Bụi bốc mù mù cả vùng sa mạc mênh mông, từng cơn gió lốc xô cát đùa lên nhau như cố xóa cho kỳ hết những dấu vết của động vật thời tiền sử ... Từng cuộn cát cuốn lên lấp lánh ánh vàng ...
Tiếng ngựa hí, tiếng lục lạc của lạc đà khua vọng đó đây, tạo cho vùng sa mạc biên cương một sắc thái hoang sơ mà cực kỳ hùng vỹ.
Ngàn dặm cát vàng bốc khói, nhiều chấm đen nhô lên rải rác và lần lần gom lại, càng lúc lại càng gom lại gần hơn.
Họ là động vật điểm xuyết hoạt cảnh cho vùng đất chết, họ là người, họ là cao thủ của Tam Sơn Ngũ Nhạc, gần như không thiếu một người nào thuộc vào hàng danh vọng của chính giới võ lâm Trung Nguyên hiện hữu ...
Họ đã từ những chỗ xa khác nhau, họ cùng có những thành tích huy hoàng, những thành tích họ đã dựng lên bằng máu và mồ hôi, bằng kinh nghiệm và trui luyện, bằng mạo hiểm và sinh mạng, bằng những gì quí báu trong đời để đổi lấy cái gọi là người hùng trong thế giới võ lâm ...
Bây giờ, giữa vùng sa mạc mênh mông này, họ đang làm một cuộc ... họ đang nhập vào một canh bạc, không phải bằng những lá bài, mà là bằng tài sức, bằng uy thế, bằng những gì mà suốt đời họ đã đem máu dựng nên ...
Bóng tịch dương đã đã xế về đỉnh phía tây, ráng hồng đổ xuống mặt cát tô màu ảm đạm, chung quanh đó đây trên vùng sa mạc, rải rác những tốp dân du mục đã đổ phân lạc đà khô nhen lửa bừng bừng như cố gom lại hơi ấm hầu chống chọi với đêm dài lạnh lẽo.
Từ trong những túp lều rải rác của người dân du mục thỉnh thoảng vẳng lên tiếng hồ cầm và giọng tình ca của những cô nàng quanh năm mặt phủ lụa đen.
Họ đã để lại sau lưng trọn một ngày mệt nhọc, họ đang quây quần tìm sinh thú trong những túp lều, họ vô tình không hay rằng quanh họ sắc máu sắp sửa dấy lên ...
Những bóng người ẩn phục đó đây vùng dậy ...
Tiếng xì xào xao náo bắt đầu vì, xa xa, dưới ánh sáng lờ mờ trăng cát bóng một con lạc đà cao lớn nhô lên, trên lưng, một bóng người ngất ngưởng.
Chương Bóng người cưỡi lạc đà càng tới gần, tiếng những người ẩn núp càng xì xào hơn nữa:
– Đến rồi!
– Đúng là hắn đến.
Tiếng người lớn nhỏ không đều nhau, có nhiều tiếng thở dập dồn, có nhiều tiếng thở như trầm nén, không khí căng thẳng tột cùng ...
Bóng người cỡi lạc đà thong dong đi thẳng vào giữa vùng người ẩn núp.
Ánh trăng màu sữa rạng rỡ trên biển cát vàng, trên lưng lạc đà đã hiện rõ một gã thanh niên, có lẽ hắn đã vào khoảng hăm lăm, hăm sáu tuổi nhưng vẻ mặt tươi trẻ của hắn không ai dám bảo rằng hắn đã quá hai mươi.
Dáng sắc gã thanh niên hết sức tự nhiên khi phát hiện số người vây quanh nơi đó, sự tự nhiên của hắn gần như ra ngoài trí tưởng tượng của mọi người ...
Hắn cho lạc đà dừng hẳn lại, hắn vẫn ngồi yên trên lưng con thú, đôi mắt sắc như dao đảo bốn bên:
– Đa tạ các vị có lòng chờ đợi, có lẽ đã đủ hết rồi đấy chứ?
Chung quanh im lặng. Không khí lại đậm thêm phần khẩn trương.
Gã thanh niên cao giọng:
– Sao thế? Các vị làm sao thế? Tại hạ đã tuyên bố trước, nếu trong cửu môn, tam phái, thất cốc và thập tứ bảo, nếu vắng đi mất một, thì cuộc hội đêm nay kể như sẽ bất thành.
Bốn bên lại im lặng.
Thật lâu, giọng của một người có tuổi vang lên:
– Mắt của các hạ không mù, đủ hay không thì tự các hạ cũng phải thấy chứ?
Gã thanh niên mỉm cười:
– Ai lên tiếng đó?
Lão già cao giọng:
– «Kim Sa Bảo Chủ» Cốc Lượng.
Tia mắt xanh rờn của gã thanh niên quét nhanh về phía lão già, làm cho kẻ danh dậy đại giang nam bắc phải rùng mình thối lui nửa bước.
Gã thanh niên dịu đôi mắt lại mỉm cười:
Chương – À, thì ra Cốc Bảo chủ, tốt lắm, là một người biết nhiều hiểu rộng, xin Bảo chủ giúp cho giùm việc kiểm điểm, tại hạ vì là người cùng các vị buổi đầu sơ ngộ, lẽ tự nhiên là phải hỏi cho rõ ràng.
Ngưng một giây, giọng của Cốc Lượng có phần hơi khó chịu:
– Không cần phải kiểm điểm, lão phu bảo đảm không thiếu một ai cả. Hai năm nay bằng hữu võ lâm chỉ chờ có một ngày này, thì thiếu làm sao chứ?
Gã thanh niên cười ha hả:
– Thế thì hay biết bao nhiêu! Vậy bây giờ chúng ta hãy bắt đầu ... Vị nào đầu tiên đây nhỉ?
Bốn phía lặng im, không khí như trầm hẳn xuống ...
Qua mấy phút, giọng một người già nhưng sang sảng nổi lên:
– Xin Cốc Bảo chủ bảo cho chậm lại một chút, bần tăng có điều muốn hỏi cho được rõ ràng.
Cốc Lượng quay sang cung kính:
– Vâng, xin thỉnh đại sư Chưởng môn nhân.
Vị Chưởng môn nhân phái Thiếu Lâm, Thống Thiền đại sư xốc áo cà sa khoan thai bước tới:
– A Di Đà Phật, bần tăng có chỗ hơi ngờ về thân thế của thí chủ!
Gã thanh niên mỉm cười:
– Đại Sư nhìn tại hạ không phải là Minh Đà Lệnh Chủ?
Thống Thiền Đại Sư chấp tay gật đầu:
– Hai mươi năm về trước, bần tăng đã hân hạnh hội kiến với Minh Đà Lệnh Chủ, và ngày nay ...
Gã thanh niên mỉm cười:
– Hai mươi năm về trước tại hạ là một đứa trẻ mới lên năm, người mà đại sư gặp đó không phải là tại hạ. Vâng, năm tháng trôi qua, sư phụ của tại hạ bây giờ đã hóa ra người thiên cổ, cho nên lời hẹn ước với các vị, tại hạ đã thừa di mạng của gia sư mà hoàn tất.
Nhiều tiếng thở phào bắn ra từ bốn phía, hình như mọi người không ai có thể tin rằng kẻ đã từng chấn động giang hồ hồi hai mươi năm về trước, kẻ đã làm cho sóng dậy võ lâm ấy bây giờ đã nằm yên dưới đáy mộ sâu ...
Chương Thống Thiền Đại Sư thoáng hơi đổi sắc:
– Độc Cô tiên sinh sức khỏe đang lúc dồi dào, sao lại có chuyện nửa đường bỏ dở cuộc hành trình nhân thế!
Giọng nói của gã thanh niên có vẻ bùi ngùi:
– Vâng, tài mạng tướng số, dường như trời xanh cũng ganh với kẻ hơn người ...
Thống Thiền Đại Sư thở ra nhè nhẹ:
– Bần tăng xin vì Độc Cô tiên sinh mà ngỏ lời tiếc nhớ, tuy nhiên, cũng mong thí chủ nên chứng minh rõ ràng hơn mình thật là Minh Đà Lệnh Chủ truyền nhân?
Khẽ nhếch môi ngạo nghễ, gã thanh niên lấy cái bọc đang đeo trên mình lạc đà, mở bọc ra, bên trong là pho tượng người một chân bằng vàng lóng lánh.
Gã đưa pho tượng soi dưới ánh trăng và nghiêm giọng:
– Minh Đà, mà tại hạ đang ngồi trên lưng đây, và thứ hai là pho tượng này có lẽ đại sư chưa quên đấy chứ?
Thống Thiền Đại Sư mỉm miệng gật đầu:
– Đúng, vật ấy quả là của Độc Cô tiên sinh, chẳng hay thí chủ có thể cho bần tăng xem rõ chút được không?
Gã thanh niên cười lớn:
– Đại sư bất tất phải hoài nghi, ngay giữa trán của pho tượng Kim Thần này có ba cái lỗ nhỏ, vết tích đó, do chính «Bồ Đề Thủ Pháp» của Đại Sư tạo thành.
Thuở sinh tiền, sư phụ tại hạ xem trọng vết tích ấy lắm, vì theo sư phụ thì khắp trong thiên hạ không một ai có thể để lại dấu vết, dù là một dấu nhỏ trên binh khí của người được cả.
Chấp tay khẽ vái về phía tượng Kim Thần trên tay của gã thanh niên, Thống Thiền đại sư tỏ vẻ hết sức cung kính:
– Vâng, bần tăng không còn hoài nghi gì nữa cả? Hồi hai mươi năm về trước, Độc Cô Tiên Sinh đang đêm một mình đến tận Thiếu Lâm phá vỡ «La Hán Trận». Bần tăng đã đem hết sức lực nhưng vẫn phải giao xuất lệnh phù của bản môn, chuyện đó đối với bản môn tuy là một cái nhục lớn, nhưng riêng đối với bần tăng thì hết sức trọng lệnh sư ... à, thật là thiên đố kỳ tài, bần tăng vô cùng thương tiếc!
Chương Gã thanh niên mỉm cười điềm đạm:
– Đa tạ đại sư đã vì sư phụ tại hạ mà ngỏ lời đoái tưởng, nhưng có lẽ đại sư cũng còn ít nhiều khách sáo, vì hai mươi năm qua, Thiếu Lâm tưởng cũng vì chuyện đó mà đã luyện thêm nhiều tuyệt học?
Thống Thiền đại sư vẫn bằng một giọng từ tốn:
– Hai tiếng tuyệt học thật tình bần tăng không dám nhận ...
Ngần ngừ một giây, đại sư nói tiếp:
– Vì cần phải thu hồi lệnh phù của bản môn, cho nên lát nữa đây có lẽ bần tăng sẽ không khỏi có điều vô lễ, xin thí chủ vui lòng ...
Gã thanh niên ngang nhiên ngẩng mặt:
– Đại sư không cần phải e dè khách sáo chi cả, không phải chỉ riêng vì phái Thiếu Lâm, mà Cửu Môn, Tam Phái, Thất Cốc và Thập Tứ Bảo, cộng chung tất cả là ba mươi ba lệnh phù tín vật, tiên sư đã giao hết cho tại hạ, cho nên nửa năm trước đây, tại hạ đã đưa «Minh Đà Lệnh» khắp nơi ước hội chư vị đến đây giao hoàn, tuy nhiên việc giao hoàn tín vật đó, tại hạ còn phải tuân theo điều kiện của tôn sư chỉ giáo.
Thống Thiền Đại Sư nhìn chăm chăm vào mặt gã thanh niên:
– Thí chủ định bao giờ là giải quyết?
Gã thanh niên khoa nhẹ tay:
– Đại sư không phải lo lắng, tự nhiên giải quyết càng sớm thì càng hay ...
Thống Thiền đại sư có vẻ hồ nghi:
– Năm xưa lệnh sư đã dùng tận thiên tài, và cũng phải ròng rã suốt nửa năm mới thuyết phục khắp thiên ha võ lâm thế phiệt, ngày nay thí chủ lại muốn một mình luân đấu với cả ba mươi võ phái có mặt ở đây sao?
Gã thanh niên mỉm cười:
– Năm xưa vì các vị phân tán mỗi nhà một chỗ xa xôi, và vì gia sư phải gõ cửa từng nhà một cho nên tự nhiên thì phí mất quá nhiều thời gian, riêng tại hạ thì tình thế có vẻ vội vàng hơn, nên xin giải quyết một lần trong nội đêm nay cho được việc.
Bị hào khí của gã thanh niên làm nghẹn đi giây phút, một lúc sau Thống Thiền đại sư mới khẽ lắc đầu:
Chương – Thí chủ đã đem mớ tuổi niên hoa của mình để dựng một sự nghiệp không tiền khoán hậu, một hành động hào hùng mà từ trước đến nay chưa có ai làm được. Bần tăng tin rằng thí chủ có thừa sức ấy, nhưng nếu thu hồi lệnh phù dưới một hoàn cảnh như thế này, thì riêng phái Thiếu Lâm xin rút tên ra khỏi cuộc hội đêm nay.
Nhìn vào mớ râu bạc phếch dưới ánh trăng của người lãnh tụ phái Thiếu Lâm, gã thanh niên có nhiều kinh nể:
– Nơi lòng của đại sư hào khí xông lên vạn trượng, tại hạ kính cẩn nghiêng mình bội phục, đại sư đã không bằng lòng chiếm lấy phần hơn thì tại hạ cũng không dám ép, vậy xin đại sư cứ đứng một bên hoan lãm, bao giờ tại hạ giải quyết xong đối với những người khác mà đại sư xét tại hạ còn đủ sức, thì bấy giờ câu chuyện Thiếu Lâm sẽ đặt ra ...
Thống Thiền đại sư khẽ lắc đầu lui ra đứng xa xa.
Gã thanh niên thong thả nhảy xuống lưng Lạc Đà, vỗ nhẹ vào lưng con vật và nói với một giọng dịu dàng:
– Bạn già, tìm chỗ nghỉ ngơi đi nhé, ta tin rằng không để cho chú phải đợi lâu đâu.
Như nghe biết tiếng người con vật khịt khịt trong lỗ mũi và chậm chạp bước đi. Sự trao đổi cử chỉ giữ con Lạc Đà với chủ thật là một hoạt cảnh đáng yêu, nhưng đối với các cao thủ vây quanh thì y như là một cách thức khêu bùng lửa giận.
Năm xưa «Minh Đà Lệnh Chủ» Độc Cô Minh dùng võ công tuyệt đỉnh thuyết phục thiên hạ giang hồ, đoạt hết tín vật lệnh phù của các môn phái võ lâm, có giao ước rằng hai mươi năm sau khoảng thời gian dài để cho các phái đủ thì giờ rèn luyện độc môn, sẽ giao đấu lại ...
Đó là một điều sỉ nhục. Nhưng vẫn không bằng hiện tại, Độc Cô Minh chết đi, để một tên oắt con thay mặt và sự ngạo mạn của gã càng làm cho sỉ nhục tăng lên ...
«Kim Sa Bảo Chủ» nhích lên giận dữ:
– Tiểu tử đừng quá cuồng ngạo như thế chứ!
Gã thanh niên nhếch mép lạnh lùng:
– Là kẻ thừa kế «Minh Đà Lệnh Chủ», lẽ tự nhiên tại hạ phải có đầy đủ sự ngạo mạn cần thiết ấy chứ?
Chương Cốc Lượng hầm hầm:
– Ta giao đấu trước.
Gã thanh niên thản nhiên:
– Được chứ sao, Bảo chủ hãy trao lại «Minh Đà Lệnh».
Cốc Lượng vùng vằng móc trong lưng ra một miếng đồng sáng chói quăng lên mặt đất. Miếng đồng mỏng nhỏ ấy bề mặt khắc một con Lạc Đà lung linh sống động y như con Lạc Đà mà gã thanh niên cỡi.
Gã thanh niên lấy một mảnh giấy nhỏ soi dưới ánh trăng đọc nhỏ:
– «Kim Sa Bảo Chủ» Cốc Lượng, một cây cờ gấm màu vàng.
Gã quay qua phía Cốc Lượng, mỉm cười:
– Bảo chủ, xin lỗi, tín vật nhiều quá tại hạ cất chung trong bọc để trên lưng Minh Đà, không sao, nếu Bảo chủ thắng thì tại hạ sẽ gọi Minh Đà mang ngay lại.
Cốc Lượng giận run:
– Hừ, ta thắng thì ngươi khỏi phải gọi đến con quái ấy.
Gã thanh niên cứ mỉm cười:
– Nếu thế thì lại càng hay hơn nữa, chẳng riêng Bảo chủ mà những người khác cũng đỡ, khỏi phải nhọc công, các vị cứ căn cứ theo mảnh giấy này mà thu hồi tín vật.
Cốc Lượng quát lớn:
– Tiểu tử, hãy chuẩn bị!
Gã thanh niên đưa bàn tay làm một cử chỉ ngăn chận.
– Khoan, Bảo chủ hãy còn chưa hỏi danh tánh của tại hạ, không may tại hạ bị hại, thật ra thì tại hạ cũng hết sức cẩn thận nhưng ở đời không có việc nào chắc chắn cả cho nên cần phải đề phòng. Và như thế để khỏi mang tiếng là kẻ vô danh ...
Dáng cách và lời kẻ của gã thanh niên càng làm cho Cốc Lượng càng thêm tức tối, nhưng ông ta chưa kịp có thái độ thì gã từ từ nói tiếp:
– Xin Bảo chủ hãy nghe cho rõ, tại hạ là Quan Sơn Nguyệt đệ nhị thế Minh Đà Lệnh Chủ.
Cốc Lượng rút thanh đao lưỡi có răng cưa, chín cái vòng sắt trên cán đao khua rổn rảng.
Chương – Tiểu tử, đến giờ ngươi sám hối chuyện ngông cuồng rồi đó.
Vẫn bằng một dáng điệu khoan thai, Quan Sơn Nguyệt đưa cao tượng đồng đang nắm trong tay:
– Cốc Bảo chủ, xin ông hãy thư thả. Những người học võ ai cũng biết điều tối kỵ trong lúc giao đấu là nóng nảy, một khi tâm trí bị phiền não, công lực sẽ ít nhiều phân tán, nhất là cuộc đấu này nó nặng nhiều về danh dự Bảo chủ, nếu không may sơ thất thì có lẽ lại phải đợi hai mươi năm nữa cũng nên ... Bảo chủ niên kỷ đã cao, làm sao mà chờ được như thế chứ?
Câu nói ẩn nhiều lẽ thật tình của gã thanh niên làm cho Cốc Lượng hơi khựng lại, ông ta nén lòng cười nhạt:
– Nếu hôm nay ta bại vào tay của ngươi thì lệnh kỳ của Kim Sa Bảo ngươi cứ tự do hủy diệt, ta không cần phải đợi thêm một ngày nào nữa cả.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Sao lại có chuyện như thế? Kim Sa Bảo hùng cứ cả một dãi núi sông Hà Lạc, ngọn Kim Sa Kỳ đã làm rạng rỡ danh dự của quí Bảo đã hàng chục năm nay, nhất đán mà không may cho Bảo chủ, thì ít ra tại hạ cũng phải dành một cơ hội nào đó cho đệ tử đời sau của Kim Sa Bảo chứ!
Khựng lại một lần nữa, Cốc Lượng dịu giọng:
– Đa tạ thịnh tình ...
Câu nói vừa chấm dứt, ngọn cương đao đã vung ra, một ánh thép xé ngang đỉnh đầu Quan Sơn Nguyệt ...
Là một anh hùng từng được liệt vào hàng thứ nhất trong các cao thủ võ lâm hiện đại, ngọn đao răng cưa của Cốc Lượng nặng ngót sáu trăm cân, cộng với nội lực một đời rèn luyện làm cho sức đi của nó vừa nhanh vừa nặng phi thường ...
Tất cả những kẻ có mặt nín hơi chờ đợi ...
Mọi người đều hồi hộp lạ thường, là một truyền nhân của Minh Đà Lệnh Chủ và nhất là từ lúc xuất hiện đến giờ, gã thanh niên mang tên Quan Sơn Nguyệt vẫn một mực ung dung, thái độ đó chứng tỏ con người có nhiều bản lãnh ... Và bây giờ dưới ngọn đao của Kim Sa Bảo chủ, chân tài, thực học của gã phải được chứng minh. Mọi người tập trung nhãn lực vào mặt hắn ...
Quan Sơn Nguyệt vẫn giữ nụ cười nửa miệng, hắn cầm pho tượng bằng đồng đưa ra nhè nhẹ ...
Chương «Cỗn ...!» Một tiếng khua không lớn lắm nhưng tay đao ngàn cân của Kim Sa Bảo chủ bị hóa giải cách cách như không!
Cốc Lượng lùi lại nửa bước vì phản ứng hơn là bị dội ông ta nặng mặt nhưng lại vụt cười ha hả:
– À, thì ra ỷ vào cái tiểu xảo của tà môn ấy, thảo nào ngươi lại chẳng có thái độ ngông cuồng ... Hãy đỡ chiêu thứ hai đây!
Tiếng người xao náo chung quanh, tiếng xao náo hàm hai ý nghĩa:
cao hứng và thất vọng. Họ cảm thấy sức của Quan Sơn Nguyệt cũng chỉ có chừng hạn đó, Độc Cô Minh chỉ truyền thụ cho hắn những chiêu thức xảo diệu năng về khoa trương hơn là có thực tài. Họ cao hứng vì sự sỉ nhục đã có cơ rửa sạch, nhưng họ không thất vọng vì Quan Sơn Nguyệt không thể đêm lại một trận đấu long trời lở đất mà họ ý thức ngay từ khi nhận được thư mời tụ hội của Minh Đà Lệnh.
Chỉ riêng có Thiếu Lâm Thống Thiền đại sư là có hơi thở khác, ai đứng gần ông ta và có chú tâm mới nghe được cái thở dài nhè nhẹ này.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười khoát tay:
– Cốc Bảo chủ, ông cho rằng tôi không đỡ nổi một chiêu kế tiếp nữa ư?
Cốc Lượng cười gằn:
– Năm Xưa, khi cùng Độc Cô Minh giao đấu, chỉ một chiêu đầu, binh khí của ta lập tức bị rơi. Cho dù bị bại nhưng trong lòng ta thán phục ...
Giọng Quan Sơn Nguyệt chợt trầm trầm:
– Năm xưa gia sư tại hạ đã lưu cho Bảo chủ chút thể diện, ông lại vì thế mà tưởng lầm rằng mình công lực cao thâm ... Không, tại hạ thì không thế, nếu Bảo chủ thấy không ngại thì chúng ta trao đổi binh khí giao đấu thử xem ...
Vừa nói, Quan Sơn Nguyệt vừa đưa thẳng hình nhân một chân bằng đồng về phía Cốc Lượng.
Khoảng cách hai người không xa lắm nên Quan Sơn Nguyệt vừa hơi thẳng tay là hình nhân đã sát đến gần bên. Cốc Lượng biến sắc vung ngọn đao lên đỡ.
Bằng một thủ pháp không ai nhìn kịp, tay trái của Quan Sơn Nguyệt đoạt phăng thanh đao của Cốc Lượng trong khi tay phải vẫn đưa tượng Kim Thần về phía ông ta.
Binh khí bị đoạt một cách quá thình lình làm Cốc Lượng giật mình hai tay chụp đại lấy hình đồng trên tay Quan Sơn Nguyệt.
Chương Quan Sơn Nguyệt buông tay mỉm cười ...
Hai tay nắm tượng Kim Thần của Cốc Lượng vụt nỗi gân vồng như quá sức, ông ta tái mặt run rẩy rồi thụt lui ... Và cuối cùng, không còn ráng được nữa, Cốc Lượng buông lỏng đôi tay, chiếc hình nhân bằng đồng đánh huỵch xuống đất lún sâu hơn phân nửa!
Quan Sơn Nguyệt ném thanh đao của Cốc Lượng ra xa và khom mình xuống nhặt lấy tượng Kim Thần, và nói bằng một giọng bình thường:
– Điều quan trọng là ông không nên lầm lẫn khi có người nhân nhượng, năm xưa, sư phụ tôi hất văng ngọn đao của ông chẳng qua là muốn lưu lại chút tình, chứ nếu người đánh trả lại một chiêu thì đừng nói thanh đao gãy, mà chính xương ông cũng biến ra thành từng mảnh nhỏ đấy.
Ai cũng biết câu nói của Quan Sơn Nguyệt một phần cũng có nói thật về công lực tôn sư của hắn, nhưng một phần lớn là nói ngay vào hoàn cảnh hiện tại, chỉ ngay về chiêu đầu hắn đã nhân nhượng vừa qua ...
Vị Bảo Chủ Kim Sa Bảo da mặt hãy còn xanh, ông ta nắm chặt đôi tay mím miệng thở dài:
– Được rồi, thôi kể từ nay trên chốn giang hồ, Kim Sa Bảo coi như tự xóa tan danh hiệu!
Rồi luôn cả thanh cương đao cũng không thềm nhặt lấy, Kim Sa Bảo chủ tung mình mất hút vào vùng bóng tối trong sa mạc.
Chỉ một chiêu đầu, chỉ một cách thay đổi về phương thức, hai người đã phân định xong thắng bại, sự việc diễn tiến quá nhanh làm cho những kẻ xung quanh vỡ mộng ... Những hứng thú của họ khi nãy tan như mây khói, và sự thất vọng lại có vẻ đậm hơn. Dĩ nhiên, sự thất vọng với một nội dung mới hẳn:
vừa thất vọng vừa lại kinh hoàng.
Từ nãy giờ đứng im bên cạnh Thống Thiền Đại Sư, Lữ Vô Úy, chưởng môn nhân phái Chung Nam lên tiếng:
– Năm xưa, khi lão phu cùng với Độc Cô Minh đấu kiếm, hắn đã dùng pho tượng đồng ấy giao đấu với lão phu hơn sáu mươi chiêu, cuối cùng khi bị bại, lão phu chỉ thấy bại về thủ pháp chứ không dè vật ấy lại nặng quá như thế!
Thống Thiền đại sư nhè nhẹ lắc đầu:
– Pho tượng Kim Thần ấy không biết đã rèn đúc nên bằng một hợp chất gì, lúc Độc Cô Minh đến Thiếu Lâm, tệ sư đệ «Đại Lực Thiền Sư» Ngộ Tịnh ra Chương nghinh chiến. Sư đệ Ngộ Tịnh sử dụng cây thiền trượng nặng lắm, cho nên cứ ngài ngại về pho tượng Kim Thần quá nhẹ sẽ không tương xứng, do đó, tệ sư đệ mới ân cần cảnh báo trước với Độc Cô Minh, hắn bèn đề nghị đem ra so thử, kết quả, thiền trượng của tệ sư đệ chỉ nặng non phân nửa chiếc Kim Thần!
Lữ Vô Úy trố mắt:
– Nghe nói thiền trượng của Đại Lực Thần Tăng nặng đến năm trăm cân, thế mà chỉ non nửa tượng Kim Thần như vậy pho tượng ấy có đến ngoài một ngàn cân?
Thống Thiền đại sư gật đầu:
– Nếu không lầm thì tượng Kim Thần ấy cũng phải ngót hai ngàn cân chứ không ít, thế mà gã thanh niên ấy lại cầm múa thong dong không chút chi gọi là gắng sức, xem thế đã biết rằng cuộc hội đêm nay, sự thất vọng của đa số người sẽ được gia tăng ...
Lữ Vô Úy cúi mặt thở dài :
Quan Sơn Nguyệt đảo đôi mắt lạnh lùng nhìn quanh khắp bốn bề:
– Kế tiếp Kim Sa Bảo chủ là vị nào đây nhỉ?
Không khí lặng im phăng phắc ...
Qua một lúc khá lâu, từ nhóm người phía trái, một thanh trường kiếm lóe lên, tiếp liền theo, một nữ trung niên bận áo màu xanh chậm rãi bước ra ... Dáng đi của người đàn bà áo xanh trông thật là dịu dàng uyển chuyển ...
Quan Sơn Nguyệt tươi cười:
– Các hạ có lẽ là «Thiên Mục Việt Nữ Kiếm» Hàn nữ hiệp?
Người bà áo xanh khẽ gật đầu:
– «Thiên Mục Môn» Hàn Như Ngọc Quan Sơn Nguyệt cười lên ánh mắt:
– Năm xưa gia sư đã «mượn» của Hàn nữ hiệp chiếc «Tử Kim Phượng Xoa» nhưng không bao giờ xem đó là một chiến lợi phẩm ... trong suốt một thời gian dài cho đến khi tạ thế, gia sư đã mân mê vật ấy bên mình, xem nó là vật kỷ niệm chung thân ...
Tuy đã tuổi trung niên, nhưng Hàn Như Ngọc vẫn còn là độc thân xử nữ, cho nên câu nói có vẻ hơi đùa cợt của Quan Sơn Nguyệt làm cho nàng đỏ mặt giận run:
Chương – Tiểu tử, ngươi không được nói càn ...
Thanh kiếm không đợi nói hết câu, ánh thép đã lóe lên xẹt xuống đỉnh đầu Quan Sơn Nguyệt ...
Bằng một cử chỉ nhẹ nhàng, Quan Sơn Nguyệt đưa chiếc Kim Thần khoa chậm nửa vòng hóa giải đường kiếm dữ dằn của Hàn Như Ngọc.
Kết quả trận thứ nhất của Cốc Lượng đủ cho mọi người ước độ được sức nặng của pho tượng Kim Thần, bây giờ họ chăm chú thấy Quan Sơn Nguyệt sử dụng quá nhẹ nhàng làm tất cả đều cảm thấy rợn lạnh ...
Đa số người có mặt công lực chỉ xấp xỉ với Kim Sa Bảo Chủ, họ đều cảm thấy trước rằng hai mươi năm nữa quả là thời gian ảo vọng ... Hai mươi năm trước đây, khi Độc Cô Minh thu lệnh phù tín vật của các môn phái, họ chỉ thấy đối phương công lực chỉ cao hơn một bậc, họ hy vọng trong thời gian hẹn ước, họ có thể gắng công tu luyện thì chuyện rửa nhục cũng không phải quá khó khăn. Họ không dè họ đã bị lừa.
Họ bị lừa hay là kẻ truyền nhân của Minh Đà Lệnh Chủ công lực vượt quá gia sư? Không một ai đoán chắc được điều đó cả, họ chỉ cảm thấy rằng họ đang đứng trước một bức tường không thể lung lay ... Bao nhiêu hy vọng trong suốt hai mươi năm trời bây giờ tiêu tan theo mây khói!
Cuộc đấu chợt kéo dài.
Hàn Như Ngọc vũ lộng thanh kiếm báu đã ngoài sáu mươi chiêu.
Sao lại có thể kéo dài hơn đến sáu mươi chiêu? Quan Sơn Nguyệt muốn biểu diễn sự dẻo dai đối với món binh khí kinh người hay là cố để cho mọi người có đủ thì giờ suy nghĩ? hay là hắn trở lại đúng y như sách lược dẫn dụ năm xưa của Minh Đà Lệnh Chủ?
Nhưng cho dù sách gì đi nữa, đứng trước hiểm cảnh, sự thất vọng vẫn như một đám mây xám nặng và chụp lên đầu các cao thủ võ lâm.
Cuộc chiến kéo dài thêm một lúc lâu, càng kéo dài ra thiên hạ càng ý thức rõ sự thất vọng của mình. Vô đầu, Hàn Như Ngọc tấn công chớp nhoáng, tấn công bằng tất cả chiêu số thuần thục nhất hiểm ác nhất của mình, bây giờ thì chiếc Kim Thần đã xoắn chặt không còn lấy một kẽ hở nào để cô ta có thể tấn công ...
Dù món binh khí nặng nề làm sợi dây trói buộc, khiến cho đối phương không chỗ phản công, cuộc chiến diễn ra trong tư thế của một con mèo vờn chuột ...
Chương Lữ Vô Úy nhích sát lại gần Thống Thiền đại sư và khẽ thở ra:
– Suốt cuộc đời xông xáo giang hồ, không biết bao nhiêu người đả dựa vào thế lực, vào bè phái để dựng cho mình một cái hư danh chỉ có nhìn tận mặt mới thấy được chân tài thực họ của Hàn Như Ngọc, so với Kim Sa Bảo chủ thì nữ hiệp họ Hàn quả là cao hơn một bực.. Thống Thiền đại sư khẽ gật đầu:
– «Việt Nữ Kiếm Pháp» khởi danh từ thuở Xuân Thu, đến nay đã ngót một trăm năm rồi đâu phải tầm thường, chỉ có điều làm cho bần tăng e ngại vì gã thanh niên này còn trội hơn Độc Cô Minh năm xưa một bậc ...
Lữ Vô Úy tỏ vẻ trầm ngâm:
– Hắn có thể là một kỳ tài, nhưng đã hơn sáu mươi hiệp trôi qua vẫn chưa phân định, riêng lão phu chưa thấy rõ lắm về thực học của hắn.
Thống Thiền đại sư lắc đầu nhè nhẹ:
– Đó là do Lữ huynh chỉ chú ý bên ngoài, điều cần phải thấu triệt là thanh kiếm của Hàn nữ hiệp chỉ bất quá hai mươi cân, trong khi đó tượng thần độc cước của gã thanh niên lại nặng trên dưới hai ngàn, nội về cân lượng không cân xứng đó cũng đủ nói lên một vấn đề quan trọng trong giao đấu.
Lữ Vô Úy gục gật đầu mím miệng làm thinh ...
Lim dim đôi mắt như cân nhắc một chuyện gì quan hệ, hồi lâu Thống Thiền đại sư nói tiếp:
– Suốt một trăm năm nay, hầu hết võ lâm đều mong yên tịnh, ai ai cũng cứ lo thủ phận mình, không ai buồn lo phát triển, nếu như không có việc Độc Cô Minh khích động thì có lẽ đời đời không ai biết được tài lực của ai, cho nên cuộc hội đêm nay, dù gì, bần tăng vẫn thấy là một điều lợi lớn ...
Lữ Vô úy vừa mở miệng định nói, chợt nghe một tiếng keng thật nhỏ khua lên trong trận đấu, thanh kiếm của Hàn Như Ngọc văng bắn ra xa và vị «Việt Nữ Kiếm» đứng một chỗ xụi lơ mặt như chàm đổ ...
Quan Sơn Nguyệt vòng tay cười tươi:
– Kính mừng Hàn nữ hiệp, qua hai mươi năm, «Việt Nữ Kiếm Pháp» quả nhiên tiến triển cao thâm, nếu chỉ bằng vào kiếm không mà luận, thì Hàn nữ hiệp được gọi là «Đệ nhất kiếm thủ võ lâm».
Sửng sốt một lúc khá lâu, Hàn Như Ngọc nói bằng một giọng yếu ớt:
Chương – Tiểu tử! Kể như ngươi đã thắng, nhưng ta mong ngươi hãy cố mà giữ chút đức trong lời lẽ ...
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu khoát tay chận câu nói của nàng:
– Nữ hiệp đã hiểu lầm câu nói của tôi, tôi không bao giờ chế riễu một cách vô ý thức như thế ấy đâu ... Kiếm vốn đứng đầu trong những món binh khí vắn, cũng như thương là chủ của loại binh khí dài, vắn không thể thắng dài, đó là một định lý và vì thế vạn bất đắc phải dùng đến thế «Trường Long Ngọa Lãng» trong «Lục Trầm Thương Pháp» tôi mới có thể đánh rơi thanh kiếm của nữ hiệp vừa rồi đấy. Xin nữ hiệp nên hiểu cho lời khen của tôi là một thán phục thật tình.
Hàn Như Ngọc quắc mắt:
– Bảo rằng không mỉa mai mà ngươi lại nói dùng binh khí ngăn chận của ngươi thay cho ngọn trường thương à?
Quan Sơn Nguyệt vẫn ôn tồn:
– Binh khí vốn không thay đổi, nhưng sự điều khiển là do ý muốn của con người, món binh khí của tiên sư để lại mà tại hạ đang dùng đây, có thể thành cây «Trượng Bác Xà Mâu» tùy theo người sử dụng.
Hàn Như Ngọc cúi xuống nhặt thanh kiếm và cất giọng hầm hầm:
– Được rồi, kể như ngươi giỏi đấy, và xin hẹn ba năm sau cũng bằng vào «Việt Nữ Kiếm Pháp» này, ta sẽ đến đây kết liễu sinh mạng của ngươi ...
Quan Sơn Nguyệt cười cởi mở:
– Tại hạ tin rằng sẽ có một ngày như thế, xin nữ hiệp cứ an lòng ...
Hàn Như Ngọc mím môi căm hận quăng mình vào bóng tối ...
Hai trận vừa qua và bằng vào món binh khí kinh hồn lăm lăm trên tay của Quan Sơn Nguyệt đã làm cho thiên hạ gần nghẹt thở, họ im lặng nhìn nhau thảng thốt ...
Gã thanh niên không nói nữa, hắn chỉ đưa mắt nhìn quanh chờ đợi.
Lặng thinh như thế là cả một vấn đề khó chịu, sự khó chịu ấy bắt buộc Lữ Vô Úy phải lên tiếng, tuy nhiên, với cương vị của Chưởng môn phái Chung Nam, ông ta thận trọng nói trước với nhà sư lãnh tụ Thiếu Lâm:
– Lão phu phải ra mặt thật thì phần bại đã thấy trước nhiều hơn, nhưng đã đợi hai mươi năm không lẽ bây giờ im lặng ...
Thống Thiền đại sư khoát tay:
Chương – Lữ huynh nán thêm chút nữa.
Lữ Vô Úy đưa mắt tỏ vẻ chưa hiểu ý.
Thống Thiền Đại Sư nói nhỏ:
– Đợt một chút nữa rồi sẽ tính, hình như ...
Thống Thiền chưa nói hết câu thì từ trong đám bước lách ra một vị trung niên ăn bận theo lối nho sĩ tay cầm quạt giấy phất phơ ...
Cao thủ võ lâm các phái xông tới chằm chặp vào, vì vị nho sỹ này rất lạ mặt đối với võ lâm.
Quan Sơn Nguyệt chớp ánh mắt lạnh lùng:
– Các hạ thuộc phái nào?
Người trung niên nho sĩ vẫn ung dung phe phẩy cây quạt giấy:
– Tại hạ ở Lục Chiêu Sơn.
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– À, thì ra là Lục Chiêu Sơn, Lạc Hồn Cốc, Khổng Cốc Chủ đây ư?
Người trung niên nho sĩ lắc đầu:
– Khổng Văn Thông là gia huynh, tại hạ tên Khổng Văn Kỷ.
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Thế lệnh huynh tại sao lại chẳng đi?
Khổng Văn Kỷ cười:
– Lúc huynh đài đưa Minh Đà Lệnh đến thì gia huynh đã biết huynh đài chỉ là truyền nhân của Minh Đà Lệnh chủ, cho nên gia huynh thấy rằng phái tại hạ đi là hợp lý.
Cao thủ các phái võ lâm càng chen lên hơn nữa, họ cố dòm cho tận mặt nhân vật Lạc Hồn Cốc, vì bang phái này rất là xa lạ, thiên hạ chỉ nghe danh chứ rất ít thấy lực lượng của họ, thỉnh thoảng có gặp Khổng Văn Thông đôi bận chứ không thấy họ khoa trương gì cả. Tuy vậy tiếng tăm của Lạc Hồn Cốc vẫn lan rộng qua sự đồn đãi của giới giang hồ. Nghe đâu môn phái này cả hành động lẫn võ công thảy đều thần bí, họ tạo lập một môn phái riêng và bí mật.
Thêm vào đó, cách nói của Khổng Văn Kỷ càng làm thiên hạ tò mò hơn nữa, họ đã chứng kiến thái độ ngạo mạn của Quan Sơn Nguyệt, cho dù hắn luôn lịch sự, nhưng vẫn ngạo nghễ, câu nói vừa rồi của Không Văn Kỷ như được trả miếng Chương thích đáng. Bằng vào đó, mọi người cảm thấy rất thỏa mãn, và nhất là đứng một thanh niên cuồng ngạo có thực tài, người dám nói như thế tự nhiên phải có nhiều bản lãnh, chứng tỏ có nắm được nhiều phần thắng chứ không phải ra mặt trong thế bức bách, hoặc cầu may.
Như không nghe thấy lối trả miếng của đối phương, Quan Sơn Nguyệt vẫn cứ ôn tồn:
– Như thế cũng hay, vậy chẳng hay huynh đài định dùng phương thức nào để thu lại «Tỵ Trần Chu» của quí Cốc?
Khổng Văn Kỷ hỏi lại:
– Năm Xưa Độc Cô Minh dùng phương thức gì để bức đoạt Tỵ Trần Chu nhỉ?
Quan Sơn Nguyệt chớp đôi mắt ngời ngời:
– Tại hạ không thể nào dám sánh với tiên sư, nhưng nếu huynh đài muốn dùng theo phương thức cũ thì tại hạ cũng xin cố gắng vậy ...
Khổng Văn Kỷ cười ha hả:
– Tốt lắm, Độc Cô Minh vốn là con người văn nhã thì không lẽ các hạ lại không có một cử chỉ tương tự hay sao?
Quan Sơn Nguyệt đưa tay lên miệng làm còi rít luôn hai tiếng, con lạc đà từ xa chạy lại ...
Bằng dáng điệu hết sức ung dung, Quan Sơn Nguyệt với tay lấy một cái túi da trên cổ Lạc Đà, và khi hắn mở túi ấy ra mùi thơm ngào ngạt ...
Mọi người xông tới, thì ra đó là một túi rượu mà hương thơm men bốc lên khiến cho các đệ tử Lưu Linh bắt nuốt nước bọt thèm thuồng ...
Trao túi rượu cho Khổng Văn kỷ, Quan Sơn Nguyệt nói:
– Giữa sa mạc thâm u rất khó mà tìm được rượu quí, tự nhiên không thể nào dám sánh với «Thu Phong Ngọc Lộ» của Lạc Hồn Cốc, huynh đài thử coi có dùng tạm được hay không?
Khổng Văn Kỷ cười ha hả:
– Được rồi, như thế thì quá được rồi ... thật không ngờ niên kỷ các hạ như thế mà tửu phẩm không kém Độc Cô Minh ... à, à mùi rượi này thơm quá có lẽ nó phải được cất bằng nước suối từ đỉnh Thiên Sơn đây ...
Quan Sơn Nguyệt cũng cười:
– Người của Lạc Hồn Cốc tự nhiên phải là bậc cao minh chắc «Dạ Quang Bôi» luôn có trong mình các hạ đấy chứ?
Lấy trong tay áo ra một cái chén ngọc nho nhỏ Khổng Văn Kỷ rót đầy chén rượu đưa lên:
– Tự nhiên là đệ có chuẩn bị sẵn sàng chứ, nào mời huynh đài ...
Ngồi xếp bằng trên mặt cát, Quan Sơn Nguyệt cười ha hả:
– Làm sao có thể được cùng nhau cho rượu bày dưới ánh trăng, chúng ta có thể gác bỏ thế sự để say với chị Hằng một bữa ... Nghe đâu năm xưa do Lạc Hồn Cốc ban rượu trước, vậy bây giờ xin y theo cung cách cũ cho nó có trước có sau.
Khổng Văn Kỷ mỉm cười đẩy nhẹ chén rượu lên không ... Y như có người bợ tay bên dưới, chén rượu từ từ xê dịch về hướng Quan Sơn Nguyệt rồi dừng hẳn lại ... Khổng Văn Kỷ lên tiếng:
– Xin thỉnh huynh đài.
Cùng một lượt với câu mời, họ Khổng vẫy nhẹ tay ... Chén rượu đang lơ lửng giữa không trung chợt lật ngang và một vòi rượu phun ra như một vòi rồng ...
Vẫn ngồi yên một chỗ, Quan Sơn Nguyệt lật ngửa bàn tay phẩy nhẹ trở lên.
Y như được lọc qua một búp sen, vòi rượu đang đà hướng về Quan Sơn Nguyệt vụt bay trở lại bắn ra tua tủa giống như một đám mưa.
Chỉ qua một cuộc trao đổi thật nhẹ nhàng như thế, cũng đủ làm cho quần hùng tán thưởng hoan hô, họ không biết năm xưa lúc Độc Cô Minh giao đấu với Khổng Văn Thông như thế nào, nhưng bằng vào hiện tại, Khổng Văn Kỷ và Quan Sơn Nguyệt đã chứng tỏ cho thấy đây không phải là loại tiểu xảo mà đôi bên đã thi triển một nội lực kinh người.
Khổng Văn Kỷ đang cười ha hả vụt trầm sắc mặt, đôi mắt hắn long lên xồng xộc và miệng vụt hé ra hít mạnh ... Vùng «mưa rượu» đang lờ đờ trên không bỗng gom lại trút thẳng vào mồm họ Khổng, không một giọt nào rơi rớt ra ngoài!
Trở lại tư thái tươi cười, Khổng Văn Kỷ «ngoắt» chén ngọc trở về nghiêng túi da rót ra đầy chén khác đưa ngang mặt:
– Quả không hổ là cao đệ của Minh Đà Lệnh Chủ, chiêu thứ nhất tại hạ xin nhận là thua, song cuộc hội ngày nay không phải dễ dàng có được, chẳng hay huynh đài có vui lòng cho phép kính chén thứ hai?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Khổng nhị tiên sinh quá khách sáo rồi đó, tại hạ đang chờ tiên sinh ở chén thứ hai đây!
Lữ Vô Úy hỏi nhỏ vị cao thủ Thiếu Lâm:
– Tại làm sao Khổng Văn Kỷ lại nhận là thua?
Thống Thiền đại sư mỉm cười:
– Lữ huynh không thấy rõ sao? Chén rượu trút thành một vòi, chứng tỏ nội lực tập trung một điểm, Quan Sơn Nguyệt phản kích biến vòi rượu thành một đám mưa, chứng tỏ nội lực tập trung bị đối phương phản kích, mà khi nội lực đối phương phân tán, thì mình chỉ còn đủ sức để gom lại thu hồi, như thế không nhận là thua thì còn gì nữa?
Lữ Vô Úy gật đầu tặc lưỡi:
– Tên tiểu tử tuổi nhỏ mà công lực thâm hậu như thế xem chừng hai mươi năm chờ đợi của chúng ta đã bị hoài công, cuộc hội đêm nay không có chút hy vọng gì đâu ...
Thống Thiền đại sư nghiêm giọng:
– Lữ huynh không nên quá bi quan như thế, cuộc diện chưa phải đi đến mức tuyệt vọng như thế ấy đâu. Theo chỗ bần tăng thấy thì hình như họ Khổng vẫn chưa thi triển hết những ngón ngầm, có chuyện lạ xảy ra bây giờ đấy.
Lữ Vô Úy lặng thinh nhìn sững vào đấu trường, câu nói của nhà sư Thiếu Lâm vừa rồi làm cho ông ta chú ý ...
Tia mắt của quần hào cũng bắt đầu nghiêng về phía Khổng Văn kỷ, những tia mắt ký thác về cuộc hội đêm nay.
Trong trận đấu ... rượu, song phương im lặng, hình như họ đang vận dụng trí thức của mình để quyết định cho vấn đề thắng bại trong một cuộc đấu không thấy dạng sắc máu nhưng đầy dẫy cam go ...
Đang trong tư thế trầm tư Khổng Văn Kỷ vụt mở bừng mắt và nói thật chậm:
– Tại hạ vừa mới nghĩ ra hai câu bất thành thi, do tức cảnh sinh tình, ngửa mong huynh đài chỉ giáo thêm cho?
Quan Sơn Nguyệt ngẩng mặt lên nhìn hắn:
– Thi của Khổng nhị tiên sinh thì nhất định phải là tuyệt tác, tại hạ rửa tai mà nghe vậy.
Khổng Văn Kỷ hai tay nâng chén rượu và cất giọng ngâm:
– Vô hạn hoàng sa thiên tải hận, bá chuyển tinh, hà kỷ độ thu ...
Ngâm dứt hai câu thơ, họ Khổng bung hai tay chén rượu bay thẳng đến trước mặt Quan Sơn Nguyệt ...
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
“«Vô hạn hoàng sa thiên tải hận, bá chuyển tinh hà kỷ độ thu», cát vàng mịt mịt ngàn năm hận, trăng sao mấy độ chuyển thu qua ...
Câu thơ với bối cảnh rõ ràng, thì ẩn ý của nó còn có gì thêm nữa?”.
Vầng trán thông minh của gã thanh niên hằn lên nhiều vết và chén rượu tuy chậm nhưng cũng đã đến ngay trước mặt rồi, gã đành phải đưa tay đón lấy:
– Tại hạ thật tình chưa hiểu được hết ý của Khổng nhị tiên sinh?
Khổng Văn Kỷ thản nhiên:
– Huynh đài cứ cạn chén rồi tự nhiên sẽ biết.
Quan Sơn Nguyệt làm một bài tính thật nhanh:
“Rượu là của mình, hắn rót ngay trước mặt, chén tuy của hắn nhưng hắn cũng đã uống rồi, cho dù có muốn, hắn cũng khó lòng giở trò gì được ... Chỉ có điều hơi lạ là rượu đã tống sang, tại sao bàn tay của họ khổng cứ xòe ra và đưa về phía trước? Hắn định múa rối đây chăng?”.
Bàn tay vừa đụng vào chén rượu, Quan Sơn Nguyệt chợt «à» một tiếng mỉm cười:
– «Nam Minh Ly Hỏa Thần Công» thảo nào ... Chân khí của Khổng nhị tiên sinh quả đã đến độ thuần thanh!
Chén rượu trên tay của Quan Sơn Nguyệt cứ hừng hừng như đang bắt trên lò lửa và hơi rượu bốc lên càng phút càng tăng ... Cuối cùng, Quan Sơn Nguyệt lật tay trút chén rượu xuống đất, chén rượu khô queo không còn một giọt!
Cách một khoảng xa mà có thể vận dụng nhiệt khí để làm cho bốc hơi cạn rượu, lời khen của Quan Sơn nguyệt là một lời khen thành thật và quần hùng vây quanh đã nhón gót xuýt xoa, nhiếu tiếng vỗ tay tán thưởng thần công của họ Khổng. Ai cũng nghĩ rằng gã thanh niên cuồng ngạo đã bị một vố ngỡ ngàng ...
Nhưng, Quan Sơn Nguyệt vẫn điềm nhiên:
– Thần công của Khổng nhị tiên sinh quả đã hơn người. Chỉ riêng hai câu thơ, tại hạ vẫn chưa nhận ra điều lạ?
Khổng Văn Kỷ cười nhạt:
– Nếu huynh đài có thể uống cạn chén rượu ... không đó thì kể như là thấu trọn hai câu thơ non nớt của tại hạ ngay.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười ngẩng mặt nhìn lên không và chợt nói:
– A, trời trong sáng không có lấy một áng mây, thế mà sao lại có mưa rào ...
Bị câu nói không đầu không đuôi của Quan Sơn Nguyệt thu hút, quần hào ngẩng mặt lên nhìn ...
Thật là lạ lùng, ngay khoảng không chính giữa đỉnh đầu của Quan Sơn Nguyệt bỗng nhiên có một bựng mù mù y như một đám sương, đám sương ấy lần lần gom lại và cuối cùng tạo thành một vòi nước nhỏ từ trên trút xuống ...
Một người dùng nhiệt lực từ một khoảng cách có thể làm cho rượu bốc thành hơi cạn chén đã là một chuyện dị thường; bây giờ, lại có người vận dụng «Lãnh khí» khiến cho hơi rượu vừa bốc lên tụ lại ngưng đọng thành mưa rơi xuống, mà lại gom thành giọt thì quả là chuyện ngoài sức tường tượng ...
Tán thưởng Khổng Văn Kỷ bao nhiêu, bây giờ quần hào quay qua hoan nghinh gã thanh niên nhiệt liệt ...
Quan Sơn Nguyệt hé miệng đón hết vừng «mưa rượu» và bật cười ha hả:
– Nhờ đức tiên sư, tại hạ cố thực hiện hai câu thơ của cổ nhân «Thiên kim táng tận hoàn phục lai. Đản nguyện trường túy bất nguyện tỉnh» ... Chẳng hay Khổng nhị tiên sinh quan lãm như thế nào?
Khổng Văn Kỷ cũng cười lớn:
– Làm thơ là Lý Bạch, mà giải nổi thâm ý của câu thơ thần diệu ấy lại là các hạ, nhưng, mong rằng các hạ đừng nên «trường túy» mà phải hết sức tỉnh táo để nghe cho kỹ mùi vị của chén rượu vừa rồi ...
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Trong chén rượu ấy ...
Khổng Văn Kỷ khoát tay:
– Không, rượu vốn của huynh đài mang tới tại hạ chỉ thoa thêm vào cái chén ấy chút ít chất liệu để cho nó thêm duyên thế thôi mà!
Quan Sơn Nguyệt gặn lại:
– Chất liệu gì?
Khổng Văn Kỷ nở nụ cười hiểm ác:
– Hai câu thơ tức cảnh của tại hạ khi nãy ấy mà ...
Đứng thẳng dậy ném cái chén đang cầm trong tay, Quan Sơn Nguyệt lập lại câu thơ nho nhỏ:
– Vô hạn hoàng sa thiên tải vận, bá chuyển tinh hà kỷ độ thu ...
Vầng trán thông minh của gã thanh niên vụt lấm tấm mồ hôi ...
Khổng Văn Kỷ cười ha hả:
– Tại hạ nghĩ rằng kẻ truyền nhân của Minh Đà Lệnh Chủ không chuyện chi không biết, nào dè chút xíu thế mà lại hàm hồ, đã thế, tại hạ xin nói thẳng:
trong cái chén ấy tại hạ chỉ trét phớt thật mỏng «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa», chỉ phớt một lớp mong mỏng thôi, cũng đủ để anh hùng sa mạc mang lấy «Thiên cổ hận» ...
Quan Sơn Nguyệt tái mặt, đưa tay lên miệng làm còi rít lên mấy tiếng, con Lạc Đà từ xa chạy lại ... Với tay lấy bọc vải trên lưng Lạc Đà, và sau khi đem hết những tín vật trong túi bỏ hết xuống mặt cát, Quan Sơn nguyệt nhảy lên lưng con thú nhìn quanh bốn phía, gượng cười:
– Tín vật của các vị, tại hạ đã để lại đầy đủ tất cả, xin các vị vui lòng thân tự lựa lấy của mình ...
Quần hào ngơ ngác nhìn nhau, cuộc diện diễn biến thật quá bất ngờ, tự họ, họ cũng không biết phản ứng ra sao cho phải lẽ ...
Chờ cho bóng của Quan Sơn Nguyệt khuất lặn vào bóng tối xa, Khổng Văn Kỷ mới tiến lên nhặt lấy tín vật của mình, nhìn khắp mặt quần hào hé nụ cười đanh ác:
– Nhờ phúc đức của chư bằng hữu, đệ đã thắng được thằng oắt con quỉ quái ấy, vậy xin chư huynh đệ hãy đến nhận lại tín vật của bang phái mình đi!
Lặng im một lúc khá lâu, trong cao thủ mới bắt đầu có người nhích bước. Họ tiến ra nhặt lấy tín vật với thái độ cực kỳ miễn cưỡng.
Chung Nam Chưởng môn Lữ Vô Úy thở ra:
– Thật không dè cuộc hội đêm nay lại có thể chung kết như thế này!
Thống Thiền đại sư mỉm miệng lắc đầu, ông ta chỉ ra hiệu cho môn hạ ra nhặt tín vật mà lòng nghe buồn bã.
Người có vẻ tươi hơn hết có lẽ là Kim Sa Bảo chủ Cốc Lượng, người mà thiên hạ tưởng đâu đã bỏ về chứ không ngờ vẫn láng cháng trong bóng tối ... Ông ta, nói với họ Khổng bằng lời trang trọng:
– Khổng nhị tiên sinh, thay mặt cho quần hùng để thu lại tín vật, nhất là riêng đối với lão phu thì sự cảm kích không sao lường được, chỉ có điều ... có điều để cho hắn đi như thế thì e rằng chúng ta vấp phải chuyện thả cọp về rừng ...
Khổng Văn Kỷ cười ha hả:
– Cốc huynh cứ yên chí lớn, không thể quá sáu tiếng đồng hồ, tại vùng sa mạc này sẽ có một chiếc thây đổ xuống rã ra thành nước, và quyển sổ di trú của nhân vật võ lâm nơi địa phủ sẽ có tên Quan Sơn Nguyệt điền vào. Đệ bảo đảm một trăm phần trăm là như thế.
Cốc Lượng trố mắt:
– «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» là vật chi mà lợi hại như thế?
Khổng Văn Kỷ cất giọng cười đắc ý:
– Nó là thứ độc dược trên đời có một, nó là một loại giống như dây mây đặc biệt sản xuất ở tận đỉnh Hoàng Hà, gốc của nó có những củ tròn tròn dính quanh theo rễ, dùng chất nước bên trong chế thành một thứ độc dược không mùi không sắc ... À quên, nó là một thứ thuốc trị phong thấp, tê thấp cực kỳ công hiệu ...
Cốc lượng càng kinh ngạc hơn nữa:
– Như thế thì tại sao hắn lại ...
Khổng Văn Kỷ mỉm cười nham hiểm:
– Một giọt là thuốc tiên, mười giọt thuốc độc, riêng dung lượng thoa nơi chén ấy đủ sức giết một lượt mười người. Loại thuốc này ngấm lẹ lắm chỉ trong nháy mắt đã luồn vào trong máu và tự nhiên không làm sao trị được.
Cốc Lượng gật gù và vụt nhớ ra gặng lại:
– Nhưng chính Khổng Nhị Tiên Sinh cũng đã uống nơi chén ấy ...
Khổng Văn Kỷ hất mắt dương dương tự đắc:
– «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» là chất rất khó hoà tan nếu không có hơi nóng, đệ uống là rượu lạnh thì làm sao trúng độc cho được!
Cốc Lượng vỗ tay:
– À ... thì ra vụ cách không vận nhiệt khí là nhằm vào việc đó ...
Khổng Văn Kỷ cười lớn:
– Hắn tuy tuổi nhỏ nhưng thằng oắt con ấy dễ dầu gì mà lừa được, nếu không có một thủ đoạn thật cao ... tại hạ biết «Ly Hỏa Thần Công» chỉ để làm huê dạng để mà hoà tan chất thuốc, và khi hắn dùng «Lãnh Khí qui nguyên» thì thuốc đã tan vào rượu cả rồi.
Cốc Lượng xuýt xoa:
– Thật là thần cơ diệu toán ... Các phái thu hồi được tín vật ngày hôm nay phải kể là công đức lớn lao của Khổng nhị tiên sinh!
Khổng Văn Kỷ xua tay:
– Ồ, đó là Cốc Bảo chủ quá khen cho, tại hạ chẳng qua thấy thời cơ thuận tiện đem chút tài mọn thế chư vị đỡ nhọc công thế thôi. Vả lại, Lạc Hồn Cốc xưa nay vốn là nơi hoang dã, hy vọng nhân dịp này được cùng với chư vị cao minh kết chút thâm tình. Khi nào có dịp, chúng tôi sẽ cung thỉnh chư vị quá bước đến đấy một phen, chắc quí vị niệm tình không từ chối!
Cốc Lượng cười hè hè:
– Khổng nhị tiên sinh thật quá khiêm nhường, suốt hai mươi năm nay võ lâm chúng ta giống như bị mắc một cục xương nghẹn ngang cuống họng, hôm nay nhờ Khổng nhị tiên sinh cho thuốc tiêu tan thì bằng hữu võ lâm phải nhớ ơn ấy phải cùng với quí Cốc liên lạc để kết tình giao hảo ... nhất định trong vòng ít ngày tới đây tại hạ sẽ thân hành đến bái viếng Cốc chủ với Khổng nhị tiên sinh!
Trong lúc Cốc Lượng ba hoa tâng bốc thì có một số trong quần hào cũng xúm lại phụ họa theo.
Hình như sợ câu chuyện kéo dài đâm lợt lạt Khổng Văn Kỷ vội vã vòng tay:
– Chuyện lớn đã xong rồi, tại hạ xin phép chư vị cho lui trước để về phục lệnh gia huynh!
Cốc Lượng cúi rạp mình:
– Không dám, xin Khổng nhị tiên sinh hãy cứ tự tiện vậy.
Bọn phụ họa nãy giờ hùa lên vái chào khúm núm, họ Khổng gật gật đầu khoát tay kiêu hãnh bước đi. Quần hào cũng bắt đầu phân tán, bóng người nơi sa mạc thưa dần, thấy Thống Thiền đại sư đứng sững một chỗ dáng sắc trầm tư, Lữ Vô Úy khẽ hỏi:
– Hình như Đại sư có điều chi cảm khái?
Thống Thiền đại sư thở dài:
– Bần tăng không biết đây có phải bắt đầu cho giai đoạn thái bình, hay triệu chứng của võ lâm biến loạn?
Lữ Vô Úy ngạc nhiên:
– Đại sư nói câu ấy với ý chi?
Thống Thiền đại sư đáp bằng một giọng trầm trầm:
– Thật ra thì cũng không có gì làm căn cứ, cũng mong rằng điều mà bần tăng linh cảm ấy sẽ không thành sự thật ...
Trầm ngâm khoảnh khắc, Lữ Vô Úy khẽ gục gật đầu:
– Lời của Chưởng môn khiến cho lão phu cũng đồng dự cảm, có lẽ cuộc hội ngày nay manh nha mộng bá chủ võ lâm của Lạc Hồn Cốc, cho nên dù gã họ Khổng đã thu lại cho chúng ta tín vật, nhưng đối với gã lão phu chẳng có cảm tình.
Thống Thiền đại sư lại khẽ thở dài chào vị Chưởng môn phái Chung Nam rồi vẫy tay cho môn đệ quay về ...
Cuộc hội tưởng chừng như kinh thiên động địa kết thúc trong màu trời ảm đạm. Mọi người đã thành công nhưng đều cảm nghe như tiêng tiếc, gã thanh niên như một vì sao sáng đến đột ngột rồi đi một cách thình lình, tất cả đều vội vàng nhưng vẫn để lại trên vùng sa mạc vừng hào quang sáng chói ... Hắn đã đi rồi, ngày mai của hắn không ai biết sẽ ra sao, dấu vết của hắn trên mặt đất cũng bị gió vô tình cuốn mất, nhưng những cái tên:
Minh Đà Lệnh Chủ, Độc Cô Minh, Quan Sơn Nguyệt ... lại thành ký ức bất dịch trong tâm khảm của thiên hạ võ lâm ...
–––– oo –––– Gió phần phật cuốn lên từng bựng cát, cả sa mạc mù mù chìm trong hình ảnh mông lung ...
«Keng! Keng!» Tiếng chuông lạc đà buông rơi trong gió hú. Nó là tiếng duy nhất như nhắc nhở sự hiện hữu vì bóng dáng con người đã trở thành lạc lõng mênh mông ...
Bằng một dáng sắc cực kỳ uể oải, Quan Sơn Nguyệt mọp trên lưng con Lạc Đà suốt hai ngày. Suốt hai ngày đêm chịu đựng cho gan ruột cồn cào như lửa đốt.
Sự phát tác của «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» không một ai có thể sống qua bốn tiếng đồng hồ, nhưng bằng vào thể lực đặc biệt bẩm sinh trui luyện, hắn đã sống suốt hai ngày hai đêm và còn đang chịu đựng thêm lên nữa.
Hắn không kêu thành tiếng, nhưng đau thương thốn tận tâm tư:
“Ân sư ơi, con đã phụ lời ký thác của người rồi ... chịu bại dưới âm mưu hết sức tiểu nhân, con đã hủy hoại thanh danh của sư phụ, làm sao dưới cửu tuyền con dám nhìn thấy mặt thầy ...”.
Hắn muốn thét lên thật lớn để vơi đi niềm phẫn uất, nhưng cổ họng như đã bị cháy khô, hắn muốn vung tay cho chấn động cả vùng sa mạc, nhưng khí lực đã không còn nữa ... Nội lực gần như tiêu tan tất cả, nhưng tai hắn vẫn còn thính lắm, nghe gió chợt vang lên tiếng động, kinh nghiệm cho hắn biết đó là tiếng ngựa, đuổi theo từ phía sau lưng ...
“Ai! phải chăng bọn họ đuổi theo để kết liễu sinh mạng của mình?”.
Không! Hắn chỉ có thể vùi thây trong sa mạc, chứ không thể lọt vào tay họ.
Minh Đà Lệnh Chủ đời thứ hai không thể không thể dễ dàng chết dưới tay bọn vô danh tiểu tốt ...
Hắn muốn thúc Lạc Đà, hắn muốn vỗ lên lưng con Lạc Đà, nhưng hắn không còn đủ sức làm việc ấy, hắn cũng không nói được bằng lời, hắn chỉ tha thiết tự trong tim:
“Người bạn già ơi ngươi hãy ráng thêm chút nữa ... Minh Đà Lệnh Chủ tuy không thể chết vào tay kẻ địch, nhưng ta cũng chỉ là Lệnh chủ sau cùng ...”.
Bạch Đà, con vật có tâm linh hình như nó nghe thấu tiếng lòng, nó khịt khịt liên tiếp trong lỗ mũi và sải nhanh bốn vó ... Cát bụi cuốn lên từng cuộn bỏ lại đằng sau ...
Nghe thấy một điều an ủi lớn lao, Quan Sơn Nguyệt thở hắt một hơi dài:
“Bạn già, vẫn còn có được ngươi. Minh Đà quả nhiên bất lão nhưng, nhưng ta cũng đã phụ luôn ngươi, ta không còn bồi bạn cùng ngươi nữa được ...”.
Niềm vui heo hắt không được bao lâu, Quan Sơn Nguyệt chợt nghe hoảng hốt:
tiếng ngựa đằng sau mỗi lúc một gần, trong khi con Lạc Đà đã phi hết sức mau ...
Không, nó còn thể phi mau hơn nữa, hình như nó cảm biết được rằng kẻ cỡi trên lưng nó vị, vị chủ nhân của nó đã không còn đủ sức duy trì, chỉ còn nhanh thêm một chút nữa thôi, chủ nó sẽ ngã nhào xuống đất. Vì thế, nó chỉ chạy với sức còn gượng được ...
«Vút ... Vút ...» Tiếng roi từ phía sau rít vào không khí, và Quan Sơn Nguyệt chợt nghe tai ù mắt nặng, bị cánh tay người xốc bổng lên ...
Trong cái mông lung nửa tỉnh nữa mê, Quan Sơn Nguyệt chỉ thoáng thấy một khuôn mặt trắng hồng và hai bím tóc đen mướt chảy dài trên gò ngực vun cao, rồi hắn thiếp luôn không còn biết gì nữa ...
Không biết bao lâu, Quan Sơn Nguyệt giật mình tỉnh dậy, hắn thấy mình nằm trên bãi cỏ xanh um bên một lạch nước trong veo ...
Những kẻ sinh trưởng trên sa mạc, hầu hết đều mong mỏi được yên nghỉ trên bờ cỏ dựa dòng suối mát, cho nên việc đầu tiên khi tỉnh dậy, Quan Sơn Nguyệt có cảm tưởng rằng mình đã chết rồi ...
Hắn lẩm bẩm như lúc còn rong ruổi trên sa mạc, chỉ khác một điều là bây giờ tiếng nói phát ra một cách dễ dàng:
– Người ta bảo chết là đau đớn lắm, nhưng tại sao mình lại thấy có phần thoải mái ...
Một giọng cười thật nhẹ nhàng phát lên từ trên đỉnh đầu hắn:
– Thật là nằm mơ thấy quỉ, chết rồi thì làm sao còn biết được.
Quan Sơn Nguyệt giật mình ngẩng lên, hắn thấy một cô gái khoảng mười bảy mười tám tuổi, mặc theo sắc dân Du Mục, đôi mắt nàng đen ngời như hai hột nhãn trên khuôn mặt tròn tròn và hai biếm tóc đen tuyền chảy dài trên ngực đúng là hình bóng mà hắn thoáng thấy trước khi thiếp đi trên sa mạc. Hắn e dè hỏi nhỏ:
– Cô nương ... Tôi đang còn sống hay đã chết ...
Hắn hỏi chưa dứt tiếng, cô gái đã mở tròn đôi mắt chu miệng vùng vằng:
– Chết rồi, bây giờ đang thấy quỉ đó, quỉ là tôi đây nè!
Quan Sơn Nguyệt sửng sốt. “Đúng là cô gái giận dỗi nói lẫy, đúng là mình vẫn còn sống ...” Hắn thở ra nhè nhẹ:
– Xin cô nương đừng giận, vì mình mang trọng thương tôi nghĩ rằng phải chết, cho nên mới hồ đồ như thế ...
Cô gái vẫn còn hơi giận:
– Đã biết mình mang trọng thương thì tại sao nghe chúng tôi đuổi theo lại cứ chạy hoài? Tôi có phải là ăn cướp đâu? Dè vậy tôi chẳng thèm cứu ...
Quan Sơn Nguyệt gượng cười, không biết trả lời làm sao cho phải.
Cô gái đang định nói nữa chợt có một người đàn ông tuổi hơi quá trung niên từ sau bước tới trầm giọng:
– Thanh nhi, vị khách nhân này tuy đã uống «Thanh Độc Tán» nhưng chất độc vẫn chưa tan, không nên để y nói chuyện nhiều.
Vừa thoáng thấy bóng ông ta thì đã nghe huyệt linh đài tê điếng, nhưng trước khi mê man, hắn còn nghe thấp thoáng mấy câu đối đáp:
– Cha nè, hắn trúng độc gì thế? «Thanh Độc Tán» không giải được à?
– Đừng có hỏi nhiều làm rối trí cha, nó là một thứ độc dược đang khiêu chiến với cha đấy, hãy mang hắn về núi rồi cha nỗ lực xem sao ...
–––– oo –––– Dưới trủng Lục Chiêu Sơn, Lạc Hồn Cốc chủ gởi thiệp mời đại hội.
Do việc Khổng Văn Kỷ đầu độc được Quan Sơn Nguyệt thu hồi tín vật về cho các phái khiến cho hầu hết đại môn phái đều không thể từ chối lời mời, nhất là cuộc hội đó nhằm vào việc khánh thọ lục tuần cho Cốc chủ Khổng Văn Thông.
Lục Chiêu Sơn, nơi mà từ trước đến nay ít người biết tới, bỗng nhiên có hơi hám nổi thành vai trò lãnh đạo võ lâm, thiên hạ từ các nơi đổ xô về dự lễ lục tuần, Lẽ tự nhiên trong đó cũng có người bị buộc lòng phải tới.
Cũng không phải mới lần này, mà suốt ba năm nay, sau ngày các phái được thu hồi tín vật, ngày ngày đều có bọn dua bợ kéo nhau đến chầu hầu. Mà kẻ suốt sắng hơn hết phải kể là Kim Sa Bảo chủ Cốc Lượng. Người này vì có một vài tranh chấp cùng môn hạ, bất mãn với các đại môn phái, nên muốn nhờ vào thế lực của Lạc Hồn Cốc.
Các đại môn phái vì không muốn mang tiếng là vong ân đối với việc thu hồi tín vật, cho nên bất đắc dĩ cũng phải thân tự đi chúc thọ, do đó, Lạc Hồn Cốc bỗng trở nên náo nhiệt lạ thường.
Những năm gần đây, trong võ lâm không có xảy ra việc gì trọng đại, Cho nên khang thọ lục tuần nơi Lục Chiêu Sơn được xem là một thịnh hội tưng bừng.
Thọ nhật vào ngày mười bảy tháng chín, mười sáu là ngày tiên tịch, tân khách các nơi tề tựu đầy đủ.
Một khuôn trại mới dựng lên bàn ghế giăng giăng mười phần đã có hết tám phần lè nhè giọng rượu.
Kim Sa Bảo chủ Cốc Lượng hất bộ mặt đỏ gay đứng dậy cất giọng ồ ồ:
– Chư vị bằng hữu nè, ba năm trước đây nơi sa mạc, Khổng nhị tiên sinh chỉ bằng vào một chén rượu đã chế phục được Minh Đà Lệnh Chủ thay cho chúng ta thu hồi tín vật trở về, ân nghĩa đó, bằng hữu võ lâm ai lại chẳng ghi vào trong xương tủy ...
Hắn vừa mới nói tới đó, thì đã có người lộ vẻ không bằng lòng và hắn cũng tự thấy mình bợ đích quá kỹ cho nên vội gài câu chuyện:
– Thật ra đó cũng không phải là chuyện kinh thiên động địa gì cho lắm, song chỉ bằng vào sức của chúng ta thì cũng e khó mà đánh bại được tên oắt con Quan Sơn Nguyệt ấy.
Quả thật hắn đã khôn ngoan, vì câu nói bổ túc của hắn là một sự thật hiển nhiên không ai có thể phủ nhận, cho nên những người bất mãn cũng đành phải nuốt cơn tức tối làm thinh.
Ngưng giây lát chờ xem phản ứng, không thấy ai nói gì, Cốc Lượng đắc ý nói luôn:
– Ngày mai thọ nhật của Khổng Chủ, tại hạ có chuẩn bị chút lễ, gọi là thay mặt đồng đạo võ lâm, tỏ lòng quí kính đối Khổng Cốc chủ vậy ...
Nói vừa dứt câu, không đợi ai có ý kiến, Cốc Lượng đưa tay vẫy vẫy, lập tức bên ngoài có hai tên đại hán khiên vào một tấm hoành phi sơn son rực rỡ, với năm chữ thếp vàng lồ lộ:
«Thiên Hạ Đệ Nhất Gia»! Cốc Lượng cầm bức hoành phi nói lớn:
– Câu viết trên đây có lẽ chủ nhân Lạc Hồn Cốc nhận mà không thẹn, vậy xin mời chủ nhân ông vui lòng vì bằng hữu võ lâm mà tiếp nhận cho!
Ngồi song song với Tâm Thiền đại sư, Lữ Vô Úy không dằn được đứng lớn:
– Sao lại có chuyện dễ dàng như thế? Nên bảo đây là lễ chúc thọ của toàn thể võ lâm, thì ra toàn thể võ lâm đã nhận Khổng Cốc chủ đã là «Thiên Hạ Đệ Nhất Gia» sao? Danh hiệu ấy đâu có phải ai muốn cũng được dễ dàng như thế?
Là sư huynh của Thống Thiền, Tâm Thiền đại sư niên kỷ đã khá cao mà võ công vào hàng trượng thượng, Thiếu Lâm cử làm đại biểu chứng tỏ đã chọn người thận trọng, cho nên khi thấy Chưởng môn phái Chung Nam bắt đầu nổi nóng ông ta vội kéo vạt áo họ Lữ:
– Xin Lữ Chưởng môn hãy dành hơi sức. Bọn Cốc Lượng là lũ a dua nhưng hắn đã lựa đúng thời cơ để hành sự, vì ba năm trước đây chúng ta không thể phủ nhận việc thu hồi tín vật cho các phái là bằng vào một tay của Khổng Văn Kỷ ...
Lữ Vô Úy vẫn tỏ vẻ không bằng lòng:
– Nhưng nếu thu hồi bằng phương thức đó, thì tại hạ, chẳng thà để nó lại trong tay của Minh Đà Lệnh Chủ còn hơn ...
Tâm Thiền đại sư lắc đầu:
– Cái thắng của Khổng Văn Kỷ tuy không quang minh, nhưng bằng vào «cách không thấu nhiệt» làm hòa tan độc dược như thế, thì phải nhận rằng võ công của hắn cũng đã đến chỗ tuyệt luân đấy chứ.
Lữ Vô Úy quay phắt lại nhìn trừng trừng vào mặt Tâm Thiền:
– Là một môn phái từng lãnh đạo võ lâm, đại sư cũng cho rằng Lạc Hồn Cốc xứng là «Thiên hạ đệ nhất gia» sao?
Tâm Thiền đại sư khẽ thở ra:
– Người xuất gia tự nhiên đối với việc tranh danh đoạt lợi xem rất là lợt lạt, nhưng theo chỗ thấy và đáng ngại của bần tăng là Lạc Hồn Cốc được cái hư danh đó vẫn thấy là chưa đủ ...
Lữ Vô Úy cau mặt:
– Chúng còn muốn như thế nào nữa? Chẳng lẽ còn muốn chúng ta quì xuống mà dâng à?
Tâm Thiền đại sư lại thở dài:
– Nếu quì xuống mà có thể bảo toàn an ninh cho toàn thể thì có lẽ bần tăng cũng chẳng tiếc gì ...
Lữ Vô Úy tức tối đỏ mặt, ông ta cảm thấy vị hòa thượng này nhu nhược quá mức rồi, nhưng ngay khi đó thì tiếng vỗ tay đã làm khỏa lấp vì Khổng Văn Thông đã bước vào giữa tiệc chuẩn bị tiếp nhận hoành phi ...
Chờ cho tiếng hoan hô của những kẻ a dua dịu bớt Khổng Văn Thông trang trọng mỉm cười:
– Cốc huynh và bằng hữu có lòng thương mà đề tặng, nhưng tại hạ nghĩ rằng chuyện thu hồi tín vật ba năm về trước chẳng qua là chút công mọn đối với đồng đạo võ lâm chứ anh em chúng tôi nào dám nhận lấy thịnh danh ...
Cốc Lượng lật đật rống tiếng:
– Hầu hết bằng hữu võ lâm đều nhận rằng không còn ai cao minh hơn Khổng Cốc chủ nữa, xin Khổng Cốc chủ nhận cho để anh em được vui lòng!
Khổng Văn Thông điềm đạm mỉm cười:
– Nói thì tuy nói vậy, sự thật đệ không dám tự nhận mình là cao minh, cũng như những vị có mặt nơi đây có người không bằng lòng tự nhận mình là bất cao minh vậy mà ... không tin Cốc huynh cứ nhìn vào các bàn tiệc thì tất sẽ hiểu!
Cốc Lượng quay lại nhìn quanh bốn phía, quả nhiên có nhiều người lộ vẻ không bằng lòng. Trong chín môn phái lớn, trừ Thiếu Lâm sắc thái ôn hòa, còn hầu hết các Chưởng môn nhân và các đại biểu đều nhếch môi khinh khỉnh ... Vừa nhột nhạt vừa tức tối, Cốc Lượng cao giọng hầm hầm:
– Kẻ nào không tán thành là kẻ đó vong ân bội nghĩa!
Lữ Vô Úy nóng bừng mặt đứng lên:
– Họ Cốc ngươi là giống gì mà dám lớn lối trước quần hùng như thế?
Cốc Lượng bắt đầu nổi gân cổ nhưng Khổng Văn Thông đã đưa tay cản lại:
– Vì ngày sinh nhật mọn của đệ mà chư vị không quản đường xa lặn lội dến đây, đệ vô cùng cảm kích, xin chớ vì một việc nhỏ như thế làm mất niềm hòa khí ...
Trước đệ xin kính chư vị một chén rượu nhạt để gọi là thịnh tình ...
Vừa nói, vị chủ nhân Lạc Hồn Cốc vừa vỗ tay:
– Bay đâu!
Từ phía ngoài rạp, bốn tên gia nhân lực lưỡng dùng dòn lớn khiêng vào một ché rượu màu hồng. Ché rượu cao xấp xỉ đầu người, vòng tròn của nó hai người ôm không giáp. Ché rượu để xuống xong, lại do hai tên khác họp lực khiêng nắp ra, mùi rượu xông lên phưng phức ...
Dùng bàn tay phải chận trên miệng chén rượu, Khổng Văn Thông mỉm cười nhìn quanh bốn phía:
– Bằng hữu quá đông, không làm sao thân tự rót từng chén một, tại hạ xin mạn phép tạm dùng cách này để mời mỗi vị một chén cho trọn tình, mong chư vị thương mà lượng thứ ...
Nói vừa dứt câu, Khổng Văn Thông nhấc bàn tay chận trên miệng chén đưa nhẹ một vòng trước mặt trong dáng cách mời trang trọng, nhưng ngay khi đó từ trong miệng chén một vòi rượu bắn vọt lên trông y như một cây trụ nước ...
Lên gần tới nóc rạp, «cây rượu» vụt tóe ra như một ngọn pháo bông, những tia bông ấy lại nhiễu đúng vào chén không đang đặt trước mặt của từng người khách một ...
Hay nhất là rượu chỉ vừa đầy chén chứ không hề rơi ra ngoài một giọt nào!
Một tràng pháo tay nổi lên như sấm, lẽ tự nhiên người phát pháo vẫn là Kim Sa Bảo chủ.
Một cái nhếch môi cười đắc ý nở lẹ trên môi, Khổng Văn Thông vòng tay chầm chậm quay quanh:
– Thật là đắc tội, xin mời chư vị nâng chén cho vui!
Một lần nữa Kim Sa Bảo chủ Cốc Lượng hai tay nâng bổng bức hoành phi đưa đến trước mặt họ Khổng:
– Khổng Cốc chủ quả thật là văn võ toàn tài, trên đời này chỉ có một chứ không hai ... bức hoành phi này e hãy còn quá khiêm tốn đối với tài ba cái thế ấy.
Xin Cốc chủ vui lòng chấp nhận, để tỏ ra rằng không phụ tấc lòng thành của bằng hữu các nơi!
Tất cả, thảy đều im lặng và vị Chưởng môn phái Chung Nam cúi mặt thở dài ...
Cố ý do dự chờ xem phản ứng một giây, Khổng Văn Thông đưa tay tiếp lấy:
– Cốc Bảo chủ và chư bằng hữu đã có thịnh tình, đệ cung kính bất như tòng mạng vậy!
Khổng Văn Thông trao bức hoành phi ra sau. Khổng Văn Kỷ bước lên đón lấy, đồng thời hắn tung thẳng lên trên ...
Theo lối «đà phong» bức hoành phi không bay đụng nóc rạp mà lại tà tà bay gắn vào tấm vách giữa nhà, không nghiêng không xéo, chứng tỏ công lực thôi phiên của họ Khổng cực kỳ chính xác.
Tiếp liền theo, bốn tên gia nhân lực lưỡng cầm bốn cây đinh to và bốn cây búa lớn nhảy lên chiếc bàn, đóng đinh bức hoành phi vô vách. Họ hành động thật rập rành ăn khớp, đúng là một hoạt cảnh đã được bố trí chu đáo từ đầu.
Tuy nhiên nhờ sự hướng dẫn của Kim Sa Bảo chủ, một màn vỗ tay nữa lại dậy lên khiến cho chuyện «xắp xếp» cũng có vẻ «tự nhiên» hết sức!
Lữ Vô Úy đỏ mặt tía tai hầm hầm đứng dậy, nhưng nhà sư già phái Thiếu Lâm đã vội nắm vạt áo ông ta giật giật liên hồi. Biết không cách nào hơn, vị Chưởng môn phái Chung Nam đành nghiến răng ngồi xuống ...
Cốc Lượng lại xung xăng bước tới mọp lưng:
– Bái thọ, bái thọ ... Xin thỉnh «Thọ Tinh Ông» ngự vị, để cho bằng hữu bốn phương ... chiêm lễ.
Đúng ra thì hắn muốn nói «bái lễ» nhưng kịp bắt gặp một số bộ mặt hầm hầm, trong đó tự nhiên là có Chưởng môn phái Chung Nam, vì thế hắn đành nén lòng giảm xuống một bậc gọi là «chiêm lễ».
Khổng Văn Kỷ lật đật vịn lấy Khổng Văn Thông, đẩy anh mình đứng lui vào ngay dưới tấm hoành phi, và như một cái máy đám học trò lễ xướng rập lên:
– Hồng chúc huy hoàng, cúc cung bá bái, phước như Đông hải, thọ tỷ Nam sơn!
Cốc Lượng lại châm ngòi, một tràng pháo tay nổ lên gần bể rạp.
Khổng Văn Thông nở nụ cười thỏa mãn, chấp tay chào bốn phía:
– Không dám, không dám ... Xin cảm tạ chư bằng hữu!
Vừa nói hắn vừa vái chào thêm một lần nữa, và khi ngẩng đầu lên họ Khổng chợt ngỡ ngàng ...
Hắn tưởng tượng trong lễ trang trọng như thế, tất cả tia mắt của thiên hạ sẽ đổ xô về phía mình, không dè khi ngẩng mặt lên thì bao nhiêu con mắt đều chăm chăm lên phía bức hoành phi bằng những tia nhìn kinh ngạc ...
Khổng Văn Kỷ quay lại ngước lên, hắn vụt trố mắt há mồm ngơ ngác ...
Không biết tự bao giờ, không biết ai đó đã dùng màu trắng viết thêm hai chữ nhỏ trên bức hoành phi thành ra là «Thiên hạ đệ nhất Minh Đà Gia».
Khổng Văn Thông kinh ngạc, thừ người ra một lúc, sau cùng trầm gương mặt hỏi qua cơn giận:
– Chẳng hay vị bằng hữu nào đùa cợt như thế?
Lão hỏi một lượt quanh lư bằng, chẳng ai đáp. Lão hỏi luôn mấy lượt nữa, quanh lư bằng vẫn im lặng, một sự im lặng nặng nề, những người hiện diện đều hoang mang lo ngại.
Khổng Văn Thông không còn che dấu niềm phẫn nộ, cất cao giọng, tiếp:
– Hôm nay là sinh nhật của tại hạ, với tấc lòng thành, tại hạ thỉnh các vị đến đây, chẳng qua chỉ mượn cái cớ có lễ mọn để tụ họp cùng các vị dùng chén rượu nhạt cho thỏa niềm khát vọng hào kiệt anh hùng, chứ nào dám nói đến sự mầng thượng thọ mà khoa trương huy hoàng, làm nhọc các vị vượt nghìn dặm xa để tỏ tình chiếu cố? Các vị đến, tại hạ cảm kích vô cùng, các vị không đến, tại hạ cũng chẳng dám oán hờn gì, trái lại còn thẹn lấy mình đức bạc, tài hèn, giao tình siển lậu. Giả như tại hạ có làm điều chi đắc tội với các vị thì các vị cứ đương diện trách cứ, tại hạ sửa mình ngay. Chứ còn đùa cợt như thế này thì thực ra có phần quá đáng!
Thốt xong một câu dài, lão biến sắc mặt tái xanh, lão lại nhìn quanh tân khách.
Ai ai cũng im lặng chẳng dám làm một cử động gì.
Bỗng đâu đây, hơi xa xa, có tiếng cười vang lên sang sảng, tiếng cười kéo dài, càng dài càng tỏ ra cái ngạo nghễ, thách thức.
Tất cả mọi người cùng giật mình, cùng hướng mắt về phía phát xuất ra tiếng cười.
Nơi phát ra tiếng cười là cuối hướng đông lư bằng, nơi đó có mấy bàn tiệc dành cho tân khách thuộc hạng nhì, hạng ba trên giang hồ. Nơi đó có một người đang đứng thẳng, người đó vận y phục vùng Quan Ngoại, một nam nhân tuổi tác trung niên, thân hình khôi vĩ.
Người trung niên đó, hoàn toàn xa lạ đối với mọi người, kể cả chủ nhân lẫn tân khách.
Một người thuộc hạng nhì, hạng ba trong võ lâm, lại dám buông tánh ngông cuồng đối với Khổng Văn Thông? Sự tình hết sức kỳ quái!
Khổng Văn Thông trầm giọng hỏi:
– Quý tánh cao danh của bằng hữu là chi.
Người trung niên cười nhạt:
– Trương Vân Trúc. Tổ phụ mấy đời cư ngụ tại Bắc Thiên Sơn. Bất quá chỉ là một tiểu tốt vô danh!
Khổng Văn Thông quan sát y một lúc, cố moi ký ức xem có nhận thức được y chăng, song lão đành chịu, bởi song phương hoàn toàn xa lạ với nhau, bình sanh lão chưa hề gặp y lần nào. Lão lạnh lùng hỏi tiếp:
– Vừa rồi Trương bằng hữu phát lên tràng cười như thế, vậy là có ý tứ gì?
Trương Vân Trúc bật cười ha hả:
– Hỏi về ý tứ, đáng lẽ phải hỏi nơi các hạ, chứ sao lại hỏi tại hạ? Cái ý tứ, riêng cũng được mà chung cũng được, nó như thế này:
Các hạ nói nhiều quá, nói trường giang đại hải, nói đến mê mẩn người nghe, nói đến cảm động người nghe, nhưng đó chỉ là lời nói thôi. Còn cái tâm của các hạ đang chứa bao nhiêu quỷ, nào ai biết được? Nếu cần nói đến ý tứ thì tại hạ muốn biết cái ý tứ chứa quỷ trong tâm của các hạ, chứ còn tràng cười của tại hạ nào có quan trọng chi đâu?
Khổng Văn Thông một lần nữa biến sắc mặt. Ánh mắt của lão ngời lên niềm hung ác, lão cao giọng thốt:
– Trương bằng hữu! Xin bằng hữu biết cho rằng hôm nay là ngày vui của tại hạ, cái ý của tại hạ là muốn cho tất cả đều vui, tại hạ không thích làm phiền lòng bất cứ ai giữa cuộc tiệc này. Nhưng, tại hạ thú thật, sự kiên nhẫn có giới hạn mà bằng hữu thì phủ nhận cái giới hạn đó. Cho nên, tại hạ tha thiết mong bằng hữu đừng bức bách tại hạ phải làm một việc mà tại hạ không muốn làm, tại hạ cố tránh.
Trương Vân Trúc cất tiếng cười vang:
– Khổng Cốc chủ ơi! Cốc chủ nói đúng quá! Hôm nay là ngày vui thực sự của Cốc chủ mà! Bởi vì, chẳng những quần hùng mừng thượng thọ cho Cốc chủ, mà lại còn quy tụ về đây sẵn sàng chịu sự khống chế của Cốc chủ. Người ta nói «phước bất trùng lai», song đối với Cốc chủ thì phước đã trùng lai rồi đó!
Khổng Văn Thông sôi giận quát:
– Nói nhảm! Cái tấm biển kia bất quá do đồng đạo võ lâm ái mộ mà tặng cho, chứ tại hạ nào dám dựa vào đó để khoác một hư danh?
Trương Vân Trúc cười nhẹ:
– Vật tặng phải không? Cốc chủ, tự động mà tặng hay do một uy hiếp nào đó mà có?
Y bật cười lớn, tiếp:
– Ha ha! Nếu chẳng có sự bức bách thì khi nào người ta lại phí công làm cái việc vẽ vời cho ngoại nhân?
Khổng Văn Thông, lượt thứ ba, biến sắc mặt. Ánh mắt của lão bốc ngời sát khí. Nhưng lão chưa kịp phát tác, Khổng Văn Kỷ đứng bên cạnh lão không dằn được tánh nóng, vụt bước tới, đồng thời y vung chưởng đáng sang Trương Vân Trúc. Chưởng kình phát ra rồi, y hét:
– Thất phu! Tiểu tốt vô danh! Ngươi từ đâu đến? Ngươi là ai? Dám ngang nhiên phá hoại cuộc vui của đại ca ta? Thế ngươi đã chán sống rồi phải không?
Y đánh ra một bàn tay, ai cũng tưởng là y phóng chưởng kình, song tay đi nửa chừng, y lại đổi chiêu thức. Thay vì phát chưởng, y đổi thành chỉ, bàn tay xòe hai ngón, hai ngón đó chọt thẳng vào ngực đối phương.
Quần hùng tại tiệc bất giác giật mình, nhận ra chiêu chỉ đó phát xuất vừa nhanh, vừa độc. Ai ai cũng cầm chắc một kẻ thuộc hạng nhì, hạng ba trong võ lâm phải chuốc khổ trước bào đệ của vị cốc chủ Lạc Hồn Cốc.
Nhưng trái lại với sự ức đoán của mọi người, Trương Vân Trúc chỉ lắc nhẹ bờ vai một chút. Bờ vai lệch qua một bên, ngực cũng chênh theo, chỉ lực của Khổng Văn Kỷ trượt ra ngoài.
Phải nhìn nhận bộ pháp của y rất vững vàng. Nếu là người nào khác, trượt đòn công đó hẳn phải chới với, và chới với là cầm như giao mạng sống cho đối phương.
Không. Khổng Văn Kỷ trụ bộ liền. Đồng thời gian, y biến chiêu ngay, bàn tay đánh ra lập tức thu về, rồi cùng một lúc với bàn tay kia, bay tới, một trên một dưới công vào hai nơi, một tại huyệt Thái Dương, một tại hông của Trương Vân Trúc.
Bị tấn công cùng một lượt ở cả hai bộ phận thượng và trung, giả như Trương Vân Trúc hụp xuống thì chỉ tránh được đòn trên và phải hứng một chưởng nơi hông. Trừ khi y nhào người sát mặt đất mới mong tránh khỏi cả hai đòn. Mà làm sao y nhào kịp nữa?
Song phương đã đứng sát bên nhau, Khổng Văn Kỷ lại xuất thủ quá nhanh, y không còn hụp mình xuống thấp được. Tân khách cầm chắc y phải khổ.
Thủ pháp của Khổng Văn Kỷ nhanh, động tác của y còn nhanh hơn một bậc.
Trong khi y uốn cong người tạt về phía hậu, y độ chừng Khổng Văn Kỷ đã đánh ra trọn đà tay, hai tay của họ Khổng giao thoi với nhau, tay nào đánh vào huyệt Thái Dương bay qua, tay nào đánh vào hông bay lại, bất thình lình Trương Vân Trúc như con trút vừa uốn mình lại tháo mình, từ chỗ lùi, vọt tới.
Đương nhiên y vọt thẳng người vào Khổng Văn Kỷ.
«Bình!» Chẳng biết y có xuất thủ hay không hay là y chỉ dùng cơ thể chạm cơ thể, Khổng Văn Kỷ bị tung bắn lên không, lộn cầu vòng về phía hậu xa hơn sáu thước, bờ vai hữu xệ xuống chừng như thọ thương khá nặng.
Khổng Văn Thông không chậm trể, «hừ» lên một tiếng, cấp tốc vung tay, tung chưởng từ phía sau lưng Trương Vân Trúc đánh tới. Chưởng kình tung ra không gây một âm thanh nào, nhưng thế đánh rất mạnh và đương nhiên rất nhanh.
Trương Vân Trúc tợ hồ không phòng bị. Mãi đến lúc chưởng thế đến sát người, y mới phát giác ra, song phát giác trong phút giây đó thì còn phản ứng quái gì kịp nữa?
Một tiếng «bịch» vang lên, Trương Vân Trúc nhào hớt về phía trước.
Bị ám kích như vậy và người ám kích lại là một Khổng Văn Thông, nhưng Trương Vân Trúc vẫn chẳng hề hấn chi cả. Nhào hớt về phía trước, y lạng người một chút như vẽ nửa vòng cung, bật đứng lên, vững chắc như thường. Y quay lại đối diện với Khổng Văn Thông, cười lạnh:
– Lão Khổng ơi! Hãy nhớ cái chưởng hôm nay nhé! Nhớ một ngày nào đó, tại hạ sẽ thanh toán đàng hoàng, tại hạ chẳng thích nợ của ai, bất cứ nợ về cái chi. Thực ra thì tại hạ không mang cái nợ bất đắc dĩ này, một món nợ người ta nhân cái lúc tại hạ quay lưng mà quăng lén vào lưng! Một món nợ do con người quang minh chánh đại nhất trần đời, chuyên môn đánh lén, cưởng bách tại hạ phải nhận! Từ nay, trên giang hồ, mỗi khi nghĩ đến tư cách của một con người quang minh chánh đại, thiên hạ phải biết ngay chính những người chuyên môn đánh lén mới là chánh nhân quân tử!
Khổng Văn Thông thẹn đỏ mặt. Lão vừa thẹn vừa uất tức mà cũng vừa kinh hãi.
Đánh lén, là một việc làm bất đắc dĩ, trong tình thế bất khả kháng này bắt buộc lão phải dùng, bất chấp lời phê phán của bao nhiêu người hiện diện.
Làm một cử động liều, song chẳng thành công, lão phải tức.
Ngoài ra, trên giang hồ, một kẻ nào đó tiếp được một chưởng của lão với năm thành lực thôi cũng là tay hữu hạng rồi. Giờ đây Trương Vân Trúc thay vì chưởng chạm chưởng, y đưa lưng hứng chưởng, như thử thách, như đo lường công lực lão, vậy mà y không thọ thương, hứng chưởng như vậy vẫn chẳng việc gì thì Trương Vân Trúc hẳn phải là tay phi phàm!
Lão phải sợ con người đối diện. Sự kiện này, bình sanh lão mới gặp lần thứ nhất.
Mọi sự kiện diễn tiến trên chỗ tưởng của Khổng Văn Thông mà cũng trên chỗ tưởng của tất cả tân khách.
Chẳng phải hôm nay Khổng Văn Thông mới nảy sanh cái ý chí tranh một chỗ đứng độc tôn trên giang hồ. Thực ra Lạc Hồn Cốc đã nuôi cái chí quật cường từ hai mươi năm về trước. Lúc đó, Khổng Văn Thông có cái mộng làm bá chủ võ lâm. Ẩn thân trong Lạc Hồn Cốc, lão điều tra từng nhân vật một hữu danh trong vũ lâm.
Muốn thành công, lão phải nắm vững tình hình võ lâm và điều trước tiên lão phải biết là thực lực của giang hồ như thế nào ... Giả như khi lão quật khởi tranh giành ngôi vị, bức bách quần hùng phải quy phục lão mà có một lực lượng liên minh chống đối thì ít nhất lão cũng có cách đánh tan lực lượng đó mới được chứ.
Qua cuộc điều tra ngầm, Khổng Văn Thông nhận ra trên giang hồ lúc đó, chẳng có một nhân vật nào đáng sợ đối với lão ta. Lão đắc chí vô cùng, tin chắc là cờ phất lên thì quyền uy phải đến, quần hùng phải khuất phục cúi đầu trước mặt lão, chịu mạng lịnh sai sử của lão. Lão chuẩn bị cuộc quật khởi, chỉ còn chờ ngày phát động đại cuộc thôi.
Ngờ đâu, đột nhiên trên giang hồ xuất hiện một nhân vật phi phàm. Nhân vật đó là Minh Đà Lệnh Chủ Độc Cô Minh, biết rõ cái dã tâm của Khổng Văn Thông, thách thức lão ta so tài, mượn một dịp thuận tiện, cảnh cáo lão nên an phận để giữ niềm hòa khí trong võ lâm đồng đạo, đừng gây nên sóng gió đang lúc giang hồ thanh tịnh.
Trong cuộc chiến đó Khổng Văn Thông thảm bại.
Cũng may, Độc Cô Minh chỉ muốn cảnh cáo thôi chứ không muốn sát hại, Khổng Văn Thông nhờ thế không thọ thương. Nhưng cũng nhờ cuộc chiến đó mà giang hồ được bình tịnh trong hai mươi năm dài, bởi Khổng Văn Thông từ sau ngày chiến bại đã lui về Lạc Hồn Cốc ẩn mình, không còn chường mặt trên giang hồ nữa.
Trong thời gian đó, lão chuyên tâm chú ý tập luyện ngày đêm, quyết tiến bộ một cách phi thường.
Ngày trước, tại đại hội Sa Mạc, Khổng Văn Thông cũng có mặt, song lão ta cải sửa dung mạo, hòa mình trong đám đông, để cho em trai lão là Khổng Văn Kỷ đại diện lão. Dự đại hội đó, lão có cái ý quan sát thực lực của hào kiệt anh hùng, nhận định nhân vật nào lợi hại, đáng được loại trừ trước, phòng chướng ngại sau này khi lão cử sự.
Sau lão lại bắt được một tin mừng là Độc Cô Minh đã tạ thế.
Độc Cô Minh chết rồi còn người đệ tử là Quan Sơn Nguyệt cũng lợi hại không kém gì sư phụ. Tuy nhiên, dù sao thì Quan Sơn Nguyệt cũng còn trẻ tuổi, kinh nghiệm giang hồ không dồi dào lắm, Khổng Văn Thông chỉ áp dụng một kế mọn, sát hại hắn dễ dàng trong một tiệc rượu với chất độc «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa».
Sau khi Độc Cô Minh và Quan Sơn Nguyệt chết rồi. Khổng Văn Thông cảm thấy con đường trước mắt rộng thênh thang không còn một chướng vật nào nữa.
Đúng vậy, trong võ lâm thời đó rất hiếm những tay tài giỏi khả dĩ đương đầu với Cốc Chủ Lạc Hồn Cốc Khổng Văn Thông. Tuy vậy, lão ta vẫn tăng cường thực lực, chưa vội vọng động.
Mãi đến năm trước đây, uy thế có phần hùng hậu, lão mới bắt đầu tái nhập giang hồ. Lão tìm người đồng chí hướng, kết giao khắp nơi, hoạch định chương trình cử đồ đại sự.
Và hôm nay nhân ngày mừng thọ được tròn sáu mươi tuổi, lão đạt giấy mời hào kiệt anh hùng đến chuốc chén với lão, mà cũng tuyên cáo trước võ lâm, từ nay lão quật khởi chí lớn, tạo dựng một cơ nghiệp hiển hách.
Thực ra thì phần đông hào kiệt chưa thấu đáo cái dã tâm của lão, bất quá chỉ có một số ít người, đối với lão không thuận ý đồng tình lắm, nên họ chưa thân mà cũng chẳng dám sơ, họ dè dặt đối với lão, chờ xem lần tái nhập giang hồ này, lão noi theo một tôn chỉ như thế nào.
Trong khi Khổng Văn Thông cầm chắc sự thành công thì đột nhiên Trương Vân Trúc xuất hiện. Người này là một kẻ vô danh, song tài của người này thì hẳn phi thường.
Trương Vân Trúc đương trường trách mắng lão như thế, tự nhiên lão phải sôi giận.
Trong số tân khách có mấy người cũng bất bình về hành động không quang minh của lão.
Ngày đầu tiên mà có điều bất lợi như vậy thì lão làm sao thu phục được nhân tâm?
Dù cái tài của lão có trùm thiên hạ, ít nhất lòng người phải theo về lão một phần lớn thì cơ nghiệp tạo dựng nên mới vững bền, chứ nhơn bất hòa cho dù thời trời thuận và địa thế lợi thì lão cũng chẳng mong gì hưởng dụng lâu dài, và biến cố chực chờ phát sanh, thành ra lão có ăn ngon ngủ kỹ trên lợi lộc danh vọng được đâu? Cho nên, bằng mọi cách, lão phải tiêu diệt kẻ phá đời họ Trương này, bởi y là mầm hoạn họa đe dọa an toàn của lão từ đây về sau.
Lão hết sức hổ thẹn trước quần hùng. Nhưng là hồ ly tất phải gian hoạt, lão chưa phát tác vội vàng, chỉ trầm giọng hỏi:
– Công phu tu vi của bằng hữu, tại hạ hết sức khâm phục, với tài nghệ đó thiết tưởng tạo dựng danh nghiệp trên giang hồ, chẳng phải là sự khó khăn đối với bằng hữu, tại sao bằng hữu không nhìn về tương lai xán lạn đang chờ mà lại tìm đến tại hạ sanh điều phiền phức cho nhau, lại ngay trong ngày vui của tại hạ?
Trương Vân Trúc cười lạnh:
– Sở dĩ tại hạ học múa tay xoay chân là để duy trì sức khỏe kéo dài cõi thọ, chứ học võ đối với tại hạ chẳng phải để tạo một phương tiện giúp mình leo thang danh vọng. Còn như hôm nay tại hạ có mặt tại đây là điều vạn bất đắc dĩ đó, Cốc chủ! Dù có gây phiền phức cho Cốc chủ thì cũng đành vậy chứ biết sao? Bởi vì, tại hạ chẳng muốn cái ngày mừng thọ của Cốc chủ lại biến thành ngày cúng giỗ bao nhiêu người hiện diện trong tiệc rượu.
Khổng Văn Thông biến sắc mặt, không còn giữ lễ độ nữa, hét:
– Hồ đồ! Sao ngươi dám nói thế? Thực sự ngươi muốn gì?
Trương Vân Trúc ung dung tiếp:
– Hồ đồ đối với những người chưa biết cái thủ đoạn của các hạ, chứ chẳng hồ đồ đối với các hạ tí nào! Thực ra thì chất độc «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» do các hạ bỏ vào rượu đó, chưa chắc làm cho toàn thể hào kiệt tại đây phải táng mạng. Mà dù cho các hạ có sát hại một vài người, điều đó chẳng giúp các hạ thực hiện nổi mưu đồ hiểm độc, trái lại còn gây công phẩn trong võ lâm, xúc nộ những người có thừa hiệp khí. Thiết tưởng đến lúc đó rồi các hạ có ăn năn cũng chẳng còn kịp nữa.
Câu nói đó phát ra làm cho toàn thể tân khách đều nhao nhao lên, chẳng một ai có thể ngờ rằng Khổng Văn Thông hạ độc trong rượu.
Chưởng môn nhân phái Chung Nam là Lữ Vô Úy vốn không thích Khổng Văn Thông, sôi giận cực độ, cấp tốc rời chỗ ngồi bước ra khỏi bàn tiệc, đưa tay chỉ thẳng vào mặt Khổng Văn Thông quát to:
– Ngươi có thể làm một điều vô sỉ được sao, Khổng Văn Thông? Ta tưởng da mặt của ngươi chẳng đến đổi quá dầy ...
Việc làm của lão hết sức bí mật, ngờ đâu Trương Vân Trúc lại biết được đem tiết lộ trước quần hùng. Khổng Văn Thông vô cùng kinh hãi, tuy nhiên lão phải giữ bình tĩnh để cứu vãn tình hình, lão cười lạnh thốt:
– Sao Lữ huynh nóng thế, chưa biết nguồn cơn thế nào, chưa biết thực hư như thế nào lại phát tác nặng lời mắng tại hạ? Dù trong rượu có độc, dược lượng cũng chẳng quan trọng lắm, không đến nổi làm cho các vị phải táng mạng.
Huống chi tại hạ có sẵn thuốc giải? Tại hạ khuyên Lữ huynh nên dằn cơn phẫn nộ, bởi khi trúng bất cứ loại độc nào, nếu giữ mình được trầm tĩnh thì chất độc chậm phát tác, trái lại nếu khích động dấy mạnh thì độc dược gấp sinh hiệu lực đấy! Nếu Lữ huynh không chịu nghe lời khuyên của tại hạ, nếu có xảy ra tai hại như thế nào thì Lữ huynh đừng oán trách tại hạ!
Nói như thế có khác nào Khổng Văn Thông thừa nhận những gì do Trương Vân Trúc vừa tiết lộ?
Những người không có cảm tình với lão đều lộ vẻ bất mãn, họ cùng đứng lên, gương mặt người nào cũng trầm trầm, niềm căm phẫn hiện lộ rõ rệt.
Có người nóng tính hất bay luôn bàn tiệc cho rộng chỗ, sẵn sàng giao thủ nếu có cuộc chiến xảy ra.
Và tất cả đều bước đến tạo thành một vòng vây quanh Khổng Văn Thông.
Dù vậy, Khổng Văn Thông không hề tỏ lộ sự sợ hãi.
Khổng Văn Kỷ gượng đau, bước tới đứng cạnh trưởng huynh, sẵn sàng can thiệp nếu quần hùng vọng động.
Cũng có một số người do Khổng Văn Thông mua chuộc, thấy tình hình nghiêm trọng vội bước đến đứng cạnh Khổng Văn Kỷ dàn thành cái thế đối lập với Lữ Vô Úy.
Do đó, vòng vây chưa thành hình đã phải biến ra trận tuyến đối chiếu với trận tuyến của Khổng Văn Thông.
Song phương đã dàn thành trận thế, đáng lý Trương Vân Trúc phải đứng về cánh Lữ Vô Úy, y lại tách riêng ra đứng một mình một góc. Y thản nhiên như chẳng quan tâm đến sự căng thẳng giữa đôi bên, y hướng sang Lữ Vô Úy nói:
– Lão ấy nói đúng đó, Lữ Chưởng môn. Tuyệt đối không nên khích động!
Lữ Vô Úy phẫn nộ vì hành vi đê tiện của Khổng Văn Thông mà cũng căm hờn luôn Trương Vân Trúc. Lão cao giọng trách:
– Các hạ cũng chẳng phải là người tốt chi đó, đã biết là trong rượu có độc lại chẳng chịu cho mọi người biết sớm, để khi tất cả đã uống rồi mới tiết lộ ra ...
Trương Vân Trúc cười hì hì:
– Nói sớm hay nói muộn chẳng phải là điều tất yếu. Bởi tánh mạng của các vị chẳng đáng ngại kia mà! Khổng Văn Thông chưa có ý sát hại các vị thì tại hạ nói sớm làm gì? Lão ấy chỉ muốn khống chế các vị thôi, lão có sẵn giải dược thì khi nào các vị lại chết được? Nhưng tại hạ xin nói rõ, giải dược đó chỉ có công hiệu ngăn chất độc phát tác liền và cứ mỗi sáu tháng các vị lại phải đến bái phục lão ta, xin giải dược, uống vào lại chi trì được sáu tháng nữa, rồi từ đó cứ mỗi sáu tháng các vị phải trình diện trước lão ta một lần, ai không đến mới thực sự bị nguy.
Các vị thấy đó, muốn bảo tồn sanh mạng các vị phải mỗi năm tìm đến lão hai lượt.
Như vậy còn ai dám phản kháng lão ta?
Lữ Vô Úy hét lên:
– Câm ngay! Khi nào ta lại bái phục lão quái vật đó?
Khổng Văn Thông cười lạnh một tiếng nhưng chẳng nói gì.
Trương Vân Trúc cười nhẹ:
– Lữ Chưởng môn xem thường sanh mạng quá. Các vị đều là những người có thân phận rất cao trong võ lâm, nếu khinh thường sanh mạng như vậy thì đại cuộc giang hồ sau này còn ai lo liệu nữa chứ?
Y dừng một chút, đoạn tiếp:
– Không khéo rồi đây họ Khổng sẽ trở thành bá chủ võ lâm, nắm quyền sanh sát trong tay đấy!
Lữ Vô Úy lại hét:
– Các hạ thực sự là ai? Các hạ có ý tứ gì? Thoạt nói thế này thoạt nói thế khác, phản ứng vô lường. Thế các hạ muốn toàn thể võ lâm phải khuất phục trước lão quái vật đó?
Trương Vân Trúc bật cười ha hả:
– Lữ Chưởng môn nóng nảy nên có ý nghĩ sai lầm! Tại hạ đương nhiên là đứng về cánh các vị, chẳng qua là từ trước đến nay tại hạ có một chủ trương khác lạ, minh bạch, trong bất cứ hành động nào, luôn luôn giữ cái thế độc lập, bởi có chủ trương độc lập nên chỉ bằng vào sức lực mình, tâm trí mình, phàm việc mình trước khi làm, đều xét đoán kỹ càng, do đó ít khi bị người ám toán như các vị từng bị ...
Lữ Vô Úy quát chận:
– Ngụy biện! Chứ các hạ không uống rượu của lão quái vật ấy à?
Trương Vân Trúc bật cười vang:
– Có uống chứ, nhưng tại hạ khác hơn các vị, tại hạ biết, song cố ý uống.
Còn các vị không biết, nên uống lầm.
Lữ Vô Úy giật mình:
– Các hạ cố ý uống loại rượu có chất «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa»?
Trương Vân Trúc gật đầu:
– Đúng vậy. Tại hạ cố ý uống, để tìm hiểu có con đường thứ ba nào chăng, ngoài hai con đường chết và khuất phục trước họ Khổng!
Khổng Văn Thông «hừ» lạnh một tiếng:
– Chẳng có con đường thứ ba, mà cũng chẳng có con đường thứ hai nào cả.
Ngươi chỉ có một con đường duy nhất, là chết. Ngươi phải chết! Mẫu người như ngươi, nếu sống sót là gieo tai rắc họa cho người đời chứ chẳng giúp ích gì cho ai cả. Dù ngươi bái phục trước mặt ta, ta cũng chẳng chấp nhận sự quỳ lụy đó!
Trương Vân Trúc bật cười ha hả:
– Đừng nuôi mộng, Khổng Cốc chủ ơi! Ba năm trước đây tại hạ từng uống phải chất «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» của Cốc chủ, thế mà tại hạ có chết đâu?
Hôm nay, Cốc chủ muốn dùng «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» sát hại tại hạ thì đúng là Cốc chủ nuôi mộng đó. Hiện tại, nếu Cốc chủ muốn giết tại hạ thì chỉ còn có cách dùng võ công của Cốc chủ mà thực hiện cái ý nguyện đó thôi!
Khổng Văn Thông biến sắc, hấp tấp hỏi:
– Ba năm trước? Thế ngươi là ...
Trương Vân Trúc bật cười ha hả.
Tràng cười của y vang dội chấn động cả tai những người hiện diện.
Vừa cười, y vừa đưa tay hất ngược chiếc mũ trên đầu về phía hậu, đồng thời y cũng vuốt mặt luôn.
Gương mặt của y, trước đó trắng nhợt giờ thì đen sạm, màu đen của gió bụi phong sương. Và hàm râu tạo cái vẻ trung niên cho y, sau khi rơi rụng rồi trả y về với lứa tuổi phong cương. Y nghiễm nhiên trở thành một thanh niên với già dặn của phong trần.
Toàn thể tân khách đều kêu lên kinh hãi. Tất cả đều buông gọn ba tiếng:
– Quan Sơn Nguyệt!
«Quan Sơn Nguyệt»! Cái tên đó còn khắc ghi rõ trong ký ức của mọi người.
Bởi cái tên đó xuất hiện trên giang hồ không lâu lắm, bất quá chỉ cách độ ba năm thôi. Con người mang cái tên đó, trước đây là thần long, là mãnh hổ vùng sa mạc.
Con người đó là truyền nhân duy nhất và đắc ý của Minh Đà Lệnh Chủ Độc Cô Minh.
Ba năm về trước, trúng độc «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa», bỗng nhiên y nhảy lên lưng bạch đà, vượt sa mạc, ra đi về một phương trời xa thẳm. Ai ai cũng nghĩ là y đã chết, bởi suốt thời gian ba năm y không trở lại giang hồ. Và những người có cái tâm hào hiệp đều luyến tiếc y sớm mạng một khi hoài bão một chân tài.
Giờ đây y trở lại. Y xuất hiện đúng lúc Cốc chủ Lạc Hồn Cốc Khổng Văn Thông đang mưu đồ quật khởi toan khống chế quần hùng, thực hiện dã tâm chiếm ngôi bá chủ võ lâm.
Quan Sơn Nguyệt bật cười ha hả, cười một lúc, y đưa tay chỉ tấm biển mà y vừa phê phán, cao giọng phân bua với quần hùng:
– Thiên hạ đệ nhất Minh Đà Gia! Xin các vị ghi nhớ điểm này là ngày nào Minh Đà Lệnh Chủ chưa chết là ngày đó bốn tiếng Thiên Hạ Đệ Nhất không thể rơi về tay ai, bất cứ ai!
Trước kia, y là một thần long. Vắng mặt ba năm, y tái hiện, vẫn oai mãnh như thần long. Đã là thần long thì lời nói có nhiều oai khí.
Những người hiện diện tại lư bằng im lặng.
Chẳng một ai thở mạnh, một phần vì tôn kính thần long, phần khác có lẽ vì sợ hãi, sợ hiểu lầm, bởi một tiếng động trong lúc này đều có nghĩa là phản kháng, là bất mãn, là đứng về cánh Khổng Văn Thông.
Quả thật y có đủ tư cách nói một câu như vậy.
Bởi, ngày trước, sư phó của y là Độc Cô Minh, là tay vô địch, thì từ ngày y xuất đạo trên giang hồ y chưa hề gặp một đối thủ.
Vùng Đại Mạc hầu như giang san riêng biệt của y, nơi nào y đến là có người nghinh tiếp, nơi nào y ly khai là có người tiễn đưa.
Không một ai dám ngăn trở, không một ai dám khiêu khích trêu vào.
Khổng Văn Kỷ vâng lịnh trưởng huynh hạ độc vào rượu, y uống phải, từ ngày đó ai ai cũng tưởng y đã vĩnh viễn ly khai cõi đời. Ngờ đâu mạng y còn dài, y bảo trì được tánh mạng để hôm nay trở lại đây ...
Và cũng kể từ ngày hôm nay, y có mặt trên giang hồ, y sẽ là một trở lực lớn lao cho Khổng Văn Thông trong mưu đồ bá chủ võ lâm.
Chưởng môn nhân Chung Nam Lữ Vô Úy giật mình, sửng sốt nhìn y một lúc lâu. Thật khó nghĩ cho lão vô cùng.
Thanh niên kia có cái thái độ lững lờ như vậy, y là địch hay là bằng hữu, thân hay là thù?
Ba năm trước, lão có ra tận Đại Mạc, tìm Minh Đà Lệnh Chủ để quyết đấu vãn hồi danh dự phái Chung Nam, lúc đó Độc Cô Minh đã chết rồi, Quan Sơn Nguyệt thay quyền giữ ngôi Lệnh Chủ.
Khi Lữ Vô Úy đến nơi thì Quan Sơn Nguyệt đã trúng độc «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» do Khổng Văn Kỷ hạ vào rượu, thành ra lão đã làm một chuyến viễn hành vô ích.
Rồi nay, Quan Sơn Nguyệt trở lại. Y trở lại, cuộc quyết đấu đã dự định ngày nào có thể khai diễn rồi. Y trở lại, Khổng Văn Thông sẽ phải gờm mà không dám vọng động. Như vậy là điều đáng mừng hay đáng lo?
Riêng về Khổng Văn Thông thì lão ta kinh hãi đến xuất thần. Mãi một lúc sau lão mới lấy lại bình tĩnh, lão nhìn Quan Sơn Nguyệt không chớp mắt, trong ánh mắt có niềm hoài nghi thoáng lộ, lão hỏi:
– Quan Sơn Nguyệt! Nhờ đâu mà ngươi thoát chết với «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» của ta?
Quan Sơn Nguyệt bật cười ngạo nghễ:
– Trong thiên hạ chẳng có cái gì tuyệt đối cả, dù cho là một loại độc dược vô cùng lợi hại. Bởi vật tánh nào cũng có sanh có khắc, sanh ở một phương diện nào đó tất phải bị khắc ở một phương diện khác, cái lẽ sanh khắc là đạo lý của đổi thay, có đổi thay thì khi nào tuyệt đối được? Cho nên chất độc của các hạ dù lợi hại, vẫn có thể bị hóa giải như thường. Và tại hạ còn sống được, tức nhiên tại hạ có thể tìm được giải đáp.
Khổng Văn Thông lắc đầu tỏ vẻ không tin:
– Ta biết sư phó ngươi là Độc Cô Minh tài kiêm bách nghệ, song về y thuật thì lão ấy chẳng biết mảy mai, ngươi xuất thân từ môn phái của lão, làm gì ngươi biết được thuốc giải?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Các hạ nói đúng đó. Tiên sư không rành về y thuật, chứ nếu người am tường y thuật thì người đã truyền cho tại hạ rồi, và như vậy làm sao tại hạ mắc mưu các hạ? May mắn cho tại hạ, sau khi trúng độc, tại hạ gặp một vị cao nhân, vừa cứu nạn cho mà cũng vừa truyền phương thức giải trừ chất độc «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» của các hạ.
Khổng Văn Thông hấp tấp hỏi:
– Vị cao nhân đó là ai?
Quan Sơn Nguyệt đưa tay chỉ ra một bên:
– Vị cao nhân đó rất khen ngợi cách chế luyện «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» của các hạ, nên len lỏi đến đây góp mặt trong cuộc lễ mừng thọ của các hạ để được nhìn tận mắt một tuyệt nghệ của các hạ. Cái tên giả vừa rồi do tại hạ đưa ra, chính là tên của vị cao nhân đó. Bây giờ đã đến lúc tại hạ phải giới thiệu người với các hạ. Đó, các hạ thấy, vị đó là Trương Vân Trúc lão tiền bối, một thánh thủ trong y lâm! Người ẩn cư trong một ngọn núi vùng Thiên Sơn.
Mọi người nhìn theo tay chỉ.
Nhân vật đó, tác trung niên, vận y phục Quan Ngoại, gương mặt vàng dường như có bịnh kinh niên.
Bên cạnh lão ấy có một vị tiểu cô nương vận y phục Quan Ngoại như lão nhân, mũi đỏ, mắt sáng, mày thanh, gương mặt bừng lên khí khái anh thư, tỏ rõ một cân quắc anh hùng, trong tương lai sẽ có một sự nghiệp lẫy lừng ...
Thoáng nhìn qua, ai ai cũng biết đó là một đôi phụ tử.
Điều lạ lùng nhất là Quan Sơn Nguyệt và hai cha con Trương Vân Trúc đều vận y phục hạng mục đồng!
Không có thứ y phục nào khác hơn y phục mục đồng cho họ mặc sao?
Trương Vân Trúc cách Quan Sơn Nguyệt xa xa, lúc đó lão điểm một nụ cười, lão từ từ bước tới.
Những người trước mặt lão đều tự động tạt ra hai bên, nhường lối.
Sau cùng, lão đến trung tâm lư bằng.
Lão rời chỗ cũ, bước đến chỗ mới, đương nhiên con gái lão cũng bước theo luôn. Nàng cũng cười tươi như cha, vẻ cười của nàng có điệm niềm cao hứng, chừng như nàng rất thích thú trước mọi diễn biến trong đêm nay, tại đây.
Khổng Văn Thông nhìn chăm chăm vào Trương Vân Trúc. Khi Trương Vân Trúc đến gần, Khổng Văn Thông đằng hắng mấy tiếng, cố gượng cười để che giấu sự khẩn trương đang dấy động trong lòng, sắp hiện lộ ra mặt.
– Không ngờ trong một ngọn núi hoang vu lại có dị nhân ẩn cư! Không được biết sớm bậc dị nhân hạ cố quang lâm đến tệ cốc, thật tại hạ có lỗi vô cùng, thất lễ tiếp nghinh! Mong cầu các hạ thứ cho vậy.
Trương Vân Trúc cười nhẹ:
– Cốc chủ khiêm tốn quá chừng! Tại hạ bất quá là một kẻ vô danh sống miền hoang dã, xa xôi tận quan tái lạnh lùng, nào có xứng đáng được Cốc chủ lưu tâm chiêu đãi đâu? Hôm nay, được chấp nhận ào bàn tiệc, chuốc chén rượu mầng thọ Cốc chủ, kể ra là một vinh hạnh lớn lao cho tại hạ, còn dám đâu nhìn cao mà đòi hỏi những điều phi phận?
Lão ngừng lại một chút, đoạn trầm giọng tiếp:
– Ngày vui của Cốc chủ, tại hạ chẳng có chi xứng đáng để làm vật chúc thọ, bất quá tại hạ nơi cô tịch, tại hạ có trồng được loại mai, đào đã đến thời kỳ kết trái, tại hạ hái luôn mấy quả đào mang đến đây, biếu Cốc chủ gọi là tỏ chút lòng thành. Mong Cốc chủ đừng hiềm vật mọn mà thu nhận cho, tại hạ hết sức cảm kích!
Lão quay sang thiếu nữ, bảo:
– Thanh nhi! Dâng đào và mai, chúc thọ Cốc chủ đi con!
Thiếu nữ nghiêng vai, hạ chiếc bao xuống, mở bao ra, trong đó có mấy quả đào cùng một số quả mai, mai xanh, đào hồng, trông xinh đẹp vô cùng. Nàng cầm một quả đào, bước tới trước mặt Khổng Văn Thông, mỉm cười, thốt:
– Xin Cốc chủ hưởng đào!
Trước ánh mắt của mọi người đang đổ dồn về lão, Khổng Văn Thông bắt buộc phải đưa tay tiếp nhận. Lão lại còn gượng điểm một nụ cười, thốt:
– Đa tạ! Đa tạ! Tại hạ thật không xứng đáng ...
Trương Vân Trúc cười hì hì:
– Tại hạ trồng loại đào nầy ngay trên đỉnh Thiên Sơn, về giá trị của nó, tại hạ chẳng dám đề cao, song ăn nó vào, Cốc chủ sẽ thấy mát người vô cùng, gia dĩ mùi của nó thơm, vị của nó ngọt, khác hẳn những đào thường. Giả như Cốc chủ không hiềm vật mọn, xin ăn ngay cho. Ăn để biết mùi vị của nó có đúng như như tại hạ nói hay không!
Khổng Văn Thông cầm quả đào nơi tay nhìn mãi. Lão không thấy quả đào có điểm chi quái dị khả nghi.
Lão quan sát quả đào là vì lão biết nó chẳng phải là một quả đào tầm thường như tất cả quả đào trên thế gian, hái từ cây xuống và chỉ việc há mồm ra mà cắn ...
Bởi nghĩ như vậy, lão do dự.
Trương Vân Trúc cười nhẹ:
– Cốc chủ cho rằng vật mầng rất hèn mọn phải không?
Khổng Văn Thông bối rối:
– Làm gì có việc đó?
Đoạn lão tiếp:
– Khổng mỗ được các hạ quý trọng như thế này là một vinh hạnh lớn lao, khi nào lại dám có ý nghĩ là lễ vật hèn mọn? Chính tại hạ đang suy nghĩ, chẳng biết làm cách nào để đáp tạ thạnh tình của các hạ cho vừa. Vì loại đào này, chẳng phải ai cũng có, nơi nào cũng có.
Rồi lão hỏi:
– Các hạ có thể cho tại hạ thư thả mấy phút giậy chứ?
Trương Vân Trúc cười nhẹ:
– Đương nhiên là phải vậy, bởi tùy theo Cốc chủ chứ! Chỉ vì từ lâu, tại hạ nghe thinh danh của Cốc chủ vang rền như sấm động bên tai. Hơn nữa, theo lời truyền thuyết trên giang hồ thì Cốc chủ có cái thuật tinh diệu luyện «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» ...
Họ Trương dừng lại một chút, nói tiếp:
– Cho nên, trên quả đào, tại hạ có ghi một chút tâm tư và vì cái tâm tư đó, tại hạ muốn thỉnh giáo Cốc chủ. Nếu Cốc chủ từ chối nếm đào, thì thực là tại hạ phí công hết sức oan uổng!
Lời nói nhẹ nhàng, khoáng đạt như chẳng có ý chống đối, thử thách, song Khổng Văn Thông nghe rồi, cảm thấy khó chịu vô cùng. Lão biết rõ, trong quả đào, hẳn có một vấn đề nan giải. Rồi Trương Vân Trúc lại nói thế nữa! Thì cái vấn đề mà lão nghi hoặc đó như hình thành rõ rệt. Tuy nhiên, lão không thể không ăn đào. Lão cố tỏ ý ra mình có tánh cách đại phương, đáp:
– Như vậy thì tại hạ không thể từ chối rồi!
Quan Sơn Nguyệt «hừ» lạnh một tiếng:
– Khổng Cốc chủ không nên đáp ứng quá vội vàng như vậy! Đào đó, sản xuất từ đỉnh Thiên Sơn, có cái tên là Nhật Thiện Đào, bằng vào cái tên mà suy ra việc, muốn có đào ăn, phải lên tận cửa trời. Một loại đào như vậy, Cốc chủ ăn được sao?
Khổng Văn Thông biến sắc mặt, thốt qua căm phẫn:
– Dù ăn vào chết ngay ta cũng chẳng ngán, ta sợ gì trong đào có độc?
Đối với ai, lão giữ lễ độ dù là lễ độ khách sáo, song đối với Quan Sơn Nguyệt thì lão dùng giọng đối lập, giọng tử thù mà nói chuyện.
Quan Sơn Nguyệt bật cười ha hả:
– Lời nói đó, tỏ rõ một bản sắc anh hùng, đáng khen lắm! Vậy các hạ còn chờ gì mà chẳng ăn?
Khổng Văn Thông nhìn y với ánh mắt ngời niềm oán độc. Đoạn, y đưa quả đào kề miệng, trầm giọng hướng thẳng vào mặt Quan Sơn Nguyệt:
– Ta ăn đào đây tiểu tử, ta sẽ ăn luốn mấy quả kia!
Khổng Văn Kỷ biến sắc, vội ngăn:
– Đừng thử, đại ca! Sao đại ca lại kém sáng suốt thế?
Khổng Văn Thông do dự.
Trương Vân Trúc cười hì hì:
– Cốc chủ là người chuyên dùng độc, có tiếng là tay rành dùng độc, đã biết là quả đào trinh bạch lắm mà, quả đào chẳng ẩn chứa một cái gì mờ ám. Giả như Khổng nhị tiên sinh còn hoài nghi, xin kiểm điểm lại xem.
Khổng Văn Thông bật cười ha hả:
– Dù có độc, tại hạ sợ sao, Trương bằng hữu?
Lão bóp mạnh tay một chút. Đào vỡ ra, nước chảy ròng ròng theo kẽ tay lão.
Khổng Văn Thông lè lưỡi liếm nước đào, sau đó, lão vứt quả đào ra xa, ngẩng mặt nhìn trời, cười dài:
– Diệu cực! Diệu cực! Vừa ngọt, vừa mát ...
Khổng Văn Kỷ hết sức khẩn trương, song đại ca của y đã ném đào rồi, y có ngăn chận cũng chẳng còn kịp nữa, đành im lặng chờ xem phản ứng.
Thời gian qua, nhanh hay chậm cũng qua, nhanh hay chậm là do người nhận xét qua ảnh hưởng của sự lòng.
Lâu lắm, Khổng Văn Thông vẫn chẳng việc gì.
Khổng Văn Kỷ thở phào.
Khổng Văn Thông đảo mắt nhìn quanh một lượt rồi hướng về Trương Văn Trúc điểm một nụ cười, thốt:
– Ăn đào, chắc không cần ăn mai vội, phải chăng bằng hữu?
Lão cao giọng hơn một chút:
– Nhị đệ ơi! Người ta có thạnh tình đối với ngu huynh thì nhị đệ cũng phải nghĩ đến việc đáp lại thạnh tình đó chứ. Hãy rót gấp hai chén rượu, loại ngon nhất của Lạc Hồn Cốc mang đến đây, để ngu huynh dâng lại cho hai vị khách quý.
Lão căn dặn:
– Trương huynh và Trương cô nương đấy nhé, chứ như Quan Sơn Nguyệt bằng hữu thì khỏi cần, bởi vị thanh niên anh hùng đó đã uống từ trước rồi.
Khổng Văn Kỳ làm ngay theo lời đại ca dặn. Hắn trao hai chén rượu cho Khổng Văn Thông, thay vì mang thẳng tới cho cha con họ Trương.
Khổng Văn Thông ung dung thốt:
– Lạc Hồn Cốc không thành danh trên giang hồ với sự dụng độc, tuy nhiên, tại hạ cũng từng nghiên cứu qua môn luyện độc, có sáng chế ra loại «Lạc Hồn Lộ» kể cũng lắm công phu mới tạo thành, Trương bằng hữu đã là một thánh thủ trong y lâm, chắc nhìn qua cũng phân biệt được chất liệu chứ?
Trương Vân Trúc mỉm cười:
– Đối, dùng đào, đáp, dùng quỳnh tương, Khổng Cốc chủ dù sao cũng còn khách sáo quá!
Lão cao giọng hơn:
– Rượu, có độc hay không độc, chẳng thành vấn đề, Cốc chủ đã bày tỏ thạnh tình thì dù uống vào mà chết, tại hạ há tiếc sanh mạng mà không tuân lời Cốc chủ sao?
Lão bật cười lớn, tiếp:
– Trao đây, Cốc chủ, trao cho tại hạ có dịp chứng minh một niềm tin đối với Cốc chủ!
Lão tiếp chén rượu, đưa lên miệng, uốn một hơi cạn.
Đến lượt thiếu nữ.
Khổng Văn Thông mỉm cười:
– Cô nương có cho lão phu được hân hạnh kính dâng một chén rượu nhạt chăng?
Thiếu nữ do dự.
Trương Vân Trúc thoáng cau mày:
– Một mình tại hạ, chẳng đủ sao, Cốc chủ?
Khổng Văn Thông cười lạnh:
– Dưới tay tướng mạnh, chẳng bao giờ có quân sĩ bạc nhược, trong nhà một y sư, còn ai sợ bịnh chứ? Một chén rượu, phỏng có nghĩa gì? Trương bằng hữu không yên tâm được sao?
Trương Vân Trúc nhìn con gái, lắc đầu:
– Thanh nhi! Thế này thì con phải uống rồi đó! Uống đi con, nếu con không uống, người ta sẽ trách là cha đa sự! Người ta tưởng là bao nhiêu năm qua, cha ẩn tên dấu tuổi để hoạch định một mưu đồ gì, rồi đột nhiên xuất hiện, vừa xuất hiện là sanh sự ngay!
Thiếu nữ bắt buộc phải tiếp nhận chén rượu, tay nàng rung rung.
Quan Sơn Nguyệt hơi ngại ngại, nhìn Trương Vân Trúc, hỏi:
– Trương lão bá uống chén đó có cảm giác chi chăng?
Trương Vân Trúc thở dài:
– «Lạc Hồn Lộ» quả thật là một loại rượu quý! Lão phu mắt từng thấy ngàn thứ độc, lưỡi từng nếm ngàn thứ vị, nhưng phải công nhận trong «Lạc Hồn Lộ» có những chất liệu bình sanh lão phu chưa hề biết! Bây giờ thì dược tánh bắt đầu phát tác rồi và lão phu đang vận chuyển chân khí trong người, đo lường phản ứng của từng chất liệu một ...
Lão ngừng lại một chút, lại thở dài, rồi tiếp:
– Muốn kiểm soát đủ bảy mươi ba huyệt đạo trọng yếu, phải mất một đoạn thời gian dài, lão phu chỉ sợ sau khi hoàn tất công việc kiểm soát đó thì lại muộn mất rồi ...
Khổng Văn Thông bật cười ha hả:
– Quả thật Trương bằng hữu am tường y thuật một cách tinh vi đấy. Trong «Lạc Hồn Lộ» có mấy chất liệu hy hữu trên thế gian, với tài của Trương bằng hữu thì bất quá trong nửa khắc thời gian, bằng hữu sẽ hiện minh tất cả những chất liệu đó, nhưng tại hạ bảo chứng là sau khi hiện minh rõ rệt rồi, bằng hữu sẽ không còn năng lực phát thoại nữa ...
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Nửa khắc thời gian!
Y cao giọng hơn:
– Dù sao, nửa khắc thời gian cũng đủ lắm rồi! Đủ cho chúng ta thanh toán mọi việc!
Khổng Văn Thông trố mắt:
– Các hạ nói thế là có ý tứ gì?
Quan Sơn Nguyệt không lưu ý đến lão, đưa tay đoạt lấy chén rượu nơi tay thiếu nữ, uống ngay.
Đoạn, y quăng chén rượu xuống đất. Chén vỡ tan, bật kêu một tiếng xoảng.
Rồi y ngẩng mặt nhìn Khổng Văn Thông, hỏi:
– Chén rượu của Trương cô nương, tại hạ thay thế uống cạn như vậy có thể kể như không ai còn nợ ai được chăng?
Khổng Văn Thông đắc ý vô cùng, bật cười vang:
– Trong bình, chỉ còn vừa đủ rượu rót đây hai chén, chính ta muốn thế.
Rượu đủ hai chén thì làm sao đãi ba người? Ta mời Trương cô nương uống, chẳng qua đó là một cái cớ thôi, mời Trương cô nương để cho kẻ khác bất bình ma uống thay, và người uống thay đương nhiên không phải là Trương bằng hữu rồi! Tiểu tử ơi, cái kế hoạch của ta như thế đó, ngươi đã khẳng khái uống rồi thì nên kiên nhẫn chờ xem sự thể sẽ diễn tiến như thế nào. Còn ta, ta cũng chờ xem ngươi sẽ lợi dụng nửa khắc thời gian đó để làm gì?
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:
– Tại sao Cốc chủ biết là tại hạ sẽ uống thay chén rượu đó?
Khổng Văn Thông điềm nhiên:
– Rất đơn giản! Ngay từ phút giây ngươi lộ chân tướng, ta đã nghĩ đến cách đối phó ngươi. «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» ngươi không ngán thì ta phải dùng đến «Lạc Hồn Lộ». Nhưng làm cách nào cho ngươi uống rượu đây? Ta không ngần ngại ăn quả «Cửu Chuyển Đào». Ta biết, trong quả đào có một loại độc, ai trúng độc đó tất phải bị cứng tay cứng chân, có điều không chắc là làm chết người được hay không. Riêng đối với ta, trên thế gian này làm gì có loại độc làm chết ta nổi?
Ta ăn đào là để cho các ngươi phải đáp lễ, uống rượu của ta. Ta cố ý rót hai chén, tặng cha con họ Trương, lão Trương thì đương nhiên phải uống rồi, còn nàng con giá của lão có can gì trong vụ mà uống, song vẫn phải uống cho tròn lễ độ. Ngươi tự nhiên nổi máu anh hùng, phải vỗ ngực xưng tài, thay nàng mà uống.
Lão bật cười ha hả, tiếp:
– Ngươi phải uống, ta biết chắc như vậy. Bởi, ngươi đã thọ ơn cha con họ Trương, ngươi phải đảm đương việc khó cho nàng, có như thế ngươi mới là con người chứ! Có như thế, ngươi mới xứng đáng kết giao với họ chứ!
Quan Sơn Nguyệt trầm gương mặt:
– Khá! Khá lắm! Liệu việc như vậy kể ra Cốc chủ cũng thông minh đấy!
Nhưng, xin Cốc chủ đừng quên điều này và tại hạ cũng nói cho Cốc chủ nghe rồi.
Điều đó là Cốc chủ đã tặng tại hạ một chưởng, tại hạ tuyên bố sẽ đánh lại Cốc chủ một chưởng, quanh minh chánh đại mà đánh chứ không đánh lén như Cốc chủ đâu, trong nửa khắc thời gian chất độc trong rượu phát tác, vậy thì trước khi tại hạ bị chất độc làm hại, tại hạ phải thực hành lời tuyên bố đó.
Khổng Văn Thông cười lớn:
– Tiểu tử nói nghe oai quá! Dù sư phó ngươi là Độc Cô Minh cũng chẳng làm sao thắng nổi ta trong vòng nửa khắc thời gian. Ngươi sức lực bao nhiêu mà dám nói là đánh trả ta một chưởng trong vòng thời gian nửa khắc trước khi chết chứ? Cho ngươi biết, chẳng những ngươi không làm chi nổi ta mà cuối cùng rồi ngươi cũng phải ngã khi chất độc ngấm nhiều, chất độc sẽ hành hạ ngươi vô tưởng, ngươi sẽ van xin ta giết ngươi gấp, cho ngươi khỏi bị cơn đau đớn hoành hành, cho ngươi được chết sướng!
Quan Sơn Nguyệt bình tịnh như thường, từ từ đưa tay lên, từ từ thốt:
– Cốc chủ nói, muốn nói sao cứ nói, có quyền nói cái ý của mình, song sự tình diễn tiến không do Cốc chủ muốn thế nào được thế ấy đâu!
Đoạn y trầm giọng bảo:
– Chuẩn bị đi, Cốc chủ, mình thanh toán cho xong những gì đọng lại giữa nhau!
Khổng Văn Thông khinh thường, lão ung dung đứng lên.
Quan Sơn Nguyệt từ từ đưa tay ra, cái đích là phần ngực của Khổng Văn Thông.
Khổng Văn Thông vội vàng nghinh đón. Lão chờ cho bàn tay của Quan Sơn Nguyệt đến gần mới hoành tay nửa vòng, rồi từ bên trên chặt mạnh xuống.
Quan Sơn Nguyệt không nao núng, giữ nguyên chưởng thế đó.
Một bên bất động, một bên chặt xuống vừa mạnh, vừa nhanh, trong thoáng mắt, tay chạm nhau.
Chỉ thấy Quan Sơn Nguyệt đứng vững như thường, còn Khổng Văn Thông cảm thấy tay lão chặt xuống như chặt vào một chiếc côn sắt, đương nhiên côn sắt không hề gãy, bàn tay của lão trái lại bị bắn tung trở lên không.
Tay chặt xuống, bị bắn tung trở lên, như vậy là Khổng Văn Thông không hóa giải nổi chiêu chưởng của đối phương rồi. Chiêu chưởng không bị hóa giải, đương nhiên nó phải đi tới, đi nhanh.
«Bình!» Bàn tay của Quan Sơn Nguyệt gần như đồng thời với cái chặt của Khổng Văn Thông, chạm vào ngực lão.
Chẳng khác nào một quả cầu, Khổng Văn Thông bị vút lên cao, nốt cầu vồng, rơi xuống ngoài trượng xa. Tấu xảo làm sao, lão lại rơi đúng xuống chiếc bàn đựng đầy lễ vật chúc thọ. Bàn ngã nhào theo thân thể lão, lễ vật văng tứ tung.
Tân khách nhao nhao lên cùng đổ xô đến bao quanh nơi đó.
Khổng Văn Kỷ biến sắc, vọt mình tới, nâng Khổng Văn Thông lên.
Xương ngực của Khổng Văn Thông gãy vụn, lún vào thịt bày một lỗ trủng, máu từ nơi đó trào ra như suối chảy.
Khổng Văn Thông còn thoi thóp thở, giương tròn mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt trừng trừng.
Bàn tay của Quan Sơn Nguyệt nhuộm máu đỏ ngời. Y bật cười ha hả:
– Tại hạ không ngờ kết quả quá tàn khốc cho Cốc chủ như vậy! Thật lỗi vô cùng! Chắc Cốc chủ cũng lượng thứ cho tại hạ đã lỡ tay!
Máu từ ngực vọt ra, máu từ miệng trào ra, Khổng Văn Thông còn nói gì được thành lời?
Trương Vân Trúc cười lớn:
– Khổng Văn Thông! Ta khen ngươi đó, biết được lai lịch quả «Cửu Chuyển Đào», kể ra ngươi cũng sành dụng độc! Nhưng ngươi vẫn không hiểu nổi là ta đã cho ngấm vào quả đào nước cốt của thảo dược «An Tức Lan», nước cốt đó có hương vị như nước quả đào, ngươi ăn đào không thể phát giác ra nổi. «An Tức Lan» có cái công hiệu làm cho võ công của ngươi tán thất dần dần, rồi khi Quan Sơn Nguyệt hiền điệt xuất thủ, ngươi chẳng còn công lực tiếp nhận một chưởng!
Bất quá, kẻ trước, người sau, ta nhanh trí hơn, cho ngươi ăn đào trước, dù sau đó ta có uống «Lạc Hồn Lộ» của ngươi cũng chẳng hại gì. Trên con đường về âm cảnh, chúng ta rồi cũng sẽ gặp nhau, kẻ nào đi trước, cố mà chờ kẻ đi sau nhé!
Giả như ngươi có căm hận ta, thì mình sẽ lại đấu trí với nhau ở một thế giới khác vậy!
Khổng Văn Thông thu tàn lực, hét lên một tiếng lớn. Theo tiếng hét, máu từ miệng lão thoát ra thành vòi, vết thương nơi ngực bị động mạnh, máu lại trào như xối. Lão tắt thở luôn.
Khổng Văn Kỷ chớp đôi mắt ngời ánh lửa, đặt xác của Khổng Văn Thông xuống nền, chuẩn bị liều mạng với đối phương.
Quan Sơn Nguyệt khoát tay, quát to:
– Nếu ngươi vọng động, ta sẽ không dung tha ngươi! Ngươi phải biết chất độc trong «Lạc Hồn Lộ» chưa phát tác trước thời gian nửa khắc, trong thời gia đó, ta thừa sức hạ sát ngươi!
Trương Vân Trúc hướng sang Quan Sơn Nguyệt, thốt:
– Hiền điệt còn gì cần nói, hãy nói gấp đi, nói cho minh bạch, chúng ta chẳng còn bao nhiêu phút giây nữa đâu!
Quan Sơn Nguyệt gật đầu, day qua Chưởng môn nhân phái Chung Nam, từ từ cất tiếng:
– Lã tiến bối! Tại hạ có ý định đem việc này tuyên cáo trước đồng đạo vũ lâm trong thiên hạ, song sợ không còn kịp làm theo ý muốn. Do đó, tại hạ ghi chép những gì cần nói trên mảnh giấy dựng trong phong bì, trước khi đến đây.
Đồng thời, tại hạ cũng chỉ điểm cách giải trừ chất độc «Huỳnh Hà Thiên Tinh Sa» giúp các vị thoát nạn. Phong bì, tại hạ xin ký gởi lại Lã tiền bối, nhờ Lã tiền bối liệu lượng ...
Y thò tay trong mình, lấy ra một phong bì, trao qua cho Lã Vô Úy.
Lã Vô Úy tiếp nhận liền.
Trương Vân Trúc, Quan Sơn Nguyệt và thiếu nữ cúi đầu chào biệt mọi người rồi hấp tấp rời khỏi lư bằng.
–––– oo –––– Lạc Hồn Cốc, một sơn cốc có tên đúng với sự thực, một sơn cốc mà ai vào lọt trong đó rồi đừng mong dẫn xác trở về.
Bao nhiêu người táng mạng tại đây như để xác định cái tên sơn cốc, và hôm nay, đến lượt Cốc chủ vĩnh viễn ra đi để xác định cái tên tàn khốc đó.
Bọn Quan Sơn Nguyệt đi rồi, quần hùng nhìn theo bóng họ, mơ màng. Ai ai cũng nặng niềm tư tưởng, trước một diễn biến hết sức bất thường. Bởi, có ai nghĩ đến cái kết quả bi đát của Khổng Văn Thông, mộng đời chưa thực hiện mà ngày mầng thọ là ngày giỗ kỵ!
Lã Vô Úy mở phong bì, lấy mảnh giấy ra đọc:
«Minh Đà Lệnh Chủ đời thứ hai Quan Sơn Nguyệt cẩn cáo trước đồng đạo võ lâm thiên hạ.
Năm xưa, tiên sư lần lượt đến từng môn, từng phái một của các vị, lấy lịnh phù, tín vật trong môn phái các vị. Sau đó, người đến sa mạc, sống cuộc đời quy ẩn, tuy nhiên, người hết sức ăn năn hối hận về những việc đã làm qua. Ăn năn, hối hận không phải tiên sư cho rằng mình có hành động bạo cường, thô mãng đối với các vị mà hối hận vì mình làm một việc hữu ích, trong các vị, chẳng ai hiểu cho cái ý sâu xa của người.
Giành quyền chấp chưởng môn phái của quý vị chăng?
Không. Tiên sư không nuôi cái tham vọng ấu trĩ đó, bởi chung quy rồi, tham vọng đó cũng sẽ đưa người đến chỗ tự diệt.
Thế thì, tại sao tiên sư làm thế?
Chẳng qua, người lo lắng cho vũ lâm Trung Nguyên, người nhận thấy các vị quá tự tôn, tự mãn, không lo tinh tiến để tự cường, các vị cho rằng mình là vô địch, rồi an nhàn hưởng thụ danh vọng, không mảy may nghiên cứu vũ thuật để cùng nhau tiến đến cảnh giới diệu huyền. Cho nê, tiên sư bắt buộc phải thu nhặt tất cả tín vật, lịnh phù để khích lệ các vị.
Bây giờ, các vị đã hiểu nổi khổ tâm của tiên sư rồi chứ?
Tuân theo di mạng của tiên sư, ba năm trước, trong đại hội sa mạc ngoài biên tái, tại hạ ấn chứng vũ công của các vị, giả như tại hạ bại, điều đó chẳng đáng làm cho tại hạ thẹn tức, trái lại, nếu tại hạ thắng thì đúng là một sự đau buồn, bởi vì từ bao nhiêu thời gian qua, các vị không tiến bộ chút nào, các vị đại diện vũ lâm Trung Nguyên, tài nghệ không vượt bậc là đáng lo ngại cho kiếp vận toàn thể.
Tại hạ cũng đã định, trong ngày đại hội, trao trả tín vật, lệnh phù cho các vị.
Ngờ đâu, đại hội chưa kết thúc, tại hạ lại bị lão gian hoạt hạ độc, thành ra nhiệt tình của tiên sư đối với các vị phải đình hoãn tỏ bày cùng các vị qua trung gian tại hạ, cho đến hôm nay.
Tuy muộn, cũng còn hơn không. Và, nếu tại hạ không may mắn không gặp vị ẩn y là Trương Vân Trúc tiền bối tại Thiên Sơn thì tâm nguyện của tiên sư sẽ mãi mãi bất thành, và các vị truyền đời nối tiếp nhau mà oán hận Minh Đà Lệnh Chủ.
Giờ đây, dù đã chậm trễ ba năm, mọi việc kể như được trình minh bạch với các vị rồi, tại hạ nghe lòng thơ thới vô cùng.
Trước khi đến đây, tại hạ có nghĩ, trong tương lai, các vị cần phải đương đầu với Lạc Hồn Cốc chủ Khổng Văn Thông, mà lão hồ ly đó có loại độc «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» rất lợi hại, nên tại hạ đã yêu cầu Trương Vân Trúc tiền bối chỉ điểm phương pháp giải độc. Phương pháp đó, tại hạ cũng có ghi vào mảnh giấy, kèm theo lời biện minh.
Sở dĩ tại hạ thận trọng là vì vũ công của Khổng Văn Thông cũng cao cường lắm, vạn nhất tại hạ bị lão ta hạ sát rồi thì làm sao mách với các vị phương pháp trị độc?
Do đó, tại hạ ghi luôn vào mảnh giấy, phòng bất trắc.
Còn một điều này, các vị xin lưu ý. Anh em họ Khổng, dù sao thì cũng chẳng đáng sợ lắm. Người đáng sợ, chính là con gái của Khổng Văn Thông đang theo học với một vị dị nhân trong võ lâm. Bậc dị nhân đó, sánh với tiên sư còn giỏi hơn rất nhiều. Tuy có tài cao, song chẳng rõ vì duyên cớ gì, người phát thệ chẳng bao giờ xuất hiện trên giang hồ.
Bậc dị nhân không ra mặt, điều đó chẳng nói làm chi, chỉ như nàng con gái của Khổng Văn Thông, sau khi thành tài trở về Lạc Hồn Cốc, nối chí cha gây nên hoạn họa giang hồ thì thiết tưởng các vị không thể không quan tâm được.
Tại hạ sơ lược trình bày như thế, mong các vị liệu lượng, tìm cách ngăn chặn những gì chưa phát hiện, những gì còn có thể ngăn chặn, đừng để đến lúc khẩn cấp mới bắt tay vào việc, tại hạ e tai hại sẽ đến với các vị lớn lao không tưởng nổi ...» Chưởng môn nhân phái Chung Nam lại đọc lớn lên cho mọi người nghe.
Tất cả đều trầm lặng suy tư.
Lúc đó, Khổng Văn Kỷ đã mang di thể của Khổng Văn Thông vào trong rồi.
Bọn người xu phụng Khổng Văn Thông cũng theo vào. Do đó, cánh họ Khổng chẳng một ai biết được sự tình Quan Sơn Nguyệt bày tỏ.
Tuy chẳng người nào có thể chứng minh một chi tiết có liên quan đến sự tình, song tất cả đều tin là Quan Sơn Nguyệt không bịa chuyện.
Không còn gì bắt buộc họ lưu lại nơi này, họ cùng chia tay nhau rồi Lạc Hồn Cốc. Trên con đường về quê quán, ai cũng nặng niềm ưu tư. Họ nghĩ đến cái họa trong tương lai, họ không khỏi lo sợ.
Dù sự việc, nếu có xảy ra vẫn còn xa, họ cũng thấy sợ ngay từ bây giờ. Và, những người có danh vọng lớn trong quần hùng tự cho mình có bổn phận bảo trì phong độ vũ lâm, họ càng suy tư trầm trọng trước viễn ảnh một biến cố phi thường, họ đã thấy nặng ngay từ bây giờ cái trách nhiệm đối với đồng đạo.
–––– oo –––– Trong bóng đêm, ba bóng người bước nhanh, chừng như họ có điều gì khẩn cấp lắm.
Tuy nền trời thiếu vắng trăng sao, song cũng có thể nhận ra ba người đó là ai.
Thực ra, nói là ba bóng người bước đi, bất quá chỉ có hai người và một trong hai người đó kèm một người khác, đang hôn mê.
Người hôn mê, là Quan Sơn Nguyệt, người kèm y gần như cõng y nơi lưng chính là Trương Thanh. Người thứ ba, hẳn là Trương Vân Trúc.
Họ ly khai Lạc Hồn Cốc từ lâu và hiện tại họ đã đi được một đoạn đường dài.
Trương Thanh cất giọng đầy oán trách gọi cha:
– Gia gia! Tại sao phải hành động như vậy chứ? Gia gia làm cho Quan đại ca khổ sở như thế này thật con chẳng hiểu nổi cái ý tứ của gia gia chút nào! Giả như Quan đại ca bất hạnh táng mạng đi rồi thì con hối hận biết bao nhiêu?
Trương Vân Trúc thở dài:
– Cha nào đoán được là hắn khẳng khái như thế? Thật đáng trách cho hắn, lúc nào cũng nóng nảy, đến cả những việc liên quan cả sanh mạng mà hắn cũng chẳng chịu đắn đo cân nhắc kỹ càng trước khi quyết định! Phần cha, nếu cha không phòng bị trước thì khi nào lại uống chén rượu quỷ của lão hồ ly? Phần hắn thì ... Hừ! Đáng trách hắn thật! Chính hắn làm khổ cha chứ cha nào làm khổ hắn?
Trương Thanh khóc. Giọng nói của nàng sền sệt, giọng nói phát ra đứt đoạn trong nghẹn ngào:
– Quan đại ca ... lúc nào cũng sẵn lòng hào hiệp, chẳng phải riêng đối với chúng ta mà còn đối với tất cả mọi người ... hôm nay Quan đại ca sợ con không kham chén rượu độc ... nên ...
Bỗng nàng ngưng khóc, trầm giọng hỏi:
– Không có cách gì giải độc sao gia gia?
Trương Vân Trúc lắc đầu:
– Cha chưa dám quả quyết, con ạ! Phải chờ đến khi nào mình về tới nhà, cha phân tích chất độc trong rượu, rồi mới tìm dược liêu khắc chế. Đến lúc đó, cha mới có thể đoán định là Quan đại ca của con được an toàn hay không an toàn.
Trương Thanh dậm chân:
– Nhưng Quan đại ca có chi trì được đến lúc mình về tới nhà chăng?
Trương Vân Trúc cười khổ:
– Thôi đi cô nương ơi! Tại sao cô nương càng lúc càng không tin tưởng nơi lão già này chứ? Cô nương lo sợ quýnh quáng lên rồi xem thường cả Gia gia của cô nương à?
Rồi lão dịu giọng tiếp:
– Con phải biết hiệu năng của «Băng Xạ Toàn Mạng Tán» của Gia gia như thế nào chứ? Đừng nói là trúng độc, giả như hắn có chết đi, gia gia cũng có thể làm cho hắn sống lại ít nhất trong bốn năm hôm!
Trương Thanh lại nghĩ đến lúc về nhà, giả như qua cuộc phân chất, gia gia nàng hoàn toàn bất lực thì Quan Sơn Nguyệt phải chết. Bất giác, nàng lại khóc, nàng ngưng khóc một lúc, bây giờ khóc trở lại, khóc bi thảm hơn. Nàng vừa khóc, vừa gào:
– Gia gia còn chờ phân chất thì có hy vọng gì cứu sống Quan đại ca đâu!
Thế nầy thì Quan đại ca phải chết! Bất quá «Băng Xạ Toàn Mạng Tán» của gia gia chỉ làm cho Quan đại ca chậm chết mấy ngày! Trời ơi! Gia gia ơi! Con cũng chết luôn!
Trương Vân Trúc khổ sở quá:
– Thì ... thì cha cố gắng làm hết sức mình chứ cha có là thánh đâu mà dám bảo đảm với con như thế này, thế nọ? Con thấy không, ba năm trước, cha cũng tận tình cứu hắn, lúc đó, hắn và gia đình cha con ta chưa thân nhau kia mà, huống chi ngày nay, hắn cũng như người nhà, đương nhiên là cha phải áp dụng tất cả sở học để cứu hắn. Con đừng quên, phàm là người ai cũng có định số cả, số chưa chết thì dù cha không cứu nổi cũng có người đến kịp lúc mà cứu hắn. Số hắn chết, dù thánh có hiện về cũng phải khoanh tay nhìn tử thần rước hắn đi!
TrươngThanh gào lên:
– Con không biết! Gia gia phải làm sao cứu cho Quan đại ca sống lại! Nếu không, con cũng chết luôn!
Nàng đặt Quan Sơn Nguyệt xuống đất, rồi ngồi bên cạnh khóc mướt.
Trương Vân Trúc dậm chân:
– Khổ quá, thế nầy thì ... thì ... gia gia phải đưa hắn đến một người!
Trương Thanh hấp tấp thốt:
– Chứ sao? Gia gia thấy mình bất lực thì nên tìm đến người đó, không lẽ gia gia đành để cho Quan đại ca chết oan uổng như thế này? Mà tại sao gia gia quá hận người đó như vậy? Gia gia đã thừa nhận về y thuật người đó giỏi hơn gia gia rất nhiều kia mà!
Trương Vân Trúc thở dài:
– Phải! Y thuật của người đó rất cao minh, trên gia gia mấy bậc. Song gia gia đã phát nguyện, không hề cúi mình cầu lụy y.
Bỗng, lão tiếp nối với giọng cương quyết:
– Không được! Con ạ, con đừng nhắc đến con người đó nữa! Cha không bao giờ muốn gặp mặt người đó chứ đừng nói là mở miệng van cầu chữa trị cho Quan Sơn Nguyệt! Bỏ đi con, bỏ đi!
Trương Thanh nức nở:
– Được rồi, con không nhắc đến người đó nữa, nhưng gia gia phải làm sao cứu sống Quan đại ca của con!
Trương Vân Trúc gật đầu:
– Thì cha phải tận tâm lo liệu cho hắn chứ sao! Không bằng cách này cũng bằng cách khác!
Lão đặt tay lên trán Quan Sơn Nguyệt. Bất giác, lão biến sắc, kêu lên:
– Nguy! Hắn phát nóng lên rồi đây! Trong rượu, có mật cion rít đỏ, rất độc!
Khổng Văn Thông ác quá, dám dùng cả loại độc đó để hại người!
Tuy nhiên, lão phải phục tài Khổng Văn Thông, lão lẩm nhẩm:
– Họ Khổng quả là tay lợi hại thật. Mật con rít đỏ với chất «Hạc Đỉnh Hồng», cũng là loại độc, song đem hai loại đó hiệp với nhau thì độc tánh tiêu hóa mất trở thành vô hại. Thế mà lão ta có cách hiệp cả hai loại độc lại, song vẫn giữ độc tánh còn nguyên vẹn như thường.
Trương Thanh sợ hãi cuống cuồng, hấp tấp kêu lên:
– Gia gia! Lúc này chẳng phải là lúc gia gia luận y thuật. Gia gia hãy nghỉ đến việc cứu người, cứu gấp mới được gia gia ơi!
Trương Vân Trúc suy nghĩ một chút:
– Giải trừ chất độc do mật con rít đỏ thì phải dùng máu con rắn xanh, nhưng phải là máu sống!
Trương Thanh trố mắt:
– Máu sống là máu gì?
Trương Vân Trúc đáp:
– Bắt con rắn xanh còn sống, cắt lấy máu chứ không được đập chết trước rồi lấy máu sau!
Lão thở ra, tiếp:
– Nhưng làm sao có loại rắn đó trong nhất thời?
Trương Thanh thốt gấp:
– Bây giờ đang đêm, mà loài rắn thì kiếm ăn lúc ban đêm, gia gia đi tìm đi, chắc chắn là tìm gặp mà, gia gia!
Nàng giục:
– Đi đi, Gia gia! Đi liền đi, Gia gia!
Trương Vân Trúc lại suy nghĩ một chút, rồi lấy trong mình ra một chiếc bình nhỏ, mở nút, trút ra một hoàn thuốc, nhét vào miệng Quan Sơn Nguyệt. Đoạn, lão hướng sang Trương Thanh, dặn nàng:
– Con ở đây canh chừng cho hắn nhé, cha vừa hắn uống một hoàn « Băng Xạ Toàn Mạng», cha đi tìm thanh xà đây!
Trương Thanh gật đầu.
Trương Vân Trúc không chậm trễ, đứng lên đi liền.
Tại vùng sơn dã rộng lớn, côn trùng, rắn rít rất nhiều, về đêm chúng rời hang, bò đi kiếm ăn, về đêm thì có nhiều hy vọng gặp chúng, nhưng phải cái bất lợi là đêm quá tối, rắn thì có nhiều mà làm sao trông thấy chúng?
Nếu đốt lửa đi tìm, chúng thấy lửa sẽ chui trốn mất. Cho nên, rắn thì có nhiều mà tìm được một con lại không phải là việc dễ. Huống chi, chẳng phải bắt bất cứ rắn gì cũng được mà cần có rắn xanh mới xong.
Trương Vân Trúc không nản lòng, men theo các khe đá, quanh theo các bụi cỏ, nương ánh sao mà tìm.
Mãi một lúc lâu, lão mới bắt được một con rắn xanh.
Lão mầng rỡ vô cùng, vội chạy trở lại chỗ cũ. Nhưng đến nơi, bất giác lão sững sờ vì Trương Thanh và Quan Sơn Nguyệt đã biến mất dạng.
Nơi chỗ Trương Thanh đặt Quan Sơn Nguyệt nằm xuống có một mảnh lụa, trên mảnh lụa có một viên sỏi.
Người nào đó, đặt mảnh lụa, lấy viên sỏi dằn lên sợ gió thổi bay mất đi.
Lụa, là chiếc áo của Trương Thanh đang mặc được cắt ra một mảnh. Trên mảnh lụa có mấy chữ. Chữ lại viết bằng máu.
Trương Vân Trúc chụp mảnh lụa, đọc liền:
«Gia gia, Sau khi gia gia đi rồi thì tình trạng của Quan đại ca biến đổi đáng sợ, con chẳng biết làm sao cứu giải cấp thời trong khi chờ đợi gia gia trở về mà con cũng chẳng dám bỏ chàng chạy đi tìm gia gia.
Nếu không cứu cấp kịp thời, kịp lúc thì Quan đại ca sẽ không tránh khỏi nguy hại tánh mạng.
Sở dĩ Quan đại ca ra thần hình như vậy cũng vì thay thế con uống chén rượu độc. Gia gia thấy đó, Quan đại ca không quản hiểm nguy, gánh vác cái việc khó cho con. Nhớ lại ba năm qua cùng sống chung bên nhau, con đã hiểu Quan đại ca rất nhiều và càng hiểu người, con càng mến, cuối cùng con cảm thấy yêu chàng. Ngày nay thì chàng là lẽ sống của con, mất chàng là con phải chết đó gia gia.
Chẳng phải con không tin nơi y thuật của gia gia, song con biết rõ chẳng thể nào gia gia chữa trị cho chàng lành mạnh hẳn được, mà dù gia gia làm được việc đó cũng phải qua một thời gian dài. Còn con thì ... con nóng nảy, muốn sao cho chàng bình phục tức khắc. Cho nên, con không thể do dự trước một sự cấp bách và con ra đi, mang chàng cùng theo.
Con ra đi, đi đâu thì hẳn gia gia đã biết rồi. Con đường đến Côn Lôn Sơn, xa vạn dặm, dù phải vất vả, dù phải đuong đầu với mọi hiểm nguy, con vẫn cương quyết ra đi với một tấm lòng tin tưởng thiêng liêng phù hộ con, phù hộ chàng ...
Nếu gia gia còn chút tình thương đối với con thì gia gia không nên đuổi theo con. Con nói thật, nếu con chẳng mang chàng đến tận Côn Lôn Sơn cầu xin người đó chữa trị cho chàng được thì con nguyện lấy cái chết để đáp tạ tình chàng.
Vậy, gia gia đừng bức con phải chết ngăn chận con đến gặp người mà gia gia không thuận nhãn.
Conmong gia gia bảo trọng trong thời gian con vắng mặt và tha thứ cho con.
Mình còn gặp nhau nữa, gia gia ơi và gặp lại trong ngày gần đây thì lo chi không sum họp ngày nào?» Đọc xong mảnh lụa, Trương Vân Trúc quăng nhanh con rắn ra xa, rồi thở dài ...
Trương Thanh cõng Quan Sơn Nguyệt nơi lưng, vượt đoạn đường dài hướng về Côn Lôn Sơn.
Bạn đường là một người dở sống dở chết, không cử động, không nói năng, nói là bạn đường bởi đó là một con người, song thực ra thì có khác nào một gánh nặng?
Hành trang là số vốn nghị lực với một niềm tin nơi thiêng liêng.
Gánh nặng không làm cho nàng nản chí, hành trang tinh thần bù lại là nguồn khuyến khích lớn lao.
Đi như thế, Trương Thanh phải mất bao nhiêu ngày đường mới đến cái đích hành trình?
Thời gian dài ngắn, đối với người thường không quan trọng lắm, song đối với Quan Sơn Nguyệt, mỗi một phút giây qua là mỗi một hơi thở tiêu mòn, mỗi một giọt máu khô cạn. Mà lọ thuốc Băng Xạ Toàn Mạng Tán của vo thành hoàn của Trương Văn Trúc bất quá chỉ dùng chi trì mạng sống của Quan Sơn Nguyệt trong vòng năm mươi hôm, trong khoảng thời gian đó nàng đến được Côn Lôn chưa?
Nếu lọ thuốc hết rồi mà nàng chưa đến nơi thì phải làm sao?
Mặc, việc gì sẽ đến cứ đến. Nàng kiên tâm, trì chí, nàng khấn nguyện ơn trên phù hộ và nàng cứ đi, đi mãi, kết cuộc như thế nào, mặc cho định số sắp bày.
Thiếu ăn, thiếu ngủ, tắm nắng, dầm sương, Trương Thanh đã đi được bốn mươi ngày đường.
Đã không được chữa trị, lại vất vả suốt con đường dài, Quan Sơn Nguyệt mỗi một ngày trôi qua là mỗi một bước đi lần vào nguy cảnh. Đến ngày thứ bốn mươi, tình trạng của chàng bi đát quá độ.
Thời gian lúc đó nhằm tiết Đông Thiên, khí lạnh bao trùm vạn vật, song không làm dịu nổi nhiệt độ trong người chàng càng lúc càng dâng cao.
Cõng một người nóng như lửa đốt trên lưng, kể ra cũng khó chịu cho Trương Thanh lắm. Đó cũng là một sự khổ, cộng thêm với những cái khổ của hành trình.
Rồi một hôm, nàng cũng đến được Côn Lôn Sơn.
Nàng đến Côn Lôn Sơn là Quan Sơn Nguyệt chẳng mệnh hệ nào, bởi nếu chàng đã chết dọc đường thì nàng đến ngọn núi này làm chi nữa?
Quan Sơn Nguyệt không chết là lọ thuốc Băng Xạ Toàn Mạng Tán chưa dùng hết, là nàng chưa vượt quá giới hạn năm mươi ngày.
Nhưng, đến nơi rồi, nàng chẳng thấy một bóng người.
Một nơi hoang vắng cô tịch, làm gì nàng tìm được bóng người dễ dàng như giữa chợ đời nhộn nhịp thế nhân xu lợi bôn danh?
Dù hoang sơn là nuôi sống thợ săn, tiều phu, song chẳng phải nơi nào cũng có thợ săn, nơi nào cũng có tiều phu. Săn thú, cũng có khu vực riêng biệt, đốn củi cũng có nơi riêng biệt, do đó sự có mặt của hạng người vì sanh kế mà có mặt tại rừng sâu, núi hoang cũng tùy thời, tùy nơi mà có.
Thợ săn, tiều phu là hạng người không ở ẩn nàng còn không gặp một ai thì nói chi đến người mà nàng đang tìm?
Quanh quẩn mãi trong vùng hoang sơn, chung quy nàng vẫn chưa gặp được người nàng muốn gặp. Nàng phải tìm chỗ ngồi nghỉ mệt.
Nàng nhìn Quan Sơn Nguyệt, nàng khóc, khóc đến cạn lệ, khóc đến máu tươi.
Bỗng, nàng ngửi phải một mùi kỳ dị. Bất giác, nàng giật mình, vội đặt Quan Sơn Nguyệt xuống mặt tuyết, đoạn đảo mắt nhìn quanh.
Trời! Sau lưng nàng, một con beo trắng to lớn phi thường, loại beo chẳng phải là loài thú lớn xác, song con beo trắng này to bằng con trâu mộng. Nó đứng lặng nhìn Trương Thanh, đôi mắt nó sáng rực, đôi mắt xanh rời chớp chớp gieo cái lạnh nơi lòng nàng, cái lạnh đó thấp độ hơn cái lạnh của mặt tuyết giá ...
Đương nhiên, Trương Thanh phải sợ. Dù nàng có vũ công cao, trải qua một cuộc hành trình hơn bốn mươi ngày vất vả, công lực của nàng phải tiêu hao thì làm gì nàng chế ngự nổi một con mãnh thú?
Song nàng không chế ngự nổi nó, nó sẽ vồ nàng, nó ăn tươi nhai sống nàng.
Làm sao? Nàng phải làm sao? Nàng phải chết vì mãnh thú?
Nàng chết, Quan Sơn Nguyệt cũng phải chết!
Nghĩ đến cái chết của Quan Sơn Nguyệt, bất giác nàng phấn động tinh thần.
Nàng không muốn Quan Sơn Nguyệt chết. Nàng muốn chàng sống, bằng mọi cách, nàng bất chấp cách nào, miễn sao Quan Sơn Nguyệt được sống.
Bằng cớ, nàng nghi ngờ y thuật của cha, không dám giao sinh mạng Quan Sơn Nguyệt cho cha, vượt đoạn đường dài, tìm về Côn Lôn. Bằng cớ, nàng dám trái ý cha, tìm một người mà cha nàng không thuận nhãn, yêu cầu người đó cứu sống Quan Sơn Nguyệt. Thì hôm nay, đã đến tận cái đích của cuộc hành trình, khi nào nàng để cho Quan Sơn Nguyệt chết vì mãnh thú?
Không nói đến cái việc nàng có thể hạ mãnh thú hay chăng, cứ biết là nàng quyết tâm đối phó với bất cứ cái gì đe dọa sinh mạng Quan Sơn Nguyệt. Trừ ra, khi nàng ngã gục xuống rồi ai muốn làm gì chàng cứ làm.
Ai muốn chạm đến Quan Sơn Nguyệt phải đi qua xác chết của nàng. Mãnh thú cũng thế, nó là con vật, nó không thể nghe giảng lý, nàng phải lấy sức mạnh thay cho đạo lý. Nàng không hạ con thú, thú sẽ vập, sẽ vồ!
Nàng lại nhìn Quan Sơn Nguyệt, như mượn mãnh lực ái tình tiếp trợ sinh lực cho nàng, nàng rít lên:
– Quan đại ca! Tiểu muội phải hạ sát con thú ác độc kia, ăn thịt nó, uống máu nó cho mạnh mẽ hơn lên, cho tiểu muội còn vững tinh thần, để phát huy tình yêu trước phút giậy tuyệt vọng của chúng ta!
Trong mình, Trương Thanh chẳng có một tấc thép. Trong mình, nàng chỉ có mấy đường dây, loại dây ràng buộc cho y phục bớt hở hang. Đó là vật duy nhất mà nàng có thể xử dụng, nếu thực sự những vật đó có hữu dụng cho nàng.
Cũng may, tại sa mạc nàng từng học cách xe dây nơi bọn du mục, tập quăng dây để bắt những con ngựa chạy hoang.
Ngựa cũng là thú, beo cũng là thú, nàng có thể dùng dây chế ngự beo như du mục chế ngự ngựa hoang.
Lập tức nàng tháo tất cả những đường dây trong mình, đánh thòng lọng rồi, sau đó bốc tuyết nắn thành một quả cầu.
Dây trong mình chẳng có bao nhiêu, dây đánh lại tất phải ngắn.
Dây ngắn, không thể dùng trong khoảng cách khá xa, trước tiên, nàng phải khích nộ con beo trắng. Cốt làm sao cho nó bằng lòng nhảy tới gần nàng, như vậy nàng mới có thể quăng dây tròng cổ nó, tròng chân nó ...
Con beo trắng cào cào đôi chân trước trên mặt tuyết, rồi nó hạ thấp mình xuống, bụng nó sát với mặt tuyết. Nó chuẩn bị vọt tới.
Tại sa mạc, Trương Thanh từng tham dự nhiều cuộc săn thú, nàng đã biết đặc tính từng loài thú một, lúc bị thương, lúc tấn công, lúc tẩu thoát, chúng có những động tác như thế nào. Cho nên, nàng không nao núng dù biết rằng loài beo trắng rất hung dữ, chúng hung dữ trên mãnh sư hay ác hổ.
Nàng cầm quả tuyết cầu, nhắm ngay trán con thú, lao vút tới.
Trong trường hợp đó, con thú hoặc né tránh nếu không thì cũng phải nhảy tới. Nhưng, con beo trắng này chẳng có những phản ứng như vậy. Nó không né tránh, nó không nhảy tới.
Điều đó làm cho Trương Thanh hết sức kinh ngạc. Nhưng, chẳng lẽ nó đưa trán ra đó hứng quả tuyết cầu do nàng bắn đi, với ít nhiều cô lực? Dù nàng trung quả tuyết cầu là để nhử nó, song tuyết cầu chạm trúng trán, trán nó vẫn xây xát như thường.
Không vỡ sọ nó cũng phải đau đớn. Nó bất động, như một cao thủ bình tĩnh chờ thế công của địch đến vừa tầm tay. Rồi nó ung dung đưa chân trước lên hất quả tuyết cầu xẹt qua một bên.
Tuyết cầu chẳng phải là một vật thể cứng hoặc liền lạc nên vừa chạm chân con thú quả cầu bằng tuyết rả ra liền. Những mảnh tuyết vụn bắn ra bay về phía hậu của nó.
Đến lúc đó, nó mới rống lên một tiếng, còng lưng lên, mình co rúm lại, bốn chân thẳng đứng. Nó sẵn sàng ở trong tư thế vọt tới.
Trương Thanh biết ngay gặp phải một con vật phi thường. đương nhiên, nàng khiếp sợ, song vẫn bình tĩnh. Nàng quát:
– Súc sanh dám quật cường với ta à?
Nó biết gì mà nàng quát tháo?
Nàng chụp nhanh tay xuống mặt tuyết, hốt một nắm, rồi tung sang con beo trắng. Lần này, nàng dùng thủ pháp bắn ám khí quăng quả tuyết cầu. Quả tuyết cầu thay vì lao vút thẳng đường, lại uốn vòng cầu vẽ thành một đường cung, xẹt nhanh xuống con beo.
Con beo vẫn đứng nguyên tại chỗ, ngẩng đầu lên há rộng miệng hứng quả tuyết cầu.
Nhưng lần này thú thua người, vì trong quả cầu có sự lạ. Vật lạ đó, điều khiển quả cầu thay vì rơi ngay miệng con thú, lại trịch qua lên trên một chút, đánh xuống mắt tả của nó.
Vật lạ đó, bất quả chỉ là một viên sỏi, độ nửa quả tuyết, Trương Thanh gắn liền với tuyết, nàng tính toán làm sao khi quả tuyết cầu trút xuống thì tuyết và sỏi rời ra, tuyết rơi vào mồm con thú, còn sỏi thì trịch lên bên trán, đánh vào mắt nó.
Người không hiệu vũ công thì cho là lạ. Chứ thật ra, đó là một thủ pháp phóng ám khí.
Viên sỏi không lớn lắm, chẳng làm hỏng mắt con thú được, song vẫn chạm đau nó như thường. nó gầm lên một tiếng lớn, phóng mình tới.
Trương Thanh chỉ chờ có thế. Lập tức, nàng vung tay, đường dây bay ra, chiếc thòng lọng nơi đầu dây sắp sửa tròng vào đâu con thú.
Giống dân Duy Ngô trong thành phần du mục tại sa mạc cách quăng dây bắt ngựa đi hoang, lòng lọng tròng vào đầu rồi, con ngựa đứng yên thì còn đỡ, nếu càng vùng vẫy, thòng lọng càng rút chặt, cuối cùng nghẹt thở phải bất động chờ người bước tới, giải tỏa cho.
Trương Thanh sinh và trưởng tại sa mạc, đương nhiên có học cách quăng dây đó, thủ pháp của nàng rất thuần thục. Hơn nữa, nàng lại tập luyện võ công nên tay vung ra là rất chuẩn. Đừng mong một con thú nào thoát khỏi đường dây của nàng, trừ ra con thú đó ở ngoài xa tầm dây.
Nhưng con beo trắng này không giống những con thú khác. Có thể nó biết đường dây đó lợi hại như thế nào, nên vừa thấy nàng chớp tay lên, nó cấp tốc ngoẻo đầu sang một bên tránh cho thòng lọng trượt bên ngoài, và nó cứ lướt tới.
Nó không lướt thẳng vào người Trương Thanh, nó lại vọt đến Quan Sơn Nguyệt.
Bằng mọi giá, Trương Thanh chỉ mong muốn con vật chống đối với nàng hơn là vồ chụp xuống Quan Sơn Nguyệt. Do đó, hụt thòng lọng rồi, lập tức nàng hoành tay, dùng đường dây làm nhuyễn tiên, quật ngược trở lại. Cái đích của nàng là chân sau của con thú. Dường dây quấn quanh một chân sau của nó.
Trong khi chân trước của nó vừa chạm vào ngực Quan Sơn Nguyệt thì Trương Thanh giật mạnh đường dây. Con thú bị kéo hất về phía sau, chân trước của nó đương nhiên phải rời ngực Quan Sơn Nguyệt.
Con thú chừng như có linh giác, biết điểm nhược yếu của đối phương và nhược điểm yếu ở đây là con người bất lực. Cho nên, Trương Thanh đã mấy lần tiến công nó, nó chẳng màng đến nàng, trái lại nó quyết hạ cho kỳ được Quan Sơn Nguyệt.
Bị giật lùi lại, nó quắc đôi mắt bắn hung quang nhìn Quan Sơn Nguyệt chứ không hề nhìn Trương Thanh. Bất thình lình, nó nhào tới.
Trương Thanh sợ hãi, vội nhún mình nhảy vọt tới trước mặt Quan Sơn Nguyệt. Nhưng nàng ức độ tốc lực, không thể đến nơi kịp lúc chận ngăn con thú chụp xuống Quan Sơn Nguyệt. Thay vì nhảy thẳng đến trước Quan Sơn Nguyệt, nàng rẽ nhanh sang con đường tiến của con thú. Đồng thời, nàng co chân đá mạnh.
Con thú trúng phải cái đá đó, bị bắn lộn mình trở lại, nhào đi mấy vòng. Có lẽ đau quá, nó rống lên mấy tiếng.
Trong khi đó, Trương Thanh đảo bộ bước đến cạnh Quan Sơn Nguyệt, áng ngữ trước y.
Con thú đã đứng lên, bốn chân chồm chồm, đuôi chong thẳng, mắt lườm lườm. Đôi mắt của nó kéo đỏ những đường gân máu, chứng tỏ nó sôi giận cực độ.
Lần nầy, nó không nhìn Quan Sơn Nguyệt mà lại chuyển mục tiêu sang Trương Thanh. Nó thay đổi chiến pháp. Nó nghĩ hạ được Trương Thanh rồi, Quan Sơn Nguyệt sẽ là mồi dễ dàng của nó.
Nó nhìn nàng trừng trừng.
Nàng cũng nhìn nó lom lom.
Bỗng, nó đập duôi xuống đất kêu một tiếng «bịch», rồi bốn chân hỏng đất, thân hình lao vút tới.
Trong tay không có một tấc sắt, gia dĩ nàng không thể bỏ Quan Sơn Nguyệt, nhảy tránh cái vồ của con thú. Nàng liều lĩnh đứng nguyên tại chỗ.
Nàng đứng lặng, nhưng con thú không đứng lặng, bởi nó đã vọt sang. Nó vọt rất nhanh. Hai chân trước của nó sắp chụp xuống hai đầu vai của nàng. Đồng thời, nó há rộng miệng ra, bày răng bén nhọn, như chực ngoạm đầu nàng.
Miệng con thú gần mặt Trương Thanh quá, mùi hôi bốc ra nồng nặc làm nàng buồn nôn.
Miệng thú há rộng, răng bày chơm chởm, nếu miệng nó phập lại thì trọn chiếc đầu của Trương Thanh bị tiện lìa, đừng nói là một phần bị táp mất.
Trương Thanh hoảng hốt, không còn làm sao hơn là liều lĩnh thọc một cánh tay vào miệng thú.
Thọc một cánh tay vào miệng thú, nàng có hai chủ ý. Một là cánh tay đó sẽ quậy trong miệng thú, gây thương tích cho nó. Hai là thú nào cũng mê mồi, ngoạm được rồi thì không còn nghĩ đến miếng mồi kế cận. Miếng mồi kế cận là Quan Sơn Nguyệt, nàng cốt làm sao dời sự chú ý của con thú về nàng, nàng sẵn sàng chịu đựng mọi hiểm nguy để cho Quan Sơn Nguyệt được an toàn. Nàng có ngu dại gì chẳng biết cánh tay thọc vào miệng beo là cánh tay bỏ đi, beo ngậm miệng lại là cánh tay bị tiện lìa.
Con beo trắng khép miệng lại. Song, chẳng rõ tại sao nó không khép mạnh.
Nhờ vậy, cánh tay của nàng không bị tiện, bất quá mấy chiếc răng con beo cắm vào da thịt nàng thôi.
Hai chân trước của nó xuống sát đầu vai nàng, thay vì nó ấn mạnh chân xuống, thì nó lại rút về, qua cái rút đó, nó vuốt đôi chân đầy móng nhọn trên ngực nàng. Mảng áo ngực rách bươm, da rách, thịt rách, máu tươm ra liền.
Tại sao nó không giết nàng? Nàng đứng áng trước Quan Sơn Nguyệt, giương tròn mắt nhìn con thú.
Thương tích trên mình nàng không nặng lắm, bất quá chỉ là những vết xây xát, máu chỉ rướm ra một lúc rồi ngưng đọng.
Bỗng, nàng nhớ lại một việc. Ngày trước, phụ thân nàng có nhổ một cái răng của nàng thay vào đó bằng một chiếc răng giả. Tong chiếc răng giả có chứa chất độc.
Bây giờ, nàng cắn vỡ chiếc răng đó, phun độc sang con thú thì nó phải chết, nhưng làm vậy nàng cũng phải chết luôn vì chất độc đó hại được nàng như hại đối phương.
Bất quá, phụ thân nàng làm cái việc đó là để cho nàng tự vệ, bảo toàn danh tiết nếu gặp trường hợp bị cưỡng hiếp, tuy nàng không sống được, mà kẻ bạo cũng đi đời, danh tiết nàng được gìn giữ trong trắng.
Nàng đã quyết tâm bảo vệ sinh mạng cho Quan Sơn Nguyệt sẵn sàng tiếp nhận mọi hiểm nguy, sẵn sàng hy sinh thì có chết cũng là một việc đương nhiên, miễn sao con thú đừng làm hại Quan Sơn Nguyệt là được.
Nhưng, nàng lại nghĩ, giải pháp đó cũng không ổn. Bởi Quan Sơn Nguyệt thì hôn mê trầm trầm, đã chắc gì sau khi nàng hy sinh, yđược cứu? Trong khi y nằm thoi thóp tại đây, chờ đợi một bất trắc hoặc một nhiệm mầu, nếu có một con beo thứ hai xuất hiện thì sao?
Nàng nhìn con beo, beo nhìn nàng, song phương một người một thú ghìm nhau, như hai kẻ tử thù.
Con beo tiến tới.
Một bước, rồi hai bước, rồi ba bước ...
Khoảng cách giữa người và thú còn độ bốn năm thước. Khoảng cách đó chẳng ra gì, nếu một bên vọt tới là tới ngay bên kia.
Bỗng, con beo nhún chân vọt lên cao, qua khỏi đầu nàng đáp xuống phía hậu, ngay trên mình Quan Sơn Nguyệt. Con beo không ngoạm nát thân thể y, không dùng chân cào cấu trên mình y.
Mà Trương Thanh cũng chẳng còn cắn vỡ chiếc răng phun độc kịp.
Con beo há miệng, cắn ngực áo của Quan Sơn Nguyệt, nhấc bổng y lên, rồi phóng chân chạy đi như bay.
Trương Thanh xanh mặt, cấp tốc phóng chân đuổi theo. Nàng chẳng rõ tại sao bỗng nhiên nàng có sinh lực dồi dào, đuổi theo con thú như chẳng hề trải qua mệt nhọc trong những ngày dài trên con đường nghìn dặm, cộng thêm cuộc giao đấu vừa qua.
Động tác của nàng nhanh quá, con beo vừa phóng đi, nàng đã tới sát phía bên nó. Nàng vươn tay, chụp trúng đuôi nó, rồi trụ bộ trì đuôi nó giữ lại. Nàng dụng lực quá mạnh, vừa kéo đuôi con beo, vừa bóp mạnh tay.
Con beo đau quá, rống lên một tiếng kinh hồn. Nó rống lên, mồm há ra, Quan Sơn Nguyệt rơi xuống đất.
Đuôi bị Trương Thanh nắm chặt, nó uốn cong mình qua một bên, há miệng táp vào tay nàng.
Nàng đảo bộ tràn theo đà xoay của con thú, thành ra người và thú xoay tròn tròn, đà xoay rất nhanh, trông hết sức ngoạn mục.
Người và thú xoay quanh như vậy được một lúc, Trương Thanh cảm thấy choáng váng, suýt hôn mê mấy lượt.
Hơn nữa, tuy con beo không gây thương tích nặng nề trên mình nàng, dù sao cũng là thương tích, tét da, rách thịt, máu chảy. Máu nơi các vết thương đã khô, bây giờ nàng cử động mạnh trở lại, máu khô tróc ra, máu tươi lại rịn.
Nàng càng xoay nhanh người, máu càng bị động, chảy nhiều hơn. Máu rơi đỏ lốm đốm trên mặt tuyết.
Nàng vừa đau đớn, vừa mệt, cố gắng tri trì với con beo một lúc nữa, cuối cùng, đuối sức, nàng buông lỏng tay thì con beo sẽ nhào tới Quan Sơn Nguyệt ...
Đo đó, nàng càng cố đeo cứng vào đuôi con beo và chừng như lúc này nàng không còn kéo giật con thú nữa, mà chính là nó hăng say quay cuồng, lôi cuốn nàng theo vòng tròn với nó.
Làm mọi cách không làm sao cho nàng buông tay được, con thú nổi dã tính lên, nó rống một tiếng, chuyển động cả vùng núi hoang vắng, thay vì nó cứ chạy vòng vòng, nó lại tung mình lên không, cao hơn một trượng. Đương nhiên, nó lôi Trương Thanh theo lủng lẳng dưới đuôi nó. Rồi nó đáp xuống liền.
«Bình!» Nó đáp như vậy, chính Trương Thanh phải chạm mình vào tuyết trước nó. Nàng nghe đau nhói toàn thân, song vẫn còn bám tay nơi đuôi nó.
Nó lại tung mình lên không lượt nữa, định dùng cách nhảy lên đáp xuống, bức bách Trương Thanh phải buông tay.
Trương Thanh kinh hãi, nghĩ nếu để nó hạ xuống lần nữa, nàng bị chạm tuyết hẳn không thể chịu đựng nổi cái đau, nếu nàng không chịu nổi cơn đau, hẳn phải buông tay và như vậy là con beo được tự do, nó sẽ chụp Quan Sơn Nguyệt.
Không còn do dự được nữa, nàng thấy cần phải cắn bể chiếc răng giả có chứa thuốc độc, hạ ngay con beo, dù nàng có bị hại cũng đành.
Nhưng nàng chưa kịp cắn bể chiếc răng độc, bỗng nàng nghe tiếng gió rít lên, rồi một mũi cương xoa, chẳng rõ phát xuất từ đâu bay đến nhắm đúng lưng con beo mà lao vào.
Lúc đó, con beo chưa lên cao lắm, nó hoảng sợ, vội nhào xuống, nhờ khoảng cách không xa nên Trương Thanh chẳng đau đớn như lần trước.
Vừa lúc đó, một bóng người xuất hiện, đồng thời cao giọng mắng con thú:
– Súc sanh! Ngươi lại động dã tánh, muốn hại người phải không?
Đúng lúc người đó xuất hiện, Trương Thanh cảm thấy điểm khí lực cuối cùng còn lại nơi nàng tiêu tan mất. Tự nhiên nàng lỏng bàn tay.
Vì dù nàng có quyết nắm chặt nữa, còn đủ khí lực nắm chặt nữa, nàng cũng không kềm giữ con báo lại nổi.
Con báo tận dụng tất cả sức lực của nó, phóng mình chạy như bay thoáng đã mất dạng.
Bây giờ Trương Thanh lưu ý nhận xét người vừa xuất hiện.
Người đó, là một trung niên thiếu phụ, có thân vóc cao lớn.
Nàng chỉ nhận xét được bao nhiêu đó thôi, bỗng cảm thấy hôn mê liền.
Các diễn tiến vừa qua khích động nàng mãnh liệt, điểm lý trí cuối cùng đã ly khai nàng, nàng chìm trong hôn mê nhanh chóng sau khi không còn vận dụng bản năng tự vệ chi trì với con beo trắng nữa.
Khi nàng tỉnh lại, nàng nghe bao nhiêu đau đớn, nhọc mệt trong người tan biến mất, tinh thần phấn chấn trở lại như lúc bình thường.
Nàng đang nằm, vùng ngồi dậy nhìn quanh. Thì ra nàng được đưa về một sơn động trên bốn bức vách chung quanh có rất nhiều da thú.
Lý trí trở lại với nàng, điều lo ngại nhất cho nàng chẳng phải là trường hợp của nàng, chẳng phải cái khung cảnh hiện tại bao quanh nàng. Vừa tỉnh lại là nàng nghĩ ngay đến Quan Sơn Nguyệt.
Nàng tự hỏi:
“Quan đại ca chết rồi hay còn sống? Nếu còn sống, hiện giờ đại ca ở đâu?”.
Khoảng động quanh nàng không rộng lắm! Bất quá là một diện tích độ vài trượng vuông, trong không gian vài trượng vuông đó, chỉ có mấy vật dụng thông thường.
Chẳng có một bóng người thấp thoáng lai vãng. Như vậy còn biết hỏi ai?
Như vậy, làm sao biết được sự tình?
Nàng cấp tốc hất chăn, vẹt màn, nhảy xuống giường định bước ra ngoài quan sát địa điềm. Nhưng chân nàng vừa chạm nền động, nàng nghe lạnh mình.
Cái lạnh không do một niềm sợ hãi, cái lạnh không do khung cảnh, mà chính do nàng.
Không một mảnh vải nào trên thân mình! Nàng hoàn toàn trần truồng, như con nhộng!
Tuy trong lòng động chẳng có một bóng người, song nàng vẫn nóng mặt. Y phục của nàng đâu? Tại sao nàng trần truồng? Bây giờ lấy gì để che thân thể lõa lồ?
Nàng hoành tay vớ lấy chiếc chăn trên giường đá, quấn vội quanh mình.
Nàng vừa làm cái việc đó, vừa tự hỏi:
“Nơi đây là đâu? Ai đưa ta về đây? Tại sao lại cởi y phục của ta đi? Tại sao lại giấu mất y phục của ta? Ít nhất cũng phải để trên giường cạnh chỗ ta nằm chứ?”.
Tuy nhiên, mất y phục nàng không quan tâm lắm, dù sao thì cũng có chiếc chăn quấn đó, tạm che giấu thân mình được rồi, điều mà nàng quan tâm nhất là tình trạng của Quan Sơn Nguyệt.
Thân thể không lõa lồ nữa, nàng lại định bước ra khỏi khoảng động.
Bên ngoài cửa là một gian thạch thất, tương đối rộng hơn gian của nàng. Nơi đó chất chứa vô số vật dụng hỗn tạp.
Tại một góc, bộ y phục của nàng còn đó, song rách tơi tả trông thảm vô cùng. Giả như chẳng có chiếc chăn, chắc chắn nàng không thể mặc bộ y phục đó trở lại. Bởi mặc y phục đó vào rồi, có khác nào nàng trần truồng? Bộ y phục chẳng còn một khoảng vải nào đủ che chở một bộ phận kín trong người nàng thì làm sao nàng dám mặc? Mà mặc để làm gì, bởi mặc cũng như trần truồng?
Trông thấy bộ y phục, nàng chực nhớ lại cái cảnh đã trải qua trước đó. Con beo trắng đang vấu nàng. Rồi một thiếu phụ xuất hiện, quát đuổi con beo, nàng bất tỉnh luôn.
Nàng chẳng biết mình nữa thì làm sao biết được Quan Sơn Nguyệt an nguy như thế nào? Có thể là thiếu phụ đưa nàng về đây. Còn Quan Sơn Nguyệt?
Thiếu phụ bỏ lại đó, hay cũng đưa chàng về đây? Hay lại an trí chàng một nơi nào khác? Hoặc giả, chàng đã chết rồi và thiếu phụ vì lòng nhân đạo, mai táng chàng ở đâu đó?
Trăm ngàn nghi vấn hiện lên trong tâm tư, Trương Thanh thừ người đứng lặng.
Chẳng biết nàng sảng sốt được bao lâu, bỗng một bóng người hiện ra nơi khung cửa. Thiếu phụ bước vào.
Dù trong cơn thảng thốt, gặp thiếu phụ rồi mê luôn, Trương Thanh vẫn còn nhớ rõ con người đã cứu nạn nàng.
Thiếu phụ vác trên vai một con nai. Thấy Trương Thanh, thiếu phụ nở một nụ cười hiền dịu, gương mặt lộ vẻ từ hòa. Bà cất tiếng:
– Tiểu cô nương! Tiểu cô nương đã tỉnh lại rồi phải chăng? Trời nào có phải dễ dàng đâu, cô nương! Hơn mười mấy hơm rồi đó! Ngày nầy qua ngày khác, ta lo sợ cho cô nương biết bao! Khí lực của cô nương quá kiệt quệ! Ta nhìn máu đổ chung quanh chỗ gặp cô nương phải lắc đầu kinh hãi. Mất máu như vậy mà cô nương còn tri trì được với con thú, cô nương có thể hồi sinh! Thật trên chỗ tưởng tượng của ta!
Trương Thanh hấp tấp hỏi:
– Bà nói sao? Tôi đã hôn mê hơn mười hôm rồi à?
Thiếu phụ mỉm cười:
– Phải đó, hơn mười hôm rồi, cô nương ơi! Trong thời gian đó, cô nương mê man, nếu ngực không còn thoi thóp nhẹ, thì có khác nào người chết?
Rồi thiếu phụ trầm giọng:
– Theo tôi nghĩ, ít nhất cô nương cũng phải tịnh dưỡng ba tháng sau thời gian đó cô nương mới có hy vọng khôi phục nguyên trạng. Sống lại được đây, kể ra cô nương có chân lực hơn người ...
Trương Thanh hấp tấp hỏi:
– Còn Quan đại ca của tôi?
Thiếu phụ lại cười:
– Cô nương hỏi về tiểu tử đó à? Kỳ quái thật! Hắn chẳng có một vết thương nào trên cơ thể, thế mà hắn không cử động được. Tôi chẳng biết làm sao hơn, đành đưa hắn đến Tuyết Lão Thái Thái!
Trương Thanh giật mình:
– Tuyết Lão Thái Thái là ai? Tại sao bà lại đưa Quan đại ca đến thái thái?
Thiếu phụ điềm nhiên:
– Tuyết Lão Thái Thái là một thần y, một thánh thủ đương thời, tiểu tử có chứng bịnh kỳ quái như vậy, ngoài Thái Thái ra, còn ai biết căn nguyên như thế nào mà chữa trị cho hắn? Bên trong, hắn có bịnh gì đó, tôi chẳng biết được đã đành, nhưng bên ngoài, hắn mang nhiều dấu vết do móng beo để lại, cũng đáng ngại lắm.
Rồi, bà tiếp:
– Riêng về tôi, tôi cũng khá rành về y thuật, cho nên, trên mình cô nương có nhiều dấu móng beo, tôi vẫn trị lành được như thường, bây giờ chẳng còn một vết sẹo nào cả, cô nương hãy kiểm soát lại xem thì biết rõ.
Trương Thanh hết sức nghi hoặc. Một thần y tại Côn Lôn Sơn!
Tại Côn Lôn Sơn có bao nhiêu thần y? Nếu chỉ có một người thì người đó chính là người có sự bất hòa với gia gia nàng. Và, Tuyết Lão Thái Thái hẳn nhiên là người đó! Nếu đúng là Tuyết Lão Thái Thái thì tịa sao gia gia nàng lại bất hòa với bà ấy?
Nàng trầm ngâm một lúc, đoạn hỏi:
– Tuyết Lão Thái Thái ở đâu? Tôi muốn đến đó xem cho biết Quan đại ca của tôi ra sao hiện giờ.
Thiếu phụ khoát tay:
– Đừng đến đó, cô nương! Tuyết Lão Thái Thái có đến đâ nhìn qua cô nương một lần, bà có dặn tôi, tuyệt đối không thể để cho cô nương đi đâu, dù là đi gặp bà. Cho nên tôi mới giữ cô nương lại đây, săn sóc cho cô nương. Nơi đây, chỗ hẹp, người ít, bất quá chỉ dung chứa một người tạm trú mà thôi, do đó tôi giữ cô nương lại, còn tiểu tử thì đưa về chỗ ở của Thái thái. Khi nào có lệnh của Thái thái, tôi mới có thể để cho cô nương đi.
Trương Thanh lấy làm lạ:
– Tại sao Tuyết Lão Thái Thái không muốn cho tôi gặp bà?
Thiếu phụ lắc đầu:
– Tôi làm sao hiểu được ý tứ của Thái thái? Con beo trắng đó là gia súc của Thái thái, từ lâu nó không hề hại người, chẳng hiểu tại sao hôm đó nó lại chống cự với cô nương, còn Thái thái thì tôi cũng chẳng biết có thành kiến gì đối với cô nương, người không thích cô nương lắm. Tôi phải khẩn cầu tha thiết, nhưng người vẫn không chịu ra tay chữa trị, tôi không nỡ bỏ cô nương với tình trạng đó đành phải tận dụng sở năng, may thay cô nương lại hồi tỉnh!
Rồi, bà hỏi:
– Cô nương có mối thù chi với Thái thái không?
Trương Thanh lắc đầu:
– làm gì có thù? Bình sanh tôi đâu biết mặt Thái thái!
Thiếu phụ gật đầu:
– Phải! Phải! Cô nương chưa được hai mươi tuổi, trong vòng hai mươi năm qua, Tuyết Lão Thái Thái không hề rời khỏi sơn động đi đâu thì làm gì cô nương gạp bà mà biết mặt?
Bà trầm ngâm một lúc, đoạn lẩm bẩm:
– Lạ thật! Lạ thật! Tôi suy nghĩ mãi, chẳng hiểu tại sao Tuyết Lão Thái Thái lại không thích cô nương!
Thiếu phụ không biết, Trương Thanh đã biết rồi. Bây giờ thì nàng không còn nghi hoặc nữa.
Nàng giống cha, ai có quen biết với gia đình nàng, nhìn qua nàng là có thể nhận ra nàng là con gái của gia gia nàng ngay. Tuyết Lão Thái Thái nào đó, có biết gia gia nàng nên nhận ra nàng dễ dàng. Rồi nhân có thù với gia gia nàng, sanh hận luôn nàng, mặc dù nàng là kẽ vô tội, không liên quan gì đến mối hiềm khích xa xôi.
Thiếu phụ suy nghĩ một lúc lâu, đoạn hỏi:
– Cô nương đưa tiểu tử đó đến Côn Lôn Sơn làm gì?
Bỗng, bà kêu lên:
– Đúng rồi! Cô nương có quen biết Tuyết Lão Thái Thái! Cho nên cô nương đưa tiểu tử đó đến đây nhờ Tuyết Lão Thái Thái chữa trị chứng bịnh cho hắn!
Rồi, bà gằn giọng:
– Có đúng vậy không cô nương?
Trương Thanh lắc đầu:
– Từ bao giờ, tôi chưa hề gặp Thái thái lần nào! Chỉ vì Quan đại ca tôi trúng phải một chất độc cực kỳ lợi hại, những người biết ít nhiều việc giang hồ bảo rằng tại Côn Lôn Sơn có một vị cao nhân mai danh ẩn tích qua nhiều năm, tinh thông y thuật, có tải cải tử hoàn sanh, do đó tôi chẳng quản đường xa, đưa Quan đại ca đến đây, nhờ vị cao nhân đó chữa trị. Thật sự tôi cũng chẳng biết vị cao nhân đó danh hiệu là chi, ở tại khu vực nào trên đỉnh Côn Lôn Sơn này.
Nàng thở ra, tiếp nối như tự nói với mình:
– Chẳng hay Tuyết Lão Thái Thái có phải là vị cao nhân đó chăng?
Thiếu phụ điểm một nụ cười:
– Chính là Lão Thái Thái đó. Bởi tại Côn Lôn Sơn, người ẩn tích mai danh không nhiều, mà trong số người ẩn tích đó, am tường y thuật chung quy chỉ có mỗi một mình Tuyết Lão Thái Thái mà thôi. Thảo nào mà người chẳng hận cô nương?
Bà giả thích:
– Tuyết Lão Thái Thái ưa nhàn tịnh, không chịu bị ai quấy nhiễu. Cô nương đưa người đến nhờ Thái Thái chữa trị, tức nhiên cô nương gây phiền phức cho bà đấy!
Trương Thanh kinh hãi:
– Thế à?
Thiếu phụ gật đầu:
– Thái Thái có tánh rất quái dị. Bà từng cho tôi biết, trên thế gian này, bà chỉ có cừu nhân chứ tuyệt nhiên không có một người bằng hữu. Đương nhiên, cô nương còn ter quá, chắc chắn không phải là cừu nhân của bà rồi. Song biết đâu, cái người chỉ dẫn cô nương đến đây lại không là một cừu nhân của Thái Thái?
Thái Thái có cần gì xét đến ủy khúc của sự tình? Cho nên bà cứ xem cô nương như một cừu nhân, hoặc có liên hệ với một cừu nhân. Bà không thích cô nương là thế đó!
Thiếu phụ kết luận:
– Nếu bà lầm cô nương thì sự lầm lạc đó cũng có lý do, cũng hợp lý lắm!
Trương Thanh thán phục lập luận của thiếu phụ. Và con người có lập luận như vậy hẳn phải giàu kinh nghiệm trường đời.
Tuy nhiên, nàng làm sao đem trường hợp của phụ thân nàng nói hết cho thiếu phụ nghe? Bất quá, nàng chỉ biết là giữa phụ Thái thái và Gia gia nàng có sự bất hòa, còn như tại sao song phương sanh mối bất hòa đó thì nàng hoàn toàn chẳng hiểu chi cả. Dù bây giờ nàng muốn nói lắm, cho thiếu phụ nghe, nàng cũng chẳng biết phải nói làm sao. Nếu như thiếu phụ đi sâu vào chi tiết, nàng lại thêm khó khăn.
Nàng từ từ chuyển câu chuyện quanh ra ngoài vấn đề đó và đổi lối xưng hô luôn:
– Dám hỏi danh tánh đại nương là gì? Tại sao sống đơn độc tại vùng hoang vắng cô tịch như thế này?
Thiếu phụ thở dài:
– Nói đến danh tánh tôi làm chi? Năm xưa, thực sự thì ... cũng có lúc tôi tung hoành ngang dọc trên khắp sông hồ ... Chỉ vì ... Thôi, bỏ qua việc đó đi!
Bà dừng lại một chút, lại tiếp:
– Tôi họ Bành, cô nương cứ gọi tôi là Bành đại nương cũng được rồi. Còn cái tên, có cần chi cô nương phải biết? Hai mươi lăm năm trước, tôi thọ thương.
Tôi bị cừu nhân bức đuổi, chạy đến chân núi Côn Lôn, may mắn gặp Tuyết Lão Thái Thái. Thái Thái đánh đuổi kẻ thù của tôi, chữa trị thương thế cho tôi. Từ ngày đó, tôi lưu lại ngọn núi nầy, tuy có phần cô quạnh, song được cái an nhàn bù lại.
Lâu dần thành tánh, tôi thích thanh tịnh nên quên mất sự nhiệt náo trên giang hồ.
Bởi thế, tôi chấp nhận luôn kiếp sống ẩn dật này, như các bậc chân tu, như các vị tiền bối chưa gần tiên nhưng đã xa tục.
Vốn chưa từng giẫm bước trên giang hồ, Trương Thanh đương nhiên không thể có sự nhận xét thích đáng về mỗi người mà nàng gặp gỡ trên những đoạn đường qua, cho nên về quá khứ của thiếu phụ này, nàng không hề có một ấn tượng rõ rệt.
Vả lại, hiện giờ nàng đâu còn tâm tư nghĩ đến việc gì ngoài sự an nguy của Quan Sơn Nguyệt? Cho nên, thiếu phụ nói sao về bà, nàng cứ nghe vậy, nghe để giữ tròn lễ độ đối với người cứu mạng, chứ không thích thú nghe. Nàng không hỏi han chi cả, khi thấy thiếu phụ ngưng thốt, nàng liền hỏi:
– Tuyết Lão Thái Thái có thể chữa trị cho Quan đại ca tôi lành mạnh chăng?
Nếu có thể chữa trị, thái thái có ưng thuận ra tay tế độ chăng? Đành rằng Thái Thái không thích thấy mặt tôi, song tôi thì dù sao cũng cần gặp bà, gặp để biết tình trạng của Quan đại ca tôi như thế nào, gặp để van cầu bà chữa trị cho Quan đại ca tôi, nếu bà có ý từ khước ...
Bành đại nương khẽ thở dài:
– Từ lúc tôi đưa tiểu tử đến Tuyết Thần Cốc cho lão Thái Thái, đến nay tôi chưa gặp lại bà ngoài cái lần bà dên đây nhìn qua cô nương! Tôi cũng có đến đó mấy phen, song lần nào đến tôi cũng bị Linh Linh cản trở, không để cho tôi vào gặp mặt lão Thái Thái. Như vậy, tôi làm sao biết được tiểu tử hiện giờ như thế nào?
Trương Thanh giật mình:
– Linh Linh là ai?
Bành đại nương «hừ» một tiếng:
– Đồ đệ của Tuyết Lão Thái Thái! Con liễu đầu đó cái tật quá nặng, tật của nàng còn nặng hơn tật của lão Thái Thái! Gặp bất kỳ ai cũng cảm thấy bực tức, bởi chẳng ai chịu nổi cái tật của nàng. Nàng chẳng bao giờ nghe ai giảng lý, nàng cố chấp đến độ có thành kiến quái dị đối với bất cứ ai, bất cứ việc gì trên đời này.
Thực ra, vì tôi nể Tuyết Lão Thái Thái, bởi bà có cái ơn tái tạo đối với tôi, chứ như con liễu đầu Linh Linh đó, tôi nào có xem ra gì? Phi Thiên Dạ Xoa này từ ngày xuất hiện trên giang hồ, chưa hề biết ngán sợ ai, dù là Lạc Hồn Cốc cũng chẳng có giá trị gì trước con mắt của tôi!
Trương Thanh kinh hãi, kêu lên thất thanh:
– Lạc Hồn Cốc? Linh Linh? Linh Linh là con gái của Khổng Văn Thông sao đại nương?
Đến lượt Bành đại nương giật mình, song bà lấy ngay bình tĩnh, điểm nụ cười lạnh, hỏi:
– Cô nương cũng biết cái lão Khổng Văn Thông nữa à?
Bà có vẻ bất mãn rõ rệt. Bà đã tự tiết lộ thân thế của bà là Phi Thiên Dạ Xoa, từng gây chấn động trên giang hồ một thuở, bà tiết lộ cho Trương Thanh rõ, đáng lẽ Trương Thanh phải trố mắt, phải hãi hùng, phải thán phục và phải hỏi nhiều, hỏi gấp về những thành tích của bà. Nhưng, nàng lờ đi, như nghe nói đến một chiếc lá vàng rơi rụng bên cạnh đường qua. Chẳng những nàng lờ về sự việc của bà, nàng lại hấp tấp hỏi về Khổng Văn Thông! Chính bà đã tỏ rõ cái ý khinh thường Cốc chủ Lạc Hồn Cốc còn nàng lại chú ý một cách đặc biệt, thế ra Khổng Văn Thông là nhân vật quan trọng hơn bà sao?
Trương Thanh đã hiểu Linh Linh là con gái của Khổng Văn Thông, Linh Linh hiện đang ở cạnh Tuyết Lão Thái Thái, mà Quan Sơn Nguyệt thì lại ở trong tay lão Thái Thái, hiểu được điều đó, tự nhiên nàng phải lo lắng phi thường. nàng còn nghĩ gì đến những việc khác? Chẳng trách nàng không quan tâm đến sự tiết lộ thân thế của đại nương! Và nàng làm sao nhận thấy kịp cái vẻ bất mãn nơi gương mặt của đại nương?
Nàng khẩn trương rõ rệt, thốt gấp:
– Vô luận làm sao, tôi phải đến Tuyết Thần Cốc, gặp Quan đại ca tôi mới được! Nếu không thì ...
Nàng kêu lên:
– Nguy lắm, đại nương ơi!
Bành đại nương kinh dị, trố mắt hỏi:
– Tại sao? Cái gì nguy cấp mà cô nương khẩn trương cực độ như thế? Cái gì làm cho cô nương biến đổi lạ lùng thế?
Trương Thanh lấp vấp thốt, vì nàng mất cả bình tĩnh:
– Đừng hỏi gì hết, đại nương! Tôi phải đến đó, đến gấp! Nếu Khổng Linh Linh biết được thân thế Quan đại ca tôi thì cầm như hỏng, hỏng tất cả! Quan đại ca tôi phải táng mạng nơi tay nàng, đại nương ơi!
Bành đại nương hết sức lạ lùng, trố mắt hỏi:
– Tại sao? Cô nương sợ cô bé Linh Linh đó ăn tươi nuốt sống tiểu tử họ Quan ấy à? Thực sự thì, quỷ liễu đầu Linh Linh đã học chân truyền của Tuyết Lão Thái Thái, song tôi thì tôi chẳng hề xem nó ra quái gì. Nếu không nể mặt lão Thái Thái, tôi đã băm xác nó ra thành ngàn vạn mảnh tử lâu! Cô nương không việc gì phải sợ nó. Có điều chi cứ tỏ cho tôi biết, tôi sẵn sàng tiếp trợ cô nương.
Chứ hành động loạn lên, chỉ có hại mà không lợi mảy may nào. Vả lại, không chắc gì chúng ta lọt vào Tuyết Thần Cốc, gặp lão Thái Thái đâu! Quỷ liễu đầu đó sẽ ngăn trở chúng ta là cái chắc!
Trương Thanh biết đại nương nói thật chứ không tìm cách dọa khiếp nàng.
Dù sao thì nàng cũng thấy là còn có cái may, bởi Bành đại nương bất mãn Linh Linh, tức nhiên hận Linh Linh, nếu có cuộc xô xát với Linh Linh, nàng sẵn có một viện thủ. Giả như Tuyết Lão Thái Thái có quở trách nàng thì Bành đại nương sẽ hết lòng biện hộ.
Bây giờ, nàng có nói thật sự tình cũng chẳng sao. Nàng thốt:
– Quan đại ca tôi, tên thật là Quan Sơn Nguyệt, sau này đổi tên Nguyệt thành tên Minh, điều đổi tên đó rồi sau tôi sẽ giải thích cho đại nương hiểu một ngày nào đó, chứ hiện giờ thì không cầ n thiết lắm. Quan đại ca tôi là đồ đệ duy nhất của Độc Cô Minh ...
Bành đại nương kinh hãi:
– Sao? Ngươi nói sao? Tiểu tử là đồ đệ của Độc Cô Minh có ý tứ gì? Bình sanh lão ấy có bao giờ chịu thu nhận đồ đệ?
Trương Thanh hấp tấp giải thích:
– Đại nương đừng nghi ngờ! Độc Cô tiền bối đã chết rồi! Sự thật thì Độc Cô tiền bối có thu nhận một đồ đệ duy nhất và người đồ đệ đó chính là Quan đại ca tôi.
Bành đại nương lộ vẻ thê thảm ra mặt, thốt qua mơ màng:
– Chết rồi! Một con người chết dễ, chết nhanh như thế được sao?
Bà hỏi:
– Lão ấy chết trong trường hợp nào?
Trương Thanh đáp:
– Tôi cũng chẳng biết rõ nữa đại nương! Để sau này, Quan đại ca sẽ nói cho đại nương hiểu.
Bành đại nương lấy lại bình tĩnh, hỏi tiếp:
– Được rồi. Bây giờ ta muốn biết sự việc của tiểu tử. Hắn làm sao mà cô nương lo lắng thế?
Trương Thanh thốt:
– Quan đại ca trúng độc của Khổng Văn Thông. Bù lại, đại ca tôi đã sát hại lão ấy rồi. Nếu sự việc này thấu tai Khổng Linh Linh, nhất định nàng sẽ báo thù ...
Bành đại nương giật mình, biến hẳn sắc mặt!
– Nguy! Nguy lắm!
Bà suy nghĩ một chút rồi tiếp:
– Tuy vậy, cũng chẳng cần gì phải vội. Khổng Linh Linh theo Tuyết Lão Thái Thái từ thuở nhỏ, chính phụ thân nó cũng chẳng biết nó ở đâu. Dù có biến cố lớn lao như vậy, chưa chắc gì tin tức đến với nó sớm!
Nhưng Trương Thanh làm sao yên tâm được? Nàng hấp tấp thốt:
– Nếu Quan đại ca vô tình tiết lộ thì làm sao?
Bành đại nương lại giật mình:
– Nếu thế thì đáng lo lắm! Mình không thể không đi gấp được! Cô nương ở đây chờ tôi nhé, tôi đi lấy y phục cho, thay đổi xong rồi, mình đi liền ...