- Cả hai phía đều không ổn, vậy thì, nhìn lại những lỗi lầm trong quá khứ. Nếu chúng tôi không thể nhận ra điều gì trong chủng tộc tôi đã làm, thì sẽ không bao giờ có được hoà bình giữa tộc người và Urgralgra.
- Chúng tôi sẽ phải đối xử với anh như thế nào, khi mà, nếu như chúng tôi đánh bại được Galbatorix và Nasuada cho chủng tộc anh đất riêng như anh đã đề nghị, và hai mươi năm tới, các thế hệ sau bắt đầu giết và cướp bóc để tìm bạn đời? Nếu anh biết lịch sử chúng tôi, Garzhvog, và anh biết điều đó sẽ luôn trong sử sách ngay cả khi Urgals ký hiệp ước hoà bình.
Với một tiếng thở dài, Garzhvog nói:
- Vậy thì chúng tôi sẽ hy vọng rằng vẫn còn Urgralgra bên kia biển và rằng chúng thông minh hơn chúng tôi, cho dù chúng tôi sẽ không còn ở mảnh đất này nữa.
Không ai nói thêm gì nữa trong đêm đó. Garzhvog cuộn mình lại và ngủ với cái đầu to nằm trên mặt đất, trong khi Eragon trùm kín chính nó trong cái áo khoác và ngồi tựa vào gốc cây, ngắm các ngôi sao chuyển động chầm chậm, trôi vào và ra khỏi giấc mơ của nó.
Vào cuối ngày hôm sau, họ đã tới điểm có thể nhìn thấy núi Beor. Lúc đầu, ngọn núi không có gì nhiều hơn sương mù bao phủ chân núi, nhưng tới xế chiều, đã bắt đầu có thể thấy được hình dáng ngọn núi, và Eragon đã có thể trông thấy dải tối quanh những cái cây che khuất căn cứ, và trên đó, từng dải rộng của tuyết và băng và cao hơn nữa, ngay đỉnh núi, màu xám, lộ ra đá, quá cao, không cây nào có thể mọc trên đó và bị tuyết phủ kín. Giống như lần đầu nó nhìn thấy, kích cỡ của núi Beor hoàn toàn áp đảo Eragon. Theo như bản năng của nó thì không có gì to lớn có thể tồn tại, và bây giờ nó biết mắt nó không lừa nó. Ngọn núi cao khoảng mười dặm, và có thể cao hơn.
Eragon và Garzhvog không dừng đêm đó nhưng tiếp tục chạy qua đêm đến tận sáng ngày hôm sau. Eragon dừng lại, dọc bờ suối, và ngắm cảnh trong vài phút im lặng đến kinh ngạc. Như phạm vi rộng lớn của núi Beor tương tự như hành trình gian khổ của Eragon từ Gil'ead đến Farthen Dûr với Murtagh, Saphira, và Arya. Nó nghĩ ngay cả khi tính luôn tất cả các nơi mà họ dừng lại sau khi vượt qua sa mạc Hadarac.
Chap 27 - cont
Ngày dài và đêm còn dài hơn trôi đi với sự chậm chạp khốn khổ cũng như một tốc độ đáng ngạc nhiên, vì từng giờ đồng hồ đều giống hệt như giờ cuối cùng, khiến cho Eragon thấy không chỉ cuộc thử thách này có vẻ không bao giờ chấm dứt, mà một phần lớn của nó hình như vẫn chưa hề trôi qua.
Khi nó với Garzhvog đến miệng khe nứt khổng lồ chia cắt dãy núi suốt nhiều dặm từ bắc tới nam, họ ngoặt sang phải và băng qua cái lạnh cùng những đỉnh núi lãnh đạm. Đến Sông Răng Gấu - chảy ra từ thung lũng hẹp dẫn đến Farthen Dûr - họ lội qua dòng nước giá lạnh và tiếp tục hướng về phương bắc.
Đêm đó, trước khi phiêu lưu về phương đông để vào trong những ngọn núi, họ dựng trại bên một cái hồ nhỏ và thư giãn chân tay. Garzhvog giết một con hươu nữa bằng cái ná của gã, lần này là một con hươu đực, và cả hai ăn no nê.
Nhặt một hòn đá to cỡ nắm đấm từ mặt đất, gã Kull đặt nó vào cái túi da trên cái ná, rồi vươn thẳng người, gã há họng rống to vào trong đêm cho tới khi cả vùng đất vang dội lời thách thức của gã.
Con thú ngừng lại, rồi bước chậm rãi, đánh hơi mặt đất xung quanh. Khi nó bước vào vòng tròn sáng của ánh lửa, hơi thở Eragon nghẹn lại trong họng. Đứng trước mặt họ là một con sói lưng xám to ngang một con ngựa, với những cái răng nanh như những lưỡi kiếm cong và đôi mắt vàng rực theo sát từng cử động của họ. Bàn chân con sói có kích cỡ như những cái khiên.
Một con Shrrg! Eragon nghĩ.
Khi con sói khổng lồ đi vòng quanh trại, chuyển động gần như vô thanh bất chấp vóc dáng đồ sộ, Eragon nghĩ tới thần tiên và cách họ đương đầu với một con thú hoang, và bằng cổ ngữ, nó nói, “Người anh em Sói, chúng ta không có ý làm hại mi. Đêm nay đàn chúng ta chỉ nghỉ ngơi và không đi săn. Mi được chào mừng đến chia sẻ thức ăn và sự ấm áp trong hang ổ chúng ta cho tới sáng.” Con Shrrg ngừng lại, tai nó xoay ra trước trong lúc Eragon nói bằng cổ ngữ.
Con thú với đôi vai nặng nề từ từ bước vào chỗ cắm trại, chóp mũi ướt át khổng lồ không ngừng giật giật. Con sói đưa cái đầu bờm xờm của nó về phía đám lửa, dường như tò mò về ngọn lửa đang nhảy múa, rồi lại gần những mẩu thịt thừa và nội tạng vương vãi trên mặt đất chỗ Garzhvog đã làm thịt con hươu. Cúi xuống, con sói đớp lấy những miếng thịt lớn, rồi ngẩng lên và, không hề nhìn lại, bước vào bóng đêm sâu thẳm.
Eragon thả lỏng và tra kiếm vào bao. Garzhvog, ngược lại, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, đôi môi co lại gầm gừ, quan sát và lắng nghe bất cứ điều gì bất thường từ bóng tối xung quanh.
Bình minh vừa ló dạng, Eragon và Garzhvog rời điểm cắm trại và chạy về phía đông, tiến vào thung lũng dẫn họ đến Núi Thardûr.
Khi họ đi dưới những cành cây của khu rừng rậm rạp canh gác vùng đất bên trong dãy núi, không khí trở nên mát hơn một cách đáng chú ý và đệm lá kim mềm mại trên mặt đất ôm lấy những bước chân của họ. Những cái cây cao lớn, tối tăm, hung dữ hiện ra lờ mờ bên trên họ dường như đang quan sát khi họ mở lối giữa những thân cây to và vòng qua những đám rễ xoắn vặn gồ lên từ mặt đất ẩm ướt, cao đến nửa thước, một thước, và thường là thước rưỡi. Những con sóc lớn màu đen vụt qua các cành cây, ríu rít một cách ồn ào. Một lớp rêu dày bao phủ những xác cây đổ. Những cây dương xỉ, những bụi mâm xôi và các loại cây xanh rậm rạp khác phát triển sum suê kế bên những cây nấm với mọi loại hình dạng, kích thước, và màu sắc.
Thế giới thu hẹp lại khi Eragon và Garzhvog đã hoàn toàn ở trong cái thung lũng dài. Những ngọn núi khổng lồ ép vào từ cả hai bên với tầm vóc nghẹt thở, và bầu trời là một dải màu thiên thanh xa xôi không thể với tới, bầu trời cao nhất mà Eragon từng thấy. Một vài đám mây mỏng lướt qua vai những ngọn núi.
Một giờ hay cỡ đó sau giữa trưa, Eragon và Garzhvog đi chậm lại khi một chuỗi những tiếng gầm khủng khiếp vang vọng giữa rừng cây. Eragon rút kiếm ra khỏi bao, và Garzhvog chộp lấy một hòn đá cuội nhẵn nhụi trên mặt đất và gắn vào cái túi trên cái ná của gã.
“Một con gấu hang,” Garzhvog nói. Một tiếng eng éc the thé giận dữ, nghe như tiếng kim loại nghiến lên kim loại, ngắt lời gã. “Và Nagra. Hỏa Kiếm, chúng ta phải cẩn thận.”
Họ bước từng bước chậm rãi và nhanh chóng phát hiện ra những con thú cách đó khoảng trăm thước trên một sườn núi. Một bầy lợn lòi hung đỏ với những cái răng nanh dày khua nhặng xị, nháo nhác trong tiếng kêu hỗn loạn trước một khối khổng lồ có lông nâu bạc, móng vuốt cong như những cái móc, và những cái răng đớp táp chuyển động với tốc độ chết người. Ban đầu khoảng cách đánh lừa Eragon, nhưng rồi nó so sánh những con thú với những cái cây bên cạnh chúng và nhận ra mỗi con lợn lòi đều làm cho con Shrrg nhỏ đi còn con gấu thì to gần bằng cái nhà của nó ở Thung lũng Palancar. Bầy lợn lòi đã làm hai bên sườn con gấu nhuốm máu, nhưng điều đó hình như chỉ làm con thú thêm điên tiết. Đứng lên trên hai chân sau, con gấu rống lên và đập một con lợn lòi bằng một bàn chân khổng lồ, đánh văng con lợn sang một bên và xé toạc da nó. Con lợn lòi cố sức vùng dậy ba lần, và ba lần con gấu đều tung đòn vào nó, cho đến cuối cùng con lợn lòi đầu hàng và nằm im re. Khi con gấu cúi xuống ăn, đám lợn đang rống rít còn lại rút lui vào bên dưới những cái cây, hướng lên núi và tránh xa khỏi con gấu.
Kinh sợ vì sức mạnh của con gấu, Eragon đi theo Garzhvog khi gã Urgal từ từ băng ngang qua tầm nhìn của con gấu. Ngẩng cái mõm đỏ lòm của nó lên khỏi dạ dày con mồi, con gấu quan sát họ với đôi mắt nhỏ, tròn và sáng, rồi hình như quyết định họ không phải mối đe dọa với nó và tiếp tục bữa ăn.
“Ta nghĩ cả Saphira cũng không chắc hạ được một con quái như thế,” Eragon lẩm bẩm.
Cười khẽ, Garzhvog nói, “Đúng, nhưng chắc không nhanh được như khi ta tới đây đâu.”
Không chắc phải nói sao, Eragon lấy mũi giày đẩy một đầu khúc cây đã mục, để lộ ra một cái tổ ấu trùng trắng đang ngọ nguậy trong cái đường hầm mà chúng mới đào. “Đừng để một con Shrrg hay gấu nào ăn thịt, được chứ? Nếu không ta sẽ phải truy lùng con thú và giết nó, mà ta thì không có thời gian cho vụ đó.”
Garzhvog ấn hai nắm đấm lên cái trán xương xẩu của gã. “Mong cho kẻ thù run sợ trước cậu, Hỏa Kiếm.” Đứng và quay người, Garzhvog bước đi xa khỏi Eragon. Khu rừng nhanh chóng che khuất hình thù to lớn của gã Kull.
Eragon hít đầy phổi khí núi trong lành, rồi mở đường xuyên qua lùm cây. Khi nó hiện ra từ những bụi dương xỉ vả sơn thù du, đám trẻ lùn bất động, vẻ cảnh giác lộ ra trên những khuôn mặt tròn trĩnh. Giữ hai tay hai bên, Eragon nói, “Ta là Eragon Khắc-tinh-của-Tà-thần, Con trai của Không Ai Cả. Ta đang tìm Orik, con trai của Thrifk, ở Hang Bregan. Các bạn có thể đưa ta tới chỗ ông ấy chứ?”
Vừa ăn, Roran vừa đưa mắt quan sát những người cùng đi với anh. Nhóm gồm 30 người đàn ông khỏe mạnh, kể cả Roran. Họ đều là những chiến binh dũng mãnh. Người nào cũng mang cung, và hầu hết đều mang gươm, nhưng cũng có một số người chọn giáo, chùy, hoặc búa. Anh đoán trong số đó có khoảng 7, 8 người cùng độ tuổi với mình, còn lại thì đều lớn tuổi hơn nhiều. Người lớn tuổi nhất trong bọn là viên chỉ huy, Martland Redbeard, vị bá tước đã bị truất phế của Thun, người đã trải qua nhiều mùa đông đến nỗi hàm ria nổi tiếng của ông trở nên bạc trắng như băng tuyết.
Khi Roran mới gia nhập đội quân của Martland, anh đã đến trình diện trong lều của ông ta. Bá tước là một người thấp bé, cơ bắp lực lưỡng do cả đời ngồi trên lưng ngựa và vung kiếm. Bộ ria nổi tiếng của ông dày, được chải chuốt cẩn thận, dài đến giữa ngực. Sau khi nhìn ngắm Roran cẩn thận, bá tước nói: "Công nương Nasuada đã kể cho ta nghe những chuyện tuyệt vời về cậu, con trai của ta, và ta còn nghe được nhiều hơn thế từ lính của ta, từ những tin đồn, đại loại thế. Cậu biết chúng thế nào rồi đấy. Không nghi ngờ gì nữa, cậu đã đạt được những chiến công cao quý; ví dụ như đương đầu với bọn Ra'zac ngay trong hang ổ của chúng, đó quả thật không phải là việc dễ dàng. Tất nhiên, cậu được em mình giúp đỡ, đúng không, hmm?... Cậu có thể đã quen làm việc theo cách riêng của mình với dân làng của cậu, nhưng giờ cậu đã là một phần của Varden, con trai của ta ạ. Hơn nữa, cậu còn là chiến binh của ta. Chúng ta không phải gia đình cậu. Chúng ta không phải láng giềng của cậu. Thậm chí, bọn ta còn không cần phải là bạn cậu. Nhiệm vụ của chúng ta là thực hiện mệnh lệnh của Nasuada, bất kể bản thân cảm thấy thế nào. Khi cậu chiến đấu dưới quyền của ta, cậu phải làm những gì ta bảo, khi ta bảo, và theo cách của ta, hoặc là ta thề trên nấm mồ của mẹ ta rằng – mong bà được yên nghỉ - đích thân ta sẽ lột da cậu ra, mặc kệ cậu là bà con của ai đi nữa. Cậu hiểu chứ?"
"Vâng, thưa ngài!"
"Rất tốt. Nếu cậu cư xử tốt và thể hiện rằng mình có chút đầu óc, và nếu cậu sống sót, thì việc thăng tiến trong Varden đối với một người có quyết tâm không phải là không thể. Và điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào chuyện ta có cho rằng cậu thích hợp để chỉ huy một đội quân riêng không. Nhưng cậu đừng bao giờ cho rằng, đừng bao giờ, rằng cậu có thể nịnh bợ ta để ta đánh giá tốt về cậu. Ta không quan tâm cậu thích hay không thích ta. Ta chỉ quan tâm đến việc cậu có thể làm được chuyện cần làm hay không."
Roran nuốt chửng mẩu bánh mì cuối cùng và tọng nó xuống bằng một ngụm rượu từ chiếc túi da luôn mang theo mình. Tối qua anh đã mong có được một bữa ăn nóng sốt, nhưng bọn họ đang ở sâu trong Đế quốc, và đám lính có thể phát hiện ra ngọn lửa. Anh thở dài, duỗi hai chân ra. Hai đầu gối anh đau nhừ vì cưỡi Hỏa tuyết suốt từ bình minh tới hoàng hôn trong ba ngày liền.
Sâu trong lòng, Roran cảm thấy một áp lực mơ hồ nhưng liên tục, một nỗi bứt rứt không yên mà đêm ngày đều hướng anh về một phía: Katrina. Nguyên nhân của cảm giác này là chiếc nhẫn Eragon tặng anh, nó là một niềm an ủi lớn cho Roran khi biết rằng, nhờ có nó, anh và Katrina có thể tìm ra nhau ở bất cứ nơi nào trên Alagaesia, ngay khi cả hai đều điếc và mù.
Nghe Carn đang thì thầm những từ ngữ cổ bên cạnh, anh mỉm cười. Carn là pháp sư của họ, anh ta được điều đến để đảm bảo rằng các pháp sư đối phương không thể giết hết mọi người chỉ bằng một cái phẩy tay. Từ một số người lính, Roran biết được rằng Carn không phải là một pháp sư cao tay – anh ta khá vất vả để thực hiện được một câu thần chú – nhưng anh ta bù đắp vào khiếm khuyết đó bằng cách sáng tác ra nhiều câu thần chú rất hay và đặc biệt nổi trội trong việc lẻn vào tâm trí đối phương. Carn khá gầy ốm, có đôi mắt luôn lo lắng ủ rũ, kiểu người dễ bị kích động. Roran thích anh ta ngay lập tức.
Phía trước Roran là hai người đàn ông, Halmar và Ferth, đang ngồi trước lều của họ. Halmar bảo Ferth, "… vì thế khi bọn lính tới tìm ông ta, ông ta rút hết quân vào điền trang của mình và cho đốt những bể dầu sôi mà người hầu đã chuẩn bị trước, bẫy bọn lính và làm cho bọn đến sau tin rằng tất cả đã bị thiêu sống. Cậu tin nổi không? Ông ta giết một lúc 500 tên lính mà thậm chí không cần vung gươm!"
"Làm sao ông ấy thoát được?" Ferth hỏi.
"Ông của Redbeard là một thằng cha xảo quyệt, thật vậy. Ông ta cho đào một đường hầm suốt từ đại sảnh gia đình đến tận dòng sông gần nhất. Nhờ đó, Redbeard đã cứu thoát cả gia đình mình, và cả những người hầu nữa. Ông đưa họ đến Surda, và vua Larkin thu nhận tất cả. Nhiều năm sau, Galbatorix mới phát hiện ra rằng họ vẫn còn sống. Chúng ta rất may mắn được dưới quyền Redbeard. Ông ta chỉ mới thua có hai trận, và đó là vì phép thuật."
Halmar im lặng khi Ulhart bước vào giữa 16 căn lều. Tay chiến binh kì cựu với khuôn mặt khắc nghiệt đứng với hai chân dang rộng, vững chãi như một cây sồi đâm rễ sâu, quan sát những căn lều để chắc rằng mọi người đều có mặt. Ông ta nói: "Mặt trời lặn rồi, mau đi ngủ đi. Chúng ta sẽ khởi hành hai tiếng trước bình minh. Đoàn xe cách chúng ta khoảng 7 dặm về phía tây bắc. Nếu tận dụng được thời gian, ta sẽ tấn công ngay khi chúng bắt đầu di chuyển. Giết hết tất cả, đốt sạch mọi thứ, và chúng ta sẽ được về nhà. Các ngươi biết rồi đấy. Cây-búa-dũng-mãnh, ngươi đi với ta. Nếu ngươi gây sự, ta sẽ moi ruột ngươi ra bằng một lưỡi câu cùn." Đám lính cười thầm. "Được rồi, đi ngủ ngay đi."
*********************************
Gió quất vào mặt Roran. Tiếng tim đập thình thình trong tai anh át đi mọi tiếng động khác. Hỏa Tuyết lồng lên, phi nước đại. Tầm nhìn của Roran thu hẹp lại, anh không thấy gì khác ngoài hai tên lính cưỡi hai con lừa cái màu nâu cạnh cỗ xe áp cuối trong đoàn xe tải lương.
Nâng cao cây búa, Roran gào to hết sức có thể.
Hai tên lính giật mình dò dẫm với vũ khí và khiên của mình. Một tên làm rơi ngọn giáo và phải cúi xuống để nhặt nó lên.
Kéo cương để Hỏa Tuyết chạy chậm lại, Roran đứng hẳn lên bàn đạp ngựa, và, khi vừa ngang tầm tên lính đầu tiên, anh đánh vào vai hắn, xẻ đôi áo giáp của hắn. Tên lính thét lên, cánh tay hắn mềm nhũn ra. Roran giải quyết hắn bằng một cú đấm.
Tên lính kia đã nhặt được ngọn giáo, hắn cố đâm vào cổ Roran. Roran né ra sau tấm khiên tròn, ngọn giáo thép đâm mạnh vào gỗ gây nên một tiếng động chói tai. Roran thúc chân vào sườn Hỏa Tuyết làm nó lồng lên, hí vang, chồm hai chân trước lên trời. Một chiếc móng sắt của nó đập vào ngực tên lính, xé nát chiếc áo trấn thủ màu đỏ của hắn. Hỏa Tuyết vừa hạ chân xuống, Roran liền vung búa lên, chặt nát cổ họng tên lính.
Để mặc tên lính nằm thoi thóp trên mặt đất, Roran thúc Hỏa Tuyết chạy về phía cỗ xe kế tiếp trong đoàn xe, nơi Ulhart đang một mình đấu lại ba tên lính. Mỗi xe được bốn con bò kéo, và khi Hỏa Tuyết chạy qua chiếc xe Roran vừa chiếm được, con bò dẫn đầu hất đầu lên, chóp sừng trái của nó đâm vào chân phải Roran. Roran thở hổn hển. Anh cảm thấy như vừa bị ai đó đặt một cái bàn ủi nóng đỏ lên ống quyển. Anh nhìn xuống và thấy một mảnh ủng rách ra đang lủng lẳng cùng với một mẩu da và cơ.
Thét lên một tiếng xông trận, Roran chạy đến tên lính gần nhất trong số ba tên đang đấu với Ulhart và hạ hắn chỉ với một nhát búa. Tên kế tiếp thoát được cú đánh của Roran và xoay ngựa chạy trốn.
"Chặn hắn lại!" Ulhart hét lên, nhưng Roran đã đang đuổi theo hắn rồi.
Tên lính chạy trốn thúc ngựa mạnh đến mức con vật đổ máu, nhưng dù hắn đã cố gắng tuyệt vọng đến mức tàn nhẫn, con chiến mã của hắn vẫn không thể vượt nổi Hỏa Tuyết. Roran nằm rạp xuống cổ Hỏa Tuyết khi nó phi như bay trên mặt đất với tốc độ phi thường. Nhận thấy chạy trốn là không thể, tên lính ghìm cương, xoay ngựa lại và chém Roran bằng một thanh kiếm lưỡi cong. Roran nâng búa lên và suýt nữa đã không đỡ được lưỡi kiếm sắc như dao lam. Anh lập tức trả đũa bằng một cú đánh móc phía trên đầu nhưng hắn ta đỡ được và lại chém vào tay chân Roran thêm hai lần nữa. Roran thầm chửi thề trong đầu. Rõ ràng tên lính kia dùng kiếm giỏi hơn anh; nếu anh không thẳng nổi trong vài giây tới, anh sẽ bị giết.
Ở khoảng giữa đoàn xe, năm tên lính dũng cảm đã thả lũ bò ra và kéo mấy cỗ xe lại tạo thành một hình tam giác, bẫy Martland Redbeard và mười chiến binh Varden khác. Bốn tên lính thọc giáo vào các cỗ xe, trong khi tên thứ năm bắn cung vào các chiến binh Varden, buộc họ phải rút về nấp sau cỗ xe gần nhất. Tay cung thủ đã làm thương khá nhiều chiến binh Varden, vài người ngã khỏi ngựa, những người còn lại cố thủ trên yên, tìm chỗ nấp.
Roran nhíu mày nghĩ ngợi. Họ không thể nấn ná quá lâu trên một trong những trục đường chính của Đế quốc, trong khi bọn lính lại đang giết dần từng người lính đang ẩn nấp. Thời gian đang chống lại họ.
Bọn lính quay mặt về hướng tây, phía các chiến binh Varden tấn công. Ngoài Roran ra, không chiến binh Varden nào đi về phía kia của đoàn xe. Do đó, bọn lính không hề ngờ rằng chúng bị anh phục kích từ phía đông.
Một kế hoạch nảy ra trong đầu Roran. Trong bất cứ tình huống nào khác, anh cũng sẽ gạt nó sang một bên ngay vì nó quá lố bịch và phi thực tế, nhưng cũng chính vì vậy mà anh chọn nó, vì hiện giờ đó là cách duy nhất để giải quyết tình hình. Anh không màng đến việc bản thân gặp nguy hiểm, anh đã gạt nỗi sợ chết sang một bên khi họ bắt đầu nhiệm vụ.
Roran thúc Hỏa Tuyết phi nước đại. Anh đặt tay trái lên trước yên, chân đặt sát phía ngoài bàn đạp ngựa, sẵn sàng hành động. Khi Hỏa Tuyết cách tam giác xe khoảng 50 feet, anh chống tay, nâng người lên, đặt hẳn chân lên yên, thu mình lấy đà ngay trên lưng Hỏa Tuyết. Anh phải tập trung hết mức và vận dụng hết sự khéo léo để giữ thăng bằng. Như Roran mong đợi, Hỏa Tuyết giảm tốc độ và chuyển hướng sang bên khi đám xe bắt đầu hiện ra lù lù.
Roran thả dần dây cương khi Hỏa Tuyết rẽ, rồi anh nhảy khỏi lưng ngựa, phóng thẳng lên chiếc xe ngựa đang xoay về phía đông. Bao tử của anh quặn lên. Anh bắt gặp ánh mắt của một cung thủ đang ngước lên, mắt hắn ta tròn, tròng trắng phân rõ, rồi anh lao thẳng vào hắn, và cả hai cùng ngã xuống. Roran đè lên tên lính, cơ thể hắn làm đệm cho anh. Roran quỳ dậy trên hai gối, nâng khiên lên và đập mạnh vào khe hở giữa chiếc nón sắt và cái áo trấn thủ của tên lính, làm hắn gãy cổ. Rồi anh đứng hẳn dậy.
Bốn tên lính còn lại phản ứng khá chậm. Tên bên trái Roran mắc sai lầm, hắn cố đâm giáo vào giữa tam giác xe nhưng quá vội vàng nên làm cho ngọn giáo kẹt giữa hông một chiếc xe và bánh trước của một chiếc khác. Roran lao tới tấn công hắn. Tên lính cố rút lui, nhưng mấy chiếc xe chặn đường hắn. Vung búa lên, anh chặt vào ngay dưới cằm hắn.
Tên lính thứ hai khôn hơn. Hắn bỏ giáo và rút gươm từ thắt lưng ra nhưng chỉ mới được nửa chừng thì đã bị Roran đánh vỡ ngực.
Tên lính thứ ba và thứ tư thì đã sẵn sàng đối đầu với Roran. Chúng kéo về phía anh, gươm tuốt trần, gầm gừ. Roran định bước tránh chúng, nhưng cái chân bị thương phản bội anh, anh vấp và ngã quỵ gối. Tên lính gần nhất chém thẳng xuống. Roran giơ khiên chặn cú đánh, rồi trườn tới và nghiền nát chân của hắn bằng búa. Tên lính buột ra một tiếng rủa, ngã ra đất. Roran lập tức đập nát mặt hắn, sau đó nhảy lên lưng hắn, và nhận ra rằng tên lính cuối cùng đang ở ngay sau lưng mình.
Vài phút sau khi Roran hạ tên lính cuối cùng, những chiến binh không bị thương đã đến từng cỗ xe trong đoàn, mở tung những kiện hàng, và báo cáo lại cho Martland, người ghi chép lại những gì họ tìm thấy để Nasuada xem xét và có thể đoán ra phần nào kế hoạch của Galbatorix. Roran xem họ kiểm tra mấy cỗ xe cuối cùng, chúng chứa toàn bột mì và quân phục. Khi mọi việc đã xong, họ cắt cổ mấy con bò khiến máu đổ đầy đường. Giết lũ bò khiến Roran khó chịu, nhưng anh hiểu tầm quan trọng của việc không được để cho Đế quốc có chúng, và anh sẵn sàng làm điều đó nếu được bảo. Đúng ra họ nên đưa chúng về với Varden, nhưng chúng quá chậm và sẽ trở nên vướng víu. Ngựa của bọn lính thì có thể theo kịp khi họ chạy ra khỏi lãnh thổ kẻ thù, nên họ bắt lại càng nhiều càng tốt và cột chúng sau ngựa của mình.
Sau đó, một người rút từ trong túi yên ngựa của mình ra một cây đuốc tẩm nhựa thông, và đốt nó lên bằng đá lửa. Chạy tới lui giữa đoàn xe, anh ta dí ngọn đuốc vào từng cỗ xe cho đến khi nó bắt lửa, rồi ném ngọn đuốc vào cỗ xe cuối cùng.
"Đi thôi!" Martland nói to.
Chân Roran run lên khi anh nhảy lên Hỏa Tuyết. Anh thúc con chiến mã đến kế bên Carn khi những người sống sót tụ lại thành hai hàng phía sau Martland. Lũ ngựa khịt mũi và gõ móng xuống đất, nôn nóng đi xa khỏi đám cháy.
Martland phi nước kiệu nhanh đi trước, mọi người theo sau, để lại một dãy những cỗ xe cháy rừng rực, như một chuỗi hạt lấp lánh giữa con đường cô độc.
Từ hai đầu đối diện của một sân cỏ, hai người lùn trên lưng hai con Feldûnost trắng đang tiến về phía nhau. Hai con dê núi có sừng nhảy băng qua bãi cỏ, mỗi con bật xa hơn hai mươi thước. Người lùn ở bên phải có một cái mộc nhỏ cột bên tay trái nhưng không có vũ khí. Còn người lùn bên trái không có khiên, nhưng trong tay phải, ông ta giữ một ngọn giáo trong tư thế sẵn sàng để ném.
Eragon nín thở khi khoảng cách giữa hai con Feldûnost thu hẹp. Khi chúng còn cách nhau không tới chín thước, người lùn có cây giáo vung tay trong không trung và phóng ngọn giáo vào đối thủ. Người lùn kia không hề lấy khiên che chắn mà vươn tay ra và, với một sự khéo léo đáng kinh ngạc, chộp lấy cán giáo. Ông ta vung nó lên quá đầu. Đám đông tụ tập quanh trường đấu hò reo vang dội, cả Eragon cũng góp vào, vỗ tay nhiệt liệt.
“Quả đó khéo thật!” Orik kêu lên. Ông cười và nốc cạn vại rượu mật ong của mình, bộ giáp khoác ngoài bóng loáng của ông lấp lánh trong ánh sáng chiều tối. Ông đội một mũ sắt có gắn vàng, bạc, hồng ngọc, và trên ngón tay ông là năm chiếc nhẫn thiệt lớn. Trên hông ông là cây rìu vẫn luôn luôn hiện hữu. Hvedra còn được tô điểm lộng lẫy hơn, với những mảnh vải được thêu thùa trên bộ áo váy xa hoa của mình, những dây ngọc trai và vàng xoắn xuýt quanh cổ, và trong mái tóc bà là một chiếc lược ngà gắn một viên lục bảo to như ngón cái của Eragon.
Một hàng người lùn đứng và thổi một bộ tù và chạm trổ, âm thanh lanh lảnh vang vọng trong dãy núi. Rồi một người lùn to như một thùng rượu bước tới trước và, bằng tiếng Người lùn, tuyên bố người chiến thắng trong cuộc thi cuối cùng, cũng như đọc tên cặp đấu tiếp theo sẽ tranh tài trong môn Ghastgar.
Khi người điều khiển buổi lễ nói xong, Eragon cúi xuống và hỏi, “Bà có đi cùng chúng tôi đến Farthen Dûr không, Hvedra?”
Bà ta lắc đầu và cười rạng rỡ. “Tôi không thể. Tôi phải ở lại đây và lo công việc của Ingeitum trong lúc Orik đi vắng, như vậy lúc quay lại anh ấy sẽ không phải thấy chiến binh của mình chết đói còn vàng thì bị tiêu sạch.”
Nó thấy Orik và mười hai người lùn khác ở sân trong của cái hang, đang đóng yên cho một hàng ngựa nhỏ, hơi thở của chúng sinh ra những cụm khói trắng trong không khí lạnh. Eragon thấy mình như một ông khổng lồ khi những người đàn ông thấp lùn vạm vỡ di chuyển quanh nó.
Orik đón chào nó. “Chúng tôi có một con lừa trong chuồng ngựa, nếu cậu muốn cưỡi.”
“Không, tôi sẽ đi bộ, nếu các ông không thấy vấn đề gì.”
Orik nhún vai. “Tùy ý cậu.”
Khi họ đã sẵn sàng khởi hành, Hvedra bước xuống những bậc thang rộng bằng đá dẫn từ cổng vào đến đại sảnh của Hang Bregan, váy của bà ta lê dài phía sau, và đưa cho Orik một cái tù và bằng ngà phủ vàng kim bao quanh hai đầu. Bà nói, “Cái này của cha em khi ông đi cùng Grimstborith Aldhrim. Em đưa nó cho anh để anh có thể nhớ đến em trong những ngày sắp tới.” Bà nói nhiều điều nữa bằng tiếng Người lùn, nhỏ nhẹ đến mức Eragon không thể nghe thấy, rồi bà ta và Orik chạm trán vào nhau. Ngồi thẳng lại trên yên, Orik đưa tù và lên môi và thổi. Một âm thanh trầm và mạnh mẽ vang lên, âm lượng tăng dần cho đến khi không khí bên trong khoảng sân dường như rung động như một chiếc dây thừng bị gió đưa đẩy. Một đôi quạ đen bay ra từ ngọn tháp bên trên, kêu vang. Tiếng tù và làm máu Eragon rộn lên. Nó cựa quậy, hăm hở muốn rời đi.
Nâng cái tù và lên quá đầu và với một cái nhìn cuối cùng dành cho Hvedra, Orik thúc con ngựa tiến tới, đi nước kiệu ra khỏi cổng chính của Hang Bregan, rồi ngoặt sang hướng đông, về phía đầu thung lũng. Eragon và mười hai người lùn kia theo sát phía sau.
Trong ba giờ, họ đi theo một lối mòn kéo dài ngang qua sườn núi Thardûr, trèo lên cao hơn bao giờ hết bên trên lòng thung lũng. Những người lùn cố điều khiển những con ngựa nhanh nhất có thể mà không làm chúng bị đau, nhưng tốc độ của chúng vẫn là rất nhỏ so với Eragon nếu nó được chạy thoải mái. Dù phát nản, Eragon vẫn không phàn nàn gì, vì nó nhận ra ngoài thần tiên và Kull, nó không thể tránh được việc phải đi chậm lại với tất cả các sinh vật khác.
“Vậy thì đừng yêu cầu điều không thể ở tôi! Tôi sẽ hậu thuẫn ông nếu ông có khả năng bước lên ngôi báu, còn nếu không, thì tôi sẽ không. Ông lo lắng cho Dûrgrimst Ingeitum và cả chủng tộc của ông nói chung, trong khi trách nhiệm của tôi là lo lắng cho họ và cả toàn thể Alagaësia.” Eragon ngồi sụp xuống, tựa vào một thân cây lạnh lẽo. “Và tôi lại không thể làm mếch lòng ông và tộc của ông – ý tôi là, của chúng ta – cũng như cả vương quốc người lùn.”
Bằng giọng hòa nhã hơn, Orik nói, “Có một cách khác, Eragon ạ. Sẽ khó khăn hơn cho cậu, nhưng sẽ giải quyết được tình thế khó xử của cậu.”
“Sao? Giải pháp xuất sắc nào thế?”
Đẩy cái rìu vào đai lưng, Orik bước tới chỗ Eragon, nắm lấy cẳng tay nó, và ngước nhìn nó qua đôi lông mày rậm. “Hãy tin tưởng tôi đang làm điều đúng đắn, Eragon Khắc-tinh-của-Tà-thần. Hãy cho tôi lòng trung thành như là cậu thực sự được sinh ra trong Dûrgrimst Ingeitum. Những người dưới tôi không bao giờ dám liều tuyên bố chống lại chính tộc trưởng của mình để ủng hộ ngoại tộc. Nếu một grimstborith đánh nhầm tảng đá, đó sẽ là trách nhiệm của một mình ông ta, nhưng như thế không có nghĩa là tôi không thấy được những băn khoăn của cậu.” Ông nhìn xuống một lát, rồi nói, “Nếu tôi không thể làm vua, hãy tin rằng tôi không quá mù quáng vì quyền lực trước mắt đến nỗi không nhận ra được nỗ lực của mình đã thất bại. Nếu điều đó xảy ra – không phải tôi tin nó sẽ xảy ra – thì tôi sẽ tự nguyện ủng hộ cho một ứng viên khác, vì tôi cũng như cậu, không hề muốn thấy một grimstnzborith thù địch với Varden lên ngôi. Và nếu tôi phải giúp tiến cử một ai khác lên ngôi, thì địa vị và uy tín mà tôi giao cho tộc trưởng đó sẽ tự nhiên bao hàm cả của cậu, vì cậu thuộc Ingeitum. Cậu có tin tưởng tôi không, Eragon? Cậu sẽ chấp nhận tôi như grimstborith của cậu chứ, như mọi thần dân đã tuyên thệ của tôi?”
Eragon rên rỉ và tựa đầu vào cái cây thô ráp, ngước nhìn những cành cây vặn vẹo trắng như xương bị sương mù bao bọc. Tin tưởng. Trong tất cả mọi thứ, Orik đã yêu cầu ở nó thứ khó đưa ra nhất. Eragon thích Orik, nhưng tự đặt mình xuống dưới uy thế của ông lùn trong khi quá nhiều điều đang lâm nguy như vậy sẽ càng làm giảm tự do của nó, và nó rất miễn cưỡng với viễn cảnh đó. Và cùng với tự do của nó, nó cũng sẽ làm giảm phần trách nhiệm của nó đối với số mệnh của Alagaësia. Eragon cảm thấy như thể nó đang bị treo trên mép một vách đá và Orik đang cố thuyết phục nó rằng có một gờ đá ở dưới chỉ cách chân nó có một thước, nhưng Eragon không thể bắt mình buông tay được, vì sợ rằng mình sẽ ngã vào sự diệt vong.
Nó nói, “Tôi sẽ không làm một bầy tôi thiếu suy nghĩ cho ông sai bảo này nọ đâu. Nếu là vấn đề Dûrgrimst Ingeitum, tôi sẽ theo ý ông, nhưng trong mọi vấn đề khác, ông sẽ không thể tác động gì lên tôi đâu.”
Orik gật đầu, mặt nghiêm nghị. “Tôi không lo lắng về nhiệm vụ mà Nasuada giao cho cậu, cũng như cậu sẽ giết những ai trong khi đánh lại Đế quốc. Không, điều làm tôi mất ngủ, trong khi lẽ ra tôi phải ngáy như Arghen trong hang của mình, chính là tưởng tượng ra cậu cố gắng tác động lên việc bầu chọn của hội đồng thị tộc. Ý định của cậu là cao thượng, tôi biết, nhưng dù cao thượng hay không, cậu cũng không quen thuộc với chính trị của chúng tôi, cho dù Nasuada đã giảng giải cho cậu kỹ đến đâu. Đây là lãnh vực chuyên môn của tôi, Eragon ạ. Cứ để tôi kiểm soát theo cách mà tôi cho là thích đáng. Đó là điều mà Vua Hrothgar đã chuẩn bị cho tôi trong suốt cuộc đời tôi.”
Eragon thở dài, và với cảm giác đang bị rơi, nó nói, “Được rồi. Tôi sẽ làm theo cách mà ông cho là tốt nhất trong việc nối ngôi, Grimstborith Orik.”
Một nụ cười nở rộng trên mặt Orik. Ông siết chặt tay Eragon hơn, rồi buông ra và nói, “A, cảm ơn cậu, Eragon. Cậu không biết điều đó có ý nghĩa thế nào đối với tôi đâu. Cậu thật là tốt, rất tốt, và tôi sẽ không quên điều đó, cho dù tôi có sống đến hai trăm tuổi và râu mọc dài đến mức kéo lê trên đất.”
Phớt lờ chính mình, Eragon tủm tỉm cười. “Ừ, tôi hy vọng nó không mọc dài đến thế. Ông sẽ quàng chân vào đó liên tục mất!”
Một vài phút đi bộ đưa họ lên một cầu thang rộng không sâu lắm, với kích cỡ bước chân của người lùn, lên khỏi mặt đất đến một hành lang nào đó nằm ở phía tây nam của thành Tronjheim. Từ đó, Kvîstor hướng dẫn Eragon vào hành lang phía nam khoảng chừng bốn dặm dài, chia Tronjheim dọc theo xung quanh điểm chính giữa.
Đó cũng là cái hành lang mà qua đó Eragon và Saphira đã lần đầu tiên bước vào Tronjheim cách đây vài tháng trước, và Eragon đi xuống, hướng về trung tâm của thành phố núi, với một cảm giác lạ của lòng hoài cổ. Nó cảm thấy như đã già đi nhiều năm tuổi.
Đại lộ số bốn mươi, một đám đông người lùn trong nhiều bộ tộc khác nhau. Hầu hết trong số họ nhận ra Eragon, nó chắc chắn thế, nhưng không ai chào nó, điều mà nó rất cảm ơn, vì điều đó cứu nó khỏi các nỗ lực phải trả lại nhiều hơn là các lời chào.
Eragon gần như hoá đá khi trông thấy một nhóm người của tộc Az Sweldn rak Anhûin băng qua hành lang. Một trong số họ quay lại nhìn nó, mặt của họ bị che khuất sau mạng che màu tím, cái mà họ luôn đeo khi đi ra ngoài. Người lùn đi cuối cùng trong đó phỉ nhổ ngay trước mặt Eragon trước khi đi nhập vào dòng người và ra khỏi hành lang cùng với anh em của hắn.
Nếu Saphira ở đây, chúng sẽ không dám xấc láo như thế", Eragon nghĩ.
Nửa giờ sau, nó đến khúc cuối hành lang tráng lệ, và mặc dù nó đã đi nhiều lần trước đây nhưng một cảm giác của sự sợ hãi và thắc mắc bao trùm lấy nó như khi nó đi giữa các cột mã não đen có ngọn màu vàng đá zircon với kích thước gấp ba lần của một người. Nó đi vào phòng họp tròn ngay giữa Tronjheim.
Phòng họp rộng khoảng một ngàn feet, với một tầng khắc đá carnelian bóng loáng với một cái búa, bao quanh là mười hai biểu tượng, là gia huy của thị tộc Dûrgrimst Ingeitum và của vị vua người lùn đầu tiên, Korgan, người đã phát hiện ra Farthen Dûr trong khi đào mỏ vàng. Đối diện với Eragon và cũng như phía bên kia là ngõ ra vào của ba đại sảnh dẫn xuyên qua thành phố núi. Phòng hội nghị không có nóc nhưng dẫn lên phía trên cùng của Tronjheim, khoảng một dặm.Đó là nơi dành cho rồng khi Eragon và Saphira đã từng ở cho đến khi Arya làm vỡ ngôi sao Sapphire, và rồi bầu trời: một màu xanh sáng xa xăm có vẻ không thể tưởng tượng được, bao lấy miệng thành phố núi Farthen Dûr cao trên mười dặm, để che khuất Tronjheim khỏi tầm nhìn của thế giới bên ngoài.
Chỉ có một số lượng ánh sáng vừa đủ chiếu vào Tronjheim. Thành phố Chạng Vạng Vĩnh Cửu, các thần tiên gọi như vậy. Bởi chỉ một vài tia nắng mặt trời có thể lọt vô được thành-phố-núi, ngoại trừ một chút tia nắng chói loá mắt nửa giờ trước và sau buổi trưa khi nắng hè lên cao. Người lùn thắp sáng bằng nhiều các lồng đèn không có lửa. Hàng ngàn trong số đó soi sáng phòng hội nghị. Một cái lồng đèn treo ở ngoài trên từng cây cột của mái vòm cong mà mỗi tầng của thành-phố-núi đều có, và thậm chí nhiều đèn hơn được gắn vào nhiều mái vòm, tạo thành lối vào cho các phòng xa lạ, cũng như con đường của Vol Turin, Cầu Thang Vô Tận, cái mà xoắn quanh phòng hội nghị từ đỉnh tới đáy. Hiệu quả cực kỳ cách điệu lẫn đẹp mắt. Các lồng đèn có nhiều màu sắc khác nhau, làm cho sự xuất hiện của nó như là bên trong phòng hội nghị như được điểm thêm với nhiều viên đá quý rực rỡ.
Vẻ lộng lẫy của nó, tuy nhiên, lu mờ bên cạnh vẻ đẹp lộng lẫy của một viên đá quý thật sự, viên đá quý lớn nhất trong tất cả: Isidar Mithrim. Trên sàn nhà của phòng họp, các người lùn đã xây dựng một cái giàn giáo gỗ có đường kính khoảng sáu mươi mét, và phía bên trong của hàng rào gỗ sồi tươi, chúng là, từng mảnh quý giá kề nhau, ráp lại các mảnh vỡ của Khối Ngọc Sao Hoa với một cách cực kỳ cẩn thận và tinh vi . Các mảnh chưa tìm ra chỗ để ráp lại thì được lưu giữ trong các hộp đang mở với miếng lót bằng len phía trong, mỗi hộp được dán nhãn với một dòng chữ cổ khẳng khiu. Cái hộp được mở đầy ra ở mặt phía Tây của phòng họp rộng lớn. Có lẽ ba trăm người lùn ngồi quanh, chăm chú vào công việc của họ trong lúc họ tìm chỗ để gắn các mảnh vỡ phù hợp vào nhau để thành một khối. Nhóm khác hối hả chung quanh giàn giáo, giữ cho các mảnh đá quý trong vòng, như cũng như xây dựng thêm các cấu trúc.
Eragon quan sát chúng trong vài phút, rồi thả bộ qua khu lầu nơi mà Durza đã tàn phá khi hắn và lũ chiến binh Urgal của hắn xâm nhập vào Tronjheim từ đường hầm phía dưới. Dùng mũi giầy, Eragon đá cục đá phía trước. Không còn một vết tích hư hại mà Durza gây ra. Người lùn đã xoá sạch các vết tích còn lại của trận chiến Farthen Dûr, mặc dù Eragon hy vọng rằng họ sẽ để lại làm kỷ niệm, cho thế hệ sau không bao giờ quên là máu của nhiều người lùn và Varden đã đổ xuống trong quá trình đấu tranh chống lại Galbatorix.
Khi Eragon đi lại giàn giáo, nó gật đầu chào Skeg, người đang đứng trên nền đá nhìn Khối Ngọc Sao Hoa. Eragon đã gặp người lùn gầy, nhanh nhẹn này trước đây. Skeg là thành viên của Dûrgrimst Gedthrall, và đã được Vua Hrothgar tin tưởng giao cho nhiệm vụ phục hồi kho báu quý giá nhất của người lùn.
Skeg ra hiệu cho Eragon leo lên trên nền đá. Một khung cảnh đầy đá quý, hình chóp nhọn, lấp lánh, cạnh mỏng như giấy, bề mặt gợn sóng làm cho Eragon thấy giống như nó kéo chính nó lên trên tấm ván thô sơ. Phía trên của Khối Ngọc Sao Hoa nhắc nó nhớ đến băng trên sông Anora ở thung lũng Palancar vào cuối mùa đông, khi mà băng vừa tan vừa đông lại nhiều lần và rất nguy hiểm khi đi qua, có nhiều cú va mạnh và băng nhấp nhô qua lại khi nhiệt độ lên cao. Thay vì chỉ có màu xanh biển, trắng, hay là trong suốt thì những mảnh còn lại của Khối Ngọc Sao Hoa lại mềm, hồng hồng, nhìn được thông qua các vết nâu cam.
- Việc như thế rồi vậy?
Eragon hỏi.
Skeg nhún vai và khua tay trong không khí như hai cánh bướm.
- Nó vẫn như thế, thưa Bàn Tay Bạc. Ngài không thể vội vàng để hoàn thành.
- Đối với tôi thì ông đang tiến hành nhanh tiến trình.