Nếu cần một tỉ số để tổng kết tất cả về Manchester United thì nó đã đến trong trân đấu thứ 1500 của tôi: trận đấu cuối cùng. West Bromwich Albion 5 Manchester United 5. Điên rồ. Mãn nhãn. Tuyệt diệu. Mãnh liệt. Xem Manchester United thi đấu là đồng nghĩa với những bàn thắng và sự kịch tính. Trái tim của bạn sẽ phải trải qua một “bài test”. Tôi không phàn nàn về việc United đánh rơi lợi thế dẫn West Brom 5-2 chỉ trong vỏn vẹn 9 phút. Tôi vẫn thể hiện sự không hài lòng nhưng các cầu thủ hiểu ý nghĩa sâu xa của điều đó. Tôi nói với họ: “Cảm ơn các cậu. Một bữa tiệc chia tay sốc và tuyệt vời!”
Lúc đó, David Moyes đã được chỉ định làm người kế nhiệm. Ngồi trong phòng thay đồ sau trận đấu, Giggs đùa: “David Moyes cũng vừa mới từ chức.”
Dù hàng phòng ngự của United đang gặp vấn đề nhưng tôi vẫn tự hào và nhẹ nhõm khi chuyển giao cho David Moyes đội hình và ban huấn luyện chất lượng này. Công việc của tôi đã hoàn tất. Gia đình đang đợi tôi tại khu Regis Suite của sân The Hawthorns, một cuộc sống mới mở ra trước mắt.
Ngày chia tay của tôi giống như một giấc mơ. West Brom đã hỗ trợ một cách tân tình nhất. Sau trận, họ còn gửi tặng tôi bản danh sách đăng ký nhân sự có chữ ký của tất cả cầu thủ hai đội. Gần như toàn bộ gia đình tôi đều có mặt ở đây: ba con trai, tám cháu và một, hai người bạn thân thiết. Đó thật sự là một niềm vui dành cho tôi nói riêng và cả gia đình nói chung khi trải qua những giờ phút này bên cạnh nhau.
Bước chân từ xe bus đội bóng xuống sân nhà của West Brom, mục tiêu tôi tự đặt ra là thưởng thức từng khoảnh khắc. Quyết định giải nghệ không hề khó khăn vì tôi biết bây giờ là thời điểm thích hợp. Đêm trước trận đấu, các cầu thủ đã tặng tôi một món quà kỷ niệm đặc biệt. Đó là chiếc đồng hồ Rolex 1941 tuyệt đẹp đã được chỉnh đúng 15 giờ 3 phút, ám chỉ thời khắc tôi ra đời vào ngày 31 tháng Mười hai năm 1941 tại Glasgow. Họ còn làm một cuốn sách ảnh về toàn bộ khoảng thời gian của tôi tại Old Trafford, với hình gia đình tôi ở chính giữa. Rio Ferdinand, một người đam mê đồng hồ, là người đưa ra ý tưởng này.
Sau khi nhận đồng hồ, sách và tràng pháo tay vang dội khắp căn phòng, tôi thấy những nét mặt đặc biệt của vài cầu thủ. Thật khó để diễn tả khi họ đã luôn có tôi ở bên trong suốt sự nghiệp, với một số người là 20 năm. Một cảm giác trống vắng có thể thốt thành lời: “Rồi mọi chuyện sẽ thế nào đây?”. Có những cầu thủ thậm chí không biết huấn luyện viên nào khác ngoài tôi.
Vẫn còn một trận đấu nữa và tôi muốn nó phải thật ra trò! United vươn lên dẫn 3-0 trong 30 phút đầu nhưng West Brom không muốn tôi có ngày chia tay quá dễ dàng. John Sivebeak là người ghi bàn thắng đầu tiên cho United của Ferguson vào ngày 22 tháng Mười một năm 1986 và Javier Hernandez là cầu thủ lập công cuối cùng vào ngày 19 tháng Năm năm 2013. Khi dẫn 5-2, chúng tôi cảm tưởng có thể thắng 20-2. Khi bị gỡ hòa 5-5, Quỷ Đỏ dường như sẵn sàng chịu thất bại 5-20. Hàng phòng ngự của United giống một mớ hỗn độn. West Brom ghi liền ba bàn thắng, Romelu Lukaku hoàn tất cú hat-trick.
Mặc dù hứng chịu cơn mưa bàn thắng những phút cuối, toàn đội vẫn rất vui vẻ. Khi tiếng còi mãn cuộc cất lên, chúng tôi ở lại sân để tri ân những cổ động viên Quỷ Đỏ. Giggsy đẩy tôi lên phía trước, một mình giữa hàng nghìn gương mặt rạng rỡ. Người hâm mộ đã dành cả ngày trời hát vang, cổ vũ, tôi rất muốn giành chiến thắng 5-2 nhưng 5-5 có vẻ là lời chia tay thích hợp. Đây là trận đấu đầu tiên có tỉ số này trong lịch sử Premier League cũng như sự nghiệp cầm quân của tôi. Lát cắt cuối của lịch sử trong 90 phút cuối cùng.
Văn phòng của tôi ở Manchester cũng ngập tràn thư từ, quà tặng. Real Madrid gửi một món quà rất đẹp: mô hình bằng bạc của quảng trường Cibeles tại Madrid, nơi họ ăn mừng những chức vô địch quốc gia, kèm với lá thư thân mật từ chủ tịch Real Florentino Perez. Ajax và Edwin van der Sar cũng có những món quà riêng. Lyn, thư ký riêng của tôi, đã phải làm việc hết công suất.
Trước đó một tuần, trong trận đấu với Swansea, lần cuối cùng tại Old Trafford, tôi đã không biết điều gì sẽ chờ đợi mình, ngoài hai hàng cầu thủ vinh danh. Tôi vừa trải qua bảy ngày căng thẳng vì giải thích với gia đình, bạn bè, cầu thủ và ban huấn luyện quyết định bước sang một chương mới của cuộc đời.
Ý định chia tay sự nghiệp cầm quân nảy mầm vào tháng Mười năm 2012. Càng đến gần Giáng sinh, nó càng trở nên mạnh mẽ và rõ ràng hơn trong đầu tôi: “Ta phải giải nghệ thôi.”
“Tại sao ông làm thế,” Cathy hỏi.
“Mùa trước, đánh mất chức vô địch ở vòng đấu cuối, tôi không thể đón nhận điều đó thêm một lần nữa,” tôi trả lời. “Hy vọng United vô địch Premier League năm nay và vào Chung kết Cúp FA hoặc Champions League. Đó sẽ là cái kết tuyệt vời.”
Cathy cũng dần hiểu ra và đồng ý. Chị gái của Cathy là Bridge vừa mất hồi tháng Mười và bà ấy gặp rất nhiều khó khăn với mất mát này. Cathy động viên tôi rằng tôi vẫn trẻ để làm những việc khác trong đời. Theo hợp đồng, tôi sẽ phải thông báo quyết định này cho câu lạc bộ trước ngày 31 tháng Ba.
Ngẫu nhiên, David Gill gọi cho tôi vào một ngày Chủ nhật của tháng Hai và muốn qua nhà tôi để trò chuyện. Một chiều Chủ nhật ư? “Cá là ông ấy định nghỉ việc giám đốc điều hành đây,” tôi phán đoán. “Hoặc thế, hoặc là ông chuẩn bị bị sa thải,” Cathy trả lời. Cuối cùng, David thông báo với tôi sẽ rời ghế giám đốc vào cuối mùa giải. “Quái quỷ thật, David,” tôi nói. Rồi tôi kể việc mình cũng đưa ra quyết định tương tự như thế nào.
Ngày hôm sau, tôi nhận cuộc gọi từ gia đình Glazer. Tôi đảm bảo với Joel Glazer rằng ý định của tôi không liên quan gì đến David, rằng tôi đã quyết từ Giáng sinh. Rồi tôi giải thích những lý do. Việc chị gái của Cathy qua đời đã ảnh hưởng hoàn toàn đến cuộc sống của chúng tôi. Bà ấy cảm thấy cô đơn. Joel nói rằng ông ấy đã hiểu. Chúng tôi thống nhất sẽ gặp nhau tại New York. Một lần nữa, Joel thuyết phục tôi rút lại quyết định. Đánh giá cao những cố gắng và cảm ơn sự ủng hộ của Joel nhưng tôi từ chối. Ông ấy tỏ lòng biết ơn những gì tôi đã làm cho câu lạc bộ.
Rồi cuộc trao đổi tiến đến việc tìm ra người kế nhiệm. Một sự thống nhất – David Moyes là người được chọn.
David sau đó đến nhà tôi để bàn bạc. Nhà Glazer mong muốn sau khi thông tin tôi giải nghệ được xác nhận, những tin đồn về người kế vị sẽ không kéo dài lâu. Họ muốn mọi việc phải xong xuôi trong vài ngày.
Người Scotland luôn giữ trong tâm mình một ý chí mạnh mẽ. Họ chỉ rời quê hương vì một lý do duy nhất: thành công. Người Scotland không rời Scotland để trốn chạy quá khứ mà để hoàn thiện bản thân. Bạn có thể thấy điều này ở khắp mọi nơi trên thế giới, đặc biệt là Mỹ và Canada. Xa quê nhà tạo nên một niềm quyết tâm nhất định. Đó không phải là chiếc vỏ bọc, đó là sự cương quyết với thành công. Những điều kể trên đôi khi vận đúng vào con người tôi.
Người Scotland ở nước ngoài không thiếu tính hài hước. Nhưng họ rất nghiêm túc trong công việc, một phẩm chất vô giá. Mọi người thường nói với tôi: “Chẳng bao giờ thấy ông cười trong trận đấu cả.” Tôi trả lời: “Tôi không đến đây để cười đùa, tôi đến đây để chiến thắng.”
David có nhiều nét kể trên. Tôi biết thân thế của ông ấy. Bố của ông ấy, David Moyes Senior, là huấn luyện viên tại Drumchapel, nơi tôi từng thi đấu khi là cầu thủ. Gia đình họ rất hòa thuận. Tôi không nói đó là lý do để trao công việc cho một người nào đó nhưng rõ ràng bạn muốn thấy những nền tảng tốt như vậy ở họ. Tôi rời Drumchapel năm 1957, khi David Moyes Senior cũng mới chỉ là một chàng trai trẻ. Chúng tôi không có mối liên hệ trực tiếp nào, nhưng tôi hiểu câu chuyện nhà Moyes.
Nhà Glazer rất thích David. Ngay lập tức, họ đã ấn tượng với ông ấy. Điểm đầu tiên mà họ chú ý nơi David đó là ông ấy là người nói thẳng. Thẳng thắn về bản thân là một đức tính. Và để chấm dứt những nghi ngờ, tôi sẽ không bao giờ can thiệp vào công việc của David. Sau 27 năm làm quản lý, tôi tiếp tục dấn thân vào bóng đá để làm gì? Bây giờ là thời điểm cho tôi để bóng đá lại sau lưng. David cũng sẽ không gặp nhiều khó khăn tiếp nối truyền thống của câu lạc bộ. Ông ấy đánh giá tài năng rất tốt và từng mang đến lối chơi tuyệt vời ở Everton khi được phép ký hợp đồng với những cầu thủ đẳng cấp.
Tôi tự nhủ với bản thân không bao giờ hối hận với quyết định nghỉ hưu. Điều đó sẽ không thay đổi. Ở độ tuổi bảy mươi, cả thể chất và tinh thần có thể xuống dốc nhanh chóng. Nhưng kể từ khi giải nghệ, tôi khá bận bịu với các dự án ở Mỹ và một số nơi khác. Tôi sẽ không bập vào những thứ vô ích. Tôi đang tìm thử thách mới.
Trong những ngày quyết định chính thức, một khó khăn lớn lao là thông báo với đội ngũ nhân viên ở Carrington, sân tập của United. Tôi vẫn đặc biệt nhớ khoảnh khắc tôi đề cập những thay đổi trong cuộc sống, sự ra đi của chị gái Cathy và nghe thấy tiếng kêu đầy thương cảm: “Ôiii!” Nó thực sự phá bỏ rào cản cuối cùng trong tôi, như một nhát dao cắm vào người.
Tin đồn bắt đầu lan ra một ngày trước thông báo chính thức. Lúc đấy, tôi vẫn chưa nói chuyện với em trai Martin. Xử lý toàn bộ quá trình này không hề dễ dàng một chút nào, đặc biệt nếu đứng dưới tư cách của Thị trường Chứng khoán New York, bởi vậy, việc một phần tin tức bị rò rỉ khiến tôi trở nên thỏa hiệp hơn đối với những người mà tôi muốn giao phó.
Sáng thứ Tư, ngày 8 tháng Năm, tôi tập hợp ban huấn luyện trong phòng phân tích băng hình, đội ngũ nhân viên chính tại canteen và các cầu thủ ở phòng thay đồ. Đầu tiên, tôi đã bước vào phòng thay đồ và thông báo quyết định chính thức đã được đăng trên trang chủ của câu lạc bộ. Tôi không cho phép mang điện thoại vào bởi tôi không muốn tin tức tràn ra ngoài trước khi tất cả mọi người ở Carrington được biết. Tuy nhiên, các cầu thủ cũng nhận thức được một điều lớn lao sắp xảy đến.
Tôi nói với họ: “Tôi hy vọng không làm ai buồn vì có thể bạn gia nhập câu lạc bộ này vì nghĩ tôi sẽ ở đây lâu dài.” Thực tình thì United đã nói với Robin van Persie và Shinji Kagawa như vậy, vì nó hoàn toàn đúng ở thời điểm đó.
“Mọi thứ đã thay đổi,” tôi tiếp tục. “Cái chết của chị gái vợ tôi là một thay đổi lớn lao. Thêm vào đó, tôi cũng muốn ra đi trong tư thế nhà vô địch. Và tôi sẽ ra đi trong tư thế nhà vô địch.”
Một vài gương mặt sốc thấy rõ. “Hãy đến trường đua và tận hưởng đi nhé. Hẹn gặp lại các cậu vào ngày mai.” Trước đó, tôi đã cho phép các cầu thủ nghỉ ngơi chiều thứ Tư để đi xem đua ngựa ở trường đua Chester. Mọi người đều biết chuyện này. Tôi không muốn họ nghĩ các cầu thủ vô tâm đến mức đi chơi ngay trong ngày thầy giã từ sự nghiệp, nên tôi đã xác nhận rộng rãi việc này cách đó một tuần.
Rồi tôi lên tầng đến phòng của ban huấn luyện. Họ đều hưởng ứng. Một hai người nhận xét vui: “Cuối cùng đã đuổi được ông đi!” Trong hai nhóm này thì các cầu thủ tỏ ra lo lắng hơn. Đột nhiên trong đầu họ sẽ đầy những câu hỏi: “Huấn luyện viên mới có thích mình không? Mình còn ở đây mùa giải tới không?” Còn các huấn luyện viên thì đơn giản hơn: “Đến đây có lẽ là chấm dứt rồi.”
Lúc này là thời điểm cho tôi rút lui khỏi những chuyện thông báo và giải thích này để ngồi ngẫm lại. Tôi quyết định đi thẳng về nhà vì tôi biết phản ứng của truyền thông với cơn địa chấn này. Tôi không muốn rời Carrington trước biển phóng viên và ánh đèn flash nhấp nháy.
Về nhà, tôi khóa mình trong phòng. Jason, luật sư của tôi, và Lyn đều gửi những tin nhắn vào thời điểm thông báo chính thức. Lyn có vẻ như còn nhắn tin liên tục trong vòng 15 phút. Tổng cộng 38 tờ báo trên toàn thế giới đã đưa thông tin giải nghệ của tôi lên trang nhất, bao gồm cả New York Times. Báo chí ở Anh thì đã tăng thêm từ 10-12 trang trong dịp này.
Độ rộng và bề sâu của thông tin trên mặt báo là một sự tôn vinh dành cho tôi. Tôi có nhiều mối bất hòa với đội ngũ làm báo trong suốt những năm qua nhưng tôi không bao giờ nuôi lòng thù hận. Các phóng viên phải làm việc dưới nhiều áp lực. Họ phải cố gắng đánh bại TV, internet, Facebook, Twitter, nhiều thứ khác, và họ còn có một biên tập viên ngồi bên trên. Một ngành công nghiệp vất vả.
Điều này cũng chứng tỏ truyền thông cũng không hề hận thù gì tôi, dù những xung đột thì đã xảy ra. Họ ghi nhận giá trị của sự nghiệp cầm quân của tôi và những gì tôi mang đến các buổi họp báo. Họ còn tặng món quà kỷ niệm là một chiếc bánh với trang trí hình máy sấy tóc ở bên trên cùng một chai rượu hảo hạng. Tôi vui vẻ đón nhận chúng.
Trong trận đấu với Swansea, người đọc thông báo của sân đã bật những bản nhạc My Way của Sinatra và Unforgettable của Nat King Cole. United chiến thắng bằng cách đã được thực hiện rất nhiều trong 895 trận thắng trước đó: bàn thắng muộn, phút thứ 87, của Rio Ferdinand.
Bài phát biểu của tôi lúc sau hoàn toàn tự phát. Tôi không có kịch bản nào hết. Tôi chỉ biết tôi sẽ không đề cao bất cứ cá nhân nào. Sẽ không phải về giám đốc, về người hâm mộ hay các cầu thủ, mà đó là về Câu lạc bộ Manchester United.
Tôi thúc giục đám đông hãy đứng bên cạnh vị huấn luyện viên mới, David Moyes. “Tôi muốn gợi lại rằng chúng ta từng có những khoảng thời gian tồi tệ. Khi đó, câu lạc bộ đứng bên tôi, ban huấn luyện đứng bên tôi, các cầu thủ đứng bên tôi. Bởi vậy, nhiệm vụ của các bạn bây giờ là đứng bên huấn luyện viên mới. Điều này rất quan trọng.”
Nếu tôi không đề cập đến David, có lẽ mọi người sẽ hỏi: “Tôi tự hỏi liệu Ferguson có muốn Moyes thay thế hay không?” Chúng tôi cần thể hiện sự ủng hộ trong mọi hoàn cảnh dành cho ông ấy. Câu lạc bộ cần tiếp tục chiến thắng. Đó là tâm niệm của chúng tôi. Tôi là giám đốc United. Như bất kỳ ai, tôi muốn vinh quang được duy trì. Giờ tôi có thể thưởng thức trận đấu theo cách của Sir Bobby từ khi ông giải nghệ. Bạn có thể thấy đôi mắt Sir Bobby rực cháy, hai tay ông xoa mạnh vào nhau sau mỗi trận thắng. Tôi cũng muốn điều đó. Tôi muốn dự khán một trận đấu tại cúp châu Âu và nói với mọi người: “Tôi tự hào về đội bóng này, đó là một đội bóng tuyệt vời.”
Trong bài phát biểu, tôi cũng nhắc đến Paul Scholes. Tôi biết cậu ấy không thích thế nhưng tôi không thể kìm lòng. Paul cũng đã giải nghệ. Tôi còn dành lời chúc cho Darren Fletcher sớm bình phục căn bệnh viêm loét dạ dày mà rất hiếm người mắc phải.
Vài ngày sau tại sân bay, một người đàn ông đưa tôi một chiếc phong bì và nói: “Tôi muốn gửi ông thứ này.” Đó là một bài báo của Ireland chỉ ra rằng tôi đã rời câu lạc bộ theo cách mà tôi vẫn dẫn dắt nó: tự lựa chọn con đường. “Hành động kiểu mẫu của Ferguson” – tác giả đã viết như vậy. Tôi rất thích và tự hào vì bài báo này. Đó chính là cách tôi nhìn nhận quãng thời gian nắm quyền của mình ở Old Trafford.
Khi tôi rời băng ghế chỉ đạo, David đến và mang theo bộ ba trợ tá: Steve Round, Jimmy Lumsden và Chris Woods. Ông ấy còn bổ sung Ryan Giggs và Phil Neville làm huấn luyện viên, đồng nghĩa với việc Rene Meulensteen, Mick Phelan và Eric Steele đồng thời mất việc. Đó là lựa chọn của David. Tôi sẽ rất hài lòng nếu ông ấy giữ lại đội ngũ huấn luyện nhưng tôi cũng không có quyền ngăn cản ông ấy tái hợp với những trợ lý thân tín của mình.
Jimmy Lumsden đã theo chân David từ lâu. Tôi biết ông ấy khi còn ở Glagow, nhà ông ấy chỉ cách nhà tôi hơn một dặm. Jimmy là một người đàn ông nhỏ bé, tốt bụng và một cầu thủ chất lượng. Thật thất vọng khi những người tài giỏi bị mất việc, tuy nhiên, đó là một phần của bóng đá. Và mọi chuyện cũng được xử lý êm đẹp. Tôi nói với ba người họ rằng tôi tiếc nuối ra sao khi không thể giữ họ ở lại. Nhưng Mick, người đã bên tôi suốt 20 năm, khuyên tôi không có gì phải tiếc nuối và cảm ơn tôi vì những khoảng thời gian tuyệt vời trước kia.
Khi ngồi nhìn lại mọi thứ, tôi không chỉ chăm chăm tập trung vào vinh quang mà còn cả những thất bại. Tôi từng để thua ba trận Chung kết Cúp FA, trước Everton, Arsenal và Chelsea, ba trận Chung kết Cúp Liên đoàn trước Sheffiled Wednesday, Aston Villa và Liverpool, hai trận Chung kết Champions League đều trước Barcelona. Đó cũng là một phần của Manchester United: hồi sinh. Tôi luôn tâm niệm rằng bóng đá không chỉ có chiến thắng và diễu hành. Khi để thua Everton ở Chung kết Cúp FA 1995, tôi tự nhủ: “Được rồi, ta sẽ thay đổi.” Và tôi đôn những cầu thủ trẻ lên, thế hệ vẫn được biết với cái tên Thế hệ vàng 1992. Tôi không thể kìm giữ họ lâu hơn nữa.
Những lần thua trận với Manchester United sẽ cộng hưởng với bạn. Ngồi ngẫm nghĩ chán chê rồi vẫn duy trì đường lối cũ không phải là lựa chọn của tôi. Bạn sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nếu để thua một trận Chung kết, đặc biệt khi bạn có 23 cú sút và đối thủ có 2, hoặc bạn thất bại trên chấm phạt đền. Suy nghĩ đầu tiên của tôi luôn là: “Suy nghĩ nhanh về những việc cần làm.” Tâm trí tôi hướng thẳng đến việc cải thiện hay khôi phục. Đây là một tính cách đặc biệt giúp tôi có khả năng tính toán nhanh trong những trường hợp mà mọi người thường ngã lòng nhiều hơn.
Đôi khi, thất bại lại là kết quả tốt nhất. Đối phó với khó khăn, nghịch cảnh là cả một phẩm chất. Ngay khi ở trong thời kỳ đen tối nhất, bạn cũng đang thể hiện sức mạnh của mình. Một con người vĩ đại từng nói: “Chỉ là một ngày qua đi trong lịch sử Manchester United.” Chiến đấu là một phần của sự hiện diện của chúng ta. Nếu bạn quá yếu ớt với những thất bại, có thể đảm bảo chúng sẽ còn kéo dài. Bình thường, United đánh rơi 2 điểm bởi bàn gỡ hòa của đối thủ trong cú sút cuối cùng của trận đấu nhưng vùng dậy giành chiến thắng sáu, bảy trận liên tiếp sau đó. Đây hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên.
Đối với người hâm mộ, có cả một văn hóa đi làm ngày thứ Hai nhưng đầu óc bị xao lãng bởi các trận đấu cuối tuần. Một anh chàng viết thư cho tôi vào tháng Một năm 2010: “Ông có thể trả lại tôi 41 bảng tiền vé ngày Chủ nhật? Ông đã hứa đội bóng sẽ chơi hấp dẫn nhưng tôi chẳng thấy thế một chút nào.” Cổ động viên cơ đấy. Trong đầu tôi đã nảy ra ý trả lời: “Bạn có thể ghi nợ 41 bảng từ tất cả số lãi ròng thu thập 24 năm qua?”
United giành chiến thắng trước Juventus và Real Madrid mà có người đòi lại tiền chỉ sau một chiều Chủ nhật im ắng. Còn câu lạc bộ nào trên thế giới có thể mang lại những giây phút “đứng tim” như Manchester United? Tôi đã từng cảnh báo người hâm mộ: “Nếu chúng ta thua 0-1 khi mà trận đấu còn 20 phút, tôi khuyên các bạn về nhà, hoặc không có nguy cơ sẽ nằm cáng trên đường vào Bệnh viện Hoàng gia Manchester.”
Tôi hy vọng không ai phản đối khi tôi nói điều này: sẽ không có bất kỳ ai cần phải trả lại tiền vì xem Manchester United.
Tôn chỉ của gia tộc Ferguson ở Scotland luôn dạy con cháu rằng: “Dulcius ex asperis” nghĩa là “Khổ tận cam lai”. Đó chính là chân lý mà tôi luôn ghi nhớ trong suốt sự nghiệp 39 năm quản lý bóng đá của mình. Dù ở bất cứ nơi nào, hay thời điểm nào, từ East Stirlingshire chỉ trong bốn tháng ngắn ngủi vào năm 1974 , đến 27 năm dẫn dắt Manchester United. Tôi nhận ra rằng nghịch cảnh luôn là một phần của thành công. Khó khăn càng cam go, chiến thắng càng vinh quang. Những khó khăn khiến tôi không ngừng vận động để tìm ra sự thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh từ năm này qua năm khác, chỉ để duy trì một mục tiêu duy nhất rằng chúng tôi sẽ chiến thắng trước bất kỳ đối thủ nào. Nhiều năm trước, tôi có đọc một bài viết về tôi với đại ý rằng: “Alex Ferguson đã rất thành công trong cuộc sống của mình mặc dù đến từ Govan” (một hải cảng nhỏ bé ở Scotland). Điều đó không hề sai, nhưng chính nhờ sự khởi đầu khó khăn từ nơi cũ nát ấy, đã giúp tôi giành được vô vàn vinh quang trong thế giới bóng đá những năm về sau. Xuất phát điểm thấp kém không phải là một rào cản đối với sự thành công. Một khởi đầu khó khăn đôi khi lại là một động lực mạnh mẽ giúp ta thêm quyết tâm, hơn là một trở ngại cản bước ta tới thành công. Nếu bạn muốn biết về bí mật của những người thành công , hãy nhìn vào cha mẹ của họ. Hãy tìm hiểu những gì họ đã làm, xem đâu là động lực và ý chí để giúp họ vươn lên. Rất nhiều cầu thủ của tôi xuất thân từ gia đình thuộc tầng lớp lao động, nhưng đó không phải là một rào cản khiến họ chùn bước. Ngược lại, đó thường là lý do khiến họ trở thành cầu thủ kiệt xuất.
Trong suốt quãng đời làm quản lý bóng đá của mình, tôi tự hào khi được dẫn dắt rất nhiều cầu thủ khác nhau. Từ những cầu thủ của East Stirling với mức lương chỉ 6 bảng một tuần, hay là Cristiano Ronaldo – siêu sao đã được bán cho Real Madrid với giá 80 triệu bảng. Từ lúc mà cầu thủ trong đội bóng St Mirren của tôi chỉ được trả 15 bảng một tuần và phải đi kiếm việc làm thêm trong mùa hè vì họ chỉ được ký hợp đồng bán thời gian cho đến khi kết thúc mùa giải. Mức lương cao nhất mà một cầu thủ trong đội Một của Aberdeen nhận được trong suốt tám năm tôi ở đây chỉ là 200 bảng một tuần. Mức lương trần này được áp dụng bởi Dick Donald, giám đốc của câu lạc bộ. Đã có sự thay đổi lớn lao từ 6 bảng một tuần lên 6 triệu bảng một năm trong hàng nghìn cầu thủ tôi dẫn dắt xuyên suốt bốn thập kỷ.
Tôi nhận được một lá thư được gửi đến từ một người đàn ông xa lạ. Ông nói rằng trong quãng thời gian 1959-1960 ông làm việc tại cảng cạn Govan và dấu ấn khiến ông nhớ nhất là hình ảnh trong một lần ông bước vào quán rượu. Ông bắt gặp một chàng trai trẻ đầy nhiệt huyết bước vào quán cùng với một hộp thu cho quỹ đình công của các công nhân nhà máy. Cậu ta đã có một bài phát biểu đầy tâm huyết về vấn đề đình công. Điều duy nhất ông biết về cậu bé này là anh ta đang chơi cho St Johnstone. Bức thư của ông kết thúc với một câu hỏi: “Đó có phải là anh không, Alex?”
Lúc đầu, tôi không có một chút hồi ức nào về việc mình đã từng bước chân vào con đường chính trị. Nhưng rồi tôi mới nhớ ra rằng, mình đã từng đi vòng quanh các quán rượu trong khu vực cảng Govan để quyên tiền cho cuộc đình công của các công nhân. Quả thực, tôi chưa bao giờ dám nghĩ đó là một bài phát biểu tâm huyết. Tôi nhớ mình huênh hoang như một thằng ngốc sau khi được yêu cầu phải chứng minh cho mọi người thấy tại sao họ phải bỏ tiền ra để ủng hộ quỹ. Tất cả mọi người có thể đã quá chiếu cố cho tôi, khi chịu dành thời gian để lắng nghe một chàng trai trẻ đang làm hết sức trong công cuộc thuyết phục người khác qua bài diễn thuyết tệ hại của mình.
Quán rượu là nơi mà tôi có được những kinh nghiệm đầu tiên của cuộc đời mình. Ý tưởng kinh doanh đầu tiên của tôi là sử dụng mức lương thu nhập khiêm tốn của mình để đầu tư vào những ngành thương mại được cấp phép, bảo đảm cho tương lai tốt đẹp hơn. Quán rượu đầu tiên của tôi được mở ra ở ngã ba đường Govan và Paisley Road West, nơi tập trung chủ yếu của anh em công nhân đóng tàu. Quán rượu đã dạy tôi rất nhiều những bài học trong cuộc sống, về con người, về những ước mơ của họ, về những niềm tin vỡ vụn trong cuộc sống.
Tại một trong những quán rượu của tôi, có một quỹ tên là “Wembley Club” nơi mà các khách hang đến đây uống rượu và để lại một chút tiền vào quỹ, trong vòng 2 năm, họ sẽ nhận lại một tấm vé đến dự khán trực tiếp trận đấu giữa Anh và Scotland tại sân vận động Wembley. Đôi khi tôi trích thêm một phần lợi nhuận của quán để giúp họ có trọn một tấm vé đến London. Thỉnh thoảng tôi cùng đi với họ đến London để được hòa mình vào không khí của trận đấu kinh điển nhất Vương Quốc Anh. Cậu bạn thân nhất của tôi, Billy, cũng là một fan cuồng nhiệt của Scotland, mỗi khi trận đấu được tổ chức, cậu thường đi vào ngày thứ Năm giữa tuần và trở về tận bảy ngày sau đó. Mỗi chuyến đi dài như vậy gây ra không ít phiền toái cho gia đình cậu ta.
Vào một ngày thứ Năm, sau trận đấu diễn ra tại Wembley vào thứ Bảy tuần trước, tôi đang ở nhà thì chuông điện thoại reo lên. Đó là Anna – vợ của Billy. “Cathy – cậu giúp mình hỏi anh Alex xem Billy nhà mình đang ở đâu được không?” Tôi rất tiếc khi không thể trả lời câu hỏi của Anna. Có đến 40 khách hàng của tôi đã đến dự khán trận đấu vào thứ Bảy tuần trước, tôi không thể biết được rằng Billy có nhập đoàn với họ sau đó không nữa. Đối với những người đàn ông ở thế hệ tôi ngày ấy, được góp mặt trong những trận cầu kinh điển đó là một điều vô cùng thiêng liêng. Còn tình bằng hữu của chúng tôi thì cũng nồng thắm như tình yêu chúng tôi dành cho bóng đá vậy.
Quán rượu thứ hai của chúng tôi nằm trên đường Main Street, của quận Bridgeton – quận có số dân theo đạo Tin lành lớn nhất Scotland. Một sáng thứ Bảy trước khi cuộc diễu hành Orange Walk (Cuộc diễu hành để kỷ niệm chiến thắng của Prince William (đạo tin lành) trước đạo quân của King James II (đạo công giáo) tại chiến trường Boyne vào năm 1690 – để bảo vệ vị thế của đạo Tin lành trên Vương Quốc Anh – người dịch) diễn ra, Tam, một người đưa thư đã tìm gặp tôi với một lời đề nghị: “Alex này, chúng tôi muốn biết rằng vào ngày thứ Bảy trước khi lễ diễu hành diễn ra, quán rượu của ông sẽ mở cửa lúc mấy giờ? Xe buýt sẽ khởi hành vào lúc 10 giờ sáng để đưa chúng tôi xuống Ardrossan – phía bờ Tây của Scotland. Tất cả các quán rượu đều đồng loạt mở cửa, quán của ông cũng nên như vậy!” Tôi lúng túng hỏi lại anh ta: ”Thế theo anh, tôi nên mở cửa vào lúc nào đây” – Tam trả lời ngay: “7 giờ thưa ông”.
Giữ đúng lời hứa, sáng sớm thứ Bảy, tôi có mặt ở quán vào lúc 6 giờ 15 cùng với bố, em trai của tôi – Martin, và cậu nhân viên pha chế người Ý. Chúng tôi muốn chuẩn bị chu đáo hơn trước khi mở cửa vì Tam có nói với tôi rằng: ”Ông hãy chuẩn bị đủ rượu nhé, một số lượng lớn là không thừa đâu”. Tôi mở cửa lúc 7 giờ, quán tôi đã kín chỗ chỉ ít phút sau đó, hầu hết là những người sẽ tham gia vào cuộc diễu hành, xen kẽ đó là mấy tay cảnh sát trầm lặng, chỉ chăm chú quan sát tình hình mà chẳng nói lời nào.
Chỉ trong vòng từ 7 giờ đến 9 giờ 30, tôi đã bán hết bốn thùng bia cỡ đại, số chai vodka đã bán ra gấp đôi ngày thường. Bố tôi lắc đầu ngao ngán vì quá mệt. Mọi người đều làm việc rất hăng say để phục vụ khách hàng, ngoài cửa vẫn là một hàng dài người đứng đợi để được bước chân vào quán. Chỉ còn bốn thùng bia cỡ đại nữa trong hầm – tôi không chắc có làm thỏa mãn những vị khách còn đang đứng đợi ngoài kia không nữa.
Quản lý một quán rượu không phải là công việc đơn giản. Năm 1978, tôi đã thực sự sẵn sàng để chuồn khỏi công việc nhiều phiền hà này. Cùng lúc, phải điều hành đội bóng Aberdeen đã chiếm hết quỹ thời gian của tôi, vừa phải quản lý quán rượu, tiếp xúc với đủ loại hạng người khiến tôi quá mệt mỏi. Quá nhiều chuyện ập đến với tôi hàng ngày ở quán rượu mà nếu có điều kiện chỉ vần viết lại những câu chuyện hay ho trong quán rượu ngày ấy cũng đủ để tôi xuất bản thành một cuốn sách rồi. Những tối thứ Sáu, các thợ đóng tàu vừa mới nhận đồng lương liền qua quán rượu của tôi và “ký gửi” giấu. Tôi ghi nhận những “giao dịch” này vào một cuốn sổ. Đêm hôm đó, tôi cảm giác mình giàu có như triệu phú. Nhưng rồi sáng thứ Bảy ngay hôm sau, chính những người đàn ông đó, kèm thêm bà vợ hùng hổ thường đến đòi lại tiền.
Một người phụ nữ tên Nan có vẻ đa nghi nhất về số tiền lương của đức lang quân. Tôi vẫn nhớ một ngày cô ta đến và hét vào mặt tôi: “Ông nghĩ chúng tôi đần độn lắm à?”
“Sao cơ?” Tôi trả lời câu giờ.
“Ông nghĩ chúng tôi đần độn lắm à? Quyển sổ đâu, tôi muốn xem nó.”
“Ồ, cô không thể xem quyển sổ được. Nó là bất khả xâm phạm. Nhân viên thuế sẽ kiểm tra nó hàng tuần và ông ấy không thích cô làm vậy đâu,” tôi ứng khẩu.
Quay qua người chồng, Nan hỏi: “Ông ta nói đúng không vậy?”
“Ờ, anh chịu,” người chồng trả lời.
Cơn bão đã qua. Nan hậm hực bỏ đi nhưng vẫn không quên nói vọng lại: “Tôi mà thấy tên chồng tôi trong đấy thì đừng hòng tôi quay lại quán rượu này nữa.”
Nhiều khi tôi trở về nhà sau một ngày dài với cái đầu muốn nổ tung và đôi mắt tím bầm. Đó chính là cuộc sống ở quán rượu. Nó rất cởi mở và cũng là điều kiện bùng nổ của các cuộc ẩu đả, đôi khi bạn phải ra tay can thiệp các bên liên quan, mà thỉnh thoảng còn bị đấm trộm một cái vào mặt. Nhưng đến hôm sau tỉnh rượu thì lại ôm vai bá cổ nhau như chưa từng có chuyện gì xảy ra hết. Cuộc sống là vậy, như một vở kịch với những diễn viên đại tài.
Tôi vẫn luôn nhớ ngày một người đàn ông tên Jimmy Wetswater bước vào quán của tôi, tím ngắt và không thở nổi. “Chúa ơi, anh ổn không vậy?”. Hóa ra để trốn khỏi trại đóng tàu ra đây nhâm nhi vài chén, Jimmy đã trốn vào một thùng lụa Sơn Đông, quấn lụa thật chặt quanh người để không bị phát hiện.
Rồi một Jimmy khác, là nhân viên lau dọn quán của tôi, một hôm đeo cà vạt nơ đến làm việc. Tôi hay chế giễu cậu ấy: “Cà vạt nơ ở Govan này ư? Chắc cậu đùa tôi hả?” Thêm một đêm thứ Sáu khác, tôi đến một quán bán thức ăn cho chim để mua vài túi. Ở khu vực đó, nhà nào cũng nuôi chim bồ câu.
“Loại gì đây vậy?” tôi hỏi người bán.
“Thì thức ăn cho chim,” đúng là câu trả lời rõ ràng nhất tôi từng được nghe.
Còn có cả Martin Corrigan, anh chàng người Ireland luôn tự hào có bất cứ thứ đồ gia dụng nào bạn cần: bát đĩa, dao kéo, tủ lạnh… Một anh chàng khác tôi không nhớ tên bước vào và tuyên bố: “Ai mua cái ống nhòm này không? Tôi cháy túi rồi” rồi rút ra chiếc ống nhòm tuyệt đẹp được bọc bởi giấy thấm dầu. “5 Bảng,” anh ta ra giá.
“Tôi sẽ mua, với một điều kiện,” tôi trả lời. “5 Bảng và cậu phải uống ở đây. Không được đến quán Baxter,” anh ta lập tức đồng ý và bỏ ngay 3 Bảng ra uống.
Cathy thường phát điên khi tôi mang những thứ mua được về nhà. Tôi từng trả 25 bảng cho một chiếc bình hoa Ý rất đẹp mà Cathy thấy trong một cửa hàng với giá thấp hơn một nửa. Một ngày, tôi tậu một chiếc áo khoác da bảnh bao.
“Bao nhiêu tiền thế ông? Cathy hỏi.
“Bảy Bảng đấy,” tôi cười.
Rồi tôi treo nó lên. Hai tuần sau, tôi đến nhà chị Cathy dự một buổi tiệc nhỏ. Lấy chiếc áo khoác ra mặc, ngắm nghía trước gương, tôi giật mạnh hai ống tay để chúng vừa vặn hơn. Nhưng hai ống tay rời hẳn ra, ở trên bàn tay tôi. Tôi đứng đó với một chiếc áo khoác cộc tay.
Cathy cười lăn trên sàn còn tôi quát: “Tôi sẽ giết thằng cha đấy”.
Trên tường phòng đặt bàn bi-a của tôi có treo bức hình người bạn thân nhất, Bill. Anh ta khá vụng về, không biết cả pha trà. Tôi nhớ cái ngày đến nhà Bill chơi, sau bữa ăn, tôi bảo anh ấy: “Đặt ấm nước đi”. Bill đi mất khoảng 15 phút. Anh ta đi chỗ quái nào mà lâu vây? Hóa ra, Bill còn bận gọi điện hỏi vợ, Anna, rằng: “Em pha trà như thế nào vậy?”
Một hôm khác, Anna để miếng thịt trong lò nướng còn Billy ngồi xem bộ phim tên là Tháp Địa ngục. Hai tiếng sau, Anna quay về và phát hiện khói đầy nhà bếp.
“Chúa ơi, anh không tắt bếp à? Nhìn khói này!” Anna thở hổn hển.
“Anh tưởng là khói từ tivi ra,” Billy mếu máo. Có lẽ anh ấy tưởng đó là hiệu ứng từ tòa tháp đang cháy kia chăng.
Dẫu vậy, ai cũng thích đến nhà Billy chơi. Mọi người không gọi anh ấy là Billy mà thường gọi là McKechnie. Hai cậu con trai của anh ấy, Stephen và Darren, vẫn giữ mối quan hệ thân thiết với con trai tôi. Billy đã không còn nhưng tôi vẫn nhớ mãi những giây phút vui vẻ bên anh ấy.
May mắn nhất mà tôi có được trong cuộc đời này đó là những người bạn. Tôi có một nhóm bạn chiến hữu thời niên thiếu: Duncan Peterson, Tommy Hendry, và Jim McMilan luôn sát cánh cùng tôi. Duncan là một anh thợ hàn chì cho ICI tại Grangemouth và đã nghỉ hưu từ rất sớm. Anh ấy có một căn nhà bé xinh ở Clearwater, Florida, còn gia đình anh ấy thì cực thích đi du lịch. Tommy, anh ấy có một số chứng bệnh ở tim, đã từng là một kỹ sư lành nghề. Jim cũng vậy. Người thứ tư mà tôi cũng rất thân là Angus Shaw, đang chăm sóc người vợ ốm yếu. Cả John Grant, người mà tôi cũng rất thân thiết, đã chuyển tới Nam Phi vào năm 1960. Vợ và con gái của anh ấy điều hành một cửa hàng bán buôn rất phát đạt.
Khi tôi quyết định rời khỏi đội bóng Harmony Row, đã có một khoảng cách rất lớn được tạo nên giữa tôi và những người bạn thân trong nhóm Govans Boys. Họ nghĩ rằng tôi đã sai khi rời bỏ Harmony để chuyển tới Drumchapel Amateurs. Mick McGowan, người điều hành Harmony Row, đã không bao giờ nói chuyện với tôi nữa. Anh ấy đã không bao giờ tha thứ cho tôi. Anh ấy là một người vô cùng tâm huyết và lao tâm khổ tứ vì Harmony Row, anh ấy đã không liên lạc với tôi kể từ ngày tôi rời đội. Mặc dù có những bất đồng nhưng tôi và những cậu bạn trong nhóm Govans Boys của mình vẫn thỉnh thoảng đi khiêu vũ cùng nhau cho tới khi chúng tôi 19 – 20 tuổi và bắt đầu có bạn gái.
Rồi chúng tôi không dành nhiều thời gian cho nhau nữa, những mối quan tâm khác khiến chúng tôi càng ngày càng xa cách nhau. Tôi kết hôn với Cathy và chuyển về sống tại Simshill. Bạn tôi cũng lần lượt lấy vợ. Tình bạn của chúng tôi càng ngày càng xa cách. Những lần liên lạc với nhau cứ thưa thớt dần. John và Duncan đã từng là đồng đội với tôi tại đội Queen’s Park trong giai đoạn 1958 -1960. Là một nhà quản lý bạn, gần như còn rất ít thời gian cho những công việc khác ngoài nhiệm vụ chính của mình. Tại St Mirren, tôi bận tối mắt tối mũi nhưng tình bạn của tôi thì lại tiến triển tốt hơn. Khoảng 2 tháng trước khi chuyển khỏi Aberdeen vào năm 1986, Duncan đã gọi cho tôi và có lời mời tôi cùng Cathy tới dự lễ kỷ niệm 25 năm ngày cưới của vợ chồng cậu ấy. Không lời văn nào có thể diễn tả được tâm trạng vui sướng của tôi. Đó đúng là thời khắc mang tôi trở về tuổi trẻ của mình, toàn bộ thành viên của đội bóng năm nào đều có mặt ở đấy. Gia đình của tôi đã tề tựu đông đủ cả đây, lúc này chúng tôi đã là những người đàn ông trưởng thành. Còn gì tuyệt vời hơn trong cuộc đời tôi nữa, tôi sẽ chuyển đến dẫn dắt Manchester United vào tháng tới, còn tình bạn của chúng tôi thì thắm thiết như chưa bao giờ rời xa.
Khi bạn ở cái tuổi 19 đôi mươi, bạn phải lựa chọn con đường đi cho riêng mình, nhưng hãy cố giữ những mối quan hệ thân thiết bên mình. Tôi cũng không phải ngoại lệ, tôi không phản bội bạn mình, chỉ là tôi chọn con đường đi khác với các bạn của mình mà thôi. Tôi điều hành hai quán rượu và làm huấn luyện viên của St Mirren, rồi chuyển đến Aberdeen vào năm 1978.
Những hiểu nhầm đã được xóa bỏ, tình bạn của chúng tôi ngày càng khăng khít kể cả khi tôi bận rộn với hàng núi công việc tại Manchester United. Họ đến nhà tôi thường xuyên ở khu Cheshire, cùng nhau ăn uống và hát hò. Họ là những ca sĩ không hề tồi. Chúng tôi ưống rượu và lần lượt thay nhau hát, lạ kỳ nhất là mỗi lần đến lượt tôi hát. Khi rượu đã ngấm vào người là tôi không còn biết trời đất là gì nữa, tôi tự nhận thấy giọng của mình khá giống với Frank Sinatra, và bài tủ của tôi là “Moon River” cũng là bài hát nổi nhất của Frank. Tôi phiêu theo giai điệu của bài hát, nhấn nhá rất uyển chuyển vậy mà khi mở mắt ra thì chỉ còn mỗi tôi trong căn phòng trống tuếch. Các bạn của tôi đã chạy biến sang phòng khác từ lúc nào. “Này này mấy cậu kia, đến nhà tôi ăn uống, mà lúc tôi hát lại sang phòng khác ngồi xem ti vi là sao” – tôi phàn nàn trong vô vọng.
“Bọn tôi không chịu nổi đâu, ông hát cái thể loại nhạc gì ý” – tiếng trả lời vọng lại kèm tiếng cười khúc khích. Trời ơi, toàn những thanh niên đã lấy vợ cả bốn chục năm mà vẫn còn trẻ con thế này sao. Tại sao tôi lại cứ dính chặt với họ thế này chứ. Họ lớn lên cùng tôi, họ ở bên cạnh tôi những lúc khó khăn nhất, họ luôn động viên tôi không lùi bước, chung tôi sống và tận hưởng niềm vui chiến thắng cùng nhau. Những khi tôi thất trận, họ lại cùng ngồi bên tôi để chia sẻ “Cậu đã cố gắng rồi”. Không phải “Một trận đấu thật tệ hại!” đâu mà là “Cậu đã cố gắng rồi”.
Những người bạn ở Aberdeen cũng rất thân với tôi. Điều tôi học được ở Scotland đó là, càng đi về phía Bắc, con người càng trầm lặng. Những người mà rất khó có thể kết thân, nhưng một khi đã thân rồi thì sẽ không bao giờ xa cách. Gordon Campbell đến nghỉ lễ với gia đình chúng tôi, luật sư cũ của tôi Les Dalgarno, Alan McRae, George Ramsay, Gordon Hutcheon cũng tới.
Như tôi đã đề cập bên trên, là huấn luyện viên trưởng của United bạn có rất nhiều việc phải làm, tôi cũng chẳng có thời gian để ra ngoài vào tối thứ Bảy. Bóng đá chiếm hết quỹ thời gian của tôi mất rồi. Ra sân vào lúc 3 giờ chiều và không thể trở về nhà sớm hơn 21 giờ kém 15 được. Đó là cái giá phải trả cho sự thành công: 76,000 người khác cũng trở về nhà vào tầm giờ đó. Mặc dù bận bịu như vậy, nhưng tôi vẫn phát triển được những tình bạn mới: Ahmet Kurcer – quản lý của khách sạn Alderley Edge, hay Sotirios, Mimmo, Marius, Tim, Ron Wood, Peter Done, Pat Murphy và Pete Morgan, Ged Mason, và không thể thiếu những trợ lý của tôi, những người rất trung thành/ James Mortimer, Willie Haughey vẫn đang ở quê nhà. Martin O’Connor, Charlie Stillitano thì đang ở New York, Eckhard Krautzun thì ở Đức, họ đều là những người bạn tốt. Chẳng lần nào chúng tôi gặp lại nhau mà không say quắc cần câu hết cả.
Trong những năm đầu tiên của mình ở Manchester, tôi quen một người bạn rất tốt là Mel Machin. Ông ấy là huấn luyện viên trưởng của City – người đã nhận quyết định sa thải không lâu sau khi bị chúng tôi đánh bại họ với tỷ số 5 – 1. Lý do được đưa ra là vì ông ấy thường giữ vẻ mặt không cảm xúc. Nếu luật đó mà được áp dụng ở United thì chắc tôi cũng về vườn sớm rồi. Còn cả John Lyall – huấn luyện viên của West Ham nữa chứ, anh ấy đã giúp đỡ tôi rất nhiều khi tôi mới chân ướt chân ráo tới đây. Quả thực, tôi không biết quá nhiều về các cầu thủ Anh quốc và cũng chẳng tin tưởng lắm vào bộ phận trinh sát cầu thủ của United. Tôi thường xuyên gọi điện cho John và anh ấy sẽ gửi cho tôi thông tin về bất cứ cầu thủ nào mà tôi muốn biết. Tôi luôn tin vào anh ấy và tâm sự với anh rất nhiều. Như một cách để nói về việc United chơi không tốt, anh ấy sẽ nói rằng “Tôi không thấy Alex Ferguson trong đội hình ngày hôm nay”.
Jock Wallace, cựu huấn luyện viên khét tiếng của Rangers, cũng đã từng trêu tôi thế này “Tôi không hề thấy Alex Ferguson trong đội hình ra sân, làm ơn hãy mang anh ấy trở lại”. Họ rất nhiệt tình khi đưa ra những lời khuyên cho tôi, tình bạn khăng khít của chúng tôi dựa trên những điều chân thành nhất. Tôi gọi đó là tình bằng hữu. Bobby Robson là huấn luyện viên của tuyển Anh, đầu tiên thì mối quan hệ giữa chúng tôi khá là kiểu cách, nhưng rồi chúng tôi cũng trở nên thân thiết hơn. Lennie Lawrence cũng là một người bạn rất thân của tôi từ ngày ấy cho đến tận bây giờ.
Bobby Robson và tôi đã tái thiết lập quan hệ tại trận đấu tri ân Eusebio ở Bồ Đào Nha khi ông ấy đang dẫn dắt Porto và Sporting Lisbon. Eric Cantona cũng có màn ra mắt màu áo đỏ trong trận đấu này. Bobby đã đến khách sạn của chúng tôi và tôi sẽ nhớ mãi hình ảnh mà ông ấy tìm gặp Steve Bruce và xin lỗi: “Steve, tôi đã có lỗi với cậu. Đáng nhẽ tôi phải cho cậu một cơ hội lên đội tuyển Anh, tôi muốn xin lỗi vì điều đó” – trước mặt tất cả các cầu thủ trong đội.
Có rất nhiều kiến thức mà tôi đã thu thập được từ những ngày còn trẻ, có các bài học được ẩn vào trong mà thậm chí lúc đó tôi còn không biết. Tôi được dạy về con người từ rất lâu trước khi lên nắm quyền ở United.
Những người khác không nhìn trận đấu hay thế giới theo cách của bạn, bởi vậy, đôi khi bạn cần phải tự điều chỉnh bản thân. Davie Campbell là một học trò của tôi ở St Mirren. Cậu ấy chạy nhanh như hươu nhưng không bắt nổi một con thỏ. Tôi cảm thấy hứng thú hơn với cậu ấy khi biết được bố cậu ấy là ai. “Davie, con chơi hay lắm, rất tốt!” Giờ nghỉ giữa giờ, bố Davie bước vào khen ngợi rồi biến đi ngay lập tức.
Một ngày, khi dẫn dắt East Stirling đến Cowdenbeath, tôi đã không kiểm tra tình hình thời tiết tại đây. Sân bóng cứng như đá. Bởi vậy, đội bóng phải đi mua 12 đôi giày bóng chày. Khi đó, đế cao su vẫn là một khái niệm lạ lẫm. East Stirling để thua 0-3 sau 45 phút đầu tiên. Khi hiệp hai bắt đầu, tôi thấy có ai vỗ vai mình. Quay ra, đó là Billy Renton, một đồng đội cũ của tôi, anh nói: “Alex, tôi muốn giới thiệu anh với con tôi”.
Tôi trả lời: “Vì chúa, Billy, đội tôi đang thua 0-3 này”.
Cũng ngày hôm đó, Frank Connor, một người đàn ông tính khí nóng như lửa đã đưa cả đội hình dự bị vào sân thay người sau khi chứng kiến một quyết định chống lại mình. Tôi hét: “Quái quỷ, Frank, ông đang thắng 3-0″.
“Đó là sự nhục nhã,” Frank trả lời. Vậy đấy, bên cạnh tôi luôn là những niềm nhiệt huyết như thế.
Tôi lại nhớ lại câu chuyên khác về Jock Stein (cựu huấn luyện viên Đội tuyển Scotland và Celtic – người dịch) và Jimmy Johnstone, một cầu thủ xuất sắc và một tay ăn chơi huyền thoại. Một lần, Jock loại Jimmy khỏi đội hình thi đấu vì cậu ta từ chối ra sân ở một trận đấu cúp châu Âu. “Cậu là thằng khốn nạn,” Jock nói. Jimmy bỏ đi về phía đường hầm. Jock đuổi theo. Jimmy khóa mình trong phòng thay đồ.
“Mở cửa ra,” Jock hét.
“Không, ông sẽ đánh tôi mất,” Jimmy trả lời.
“Mở ra,” Jock nhắc lại. “Tôi cảnh cáo cậu.”
Jimmy mở cửa ra nhưng lại nhảy ùm vào bồn tắm đầy nước nóng.
Jock tiếp tục chỉ đạo: “Ra khỏi đó mau”.
“Không tôi không ra đâu,” Jimmy trả lời. Và bên ngoài kia, trận đấu vẫn đang tiếp tục.
Quản lý bóng đá là việc đối mặt với những thử thách không ngừng nghỉ. Chủ yếu trong đó là việc tìm hiểu về điểm yếu của con người. Có một lần, một vài cầu thủ Scotland đi chơi khuya về quyết định nhảy lên một chiếc thuyền chèo đi. Cuối cùng Jimmy Johnstone bị rơi mất mái chèo và bị thuỷ triều cuốn đi. Khi tin tức bay về Celtic Park, Jock Stein kịp biết Jimmy đã được đội cứu hộ cứu vớt. Jock đùa: “Cậu ấy không chết đuối luôn đi à? Chúng ta sẽ tổ chức trận đấu tri ân, chúng ta sẽ chăm sóc Agnes và tóc cũng sẽ còn ở lại trên đầu tôi.”
Jock rất vui nhộn. Khi cùng dẫn dắt đội tuyển Scotland, chúng tôi đã đánh bại đội tuyển Anh 1-0 tại Wembley vào tháng Năm năm 1985 rồi bay tới Reykjavik để làm khách của Iceland. Đêm trước chuyến đi, ban huấn luyện đã mở một buổi tiệc lớn với tôm, cá hồi và trứng cá muối. Big Jock không uống rượu nhưng tôi vẫn chúc ông ấy một chén vì chiến thắng trước Tam Sư.
Rồi chúng tôi giành chiến thắng 1-0 trước Iceland, nhưng màn trình diễn của đội thì rất tệ hại. Sau trận, Big Jock quay sang tôi và nói: “Thấy chưa? Tại cậu và rượu của cậu đấy!”
Luôn có những con người muốn thách thức sự kiên nhẫn của bạn. Khi bắt đầu, ngay cả ở East Stirling, tôi đã tranh cãi với một tiền đạo, con rể của giám đốc câu lạc bộ Bob Shaw.
Jim Meakin thông báo với tôi cả gia đình cậu ấy sẽ đi nghỉ mát vào cuối tuần tháng Chín. Đó là truyền thống của nhà cậu ta.
“Vậy ý cậu là sao?” Tôi hỏi lại
“Tôi sẽ không ra sân vào thứ Bảy này,” Jim trả lời.
“Ồ thế thì tôi bảo cậu này, không ra sân vào thứ Bảy và cũng khỏi về đây luôn nhé”.
Và cậu ấy chấp nhận ở lại. Sau trận đấu thứ Bảy, Jim một mình lái xe đến Blackpool đoàn tụ với gia đình.
Rồi tôi nhận được một cuộc gọi vào thứ Hai: “Huấn luyện viên, xe của tôi bị hỏng rồi!” Cậu ấy nghĩ rằng tôi ngu ngốc lắm sao. Nghĩ nhanh, tôi vặn lại: “Tôi không nghe tiếng cậu rõ lắm. Đọc số điện thoại của cậu đi, tôi gọi lại cho.”
Im lặng.
“Đừng quay lại đây nữa,” tôi cúp máy.
Sau đó, giám đốc Bob Shaw tỏ ra rất khó chịu với tôi. Chuyện cứ tiếp dẫn hàng tuần. Chủ tịch câu lạc bộ đành phải van tôi: “Alex, hãy đưa Jim trở lại và để Bob tránh xa tôi ra đi”.
Tôi trả lời: “Không, Willie, cậu ấy kết thúc rồi. Ông định nói rằng tôi có thể làm công việc của tôi với một cầu thủ tự do quyết định thích đi nghỉ mát lúc nào thì đi sao?”
“Tôi hiểu điều đó, nhưng 3 tuần vừa qua là đủ rồi,” Willie thuyết phục.
Tuần sau, Willie theo tôi vào toilet tại Forfar, đứng cạnh tôi và lại rên rỉ: “Thôi nào, Alex!”
Dừng lại một chút, tôi nói: “Thôi được rồi tôi đồng ý”.
Và Willie hôn tôi. “Ông làm gì vậy, lão già ngốc nghếch này. Ông vừa hôn tôi trong toilet đấy”.
Tháng 10 năm 1974, chương tiếp theo trong sự nghiệp của tôi đã được mở ra, tôi tới làm việc cho St Mirren. Ngày làm việc đầu tiên, một bức ảnh trên tờ Paisley Express khiến tôi phải chú ý. Tôi nhận ra rằng cầu thủ đội trưởng của St Mirren đã làm một cử chỉ nhạo báng sau lưng tôi. Ngày thứ Hai của tuần kế tiếp, tôi đã gọi cậu ta đến và tuyên bố rằng: ”Cậu sẽ được chuyển nhượng tự do đến bất kỳ câu lạc bộ nào mà cậu muốn, không có chỗ cho cậu ở đây kể từ hôm nay. Cậu không được chơi cho đội bóng này nữa”.
“Tại sao?” – cậu ta hắng giọng.
“Đầu tiên, làm cử chỉ nhạo báng với HLV mới của mình cho tôi thấy rằng cậu không phải là một cầu thủ kinh nghiệm hay cậu là người không được giáo dục tốt. Đội trưởng trong đội bóng của tôi phải là người có đạo đức tốt. Với hành động của cậu, nó như một hành động của đứa trẻ đang tập lớn. Cậu phải rời khỏi đây.”
Bạn phải tạo được dấu ấn của riêng bạn ngay từ những giấy phút đầu tiên. Như Big Jock đã nói với tôi về việc quản lý cầu thủ: “Không được phép dễ dãi với cầu thủ, bởi họ sẽ phản bội lại niềm tin đó.”
Tại Aberdeen tôi đã quá quen với sự gian trá của các cầu thủ. Mỗi lần chứng kiến phản ứng của họ, tôi chỉ muốn cười vỡ bụng.
“Tôi ư” – hầu hết họ đều ngạc nhiên như vậy khi bị tôi truy tố.
“Chính xác” – tôi trả lời
“Oh, không đâu thưa ngài, tôi chỉ đi gặp anh bạn thân thôi.”
“Vậy ư, trong ba giờ đồng hồ, và sau đó là say bí tỷ rời khỏi quán bar!” Mark McGhee và Joe Harper đã thử tôi như vậy. Và cả Frank McGarvey, cầu thủ của St Mirren nữa. Vào một chủ nhật năm 1977, chúng tôi đã để thua Motherwell với tỷ số 1-2 ngay tại Fir Parf trước 15,000 cổ động viên nhà. Tôi bị SFA (Liên đoàn Bóng đá Scotland) điều tra vì phát biểu rằng trọng tài trong trận đấu này không đủ năng lực.
Tối chủ nhật hôm đó, cậu bạn thân của tôi – John Donachie gọi cho tôi và thông báo “Tôi không muốn nói điều này với cậu trước khi trận đấu sáng nay diễn ra, bởi vì tôi biết cậu sẽ nổi khùng lên mất. Nhưng tôi đã gặp McGarvey say khướt trong quán rượu vào tối thứ Sáu”. Tôi cúp máy và gọi ngay tới nhà của McGarvey. Mẹ cậu ta trả lời điện thoại.
“Frank có nhà không thưa bà?”
“Dạ không, nó đang ở ngoài thưa ông – có điều gì tôi có thể giúp ông không ạ?”
“Bà có thể bảo Frank gọi ngay cho tôi khi cậu ta về đến nhà được chứ? Tôi sẽ chờ điện của cậu ta, tôi sẽ không đi ngủ chừng nào được nói chuyện với Frank.”
Điện thoại reo lúc 23 giờ 45, tiếng chuông khác lạ, khiến tôi biết rằng đây là cuộc gọi từ máy điện thoại công cộng chứ không phải từ máy gia đình.
“Đang ở nhà sao” – tôi hỏi
“Dạ vâng” – Frank trả lời
“Sao tiếng chuông nghe lạ vậy”.
“Dạ, chúng tôi dùng gói cước điện thoại như máy công cộng ạ,” Frank trả lời
Có thể cậu ta nói đúng, nhưng tôi vẫn không tin là cậu ta đang ở nhà.
“Cậu đã ở đâu vào tối thứ Sáu?”
“Dạ, tôi không nhớ,” anh ta trả lời
“Tôi giúp cậu nhé. Cậu đã ở Waterloo bar trong cả tối hôm đó. Cậu chính thức bị treo giờ từ giây phút này, đừng bao giờ trở lại nữa. Cậu cũng sẽ không được tham gia vào đội U21 Scotland. Tôi sa thải cậu khỏi đội bóng của tôi, cậu sẽ không được chạm vào trái bóng một lần nào trong quãng đời còn lại nữa,” tôi nói và cúp máy ngay lập tức.
Buổi sáng hôm sau, mẹ cậu ta gọi lại cho tôi “Con trai tôi không hề uống rượu hôm đó. Ông đã nhìn nhầm với ai khác rồi.” Tôi trả lời bà rằng “ Tôi không nghĩ là mình sai thưa bà. Tôi biết rằng bà mẹ nào cũng yêu quý con mình vô ngần, nhưng bà nên hỏi lại con trai mình thì hơn.”
Đã được 3 tuần kể từ ngày tôi treo giò cậu ta, tất cả các cầu thủ trong đội đều xì xào về việc đó. Trận đấu tới đây sẽ là một cuộc chiến khốc liệt với Clydebank, quả thực tôi phải công nhận Frank là một cầu thủ tài năng, tôi đã bàn với trợ lý Davie Provan: “Tôi cần cậu ấy trở lại Davie ạ, đặc biệt là trong trận đấu tới đây”. Cả đội đã di chuyển xuống Paisley một tuần trước trận đấu với Clydebank. Tôi đang trên đường với Cathy thì đột nhiên Frank từ đâu nhảy xổ tới, tôi chưa kịp định thần thì cậu ta đã cầu xin tôi: “Xin ngài, hãy cho tôi thêm một cơ hội nữa ạ”. Ôi trời, đây là món quà tuyệt nhất mà thượng đế ban tặng cho tôi lúc này. Tôi đã rất đau đầu khi phải nghĩ xem bằng cách nào mang được cậu ta về mà không phải xuống nước hay tỏ ra van nài. Thật là may mắn khi tôi chưa nghĩ ra được kế sách gì thì cậu ta đã xuất hiện với một lời thỉnh cầu. Tôi nhắn Cathy đi trước và nghiêm giọng với Frank: “Tôi đã nói rằng sự nghiệp của cậu đã chấm dứt rồi”. Tony Fitzpatrick – một cầu thủ của đội – người đã chứng kiến toàn bộ sự việc, lên tiếng “Huấn luyện viên, hãy cho cậu ta một cơ hội, tôi tin rồi cậu ta sẽ biết cách cư xử.”
“Hãy gặp tôi vào sáng ngày mai,” tôi quát. “Đây không phải thời điểm thích hợp,” tôi rảo bước để bắt kịp Cathy. Điều tuyệt diệu là gì, chúng tôi đánh bại Clydebank với tỷ số 3 – 1 và Frank đóng góp một cú đúp.
Với những người trẻ tuổi, bạn phải cố truyền đạt cho họ hiểu trách nhiệm của họ với bản thân họ quan trọng đến nhường nào. Nếu họ nâng cao được khả năng nhận thức về năng lực và tài năng của bản thân, họ có thể sẽ đạt được thành công vang dội trong sự nghiệp của mình.
Một trong những năng lực tốt nhất mà tôi có được ngay khi bước chân vào sự nghiệp quản lý đó là khả năng đưa ra quyết định. Tôi chưa bao giờ sợ hãi khi đứng trước việc phải đưa ra một quyết định nào đó, kể từ khi tôi còn là cầu thủ trẻ triển vọng trong đội bóng của trường. Tôi đã từng hướng dẫn vô cùng tỉ mỉ cho các đồng đội của tôi: cậu phải chơi ở vị trí này, còn cậu chỉ được đá ở đây thôi. Cho đến một ngày, khi tôi đang áp đặt chiến thuật theo tôi là hợp lý hơn cho đồng đội của mình, Willie Cunningham – vị huấn luyện viên đầu tiên của tôi, đã nói với tôi: “Alex, cậu là một cầu thủ ngỗ ngược”. Tôi gằn giọng lại với huấn luyện viên của mình “Thầy có chắc với những điều mình đang nói không?”
“Kẻ ngỗ ngược – Chính là cậu, Alex” Willie trả lời.
Các cầu thủ khác chỉ ngồi đó để nghe tôi sắp xếp chiến thuật và tưởng tượng tôi sẽ bị trừng trị ra sao vì sự bất tuân lệnh này. Dẫu sao, điều đó muốn nói rằng tôi luôn là người ra quyết định. Tôi không biết điều đó đến từ đâu, nhưng ngay từ khi còn là một cậu bé tôi đã có thiên hướng lãnh đạo, luôn muốn là người dẫn đầu, và sẵn sàng hứng chịu mọi mọi rắc rối mà tôi gây ra. Bố tôi là người làm việc rất chăm chỉ, ông vô cùng thông minh, nhưng ông không bao giờ trở thành một nhà lãnh đạo tài năng của bất kể hình thức nào. Vì vậy tôi đã không chọn để trở thành bản sao hoàn hảo của ông.
Vì bản tính bảo thủ và áp đặt của mình, tôi là một người cô độc. Ở tuổi 15, tôi chơi cho đội bóng của trường trung học Glasgow. Tôi trở về nhà, sau khi đã ghi bàn thắng quyết định đánh bại trường Edinburgh – đó là ngày hạnh phúc nhất cuộc đời tôi – để rồi được nghe bố kể rằng một câu lạc bộ lớn muốn có sự phục vụ của tôi. Nhưng câu trả lời của tôi đã làm ông ngạc nhiên: “Con chỉ muốn ra ngoài, con chỉ muốn đi xem phim”.
“Chuyện gì với con vậy, Alex,” bố tôi hỏi.
Tôi chỉ muốn chia mình ra thành nhiều mảnh. Tôi không biết tại sao. Cho đến ngày hôm đấy, tôi không biết tại sao mình lại làm như vậy. Nhưng dù sao thì tôi phải đi trên con đường của riêng rôi. Bố tôi đã rất tự hào và sung sướng khi nghe tôi nói vậy, còn mẹ tôi thì vừa nhảy múa vừa khen tôi. Bà nội tôi sung sướng phát điên. Ghi bàn quyết định đánh bại Edinburgh là một điều gì đó rất lớn lao. Nhưng tôi phải rời khỏi đây để được đi con đường của mình.
Kể từ ngày đó cho đến thời điểm dẫn dắt Man Utd là một thời gian rất dài đã qua đi. Khi tôi bắt đầu dẫn dắt Manchester United vào năm 1986, Willie McFaul là HLV của Newcastle United. Manchester City thì có Jimmy Frizzell và George Graham chỉ đạo Arsenal. Tôi thích George: một người đàn ông vui tính, tận tâm với công việc, một người bạn chí tình. Tôi có một vài rắc rối với Martin Edwards về việc thương thảo hợp đồng, vì tôi nghĩ mình xứng đáng được nhận nhiều hơn những gì mà Martin đề nghị. Sir Roland Smith lúc đó là giám đốc của Plc. Một ngày nọ, Sir Roland Smith đã đề nghị tôi, Martin, và Maurice Watkins – luật sư của CLB Man Utd cùng đến Isle of Man để thương thảo lại hợp đồng. Tiền lương mà Arsenal trả cho George gấp đôi tiền lương mà Man Utd đề nghị với tôi.
“Tôi sẽ cho cậu mượn bản hợp đồng của tôi Alex ạ,” George nói.
“Ông không đùa đấy chứ!” tôi trả lời George
Tôi đến Isle of Man với bản hợp đồng của George trên tay. Martin là một vị chủ tịch điều hành đáng kính. Ông ta là một người đầy quyền lực. Vấn đề ở đây là, ông luôn tính toán cực kỳ chi ly từng đồng khi ông phải bỏ ra. Ông ấy chỉ trả cho bạn những gì ông ấy thấy bạn xứng đáng được nhận, không chỉ có tôi mà bất cứ nhân viên nào cũng vậy.
Khi tôi đưa ông ấy xem bản hợp đồng của George với Arsenal, ông ấy không tin vào mắt mình nữa. “Ông hãy gọi ngay cho David Dein mà kiểm tra,” tôi đề nghị. Ông ấy đã làm như vậy, David Dein – chủ tịch của Arsenal đã chối ngay rằng họ không bao giờ chi trả một số lương khổng lồ như vậy cho George. Quả thực đó là một câu trả lời hài hước của David, khi trên tay Martin là bản hợp đồng giấy trắng mực đen với đầy đủ chữ ký của ông ta và George. Nếu như không có sự giúp đỡ của George, Sir Roland Smith, và Maurince thì có lẽ tôi đã chia tay Old Trafford.
Tinh thần chung ở đây là, cũng như trong suốt 39 năm cầm quân của mình mà tôi khuyên bạn nên nhớ. Bạn phải đứng trên đôi chân của mình, cho bản thân bạn – sẽ chẳng có con đường nào khác.
Đêm Giáng Sinh năm 2001, tôi thiếp đi khi xem tivi mà không biết rằng trong bếp, một cuộc họp gia đình bất thường đang diễn ra. Và không lâu sau đó tại nơi này – phòng khách của gia đình, một bước ngoặt với cuộc đời tôi đã đến. Căn phòng lịch sử này có sự hiện diện của tôi, Cathy và tất cả các con trai tôi.
“Tôi và các con đã vừa thống nhất,” Cathy nói. “Ông muốn giải nghệ ư? Không phải bây giờ. Thứ nhất, sức khỏe của ông vẫn còn tốt. Thứ hai, tôi chưa muốn giữ ông ở nhà. Và thứ ba, ông còn quá trẻ.” Sau khi Cathy ‘nổ phát súng’ đầu tiên, đến lượt các con tôi lên tiếng: “Bố lẩm cẩm rồi, bố ơi. Đừng làm vậy. Bố còn rất nhiều việc phải làm. Bố có thể xây dựng một thế hệ mới ở Manchester United.” Những câu nói đó khiến tôi phải suy nghĩ trong năm phút. Và kết cục thì ai cũng đoán được, tối tiếp tục công việc của mình thêm hơn 11 năm nữa.
Có nhiều lý do khiến tôi nghĩ đến quyết định giải nghệ năm đó. Một trong số đấy đến từ bình luận của Martin Edwards (Chủ tịch Manchester United từ năm 1980 đến 2002) sau trận chung kết Champions League năm 1999 ở Barcelona. Martin được hỏi, liệu tôi sẽ đóng vai trò như nào sau khi không làm HLV. Ông ta trả lời: “Thực ra, chúng tôi không muốn trường hợp của Matt Busby xảy ra một lần nữa.” Tôi khá thất vọng với câu trả lời này. Sẽ là khập khiễng khi so sánh hai thời kỳ với nhau. Tại thời kỳ của tôi, bạn sẽ phải đối mặt với những rắc rối không đâu. Có thể nó đến từ người đại diện của các cầu thủ, chuyện hợp đồng, và cả đám truyền thông háu tin. Tôi nghĩ, số người muốn tiếp tục tham gia vào những hoạt động đó sau khi giải nghệ chỉ đến trên đầu ngón tay. Tôi cũng vậy, tôi không muốn dính dáng đến những trận đấu hay sự phức tạp của những chuyện bên lề.
Vậy còn điều gì nữa khiến tôi muốn chia tay bóng đá? Đó chính là cảm giác tôi đã chạm tới đỉnh của thành công sau đêm kỳ diệu ở Barcelona. Trước đây, các đội bóng của tôi thường không đạt thành tích cao ở Champions League, nhưng tôi vẫn giữ trong mình một niềm tin. Và một khi bạn đã được tham vọng của đời mình, bạn sẽ tự hỏi, liệu mình còn có thể lặp lại nó một lần nữa. Với những phát biểu trên của Martin Edwards, ý nghĩ đầu tiên của tôi là “Thật vớ vẩn”. Và tiếp theo: “Có lẽ mình nên dừng ở tuổi 60.”
Tóm tại, có ba nhân tố chính hiện hữu trong tâm trí tôi: sự thất vọng về Martin; hoài nghi về chức vô địch châu Âu lần thứ hai; và con số 60, đừng quên tôi bắt đầu huấn luyện từ năm 32 tuổi.
Bước sang tuổi 60 tạo ra ảnh hưởng mạnh mẽ lên tôi. Bạn sẽ cảm thấy cuộc đời mình đã sang một chương mới. Khi 50, đó cũng là một thời điểm quan trọng. Bạn đã sống được một nửa thế kỷ, nhưng lại không nghĩ rằng mình đã 50. Nhưng khi 60, bạn sẽ phải thốt lên rằng: “Lạy chúa, tôi đã 60. Tôi đã 60 tuổi rồi!”. Bạn sẽ phải đương đầu với những thử thách, với những thay đổi. Có thể giờ đây, tôi không cảm nhận gánh nặng của tuổi tác. Nhưng khi đó, 60 là một rào cản tâm lý trong đầu tôi. Thật khó để tôi huyễn hoặc rằng mình vẫn còn trẻ. Vì trên thực tế, tôi hiểu thể lực, sức khỏe của mình đã khác. Giành ngôi vương châu Âu giúp tôi cảm thấy giấc mơ của mình đã hoàn thành và không còn gì nuối tiếc.
Những lời nói của Cathy và các con có tác động mạnh mẽ lên tôi, khiến tôi nghĩ tới khả năng thay đổi quyết định giải nghệ. Tuy nhiên, trong đầu tôi vẫn còn một vài vướng mắc.
“Tôi không nghĩ tôi có thay đổi. Tôi đã nói với CLB rồi.”
Cathy nói: “Vậy ư? Tại sao ông không nghĩ họ sẽ thể hiện sự kính trọng ông, bằng cách cho phép ông đổi ý?”
“Bây giờ, có lẽ họ đã dành vị trí đó cho người khác mất rồi,” Tôi nói.
“Nhưng với những thành tựu ông đạt được – chả lẽ họ không muốn trao cho ông cơ hội thứ hai?” Bà ấy nhấn mạnh.
Ngày tiếp theo, tôi gọi điện cho Maurice Watkins (Giám đốc Manchester United thời bấy giờ). Khi nghe ý định thay đổi quyết định của tôi, ông ta bật cười. Theo như kế hoạch, BLĐ United đã chuẩn bị gặp gỡ ứng viên nhằm kế nhiệm tôi tuần sau đó. Lẽ ra, Sven-Goran Eriksson đã là HLV mới của Manchester United. Nhưng, dù sao đó chỉ là suy đoán của tôi, bởi Maurice chưa bao giờ xác nhận nó.
“Tại sao lại là Eriksson?” Tôi hỏi ông ta.
“Anh có thể đúng, nhưng cũng có thể đã sai,” Maurice trả lời lấp lửng.
Tôi nhớ từng đặt câu hỏi với Paul Scholes: “Scholsey, Eriksson có gì nổi trội?”, nhưng câu trả lời của Scholsey cũng không khiến tôi thỏa mãn.
Tiếp sau đó, Maurice liên lạc với Roland Smith (Giám đốc của Plc). Khi nghe quyết định của của tôi, Roland cũng không giấu được niềm vui mừng. “Tôi đã bảo cậu rồi mà. Quyết định đó thật ngốc nghếch. Chúng ta cần phải ngồi xuống và thảo luận chuyện này.” Điều đầu tiên tôi muốn truyền đạt tới ông ấy, chính là bản hợp đồng của tôi. Bản hợp đồng hiện tại sẽ chỉ kéo dài tới mùa hè năm kế tiếp. Mọi thủ tục cần phải diễn ra thật nhanh.
Khi đưa ra quyết định giải nghệ, tôi đã dừng lại và không nghĩ gì tới tương lai. Nhưng ngay sau khi đổi ý, các kế hoạch thay nhau xuất hiện trong đầu tôi. Tôi tự nhủ: “Chúng ta cần một đội bóng mới.” Năng lượng lại tràn trề trong tôi, như nó chưa từng mất đi.
Trong nghiệp cầm quân, đôi lúc bạn sẽ cảm thấy thật nhỏ bé. Bạn tự hỏi, giá trị của mình là bao nhiêu. Tôi nhớ Hugh McIlvanney, một người bạn của tôi, tham gia sản xuất series film tài liệu Arena, từng thực hiện phóng sự về bộ ba Stein, Shankly và Busby. Theo Hugh, thì so với CLB, những HLV này còn có tầm quan trọng lớn hơn rất nhiều. Nhưng theo một cách nào đó, họ buộc phải tự ‘thu nhỏ’ mình, để phù hợp với đội bóng. Tôi nhớ, Jock Stein từng chia sẻ với tôi về các ông chủ và giám đốc của CLB: “Alex, hãy nhớ này, chúng ta không phải là họ. Chúng ta không phải là họ. Họ điều hành đội bóng, còn chúng ta chỉ là những người công nhân mà thôi.” Jock luôn cảm thấy như vậy. Nói một cách mỉa mai hơn, thì chúng tôi và họ, giống như địa chủ và nông nô, nô lệ vậy.
Những gì họ đã làm với Jock Stein ở Celtic thật lố bịch. Họ đề nghị ông ấy tham gia vào công ty cá độ. Vậy đấy, bạn có tin được không – 25 danh hiệu cùng Celtic và họ đề nghị Jock điều hành công ty cá độ. Trong khi đó, Bill Shankly chưa bao giờ được mời vào ban điều hành của Liverpool và sự oán giận dần tích tụ trong ông. Ông ta thậm chí còn bắt đầu tới xem các trận đấu của Manchester United, hoặc của Tranmere Rovers. Ông ấy xuất hiện ở sân tập cũ The Cliff của chúng tôi rất nhiều, và thậm chí ở cả Everton.
Sẽ có lúc, dù bản CV của bạn tốt đến đâu đi chăng nữa, bạn vẫn có thể cảm thấy bị tổn thương. Đơn cử như tôi, trong những năm cuối cùng làm việc với David Gill, với bộ sậu hàng đầu thế giới. Không có gì phải phàn nàn về mối quan hệ của chúng tôi, nó quá tuyệt vời. Nhưng luôn có một nỗi sợ hãi vô hình trong tôi, nỗi sợ sự cô đơn. Có những buổi chiều, tôi ở một mình trong phòng làm việc, và không ai, đúng vậy, không một ai đến gõ cửa, bởi họ nghĩ rằng tôi đang bận. Nhiều lúc, tôi chỉ muốn tiếng ‘cộc cộc’ đó vang lên. Tôi chỉ cần Mick Phelan hay René Meulensteen đến và hỏi: “Ông có muốn một tách trà không?”. Chỉ vậy là đủ. Và khi chạm tới ngưỡng của sự chịu đựng, tôi đành phải tìm kiếm ai đó để nói chuyện. Trong cuộc đời huấn luyện, bạn sẽ phải đối mặt với những trường hợp như vậy. Bạn cần nói chuyện. Nhưng họ lại nghĩ bạn bận với những công chuyện quan trọng, và tốt hơn hết là không làm phiền bạn.
Nhưng như đã nói, trường hợp trên chỉ đôi khi xảy ra. Thực tế thì vào khoảng 1 giờ chiều, tôi liên tục phải ‘tiếp khách’. Các HLV của đội trẻ, Ken Ramsden – thư ký của đội bóng, và tất nhiên không thể thiếu các cầu thủ của đội Một. Với tôi, sự xuất hiện của các thủ đội Một có ý nghĩa lớn lao. Bởi họ đến văn phòng của tôi, nghĩa là họ đặt niềm tin vào tôi. Tôi luôn muốn họ chia sẻ những khó khăn, kể cả khi họ cần một ngày nghỉ ngơi hoàn toàn, hoặc giải quyết vấn đề hợp đồng.
Nếu một cầu thủ muốn một ngày nghỉ phép, hẳn phải có nguyên nhân chính đáng, vì tôi tin các buổi tập ở United luôn có sức hút rất lớn. Tôi sẽ đồng ý mà không cần nghĩ ngợi. Tôi tin họ. Vả lại, nếu bạn nói: “Không, tại sao cậu lại muốn vậy?” và họ trả lời: “Vì bà tôi đã qua đời”, thì khi đó bạn sẽ gặp rắc rối lớn. Nếu họ gặp phải vấn đề trong cuộc sống, tôi luôn sẵn sàng giúp họ tìm giải pháp.
Tôi từng làm việc với những cộng sự tuyệt vời. Trong số đó, phải kể đến Les Kershaw, Jim Ryan và Dave Bushell. Tôi đưa Les về United từ năm 1987. Phải thừa nhận, đó là quyết định sáng suốt nhất. Bobby Charlton đã giới thiệu Les cho tôi, bởi khi tiếp quản United, tôi chưa thực sự hiểu rõ bóng đá Anh. Quả thực, lời khuyên đó là vô giá. Les từng hoạt động ở Học viện bóng đá của Bobby, và đã làm tuyển trạch viên cho Crystal Palace. Cậu ấy cũng là đồng nghiệp của George Graham và Terry Venables. Bobby tin Les sẽ yêu thích công việc ở Manchester United. Với tôi, như vậy là đủ sức thuyết phục. Và thực tế chứng minh, cậu ấy làm việc rất năng nổ, hiệu quả. Dương như cậu ấy không bao giờ hết chuyện để nói. Cậu ấy sẵn sàng gọi cho tôi vào lúc 6:30 tối Chủ Nhật hàng tuần chỉ để cập nhật thông tin về các tài năng trẻ. Không ít lần Cathy vì quá sốt ruột mà phải thốt lên: “Ông vẫn đang nói chuyện điện thoại ư?”
Bây giờ, hãy nói tới những trợ lý của tôi. Thông thường, HLV và trợ lý HLV là một cặp và luôn sát cánh bên nhau. Nhưng ở United, câu chuyện hoàn toàn khác. Vì các trợ lý của tôi luôn cần một bản lý lịch hoàn hảo. Lẽ thường tình, họ là mục tiêu của các CLB khác cho vị trí HLV trưởng. Tôi từng mất Archie Knox cho Rangers chỉ hai tuần trước trận chung kết cup C2 năm 1991. Không còn nhiều thời gian để chọn lựa, tôi đã đưa Brian Whitehouse đến Rotterdam (nơi diễn ra trận chung kết năm 1991) để sẵn sàng cho trận đấu.
Đương nhiên, đó chỉ là giải pháp tạm thời, và tôi bắt đầu tìm kiếm ‘cánh tay phải’ vào mùa hè năm đó. Nobby Stiles (HLV đội trẻ thời bấy giờ, ông có công lớn trong việc đào tạo ra Class of ’92) nói: “Tại sao ông không lựa chọn Brian Kidd?”. Brian hiểu rất rõ đội bóng và đã triển khai mạng lưới tìm kiếm tài năng trẻ trong vùng Manchester. Đó là những thành tích đáng nể nhất của Brian. Và không do dự, tôi đã trao công việc cho Brian. Do luôn giữ được mối quan hệ thân thiện với các cầu thủ, cùng những bài tập hay, nên cậu ấy hoàn thành khá tốt nhiệm vụ mới. Brian cũng từng đến xem những trận bóng ở Serie A và mang về cho đội bóng những kinh nghiệm quý báu.
Khi Brian chuyển tới Blackburn năm 1998, tôi đã nói với cậu ấy: “Tôi hy vọng cậu hiểu mình đang làm cái gì.” Khi một trợ lý rời đội bóng, họ luôn hỏi: “Ông nghĩ như nào?”. Với Archie, tôi tiếc vì không thể can thiệp được gì giữa giao kèo của Martin Edwards và Rangers. Còn Brian, tôi cảm thấy cậu ấy không phù hợp với vị trí HLV trưởng. Đừng vội nghĩ vì tôi không muốn cậu ấy ra đi. Chỉ cần những gì tốt cho các trợ lý nhất, tôi sẽ thực hiện. Ví dụ như Steve McClaren. Khả năng tổ chức tốt, mạnh mẽ và luôn tìm kiếm ý tưởng mới, Steve sở hữu rất nhiều tố chất của một HLV cần có. Tôi từng bảo cậu ấy: Điều đặc biệt quan trọng là cậu nên lựa chọn kỹ để tìm một CLB phù hợp, một vị chủ tịch phù hợp. West Ham và Southampton từng theo đuổi cậu ấy rất ráo riết. Nhưng bỗng nhiên, Steve nhận được lời đề nghị từ Steve Gibson, chủ tịch Middlesbrough. Tôi lập tức đưa ra lời khuyên: “Đừng chần chừ, hãy nhận nó ngay.” Dù từng mất việc ở đây, như Bryan Robson vẫn thường xuyên khen ngợi Steve Gibson, một vị chủ tịch trẻ, có tâm với đội bóng và không ngại ‘mở két’. Bên cạnh đó, họ còn có một khu tập luyện đáng mơ ước. “Đó là nơi cậu nên làm.” Tôi nói với Steve.
Còn ai nữa nhỉ? Carlos Queiroz. Nói về cậu ấy, có lẽ phải dùng đến mỹ từ: hoàn hảo. Một người tỉ mỉ, nhưng cũng rất thông minh. Khi chúng tôi đang muốn nhiều hơn những cầu thủ, và có thể là cả HLV đến từ nam bán cầu, Andy Roxburg đã giới thiệu Carlos Queiroz cho tôi. Cậu ấy từng dẫn dắt Nam Phi, vậy nên tôi hỏi ý kiến của Quinton Fortune.
“Xuất sắc,” Quinton nói.
“Theo cậu thì tới mức độ nào?”
“Bất cứ mức độ nào ông muốn,” Quinton trả lời.
“Được rồi, vậy là đủ,” tôi nghĩ thầm.
Năm 2002, Carlos đến Anh theo lời mời của tôi. Với những ấn tượng mạnh mẽ, tôi không ngần ngại mà đề nghị cậu ấy vị trí trợ lý HLV. Dù chưa giành bất cứ danh hiệu nào, nhưng tôi nghĩ cậu ấy hoàn toàn có khả năng trở thành HLV của Manchester United, nếu cậu ấy kiên nhẫn hơn.
“Tôi muốn nói chuyện với ông,” Carlos gọi cho tôi vào mùa hè năm 2003, khi tôi đang đi nghỉ ở phía nam nước Pháp. Lại chuyện quái quỷ gì nữa đây? Đội bóng nào lại theo đuổi cậu ấy vậy? “Tôi chỉ cần nói chuyện với ông,” cậu ta nài nỉ.
Và cuộc hẹn của chúng tôi được ấn định. Cậu ấy bay sang Nice, còn tôi bắt taxi tới sân bay Nice. Tìm một góc yên tĩnh ở sân bay, chúng tôi đi vào việc chính.
“Real Madrid đã đề nghị tôi làm HLV trưởng,” Carlos nói.
“Có hai thứ tôi muốn nói với cậu. Thứ nhất, thật khó để cậu từ chối nó. Thứ hai, cậu đang rời một đội bóng hàng đầu đấy. Có thể công việc của cậu ở Real Madrid chỉ kéo dài trong chưa đầy một năm. Nhưng tại Man United, cậu có thể ở đây cả đời.”
“Tôi biết chứ,” Carlos nói. “Nhưng tôi thấy đây là một thử thách hấp dẫn.”
“Carlos, tôi không thể thuyết phục cậu ở lại. Bởi nếu tôi làm vậy, và năm tới Real Madrid vô địch Champions League, thì cậu sẽ tự nhủ: ‘lẽ ra mình nên ở đó’. Nhưng tôi muốn cậu biết rằng, đó là một vị trí cực kỳ đáng sợ.”
Và quả thực, ba tháng sau, Carlos đã có ý định rời Real Madrid. Tôi từng bay tới Tây Ban Nha để gặp cậu ấy. Thông điệp của tôi rất rõ ràng: cậu không thể bỏ cuộc, hãy tiếp tục đương đầu với khó khăn, và trở lại với tôi vào năm tới. Mùa giải đó, tôi để trống vị trí trợ lý, bởi tôi chắc chắn Carlos sẽ trở lại. Jim Ryan và Mick Phelan, họ đều ít nhiều thể hiện năng lực của mình, nhưng tôi không muốn chỉ định ai trong số họ. Tôi chờ Carlos. Thậm chí, tôi từng phỏng vấn Martin Jol. Tôi rất ấn tượng với cậu ấy và thỏa thuận đã gần như được hoàn tất. Nhưng một tuần sau, Carlos gọi và thông báo không thể tiếp tục công việc ở Madrid. Cuộc gọi đó thay đổi mọi thứ. Tôi đành nói với Martin: “Nghe này, tôi đã tìm được cho mình một trợ lý mới.”
Như đã nói ở trên, trợ lý HLV ở Manchester United là một vị trí có yêu cầu năng lực rất cao. Thậm chí, họ tạo nên nền tảng cho trận đấu. Khi Carlos lần thứ hai rời đội bóng năm 2008, tôi hoàn toàn thông cảm cho cậu ấy. Bồ Đào Nha đang nằm trọn trong tim Carlos. Nhưng cậu nhầm rồi, Carlos. Cậu có đủ hầu hết yêu cầu để trở thành người kế vị tôi ở Manchester United. Có thể cậu ấy sống có phần hơi cảm tính, nhưng so với tất cả những trợ lý của tôi, Carlos là người xuất sắc nhất, chắc chắn rồi. Cậu ấy sẵn sàng đến và nói trực tiếp với bạn: Tôi không hài lòng với điều này, hay điều kia. Thẳng thắn là tính cách mà tôi rất thích ở cậu ấy.
Chúng tôi có một bộ khung khá mạnh trong năm tôi hủy bỏ kế hoạch giải nghệ, dù không còn Peter Schmeichel và Denis Irwin. Đúng rồi, hãy nói tới Irwin. Chúng tôi thường gọi cậu ấy ‘tám phần mười’ Denis. Nhanh nhẹn và cực kỳ thông minh, cậu ấy sẽ không bao giờ khiến bạn thất vọng. Tôi không nhầm thì cậu ấy chưa từng dính vào một vụ scandal nào. Tôi nhớ, trong một trận đấu với Arsenal, Irwin đã mắc lỗi và để Bergkamp ghi bàn ở những phút cuối cùng. Sau trận, giới báo chí giật tít: “Có lẽ bạn sẽ phải thất vọng với Denis,” và tôi lập tức bảo vệ cậu ấy: “Đừng vậy chứ, cậu ấy đã cống hiến cho CLB trong tám hoặc chín năm qua mà chưa bao giờ mắc sai lầm. Tôi nghĩ chúng ta hoàn toàn có thể thứ lỗi cho cậu ấy một lần.”
Thách thức lớn nhất của tôi nằm ở vị trí thủ môn. Kể từ thời điểm Schmeichel chuyển tới Sporting Lisbon năm 1999, tôi bắt đầu phải loay hoay tìm lời giải cho bài toán này. Raimond van der Gouw có thể là một thủ môn tốt, rất trung thành và luôn nỗ lực luyện tập, nhưng cậu ấy không thể là sự lựa chọn số 1. Mark Bosnich, cậu ấy không có đủ sự chuyên nghiệp. Massimo Taibi, chỉ sau 4 trận đá chính, cậu ấy đã phải ‘khăn gói’ trở lại Italy. Fabien Barthez từng vô địch World Cup, sở hữu phản xạ tuyệt vời, khả năng dùng tay điêu luyện. Nhưng sự tập trung lại là một điều xa xỉ với cậu ấy. Mà ai cũng biết, sự tập trung quan trọng đến nhường nào ở vị trí thủ môn.
Trở lại một chút với chủ đề chính, United là một phần của tôi, và tôi không biết mọi chuyện sẽ ra sao nếu tôi ra đi. Đó thực sự là một sai lầm. Tôi hiểu điều đó vào khoảng tháng Mười năm 2000. Lúc đó, tôi muốn mùa giải kết thúc ngay lập tức. Tôi không thể chịu nổi nữa rồi. Tôi tự trách: “Mình thật ngớ ngẩn. Mình nhắc đến nó làm gì cơ chứ?” Mọi thứ trên sân không còn diễn ra theo ý muốn của tôi nữa. Tôi bắt đầu lo lắng cho tương lai. Tôi sẽ đi đâu, tôi sẽ làm gì? Tôi hiểu rằng thời gian làm việc ở United đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm.
Mùa giải 2001-02 là một năm ‘thất bát’ với chúng tôi. Chúng tôi kết thúc Premier League ở vị trí thứ ba, lọt đến bán kết Champions League trước khi để thua Bayer Leverkusen. Và quan trọng nhất, chúng tôi không có được một danh hiệu nào. Vậy đấy, sau hat-trick danh hiệu Premier League, chúng tôi đã trắng tay.
Mùa hè năm đó, chúng tôi tích cực ‘shopping’ hơn bao giờ hết. Hai bom tấn Ruud van Nisterooy và Juan Sebastan Veron đã nổ. Bên cạnh đó còn Laurent Blanc. Nhưng tôi lại mắc phải một sai lầm, một sai lầm mà tôi từng rất nhiều lần thừa nhận – bán Jaap Stam. Lý do tôi chiêu mộ Blanc khá đơn giản – tôi cần một cầu thủ có thể nói chuyện và định hướng cho các cầu thủ trẻ. Nửa đầu mùa giải đó thực sự rất đáng nhớ. Roy Keane ném bóng vào mặt Shearer (đương nhiên sau đó bị truất quyền thi đấu) trong trận thua ở Newcastle, và cuộc lội ngược dòng ‘vô tiền khoáng hậu’ với tỷ số 5-3 trước Spurs. Không ai có thể quên ngày 29 tháng Chín năm 2001 đó ở White Harte Lane.
Đó là một kỷ niệm khó phai. Hết hiệp một, chúng tôi bị dội tới ba ‘gáo nước lạnh’. Các cầu thủ, họ bước vào phòng thay đồ với tâm lý sẵn sàng hứng chịu những màn ‘sấy tóc’ từ tôi. Nhưng không, tôi ngồi xuống và nhẹ nhàng nói: “Nghe này, tôi sẽ nói cho các cậu chúng ta sẽ làm gì. Chúng ta sẽ ghi một bàn thắng trong những phút đầu hiệp hai, và chờ đợi mọi thứ diễn ra theo quy luật của nó. Hãy nhớ đấy, bàn thắng ở những phút đầu tiên.”
Teddy Sheringham khi đó là đội trưởng của Spurs, đã không quên truyền kinh nghiệm cho các đồng đội. Tôi nhìn thấy Teddy dừng lại và nói: “Bây giờ, đừng để họ có bàn thắng sớm.” Tôi luôn luôn nhớ nó như in. Chúng tôi ghi bàn ở ngay phút đầu tiên.
Nếu xem trực tiếp, bạn có thể thấy tinh thần của hai đội thay đổi một cách chóng mặt. Trong 44 phút còn lại của trận đấu, chúng tôi hoàn tất cuộc lội ngược dòng với bốn bàn thắng. Không thể tin được. Nó còn có ý nghĩa nhiều hơn một trận thắng. Trong phòng thay đồ, các cầu thủ ôm đầu, và dường như không tin vào những gì mình đã làm.
Lời cảnh báo của Teddy có lẽ là minh chứng rõ rệt nhất cho sự đáng sợ của chúng tôi với những bàn thắng được ghi vào thời điểm nhạy cảm. Nếu chúng tôi bị thủng lưới trước, thì đồng nghĩa đó là một lời khiêu chiến, và các đối thủ hãy chờ đón những ‘cơn thịnh nộ’. Hầu hết các đội đều phải chịu áp lực khủng khiếp. Họ luôn đếm từng giây để nghe hồi còi kết thúc trận đấu.
Ở Manchester United, 15 phút cuối trận luôn mang lại cảm xúc khó tả. Đôi lúc, khung thành như bị ‘ma ám’, bóng không chịu đi vào lưới. Các học trò của tôi hiểu rằng họ phải tìm kiếm được bàn thắng. Dù đôi lúc nó không xảy ra, nhưng toàn đội không bao giờ mất niềm tin. Đó là một phẩm chất tuyệt vời.
Tôi luôn luôn mạo hiểm. Kế hoạch của tôi là: đừng hoảng sợ cho tới 15 phút cuối cùng, hãy kiên nhẫn trước khi chơi ‘tất tay’.
Tôi còn nhớ, trong một trận đấu Cup với Wimbledon, Peter Schmeichel dâng lên tham gia tấn công và chỉ còn duy nhất Denis Irwin ở sân nhà kèm John Fashanu. Peter đã ở trên được hai phút. Bỗng, Wimbledon có bóng và họ chuyền ngay cho Fashanu. Tình huống cực kỳ nguy hiểm. Nhưng Denis đã can thiệp đúng lúc, chặn bóng và lại nhồi nó vào trung lộ. Nếu bạn muốn tìm kiếm sự giải trí trong những trận đấu, thì đó là điều bạn chờ đợi. Schmeichel có sự liều lĩnh kỳ lạ. Cậu ấy và Barthez thường không ngại dâng cao. Đặc biệt là Barthez, cậu ấy hoàn toàn có thể đá cao hơn trên sân. Trong tour du đấu tại Thái Lan, cậu ấy đã năn nỉ tôi để được chơi ở hàng tấn công, và tôi đã xiêu lòng trong hiệp hai.
Không đội bóng nào đặt chăn tới Old Trafford mà lại nghĩ rằng đó sẽ là trận đấu dễ dàng. Chúng tôi không bao giờ nản lòng. Một khi dẫn trước chúng tôi với tỷ số 1-0 hay 2-1, thì HLV của đội khách đều hiểu rằng họ sẽ phải chịu ‘cực hình’ ở 15 phút cuối cùng. Nỗi sợ hãi này luôn xuất hiện. Bằng sự dồn ép lên tới đỉnh điểm, chúng tôi liên tục thử thách hàng phòng ngự của họ. Đương nhiên, họ biết điều đó. Bất cứ sai lầm nào đều sẽ phải trả giá. Có thể đôi lúc bạn thất bại, nhưng khi nó thành công, niềm vui sướng còn tăng lên gấp bội.
Sau hiệp một với Spurs, hy vọng gần như đã tắt với chúng tôi. Nhưng như tôi từng nói ở cuối mùa giải đó: “Trong cơn khủng hoảng, tốt hơn hết là bạn nên giúp mọi người bình tĩnh trở lại.” Hiệu quả tức thì, chúng tôi có năm bàn thắng để giành trọn ba điểm, với hai pha lập công cuối cùng khá đẹp mắt của Veron và Beckham.
Tuy nhiên, trong khoảng thời gian đó, chúng tôi gặp phải vấn đề nghiêm trọng ở vị trí thủ môn. Hồi tháng Mười, Fabien Barthez mắc hai sai lầm ngớ ngẩn. Chúng tôi để thua Bolton 2-1 ngay trên sân nhà, và 3-1 ở sân Liverpool. Trong hai trận đấu đó, Barthez đều đấm trượt bóng. Nhưng đó chưa phải là những gì tồi tệ nhất. Một tháng sau, Barthez lại chuyền thẳng vào chân Henry, và sau đó là một pha vồ bóng hụt. Henry cùng Arsenal có hai bàn thắng ‘từ trên trời rơi xuống’, còn chúng tôi để thua 3-1.
Tháng Mười Hai năm 2001 khởi đầu cũng không khá khẩm hơn là bao. Tiếp tục là một trận thua 3-0 trước Chelsea ở sân nhà. Đó đã là trận thua thứ năm ở Premier League trong 14 vòng đầu tiên. Thật may, đó là đáy của hình sin. Chúng tôi dần trở lại và tăng tốc. Ole Gunnar Solskjaer cùng Van Nistelrooy trở thành bộ đôi sát thủ (Andy Cole chuyển tới Blackburn hồi tháng Một năm sau), và chúng tôi vươn lên ngôi đầu bảng vào đầu năm 2002. Trong chiến thắng 2-1 trước Blackburn, Nistelrooy đã lập kỷ lục 10 trận liên tiếp ghi bàn. Đến cuối tháng Một, chúng tôi bỏ cách đội đứng sau bốn điểm.
Và tháng Hai năm 2002, tôi đã đưa ra thông báo: Tôi vẫn sẽ tiếp tục.
Khi mọi chuyện đã rõ ràng, phong độ của chúng tôi tốt hơn một cách đáng kể. Chúng tôi giành 13 chiến thắng trong 15 trận. Trong đầu tôi đã nghĩ về trận chung kết Champions League 2002 ở Glasgow. Thậm chí, tôi còn đi khảo sát các khách sạn ở đây. Tôi đã rất cố gắng, tuy vậy không thể kiềm chế nổi ý nghĩ sẽ dẫn toàn đội ra khỏi đường hầm sân Hampden Park. Nhưng rồi, trong trận bán kết lượt về với Bayer Leverkusen, chúng tôi ba lần bị phá bóng trên vạch vôi, để rồi cuối cùng chấp nhận dừng cuộc chơi bởi luật bàn thắng sân khách.
Nhưng ít nhất, công việc của tôi vẫn tiếp tục. Trong đêm giao thừa – ngày sinh nhật của tôi, toàn bộ gia đình tôi đã tới khách sạn Alderley Edge. Đây là lần đầu tiên chúng tôi được đoàn tụ cùng nhau. Mark thường xuyên ở London, nhưng vẫn có mặt ở khách sạn cùng Darren, Jason và Cathy.
Khi các cầu thủ hay tin tôi dừng kế hoạch giải nghệ, tôi đã sẵn sàng cho những lời trêu chọc. Tôi biết, với tầm quan trọng của thông báo này, những cái đầu tinh quái của các học trò sẽ lại có dịp phát huy tác dụng.
Ryan Giggs là ‘kẻ cầm đầu’ trong số đó: “Ồ không, tôi không thể tin được. Tôi vừa mới gia hạn hợp đồng mà.”
Khi mùa giải 2002 bắt đầu, tôi cảm thấy cơ thể mình căng tràn một loại nhựa sống bất tận. Cứ như thể tôi mới bắt đầu công việc này ngày hôm nay thôi. Những đồn đoán, nghi ngại hay bất cứ ý tưởng gì của việc giải nghệ đều đã dẹp đi hết; tôi hoàn toàn sẵn sàng bước ra ngoài kia và xây dựng lại đội bóng của mình sau lần đầu trắng tay kể từ 1998. Cảm giác về một cuộc đại cách mạng làm tôi cảm thấy phấn chấn hết xảy. Tôi biết, mình cần một nền tảng vững chắc để kiến thiết một đội quân vô địch mới.
1995-2001 có thể coi là giai đoạn vàng son của Manchester United, khi trong khoảng thời gian này, chúng tôi đăng quang Premier League tới 5 lần và vô địch Champions League 1 lần. Vào thời kỳ đầu của kỷ nguyên 6 năm này, tôi đã quyết định đôn toàn bộ các cầu thủ “homegrown” (cầu thủ trưởng thành tại lò đào tạo trẻ của CLB) lên đội hình chính. David Beckham, Gary Neville và Paul Scholes bắt đầu trở thành những cái tên quen thuộc với người hâm mộ. Còn nhớ, vào năm đó, khi chúng tôi để thua Aston Villa, Alan Hansen đã mỉa mai trên truyền hình: “Làm sao mà vô địch được với những đứa trẻ kia chứ?”
Sau ba lần liền đăng quang tại Premier League, chúng tôi phạm một sai lầm khủng khiếp khi để Jaap Stam ra đi. Tôi cứ cho rằng 16,5 triệu bảng là một cái giá hấp dẫn, nhất là cho một cầu thủ sắp trượt dài trên sườn dốc sự nghiệp vì chấn thương. Nhưng không ngờ đó lại là một quyết định ngu ngốc của tôi. Giờ, tôi đã có cơ hội để tiết lộ cho các bạn biết bức màn bí ẩn về những lời đồn đại rằng tôi đã tống Jaap đi chỉ vì cuốn tự truyện đầy tranh cãi của cậu ấy. Tôi đã yêu cầu cậu ấy thu hồi quyển sách ngay lập tức. Còn nhớ, trong đó có một thông tin đã cáo buộc chúng tôi tiếp cận Jaap trực tiếp mà không chờ sự đồng ý từ PSV.
“Cậu đã nghĩ cái quái gì vậy?” Tôi những muốn gào lên. Nhưng thật ra điều đó không hề tác động tới quyết định của tôi. Không lâu sau đó, tôi nhận được một lời dạm hỏi từ phía Roma. 12 triệu bảng cho Jaap, thật nực cười. Tiếp đó, Lazio cũng gửi tới một lời đề nghị. Tôi lung lay khi họ đề xuất cái giá 16,5 triệu bảng sau thời gian thương lượng. Lúc đó, Jaap đã 30 tuổi, và thậm chí chúng tôi cũng chẳng biết cậu ấy có lấy lại được phong độ vốn có sau khi bình phục chấn thương hay không. Thế là mọi chuyện tồi tệ bắt đầu. Thật thê thảm khi tôi đề cập đến vấn đề với cậu ta ở một trạm xăng – bạn biết đấy, Jaap là một cầu thủ trung thành, luôn muốn cống hiến cho câu lạc bộ và được cá cổ động viên hết mực yêu quý. Đó là một khoảng khắc mà tôi không bao giờ quên. Hai ngày trước hạn cuối, tôi vẫn trì hoãn sự thật. Sau đó tôi gọi điện cho cậu ấy, lúc này đang trên đường về nhà. Rất nhanh, chóng tôi quyết định gặp nhau ở trạm xăng ven đường. Câu chuyện tiếp theo có lẽ không cần phải kể tiếp.
Tôi biết mình sẽ có được Laurent Blanc mà không mất tới một xu. Bản thân tôi luôn là một fan hâm mộ của Laurent Blanc, và lẽ ra tôi đã phải vồ lấy cậu ta nhiều năm về trước. Cậu ấy có sự điềm đạm và kỹ năng xoạc bóng tuyệt hảo. Kinh nghiệm của Blanc sẽ giúp John O’Shea và Wes Brown trưởng thành rất nhiều. Nhưng dù sao, tôi cũng đã phạm một sai lầm đáng tiếc khi để Jaap ra đi. Mãi tới năm 36 tuổi, Jaap mới giải nghệ. Cậu ấy thậm chí còn đối đầu với Manchester United trong trận bán kết Champions League năm đó.
Trong kế hoạch xây dựng đội bóng của tôi, vị trí trung vệ luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt. Rio Ferdinand là một hợp đồng bom tấn vào hè 2002 – năm mà lẽ ra chúng tôi phải được góp mặt trong trận Chung kết Champions League ngay tại quê nhà Glasgow. Đối với tôi, được chơi trên mảnh đất quê hương, với đối thủ là Real Madrid thật sự là một điều đặc biệt. Chính tại nơi đây, tôi đã chứng kiện trận Chung kết cup châu Âu đầu tiên trong cuộc đời, khi Real đánh bại Eintracht Frankfurt với tỉ số 7–3. Ngày đó, tôi còn là một cậu học sinh nhưng đã được chơi cho Queen’s Park. Vì vậy tôi được quyền lẻn vào xem trận đấu này. Tôi rời sân khi trận đấu còn 3 phút nữa là kết thúc để bắt xe bus vì tôi sẽ phải bắt đầu làm việc vào sáng mai. Đương nhiên, tôi đã bỏ lỡ phần trao giải và lễ đăng quang – những khoảnh khắc vô cùng đặc biệt. Real đã ăn mừng cực kỳ náo nhiệt, họ hát hò và nhảy múa khắp công viên. Sáng hôm sau, khi đọc báo, tôi đã nhìn chòng chọc vào bức ảnh và văng tục: “Bố tổ sư, lỡ mất phần hay ho rồi!”
Hampden Park có sức chứa khoảng 128.000 người. Để tránh những cuộc hành hương đông đảo bởi các trận đấu lớn, chúng tôi phải di chuyển cả ngàn dặm: chạy nước rút từ Hampden về ga cuối, và bắt xe bus ở đây. Cả đoàn người xếp hàng dài vài dặm. Tôi nhắc lại, vài dặm. Những tài xế xe tải sẽ chấp nhận cho bạn đi nhờ; bạn phải trả họ 6 xu, sau đó ngồi thành một đống trên thùng xe. Có những con đường khác. Nhưng có một điều không bao giờ quên được khi có mặt ở Hampden trong trận Chung kết Champions League 2002, trận đấu mà Real Madrid đã giành chiến thắng chung cuộc và biến nơi này thành một nơi vô cùng thiêng liêng.
Một sự kiện đáng nhớ là năm này, Carlos Queiroz trở thành trợ lý của tôi. Arsenal vô địch mùa giải qua, Roy Keane thì gặp vấn đề ở World Cup, rõ ràng là có cả đống thứ ngập tràn trong đầu tôi, thúc giục tôi phải tiếp tục lên đường. Khi Roy bị tống khỏi sân vì pha lộn xộn với Jason McAteer của Sunderland, tôi lập tức để cậu ta tiến hành phẫu thuật hông – và như thế có nghĩa là Roy sẽ vắng mặt trong 4 tháng tới. Gần như tức thì sau đó, chúng tôi đánh mất phong độ khi để thua liên tiếp hai trận trước Bolton và Leeds. Kết thúc 6 vòng đấu đầu tiên, chúng tôi chỉ giành được 2 chiến thắng và đứng thứ 9 trên BXH. Thú thật, lúc đó tôi đã chơi một canh bạc với vận mệnh khi để rất nhiều cầu thủ tiến hành phẫu thuật với hy vọng khi trở lại, họ sẽ kiện toàn câu lạc bộ trong giai đoạn hai của mùa giải.
Tuy nhiên, tháng Chín năm 2002, các mũi dùi đồng loạt hướng về phía tôi. Tất nhiên, một trong những đặc điểm của nghề HLV là khi bạn làm không tốt, dư luận sẽ công kích bạn liên tục. Mà hơn nữa, bản thân tôi chưa bao giờ hòa hợp và chắc chắn là chẳng trông mong gì được sự giúp đỡ của giới truyền thông – bạn biết đấy, tôi luôn từ chối tặng cho họ cơ hội thêu dệt những câu chuyện nghề nghiệp hay thậm chí, chú ý đến card visit của họ. Có một ngoại lệ nhỏ thôi, là Bob Cass. Nhưng mà thôi, dù sao thì cũng dễ hiểu khi chả có lí do gì để giới truyền thông cảm thấy yêu mến tôi, giúp đỡ tôi vượt qua những thời khắc khó khăn. Vài HLV có kỹ năng ứng xử rất tốt với công chúng – ok thôi; có thể họ sẽ nhận được nhiều sự kiên nhẫn hơn. Nhưng không phải mãi mãi, vì kết quả thì luôn phơi bày sự thực về cái máy chém đang lơ lửng trên đầu bạn (ý nói phản ứng tích cực hay tiêu cực từ công chúng – người dịch).
Ngay từ những ngày đầu tiên xuất hiện, truyền thông đã tạo ra sức ép. Mỗi khi tôi làm điều gì đó sai lầm, tôi lại nhìn thấy đâu đó vọt qua những dòng chữ: “Hết thời gian rồi đó Fergie, mau cút đi.” Cũ kỹ và nhàm chán. Cười và ngồi xổm lên chúng, tất nhiền rồi; sự kích động là bản năng của mọi loài, nhưng bạn không được để bản thân nổi giận vì cái đống của nợ này. Qua bao nhiêu tháng ngày, cũng có nhiều những bài viết ca ngợi tôi bởi những thành công đạt được, bởi vì đơn giản là họ không thể không viết chúng. Nhưng hãy nhớ lấy lời tôi, trước khi được thừa nhận là thiên tài, bạn rất có thể đã bị coi là một thằng ngu.
Sir Matt Busby từng nói: “Tại sao lại đọc báo khi mà kết quả mình đạt được không được tốt nhỉ? Tôi chẳng bao giờ làm điều đó cả.” Nhưng ông ấy không sống trong một thời kỳ mà sức ép luôn thường trực từng ngõ ngách như bây giờ. Matt có thể phớt lờ và chả cần ném lấy một cái nhìn tới chúng –dù là lời tán tụng hay sự chê trách cũng vậy
Dù là khi thành công hay khó khăn, luyện tập chăm chỉ vẫn là một trong những tiêu chí bất biến ở Old Trafford. Làm việc, tập trung và duy trì đẳng cấp là những thứ chúng tôi không bao giờ lơ là. Tất nhiên, lao động hăng say vận may sẽ tới. Bạn nên biết, một cầu thủ United sẽ có suy nghĩ tiêu cực nếu liên tục thi đấu bết bát. Hoàn toàn thông cảm được. Thậm chí, những cầu thủ giỏi nhất cũng đôi khi đánh mất sự tự tin – tin nổi không, ngay cả Cantona cũng từng đôi lúc nghi hoặc vào năng lực bản thân. Nhưng chả sao cả, miễn là những lề lối cơ bản trên sân tập vẫn được bảo toàn, các cầu thủ có thể tìm được sự giúp đỡ ở mọi nơi trong đội bóng này.
David Beckham là học trò duy nhất của tôi chưa bao giờ quan tâm hay thừa nhận những lỗi lầm cá nhân. Có thể cậu ấy đã chơi tồi, phải nói là tồi khủng khiếp, nhưng vẫn khăng khăng là mình đã chơi tốt. Cậu ấy đá văng sự thật, quẳng những lời nói của bạn và sọt rác, và hét lên: “Ông sai rồi!”. Phải thừa nhận rằng Beckham có một sự tự tin, hay đúng hơn là tự vệ, không thể tin nổi. Có thể là do tác động bởi những người xung quanh – tôi chịu. Nhưng trong suy nghĩ cá nhân của mình, cậu ấy chưa từng có một trận đấu nào thi đấu dưới sức và chắc chắn là chẳng mắc sai lầm bao giờ.
Thật ra, đó là một điều đáng ngưỡng mộ – có thể tạo nên hiệu quả tuyệt vời trong một số tình huống. Không quan trọng cậu ấy đã mắc phải bao nhiêu sai lầm (dưới cặp mắt đánh giá của tôi, hiển nhiên rồi), cậu ấy vẫn hăm hở chiến đấu. Beckham chưa bao giờ đánh mất sự tự tin của mình. Nói cách khác, điều này là rất cần thiết với các cầu thủ và huấn luyện viên. Sự quan tâm thái quá, bất kể là từ công chúng, sức ép hay các cổ động viên, đâm xuyên qua những lớp giáp giày bảo bọc bản thân.
Đỉnh điểm của sự tồi tệ là trận derby vào tháng Mười một, khi chúng tôi bị Man City đánh bại 3-1. Trận đấu đó Gary Neville đã mắc phải một sai lầm kinh khủng. Sau trận đấu, tôi đặt dấu hỏi về tinh thần thi đấu của các cầu thủ – điều mà tôi thảng hoặc lắm lắm mới làm. Không khí trong phòng thay đổi luôn luôn tồi tệ khi bạn để thua trong một trận derby. Trước trận đấu, Keith Pinner, một tên bạn thân của tôi, đồng thời là một CĐV nhiệt thành của Man City, đã hỏi tôi: “Này ông bạn, sau trận đấu làm vài xị chứ?”
Cảm thấy thú vị vì sự trơ tráo này, tôi trả lời luôn: “Nếu bên đây thắng.”
Thế rồi Man Utd thua 3-1. Tôi đang ở trên xe bus thì điện thoại rung. Pinner, chính hắn chứ còn đứa nào nữa.
“Này, ông đâu rồi? Ông không đến à?” Hắn giễu cợt.
“Cút!” Tôi nói, hoặc gầm lên. “Đừng bao giờ để tao thấy mặt mày nữa!”
“Hô hô, đồ thua cuộc!” Pinner cười như bố đẻ em bé. Thế rồi sau đó tôi cũng đi uống.
Cuối mùa giải, Gary Neville bình luận: “Đây là bước ngoặt đấy thầy. Tôi nghĩ là các cổ động viên bắt đầu phản đối rồi.”
Thỉnh thoảng các huấn luyện viên phải thành thât với cổ động viên. Họ không phải là lũ ngu dốt. Trước công chứng, miễn là bạn không chỉ tay điểm mặt cá nhân nào đó, bạn có thể phê bình cả đội bóng cũng chẳng sao. Huấn luyện viên, cầu thủ và các nhân viên, chúng tôi cùng phải chịu đựng những lời chỉ trích cùng nhau. Chỉ cần thể hiện đúng cách, sự phê phán sẽ là tránh nhiệm chung.
Dưới áp lực của những kết quả tồi, chúng tôi buộc phải thay đổi phong cách thi đấu. Thay vì tập trung vào kiểm soát bóng, chúng tôi đưa bóng lên phía trên nhiều hơn, nhanh hơn, Với sự hiện diện của Roy Keane, giữ bóng chả bao giờ là vấn đề cả. Ngay từ những phút đầu cậu ta tới câu lạc bộ, tôi đã nhận xét: “Cái thằng này không bao giờ chịu mất bóng đâu.” Giữ bóng luôn là một tôn chỉ ở Man Utd. Nhưng nếu chỉ giữ bóng mà không tìm được khung thành đối phương thì đúng là vứt. Và đó là vấn đề của chúng tôi khi không sao giải quyết được khâu cuối cùng. Với một mẫu tiền đạo như Van Nistelrooy, chúng tôi cần phải hỗ trợ cậu ấy càng nhanh càng tốt. Bóng dài, nếu nói đơn giản là thế. Từ hậu vệ tới hai cánh. Đó chính là sự thay đổi của chúng tôi.
Chúng tôi đã thử để Diego Forlán ở ngoài và xếp Verón, Scholes và Keane ở hàng tiền vệ. Verón được chơi tự do, Scholes thì được phép xâm nhập vào vòng cấm địa. Beckham và Giggs, như thường lệ, chơi rộng ở hai bên cánh. Sao, các bạn thấy thế nào, chúng tôi có một đội hình hoàn hảo phải không? Những “khẩu pháo” của chúng tôi luôn luôn có sức tàn phá kinh khủng. Van Nistelrooy thường xuyên “giết” các thủ môn. Beckham đóng góp không dưới chục bàn một mùa. Scholes cũng vậy, thậm chí còn hơn.
Phil Neville cũng là một lựa chọn rất ổn cho vị trí tiền vệ trung tâm. Phil quá ngầu, thật vậy. Cậu ấy và Nicky Butt là thân tín của tôi. Tất cả những gì họ muốn chỉ là được chơi trong màu áo Manchester United. Họ chẳng bao giờ muốn rời khỏi CLB. Lí do duy nhất bạn để những chàng trai tuyệt vời thế này ra đi là vì bạn biết bạn đang làm hại sự nghiệp của họ thay vì giúp đỡ họ khi phải để họ mài đũng quần trên ghế dự bị.
Phil và Nicky có một lòng trung thành sắt son, nhưng họ cũng bị giằng xé dữ dội khi cơ hội ra sân không nhiều. Thật khó khăn với bất cứ ai. Phil đóng một vai trò quan trọng khi chúng tôi cần sự ổn định. Cậu ấy được trui rèn trong kỷ luật sắt thép và thấm nhuần điều đó. Cậu ấy là mẫu cầu thủ mà khi bạn yêu cầu: “Phil, lên đỉnh núi, sau đó xuống đây và đốn cái cây này xuống cho tôi.” Cậu ấy sẽ trả lời: “Vâng thưa sếp. Cái cưa ở đâu ạ?”
Tôi rất thích những cầu thủ như thế. Phil có thể làm mọi thứ cho đội bóng, và cậu ấy chỉ nghĩ về đội bóng mà tôi. Thậm chí, kể cả cậu ấy chỉ đóng một vai trò rất rất nhỏ thôi trong thành công của câu lạc bộ, cậu ấy cũng sẽ vui như mình là nhân vật chính vậy. Cuối mùa giải, Gary đã gặp trực tiếp tôi và chất vấn tôi về sự hạn chế trong những đóng góp gần đây của Phil.
“Tôi không biết phải làm thế nào cho tốt, cậu ấy là một chàng trai tuyệt vời,” Tôi phân trần với Gary. “Đó là vấn đề đấy sếp,” Gary trả lời. “Cậu ấy không muốn tới đây gặp sếp,” Bạn có thể thấy Phil không bao giờ có được sự trực tiếp kiên quyết như người anh. Vì vậy tôi mời Phil tới nhà nói chuyện. Phil đưa cả Julie đi theo (Juliel là hôn thê của Phil Neville). Lúc đầu, tôi không nhìn thấy cô ấy. Rôi sau đó, tôi nói với Cathy: “Cathy, đưa cô bé ấy vào đây đi.” Nhưng khi Cathy bước tới, Julie đột nhiên bật khóc. “Chúng tôi không muốn rời Man United,” cô ấy nấc lên. “Chúng tôi muốn ở lại nơi này.”
Cathy lấy cho Julie một tách trà, nhưng cô ấy kiên quyết không vào nhà. Tôi nghĩ Julie tin rằng nếu cô ấy có mặt ở đó, Phil sẽ cảm thấy xấu hổ và nhục nhã.
Nhưng không, tôi phải nói rõ với Phil, việc tôi đang làm với cậu ấy đây sẽ mang lại cho cậu ấy nhiều lợi ích hơn là để cậu ấy ở lại CLB. Phil tán đồng. Cậu ấy thừa nhận mình phải ra đi. Vì vậy, tôi để Phil tự mình giải thích với Julie về tình cảnh hiện tại.
Khi bóng dáng họ khuất xa, Cathy mới lặng lẽ hỏi: “Ông sẽ giữ cậu ấy lại chứ? Không thể để mất những người như thế được.”
“Cathy,” tôi buồn bã giải thích. “Điều này hoàn toàn là vì lợi ích của cậu ấy. Bà không hiểu sao? Quyết định này làm tôi đau đớn gấp trăm lần bản thân Phil.”
Tôi để Phil ra đi với giá 3,6 triệu bảng. Quá rẻ. Cậu ấy đáng giá ít nhất là gấp đôi, vì Phil có thể chơi ở năm vị trí khác nhau, gồm hậu vệ cánh và bất cứ chỗ nào trên hàng tiền vệ. Năm vị trí đó! Thậm chí cậu ấy còn thi đấu được cả ở vai trò trung vệ khi Phil Jagielka và Joseph Yobo chấn thương.
Phải để Nicky Butt ra đi cũng là một nỗi buồn tương tự, mặc dù Nicky còn không đòi hỏi được duy trì thời lượng ra sân. Nicky là một gã thú vị nhưng hơi xấc láo. Chàng trai của Gorton. Vô cùng hay ho. Nick sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào, vô cùng thẳng thắn. Cậu ấy sẵn sàng tới và nói: “Tại sao tôi không được ra sân vậy?”
Nicky là như thế. Tôi rất khoái cậu ta. Tôi cũng vui lòng trả lời: “Nicky, cậu sẽ ngồi ngoài, vì Scholes và Keane giỏi hơn cậu.” Thỉnh thoảng, tôi có khuynh hướng sử dụng Nicky thay vì Scholes. Chẳng hạn như trong trận bán kết Champions League với Juventus, tôi đã trao cơ hội cho Nick. Thật ra, lí do là vì Scholes cùng Keane là cặp đôi hoàn hảo nhất của tôi, vì vậy tôi không thể mạo hiểm khiến cả hai cùng vắng mặt trong trận Chung kết được. Nhưng chả hiểu sao cuối cùng thì tính toán của tôi vỡ tan hết. Nick bị chấn thương, và Scholes vào sân. Thẻ vàng. Không biết nói gì hơn. Về sau, tôi bán Nicky cho Newcastle với giá 2 triệu bảng. Cũng được đấy chứ.
Mọi chuyện trở nên tích cực hơn vào cuối tháng Mười một năm 2002 sau khi chúng tôi đánh bại Newcastle với tỉ số 5-3. Diego Forlán, người đã mất tới 27 trận để có được bàn thắng đầu tiên – từ chấm phạt đền trong trận gặp Maccabi Haifa – là hạt nhân chính trong chiến thắng 2-1 trước Liverpool. Cậu ấy đã có bàn thắng từ sai lầm của Jamie Carragher. Sạu đó, chúng tôi tiếp tục đánh bại Arsenal 2-0 và Chelsea 2-1 – một lần nữa, lại nhờ công của with Forlán. Mùa đông năm ấy, chúng tôi luyện tập cật lực để gia cố hàng thủ mỏng manh của mình.
Tháng Hai năm 2003, chúng tôi để thua Arsenal 0-2 ở vòng 5 cúp FA. Trong trận đấu đó, Giggs đã có một pha bỏ lỡ để đời khi đối mặt với gôn trống nhưng lại đưa bóng vọt xà. Sau trận đấu, tôi nói với Giggs: “Cậu từng ghi bàn thắng ngoạn mục nhất trong lịch sử FA Cup, và giờ cậu tiếp tục điền tên mình vào danh sách những pha bỏ lỡ ngu ngốc nhất giải đấu này.” Tình huống đó, Giggs hoàn toàn đủ thời gian để xử lý, thậm chí cậu ấy có thể đi bộ mà đẩy bóng vào lưới.
Trận đấu đó khiến tôi bùng phát một cơn cuồng nộ khủng khiếp, và trực tiếp ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa tôi và “thế hệ vàng 92”. Những vết thương không thể hàn gắn. Tôi thậm chí đã đá văng một chiếc giày vào mặt David Beckham và gây ra một vết sẹo ở chân mày cậu ấy.
Sau khi để thua Liverpool trong trận Chung kết Carling Cup, chúng tôi lại phải đối mặt với một đối thủ sừng sỏ nữa. Vào thời điểm tôi giải nghệ, Leeds United chỉ còn là âm hưởng của quá khứ, nhưng vào năm 2003, họ là một trong những kẻ thách thức đáng sợ – mặc dù sau đó chúng tôi đã giành chiến thắng với tỉ số 2-1. Tôi có lẽ nên đề cập một chút tới Leeds, đối thủ luôn gợi tới những cơn đau đầu mãnh liệt.
Khi tôi mới nắm quyền ở Manchester United, tôi chỉ biết về trận derby với Man City, cùng với đó là hai đối thủ khác tới từ Merseyside, Everton and Liverpool. Còn về mối thâm thù giữa United và Leeds à? Tôi chả biết quái gì. Ở giải hạng Nhất cũ, tôi và Archie Knox có tới cổ vũ Crystal Palace đánh bại Leeds.
Hết hiệp Một, tỉ số là 0-0. Hiệp Hai thì Leeds gần như áp đảo toàn bộ. 20 phút đầu tiên, Leeds bị từ chối một quả penalty và đám đông như phát rồ lên vì điều đó. Một gã CĐV Leeds gào vào mặt tôi: “Cái thằng chó Manc này!”
“Cái quái gì đấy Archie?” Tôi hỏi.
“Chịu thôi,” Archie trả lời.
Tôi đưa mắt tìm kiếm người quản lý. Phòng giám đốc bé xíu và các cổ động viên thì vây quanh bạn khắp mọi nơi. Crystal Palace vùng lên và ghi được bàn thắng. Đó là lúc đám đông thật sự mất kiểm soát. Archie thúc giục tôi ra về nhưng tôi khăng khăng đòi ở lại. Palace lại ghi bàn, và tôi thấy lưng mình đột nhiên đau rát – thằng hooligan đề cập ở bên trên đã táng thẳng một cốc café vào lưng tôi. Thế này thì quá sức là bất ngờ và khốn nạn rồi! “Chuồn, chuồn thôi,” tôi gào lên với Archie.
Ngày hôm sau, tôi nói chuyện với Norman Davies, “giám đốc trang phục” của chúng tôi. Ông ấy cười: “Tôi đã cảnh báo ông về Leeds rồi mà. Có một sự căm ghét khủng khiếp ở đây.”
“Từ bao giờ vậy?” Tôi hỏi.
“Thập kỷ 60,” Norman đáp.
Leeds từng có một người gác cửa tên là Jack, người nhào lên chiếc xe bus của chúng tôi và gào lên như một anh mõ: “Nhân danh giám đốc, cầu thủ và các cổ động viên Leeds United, chào mừng tới Elland Road!”. Tôi lầm bầm: “Ờ, sẽ ổn thôi.”
Nhiều cổ động viên thể hiện sự thù hằn một cách điên rồ. Trong trận bán kết League Cup năm 1991, Leeds đã khiến chúng tôi chật vật vô cùng. Phút 88, tỉ số vẫn là 0-0. Nhưng Lee Sharpe khiến cả cầu trường bùng nổ bằng một bàn thắng việt vị tới 10m. Lúc đó tôi đứng trên đường pitch, Eric Harrison cũng ở gần đó. Rất nhiều người cho rằng Eric nhìn giống tôi kinh khủng. Một cổ động viên Leeds đã lao xuống choảng vỡ mặt Eric, sau đó buông lời thóa mạ xối xả. Hắn tưởng hắn đang “xử lý” tôi. Các cổ động viên khác gào thét. Hỗn loạn như địa ngục. Tôi không có bất cứ một sự thích thú nào với bầu không khí thù địch ở Elland Road cả.
Dưới triều đại của Peter Ridsdale, khi Leeds đang bay giữa những cơn mơ với sự đầu tư của vị chủ tịch, tôi cảm nhận rằng câu lạc bộ này đang xây nhà từ nóc. Khi tôi được biết mức lương mà họ đãi ngộ các cầu thủ, tôi gần như nhảy dựng lên. Và dám chắc khi tôi bán Lee Sharpe cho Leeds, họ đã trả cho cậu ấy gấp đôi những gì cậu ấy từng nhận được ở Manchester United.
Nhưng kể ra thì họ cũng đã xây dựng được một tập thể vững mạnh. Alan Smith, Harry Kewell, David Batty. Trở lại năm 1992, Leeds đã vô địch với một trong những đội hình đồng đều nhất lịch sử. Và họ còn được dẫn dắt bởi Howard Wilkinson! Một thập kỷ sau, chúng tôi có nghe về Seth Johnson, một chàng trai tới từ Derby muốn gia nhập Leeds. Khi thảo luận về mức lương, con số ban đầu là 25.000 bảng; Leeds đề nghị 35.000 bảng, và lên dần tới 40-45.000 bảng.
Các câu lạc bộ không bao giờ rút ra được bài học này. Những cảm xúc trong trận đấu luôn phinh phờ tất cả bọn họ.
Tôi nhớ một doanh nhân ở Manchester từng hỏi ý kiến tôi: “Tôi đang định mua lại Birmingham City, ngài thấy sao?”
Tôi đáp: “Nếu anh có khoảng 100 triệu bảng để liều mạng thì cứ triển đi.”
Ông ta lập tức xua tay: “Không không, chỉ khoảng 11 triệu bảng thôi,”
“Thế anh nhìn thấy cái sân vận động của họ chưa?” Tôi vặn lại. “Anh cần xây một sân vận động mới – không dưới 60 triệu đâu; và 40 triệu nữa để đưa họ trở lại Premier League.”
Có những người tiếp cận bóng đá dưới góc nhìn của một doanh nhân. Nhưng một câu lạc bộ không phải là máy tiện, máy xay hay thứ đồ vật gì đó. Nó là tập hợp của các cá thể sống. Đó chính là sự khác biệt cơ bản.
Chúng tôi có vài trận đấu ngoạn mục nữa trước khi mùa giải kết thúc. Có thể kể đến chiến thắng 4-0 trên sân nhà trước Liverpool – Sami Hyypiä nhận thẻ đỏ ngay từ phút 5 sau pha truy cản với Van Nistelrooy. Chúng tôi gặp Real Madrid ở Champions League sau đó. Lượt đi, Van Nistelrooy ghi bàn duy nhất cho chúng tôi, trong khi bên phía Real, Luis Figo và Raul chơi tuyệt hay và đêm về tới ba bàn thắng. Trận lượt về, biết rằng mình phải vượt qua tỉ số 3-1, tôi đã để Beckham ngồi dự bị. Đây quả là một trận đấu phi thường. Chúng tôi giành chiến thắng 4-3 – nếu bạn không nhớ, thì kẻ nã tới 3 bàn vào lưới Man Utd chính là “người ngoài hành tinh” Ronaldo. Có một sự thật thú vị mà tôi muốn tiết lộ với các bạn: chính vì bị ảnh hưởng mạnh mẽ từ chiến thắng đầy kiêu hãnh này của chúng tôi, Roman Abramovich đã quyết định mua Chelsea và tạo nên một dấu mốc trong lịch sử túc cầu giáo.
Đã từng có lúc chúng tôi cách biệt đội Arsenal, đội xếp thứ hai, tới 9 điểm. Chúng tôi thậm chí còn duy trì cách biệt 8 điểm trong nhiều vòng đấu – tới tận trận thắng 4-1 trước Charlton, trận đấu mà Van Nistelrooy đã lập một hat-trick, nâng tổng số bàn thắng của cậu ấy lên con số 43. Trong vòng đấu áp chót, Arsenal cần đánh bại Leeds để nuôi hy vọng mong manh bám đuổi chúng tôi. Nhưng Mark Viduka đã dập tắt ảo tưởng của họ bằng một bàn thắng muộn màng. Đồng thời, chúng tôi giành chiến thắng trước Everton. Trong trận đấu cuối cùng của mình trong màu áo Quỷ Đỏ, David Beckham đã có một cú sút phạt hoàn hảo. Chúng tôi đăng quang, lần thứ 8 trong 11 mùa gần nhất. Các cầu thủ nhảy múa và gào lên: “Chúng ta đã lấy lại ngôi vô địch rồi!”
Sau cùng, chúng tôi tiếp tục thống trị Premier League năm đó, nhưng lại phải nói lời tạm biệt với Beckham.
Kể từ thời khắc đầu tiên chạm vào trái bóng, David Beckham đã luôn nỗ lực không ngừng để trở thành cầu thủ xuất sắc nhất có thể với tài năng của cậu ấy. Tôi và cậu ấy cùng chia tay sân cỏ trong mùa hè vừa qua dù David vẫn còn nhiều cơ hội chơi bóng trong tương lai. Cái cách cậu ấy rời Paris St’ Germain cũng như tôi rời United: nghe theo trái tim mình. Đôi khi, bạn chỉ nhận ra bạn trân trọng một điều gì đó khi nó đã ra đi. Ngày Beckham chuyển đến Mỹ để gia nhập LA Galaxy, cậu ấy có lẽ nhận ra mình đã bỏ đi một phần sự nghiệp. David cố gắng hết mình để trở lại phong độ của những ngày tháng huy hoàng, cậu ấy thậm chí thể hiện niềm nhiệt huyết mạnh mẽ hơn cả khoảng thời gian cuối ở United.
David không có nhiều lựa chọn khi chuyển từ Real Madrid sang MLS năm 2007. Tôi tưởng tượng cậu ấy đã để mắt đến Hollywood và sức ảnh hưởng của nó trong giai đoạn cuối sự nghiệp này. Chẳng có lí do gì liên quan đến bóng đá để cậu ấy chuyển đến Mỹ cả. David từ bỏ những câu lạc bộ đỉnh cao, những trận đấu sôi động cùng đội tuyển quốc gia, mặc dù nỗ lực tìm đường trở lại Tam Sư của cậu ấy là xứng đáng ghi nhận.
David đã bên tôi từ ngày thơ bé, cùng với Giggs và Scholes, bởi vậy, tôi coi cậu ấy hơn cả một người con. Cậu nhóc London đó gia nhập United vào tháng Bảy năm 1991. Một năm sau đó, cậu ấy trở thành thành viên của Thế hệ 92 giành Cúp FA trẻ với những cái tên khác như Nicky Butt, Gary Neville và Ryan Giggs. David có 394 lần ra sân cho Quỷ Đỏ và ghi được 85 bàn thắng, trong đó có sút thành bàn ngoạn mục từ vạch giữa sân trong trận đấu với Wimbledon, bàn thắng đã công cáo cái tên David Beckham với toàn thế giới.
Khi tôi chia tay United vào tháng Năm năm 2013, Giggs và Scholes vẫn còn khoác áo Đỏ nhưng David đã rời nơi đây được mười năm rồi. Thứ Tư, ngày 18 tháng Sáu năm 2003, chúng tôi thông báo trên thị trường chứng khoán rằng David sẽ gia nhập Real với mức phí chuyển nhượng 24.5 triệu bảng. Cậu ấy mới 28 tuổi. Tin này nhanh chóng lan truyền khắp thế giới, trở thành một trong những khoảnh khắc mang tính toàn cầu của câu lạc bộ.
Tôi không thù hằn gì David cả. Tôi quý cậu ấy. Cậu ấy là một chàng trai tuyệt vời. Nhưng đáng lẽ bạn không bao giờ nên từ bỏ điều gì mà bạn vẫn đang làm xuất sắc.
David là học trò duy nhất của tôi lựa chọn sự nổi tiếng và biến nó trở thành mục tiêu. Wayne Rooney cũng từng lọt vào tầm ngắm của ngành công nghiệp nhăm nhe thay đổi con người cậu ấy. Cậu ấy thành danh từ khi còn tuổi teen. Cậu ấy nhận được những lời đề nghị có thể làm bạn giật mình. Bên ngoài, cậu ấy kiếm được số tiền gấp đôi mức lương chúng tôi trả cho cậu ấy. Cả thế giới muốn theo bước và trở thành một Giggsy, nhưng đó chưa bao giờ là ước mong của cậu ấy.
Ở mùa giải cuối cùng của David tại Old Trafford, tôi nhận thấy phong độ của cậu ấy sụt giảm trầm trọng và còn cả những tin đồn Real Madrid đang ve vãn cậu ấy. Nhưng điều đáng nói hơn cả là David không còn mang đến những màn trình diễn chắc chắn và tròn vai như trước nữa.
Cuộc “đối đầu” đã trở thành giai thoại giữa tôi và David diễn ra trong trận đấu với Arsenal tại vòng Năm Cúp FA năm 2003, trận đấu mà United đã để thua 0-2 ngay tại Old Trafford.
Lỗi của David trong trận đấu đó là cậu ấy đã không tham gia phòng ngự trong tình huống ghi bàn thứ hai của Arsenal nhờ công Sylvain Wiltord. Cậu ấy chỉ thủng thỉnh đi bộ và đối phương cứ thế bỏ xa. Cuối trận, tôi phàn nàn về điều này và như thường lệ, đối với David của ngày đó, cậu ấy bỏ ngoài tai những lời phê bình của tôi. Có thể cậu ấy đang bắt đầu nghĩ rằng mình chẳng cần phải đuổi theo và áp sát làm gì, dù đó chính là những phẩm chất đưa cậu ấy đến thành công.
Khi đó, David đứng cách tôi khoảng bốn mét. Giữa chúng tôi, trên sàn nhà có vài đôi giày. David chửi thề. Tôi xông đến và đá một chiếc giày. Nó đập trúng vào phần phía trên mắt cậu ấy. Tất nhiên, David cũng định lao vào tôi nhưng các cầu thủ khác đã ngăn lại. “Ngồi xuống,” tôi nói. “Cậu đã làm cả đội thất vọng. Cậu có thể tranh luận bao nhiêu tùy thích.”
Ngày hôm sau, tôi gọi cậu ấy lên để cùng xem lại băng quay chậm của trận đấu. Nhưng David vẫn không chịu nhận sai. Cậu ấy ngồi cạnh tôi và không nói một lời. Không một lời nào cả.
“Cậu có hiểu chuyện gì ở đây không? Có hiểu tại sao tôi phải nói chuyện với cậu không?” tôi hỏi.
David còn chẳng buồn trả lời.
Ngày hôm sau, câu chuyện này đã tràn ngập trên các mặt báo. Chiếc xược tóc David đeo càng làm nổi bật vết thương gây ra bởi chiếc giày. Đây chính là thời điểm tôi nói với ban lãnh đạo rằng David phải ra đi. Những người hiểu tôi sẽ không ngạc nhiên với quyết định này. Ngay từ giây phút một cầu thủ Manchester United cho rằng bản thân mình lớn hơn huấn luyện viên, cậu ta sẽ phải cuốn gói. Tôi đã từng phát biểu: “Huấn luyện viên sẽ không thể nắm câu lạc bộ khi đánh mất uy quyền. Các cầu thủ sẽ trở thành người điều hành nó và bạn sẽ đối mặt với rắc rối.”
David Beckham đã nghĩ rằng mình lớn hơn Alex Ferguson. Tôi không chút mảy may nghi ngờ điều đó. Vấn đề ở đây không phải là cái tên, dù đó là Alex Ferguson hay Ông thợ sửa ống nước Pete đi chăng nữa. Quyền lực của huấn luyện viên mới là thứ quan trọng. Bạn không được để một cầu thủ chiếm lĩnh phòng thay đồ. Rất nhiều người đã thử nhưng bao năm qua, nơi tập trung quyền lực ở Manchester United vẫn là văn phòng huấn luyện viên. David đã nhận hồi chuông báo tử.
Sau đó, chúng tôi giành ngôi nhất bảng tại Champions League và bốc thăm gặp Real Madrid ở vòng 1/16. Lượt đi ở Tây Ban Nha, United thua 1-3, David dường như vô cùng thích thú khi bắt tay hậu vệ trái của đội chủ nhà Roberto Carlos. Thứ Bảy tiếp theo, cậu ấy từ chối ra sân trước Newcastle và nói rằng mình không đủ thể lực. Tôi đã xếp Solskjaer thay thế và cậu ấy đã chơi một trận cực kỳ xuất sắc, giúp đem về thắng lợi 6-2 cho đội bóng. Solskjaer chính thức có một suất đá chính.
Phong độ của David, đơn giản, không đủ hay để khiến tôi loại Solskjaer ra khỏi đội hình trong trận đấu lượt về với Real. Khi khởi động chuẩn bị trước tiếng còi khai cuộc, tôi gọi David ra và thông báo: “Nghe này, tôi sẽ để Solskjaer ra sân.” David giận dữ bỏ đi.
90 phút hôm đó là một trận đấu tuyệt đỉnh. David vào sân thay Veron phút 63 và lập cú dúp ấn định chiến thắng 4-3, trong đó có một pha đá phạt thương hiệu. Dường như đây là lời chia tay của cậu ấy với các cổ động viên tại Old Trafford. United giành thắng lợi nhưng hat-trick của Ronaldo và thất bại tại Tây Ban Nha đã loại chúng tôi khỏi cuộc chơi.
David đã tìm kiếm sự thông cảm từ người hâm mộ. Tuy nhiên, không thể phủ nhận là cậu ấy cũng “phản đòn” lại tôi. Thương vụ đến Real Madrid như gặp thêm chất xúc tác. Theo những gì chúng tôi thu thập được, người đại diện của cậu ấy và Real đã có các cuộc trò chuyện. Họ lần đầu liên hệ trực tiếp với United vào giữa tháng Năm, khi mùa giải đã kết thúc. Giám đốc điều hành khi đó là Peter Kenyon gọi cho tôi và thông báo: “Real Madrid đang chờ máy.”
“Chúng ta đã lường trước điều đó,” tôi nói. United chờ đợi mức giá 25 triệu bảng. Rồi tôi đi nghỉ hè tại Pháp và Peter gọi cho tôi, khi tôi ăn tối với đạo diễn phim Jim Sheridan, người sở hữu một căn hộ ngay trên nhà hàng chúng tôi đang ngồi. Tôi cần một chiếc điện thoại riêng tư để thương thảo.
“Lên căn hộ của tôi mà dùng điện thoại,” Jim gợi ý.
Tôi nhấn mạnh với Peter: “David sẽ không đi đâu cả nếu chúng ta chưa nhận được 25 triệu bảng.” Sau đó, mức giá được giữ nguyên 25 triệu nhưng sẽ trả 18 triệu trực tiếp, số còn lại trả dần về sau.
Nhưng David không biến mất hoàn toàn khỏi đội bóng. United chính thức giành ngôi vô địch sau chiến thắng 4-1 trước Charlton tại Old Trafford ngày 3 tháng Năm. Cậu ấy đã ghi bàn trong trận đấu này và một lần nữa trước Everton một tuần sau đó, giúp chúng tôi kết thúc mùa giải với thắng lợi 2-1. Một cú sút phạt thành bàn từ khoảng cách gần 20 mét là lời chia tay không tệ trong ngày mà hàng thủ United bị làm tình làm tội bởi cậu nhóc có tên Wayne Rooney. David đã góp công trong hành trình giành chức vô địch vinh quang này nên chẳng có lý do nào khiến cậu ấy phải ngồi ngoài ở chuyến làm khách đến Goodison Park.
Có lẽ khi đó, David chưa đủ trưởng thành để xử lý tất cả mọi chuyện trên đời. Hiện tại, cậu ấy đang quản lý mọi thứ tốt hơn. Cậu ấy chủ động hơn, chắc chắn hơn về vị trí của mình. Nhớ lại hồi ấy, tôi rất khó chịu với cuộc sống người nổi tiếng của David.
Ví dụ: đang trên đường tới sân tập lúc 3 giờ chiều để chuẩn bị cho chuyến làm khách đến Leicester City, tôi thấy khoảng 20 tay thợ săn ảnh chầu chực trước cửa Carrington.
“Có chuyện gì ở đây vậy,” tôi hỏi, và nhận được câu trả lời: “Beckham chuẩn bị tiết lộ kiểu tóc mới vào ngày mai.”
Rồi David cũng đến với chiếc mũ len trên đầu. Cậu ấy vẫn đội nó trong bữa tối hôm đó. “David, bỏ mũ ra, chúng ta đang ngồi trong nhà hàng,” tôi gọi. Cậu ấy không nghe lời tôi. “Đừng làm trò ngốc nghếch nữa, cởi nó ra đi!” tôi vẫn kiên trì nhưng David vẫn từ chối.
Tôi nổi giận thực sự. Không có quy định nào phạt cầu thủ đội mũ cả. Nhiều cầu thủ khác cũng đội mũ bóng chày trên đường tới sân thi đấu nhưng không một ai tỏ ra ương ngạnh đến mức tiếp tục đội nó trong bữa ăn của toàn đội.
Ngày hôm sau, các cầu thủ ra sân khởi động trước trận đấu. Cái mũ len vẫn ở trên đầu David. Tôi đe dọa: “David, cậu sẽ không ra đó với chiếc mũ này. Tôi sẽ loại cậu ngay lập tức.”
David như muốn phát điên. Rồi cậu ấy cũng cởi ra. Trọc lốc. Tôi chán nản: “Chỉ có thế này thôi sao? Một cái đầu trọc thậm chí chẳng ai muốn nhìn?” Hóa ra kế hoạch của David là sẽ chỉ bỏ mũ ra khi bắt đầu trận đấu. Tôi bắt đầu tuyệt vọng với cậu ấy. Cậu ấy đang bị truyền thông nuốt chửng.
David chơi cho một câu lạc bộ vĩ đại. Cậu ấy có một sự nghiệp đáng nể. Cậu ấy ghi 12 đến 15 bàn thắng mỗi mùa, luôn luyện tập chăm chỉ. Nhưng những phẩm chất đó đang dần mất đi. Và một khi đã mất chúng, David mất luôn cơ hội trở thành một cầu thủ đẳng cấp hàng đầu. Sau khi thay đổi, cậu ấy không bao giờ đạt đến tầm mà bạn có thể nói: đây đích thị là một cầu thủ xuất sắc hàng đầu.
Con đường làm người nổi tiếng của cậu ấy bắt đầu lúc 22 hay 23 tuổi. Đó là một quyết định gây thất vọng lớn lao cho tôi. Thực sự, không có thù hằn gì giữa chúng tôi cả, chỉ có thất vọng, dành cho tôi. Chán ngán. Tôi nhìn vào David và chỉ muốn nói: “Con trai, con đang làm gì vậy?”
Khi mới gia nhập United, David là cậu nhóc nhỏ bé với đôi mắt sáng ngời, yêu bóng đá phát điên. 16 tuổi, cậu ấy không bao giờ rời phòng thể hình hay ngừng luyện tập. Chỉ có thể nói, cậu ấy đang hiện thực hóa giấc mơ. Rồi đột nhiên, David từ bỏ tất cả vì một sự nghiệp mới, một phong cách sống mới.
Từ một góc nhìn khác, sẽ thật ngớ ngẩn khi tôi nói David đã chọn sai con đường. Cậu ấy vô cùng giàu có. Cậu ấy trở thành biểu tượng. Mọi người sao chép phong cách của cậu ấy. Nhưng tôi là con người của bóng đá và tôi không tưởng tượng được bạn từ bỏ bóng đá vì bất cứ điều gì. Dĩ nhiên bạn vẫn có những sở thích. Tôi thích đua ngựa. Michael Owen thích đua ngựa. Paul Scholes thích đua ngựa. Một hoặc hai cầu thủ khác thích các môn nghệ thuật. Trong văn phòng tôi đang treo một bức tranh rất đẹp mà Kieran Richardson vẽ. Điều duy nhất bạn không nên làm là từ bỏ bóng đá.
Một năm trước khi rời Old Trafford, David đã tham dự World Cup 2002 tổ chức tại Nhật Bản và Hàn Quốc, chỉ vài tuần sau khi gãy xương bàn chân trong một trận đấu Champions League mùa xuân năm 2002. Một sự trở lại ngoạn mục.
Mặc dù chấn thương này của David, về y học, hoàn toàn giống với chấn thương mà Wayne Rooney dính phải bốn năm sau đó nhưng vẫn có sự khác biệt ở đây. David là mẫu cầu thủ có thể lực sung mãn, hồi phục rất nhanh chóng. Wayne thì cần phải tập luyện nhiều hơn hẳn mới có thể trở lại phong độ. Bởi vậy, tôi đã tính toán David đủ khả năng dự World Cup và phát biểu rộng rãi trong khoảng thời gian đó.
Khi đội tuyển Anh đến Nhật Bản, David dường như vẫn còn sót lại chút tàn dư của chấn thương. Điều này rất khó nói ra, nhất là với những cầu thủ đang tuyệt vọng ngồi nhà xem World Cup. Và từ màn trình diễn của cậu ấy trong suốt giải đấu, ta có thể thấy David không hoàn toàn khỏe mạnh. Hình ảnh rõ nét nhất chứng minh việc nỗi lo sợ chấn thương vẫn đang dày vò tâm trí David là khi cậu ấy nhảy lên tránh pha truy cản ngay sát đường biên của một cầu thủ Brazil, dẫn đến việc đội bóng Nam Mỹ có bàn thắng gỡ hòa trong trận Tứ kết tại Shizuoka.
Tôi rất ngạc nhiên trước điều này, vì đơn giản David là một người có nền tảng thể lực tốt. Hoặc thể chất, hoặc tinh thần của cậu ấy đang gặp vấn đề. Mọi người đổ tội cho tôi, nói rằng tôi là người Scotland và không muốn đội tuyển Anh thành công. Nếu hôm đó Anh gặp Scotland thì chuẩn rồi, tôi sẽ không muốn Anh giành chiến thắng chút nào. Nhưng United có nhiều cầu thủ Anh hơn bất cứ quốc gia nào khác và tôi luôn mong muốn họ tỏa sáng.
Khi bạn có một cầu thủ quan trọng như David (và sau này là Rooney), sẽ có cả đống đội ngũ y tế muốn can thiệp. Đội ngũ y tế của đội tuyển Anh thường xuyên muốn vào sân tập của United. Tôi cảm thấy đó như một sự xúc phạm. Chẳng lẽ nguồn gốc Scotland của tôi là yếu tố, là lý do để không tin tưởng?
Trước World Cup 2006, khi Rooney phải hội quân muộn với toàn đội ở Đức, Tam Sư đã nhắn tin cho tôi gần như hàng ngày để hỏi tình hình của cậu ấy, như thể United không thể tự mình chăm sóc nổi cậu ấy. Sự hoảng loạn lên đến tột cùng. Họ bỗng dưng hóa đá. Tôi đã đúng 100%. Wayne Rooney chưa sẵn sàng, cậu ấy không nên tham dự giải đấu năm đó.
Rooney cũng không nên đến nơi hội quân ở Đức của đội tuyển Anh là Baden-Baden. Điều đó là không công bằng với cậu ấy, với những cầu thủ và còn lại và với người hâm mộ. Rooney là niềm hy vọng lớn của đội nhà và điều này cũng gây áp lực trong việc nhìn thẳng vào thực tế. Với David, tôi tự tin cậu ấy sẽ trở lại khỏe mạnh vì tôi đã chứng kiến những lần hồi phục của cậu ấy trước đây. Rõ ràng, thể lực của David là tốt nhất ở Old Trafford. Mỗi khi tập luyện, cậu ấy luôn hoàn thành trước tất cả mọi người. Tôi đã nói với đội tuyển Anh rằng David sẽ kịp bình phục.
Nhưng họ vẫn ám ảnh bởi quá trình hồi phục của David. Một cái buồng oxy được gửi đến Carrington. Roy Keane từng có những kết quả khả quan khi dùng thiết bị này điều trị chấn thương gân kheo. Nhưng các vấn đề về xương lại khác. Cách điều trị duy nhất là nghỉ ngơi. Chấn thương kiểu này sẽ mất từ sáu đến bảy tuần để bình phục.
Tại World Cup 2002, Anh không gây được ấn tượng nào đáng kể. Họ thua thiệt hoàn toàn trước 10 cầu thủ Brazil. Trong trận đấu vòng bảng đầu tiên, Anh chơi bóng dài trước Thụy Điển, đội bóng đã thuộc nằm lòng lối chơi này ở Anh.
Một phần lỗi đến từ các đội tuyển trẻ của Anh khi vẫn áp dụng chiến thuật lỗi thời này. Quá nhiều đội chơi bóng dài. Như một dịp nào đó, tôi muốn quan sát màn trình diễn của Tom Cleverley ở U-21 Anh trong trận đấu với Hy Lạp. Và “người do thám” của tôi đã thông báo rằng Anh chơi một tiền đạo và hai tiền vệ biên, Cleverley là một trong hai cầu thủ đó. Cậu ấy gần như không thể chạm bóng. Chris Smalling thì cứ cố gắng đưa bóng về phía trước càng nhiều càng tốt. Người Anh không đủ khả năng kỹ thuật và huấn luyện, bởi vậy họ đang vứt đi cả lứa cầu thủ 9 đến 16 tuổi.
Và người Anh đã làm gì để bù đắp? Các cầu thủ chiến đấu hết mình với nền tảng thể lực. Tinh thần của họ cũng rất tuyệt vời. Nhưng Anh không thể sản xuất ra một cầu thủ xuất chúng. Họ sẽ không bao giờ vô địch World Cup với hệ thống đó, tinh thần đó. Brazil đã và đang đào tạo nên những cầu thủ trẻ có thể nhận bóng ở mọi vị trí, mọi góc độ và di chuyển rất cơ động. Tâm trí họ chỉ có bóng đá vì đã được làm quen với nó từ khi 5, 6 tuổi.
Một điều khác tôi muốn nói là David rất quan tâm đến hệ thống truyền thông của riêng mình. Khi bị loại khỏi đội tuyển Olympic của Vương quốc Anh hè 2012, chính cậu ấy là người thông báo tin tức này chứ không phải FA. Dù lời lẽ hết sức nhã nhặn nhưng tôi hiểu lúc ấy, David buồn như trấu cắn!
Tôi nhớ Mel Machin đã từng nói với tôi: “Giggs và Beckham, họ là những cầu thủ đẳng cấp thế giới. Ông còn sắp xếp họ thi đấu lên công về thủ? Tại sao ông có thể làm được điều đó?” Tôi chỉ có thể trả lời rằng, họ không chỉ có tài năng thiên phú mà thể lực cũng giúp họ di chuyển khắp mặt sân. United sở hữu những điều thật đặc biệt nơi hai chàng trai này.
Mọi thứ thay đổi với David vì cậu ấy muốn thay đổi. Đôi mắt cậu ấy không còn thiết tha với trái bóng. Thật đáng buồn, David có thể ở lại Manchester United đến ngày tôi ra đi. Cậu ấy có thể trở thành một trong những huyền thoại vĩ đại nhất ở Old Trafford. Thứ duy nhất biến David thành huyền thoại ở LA Galaxy chỉ là vị thế biểu tượng của cậu ấy. Một vài thời điểm trong cuộc đời, có lẽ David phải thầm nhủ: mình đã mắc sai lầm.
Nhưng dẫu sao, hãy để tôi tri ân cậu ấy. Sức mạnh của sự kiên trì nơi David thật đáng kinh ngạc. Nó được thể hiện khi cậu ấy gia nhập Paris St’ Germain tháng Một năm 2013. Ở United, David luôn là cầu thủ có thể lực sung mãn nhất, điều này giúp cậu ấy tiếp tục chơi bóng ở tuổi 37.
MLS dĩ nhiên không phải là Mickey Mouse League (Giải đấu Chuột Mickey – người dịch). Đây thực ra là một giải đấu đầy tính thể lực. Tôi đã xem Beckham thi đấu trong trận Chung kết MLS cúp và nhận ra cậu ấy chơi tốt như thế nào. Cậu ấy cũng hoàn toàn có thể tự hào với quãng thời gian được cho mượn tại Milan. Tại PSG, David chơi 60 phút trong một trận tứ kết Cúp châu Âu. Không hẳn được ra sân nhiều, nhưng cậu ấy đã hoàn thành nhiệm vụ của mình với vài đường chuyền đẹp mắt và tinh thần tuyệt vời.
Tôi tự hỏi bản thân: “Tại sao David có thể làm như vậy?”
Câu trả lời đầu tiên là nền tảng thể lực. David còn có một niềm khát khao cháy bỏng có thể làm mọi người ngạc nhiên. Những cú tạt bóng chuẩn xác là phẩm chất cậu ấy không bao giờ đánh mất. Chúng đã ăn sâu vào cơ thể của cậu ấy. 38 tuổi, sau 5 năm tại Mỹ mà vẫn có thể ra sân ở đấu trường Champions League quả thật là kỳ tích. Chúng ta đều phải ca ngợi David vì điều đó.
Một hai người đã từng hỏi tôi liệu có nên đưa David về Old Trafford sau khi cậu ấy rời LA Galaxy. 37 tuổi, làm như vậy chẳng mang lại ý nghĩa gì cả. PSG có tính toán đến yếu tố hình ảnh khi ký hợp đồng sáu tháng với David nhưng cậu ấy không quá quan tâm. Giggs, Scholes và tôi từng trò chuyện về Beckham. Tôi cho rằng, cậu ấy có khả năng đặc biệt là chẳng thèm lo lắng với những trận đấu tệ hại. Nếu tôi có chỉ trích David, cậu ấy sẽ giận dữ đi ra và trong đầu thầm nghĩ: “Huấn luyện viên chập cheng rồi, hôm nay mình đá tốt thế mà!”
Tại LA, có lẽ David tưởng tượng Hollywood sẽ là điểm đến tiếp theo của cuộc đời. Tôi nghĩ, cậu ấy hoàn toàn có mục đích và có thể là cả một kế hoạch khi chọn sang Los Angeles. Bỏ điều đó sang một bên, bạn phải ngưỡng mộ sự dẻo dai của David. Cậu ấy làm tôi ngạc nhiên, làm tất cả mọi người tại Manchester United ngạc nhiên. Dù lựa chọn cái gì để theo đuổi, cậu ấy sẽ kiên trì tới cùng.