sao bây, bây giờ chúng mình tính sao?
- Tôi tính đi bộ.
- Đi mười bảy cây số, về mười bảy cây nữa. Xa lắm đấy huynh hiểu cho chứ, Johannesburg này không phải là chỗ hợp với một người con trai ở một thân một mình.
- Vậy thì đi.
Họ đi bộ mấy cây số qua khu của người Âu, lên con đường Twist tới Clarenton Cricle rồi xuống con đường Louis Botha tới Vườn cam. Xe hơi, xe cam nhông qua lại không ngớt, chiếc đi lên, chiếc đi xuống. Họ đi một lúc lâu, thì một chiếc xe hơi thắng lại ở bên cạnh họ, và một người da trắng ló đầu ra hỏi:
- Hai ông đi đâu đấy?
Msimangu cất nón chào, và nói:
-Thưa ngài, chúng tôi đi Alexandra.
- Tôi đoán không sai, lên xe tôi đưa đi.
Thật là may mắn cho họ; tới chỗ quẹo vào Alexandra, họ xuống xe ngỏ lời cảm ơn.
Người da trắng bảo:
- Đường xa quá, mà tôi biết rằng không có xe buýt….
Họ đứng nhìn chiếc xe chạy đi. Nhưng chiếc xe không chạy tới mà quay trở lại, đi ngược về Johannesburg.
Msimangu bảo:
- Thật là một chuyện lạ.
Từ chỗ đó tới đại lộ Hai mươi ba, đường còn xa, và trong khi họ đi hết đại lộ này tới đại lộ khác, Msimangu giảng cho bạn hiểu rằng Alexandra nằm ở ngoài ranh giới thành phố Johannesburg là một khu mà người da đen có quyền mua đất cất nhà. Nhưng đường phố tệ quá, lại không có đèn và nạn khan nhà trầm trọng tới nỗi, ai có phương tiện thì cũng cất thêm một vài cái chòi trong sân để cho mướn lại. Nhiều chòi là những ổ trộm cướp, gái điếm, chỗ nấu rượu lậu.
Msimangu bảo:
- Tình trạng thảm hại quá đến nỗi bọn người da trắng ở Vườn cam, ở Norwood và Highlands North cùng đứng đơn yêu cầu nhà cầm quyền san phẳng khu đó đi. Một thanh niên mình đã giật cái xắc của một bà già da trắng, bà ta té xuống, xúc động sợ quá mà chết tại chỗ. Rồi còn một chuyện ghê rợn này nữa: một người đàn bà da trắng ở một mình trong một căn nhà cách đây không xa, một bọn thanh niên mình xông vô cướp, bà ta chống cự lại mà bị chúng giết. Cũng có đôi khi đàn ông và đàn bà da trắng ban đêm ngừng xe hơi lại dưới tàn cây trên đường Oretoria; và bọn thanh niên mình có đứa lại cướp giật của họ, đánh đập họ, hiếp dâm đàn bà của họ nữa. Đành rằng hạng đàn bà đó thường là xấu xa, nhưng dù sao cũng là một trọng tội ghê gớm quá.
Msimangu ngừng lại một chút rồi nói tiếp:
- Tôi còn nhớ một vụ nữa ở phía bên kia Johannesburg. Một ông bạn của tôi ở một ngôi nhà cô lập trên con đường Potchefstroom. Giữa một đêm đông lạnh lẽo, còn lâu trời mới sáng mà ông ta nghe thấy có người gõ cửa. Ra coi thì là một người đàn bà da trắng gần như lõa lồ. Y phục bà ta đã bị xé toạc, còn mấy mảnh bà ta thu thu lại để che thân, mà da thì tìm đi vì lạnh. Một người đàn ông da trắng đã hiếp bà ta, ép bà ta lên xe hơi của hắn, và sau khi đã thoả mãn rồi - thoả mãn hay không thực ra tôi không biết rõ, vì tôi không có ở đó - hắn tống bà ta ra ngoài trời lạnh với mảnh áo tả tơi trên mình đó, rồi lái xe về Johannesburg. Hai vợ chồng ông bạn tôi kiếm cho bà ta được một chiếc áo dài cũ và một chiếc áo khoác cũ, nấu nước pha trà và quấn mền cho bà ta. Trẻ trong nhà thức dậy hỏi có chuyện gì vậy, nhưng vợ chồng ông bạn bảo chúng ngủ đi và không cho chúng vô phòng để coi bà nọ. Rồi đương đêm, ông bạn tôi lại nhà một chủ trại da trắng ở gần đó. Chó nhà này dữ quá, ông ta sợ nhưng cứ bước vô và khi người da trắng bước ra, ông ta kể chuyện đã xảy ra, bảo việc này nên làm kín đáo, không cho ai hay. Người da trắng bảo: “Được tôi sẽ lại ngay bây giờ ” rồi đánh xe ra, cả hai người trở về nhà ông bạn tôi. Bà da trắng muốn đưa một số tiền để trả ơn vợ chồng ông bạn tôi, nhưng không có tiền. Vợ chồng ông bạn tôi đều bảo bà ta rằng không nên đưa tiền. Người đàn ông da trắng bảo ông bạn tôi: “ Jy is’n goeie Kaffer ” ( chú là một tên Cafre[1] tốt ), và lặp câu đó tới hai lần…Ông ta cảm động, và bập bẹ mấy tiếng Bantu đó.
- Nghe chuyện, tôi cũng cảm động.
- Lúc nãy tôi nói về đơn thỉnh nguyện xin san phẳng khu này. Các bạn da trắng của chúng ta phản đối, bảo rằng ở Alexandra cái tốt vẫn nhiều hơn cái xấu, và để cho người dân ở đây có một miếng đất, một căn nhà của riêng mình để nuôi con, một nơi họ có quyền ăn nói, cảm thấy rằng mình được ở trên nơi chôn nhau cắt rốn của mình, cái đó là điều đáng kể chứ. Giáo sư Hoernle – ông ta đã mất rồi, xin Thượng Đế độ trì hương hồn ông – là người chiến đấu hăng nhất cho chúng ta. Thực đáng tiếc là huynh không được nghe ông ấy diễn thuyết. Vì một mình ông ấy có đủ đầu óc của Tomlinson, cái giọng nói của ông John và cái nhiệt tâm của Dubula. Khi ông ta nói thì không một người da trắng nào tranh biện nổi. Bây giờ tôi còn nhớ. Ông ta thường nói rằng cái này ở đây, cái kia ở kia và cái đằng kia nữa ở đằng kia và cái nào ông đã đặt ở đâu thì ở đó, không ai có thể dời chỗ nó đi được dù chỉ là một vài phân. Dù là Anh hay Afrikaaner[2] thì cũng không ai dời chỗ những cái đó được cả.
Msimangu rút khăn mùi xoa ra chùi mồ hôi trên mặt.
- Tôi đã nói nhiều quá, đã tới căn nhà mà chúng ta kiếm rồi đây.
Họ gõ cửa, một người đàn bà ra mở cửa, không chào hỏi họ và khi họ cho biết mục đích của họ thì thím ta miễn cưỡng để họ vô.
- Thím Mkize, thím nói thanh niên đó đã dọn đi chỗ khác rồi ư?
- Phải, và tôi không biết đi đâu.
- Đi hồi nào vậy?
- Cách đây nhiều tháng rồi. Có lẽ tới một năm rồi.
- Cậu ấy có ở chung với một người bạn nào không?
- Có, một cậu nữa cùng họ Kumalo, một người em con chú. Họ dắt nhau đi.
- Và thím không biết họ đi đâu?
- Họ có nói tới mấy chỗ. Nhưng bọn thanh niên ấy nói, thì ông còn lạ gì.
Kumalo hỏi:
- Thanh niên tên là Absalom đó hạnh kiểm ra sao?
Rõ ràng là trong mắt thím ta có vẻ sợ hãi. Và rõ ràng là thấy vậy, Kumalo cũng đâm ra sợ hãi. Trong nhà này có không khí sợ hãi.
Thím ta đáp:
- Tôi không thấy có gì bậy.
- Nhưng thím ngờ rằng có cái gì bậy chứ?
- Không có gì bậy cả.
- Thế thì tại sao thím lại sợ?
- Tôi sợ gì đâu?
- Thế thì tại sao thím lại run?
- Vì lạnh.
Thím ta nhìn hai người lạ, vẻ cau có, giữ ý.
Msimangu cáo từ:
- Chúng tôi cám ơn thím. Thím ở lại mạnh giỏi.
- Hai ông đi mạnh giỏi.
Ra tới đường, Kumalo bảo:
- Có cái gì không hay rồi đây.
- Tôi cũng thấy vậy. Huynh ạ, cả hai chúng ta tới thì đông quá. Huynh quẹo tay trái ở góc con đường lớn đi, rồi lên dốc, sẽ thấy một quán giải khát. Huynh ngồi đó đợi tôi.
Kumalo nghe lời, bước đi, trong lòng ưu tư rầu rĩ; Msimangu chậm chạp bước theo, tới khi bạn quẹo ở góc đường rồi mới quay trở lại, gõ cửa căn nhà lúc nãy.
Thím ta lại ra mở cửa, cũng cau có như trước, bây giờ thím đã bình tĩnh lại rồi, cau có nhiều hơn là sợ.
Msimangu bảo:
- Tôi không phải ở ty cảnh sát đâu, không liên can gì tới ty đó cả. Và tôi mong rằng không có chuyện gì liên can tới họ. Nhưng có một ông già đau khổ không tìm ra được người con trai.
Thím ta đáp một cách xã giao:
- Tội nghiệp.
- Tội nghiệp lắm, và tôi sẽ không chịu đi đâu, nếu thím không cho tôi biết những điều mà lúc nãy thím không muốn nói.
- Có gì đâu mà nói.
- Thím không có gì để nói vì thím sợ. Và thím run không phải vì lạnh.
- Thế thì tại sao tôi lại run?
- Điều đó tôi không biết. Nhưng tôi sẽ không chịu đi đâu nếu không kiếm ra được tại sao. Và nếu cần thì sẽ phải tới ty cảnh sát vì còn có cách nào nữa đâu.
Thím ta có giọng oán hận:
- Đàn bà mà ở một mình thì thật khổ quá.
- Một ông già đi tìm con cũng đau khổ vậy.
- Tôi sợ.
- Ông ấy cũng sợ. Thím không thấy ông ấy có vẻ sợ sao?
- Có, tôi có thấy, Umfundisi.
- Vậy thím làm ơn cho tôi hay hồi ở đây, đời sống của hai thanh niên đó ra sao?
Nhưng thím ta vẫn làm thinh, vẻ sợ hãi hiện trong cặp mắt đã muốn rưng rưng, Msimangu thấy khó mà thuyết phục thím ta được.
- Tôi là mục sư, thím không tin tôi ư?
Thím ta vẫn làm thinh.
- Thím có một cuốn Kinh Thánh không?
- Có .
- Vậy tôi sẽ cầm Kinh Thánh mà thề.
Thím ta vẫn không đáp, Msimangu lập lại:
- Tôi cầm Kinh Thánh mà thề
Thấy vị mục sư quyết tâm không để cho mình yên, thím ta do dự đứng dậy, bước vô một phòng ở phía sau, rồi một lát trở ra với cuốn Kinh Thánh.
Msimangu bảo:
- Tôi là mục sư. Hễ nói có là có, nói không là không, không bao giờ sai. Nhưng vì thím đã muốn và vì ông bạn già của tôi lo sợ, nên tôi xin thề trên cuốn Kinh Thánh này rằng thím sẽ không bị lôi thôi gì về chuyện này cả, vì chúng tôi chỉ muốn tìm một thanh niên thôi. Cầu xin Tixo phù hộ tôi.
Rồi ông ta hỏi tiếp:
- Đời sống của họ ra sao?
- Thưa Umfundisi, tới lúc thật khuya khoắt, họ đem về nhà này nhiều thứ lắm. Quần áo, đồng hồ, tiền bạc này, thức ăn đựng trong bao này, và nhiều thứ khác nữa.
- Có thấy máu me gì trên người họ không?
- Thưa Umfundisi, không bao giờ tôi thấy máu me trên người họ cả.
- Được. Tuy chưa biết gì nhiều, nhưng bây nhiêu cũng được…Và tại sao họ lại đi nơi khác?
- Tôi không biết, Umfundisi. Nhưng tôi ngờ rằng công việc của họ sắp bị lộ.
- Họ đi hồi nào?
- Đã được gần một năm rồi, Umfundisi. Như tôi đã nói lúc nãy.
- Và thím có thể thề trên cuốn Kinh Thánh này, rằng thím không biết họ đi đâu chứ?
Thím ta đưa tay về cuốn Kinh Thánh. Msimangu bảo:
- Thôi được rồi.
Ông chào thím ta, rồi hấp tấp bước ra để tìm bạn. Thím ta gọi giật lại, bảo:
- Họ chơi thân với một người lái tắc-xi là Hlabeni. Người này ở gần bến xe buýt. Tới đó ai cũng biết.
- Cảm ơn thím cho tôi biết chi tiết đó. Chúc thím ở lại mạnh giỏi.
Ông ta thấy bạn ngồi trong quán giải khát. Ông già này vội vàng hỏi ngay:
- Biết thêm được điều gì không?
- Tôi biết thêm được điều này: họ chơi thân với một người lái tắc-xi tên là Hlabeni. Để tôi ăn vài miếng đã rồi chúng mình đi tìm.
Ăn xong rồi, Msimangu đi kiếm một người hỏi thăm xem làm sao tìm được chú Hlabeni, lái xe tắc-xi. Người đó đáp:
- Chú ấy ngồi trong xe tắc-xi, ở góc đường kia kìa.
Msimangu tiến lại phía xe tắc-xi, chào người ngồi trong xe.
- Chào chú.
- Kính chào Umfundisi.
- Tôi kiếm xe tắc-xi đây. Từ đây về Johannesburg, chú tính bao nhiêu? Tôi đi với một ông bạn nữa.
- Umfundisi đi thì tôi xin mười một si-linh.
- Đắt thế.
- Chiếc xe khác sẽ đòi Umfundisi mười lăm hay hai chục si-linh.
- Ông bạn tôi già và mệt. Tôi sẽ trả giá đó.
Chú ta tính cho rồ máy thì Msimangu bảo khoan đã:
- Người ta bảo tôi chú có thể chỉ chỗ cho tôi kiếm một thanh niên tên là Absalom.
Lần này cũng vậy, chú ta có vẻ sợ hãi rõ rệt. Nhưng Msimangu vội vàng nói cho chú ta yên tâm:
- Tôi kiếm chú không phải để gây chuyện lôi thôi cho chú đâu. Tôi hứa với chú rằng tôi không làm chuyện gì lôi thôi cho chú hoặc cho tôi đâu. Nhưng ông bạn tôi, già và mệt rồi, chính là thân phụ của thanh niên đó và từ Natal lại đây tìm con. Chúng tôi đi hỏi thăm nơi nào người ta cũng bảo, thanh niên đó đã đi chỗ khác rồi và ông bạn già của tôi lo lắng lắm.
- Vâng, tôi biết thanh niên đó.
- Bây giờ cậu đó ở đâu, hở chú?
Tôi nghe nói anh ấy đã đi Orlando và sống ở đó với bọn vô gia cư tại Shanty Town[3]. Tôi chỉ biết vậy thôi.
Msimangu bảo:
- Khu Orlando rộng lớn mà.
- Nhưng xóm bọn vô gia cư thì không lớn lắm, Umfundisi. Có những nhân viên ở toà thị chính làm việc với họ và biết mặt họ hết. Umfudisi có thể hỏi thăm các nhân viên ấy.
- Lời khuyên của chú giúp tôi được nhiều đấy. Tôi có quen vài nhân viên trong số đó. Bây giờ chú chở chúng tôi đi nào.
Ông ta gọi Kumalo lại, bảo đi về bằng tắc-xi. Họ leo lên xe và chiếc xe lạch cạch chạy ra khỏi Alexandra, tới con đường cái rộng đưa từ Pretoria về Johannesburg. Lúc đó đã xế chiều, con đường chật xe cộ vì là giờ người ta đổ về Johannesburg hoặc ở Johqnnesburg đổ ra ngoại ô.
- Huynh nhìn xem những chiếc xe đạp kìa. Có mấy ngàn người ở Alexandra tan sở về nhà, và chúng ta sắp thấy mấy ngàn người nữa đi bộ vì tẩy chay xe buýt.
Quả nhiên, một lát sau thấy hai bên lề đường người đi bộ chen chúc nhau. Họ đông tới nỗi lấn xuống cả mặt đường và xe cộ phải chạy chầm chậm lại. Có những người già cả, có những người mệt mỏi và có cả những người tàn tật nữa như người ta đã để cho nghe, nhưng hầu hết đều kiên nghị bước và họ chịu cực như vậy tới nay đã được mấy tuần rồi. Nhiều người da trắng ngưng xe lại, đón họ cho đi nhờ về Alexandra.
Khi xe ngừng lại ở một chỗ đèn đỏ, hai vị mục sư thấy một cảnh sát công lộ hỏi một người da trắng có giấy phép chở người da đen không.
Người da trắng đáp:
- Tôi chở giùm họ, không lấy tiền.
- Nhưng ông vẫn là chở khách trên một lộ trình của xe buýt.
- Vậy thì cứ đưa tôi ra toà.
Đèn xanh bật lên, chiếc tắc-xi tiếp tục chạy và hai vị mục sư không được nghe nốt.
Msimangu bảo:
- Tôi đã nghe nói. Nghe người ta bảo rằng họ kiếm cách ngăn cản người da trắng chở giúp chúng ta và họ còn định đưa những người da trắng này ra toà nữa.
Trời đã tối, nhưng con đường vẫn còn chật những người trở về nhà ở Alexandra. Và vẫn còn nhiều chiếc xe ngừng lại cho họ lên, nhất là các người già cả, các phụ nữ và các người tàn tật. Kumalo nở một nụ cười, một nụ cười kỳ dị, khắp thế giới không đâu có, nụ cười của một người da đen khi thấy một người đồng chủng được một người da trắng giúp đỡ ở chỗ công cộng, vì việc đó đâu phải dễ dàng. Ông ta mải trầm tư cho nên giật mình khi Msimangu thình lình nói lớn tiếng:
- Thật quá sức tưởng tượng, huynh ạ.
- Cái gì quá sức tưởng tượng?
- Không, nói thực ra tôi không ngờ được chuyện đó.
Msimangu ngồi thẳng người lên, đầm mạnh vào ngực, nói:
- Cứ, đưa tôi ra toà đi.
Kumalo ngạc nhiên ngó bạn. Msimangu bảo:
- Cái đó quá sức tưởng tượng của tôi.
[2]Một số người Afrikaaner muốn dùng tiếng đó theo nghĩa rộng, trỏ tất cả những người da trắng ở Nam Phi nhưng nghĩa này chưa được mọi người chấp nhận.
Con đường nào cũng đưa tới Johannesburg. Dù bạn là da trắng hay da đen thì nó cũng đưa bạn tới Johannesburg. Thất mùa thì lại Johannesburg kiếm việc. Thuế má nặng quá thì lại Johannesburg kiếm việc. Vườn ruộng nhỏ quá, không thể chia manh mún ra được nữa thì một người trong nhà phải lại Johannesburg kiếm việc. Sắp tới ngày sanh mà muốn giấu giếm thì có thể lại sanh lén ở Johannesburg.
Người da đen lại Alexandra, Sophiatown hoặc Orlando rán mướn một căn phòng hoặc mua lại một phần một căn nhà.
- Bà có phòng nào cho mướn không?
- Không, tôi không có phòng cho mướn.
- Bà có phòng nào cho mướn không?
- Đã có người mướn rồi.
- Bà có phòng nào cho mướn không?
- Có, tôi có một phòng có thể cho mướn được, nhưng tôi lại không muốn cho mướn. Tôi chỉ có hai phòng mà trong nhà có cả thảy sáu người mà trẻ lại sắp lớn hết cả rồi. Nhưng sách học đắt quá mà nhà tôi lại đau, ngay khi khoẻ mạnh, nhà tôi cũng chỉ kiếm được ba mươi lăm si-linh mỗi tuần. Phải trả sáu si-linh tiền mướn nhà, mất ba si-linh tiền đi xe buýt, đóng một si-linh để khi chết người ta chôn cất cho đàng hoàng, rồi một si-linh tiền sách cho trẻ, ba silinh tiền may mặc, hà tiện lắm đấy, rồi một si-linh cho nhà tôi uống bia, một si-linh nữa cho nhà tôi mua thuốc hút, thứ tiêu pha này không thể bớt xén được, vì nhà tôi là một người đứng đắn không cờ bạc, không đem tiền nuôi gái. Rồi thêm một si-linh cúng vào giáo đường, một si-linh nữa tiền thuốc thang. Vậy chỉ còn mười si-linh nữa cho sáu người ăn, cho nên nhà lúc nào cũng đói. Có, tôi có một phòng nhưng không muốn cho mướn. Bà trả tôi bao nhiêu?
- Tôi có thể trả ba si-linh mỗi tuần.
- Tôi không ham.
- Ba si-linh rưỡi đấy.
- Ba si-linh rưỡi. Muốn ở cho thong thả không chen chúc nhau quá thì bao tử lép kẹp. Khi trẻ bắt đầu lớn rồi thì cần ở đừng chen chúc nhau quá nhưng như vậy thì bao tử lép xẹp. Được, ba si-linh rưỡi thì tôi cho mướn được.
Nhà ở chật quá thì nó không nứt ra, nhưng nó tràn ra. Mười người trong hai phòng, mà có mỗi một cửa vô, và khi bạn ngủ thì người ta phải bước qua bạn để đi. Nhưng trẻ sẽ được thêm miếng ăn và có thể mỗi tháng một lần, được đi coi hát bóng.
Tôi không ưa mụ đàn bà đó và cái vẻ mụ ngó chồng tôi. Tôi không ưa đứa con trai đó và cái vẻ nó ngó con gái tôi. Tôi không ưa gã đàn ông đó, tôi không ưa cái vẻ hắn ngó tôi, tôi không ưa cái vẻ hắn ngó con gái tôi.
- Tôi ân hận lắm, nhưng xin ông bà dọn đi nơi khác cho.
- Tôi có chỗ nào đâu mà dọn đi.
- Tôi ân hận lắm, nhưng nhà chật quá, làm sao chứa được bây nhiêu người.
- Chúng tôi đã ghi tên để xin mướn nhà rồi. Bà chịu phiền đợi khi chúng tôi kiếm được nhà đã.
- Ở Orlando có người đợi đã năm năm vẫn chưa kiếm được nhà.
- Tôi có ông bạn chỉ một tháng kiếm được nhà.
- Tôi nghe nói có trường hợp như vậy. Người ta bảo là hãy đút lót.
- Chúng tôi không có tiền đút lót.
- Tôi rất ân hận, nhưng nhà chật quá.
- Thực vậy, căn nhà này chật quá, và căn nhà kia cũng chật quá. Vì ai cũng đổ tới Johannesburg. Từ Transkei và từ Free State, từ Zululand và từ Sekukuniland. Người Zulu, người Swazi, người Shangaan và người Barenda, người Bapedi và người Basuto, người Xosa và người Tembu, người Pondo và người Fingo, hết thảy đều đổ lại Johannesburg.
Tôi không ưa mụ đàn bà đó. Tôi không ưa đứa con trai đó. Tôi không ưa gã đàn ông đó. Tôi ân hận lắm, nhưng xin ông bà dọn đi nơi khác cho.
- Tôi xin bà cho tôi một tuần nữa thôi.
- Được, một tuần nữa thì được.
- Bà có phòng nào cho mướn không?
- Không, tôi không có phòng cho mướn.
- Bà có phòng nào cho mướn không?
- Đã có người mướn rồi.
- Bà có phòng nào cho mướn không?
- Có, tôi có một phòng có thể cho mướn được, nhưng tôi không muốn cho mướn. Vì tôi đã thấy nhiều người chồng đã bị đàn bà quyến rũ, và nhiều người vợ bị đàn ông quyến rũ. Tôi đã thấy nhiều đứa con gái bị con trai làm cho hư đốn. Nhưng nhà tôi chỉ kiếm được có ba mươi bốn si-linh mỗi tuần.
- Không kiếm được nhà mới thì làm sao bây giờ?
- Bạn có thể đợi năm năm, mà vẫn không có hy vọng gì hơn ngày đầu.
- Người ta bảo chỉ riêng ở Orlando có tới một vạn người phải ở chung chạ như chúng mình.
- Anh có nghe Dubula nói đấy không? Rằng chúng ta phải tự cất nhà lấy ở Orlando này thôi.
- Cất ở chỗ nào?
- Dubula bảo cất ở khu đất trồng hai bên đường rầy xe lửa.
- Cất bằng cái gì?
- Bất kỳ cái gì. Bao bố, ván, cỏ tranh, cọc ở trong các sở trồng cây, kiếm được cái gì thì dùng cái đó.
- Thế khi trời mưa thì sao? - Siyafa[1]. Thì chết chứ sao.
- Không, khi trời mưa thì họ phải cất nhà cho chúng ta.
- Nói bậy. Rồi tới mùa đông thì sao?
Đợi sáu năm để có một căn nhà. Và nhà nào nhà nấy đã chật cứng rồi mà vẫn phải chứa thêm người nữa, vì thiên hạ vẫn tiếp tục đổ tới Johannesburg. Một cuộc đại chiến mới tàn phá dữ dội Châu Âu và Bắc Phi và không ai cất nhà cả.
- Đã có căn nhà nào cho tôi chưa?
- Vẫn chưa có.
- Ông chắc rằng tên tôi có ghi trong sổ đấy chứ?
- Ghi rồi.
- Số tôi trong sổ là số mấy?
Số sáu ngàn ở trong sổ. Như vậy nghĩa là không bao giờ tôi kiếm được một căn nhà, mà không thể ở chỗ tôi đương ở được nữa. Chúng tôi đã gây lộn về cái lò, chúng tôi đã gây lộn về bầy trẻ, và tôi không ưa cái vẻ gã đàn ông đó ngó tôi. Có một khu đất trống hai bên đường rầy xe lửa, nhưng khi trời mưa và tới mùa đông thì sao? Người ta bảo mười bốn bữa nữa phải lại đó, rủ nhau lại cả đó. Người ta bảo phải thu nhập các tấm ván, bao bố, những miếng tôn, cây cọc rồi cùng nhau lại đó. Người ta bảo phải trả mỗi si-linh mỗi tuần cho Uỷ ban để Uỷ ban chở các đồ đạc của chúng ta lại và cất cầu tiêu cho hợp vệ sinh. khỏi sinh bệnh. Nhưng trời mưa và tới mùa đông thì làm sao?
- Đã có căn nhà nào cho tôi chưa?
- Vẫn chưa có.
- Tôi đã ghi tên trong sổ hai năm nay rồi.
- Hai năm còn là mới đấy.
- Người ta bảo nếu biết phải chăng…
Ông ta không nghe tôi nói và lo tiếp tới người sau. Nhưng một ông khác ở đâu không biết, tiến lại gần tôi và nói một câu làm tôi rất đỗi ngạc nhiên..
- Bà Seme, tôi rất ân hận rằng họ không kiếm được nhà cho bà. Nhân tiện đây, nhà tôi muốn được bàn bạc với bà về công việc của Uỷ ban. Nhà tôi bảo bảy giờ tối nay. Bà biết địa chỉ tôi đấy chứ, số 17852, gần giáo đường Hoà Lan cải cách. Đây, để tôi ghi số nhà lại cho bà. Thôi, xin chào bà.
Tôi định đáp ông ta, thì ông ta đã quay đi rồi.
- Ông ta làm cho tôi ngạc nhiên hết sức. Vợ ông ta là ai, tôi có quen biết gì đâu. Còn cái Uỷ ban đó là Uỷ ban nào? Tôi có biết uỷ ban uỷ biếc nào đâu.
- Bà thực thà quá, bà ơi. Họ muốn biết bà chịu đưa cho họ bao nhiêu tiền để có một căn nhà đấy.
- À, nếu vậy tôi sẽ lại nhà ông ta. Tôi mong rằng ông ta đừng đòi tôi một số tiền lớn quá, chỉ có ba mươi bảy si-linh mỗi tuần thì tiền đâu mà đưa nhiều được. Nhưng thế nào cũng phải kiếm cho được một căn nhà. Tôi sợ cái chỗ tôi đương ở đây quá chừng rồi. Tới giờ ngủ của những người đứng đắn thì họ đi tới đi lui nhộn quá. Có nhiều thanh niên ra vô quá, cơ hồ như họ không bao giờ ngủ và cũng không bao giờ làm việc. Họ ăn bận sang quá, nhiều quần áo quá, như người da trắng. Một ngày kia họ sẽ bị tra hỏi, lôi thôi, mà vợ chồng tôi chưa bao giờ bị chuyện lôi thôi cả. Thế nào cũng phải kiếm cho được một căn nhà.
- Năm bảng, nhiều quá. Tôi không có đủ.
- Có được căn nhà, năm bảng đâu phải là nhiều, bà Seme.
- Sao? Chỉ để cho tên tôi được đưa lên chỗ cao hơn trong sổ ư?
- Việc đó đâu có dễ, nguy hiểm lắm. Ông giám đốc người Âu đã bảo sẽ trừng trị nghiêm khắc kẻ nào ghi gian trong sổ.
- Tôi rất tiếc, không thể đưa bấy nhiêu tiền được.
Tôi chưa kịp ra về thì vợ ông ta và một người đàn bà nữa bước vô.
- Mình ạ, chắc mình lầm rồi. Em đâu có quen bà này. Bà không ở trong Uỷ ban mà.
- Vậy ư, anh xin lỗi em. Xin bà Seme thứ lỗi cho. Tôi cứ tưởng bà trong Uỷ ban chứ. Chúc bà về mạnh giỏi.
Tôi không đáp lại: “ Ông bà về mạnh giỏi ”. Họ có mạnh giỏi hay không thì tôi cần quái gì. Về phần tôi, chẳng có cái gì ưng ý cả. Tôi mệt mỏi, cô độc. Ôi, mình ơi, tại sao chúng mình lại bỏ quê hương xứ sở mà ra đây? Ở quê hương xứ sở, kiếm chẳng được bao nhiêu nhưng còn hơn là ở đây. Thức ăn thiếu thốn đấy, nhưng mọi người chia sẻ với nhau. Và khi mọi người đều nghèo cả thì cảnh nghèo không đến nỗi bi thảm lắm. Mà cảnh bờ sông đẹp làm sao, trong khi giặt dũ, gió thổi hây hẩy bên tai, nước chảy róc rách trên đá. Hai tuần nữa là ngày dọn nhà. Lại đây, mình ơi, hai đứa mình đi kiếm ván, tôn, bao bố và cọc đi nào. Em ngán cái chỗ mình đương ở đây quá.
Ở dưỡng đường Baragwanath, thợ xây cất xong rồi để lại nhiều tấm ván đấy. Đêm nay tụi mình lại đó khiêng về đi. Ở trại cải huấn có tôn uốn đấy, người ta dùng để che các đống gạch. Đêm nay mình lại lấy ít tấm. Có bao bố ở ga Nancefield, cột thành từng bó kỹ lưỡng. Đêm nay mình lại lấy ít bó. Trong mỏ Crown Mines có nhiều cây cối. Đêm nay mình lại đó cưa lén lấy ít cành làm cọc.
Đêm nay ở Orlando, người nào cũng bận rộn. Nhà nào cũng đốt đèn. Anh khiêng tôn, còn mình, mình bồng em bé nhé. Thằng Hai, con vác hai cây cọc này, còn con bé Ba, xách bao bố, rán xách cho được thật nhiều đi con, đem lại bên cạnh đường rầy xe lửa ấy. Nhiều người đương dọn lại đó, đã nghe thấy tiếng thuổng và tiếng búa. May quá, đêm nay ấm áp không mưa. Cảm ơn, ông Dubula, miếng đất này vừa ý chúng tôi lắm. Cảm ơn ông Dubula, đây chúng tôi đóng một đồng cho Uỷ ban.
Shanty Town dựng lên trong nội một đêm. Sáng hôm sau, bừng con mắt dậy, ai nấy đều ngạc nhiên. Khói từ vải bố bay lên và một vài nhà đã có ống khói. Có một ống khói xinh xinh nằm ở gần bót cảnh sát Kliptown, nhưng tôi không dại gì mà lượm.
Shanty Town dựng lên trong nội một đêm. Nhật báo đăng đầy tin tức của chúng tôi. Có những hàng tít lớn và nhiều hình ảnh.
- Coi này, có hình nhà tôi đây này, đứng bên cạnh căn nhà nè. Uổng quá, tôi lại trễ không được các ông nhà báo chụp ảnh. Các ông ấy gọi chúng tôi là bọn vô gia cư. Chúng tôi là bọn vô gia cư. Trong cái làng lớn dựng bằng ván, tôn, bao bố, khỏi phải trả tiền nhà, chỉ phải đóng một si-linh cho Uỷ ban.
Shanty Town dựng lên nội trong một đêm. Đứa con gái nhỏ ho quá và trán nó nóng như lửa. Tôi ngại không muốn cho nó ra ngoài, nhưng đêm đó dọn nhà. Gió lạnh thổi qua vải bố. Rồi khi trời mưa, khi mùa đông tới mới biết làm sao? Nín đi con, má ở bên cạnh con đây nè. Nín đi con, đừng ho quá như vậy con, má ở bên cạnh con đây nè.
Đứa nhỏ ho quá đỗi, trán nó nóng hơn lửa. Nín đi con, má ở bên cạnh con đây nè. Ở ngoài kia có tiếng cười, tiếng giỡn, tiếng thuổng, tiếng búa, tiếng gọi nhau ơi ới, có nhiều ngôn ngữ mà tôi không hiểu Nín đi con ơi, có một thung lũng đẹp nơi đó con ra đời. Nước chảy róc rách trên đá, gió thổi hây hẩy bên tai. Đàn bò xuống uống nước ở bờ sông, dưới tàn cây. Nín đi con, xin Trời làm con tôi nín đi. Xin Trời thương chúng con. Xin chúa Ki Tô thương chúng con. Hỡi người da trắng thương chúng tôi với.
- Ông Dubula ơi, bác sĩ ở đâu?
- Sáng mai bác sĩ sẽ tới, thím đừng ngại gì cả, Uỷ ban sẽ trả tiền bác sĩ cho.
- Nhưng cháu nó gần chết rồi. Ông coi máu me này.
- Đợi một chút, trời sắp sáng rồi.
- Khi trẻ hấp hối, khi lòng người ta sợ hãi, sao thời gian lâu quá. Ông Dubula ơi, ông có thể đi mời bác sĩ ngay bây giờ có được không?
- Tôi rán xem. Tôi đi ngay bây giờ đây.
- Đội ơn ông, ông Dubula.
Phía ngoài có tiếng hát, hát chung quanh một đống lửa. Họ hát khúc Nksi sikelel’i Africa[2]. Xin Thượng Đế che chở Châu Phi. Cầu xin Thượng Đế che chở đứa con nhỏ của Châu Phi này, nó là của con, mà con đã mang nặng đẻ đau, cho bú mớm, hết lòng yêu thương vì bản tính của đàn bà như vậy.
- Nằm yên đi con ơi. Ông bác sĩ ơi, ông không tới được hay sao?
- Tôi đã cho đi mời bác sĩ rồi, thím ạ. Uỷ ban đã cho người lái xe đi mời bác sĩ. Một bác sĩ da đen, trong bọn chúng mình.
- Đội ơn ông Dubula.
- Thím có muốn tôi yêu cầu họ đừng làm ồn không?
- Không cần, cháu nó không nghe thấy gì đâu.
Giá mời một bác sĩ da trắng có lẽ hơn, nhưng thôi, bác sĩ nào cũng được, miễn là ông ấy tới. Những tiếng ồn ào của những người xứ lạ kia, dù không im đi thì cũng không sao. Mình ơi em sợ quá. Con nó nóng hừng hực như lửa trong bàn tay em đây nè.
Thôi không cần bác sĩ nữa. Dù bác sĩ da trắng hay da đen thì cũng không cứu được nó nữa rồi. Ôi, đứa con tôi mang nặng đẻ đau, trước kia ôm cặp má nhỏ của nó trong lòng bàn tay, thấy những ngón tay nó níu chặt lấy mình, thấy cái miệng xinh xinh của nó nút vú mình, thích làm sao. Bản tính đàn bà như vậy. Số phận của đàn bà là mang nặng, chịu đựng, giữ gìn rồi mất hết.
Những người da trắng lại Shanty Town. Họ chụp hình chúng tôi và quay phim để đưa lên màn ảnh. Họ tới và tự hỏi họ sẽ làm được cái gì vì chúng tôi đông quá. Khi trời mưa thì bọn khốn nạn đó sẽ ra sao? Một bọn người tới, đem máy móc tới và họ bắt đầu cất nhà cho chúng tôi. Ông Dubula thông minh tài giỏi thật, ông ấy đã bảo rằng họ sẽ cất nhà cho chúng ta. Và họ mới bắt đầu cất nhà cho chúng ta, thì ban đêm đã có nhiều người da đen khác từ Pimville, từ Alexandra, từ Sophiatown lại dựng chòi bằng tôn, bằng cọc, bằng bao bố, bằng cỏ tranh. Rồi bọn người da trắng trở lại, lần này không có vẻ thương hại chúng ta nữa mà có vẻ giận dữ. Cảnh sát tới và đuổi chúng tôi đi. Trong số những người họ đuổi đi đó, có cả những người ở tại Orlando nữa. Bọn này phải trở về chỗ ở cũ của họ, nhưng có kẻ phòng cũ đã có người khác ở rồi, có kẻ trở về thì chủ nhà không chịu cho ở nữa.
Không nên xấu hổ rằng phải ở Shanty Town. Báo chí đã đăng tin đăng ảnh rồi và có hình nhà tôi đứng bên cạnh căn nhà đấy. Một ông ở đây có một số báo ở Durban và trên mặt báo này cũng có hình nhà tôi đứng bên cạnh căn nhà. Ở đây cũng có thể cho địa chỉ được, chỉ cần đề Shanty Town. Ai cũng biết Shanty Town ở đâu; rồi ghi thêm số mà Uỷ ban cấp cho bạn.
Khi trời mưa, chúng ta sẽ ra sao? Rồi tới mùa đông nữa. Đã có vài người bảo: ngó những căn nhà trên đồi kìa, chưa cất xong nhưng mái đã lợp rồi kìa. Một đêm nào đó chúng ta sẽ dọn lại đó ở, khỏi lo mưa và lạnh.
[1]Đọc là Si-da-fa. Tiếng thổ dân có nghĩa là: Chúng ta chết.
[2]Khúc hát này đã thành bài Quốc ca của người da đen. Nkosi phát âm gần như Inkosi; sikelel: chữ k phát âm gần như g, e phát âm gần như ê.
Trong khi đợi Msimangu lại đón và dắt tới Shanty Town. Kumalo ngồi chơi với Gertrude, và đứa cháu. Nhưng quay về phía đứa cháu nhỏ có vẻ nghiêm trang mà chơi với nó nhiều hơn vì ông đã ngoài hai mươi rồi cô Gertrude mới ra đời, nên tình anh em không thân mật lắm. Với lại ông là mục sư, điềm đạm, có lẽ buồn tẻ nữa, tóc ông đã bạc nhiều mà Gertrude còn là một thiếu phụ. Ông không mong gì nàng kể cho ông nghe những nỗi trầm trọng xảy ra ở Johannesburg này, vì chính nàng đã tìm cuộc sống và công việc trong những nỗi nó làm cho ông buồn rầu và hoang mang đó.
Những nỗi đó thật là nghiêm trọng, quá đỗi nghiêm trọng đối với một thiếu phụ học mới hết lớp nhì trường làng. Nàng kính trọng anh, theo cái lễ đối với một người anh cả và một mục sư, và hai anh em chỉ nói chuyện với nhau theo nghi thức, chứ không bao giờ nhắc lại những nông nỗi đã làm cho nàng té xuống gào khóc trên đất.
Cũng may có bà Lithebe hiền hậu ở bên cạnh; bà và Gertrude kể lể dài dòng về tâm sự của đàn bà, và họ cùng hát với nhau trong khi làm những công việc hằng ngày trong nhà.
Phải, ông Kumalo quay về phía đứa cháu gái có vẻ nghiêm trang và chơi với nó. Ông đã mua cho nó một bộ gồm nhiều khúc cây nhỏ rẻ tiền và nó ngồi sắp xếp hoài, chăm chú lắm, như dự tính một việc gì người lớn không hiểu được mà nó lấy làm say mê. Kumalo bồng nó lên, luồn tay vào trong áo sơ-mi của nó, rờ cái lưng nhỏ ấm áp của nó, vuốt ve nó, cù nó, cho tới khi vẻ mặt nghiêm trang của nó, nở một nụ cười rồi nụ cười thành tiếng cười sằng sặc. Hoặc ông nói về thung lũng lớn nơi nó sanh, kể cho nó tên những ngọn đồi, những dòng sông, tả cho nó ngôi trường nó sẽ tới học, tả những đám sương mù bao phủ những ngọn núi ở phía trên Ndotsheni. Đứa nhỏ không hiểu gì về những cái đó cả; nhưng chắc có một cái gì đó làm nó cảm thích vì cặp mắt nghiêm trang của nó mở tròn ra ngó ông bác, trong khi nó chăm chú nghe những tên thanh âm trầm trầm và du dương. Những lúc đó bác nó thích lắm vì ở giữa châu thành lớn này ông động lòng nhớ quê; trong thâm tâm ông rất thích thú được nhắc lại những tên ở quê hương ông. Đôi khi Gertrude nghe tiếng ông, bèn tiến lại, e lệ đứng ở cửa phòng, nghe ông tả những cảnh đẹp nơi chôn nhau cắt rốn của nàng. Lúc đó, Kumalo lại càng vui, và thỉnh thoảng ông lại hỏi em:
- Em còn nhớ không?
Và nàng đáp:
- Dạ, em còn nhớ – Nàng mừng rằng anh mình đã hỏi han mình.
Nhưng cũng có những lúc, đương vui thì ông sực nhớ đến đứa con trai của ông. Những lúc đó, trong một thoáng, ông thấy những ngọn đồi tên trầm trầm và du dương kia hiện lên, hoang tàn dưới ánh nắng như thiêu như đốt, thấy dòng suối cạn khô, đàn bò gầy ốm, uể oải, lang thang trên mặt đất đỏ không có lấy một cọng rễ. Chỉ còn là một xứ của các ông già bà cả, các bà mẹ và trẻ thơ, nhà nào cũng có một vài người bỏ ra đi rồi, cũng mất một cái gì rồi. Giọng ông ngập ngừng, run run rồi tắt, ông im bặt, vẻ trầm ngâm.
Có thể là vì ông không kể truyện nữa, cũng có thể là vì ông thình lình ghì chặt đứa nhỏ, nên nó mất vui, vùng vẫy để tụt xuống đất và chơi với mấy khúc cây của nó. Và như kiếm một cái gì để chấm dứt cái nỗi đau lòng tự nhiên nó tới đó, ông bèn nghĩ tới bà vợ, tới các bạn thân, tới những đứa trẻ từ trên đồi xuống, lần lần ló ra khỏi đám sương mù để tới trường. Những hình ảnh đó thân thiết với ông quá, ông thấy hết đau khổ và lặng lẽ gần như bình tĩnh ngắm nó trong tưởng tượng.
Ai biết được cái bí mật của kiếp sống gởi trên cõi trần này. Ai biết được tại sao trên cái thề giới sầu khổ này, con người thỉnh thoảng gặp được một niềm an ủi? Xin cảm ơn Thượng Đế, trên cõi trần khổ ải này có được một người yêu làm cho lòng ta bớt chua sót, được một đứa trẻ để chơi với nó. Xin cảm ơn Thượng Đế vì cái tên du dương như nhạc của một ngọn đồi, vì cái tên của một dòng sông làm cho tâm hồn ta nhẹ nhàng, dù là tên một con sông đã khô cạn không còn chảy nữa.
Ai biết được cái bí mật của kiếp sống gởi trên cõi trần này? Ai biết được tại sao chúng ta sống, chiến đấu rồi chết? Ai biết được có cái sức gì làm cho chúng ta vẫn sống và chiến đấu trong khi mọi cái sụp đổ chung quanh ta. Ai biết được tại sao da thịt của một đứa trẻ lại làm ấm lòng ta như vậy khi chính đứa con của ta lưu lạc đâu mất, không tìm được? Các nhà thông thái viết biết bao nhiêu sách, dùng những tiếng khó hiểu quá. Nhưng còn cái đó, cái mục đích của đời sống, cái cứu cánh của tất cả các cuộc chiến đấu của ta, thì con người không sao hiểu nổi. Ôi, Thượng Đế, xin Thượng Đế đừng bỏ con. Vâng, mặc dầu con tiến vào cái cõi u minh của sự chết, con cũng không sợ một tai nạn gì cả nếu có Thượng Đế ở bên cạnh con…
Kumalo đứng dậy. Có tiếng Msimangu ở ngoài cửa tới đón để đi tìm Absalom.
- Shanty Town đây, huynh ạ.
Ngay ở nơi đây, mà trẻ con cũng cười giỡn trong những đường hẻm ngăn cách những dãy nhà thê thảm làm bằng một miếng tôn, mấy miếng ván, vải bố, cỏ tranh, và một cánh cửa cũ nát ở một căn nhà đã phá nào đó. Có làn khói cuồn cuồn toả lên từ những lỗ đục rất khéo có mùi thức ăn, có tiếng nói, không phải tiếng giận dữ đau khổ, mà là tiếng chuyện trò hằng ngày về một đứa trẻ mới sanh, một đứa khác đã chết, một đứa nữa siêng năng học hành, và một đứa hiện nay trong khám. Miền này bị hạn hán và mặt trời chói lọi chang chang trên từng không xanh ngắt, không vẩn một đám mây. Nhưng khi trời mưa thì họ làm sao? Và khi mùa đông tới thì họ làm sao?
- Thấy cảnh này tôi buồn quá.
- Huynh ngó, người ta đương xây cất trên kia kìa. Đã mấy năm nay người ta không xây cất nữa. Bây giờ xây cất như vậy chắc là sẽ có cái gì tốt đây. Mà đó cũng là công trình của Dubula nữa.
- Cơ hồ như ở đâu cũng có ông ta.
- Coi kìa, có một nữ y tá người mình nữa kìa. Đội cái nón đó, bận áo đỏ và trắng đó, coi được đấy nhỉ.
- Phải coi được lắm.
- Người da trắng đào tạo thêm mỗi ngày mỗi nhiều nữ y tá. Lạ thật, chúng ta tiến bộ về một phương diện nào đó, ngừng lại ở một phương diện khác và thụt lùi ở phương diện khác nữa. Về vấn đề đào tạo các nữ y tá đó, chúng ta được nhiều bạn da trắng giúp đỡ. Khi chính quyền quyết định cho một số thanh niên của ta theo học y khoa ở trường đại học Witwaterstrand thành lập cho ngươi da trắng, thì tiếng phản đối mạnh mẽ nổi lên. Nhưng các bạn của chúng ta cương quyết và tiếp tục dạy dỗ họ cho tới khi chúng ta có một chỗ đứng riêng của chúng ta. Chào cô y tá.
- Kính chào Umfudisi.
- Cô làm việc nơi đây có lâu chưa?
- Từ hồi nơi này mới thành lập.
- Và cô có biết một thanh niên tên là Absalom Kumalo không?
- Thưa biết. Nhưng anh ta không còn ở đây nữa. Tôi biết chỗ cũ của anh ta. Hồi đó anh ta ở với gia đình Hlatshways và những người này hãy còn ở đây. Umfundisi thấy cái khoảng đất có nhiều đá quá, không xây cất gì được kia không? Có một em trai đương đứng đó.
- Có, tôi thấy rồi.
- Phía sau chỗ đó, Umfundisi thấy một căn nhà, có khói toả từ một ống khói lên đó không?
- Có tôi thấy rồi.
- Umfundisi đi xuống con đường này, sẽ thấy gia đình Hlatshways ở căn nhà thứ ba hay thứ tư, bên tay Umfundisi lấy thức ăn.
- Cảm ơn cô, chúng tôi lại đó ngay bây giờ.
Lời chỉ dẫn rõ ràng quá, nên họ kiếm ngay được căn nhà.
- Chào thím.
Người đàn bà này ăn bận sạch sẽ có vẻ dễ thương. Thím ta thân mật mỉm cười.
- Chào Umfundisi.
- Chúng tôi kiếm một thanh niên tên là Absalom Kumalo.
- Thưa Umfundisi anh ấy trước kia ở nhà tôi. Chúng tôi thương hại anh ta vì anh ta không có chỗ nào ở nhờ được. Nhưng tôi ân hận cho Unfundisi hay rằng, họ đã lại bắt anh ta đi rồi và nghe nói quan Toà đã cho anh ta vào trại cải huấn.
- Trại cải huấn?
- Vâng, ngôi trường lớn ở đằng kia kìa, sau dưỡng đường quân y đó. Không xa lắm, đi bộ lại được.
- Xin cảm ơn thím. Thím ở lại mạnh giỏi. Huynh ơi lại đây.
Hai vị mục sư lặng lẽ đi vì họ không có gì để nói với nhau cả. Kumalo vấp mặc dầu con đường thẳng băng, không gồ ghề và Msimangu phải nắm lấy cánh tay bạn.
- Can đảm lên huynh ạ.
Ông liếc mình bạn, nhưng Kumalo cúi gầm mặt xuống nên ông không nhìn thấy gì cả, chỉ thấy một giọt nước mắt nhỏ xuống đất, và ông xiết chặt cánh tay bạn.
- Can đảm lên huynh ạ.
- Có lúc tôi thấy không còn chút cam đảm nào nữa.
- Tôi có nghe nói về trại cải huấn đó. Ông bạn mục sư Anh khen nó lắm. Ông ấy bảo thanh niên thực tâm muốn cải hoá thì trong trại người ta giúp cho. Vậy huynh nên cam đảm lên.
- Trước kia tôi vẫn ngại ngại việc đó xảy ra.
- Tôi cũng vậy.
- Vâng, tôi còn nhớ lần đầu huynh bắt đầu ngại ngại như vậy. Hôm đó ở Alexandra huynh bảo tôi cứ đi trước đi, còn huynh thì trở lại hỏi thăm bà chủ nhà đó nữa.
- Tôi thấy tôi không giấu huynh được điều gì cả.
- Không phải vì tôi lanh trí đâu, chỉ vì nó là con tôi.
Họ ra khỏi Shanty Town, vô Orlando rồi theo con đường tráng nhựa nó đưa ra con đường cái đi Johannesburg, tới chỗ có mấy cây xăng lớn của người da trắng ở cửa châu thành, vì người da đen không được phép xây dựng cây xăng ở Orlando.
- Thím đó nói với huynh những gì vậy?
- Thím ấy bảo rằng bọn thanh niên đó làm vài việc bậy bạ lén lút. Họ đem về nhà nhiều hàng hoá, hàng hoá của người da trắng.
- Trong trại cải huấn đó, người ta cải hoá họ được không?
- Tôi không biết rõ. Người nói thế này, kẻ nói thế khác. Nhưng ông bạn mục sư người Anh khen trại đó lắm.
Họ im lặng một lúc lâu, Msimangu vớ vẩn nghĩ chuyện khác. Rồi Kumalo lại nói tiếp:
- Tôi chỉ mong sao người ta cải hoá được họ.
- Tôi cũng mong vậy.
Họ đi gần một giờ thì tới con đường đưa lên trại cải huấn. Họ tới nơi thì đã giữa trưa, và trẻ từ mọi phía, xếp hàng tiến vô trại cải huấn. Chúng từ khắp nơi đổ tới, thành hàng dài cơ hồ như bất tuyệt.
- Chúng đông quá huynh nhỉ?
- Phải, tôi không ngờ rằng chúng đông như vậy.
Một người da đen như họ, tính tình vui vẻ, nét mặt tươi cười, lại gần họ hỏi họ có việc gì không. Họ đáp rằng muốn kiếm một thanh niên tên Absalom Kumalo. Người đó bèn dắt họ vô một phòng giấy có một người da trắng trẻ tuổi, người này dùng tiếng Afrikaans hỏi họ muốn gì.
Msimangu cũng đáp lại bằng tiếng Afrikaans:
- Thưa ngài, chúng tôi muốn tìm đứa con trai của ông bạn tôi đây, tên nó là Absalom Kumalo.
- Absalom Kumalo. Có, tôi biết nó lắm. Lạ lùng không, nó bảo tôi không có bà con họ hàng gì cả.
Msimangu dịch ra tiếng Zulu cho Kumalo hiểu:
- Cháu nó thưa với ông ấy rằng không có bà con họ hàng gì cả.
Kumalo nói:
- Chắc nó lấy làm xấu hổ - Ông nói tiếp bằng tiếng Zulu – Tôi tiếc rằng không nói được tiếng Afrikaans.
Vì ông nghe nói rằng có một số người Anh không ưa những người da đen không nói được tiếng Afrikaans.
Người da trắng trẻ tuổi đó bảo:
- Ông muốn nói tiếng gì tuỳ ý. Con trai ông hồi ở đây có hạnh kiểm tốt. Nó đã thành một học sinh tốt trong hạng lớn tuổi, và tôi hy vọng nhiều cho tương lai của nó.
- Thưa ngài, như vậy là nó không còn ở đây nữa?
- Phải, nó đã được thả cách đây không đầy một tháng. Chúng tôi đã gia ơn đặc biệt cho nó, một phần vì hạnh kiểm nó tốt, một phần vì tuổi của nó, nhưng thứ nhất là vì nó có một người vợ trẻ đương có mang. Vợ nó thường lại đây thăm nó, nó có vẻ yêu vợ nó lắm và lo lắng cho đứa con sắp sanh. Mà thiếu nữ đó cũng có vẻ yêu nó lắm, vì vậy và cũng vì nó long trọng hứa với tôi sẽ làm lụng nuôi vợ con nên chúng tôi đã đề nghị với ngài bộ trưởng cho nó ra. Dĩ nhiên, trong những trường hợp như vậy, không phải luôn luôn chúng tôi thành công, nhưng khi thấy họ có vẻ thành thực yêu nhau thì chúng tôi cứ thử, may mà nó cải hoá được. Có một điều chắc chắn là nếu có sa ngã nữa thì không có cách gì cứu nó cả.
- Thưa ngài, như vậy nó đã làm hôn thú rồi sao?
- Chưa đâu, Umfundisi. Nhưng đã thu xếp mọi việc cả rồi. Thiếu nữ đó không có bà con họ hàng gì, mà con trai ông cũng bảo là không có bà con họ hàng gì cả, và chính tôi với người phụ tá bản xứ của tôi đứng ra thu xếp chuyện đó.
- Ngài thật là người phúc đức. Tôi xin thay mặt chúng cảm ơn ngài.
- Đó là phận sự của chúng tôi. Ông đứng nên quan tâm tới điều đó mà cũng đừng lo ngại về chuyện chúng không có hôn thú.
Viên công chức trẻ tuổi có vẻ từ tâm nói với Kumalo như vậy. Điểm quan trọng là nó có săn sóc vợ con không và có sống cuộc đời lương thiện không.
- Vâng tôi hiểu vậy, nhưng cái đó làm tôi xúc động.
- Dĩ nhiên, tôi có thể giúp ông được. Mời ông ra ngồi chơi ở ngoài một chút đợi tôi làm xong công việc rồi đưa ông lại Pimville để kiếm Absalom và thiếu nữ đó. Lúc này không gặp nó đâu vì tôi đã kiếm được việc cho nó trong châu thành và tôi nhận được những lời báo cáo tốt về nó. Tôi đã thuyết phục nó mở một trương mục gởi tiền ở sở bưu điện và nó đã gởi vô đó được đâu ba bốn bảng.
- Ngài tốt bụng quá, thật tôi không biết cảm ơn ngài ra sao.
- Đó là phận sự của tôi mà. Thôi bây giờ ông để cho tôi làm nốt công việc rồi tôi sẽ đưa ông lại Pimville.
Họ ra tới ngoài thì người da đen vẻ mặt dễ thương lại hỏi chuyện họ, biết dự định của họ rồi bèn mời họ vô nhà ngồi nghỉ. Hai vợ chồng ông ta cho một số con trai ở đậu, chúng đã được trại cải huấn cho ra ngoài sống tự do. Chủ nhà mời họ uống trà, ăn vài miếng và cũng bảo rằng Absalom ở trong trại là họ sinh giỏi, hạnh kiểm rất tốt. Rồi họ nói chuyện về trại cải huấn, về tình trạng những trẻ sống lang thang ở Johannesburg, không gia đình, không đi học, không ai nâng đỡ che chở; về bộ lạc tan rã phiêu tán, về đất đai khô cằn. Sau cùng một người vô cho hay người da trắng trẻ tuổi đã rảnh việc, sửa soạn đi được rồi.
Xe hơi chạy một lát thì tới Pimville, một làng mà nhà cất tạm bằng những bi-đông từ mấy năm trước mà tới bây giờ vẫn chưa cất lại được. Vì lúc nào cũng không đủ nhà cho những người tứ xứ lại Johannesburg. Tới cổng rào, người Anh trẻ tuổi phải xin phép vô, vì đã có lệnh cấm người da trắng vô làng nếu không được phép.
Họ dừng lại trước một căn nhà làm bằng thùng sắt đó và người da trắng dắt họ vô. Một thiếu nữ còn có vẻ con nít đứng dậy chào hỏi họ.
Người da trắng trẻ tuổi bảo:
- Chúng tôi lại hỏi tin tức về anh Absalom đây. Umfundisi này là thân phụ của anh ta.
Thiếu nữ ấy đáp:
- Anh ấy đi Springs từ thứ bảy vẫn chưa về.
Người Anh cau mày, làm thinh một lát, vẻ bực mình hoặc ngần ngừ không biết tính sao.
- Hôm nay là thứ ba rồi, mà vẫn không có tin tức gì ư?
- Không.
- Bao giờ anh ấy về?
- Tôi không biết được.
Người da trắng có vẻ thản nhiên, hỏi lơ lửng:
- Rồi có về hay không đây?
- Tôi không biết được.
Thiếu nữ có cái giọng thờ ơ không hy vọng như một người đã quen chờ đợi, quen bị người khác bỏ rơi rồi. Nàng như một người không còn trông mong gì ở cái kiếp người bảy chục năm trên cõi trần này. Không có chút phản kháng, chẳng đòi hỏi điều gì và cũng chẳng giận dữ. Lòng nàng không biểu lộ một cái gì cả. Nàng thản nhiên sanh những đứa con của những kẻ đàn ông gạt nàng rồi bỏ nàng, quên nàng.
Tuổi nàng nhỏ, thân hình nàng bé bỏng tới nỗi Kumalo mặc dầu đau sót trong lòng mà cũng thương hại nàng.
Ông hỏi lai:
- Cháu tính sao?
- Cháu không biết tính sao.
Msimangu chua chát bảo:
- Có lẽ rồi lại kiếm một người đàn ông khác.
Kumalo chưa kịp nói một câu gì để gột cái ý nghĩ chua chát đó đi, không cho nàng thấy, thì nàng đã lặp lại:
- Cháu không biết tính sao.
Một lần nữa, Kumalo chưa kịp nói gì thì Msimangu đã quay lưng lại thiếu nữ, nói nho nhỏ với bạn.
- Ở đây chẳng làm được gì đâu. Thôi chúng mình đi đi.
- Huynh ạ…
- Tôi bảo rằng ở đây chẳng làm được gì đâu. Huynh lo lắng cho bản thân chưa đủ sao? Huynh nghe tôi này, ở Johannesburg này có cả mấy ngàn ả như vậy. Dù cái lưng của huynh rộng bằng cả vòng trời, túi huynh đầy nhóc vàng, và lòng trắc ẩn của huynh trải mênh mông từ cõi trần này xuống tới địa ngục đi nữa, thì huynh cũng chẳng làm gì được đâu.
Họ lặng lẽ rút lui. Mọi người đều lặng thinh; mỗi người một tâm sự: người da trắng trẻ tuổi thì chán nản vì thất vọng, Kumalo thì rầu rĩ vì đứa con, còn Msimangu vẫn còn chua chát vì những lời nói của mình. Hai người kia đã lên ngồi trong xe rồi mà Kumalo còn đứng ở ngoài. Ông bảo:
- Huynh không hiểu. Đứa con trong bụng thiếu nữ đó sẽ là cháu nội tôi.
Msimangu quạu quọ, vẫn chưa nén được nỗi chua chát.
- Ngay cái đó nữa, huynh cũng không biết chắc được. Mà dù có đúng vậy chăng nữa thì huynh cũng còn biết bao cháu nội nữa, chúng ta sẽ đi tìm chúng ngày này qua ngày khác sao? Biết bao giờ cho xong.
Kumalo vẫn đứng trên đám đất cát, trơ trơ như bị sét đánh. Rồi không nói thêm gì cả, ông leo lên xe.
Chiếc xe ngừng lại ở cổng rào. Người da trắng lại xuống xe, vô phòng giấy của viên giám thị người Âu. Khi trở về xe, mặt ông ta lạnh lùng, đau khổ. Ông ta bảo:
- Tôi đã kêu điện thoại lại xưởng. Đúng rồi, tuần lễ này nó không đi làm.
Tới cửa châu thành Orlando, họ lại ngừng xe gần cây xăng lớn. Người da trắng trẻ tuổi bảo họ:
- Hai ông xuống đây thôi.
Hai người xuống xe và người da trắng nói với Kumalo:
- Tôi rầu chuyện đó quá.
- Vâng, thực là khổ tâm.
Rồi như không tìm được tiếng Anh để diễn tả, ông nói bằng tiếng Zulu với Msimangu:
- Tôi cũng rầu rĩ vì ông ấy đã hết lòng mà kết quả như vậy.
Msimangu dịch ra tiếng Afrikaans:
- Ông ấy bảo ông ấy rất rầu rĩ vì ngài đã tốn công toi.
- Đó là phận sự của tôi, còn nó là con ông ấy.
Rồi ông ta quay về phía Kumalo, nói tiếng Anh:
- Chúng ta đừng nên tuyệt vọng. Đôi khi có trường hợp một thanh niên bị bắt giam hoặc bị thương vì tai nạn, rồi người ta chở vô dưỡng đường, chúng ta không biết thực sự xảy ra sao. Tôi sẽ tiếp tục tìm kiếm nó.
Chiếc xe chạy đi. Hai người đứng nhìn theo.
Kumalo bảo:
- Ông ấy tốt bụng. Tôi chúng ta đi thôi.
Nhưng Msimangu vẫn đứng yên, bảo:
- Tôi xấu hổ với huynh.
Mặt ông ta nhăn nhó, có vẻ khổ não lắm.
Kumalo ngạc nhiên ngó ông ta. Ông ta nói:
- Tôi đã thốt những lời đê tiện quá. Huynh tha thứ cho.
- Huynh muốn nói về việc đi tìm cháu nội tôi ấy ư?
- Vậy ra huynh đã hiểu rồi ư?
- Vâng, tôi hiểu rồi.
- Huynh may hiểu thật.
- Tôi già rồi, đã từng trải ít nhiều. Thôi chuyện đó nhắc tới làm chi.
- Đôi khi tôi thấy tôi không đáng làm mục sư. Tôi muốn nói với huynh…
- Không sao.Có lần huynh đã bảo rằng huynh nhu nhược và ích kỷ, nhưng Thượng Đế đã ra tay cứu vớt. Cơ hồ như lời đó đúng đấy.
- Huynh an ủi tôi đấy.
- Nhưng tôi muốn xin huynh một việc.
Msimangu chăm chú ngó bạn, rồi đáp:
- Sẵn sàng.
- Sẵn sàng cái gì?
- Sẵn sàng dắt huynh trở lại gặp thiếu nữ đó nữa.
- Huynh cũng mau hiểu đấy chứ.
- Phải cho người khác cũng mau hiểu như mình với chứ.
Nhưng tâm trạng họ lúc đó chưa cho họ nói đùa được. Họ đi dọc theo con đường nóng như lửa đốt tới Orlando, không ai nói với ai câu nào, người nào người nấy tâm sự bồi hồi.
Ngồi trên xe về Sophiatown, Msimangu bảo:
- Tôi nghĩ huynh hãy nên nghỉ ngơi ít bữa.
Kumalo ngó bạn đáp:
- Làm sao tôi có thể nghỉ ngơi bây giờ?
- Tôi hiểu huynh muốn nói gì rồi.Tôi biết rằng huynh đang lo lắng, nhưng người Anh trong trại cải huấn tìm kiếm có kết quả hơn chúng ta nhiều. Hôm nay thứ ba; ngày mốt tôi lại phải làm lễ ở Ezenzeneli, nơi có trại nuôi người mù xong rồi tôi lại phải săn sóc tín đồ nữa. Tôi phải nghỉ đêm tại đó, hôm sau mới về được. Tôi sẽ kêu điện thoại hỏi viên Giám đốc trại xem tôi có thể dắt huynh theo được không. Trong khi tôi làm việc huynh có thể nghỉ ngơi. Nơi đó phong cảnh đẹp; có một tiểu giáo đường, đất thoai thoải đưa xuống thung lũng ở dưới sâu. Nhìn thấy công trình của người da trắng xây cất cho những người mù của chúng ta, lòng huynh sẽ thấy phấn khởi. Rồi chúng ta sẽ trở về, đủ sức mạnh tinh thần để làm mốt công việc của chúng ta.
- Thế còn công việc của huynh?
- Tôi đã thưa với bề trên rồi. Bề trên đã cho phép tôi và tôi phải giúp huynh cho tới khi nào tìm được cậu đó mới thôi.
- Các vị bề trên quả là nhân từ. Vâng, tôi sẽ đi cùng với huynh.
Ở hội Truyền giáo, không khí buổi tối đó rất vui vẻ. Cha Vincent, vị mục sư má hồng hào như trẻ em đó, hôm đó cũng có mặt và người ta chuyện trò về miền Kumalo sinh trưởng và làm việc. Rồi người da trắng đó kể chuyện về quê hương của mình cho mọi người nghe, tả các hàng rào cây, các cánh đồng, tu viện Wesminter và các giáo đường danh tiếng rải rác khắp nơi. Nhưng nỗi vui đó cũng không hoàn toàn vì một mục sư da trắng ở châu thành lại, chìa tờ Evening Star, chỉ cho họ một hàng tít lớn: GIẾT NGƯỜI Ở PARKWOLD, MỘT KỸ SƯ RẤT CÓ DANH VỌNG Ở CHÂU THÀNH CHÚNG TA BỊ BẮN CHẾT TRONG NHÀ, NGỜ RẰNG KẺ SÁT NHÂN LÀ NGƯỜI BẢN XỨ.
Vị mục sư da trắng nói:
- Thật là một sự thiệt hại lớn cho Nam Phi. Vì ông Arthur Jarvis đó là một thanh niên rất can đảm, hăng hái chiến đấu cho công lý. Mà cũng là một cái tang lớn cho Giáo hội nữa vì ông ta một trong những thanh niên đáng quí nhất trong số những người không theo đạo.[1]
Msimangu bảo:
- Ông Jarvis ư? Quả thực tin này ghê gớm quá. Ông ấy làm hội trưởng câu lạc bộ Thanh niên Phi, ngay ở Claremont này, tại đường Gladiolus.
Cha Vincent nói với Kumalo:
- Có lẽ ông không biết ông ta? Trong báo bảo rằng ông ta là người con trai duy nhất của ông James Jarvis, ở High Place, Carisbrooke.
Kumalo rầu rĩ đáp:
- Tôi biết người cha. Còn người con, tôi biết tên, biết mặt nhưng chưa nói chuyện với nhau lần nào. Trại ông ta ở trên đồi, phía trên Ndotsheni và đôi khi ông ta cưỡi ngựa đi qua giáo đường. Hồi đó tôi nhớ là một cậu bé đẹp trai, nhưng không nhớ rõ lắm.
Nói xong, Kumalo lại im lặng vì làm sao không im lặng được khi hay tin một người mới chết, mà người đó trước kia làm một cậu bé rực rỡ đẹp trai.
Cha Vincent bảo:
Tôi đọc tin đó cho ông nghe nhé?
“ Hồi một giờ rưỡi trưa hôm nay ông Arthur Jarvis ở đường Plantation, Parkwold, bị một kẻ xông vào nhà bắn chết, người ta ngờ rằng kẻ sát nhân là một kẻ bản xứ. Bà Jarvis với hai người con đi vắng, nghỉ ngơi ít bữa, và ông Jarvis đã kêu điện thoại cho các hội viên hay rằng sẽ ở nhà vì bị cảm nhẹ. Người ta đoán rằng một người bản xứ chắc cùng với hai kẻ đồng loã, từ phía sau bếp mà lên nhà, tưởng trong nhà không có ai. Người đầy tớ bản xứ ở trong bếp bị đánh thình lình té bất tỉnh; và ông Jarvis chắc là nghe thấy tiếng động bất thường, xuống coi xem có chuyện gì. Ông ta bị bắn ngay một phát trong hành lang đưa từ cầu thang xuống bếp, hình như súng dí gần sát người ông. Không thấy một dấu vết gì tỏ ra có sự chiến đấu.
“ Người ta thấy ba thanh niên bản xứ đi dọc theo con đường Plantation vài phút trước khi án mạng đó xẩy ra, và người ta đã phái ngay một đội thám tử hùng hậu lại tại chỗ. Cuộc điều tra rất kỹ lưỡng đương tiến hành và các đồn điền ở Parkwold Ridge đương được lục soát. Người đầy tớ bản xứ Richard Mpiring còn nằm bất tỉnh ở dưỡng đường cho những người không phải Âu, và người ta hy vọng rằng khi chú ta tỉnh lại rồi sẽ có thể cho Ty cảnh sát biết được nhiều điều quan trọng. Nhưng hiện thời tình trạng của chú ta nghiêm trọng.
“ Một ông hàng xóm, ông Michael Clarke nghe thấy tiếng súng nổ vội vã chạy sang và thấy cảnh bi thảm đó. Chỉ sau vài phút cảnh sát tới liền. Trên chiếc bàn kê ở đầu giường nạn nhân người ta thấy một bản thảo viết dở nhan đề là: Sự thật về tình trạng phạm pháp củangười bản xứ và hình như ông đương viết thì đứng dậy đi tới chỗ chết. Cảnh sát thấy ống điếu của ông đặt trên bàn còn nóng.
“ Ông Jarvis để lại một bà vợ goá, một cậu con trai chín tuổi, và một cô con gái năm tuổi. Ông là con trai duy nhất của ông James Jarvis ở trại High Place, Carisbrooke; Natal, và là hội viên của hãng chế tạo máy móc Davis, van der Walt và Jarvis. Nhiều người biết tiếng ông, vì ông quan tâm tới các vấn đề xã hội, gắng sức cải thiện đời sống của những giới không phải gốc Âu trong châu thành ”.
Mọi người đều lặng thinh. Phòng im phăng phắc. Không phải là lúc nói về hàng rào cây, cánh đồng, về cảnh đẹp của mỗi xứ nữa. Buồn rầu, sợ hãi, oán hận, những nỗi niềm đó nổi lên trong lòng và trong óc ta mỗi khi ta mở những trang tin tức về chết chóc. Khóc than đi cho cảnh bộ lạc bị tan rã, cho những luật pháp tục lệ bị bỏ quên. Ôi! Khóc lớn lên đi, vì người chồng đã chết, vì người vợ goá và lũ con côi. Khóc lên đi, ôi quê hương yêu dấu, những chuyện như vậy chưa hết đâu. Ánh mặt trời tuôn xuống mặt đất, lên trên cái xứ đẹp đẽ này mà con người không biết hưởng. Trong lòng con người chỉ còn có nỗi sợ hãi thôi.
Kumalo đứng dậy, bảo:
- Tôi xin cáo biệt và chúc các ông yên giấc.
- Tôi cùng đi với huynh.
Họ đi tới cái cổng căn nhà nho nhỏ của bà Lithebe. Kumalo ngửng lên nhìn bạn và Msimangu thấy vẻ rất đau khổ trên mặt ông ta. Ông ta bảo:
- Cái đó. Cái đó. Trong tim tôi đây nè, chỉ có niềm sợ hãi, không có gì khác. Sợ, sợ, sợ….
- Tôi hiểu. Tuy nhiên, thật là điên mà sợ rằng chính cái điều đó xảy ra trong châu thành lớn có cả ngàn, cả ngàn người này.
- Không phải là chuyện sáng suốt hay điên khùng. Chỉ là chuyện sợ thôi.
- Ngày mốt chúng ta sẽ lại Ezenzeleni. Có thể lại đó huynh sẽ tìm được cái gì nó làm cho huynh bình tĩnh lại.
- Chắc vậy, chắc vậy. Nhưng điều tôi mong mỏi nhất thì tôi sẽ không tìm thấy được ở đó.
- Huynh đi cầu nguyện đi.
- Trong lòng tôi không còn lời cầu nguyện nào nữa. Thâm tâm tôi như câm rồi. Tôi không còn tiếng nào để cầu nguyện.
- Chúc an giấc.
- Chúc an giấc.
Msimangu nhìn Kumalo lên con đường dốc nho nhỏ. Ông ta có vẻ già sọm. Msimangu quay trở lại hội Truyền giáo. Phải, có những lúc mà Thượng Đế như không còn ở trên trái đất này nữa.
[1]Đọc những chương sau chúng ta thấy song thân Arthur Jarvis theo đạo và làm lễ táng cho Arthur ở giáo đường. Bản tiếng Pháp dịch là “ theo đạo ”.