Quan Sơn Nguyệt không ngờ trong chuyến Tây hành này lại bị lôi cuốn vào một việc ngoài ý muốn, việc tranh chấp quanh một vật có tên là Bích Ngọc Phượng Hoàng. Nhưng chàng có biết Bích Ngọc Phượng Hoàng là cái quái gì?
Vì dùng con đường thủy mà đi, chàng phải có mặt trên một chiếc thuyền, rồi vì sự có mặt đó mà người ta ghép chàng vào một đảng cướp. Người ta cho rằng chàng là đồng đảng của một tay thủ lãnh ba mươi sáu thủy trại, người ta cho rằng chàng sinh sống với nghề lục lâm. Thân danh là Lịnh Chủ Minh Đà mà lại bị liệt vào hàng cường đạo, nghĩ còn gì oái oăm mai mỉa hơn?
Chàng cau mày thốt:
– Thương huynh! Nội tình sự việc như thế nào tại hạ không hiểu mảy may, tốt hơn hết Thương huynh nên giải thích đại lược cho tại hạ được am tường Bích Ngọc Phượng Hoàng là vật chi ...
Thương Nhân chớp mắt:
– Bích Ngọc Phượng Hoàng đương nhiên là con chim Phượng Hoàng do bích ngọc mà thành hình.
Quan Sơn Nguyệt không tin:
– Một vật như thế, cho dù là bằng ngọc quý đi nữa, đâu có cái hấp lực lôi cuốn bao nhiêu người vào vòng tương tàn tương sát với nhau?
Ngô Phụng điểm một nụ cười:
– Chỗ quý của Bích Ngọc Phượng Hoàng không ở nơi hình thức. Nói cách khác,vật không quý do cái chất thực của nó.
Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ:
– Không lẽ bên trong nó có chứa đựng cái gì vô giá?
Ngô Phụng lại cười:
– Có lẽ lắm chứ. Chính vì cái lẽ đó mà có sự ngày nay, Quan đại hiệp ạ.
Hơn thế, phàm là con người luyện võ như chúng ta, bất cứ ai cũng ...
Ngô Khẩu Thiên vội chen vào:
– Hiện tại không phải lúc chúng ta có thể nhàn đàm, tình hình bắt buộc chúng ta phải thực tế hơn mới được. Cái gã chạy thoát vừa rồi đó hẳn là đi báo cáo với đồng bọn ở phía trước. Chúng ta phải chuẩn bị đối phó với họ.
Thương Nhân cười nhẹ:
– Sợ cái gì chứ, có hai vị, có bọn huynh đệ của tại hạ, dù cho đối đầu với thiên binh vạn mã chúng ta vẫn thừa sức thủ thắng kia mà, huống hồ đối phương gồm mấy tay đó thôi. Đó là tại hạ không dám nói đến sự tiếp trợ của Quan đại hiệp.
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Thương huynh đừng vội nói những lời đó, chúng ta nên tạm thời bỏ qua vụ chiếc Bích Ngọc Phượng Hoàng đi, tại hạ muốn biết bọn người kia ...
Thương Nhân lộ vẽ không vui đáp:
– Quan đại hiệp, tại hạ từ ngoài nghìn dặm làm cuộc trường chinh này với một số anh em đồng đạo chẳng qua vì sự bức bách không đặng đừng. Rồi tình cờ mà gặp đại hiệp, tại hạ muốn kết giao hoàn toàn vì nghĩa vụ nên cố gắng làm cho đại hiệp một cái gì ...
Quan Sơn Nguyệt chỉnh sắc mặt:
– Thạnh tình của Thương huynh tại hạ hết sức cảm kích, song từ thuở nhỏ tại hạ được ân sư giáo huấn tại hạ luôn luôn giữ lòng ngay, bất cứ vật gì không phải là vật của mình thì đừng bao giờ mưu toan chiếm đoạt hoặc ngửa tay tiếp nhận do người khác tặng. Do đó tại hạ không có ý bái lãnh món quà tình của Thương huynh.
Thương Nhân thoáng giật mình, nhưng rồi y điểm nụ cười lạnh, tiếp:
– Nếu vậy thì trong khi bọn tại hạ tưởng là mình vuốt mông ngựa không ngờ lại chạm phải chân ngựa. Ngựa bị chạm chân là phải đá.
Y thay đổi thái độ, thái độ của y trong phút giây này thật khó coi quá chừng.
Quan Sơn Nguyệt định phát tác, song nghĩ lại người ta có hảo ý như vậy mà mình cự tuyệt thì tự nhiên người ta thẹn, người ta bất mãn.
Làm mất hứng của người cũng là điều đáng trách thật. Mình đáng trách thì đâu nở sừng sộ với người. Chàng dằn lòng không buông lời phản đối.
Ngô Phụng cười nhẹ, cất tiếng:
– Quan đại hiệp là nhân vật trong chánh phái, tự nhiên không thể nào chấp nhận cái lỗi thu tài đoạt vật của bọn tà được. Dòng nước trong kia, nếu vô chủ uống vào mấy ngụm cũng là có thương tổn đến liêm sỉ rồi. Huống hồ một vật có chủ quyền hẳn hòi như chiếc Bích Ngọc Phượng Hoàng. Quan đại hiệp dè dặt là phải.
Thương Nhân phẫn nộ:
– Tuy tại hạ khoát cái danh đạo tặc, song mình có sự tự tin mạnh là hành động luôn luôn hợp tình hợp lý, nghĩ ra còn sáng giá hơn bọn ngụy quân tử nhiều.
Vả lại, những kẻ xấu xa nhất trên đời này nào phải đều xuất thân từ lục lâm đâu?
Đành là cường đạo nhưng bọn tại hạ lại thuộc hạng cường đạo có đạo nghĩa, chuyên cướp đoạt tài sản gầy dựng bằng điều bất nghĩa. Hào kiệt Giang Nam bất cứ ai cũng có thể chứng minh hành vi nhân nghĩa của bọn tại hạ.
Ngô Phụng mỉm cười:
– Cái danh của Tổng trại chủ họ Thương trên giang hồ còn ai chẳng biết.
Tôi có ca ngợi cũng là thừa. Chỉ vì Quan đại hiệp xuất thân không cùng nguồn gốc với chúng ta nên có quan niệm khác.
Quan Sơn Nguyệt toan tranh luận với nàng bởi nàng đưa ra một vài ý kiến không hạp với tâm tư của chàng lắm.
Nhưng Ngô Phụng ngăn chận lại, đồng thời đưa tay chỉ ra ngoài, thốt:
– Đối phương đã tìm đến tận cửa kìa, trước hết hãy giải quyết sự tình với họ rồi mình muốn nói gì với nhau sẽ nói sau.
Mọi người cùng hướng mắt ra ngoài.
Trên khoang thuyền, bên ngoài cửa có năm sáu người đứng giăng thành hàng. Trong số đó có đại hán vừa chạy thoát, bất quá y đứng xa xa cách đồng bọn mấy thước. Năm sáu người đó có một người đầu đội mão nhỏ bằng lụa, mang mắt kiếng, mình vận chiếc áo da dê, tay áo thòng dài, tác độ trung niên, có dáng dấp một người buôn bán. Chừng như y là đầu não của nội bọn. Thần thái của y rất bình tịnh, miệng ngậm một ống điếu dài, đầu điếu chớp chớp lửa.
Tuy vào cuối thu, thời tiết không lạnh lắm mà y vận áo ấm rất dày, chừng như y muốn đi trước thời gian và cho rằng mùa đông đã sang.
Bất quá thân vóc y ốm như vót lại có vẻ bệnh hoạn, cho nên y cần mặc áo dày như vậy chăng? Trông sắc diện đó giả như y mặc thêm một lớp áo nữa, hơi ấm cũng chẳng đủ cho y dễ chịu.
Điều đáng lấy làm lạ là gió thu luồn mạnh vào thuyền thế mà ngọn khói nhỏ bốc từ ống điếu cứ lên cao, thẳng đứng, không hề bị giao chuyển lung linh.
Trong thuyền ai ai cũng biết võ công và đều là những tay khá, có khá mới được chọn tham gia chiến dịch đoạt Bích Ngọc Phượng Hoàng này, họ nhìn thoáng qua là biết ngay người trung niên gầy ốm bệnh hoạn đó phải là một tay cao thủ.
Ngô Phụng tiến lên nghinh đón, điểm nụ cười duyên, thốt:
– Vương lão gia đến đúng lúc quá chừng. Xin phân xử hộ chúng tôi việc này.
Người trung niên cười lạnh, cầm ống điếu chỉ xác chết nằm trên sàn thuyền, cất tiếng:
– Không cần phải xử. Lão Triệu có mắt mà không ngươi, thấy Hắc Phụng Hoàng nữ hiệp lại cứ tưởng là gái tầm thường thì có chết cũng chẳng oan mạng chút nào.
Ngô Phụng cười nhẹ:
– Vương lão gia hiểu như vậy là tốt đó. Bên ngoài có gió lớn quá, cơ thể của lão gia chịu làm sao nổi, vậy để tôi dìu lão gia trở về khoang trước ngơi nghỉ.
Nàng không lộ vẻ cố kỵ gì cả, ngang nhiên bước tới trước mặt họ Vương.
Ngô Khẩu Thiên và Quan Sơn Nguyệt đều lo lắng thay cho nàng, họ nghĩ rằng nàng làm như thế là mạo hiểm cực độ.
Người ta đã khám phá ra hành tung rồi, sao nàng còn nạp mạng chứ? Làm như vậy có khác nào là tự nạp mạng cho người ta đâu.
Ngờ đâu họ Vương không hề nhích động, cứ để cho nàng đến sát bên mình, lại còn để nàng chụp vào cánh tay bày vẽ trìu mến.
Ngô Phụng cười duyên thốt:
– Tay của Vương lão gia sao mà lạnh quá, lạnh như tay người chết vậy đó!
Ra đây làm chi cho khổ vậy lão gia? Vào trong kia mà nghỉ, tránh gió độc đi, lão gia.
Người trung niên họ Vương bật cười ha hả, nắm cổ tay tròn mềm của nàng, đáp:
– Bé cưng ơi! Biết điều như vậy, chả trách được ta yêu! Bất quá không có gì phải vội vã, ta đứng đây một lúc nữa thôi, rồi thuyền cũng đổ bến mà, có lâu chi cho lắm đâu!
Ngô Phụng đảo mắt nhìn qua một bên, quả thấy bọn phu thuyền đang chuẩn bị dây thừng và đòn dài để đổ lại. Bất giác nàng biến sắc, vội quay đầu về phía Thương Nhân gọi:
– Thương trại chủ! Tìm cách gì ngăn trở, đừng cho thuyền dừng lại!
Thương Nhân không rõ nàng có ý tứ gì, song nàng đã bảo thế thì y cũng tuân theo, vội khoát tay.
Hai tên thuộc hạ của y lập tức bước ra ngoài, vừa đi được hai bước, một đại hán đứng cạnh trung niên họ Vương đã nhích động thân hình. Kế tiếp, một đại hán nữa tiến ra, mỗi bên một người, bốn chưởng đồng phát lại đồng cao giọng hét:
– Trở vào gấp!
Hai tên lục lâm cường đạo bị chưởng lực đánh bật nhào ngược lại, ngã xuống.
Thương Nhân biến sắc, vung chiếc bàn toán sắt đánh tới.
Ngô Phụng lại kêu lên:
– Đừng làm gì khác hơn là ngăn trở thuyền cặp bến!
Thương Nhân biết ngay việc ngăn trở thuyền cặp bến có tầm quan trọng rất lớn, nếu không vậy thì Ngô Phụng đâu phải quýnh quáng lên. Y lại khoát tay bảo:
– Tất cả đều xuất lực, ngăn trở thuyền cặp bến cho ta!
Thuộc hạ của y còn lại hơn mười mấy người, được lịnh rồi lập tức hành động.
Nhưng trước mặt họ có đối phương chận lối, làm sao đi được? Họ phải lách qua hữu, rẽ qua tả, vòng ngả sau tìm lối đi.
Bên hữu, có người phá được một khoảng trống rồi, còn bên tả thì một số người khác đang đập phá vách thuyền ầm ầm.
Phá được ba nơi họ cũng không ra ngoài được, bởi tại cả ba nơi đều có người trấn giữ. Cứ cách ba thước là có một hán tử đứng nghiêm chực chờ họ.
Một vài gã lục lâm định đột kích phá vòng vây mà đi, nhưng kẻ nào vừa ló đầu ra là bị chưởng lực đánh tới bắt buộc phải thụt đầu vào.
Người phát xuất chưởng lực có công phu cực kỳ thâm hậu.
Trong khoang thuyền có thêm hai xác chết, xác của hai gã lục lâm đầu tiên vâng lịnh Thương Nhân chạy đi ngăn trở bọn phu thuyền. Bên cánh của họ Vương có một người khác cũng bị thương, song không đến nỗi táng mạng.
Quan Sơn Nguyệt thấy trong khoảng khắc đối phương sát hại mấy mạng người, đành là việc không liên quan chi đến chàng nhưng dù sao thì sự giết chóc này cũng có phần tàn nhẫn, mà chàng thì trọng nghĩa khí giang hồ, do đó chàng không thể điềm nhiên. Chàng vung quyền đánh ra bên ngoài một chiêu, đồng thời hét:
– Bọn khát máu dã man ở đâu dám đến đây hoành hành ...
Quyền lực của chàng chẳng phải nhẹ, tay chàng vừa vút qua khoảng trống hán tử bên ngoài nghinh tiếp liền, song hắn không chịu nổi thần lực của chàng.
Rú lên một tiếng thảm, hán tử đó bị bắn nhào về phía hậu, rơi luôn xuống nước.
Chắc chắn là hắn không thể sống sót.
Trung niên họ Vương thoáng giật mình, cười lạnh thốt:
– Tốt! Tốt lắm đó, tiểu tử! Bản lĩnh cũng có hạng đấy. Nhưng, hãy kiên nhẫn đợi lên bờ rồi lão gia sẽ cho ngươi biết chút khổ não. Người của ta đâu phải vô giá trị mà ai muốn sát hại lúc nào tùy thích!
Thấy chàng vừa xuất thủ là hạ được tên hán tử đứng canh bên ngoài, Ngô Phụng lại kêu lên:
– Ra gấp đi Quan đại hiệp! Chận bọn phu thuyền, đừng cho chúng cặp bờ!
Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, chẳng hiểu việc ngăn trở thuyền cặp bến như vậy có tầm quan trọng ra sao mà nàng quá thiết tha lo lắng, nhưng cứ như tình hình này thì hẳn là nàng có lý do chánh đáng và lý do đó phải được tôn trọng tuân hành. Không đắn đo, chàng vọt mình xuyên qua khoảng trống ra ngoài.
Bên ngoài có sự canh phòng cẩn mật, một kẻ chết rồi, có kẻ khác thay liền, chàng vừa ló đầu ra, một loạt tiếng rẹt rẹt vang lên, hơn ba bốn thanh đao rít gió từ nhiều phía bay tới. Đao chớp sáng, sanh gió vù vù, khí thế cực kỳ mạnh.
Tuy chàng có vận dụng chân khí tạo thành bức tường hộ thể, song chàng không dám dùng da thịt mà chạm với sắt thép, lập tức chàng thụt đầu vào.
Không ra được, bắt buộc phải thụt đầu trở lại, Quan Sơn Nguyệt đâm cáu, vung tay rút nhanh thanh Hoàng Diệp Kiếm kêu một tiếng soạt, thanh kiếm lóe lên kim quang tỏa ngời, chàng khoa thanh kiếm hộ trì trước ngực rồi vọt ra lượt nữa.
Như lần trước, ba ngọn thanh đao chớp lên bay vút tới. Nhưng làm gì thứ vũ khí đó chận nổi Hoàng Diệp Kiếm là vật chí báu? Nhiều tiếng «xoảng xoảng» vang lên, mấy thanh đao bị kiếm chặt đứt thành bảy tám đoạn.
Người trung niên họ Vương biến sắc thật sự, hét lớn:
– Đừng để cho hắn chạy thoát!
Tuy mất vũ khí, bọn hán tử không sợ chết, cả năm người dàn thành hàng chữ nhất đứng ngăn lòng khoang thuyền rộng độ sáu bảy thước, ngã thì chịu chứ không bỏ chạy.
Quan Sơn Nguyệt dứ tới một nhát kiếm định dọa cho chúng tháo lui, song năm hán tử như chẳng trông thấy gì, chẳng những không lùi trái lại còn bước dồn tới.
Trong khi đó, sau lưng chúng hiện ra một toán khác cũng dàn thành hàng ngũ chuẩn bị thay thế bọn phía trước nếu bọn này bị hạ. Rồi một toán thứ ba hiện ra chuẩn bị thay cho toán thứ nhì. Bọn chúng như có ý quyết dùng xác thịt làm bức tường ngăn chận Quan Sơn Nguyệt.
Trong tình thế đó, Quan Sơn Nguyệt làm sao vung kiếm chém rạp tới người để dọn lối đi? Chàng giật mình ngưng tay lại.
Ngô Phụng trông thấy vội hét to:
– Mặc chúng Quan đại hiệp! Cứ giết, giết để dọn lối, càng giết nhiều càng hay, bởi chúng đáng chết!
Người trung niên họ Vương lạnh lùng thốt:
– Muốn giết cứ giết. Vay nợ máu phải trả bằng máu, cái đó là lẽ tự nhiên, chắc các ngươi thừa hiểu.
Hàng người thứ nhất tiến đều, họ còn cách Quan Sơn Nguyệt ba bốn thước.
Họ dừng chân, mắt trợn trừng, chưởng đưa cao chực chờ phát xuất.
Quan Sơn Nguyệt đâu có sợ chưởng lực của đối phương mặc dù họ đông người. Chàng nghĩ nếu vung thanh Hoàng Diệp Kiếm lên thì chẳng những hóa giải chưởng lực của họ dễ dàng, mà lại còn sát hại tánh mạng họ nữa.
Vung kiếm báu mà giết bọn người tay không thì không thể nào chàng làm được một việc như vậy.
Không làm được thì phải lùi, chứ chẳng lẽ đứng đó chờ họ ra tay mà chịu khổ? Chàng lùi bước.
Nhưng lúc đó Ngô Khẩu Thiên từ trong khoang thuyền chui qua lỗ hổng ra ngoài, lão ta không nhân từ như Quan Sơn Nguyệt, vung chiếc bố chiêu bài quét ngang qua.
Bọn hán tử cùng một lúc phát chưởng vừa nhanh vừa mạnh nghinh đón mãnh bố của Ngô Khẩu Thiên.
Song phương dùng tận lực bình sanh. Kình lực chạm nhau chấn động con thuyền chao chao như bị sóng lớn nhồi, Ngô Khẩu Thiên lùi lại mấy bước, nếu Quan Sơn Nguyệt không gấp rút kiếm về thì có thể là lão đâm mình vào mũi kiếm mà thủng mình.
Bên bọn hán tử, có ba tên bị mãnh bố quét trúng cổ tay, bố bén như kiếm, chặt đứt sáu bàn tay rơi xuống nền thuyền, máu tươi rơi vãi tung tóe. Dù thọ thương, họ không giải tỏa hàng ngũ, ai còn nguyên tay thì bình tịnh, ai bị đứt tay vẫn đứng nguyên tại chỗ không nhúc nhít, mày không cau, trán không nhíu.
Ngô Khẩu Thiên giật mình kêu lên:
– Lợi hại! Lợi hại! Ta không ngờ bọn này lỳ đến mức độ đó! Mà cũng có công lực rất khá mới chịu nổi thế công của ta. Đến hôm nay ta mới gặp những kẻ hữu hạng, một dịp mở rộng tầm mắt của ta.
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Chẳng lẽ chúng là những tượng gỗ vô tri vô giác? Chúng không sợ chết à?
Người trung niên cười mỉa:
– Người của Vạn Ma Sơn Trang đừng nói là đứt hai tay, dù cho đứt đầu đi nữa cũng chẳng ai nhăn mặt nhíu mày!
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Vạn Ma Sơn Trang? Nơi đó là địa phương nào thế?
Ngô Khẩu Thiên lắc đầu:
– Lão phu xuôi ngược khắp sông hồ đến tuần tuổi này vẫn chưa hề nghe ai nói đến cái tên đó.
Người trung niên cười lạnh:
– Vạn Ma Sơn Trang bất quá là một chốn tầm thường, chẳng có danh gì đối với khách giang hồ, song người trong sơn trang là thế đó, đem so với cao thủ giang hồ có được chăng?
Ngô Phụng lại kêu lên:
– Đừng nói chuyện gì với họ nữa Quan đại hiệp! Hãy ra phía sau lái thuyền gấp đi!
Người trung niên bật cười ha hả:
– Bây giờ thì chỉ sợ đã muộn rồi cô bé ơi! Đợi một chút nữa đi, lên bờ rồi lão gia sẽ cho các ngươi thấy thủ đoạn lợi hại của Vạn Ma Sơn Trang như thế nào.
Ha ha! Tài nghệ như các ngươi mà cũng hòng đoạt Bích Ngọc Phượng ...
Thuyền quả nhiên đâm mũi vào bờ, Ngô Phụng khẩn cấp cực độ, thét lên:
– Quan đại hiệp đừng làm mất thì giờ! Phải biết lên bờ rồi là chúng nắm trọn vẹn ưu thế đấy nhé.
Nhưng Quan Sơn Nguyệt làm sao hạ thủ được với bọn người ngăn chận trước mặt? Chàng trông ra, thấy thuyền chỉ còn cách bờ sông độ hơn mười trượng thôi.
Bỗng có tiếng dội mạnh từ dưới thuyền vọng lên, mường tượng thuyền chạm phải một vật gì, liền theo đó thuyền đảo lại đồng thời chênh qua một bên.
Thuyền dội mạnh quá, trên thuyền không ai giữ vững thế đứng, có người ngã xuống. Những kẻ đứng sát mạn thuyền ngã luôn xuống nước.
Những kẻ ngã xuống nước đều có võ công cao, song không quen thủy tánh nên rơi xuống rồi là chẳng làm sao vùng vẫy ngoài cái việc kêu rú lên. Trong khoảng khắc họ uống nước no, chìm luôn xuống đáy sông.
Người trung niên thoáng biến sắc mặt, hét hỏi:
– Cái gì? Tại sao thế?
Một hán tử ở phía sau lái thuyền đáp:
– Bẩm sư gia, lườn thuyền mỏng mà nơi này thì dưới lòng sông có nhiều chướng ngại vật, chính là nơi cố kỵ cho việc đỗ thuyền. Bởi sự tình cấp bách, bất đắc dĩ ...
Người trung niên họ Vương mất cả bình tĩnh, hấp tấp quát:
– Quân vô dụng! Sao không quăng bọn phu thuyền xuống sông bắt chúng đội thuyền đưa vào bờ?
Hán tử đó vâng lịnh, một phút sau có tiếng ồn ào ở phía lái thuyền, chứng tỏ đám thuộc hạ của họ Vương bức bách phu thuyền nhào xuống nước nâng thuyền.
Chừng như Ngô Phụng nghĩ ra được một kế sách gì thần diệu vội kêu lên:
– Thương trại chủ! Tìm cách đánh đắm thuyền, chúng sẽ không còn hành hung ở dưới nước được nữa.
Thương Nhân từ trong khoảng trống nhìn ra, thấy bọn người vừa nhảy xuống nước để nâng thuyền, cho rằng ý kiến của nàng rất hợp với tình thế. Đối phương không quen thủy tánh, mà bọn thuộc hạ của y thì toàn là những tay hoành hành trên thủy đạo, như vậy rất dễ hạ đám Vạn Ma Sơn Trang, dù khoảng cách từ thuyền đến bờ không xa lắm song đối phương không làm sao lên bộ kịp với thuộc hạ của y. Chúng sẽ bị dìm sâu trong nước và con thuyền sẽ không được nâng lên đưa vào bờ. Nghĩ thế, y liền ra lịnh toàn thể bọn thuộc hạ của y ra tay hành động gấp.
Người nào người nấy dùng hai chân vận dụng động lực đạp xuống lườn thuyền, thuyền lủng, nước từ dưới bắn lên ồ ồ.
Đám người của Vạn Ma Sơn Trang hoảng sợ, chạy tán loạn, người trung niên họ Vương la hét vang dội, song làm gì ngăn chận được bọn chạy chết đó.
Thuyền đắm rất nhanh, nước vào ngập đáy rồi.
Ngô Phụng vui mừng ra mặt, lại gọi:
– Ra ngoài quay mũi thuyền lại đi, Thương trại chủ! Hay lật úp xuống được thì càng tốt!
Thương Nhân cũng có ý nghĩ như nàng vậy, nên không đợi nàng dứt lời, đốc suất mươi tên thủ hạ nhảy ra ngoài nhào xuống sông luôn.
Thuyền dù to, song mười đại hán có sức mạnh như thần hiệp lực mà lật, thiết thưởng cũng chẳng khó khăn gì.
Thương Nhân và thủ hạ nhảy xuống nước rồi, lập tức hiệp nhau lay chuyển con thuyền.
Thuyền quay, đảo, mường tượng một quả bóng bị sóng to nhồi.
Bọn người trên thuyền đều sợ hãi biến sắc mặt như màu đất, tay quờ quạng, bám được vật gì cứ nắm chắc vật đó mà chịu, sợ rơi xuống nước. Dĩ nhiên chẳng còn ai giữ đấu chí được một phần nhỏ.
Chỉ có người trung niên và bốn tên đồng bọn đứng cạnh lão ta là tương đối còn giữ được trầm tĩnh phần nào.
Họ quả là những tay có võ công thâm hậu cực độ, thuyền tròng trành chực lật thế mà họ xuống tấn đứng vững như đinh đóng.
Hai trong bốn người đó lấy ám khí trong tay áo ra, đó là loại tụ tiễn, nhắm bọn Thương Nhân rất chuẩn, phóng tiễn liền.
Thương Nhân thấy trước nên hụp mình xuống nước tránh. Nhưng bốn năm tên bộ hạ của y trúng tên, buông tay chết ngay, xác chếtå nào cũng tím xẫm như màu mực loãng.
Ngô Phụng vội gọi:
– Tên có độc đó Thương trại chủ, khó mà phòng bị được. Hãy lặn mình xuống nước đập phá lườn thuyền đi.
Thương Nhân vừa trồi đầu lên, nghe nàng bảo thế, lại lặn xuống, không lâu lắm, con thuyền bỗng rung chuyển mạnh.
Hiển nhiên Thương Nhân và thủ hạ đã xuất thủ rồi.
Người trung niên biến sắc, hét to:
– Hắc Phụng Hoàng! Ta dễ dãi với ngươi như vậy là quá đáng rồi!
Ngô Phụng không hề sợ hãi, bật cười khanh khách:
– Vương lão gia, tôi biết «Phích Lịch Thần Công» của lão gia rất lợi hại, nhưng nếu lão gia thi triển môn công phu đó thì cả chiếc thuyền này không làm sao chịu nổi, đừng nói là người và vật trong thuyền.
Người trung niên tức uất nhưng đâu dám phát tác?
Nhưng lão ta đâu chịu bị chế phục dễ dàng như thế. Lão cao giọng thốt:
– Hắc Phụng Hoàng! Lên bờ rồi ngươi đừng hòng van xin ta tha mạng! Ta sẽ sử dụng Ma Hỏa Luyện cho ngươi biết tư vị của nó ra sao. Ngươi đừng kêu khổ đấy nhé!
Ngô Phụng vẫn cười lớn:
– Vương lão gia ơi! Nghe lão gia nói ai cũng phát rung! Song lão gia đừng quên từ thuyền đến bờ khoảng cách còn khá xa, chỉ sợ trước khi tôi nếm mùi Ma Hỏa thì lão gia lại nếm mùi nươc sông!
Người trung niên nín lặng.
Ngô Phụng lại cười vang:
– Vương lão gia ơi! Tốt hơn nên trao Bích Ngọc Phượng Hoàng ra đi, tôi sẽ nghĩ hộ lão gia một phương pháp tự tồn giúp cho lão gia sống thêm nhiều ngày tháng, khỏi bị chết oan. Bằng lão gia ngoan cố thì cuối cùng rồi cũng chẳng mang vật đó mà xuống âm phủ được.
Người trung niên lắc đầu:
– Không! Thà lão phu hủy diệt vật đó còn hơn là trao cho ngươi.
Ngô Phụng mỉm cười:
– Tùy lão gia, muốn sao thì muốn. Dù sao thì chết sướng cũng chẳng bằng sống khổ, thà khổ mà được sống, chứ chết rồi thì bỏ khoái lạc cho ai? Lão gia khôn ngoan thì liệu mà châm chước lại.
Dưới nước Thương Nhân hành động rất nhanh, thuyền bắt đầu nghiêng về một bên rồi, nhưng chỉ một nửa con thuyền nghiêng thôi bởi nó bị phá rã ra làm hai phần. Phần còn lại sẽ đổ qua phía nghịch chiều nếu cả hai phần tách rời hẳn nhau. Và cứ theo đà động tác của bọn Thương Nhân thì không lâu lắm hai phần sẽ tách hẳn nhau.
Người trung niên vụt hỏi:
– Ngươi dùng biện pháp gì giúp ta sống sót?
Ngô Phụng đáp:
– Lão gia không xuống nước thì chết làm sao được? Chỉ cần có người ở dưới nâng đỡ lão gia đưa lão gia vào bờ. Nên nhớ là khoảng cách xa đấy, lão gia nhảy không khỏi đâu nhé.
Dừng lại một chút, nàng tiếp:
– Hoặc giả có người nào đó đứng giữa chặng đường đưa vai cho lão gia đặt chân lên, giúp lão gia vượt khoảng cách bằng hai lần nhảy thì chắc chắn lão gia lên bờ được. Sức của lão gia nhảy hai lượt thì thừa, một lượt thì thiếu.
Người trung niên rắn giọng:
– Được rồi! Ta y theo điều kiện của ngươi!
Ngô Phụng đưa tay ra, tiếp:
– Lão gia trao vật đi. Chứ đợi đến lúc lên bờ lão gia trở mặt thì chúng tôi làm sao đòi được? Tôi đâu phải là đối thủ của lão gia?
Người trung niên cười lạnh:
– Chẳng lẽ ngươi không sợ lên bờ rồi ta tìm cách đoạt lại?
Ngô Phụng mỉm cười:
– Tôi không lên bờ thì lão gia đoạt vật lại làm sao được? Lão gia lại sợ nước thì khi nào dám trở xuống sông mà đoạt lại?
Người trung niên trầm gương mặt:
– Ngươi lợi hại thật!
Ngô Phụng cười hì hì:
– Ai bảo Vương lão gia có tánh sợ nước?
Người trung niên suy nghĩ một chút:
– Nhưng có chắc là khi Bích Ngọc Phượng Hoàng về tay rồi ngươi chịu cứu lão phu chăng?
Ngô Phụng mỉm cười:
– Lão gia có thể tin tưởng nơi tôi. Chỉ vì tôi không cần vội ...
Nàng chưa kịp buông dứt câu nên chẳng biết nàng muốn nói gì, bởi lúc đó bọn Thương Nhân đã phá vỡ con thuyền, chỉ còn lại một vài mảnh gỗ nổi lình bình trên mặt nước. Dĩ nhiên nàng và người trung niên ở trên một mảnh gỗ.
Mảnh gỗ có diện tích rộng, hai bên có mấy mảnh nhỏ ghép lại chưa rời nhau ra, trên đó còn đủ chỗ cho một vài người bám víu một thời gian trước khi rơi xuống nước.
Trong số người còn bám víu trên mảnh gỗ cũng có Quan Sơn Nguyệt, nhưng số người này dù rơi xuống nước cũng chẳng sao vì ai ai cũng biết thủy tánh.
Cái khổ cho người trung niên là trong số người còn bám víu đó phần đông là bọn Vạn Ma Sơn Trang, bọn này sợ nước như chủ nhân, chủ nhân giữ được bình tĩnh chứ chúng thì rối loạn cả lên, chúng kêu gào thảm thiết, tiếng kêu của chúng đương nhiên gây náo loạn cho lão ta.
Không lo sợ cho bản thân, lão cũng phải lo sợ cho thuộc hạ. Huống hồ lão vẫn lo sợ cho chính mình. Sự lo sợ được che dấu dưới vẽ bình tĩnh, thì vì lời kêu gào của thuộc hạ nó lộ liễu lên nhanh chóng.
Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, tự hỏi tại sao từ chủ nhân đến thuộc hạ đều sợ nước thế mà lại chọn con đường thủy. Có khác nào người có tánh sợ ma lại thích đi đêm?
Rồi những mảnh gỗ còn dính vào nhau đó bắt đầu tách rời nhau.
Quan Sơn Nguyệt và Ngô Khẩu Thiên bám chung một mảnh trôi theo dòng nước.
Trong khi đó, ở trên mảnh gỗ bên này, người trung niên lấy trong mình ra một cái bao bằng lụa hình vuông, cao giọng thốt:
– Lão phu dù muốn dù không cũng phải tin nơi ngươi một lần.
Ngô Phụng tiếp lấy cái bao, điểm một nụ cười đáp:
– Tưởng sao, chứ lão gia cũng sợ chết như mọi người ...
Nàng chưa dứt câu, người trung niên bất thình lình chụp mạch môn của nàng, đoạn nhấc bổng thân hình nàng lên, mang luôn nàng nhảy xuống nước.
Quan Sơn Nguyệt và Ngô Khẩu Thiên trông thấy thế cùng kinh hãi.
Lợi dụng nắm tiên cơ lúc nhảy xuống người trung niên cho Ngô Phụng xuống trước, thành ra lão ta chiếm ưu thế, nàng ở dưới, lão ở trên.
Chân xuống trước, đầu ở trên, Ngô Phụng chưa ngâm nửa thân mình trong nước thì người trung niên ấn một tay trên đỉnh đầu nàng. Ấn tay như vậy chẳng phải lão có ác ý gì, bất quá lão nương thế lấy đà tung mình lên, uốn cầu vòng lao vút tới một mô đá gần đó. Tuy nhiên lão cũng nắm tóc Ngô Phụng, xách nàng theo luôn.
Ngô Khẩu Thiên luôn luôn theo dõi từng cử động một của hai người, lập tức hét lên một tiếng, quét mảnh bố chiêu bài sang, mảnh bố tháo thẳng ra có khí thế như một ngọn mâu. Lão đã đoán được ý đồ của người trung niên họ Vương, mảnh bố đó không nhắm vào người mà là nhắm mô đá.
Mô đá không lớn, dựng đứng từ lòng sông nhô khỏi mặt nước vừa đủ cho người buông chân xuống.
Ngô Khẩu Thiên quăng mảnh bố tới cuốn quanh đầu mô đá, lão ta giật tay, không cần dụng lực nhiều cũng làm cho mô đá xê dịch khỏi vị trí mấy thước.
Như vậy nếu người trung niên đáp xuống hẳn là phải đáp ngay mặt nước rồi, điều cố kỵ nhất cho lão.
Chân chưa tới đích, lão ta thấy nếu đáp luôn thì hẳn là phải rơi xuống mặt sông, chẳng rõ lão sử dụng một thân pháp như thế nào, chân co lên rồi thân hình vọt đi nơi khác.
Còn ở trong không gian, lão vung tay quay Ngô Phụng một vòng quanh mình lão, sau đó buông nàng luôn.
Thì ra lão quăng Ngô Phụng lên bờ. Mà người trung niên họ Vương cũng nương theo đà quăng nàng, xoay luôn mình một vòng nữa cho cái trớn được mạnh hơn, thân hình lão như bánh xe quay, vòng quay vừa đuối là lão đáp xuống bờ theo nàng.
Người trung niên tự cứu bằng phương pháp đó, thuộc hạ của y còn bám víu nơi những mảnh gỗ lập tức theo gương, chụp bọn phu thuyền làm y như vậy.
Phu thuyền đâu có võ công như Ngô Phụng mà cũng chẳng được Ngô Khẩu Thiên can thiệp như với Ngô Phụng, nên bọn Vạn Ma Sơn Trang lợi dụng chúng dễ dàng, quăng chúng xuống nước rồi bọn Vạn Ma Sơn Trang đạp lên đầu vai chúng lấy đà nhảy lượt nữa là vào đến bờ.
Trong khoảng khắc, có hơn mười tên thuộc hạ lên đến bờ.
Ba trong số bốn đại hán quanh mình họ Vương thì lại làm khác hơn, họ nhặt một mảnh gỗ nhỏ, quăng mảnh gỗ xuống mặt sông rồi dùng thuật đề khí nhảy xuống mảnh gỗ đó, dí nhẹ chân lấy đà nhảy lượt thứ hai.
Người thứ tư thì kém may mắn, lại rơi ngay xuống nước.
Bọn Vạn Ma Sơn Trang lên bờ bằng cách đó được thì các đại hán của phe Thương Nhân cũng làm được như thường.
Nhưng phe Thương Nhân lên bờ rồi là phóng chân chạy tứ tán, vì ba hán tử của họ Vương vung tay tới tấp tung ám khí toan sát hại họ.
Có đến năm sáu người bị ba hán tử Vạn Ma Sơn Trang giết chết. Số còn lại cứ chạy.
Ba hán tử định đuổi theo, người trung niên vẫy ta ngăn chận:
– Mặc chúng. Cứ chuẩn bị ứng chiến đi.
Sự tình diễn biến ngoài chỗ tưởng của bọn Quan Sơn Nguyệt.
Nơi bờ, Ngô Phụng lật mình ngang qua, toan trờ dậy, nhưng người trung niên nhanh hơn, vọt mình tới, tung chân đá nàng lăn đi mấy vòng, chiếc bao bằng lụa hình vuông văng khá xa. Lão ta bước theo liền, trông thấy mặt trên của chiếc bao thấm nước, lão sợ nước đến độ chẳng dám mó tay vào, nhặt một cành cây khơi chỗ mối cột, mở ra.
Bên trong lớp lụa là một chiếc hộp bằng gỗ, hình vuông, lão dán mắt nhìn kỹ một lúc, khi biết chắc chắn là hộp chẳng dính một giọt nước nào, mới cúi mình xuống, cầm lấy, cất vào người.
Cơn giận của lão ta còn thừa, sẵn cành cây nơi tay, lão vút nó xuống mình Ngô Phụng, lão vung tay khá mạnh, qua vài cái vút là có máu rướm ra trên mình nàng.
Quan Sơn Nguyệt cực kỳ phẫn nộ, thét:
– Lão tặc! Ngươi hèn đến độ hạ thủ người thất thế, lại là một nữ nhân ...
Chàng muốn vợt mình đến nơi can thiệp, nhưng Ngô Khẩu Thiên ngăn chặn:
– Đừng, Quan đại hiệp, lão ta dẫn dụ bọn mình lên bờ đó!
Quan Sơn Nguyệt gằn giọng:
– Không lẽ ở đây mà nhìn lão ta hành hạ con gái của tiên sanh?
Ngô Khẩu Thiên khẽ thở dài:
– Còn biết làm sao hơn, đại hiệp? Nếu chúng ta liều lĩnh lên bờ, thì cả bọn chết hết với chúng! Lão phu không tưởng chúng lợi hại đến mức độ đó!
Quan Sơn Nguyệt nhìn lên, thấy y phục của Ngô Phụng ráo dần, máu phun ra nhiều hơn trước, máu nhuộm luôn cả cành cây, vậy mà người trung niên vẫn chưa chịu dừng tay, cứ vút xuống liên hồi, càng vút càng gia tăng công lực.
Ngô Phụng nằm trên mặt đất, lăn qua lộn lại, oằn oại tránh né, quả thật nàng có gan lỳ, đau thì chịu đau, vẫn cắn răng không hề kêu đau một tiếng.
Ngô Khẩu Thiên rung giọng nói:
– Phụng nhi cho rằng mình thông minh, hành động liều lĩnh phải chịu khổ như thế, nếu nó nhẫn nại chút nữa thì làm gì bọn đối phương chẳng chết dưới lòng nước? Nó nông nổi quá nên có chủ ý đó ...
Quan Sơn Nguyệt toan lên bờ.
Ngô Khẩu Thiên lại ngăn chặn:
– Đừng nóng nảy, đại hiệp.
Quan Sơn Nguyệt hét:
– Cứ ở đây mãi mà nhìn sao chứ?
Ngô Khẩu Thiên đáp:
– Lão ấy rất mê luyến Phụng nhi, bất quá chỉ vì tức giận mà đánh nó như vậy, song lão cũng nương tay, chỉ làm xây sát da thịt của nó thôi chứ không gây thương tổn cho nội phủ đâu. Quan đại hiệp không nên quá lo lắng.
Quan Sơn Nguyệt vẫn phẫn nộ như thường, cố vùng vẫy thoát ra khỏi tay lão, đồng thời thốt:
– Kẻ bị đánh là con gái của các hạ, thực ra thì chẳng liên quan gì đến tại hạ, nhưng nhìn nàng bị hành hạ như thế, tại hạ xót xa thay cho nàng, còn tiên sanh là đấng sanh thành, lại có thể dửng dưng được! Lạ thay! Trên đời này, thiết tưởng chẳng mấy kẻ giống tiên sanh!
Ngô Khẩu Thiên thoáng thẹn, vì thẹn thành giận, xẵng giọng đáp:
– Này, Quan đại hiệp, việc của cha con lão phu không ai mượn đại hiệp chen vào.
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:
– Tự nhiên! Tại hạ chen vào làm chi chứ? Có điều, tại hạ nhận ra lịnh ái cũng là một nhân vật trong võ lâm dù sao thì lệnh ái cũng là người đồng đạo nên tại hạ vì đạo nghĩa mà thấy bất nhẫn, vì đạo lý mà tại hạ không nở lấy mắt nhìn nàng thọ khổ thọ nhục ...
Ngô Khẩu Thiên đỏ mặt:
– Quan đại hiệp! Lòng nhân của đại hiệp lão phu vô cùng cảm kích, song chẳng lẽ đại hiệp không thấy cạm bẫy chúng đang giăng ra chờ đợi bọn ta sao?
Còn làn nước kia phân cách, chúng chẳng làm gì được bọn ta, cho nên ...
Quan Sơn Nguyệt bĩu môi:
– Tại hạ muốn lên đó, các hạ lên hay không thì tùy ý.
Thốt xong, chàng giắt thanh Hoàng Diệp Kiếm nơi lưng, tung mình xuống nước, lội vào bờ.
Về thủy tánh, chàng cũng không thạo cho lắm, bất quá chàng không quá sợ như bọn người trung niên kia thôi, chàng vừa đề khí vừa quạt tay xuống nước lấy trớn, đẩy mình tới, tiến dần, tiến dần. Tiến như vậy, dĩ nhiên không nhanh, chàng lội độ mấy thước, bỗng có người nâng chàng lên.
Người nào đó nâng chàng lên, lại còn dụng lực quăng chàng tới trước. Một cái quăng bằng mười cái lội, nhờ vậy chàng tiến nhanh hơn.
Thoạt đầu chàng cứ tưởng là Ngô Khẩu Thiên theo sau, nhưng nhìn kỹ lại thì người đó chính là trại chủ Thương Nhân, y vốn là thủ lãnh mấy mươi thủy trại, nên bơi lội rất tài. Quan Sơn Nguyệt bảo:
– Buông ra đi, Thương huynh, để một mình tại hạ lội vào cũng được!
Thì ra, Thương Nhân nâng chàng lên, quăng đi, rồi vọt theo, nâng tiếp và quăng tiếp, chuyền Quan Sơn Nguyệt vào nhanh hơn, chàng không muốn nhờ người làm việc đó, nên bảo Thương Nhân cứ để mặc chàng.
Thương Nhân cười nhẹ, đáp:
– Điều cần yếu là Quan đại hiệp phải bảo trì công lực, đừng phí sức một cách vô ích. Lên trên đó rồi, đại hiệp sẽ gặp toàn những tay cừ, nếu công lực kém giảm đi thì khó tránh thảm bại với chúng.
Quan Sơn Nguyệt thốt:
– Thương huynh cứ để tại hạ lên một mình ...
Thương nhân lộ vẻ không vui:
– Nói sao thế, Quan đại hiệp! Tại hạ dẫn theo mình trên mười huynh đệ, hiện tại chỉ còn lại năm sáu người, có lẽ nào tại hạ không báo cừu cho họ ...
So sánh Thương Nhân với Ngô Khẩu Thiên, Quan Sơn Nguyệt không khỏi ngậm ngùi cảm khái cho người thủ lĩnh ba mươi sáu thủy trại, từng ngang dọc khắp sông hồ.
Thương Nhân cười nhẹ, trong nụ cười ẩn ước có niềm đau khổ, nói tiếp:
– Quan đại hiệp đàm thoại với lão già họ Ngô đó, tại hạ nghe rõ lời lẽ đôi bên, Ngô Khẩu Thiên từng tự hào là bậc anh hùng, giàu lòng hiệp nghĩa, song xem ra vị tất có cái khí độ ngang với một tên cường đạo là tại hạ đây ...
Quan Sơn Nguyệt không nói gì.
Thương Nhân lại tiếp:
– Hôm nay, gặp được đại hiệp, tại hạ cho rằng mình có cái vinh hạnh lớn nhất trong đời, nếu mà được kết giao với đại hiệp thì quả thật tại hạ mãn nguyện bình sanh đó!
Hai người đã đến bờ.
Số thủ hạ còn lại của Thương Nhân cũng theo y mà lên.
Đến lúc đó, người trung niên mới ngừng tay roi, không đánh Ngô Phụng nữa, rồi y điểm nụ cười lạnh, thốt:
– Thế ra các ngươi vẫn không chịu từ bỏ cái mộng chiếm đoạt Bích Ngọc Phụng Hoàng!
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Tại hạ đâu có màng đến vật đó?
Người trung niên vẫn giữ nụ cười mai mỉa:
– Không vì bích ngọc thì đến đây làm chi?
Quan Sơn Nguyệt nghiêm sắc mặt:
– Tại hạ không thích chứng kiến cảnh nam nhân hành hạ nữ nhân, sở dĩ thế tại hạ đến đây để cảnh tỉnh các hạ, ít nhất đối với đồng loại, cũng phải có phần nào nhân đạo.
Người trung niên bật cười ha hả:
– Lão phu sống đến tuần tuổi này, lần thứ nhứt mới nghe một người nói câu đó với lão phu. Và người nói câu đó lại là một tiểu tử chưa ráo máu đầu! Thật là đất nước bao la, chẳng hiếm chi bọn thừa can đảm! Hẳn là từ nay lão phu phải mở rộng đôi mắt nhìn xa hơn, để mà phòng bị hạng trẻ ăn nói ngông cuồng.
Lão day qua một người đứng bên cạnh, hỏi:
– Hàn Phương! Tiểu tử đó là ai vậy?
Đại hán mang tên Hàn Phương, chính là người đã vào khoang thuyền đầu tiên tìm Ngô Phụng rồi chạy thoát đi.
Suy nghĩ một chút, lộ vẻ bối rối đáp:
– Thuộc hạ không nhận thức hắn, bất quá thuộc hạ nghe Hắc Phụng Hoàng gọi hắn là Quan đại hiệp, có lẽ hắn là nhân vật gần đây nổi tiếng trên giang hồ, họ Quan tên Sơn Nguyệt, Lịnh Chủ Minh Đà Lịnh, những người mang họ Quan thành danh trên giang hồ rất hiếm ...
Thương Nhân chận lời:
– Ngươi nói đúng, chính là Minh Đà Lịnh chủ đó, trên giang hồ làm gì có bậc đại hiệp tuổi trẻ như vậy?
Người trung niên gật đầu:
– Phải! Lão phu có nghe nói đến cái tên này.
Rồi lão day qua gã thuộc hạ trách:
– Hàn Phương ngươi thật là hồ đồ, một con người như vậy có mặt trên thuyền mà ngươi chẳng hay biết chi cả! Thảo nào mà chúng ta chẳng dở sống dở chết giữa dòng sông? Rồi đợi đến trang viện xem ngươi sẽ phúc lịnh thế nào cho biết!
Hàn Phương tỏ vẻ sợ hãi cực độ hấp tấp nghiêng mình thốt:
– Sư gia quở trách là đáng lắm, thuộc hạ sơ suất thành ra mới có sự tai hại đó! Chỉ vì Minh Đà và Độc Cước Kim Thân là vật bất ly thân mà Quan Sơn Nguyệt thì ...
Người trung niên khoát tay:
– Được rồi, thôi đi! Chính ta lần này cũng sơ suất như ngươi, đến cả con chuột nước già kia và Hắc Phụng Hoàng có mặt mà ta cũng chẳng phát giác, may mà Bích Ngọc Phụng Hoàng chưa sang tay khác chứ nếu vật đó mất đi thì làm sao phúc lịnh sau này? Bây giờ, ta giao cho các ngươi thu thập những tên đó, nên nhớ là cần hành động gấp, càng gấp càng hay, phải tranh thủ thời gian đấy nhé!
Hàn Phương giật mình, đáp:
– Sư gia! Về phần của mấy con chuột nước kia thì chẳng thành vấn đề, chỉ có cái gã họ Quan kia thì sợ rằng bọn thuộc hạ khó mà thành công với gã! Phải chi mà sư gia chịu ra tay tiếp trợ cho phần nào ... Vạn nhất mà bọn thuộc hạ có bề gì ...
Người trung niên nổi giận:
– Khốn nạn! Giờ đây đâu còn ở trên thuyền nữa mà ngươi cố kỵ điều này lẽ nọ? Ta không thể tin một «Phích Lịch Thần Quyền» của Vạn Ma sơn trang lại không thủ thắng trước một đứa bé con!
Hàn Phương nghiêng mình:
– Phải! Phải! Thuộc hạ nhất định không đề nhục mạng của sư gia!
Thốt xong, hắn hướng qua Quan Sơn Nguyệt, nhìn chàng bằng ánh mắt ngạo nghễ hỏi:
– Các ngươi vào một lượt, hay từng người một?
Thương Nhân chịu không nổi vẻ khinh người của hắn, nổi giận hét:
– Câm cái mồm thúi của ngươi lại! Sá gì cái bọn vô danh tiểu tốt của sơn trang Vạn Ma của các ngươi mà lên giọng hống hách? Trước mặt Quan đại hiệp mà các ngươi dám buông lời ngông cuồng ...
Hàn Phương lạnh lùng chặn lại:
– Vạn Ma Sơn Trang không có thinh danh là vì từ lâu không hề can dự vào việc trên giang hồ, chứ nếu đã xuất đạo thì các ngươi đâu còn được sống sót đến ngày hôm nay? Đừng nói những lời vô ích, cứ bước tới đi, cho ta thanh toán sớm, đừng làm mất thì giờ quý báu của ta!
Thương Nhân khoát chiếc Thiết Toán Bàn một vòng định xuất thủ, nhưng Quan Sơn Nguyệt chận y:
– Khoan, Thương huynh! Tại hạ muốn hỏi mấy câu cho rõ ràng.
Chàng nhìn vào mặt Hàn Phương, hỏi liền:
– Vạn Ma Sơn Trang của các vị, thật sự là cái chi?
Hàn Phương cười lạnh:
– Hãy đợi ta bắt ngươi giải về căn cứ rồi, Diêm Vương gia sẽ cáo tố cho ngươi biết.
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng rút thanh Hoàng Diệp Kiếm thủ nơi tay, gằn từng tiếng:
– Thế thì tại hạ bắt buộc phải động thủ, tại hạ cũng muốn biết cái tài của các vị như thế nào.
Hàn Phương nhìn thanh kiếm của chàng, thốt:
– Càng hay! Ta sẽ dùng hai tay không, thu thập ngươi!
Thương Nhân có vẻ không bằng lòng:
– Quan đại hiệp, tại hạ nghĩ cuộc chiến này là phần của tại hạ ...
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Thương huynh cân nhắc thử xem, vũ công của Thương huynh và vũ công của tại hạ có khác biệt nhau ra sao?
Thương Nhân giật mình:
– Tại hạ làm sao sánh được với Quan đại hiệp?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Rồi bây giờ, Thương huynh ước độ tài năng của địch như thế nào?
Thương Nhân đáp nhanh:
– Chúng có ra gì mà mình phải quan tâm? Trên thuyền, một tên đã bị tại hạ dùng chiếc bàn toán đưa về Tây thiên, còn một gã thị bị Ngô cô nương tung đi chỗ khác chơi!
Quan Sơn Nguyệt hỏi:
– Ngô huynh có biết ý tứ của chúng như thế nào chăng? Tại thuyền thì chúng chẳng có vẻ gì là lợi hại cả, song lên bờ rồi, chúng lại dám thách thức đối phương, như vậy hẳn chúng phải có chỗ sở cậy chứ?
Thương Nhân chớp mắt mấy lượt, chừng như thức ngộ một điều gì, đáp:
– Ý tứ gì thì chưa biết được rõ điều chắc chắn là chẳng phải chúng quá dại mà tìm cái chết. Có lẽ chúng sở cậy vào một phương tiện, một biện pháp nào đó, và chúng tin tưởng chế ngự được bọn mình, như Quan đại hiệp vừa suy luận ...
Hàn Phương vọt mình thốt:
– Ngươi nói đúng. Trên đất liền, «Phích Lịch Thần Quyền» không còn bị hạn chế như tại giữa dòng sông.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Thương huynh nghe y nói đó chăng?
Thương Nhân cương quyết:
– Tại hạ không nao núng chút nào!
Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:
– Thương huynh có thể chấp nhận một thỉnh cầu của tại hạ chứ?
Thương Nhân chính sắc mặt:
– Bất cứ việc gì, nếu Quan đại hiệp phân phó là tại hạ sẵn sàng làm ngay.
Quan Sơn Nguyệt nghiêm giọng:
– Thương huynh và năm vị anh hùng đi theo Thương huynh đó, ly khai nơi này độ mười trượng, người này đứng cách người kia ba trượng, rồi chú ý theo dõi tại hạ đối phó với «Phích Lịch Thần Quyền».
Thương Nhân trố mắt:
– Quan đại hiệp muốn vào cuộc trước thì cứ vào, hà tất anh em tại hạ phải ly khai nơi đây?
Quan Sơn Nguyệt vẫn giữ vẻ nghiêm:
– Nếu oai lực của môn Thần quyền đó quá mạnh, tại hạ chẳng may táng mạng, thì sáu vị lập tức nhảy xuống sông, lội nhanh sang bờ đối diện.
Thương Nhân không vui:
– Đại hiệp tính như vậy là xem thường bọn tại hạ lắm đó. Giả như đại hiệp yếu thế, thì anh em tại hạ phải xông vào tiếp trợ chứ, lẻ đâu lại chỉ lo đến sự an toàn cá nhân?
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Tất cả đều sẵn sàng chết chung tại chỗ, còn ai sau này lo việc báo cừu?
Thương Nhân suy nghĩ một chút:
– Như đại hiệp đó mà còn thất bại, thì làm sao tìm ra người để báo cừu? Ai có cái tài ba làm được việc đó?
Quan Sơn Nguyệt nói nhẹ:
– Tại hạ vừa từ Ngũ Đài Sơn đến đây, nơi đó có một môn phái mới thành lập, tên Thái Cực Môn, do Trương Thanh cô nương chủ trì. Trong môn phái đó có một số cao thủ. Nếu cần nghĩ đến việc báo cừu, thì chúng ta có thể đặt kỳ vọng nơi họ. Điều thỉnh cầu của tại hạ đối với Thương huynh là cốt lưu lại một vài người để đến đó báo tin.
Thương Nhân đáp:
– Nếu cần báo tin thì một người cũng đủ, sao lại phải cần đến sáu người?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Phải! Một người thôi cũng đủ, cho nên tại hạ mới bảo các vị đứng cách xa nhau ba trượng một, tránh «Thần Quyền Phích Lịch» tàn sát trọn số nếu tất cả cùng quây quần một chỗ. Tản mác ra như vậy, chúng ta có hy vọng ít nhất cũng có một người sinh tồn. Ngoài ra đối phương đông người, chúng ta hiệp nhau một chỗ thì họ dễ bao vây, còn phân tán ra thì chúng không đủ người ngăn chặn.
Người trung niên giật mình, thốt:
– Tiểu tử khá lắm đó, thảo nào mà chẳng sớm thành danh trên giang hồ!
Bình sanh, lão phu không khen ai cả, bây giờ phá lệ tán dương ngươi đó!
Quan Sơn Nguyệt lạnh lùng:
– Tại hạ chờ xem cái gan của các hạ to lớn như thế nào mà dám thách thức bọn tại hạ như vậy.
Người trung niên thản nhiên:
– Vạn Ma Sơn Trang chẳng bao giờ sợ ai tìm đến báo cừu ...
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:
– Người, thì có thể là các hạ không sợ, nhưng nước thì Vạn Ma Sơn Trang sợ là cái chắc, và các vị chẳng bao giờ dám để việc này bị lộ ra ngoài.
Người trung niên biến sắc mặt.
Quan Sơn Nguyệt cấp tốc vận công chuyển nội lực vào thanh Hoàng Diệp Kiếm, bắn kiếm khí bức đối phương lùi lại mấy bước. Đoạn, chàng gọi to:
– Thương huynh! Cấp lui lại sát bờ sông đi!
Thương Nhân không nhích động, nhưng thủ hạ của y có hai người bước tiến sát bờ sông, nhảy luôn xuống nước, ló đầu lên nhìn vào cục diện.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười, thốt:
– Bây giờ chúng ta có thể yên tâm ứng chiến rồi. Thương huynh ơi, kiên nhẫn chờ một chút đi, rồi muốn vào thì vào, muốn chạy thì chạy. Gì thì chẳng biết chứ bắt đầu từ hôm nay, Vạn Ma Sơn Trang sẽ trải qua những ngày sóng gió, người trong trang không còn hưởng sự an ninh như thời gian cũ ...
Người trung niên lại biến sắc lượt nữa, giục:
– Hàn Phương, động thủ gấp đi chứ! Tốc chiến, tốc thắng có lợi hơn.
Hàn Phương đưa tay lên.
Bọn Quan Sơn Nguyệt ngưng thần chú ý, mười phần giới bị.
Người trung niên bật cười ha hả, đưa tay chỉ xuống sông, thốt:
– Tiểu tử ơi! Ngươi dù lợi hại, cũng không chu đáo, thủ hạ của ta được huấn luyện kỹ, không cần ta ra lịnh mà vẫn làm được những việc phải làm, làm đúng lúc để ngừa hậu hoạn.
Quan Sơn Nguyệt quay đầu lại.
Phía sau chàng, có hai thủ hạ của người trung niên đứng chặn đường rút lui xuống bờ sông, còn hai thủ hạ của Thương Nhân thì đã thành hai xác chết nổi lờ đờ trên mặt nước. Hiển nhiên, hai người đó bị đối phương bắn độc tiễn mà táng mạng. Bất giác, Quan Sơn Nguyệt sững sờ.
Người trung niên cười lớn:
– Gừng và quế, càng già càng cay, ngươi mới ngần ấy tuổi đời, dù cho có thông minh thì sự thông minh của ngươi bất quá chỉ mới tượng hình, bất quá chỉ là một điểm nhỏ, dùng điểm nhỏ thông minh đó đối phó với lão phu, có khác nào ngươi nuôi mộng hái trăng, làm gì thành công được? Tuy nhiên, lạp phu cũng nhìn nhận ngươi khá lắm, ngươi vượt bình thường đáng cho người ta chú ý.
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Các hạ không nên quá tự đắc. Chưa chắc gì «Phích Lịch Thần Quyền» của các hạ sẽ làm chi được tại hạ.
Người trung niên bật cười ha hả:
– Như bọn Hàn Phương thì có thể là chúng không làm chi ngươi nổi, bởi công lực chúng còn ở mức tầm thường, nhưng nếu lão phu xuất thủ thì ngươi không hy vọng gì tẩu thoát đâu. Khó lắm, tiểu tử ơi, lão phu thấy ngươi khó sống sót lắm.
Niềm tin tất thắng của Quan Sơn Nguyệt hiện tại mong manh quá, chàng không đáp lại tiếng nào.
Song, Thương Nhân thì cười vang lên, cười đến độ gây ngạc nhiên cho toàn thể.
Hàn Phương nổi giận, thốt:
– Sắp chết đến nơi, lại không lo trối trăn, còn cười như điên là nghĩa gì? Có cái chi đáng cho ngươi cười đâu?
Thương Nhân phất chiếc bàn toán, những con toán khua chạm vào nhau, kêu lạch cạch, y biểu hiện sự đắc ý của y. Y đáp:
– Ta nghĩ đến cái câu lão già kia vừa nói đó mà. Cái câu gừng quế càng già càng cay đó!
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Đừng đùa nữa, Thương huynh!
Thương Nhân cười to hơn:
– Tại hạ đâu có đùa! Tại hạ đang nghĩ đến lão già họ Ngô, chúng ta có nhận xét sai lầm về lão ấy. Chẳng phải lão tham sống sợ chết đâu. Mưu của lão rất thâm ...
Quan Sơn Nguyệt quay đầu nhìn lại, thấy mảnh ván thuyền còn đó, nhưng Ngô Khẩu Thiên thì đã biến đi đàng nào mất rồi. Đến cả tấm bố chiêu khách trước đó còn nằm tại bờ sông bây giờ cũng mất luôn. Điều đó chứng minh là lão ta đã chuồn xuống nước rồi, len lén lội vào bờ lấy lại tấm bố, nghe lọt câu chuyện của chàng và sau cùng âm thầm lẻn đi.
Người trung niên biến sắc mặt, nhưng còn biết làm sao kịp nữa?
Thương Nhân tiếp tục cười vang:
– Giả như hôm nay ta may mắn được thoát nạn, thì ngày sau, nếu gặp lại lão già đoán số mạng đó, chắc là ta phải tránh xa, lão ấy lợi hại không tưởng nổi.
Cả ngươi nữa, tuy ngươi là một tay gian hoạt đáng khiếp, song không sánh kịp họ Ngô đâu.
Người trung niên hét:
– Ngươi còn hy vọng sống sót? Hừ! Rõ là ngươi nuôi mộng!
Quan Sơn Nguyệt bình thản điểm một nụ cười:
– Là nam nhi, khi chọn cái kiếp sống giang hồ thì còn màng đâu đến sự sanh tử nữa? Chết là một cái gì chực chờ khách giang hồ ở mỗi đoạn đường, mỗi bước đi, chết sao cho đáng giá, chết sao cho đừng oan uổng, chết đúng lúc, đúng nơi. Chết như vậy, thì nên chết, đừng bao giờ chết bậy ở bất cứ trường hợp nào, thời gian, địa điểm nào.
Người trung niên thấy khí khái của chàng, bất giác khích động mạnh.
Thương Nhân ưỡn ngực, cười ha hả:
– Quan đại hiệp ơi! Nghe đại hiệp nói rồi, tại hạ nghĩ con người không tránh được một lần chết, mà cường đạo thì hiếm có một dịp chết tốt, chết đẹp, giả như trong trường hợp này, bất hạnh mà tại hạ chết đi, thì đúng là một cái chết đầy vinh hạnh cho tại hạ vậy.
Ngô Phụng cố nhẫn cơn đau, dùng hai đầu gối bò đến gần, kêu thảm thiết:
– Quan đại hiệp ơi, chính tôi làm liên lụy đến đại hiệp. Như chúng tôi có bất hạnh ra làm sao, thì cũng chỉ vì chiếc Bích Ngọc Phượng Hoàng, nhân có phát thì quả phải lãnh, còn đại hiệp thì hoàn toàn chẳng có lý do ...
Quan Sơn Nguyệt khoát tay:
– Ngô cô nương không nên thắc mắc, cứ biết cho rằng chúng ta đều là người trong vũ lâm, chúng ta là đồng đạo ...
Người trung niên bực dọc, day qua Hàn Phương, gắt:
– Hàn Phương, ngươi còn chờ gì nữa? Cái lão tướng số đó đã chuồn đi rồi, còn lại bọn người này, ngươi nên thu thập bọn chúng gấp, để minh còn lên đường chứ. Biết đâu đối phương sẽ chẳng ngăn chận đường về của chúng ta, hoặc kịp thời theo dõi chúng ta nếu cứ dần đà ở đây mãi?
Quan Sơn Nguyệt cười nhạt:
– Các hạ cho rằng cứ giết hết bọn này thì chẳng còn ai khám phá ra vạn Ma Sơn Trang nữa sao?
Người trung niên lộ vẻ cao ngạo:
– Đừng tưởng khám phá ra Vạn Ma Sơn Trang là một việc dễ làm. Phải biết sơn trang của lão phu được sáng lập gần trăm năm nay, trong thời gian dài đó, trên giang hồ chẳng ai biết được nó ở địa phương nào. Chỉ cần các ngươi chết đi, là Vạn Ma Sơn Trang cầm như an ổn chẳng khác bàn thạch.
Quan Sơn Nguyệt lạnh lùng:
– Sở dĩ từ trước đến nay, chưa có ai phát hiện được căn cơ của các vị, là vì các vị vận khí còn đỏ. Hiện tại thì hình tích của các vị đã bị lộ rồi, nếu Trương cô nương biết được, thì dù cho các vị có chạy lên trời, cũng chưa chắc chắn tìm được sự sống.
Người trung niên niên lắc đầu:
– Trời đất rộng bao la, nàng có biết ta ở đâu mà tìm?
Quan Sơn Nguyệt thốt:
– Vừa rồi, có năm sáu người của các hạ chạy trốn, hẳn là họ không chịu nổi sự khắc nghiệt của các hạ. Muốn đến Vạn Ma Sơn Trang, không còn gì hơn là dùng các người đó làm hướng đạo.
Người trung niên lại biến sắc.
Lão trầm lặng một lúc lâu, chẳng nói tiếng nào, song lão day qua Hàn Phương đưa tay ra hiệu bảo hắn chuẩn bị phát động.
Đột nhiên, Thương Nhân đưa cao chiếc Thiết Toán Bàn lớn tiếng gọi:
– Quan đại hiệp, đã có lão họ Ngô chạy báo tin rồi, thì chúng ta có chết hay sống sót đi nữa, điều đó chẳng thành vấn đề. Vậy thì, đại hiệp nên nhường trận đầu cho tại hạ nhé.
Y đưa cao chiếc bàn toán, con toán kêu vang, đoạn cất cao giọng hét:
– Anh em đâu! Hãy vì các huynh đệ bỏ mạng, mà làm một cái chi, cho họ được an ủi hồn thiêng nơi suối vàng đi nào!
Ba người, theo tiếng hét của y nhào tới.
Hàn Phương cũng quát to, đánh ngang một quyền. Lập tức gió thổi, sấm nổ, khí thế mường tượng bão đùa, sấm động. Cuối cùng, hắn cũng phát xuất «Phích Lịch Thần Quyền», dĩ nhiên khí thế cực kỳ hung mãnh.
Ba thuộc hạ của Thương Nhân lướt tới, chưa kịp đánh ra một chiêu thức nào đã bị bắn bay ngược trở lại. Nói là người bị bắn bay, thực ra là da thịt nát bấy, những mảnh vụn bay vèo vèo trở lại, máu văng tung tóe, như một cơn mưa rào.
Một chiêu «Phích Lịch Thần Quyền» sát hại ba người! Lợi hại không tưởng nổi.
Thương Nhân tuy miệng gào, song chân lùi, y thoái hậu tránh gấp mà vẫn bị quyền phong cuốn theo hất y ngã nhào. Vừa rơi xuống đất, y thét lên:
– Lợi hại thật!
Chiếc bàn toán bằng thép của y bỗng vỡ tung, những con toán bay đi như hạt tuyết cuốn theo gió lốc, tất cả những con toán đó cùng bay đến Hàn Phương.
Hàn Phương tựa hồ không phòng bị. Đến khi hắn định vận công, phát chiêu thì đã muộn rồi. Hắn hấp tấp xoài mình xuống đất, lăn đi, tránh cơn mưa con toán, khi hắn đứng lên thì Thương Nhân thét:
– Chết này!
Thì ra, Thương Nhân còn giữ lại một số con toán phòng hờ. Bây giờ, y giác độ rất chuẩn, thấy Hàn Phương đứng lên, y tung ra luôn. Trong trường hợp đó làm sao Hàn Phương tránh kịp?
Hai tiếng bách bách vang lên, hai con toán xuyên thủng da chui vào mặt hắn.
Thương Nhân vốn kỳ vọng sự thành công nơi lần phát xuất thứ hai, do đó y dùng tất lực bình sanh phóng con toán. Tấu xảo làm sao, hai con toán lại xuyên tét mí mắt Hàn Phương, chui vào trũng mắt thay thế đôi mắt thật của hắn.
Thương Nhân bật cười lớn:
– Thì ra ngoài «Phích Lịch Thần Quyền», các công phu khác của bọn ngươi rất bình thường.
Hàn Phương cảm thấy đau quá, không chịu nổi, nhào xuống đất lăn lộn, lăn đến bên cạnh Ngô Phụng.
Ngô Phụng chụp một viên đá to bằng quả trứng, nhắm kỹ càng, đập vào đầu hắn. Nàng không quăng, mà lại đập, bởi Hàn Phương đến vừa tầm tay. Nàng đánh rất mạnh, đánh với trọn vẹn niềm căm phẫn để trả đũa trận roi vừa rồi.
Dĩ nhiên, cái đánh đó phải trúng đích, và đầu Hàn Phương vỡ vụn ra một phần lớn, máu phun ra óc phọt ra.
Thương Nhân tiếp tục cười vang:
– Được lắm, Ngô cô nương! Cô nương làm một việc bù trừ đáng giá hết sức.
Bọn huynh đệ tại hạ, bất hạnh táng mạng cũng yên tâm ngậm cười nơi suối vàng.
Người trung niên biến sắc, hét oang oang:
– Thứ tặc tử vô sỉ! Dám dùng đến thủ đoạn đó, thì thật là hèn! Lạp phu thề sẽ đập nát xác các ngươi thành đống xương thịt nhão như bùn!
Lão gọi lớn:
– Đỗ Cửu, Huỳnh Khương đâu?
Đại khái lão gọi hai hán từ bên ngoài, xông vào tấn công, nhưng lão gọi mấy lượt, hai hán tử đó đứng nguyên tại chỗ, bất động. Lão quýnh quáng, đồng thời hết sức lấy làm lạ, vội bước tới xem sự trạng như thế nào.
Nơi cổ họng mỗi đại hán có một lỗ thủng nhỏ. Cả hai đã chết từ lâu.
Thương Nhân bật cười ha hả:
– Thương Nhân này đã là thủ lãnh ba mươi sáu thủy trại trên khắp mặt nước sông hồ, thì hành sự luôn chủ trương công bằng, ai có tội thì phạt tội, ai có công thì thưởng công. Hai tên đó chết đi, hẳn là chưa biết kẻ sát hại mình là ai! Này lão già kia, lão muốn đập nát xác chúng ta thành những đống xương thịt nhão như bùn, thiết tưởng lão phải tự mình ra tay mới được!
Quan Sơn Nguyệt sững sờ. Chàng nghĩ, Thương Nhân quả thật chẳng phải là tay tầm thường như chàng ước độ. Chỉ vì, chàng đứng bên cạnh y nhưng chẳng phát hiện y xuất thủ từ lúc nào, sát hại hai đại hán ở phía hậu.
Thần sắc biến đổi âm trầm, người trung niên hướng về Thương Nhân từ từ bước tới, hai tay đưa ra, hai tay trắng, mềm, mường tượng bột nắn, song ước ẩn một cái gì gây khiếp đảm nơi đối phương.
Dĩ nhiên, Thương Nhân phải hồi hộp lo âu, vô ý trung lùi lại, bên kia tiến tới một bước thì bên này lùi một bước, bên lùi cứ lùi mãi, dần dần đến gần xác chết của Hàn Phương. Rồi Thương Nhân vấp phải xác chết, loạng choạng ngã xuống.
Người trung niên vương tay chụp y, trong khi quá khiếp y không còn một điểm năng lực kháng cự.
Quan Sơn Nguyệt vừa cử cao thanh kiếm vừa chạy đến, người trung niên vụt đứng thẳng lưng quát:
– Ngươi dang ra!
Khi nào Quan Sơn Nguyệt nghe theo lời của lão mà dang?
Nhưng, lời nói của đối phương không hiệu lực, thì cái oai khí của đối phương dường như toàn năng, oai khí đó gieo khiếp đảm nơi chàng, rồi cũng như Thương Nhân, vô ý trung chàng lùi lại hai bước.
Lùi, khiếp đảm, song chàng vẫn còn giữ trọn vẹn tánh quật cường, tay nắm đốc kiếm chặt hơn. Nếu đối phương có động tác nào bất lợi cho Thương Nhân, thì chàng sẵn sàng can thiệp với bất cứ giá nào.
Trước hết người trung niên lấy chiếc điếu lưng ra, hất cái xác của Hàn Phương qua một bên, sau đó mới chỉ hạt thiết châu trong vũng máu, thốt:
– Lão phu không bao giờ xuất thủ đối với những kẻ tay không tấc sắc, ngươi hãy nhặt lấy hạt thiết châu đó mà dùng.
Thương Nhân giật mình, do dự một chút, cuối cùng đưa tay nhặt con toán.
Người trung niên lạnh lùng hỏi:
– Đủ chưa? Nếu chưa đủ thì nhặt thêm mấy hạt nữa đi.
Thương Nhân rung rung giọng:
– Để làm gì?
Người trung niên trầm lạnh giọng:
– Ngươi giết Hàn Phương, ngươi giết hai tên thủ hạ của lão phu, thủ pháp ngươi khá cao minh đó, lão phu chấp nhận cho ngươi thi triển lại một lần nữa cái thủ pháp đó, giả như ngươi có mệnh hệ nào thì cũng không oán hờn lão phu hẹp lượng.
Thương Nhân cố lấy lại tinh thần, gượng điểm một nụ cười, thốt:
– Thủ pháp của ta chẳng có gì siêu kỳ cả, bất quá chỉ thừa lúc đối phương không phòng bị mà chiếm một thắng thế thôi. Chứ ngươi thì, ngươi có chuẩn bị rồi, vả lại tài năng của ngươi cũng trội hơn ...
Người trung niên ngăn chận:
– Đừng nói nhảm, lão phu dửng dưng trước mọi lời tán dương xoa dịu hoặc cầu tình, cứ chụp lấy cơ hội mà tranh thủ sinh tồn, vì đây là cơ hội duy nhất cho ngươi.
Thương Nhân suy nghĩ một chút, buông rơi thiết hạt châu xuống đất, rồi đáp:
– Hiện tại, tay ta không có tấc sắt nào, tùy ngươi muốn hạ thủ thì cứ làm!
Người trung niên tợ hồ không tường nổi đối phương áp dụng phương pháp lỳ như vậy, thoáng giật mình hỏi:
– Một thủ lãnh ba mươi sáu thủy trại mà lại có thái độ hèn được sao? Trẻ con quá!
Thương Nhân điềm nhiên:
– Đâu có chi hèn? Ngươi thừa hiểu là ta không làm gì thương tổn ngươi được nên cố ý tỏ ra mình anh hùng, khoa trương thái độ đại phương, từ lâu lắm rồi, ta chỉ dùng chiếc bàn toán để thâu vào chứ không hề chi ra thì khi nào ta lầm mưu ngươi?
Người trung niên nổi giận:
– Thế là ngươi không chịu động thủ?
Thương Nhân mỉm cười:
– Ta nhận thấy tài không hơn địch thì làm gì có hứng mà động thủ? Dù cho ta có động thủ hay không, chung quy cũng chẳng tránh khỏi cái chết, như thế ta còn làm một việc vô ích làm chi cho mất thì giờ?
Người trung niên suy nghĩ một chút, cười lạnh thốt:
– Lão phu là Vương Thập Phương, bình sanh tự phụ mình là tay thừa cơ trí, do đó mới được ủy thác chức vụ sư gia trong Vạn Ma Sơn Trang, không ngờ hôm nay lại gặp kẻ đối đầu lợi hại ...
Thương Nhân cũng cười lạnh, thốt:
– Thập phương thì đâu đã có gì kỳ lạ? Chiếc bàn toán của ta còn tính toán được đến thập nhất phương kia mà, hơn ngươi một phương rõ ràng, nếu ngày nào đó ta lọt vào Vạn Ma Sơn Trang, thì cái chức sư gia hẳn là ngươi phải nhường lại cho ta.
Vương Thập Phương khoát tay:
– Không nên nói nhảm. Ngươi không có vũ khí, ta không hề dùng «Phích Lịch Thần Quyền» đánh ngươi, cho nên ta chuẩn cho ngươi một cơ hội.
Thương Nhân mỉm cười:
– Giả như ta không động thủ, thì ngươi không có cớ gì để tắc trách hành động sát hại ta, có phải vậy không?
Vương Thập Phương trừng mắt:
– Chưa hẳn là vậy.
Thương Nhân đánh tiếp một đòn tâm lý thâm hơn:
– Ta biết mà! Có thể là quy củ của Vạn Ma Sơn Trang bắt buộc điều đó!
Vương Thập Phương biến sắc mặt:
– Nói bậy!
Thương Nhân mỉm cười:
– Ta nói không nhảm đâu! Trước đây, ngươi ra lịnh cho Hàn Phương hạ sát bọn ta, hắn có thể xuất thủ ngay được chứ, nhưng hắn cứ dần dà mãi, chờ bọn ta phát động rồi hắn mới khởi thế phản công. Thật ta không hiểu nổi tại sao trang chủ Vạn Ma Sơn Trang lại chấp định một quy tắc hoang đường như vậy.
Vương Thập Phương phẫn nộ:
– Ngươi không xuất thủ, chẳng lẽ lão phu buông tha luôn cho ngươi?
Thương Nhân tiếp:
– Ta không tin ngươi buông tha, song vô luận như thế nào, ta nhất định không xuất thủ. Ngươi có muốn giết ta, thiết tưởng cũng chẳng dễ đâu. Ta dám chắc ngươi vận dụng tâm cơ một cách khổ sở để tìm lý do tắc trách hành động.
Liệu ngươi có tìm được lý do chăng?
Vương Thập Phương thừ người một lúc, rồi thở dài nói:
– Thương Nhân! Lão phu chịu thua, ngươi cứ đi đi!
Thương Nhân lắc đầu:
– Ta không đi.
Vương Thập Phương quắc mắt:
– Lao phu tha chết cho, sao ngươi không đi?
Thương Nhân lại cười:
– Ta không đến nỗi quá ngu mà mắc mưu ngươi. Ta nghĩ, các ngươi còn có một quy định nào khác.
Vương Thập Phương quát:
– Quy định gì?
Thương Nhân giải thích:
– Quy tắc thứ nhất của các ngươi, là không giết người khi người không động thủ. Ngươi tha ta, nhưng ngươi đâu có tha hai tên thuộc hạ của ta? Chúng nó nhảy xuống sông đó, chúng có phản kháng các ngươi đâu? Thế mà các ngươi cũng giết được chúng. Cho nên ta nghĩ, dù sao thì sao, ta nhất định không ly khai nơi này, để tránh khỏi cái tiếng đào tẩu.
Vương Thập Phương cực kỳ phẫn nộ, cao giọng thốt:
– Được rồi, lão phu bắt buộc phải phục ngươi, ngươi thông minh đó, đoán trúng quy củ của Vạn Ma Sơn Trang. Ngươi ở đây, lão phu cũng ở đây, thử xem đến lúc nào, ngươi mới bỏ đi.
Thương Nhân bật cười ha hả:
– Ngươi quyết thi gan với ta? Hay quá! Ngươi hãy nhìn trời kìa, mây kéo như vậy đó, không lâu lắm, sẽ có một cơn mưa to đổ xuống, mưa là có nước, ta chỉ sợ khi nước đổ xuống sẽ có điều bất lợi cho ngươi.
Vương Thập Phương nhìn trời, thần sắc trầm trọng.
Lâu lắm, lão thốt:
– Thương Nhân! Ngươi bức lão phu vi phạm quy củ của bổn trang đó nhé!
Thương Nhân cười hì hì:
– Ta đâu có quyền năng cấm đoán ngươi làm cái việc đó? Ngươi muốn vi phạm thì tùy ngươi, song hãy nhớ là ngươi còn phải trở về sơn trang, phục lịnh chủ nhân. Ngươi đã nghĩ ra cách phúc đáp với chủ nhân chưa, mà vội hăm dọa ta?
Vương Thập Phương hừ một tiếng:
– Những kẻ tùy hành của ta đều chết hết, còn ai đâu nữa mà ta sợ sự vi phạm bị tiết lộ?
Thương Nhân ngạo nghễ:
– Ngươi tin chắc là sự bí mật được bảo toàn à? Ngươi có nghĩ đến chuyện Vạn Ma Sơn Trang cho người âm thầm theo dõi ngươi, giám thị hành động của ngươi chăng? Xuất phát một đoàn người quan trọng như các ngươi, thi hành công tác bên ngoài, hẳn chủ nhân của ngươi cũng đề phòng các ngươi chểnh mảng phận sự, hoặc giả sanh tâm phản phúc. Như vậy, ngươi đừng tưởng qua mặt được chủ ngươi.
Vương Thập Phương quát lớn :
– Câm! Câm ngay! Lão phu không muốn nghe ngươi nói nhiều hơn. Chẳng lẽ lão phu không biết rõ hơn ngươi à?
Thương Nhân đắc ý:
– Bởi ngươi thừa hiểu như vậy, nên không dám hạ độc thủ. Vậy cần gì ngươi lý luận, giảng giải dài dòng với ta?
Vương Thập Phương giận quá, song giận thì giận, chứ là gì được bây giờ?
Thương Nhân buông câu nào, cũng trúng tim đen lão ta, phong phóc.
Trong khi đó thì trời tối lại, dần dần.
Vương Thập Phương cũng bối rối dần dần, càng phút càng bối rối hơn. Tuy nhiên, lão vẫn giữ thần sắc âm trầm không tỏ lộ một cảm nghĩ nào nữa.
Thương Nhân khích :
– Trời sắp đổ mưa rồi đó nhé. Ngươi hãy quyết định nhanh đi.
Vương Thập Phương suy nghĩ một lúc lâu, đoạn cất cất giọng sang sảng thốt:
– Vương Thập Phương kính bẩm chủ nhân Vạn Ma Sơn Trang, vì sự tình cấp bách, bắt buộc thuộc hạ phải làm cái việc vi phạm uy điều. Mong chủ nhân lượng xét cho. Khi trở về sơn trang. Thập Phương này sẽ cúi đầu thọ nhận hình phạt.
Thương Nhân thuận miệng mà nói, nói phóng chừng, chứ thực sự đâu có biết là có người theo dõi giám thị bọn Vương Thập Phương? Thế mà y đoán đúng!
Trông Vương Thập Phương khẩn cầu vu vơ, y thấy buồn cười hết sức.
Nhưng y giật mình, nụ cười tắt ngay, bởi có giọng lạnh lùng đâu đây vang lên:
– Không thể được! Xuất ngoại lần này, đành rằng ngươi làm tròn nhiệm vụ, đoạt được chiếc Bích Ngọc Phụng Hoàng song sự thành công đó mất cái giá trị của nó bên cạnh bao nhiêu lỗi lầm ngươi đã làm. Ngươi để lộ điều cơ mật của sơn trang, nếu bổn chủ nhân không theo dõi, thì chẳng biết ngươi còn phạm bao nhiêu lỗi lớn nữa không thể bù trừ! Bây giờ ngươi còn đưa ra một sự thỉnh cầu vô lý, như thế là nghĩa gì chứ?
Âm thinh vừa dứt, từ không trung rơi xuống một đống gì, mọi người cùng đổ mắt nhìn.
Thì ra, là một đống đầu người, máu tươi còn chảy ròng ròng, đầu của bọn hán tử đã bỏ cuộc, chạy đi lúc lên bờ.
Rồi một vật khác rơi theo. Vật sau nầy là chiếc bố chiêu bài của Ngô Khẩu Thiên.
Quan Sơn Nguyệt và Thương Nhân kinh hãi, cùng biến sắc mặt, Ngô Phụng rú lên một tiếng thảm, hôn mê ngay.
Gương mặt Vương Thập Phương đổi thành màu đất, lão ta rung rẩy người trông thảm lạ.
Người từ trong chỗ kín khuất phát âm vọng ra, quả thật là kỳ bí, âm thanh mường tượng phát xuất từ chín tầng không vọng xuống, mà đầu lâu và mảnh bố cũng do từ trên cao xa rơi xuống.
Người đó ẩn mình trong mây hay sao? Điều đó thì chẳng ai tin được như vậy rồi, song không ai biết y ẩn mình ở nơi nào mà liên lạc với Vương Thập Phương.
Cũng chẳng ai hiểu y là nam nhân hay nữ nhân, thuộc lứa tuổi nào, vì âm thanh rất lạnh lùng, khô khan, dường như chẳng phải thứ âm thanh của con người.
Lâu lắm, Vương Thập Phương mới lấy lại bình thường, tuy nhiên lão ta chưa hết run, giọng nói vẫn rung chứng tỏ lão còn quá sợ:
– Chủ nhân có điều gì chỉ thị cho thuộc hạ?
Trên không trung, âm thanh của người thần bí vọng xuống:
– Hậu hoạn, đã do ta tiêu trừ rồi, còn ba người đó, là vấn đề do ngươi giải quyết, người hãy tùy tiện mà liệu lý, xử trí, bất quá, ngươi nên nhớ, vi phạm quy củ của sơn trang thì số phận nào sẽ được dành lại cho ngươi sau này.
Vương Thập Phương vừa lấy lại tinh thần, vụt biến sắc một lần nữa, sững sờ một lúc lâu, khói từ cối điếu bốc lên, khói màu xanh, phản ánh với những đốm lửa bắn ra như sao. Lão rít, lão phun, khói tỏa thành một đám sương mơ, lan rộng dần dần, khói hướng về Thương Nhân bay tới.
Thương Nhân kinh hãi, đưa tay khoát, như để chống cự lại luồng khói mà y sợ là có độc.
Vương Thập Phương mỉm cười, thốt:
– Chung quy rồi ngươi cũng xuất thủ! Lão phu có thể hạ sát ngươi đó nhé!
Âm thanh từ trên không vọng xuống:
– Cái mưu đó được lắm, phải vậy chứ, nếu không thì chức sư gia của ngươi bay theo khói là cái chắc!
Bị quở, thì hãi hùng tới tái mặt, được khen thì gan ruột nở nang gương mặt của Vương Thập Phương tươi lại ngay.
Không chậm trễ lão đánh ra cùng một lúc, tay trên chân dưới một chưởng và một cước, lão dùng chiêu thức cực kỳ độc, quyết hạ sát đối phương cấp tốc.
Thương Nhân bình tĩnh quan sát chiêu công của địch, đoạn lạng người qua một bên, né tránh. Đồng thời, y đánh trả lại một chưởng vào hông Vương Thập Phương.
Vương Thập Phương hụp mình xuống vừa đủ nhường cho chưởng lực của Thương Nhân phớt qua, rồi lão dùng chiếc túi da đựng thuốc phất vào đùi đối phương, cùng một lúc lão phun luôn một đợi khói, trong khói có lửa chớp như sao, mường tượng có tiếng kêu lách tách.
Thương Nhân không dám kinh thường, vội nhún chân nhảy vọt lên không.
Nhưng, Vương Thập Phương vung chiếc điếu, đập cối điếu vào sau ót của Thương Nhân, nếu tử huyệt ở chỗ đó bị chạm thì Thương Nhân mất mạng ngay.
Lơ lửng ở trên không, lại đánh từ dưới lên, từ phía hậu tới, Thương Nhân tài nào xoay trở trách đòn kịp?
Vương Thập Phương cầm chắc với thế công đó, lão hạ đối phương, không còn nghi ngờ gì nữa.
Nhưng, đúng như lão không ngờ một ánh sáng vàng chớp lên, chiếc điếu của lão bị tiện đôi, tay còn nắm cần điếu, còn cối điếu thì bay đi, rơi xuống một góc xa xa.
Hiển nhiên, Quan Sơn Nguyệt xuất thủ cứu mạng Thương Nhân.
Vương Thập Phương giật mình quát:
– Tiểu tử làm gì thế?
Quan Sơn Nguyệt hoàng ngang ngọn kiếm, cao giọng đáp:
– Tại hạ không thể lấy mắt nhìn người lâm nạn mà không cứu.
Vương Thập Phương nổi giận:
– Thân ngươi chưa chắc gì ngươi bảo toàn nổi, còn can thiệp vào việc của kẻ khác là nghĩa gì chứ?
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Việc đó chưa đến, các hạ khoan đề cập vội. Ít nhất, hiện tại, tại hạ còn sống như thường, và còn sống được phút giây nào là tại hạ dành phút giây đó để làm việc thiện, khi nào chết sẽ hay. Mà chắc gì ai làm cho tại hạ chết nổi? Cho các hạ biết, nhát kiếm vừa rồi chỉ cảnh cáo các hạ thôi đó nhé, chứ nếu tại hạ muốn giết người, thì chiếc điếu đâu bị hủy diệt như vậy?
Vương Thập Phương giận dữ hét:
– Câm ngay! Ngươi tưởng nhát kiếm của người gây tổn thương cho lão phu dễ dàng à?
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Nên thức thời vụ một chút, các hạ ạ! Nếu biết là các hạ ngoan cố, thì tại hạ đã chuyển mũi kiếm vào người thay vì chặt chiếc điếu. Tại hạ bình sanh hành sự quang minh chánh đại không muốn hại chết ai một cách oan uổng. Muốn giết một người, tại hạ luôn cảnh cáo trước, rồi mới hạ thủ sau. Do đó các hạ chưa mất mạng dưới nhát kiếm.
Vương Thập Phương cười lạnh:
– Chiếc áo của ta, bằng da con linh dương, đao kiếm, dù bền đến đâu cũng không chặt đứt nổi!
Quan Sơn Nguyệt bĩu môi:
– Vậy sao? Thế thì các hạ nhìn xuống tà áo xem sao!
Vương Thập Phương cúi mình xuống phía dưới, thấy tà áo bị cắt mất một đoạn vài độ thước, phần bị cắt rơi ngay cạnh chân của lão ta.
Chiếc áo đó, là một vật báu của lão, mặc nó vào là lão không còn sợ đao kiếm chạm mình, hiệu năng của nó đã được chứng minh qua nhiều cuộc giao đấu, nhưng hôm nay lão gặp phải Quan Sơn Nguyệt với thanh Hoàng Diệp Kiếm, chiếc áo không còn là vật bảo đảm an toàn cho lão nữa.
Nếu Quan Sơn Nguyệt chẳng nương tình, đưa lưỡi kiếm lên cao hơn nhắm vào một chỗ nhược nào đó trên thân thế nào, liệu lão có trách khỏi mất mạng hoặc tồn thương không?
Lão thẹn, quá thẹn thành giận, gương mặt trắng xanh của lão bổng ửng đỏ lên, lão ngưng tụ công lực, định phát xuất «Phích Lịch Thần Quyền».
Quan Sơn Nguyệt đã thấy Hàn Phương sử dụng môn công đó, biết là một công phu lợi hại, chính Hàn Phương sử dụng mà còn ghê gớm như thế, thì Vương Thập Phương phải mãnh liệt hơn gấp trăm lần. Chàng cũng ngưng thần giới bị, chờ đợi đối phương xuất thủ.
Nhưng, từ trên không trung, âm thanh bí mật vọng xuống:
– Vương Thập Phương, ngươi định giở «Phích Lịch Thần Quyền» ra thi thố phải không?
Vương Thập Phương hấp tấp đáp:
– Tiểu tử này có võ công rất cao, nếu không thì thế môn công đó thì cũng làm gì hắn nổi.
Người trên không trung cười lạnh:
– Giả như vừa rồi, hắn quyết giết ngươi, thì có còn dùng thần quyền mà đối phó với hắn chăng?
Vương Thập Phương biến sắc mặt sợ hãi hỏi:
– Chủ nhân định chỉ thị thuộc hạ như thế nào?
Người trên không trung, lạnh lùng thốt:
– Luận về tình lý, thì lần xuất phát này, Vạn Ma Sơn Trang đại bại, tất số người bị tiêu diệt, trừ ngươi. Trách nhiệm đó về ai?
Vương Thập Phương vội đáp:
– Lỗi do nơi thuộc hạ. Thuộc hạ xin nạp mình chịu mọi hình phạt! Thuộc hạ nguyện hy sinh tánh mạng này chuộc lại lỗi lầm ...
Người trên không trung «hừ» một tiếng:
– Nạp mình chịu mọi hình phạt? Chứ ngươi trốn tránh được sao? Còn như hy sinh chuộc lỗi lầm thì Vạn Ma Sơn Trang cần phải dùng đến kẻ cầm như chết rồi nhưng được tha thứ cho sống sót, xuất lực đối địch sao?
Vương Thập Phương sợ quá, nhủn người ngã ngồi ngay tại chỗ.
Người trên không trung lại cười:
– Ngươi đừng quá khiếp mà thành ra có bộ dạng đó. Người ta tha chết cho ngươi thì ta cũng không thể giết ngươi, chỉ vì sanh mạng của ngươi không còn ở trong tay của ta nữa, ta không màng đến ngươi làm gì.
Vương Thập Phương lại đứng lên, ngẩng mặt hỏi:
– Thế chủ nhân muốn cho thuộc hạ phải làm như thế nào?
Người trên không trung trầm lạnh giọng:
– Trao Bích Ngọc Phụng Hoàng cho người ta.
Vương Thập Phương không biết được dụng ý của chủ nhân như thế nào, song không dám cãi, ngoan ngoãn đưa tay vào mình lấy chiếc hộp bằng gỗ ra.
Người trên không trung bảo:
– Để xuống đất.
Vương Thập Phương y lời.
Người trên không trung tiếp:
– Gã họ Quan kia, hiện tại, chiếc Bích Ngọc Phụng Hoàng là vật sở hữu của ngươi đó, cho nên ta không cam tâm nhường nó qua tay ngươi.
Quan Sơn Nguyệt vội thốt:
– Tại hạ đâu có muốn chiếm nó?
Người trên không trung cao giọng:
– Vô luận là ngươi muốn hay không muốn, vật đó cũng về tay ngươi rồi, ngươi cầm nó, mang đến Vạn Ma Sơn Trang, ta muốn tự tay đoạt hồi nó từ tay ngươi.
Quan Sơn Nguyệt hoang mang, chẳng hiểu đối phương giở trò quỷ gì, mà cũng không biết có thái độ nào thích hợp với hoàn cảnh.
Người trên không trung lại tiếp:
– Vương Thập Phương, mang nữ nhân họ Ngô và tên thủ lĩnh các thủy trại đó, về thẳng Vạn Ma Sơn Trang, làm con tin, nếu gã họ Quan sợ mà không dám đến, thì chúng ta sẽ giết họ.
Vương Thập Phương «vâng» một tiếng, bước nhanh về phía Thương Nhân.
Quan Sơn Nguyệt đinh ninh là Thương Nhân sẽ phản kháng, ngờ đâu Vương Thập Phương đến sát bên y rồi mà y vẫn sững sờ ngây người như tượng gỗ.
Người trên không trung cười lạnh, thốt:
– Ta đã điểm trúng huyệt đạo của hắn, thủ pháp của ta, chỉ có mỗi mình ta giải khai mà thôi, do đó ta cảnh cáo ngươi, đừng tìm cách cứu giải hắn, dù cho ngươi có giành hắn tại đây, ngươi cũng vô phương cứu sống hắn.
Chính Quan Sơn Nguyệt đang có ý định ngăn trở Vương Thập Phương, nhưng nghe nói thế, lập tức bỏ ngay ý định đó, chàng chỉ còn có cách là mở to mắt nhìn Vương Thập Phương hành động.
Thương Nhân không khác một xác chết, thân thể oặc òa oặc oại trên vai Vương Thập Phương.
Khi Vương Thập Phương tiến về phía Ngô Phụng, người trên không trung ngăn chặn:
– Vương Thập Phương, sở dĩ công tác của ngươi không thành, phần lớn là do nữ nhân, vậy ngươi không nên chạm đến mình nàng nữa, hãy gọi nàng đi theo ngươi.
Ngô Phụng lúc đó đã tỉnh lại rồi, nghe thế liền ngẩng cao mặt đáp:
– Ta không đi đâu cả.
Người trên không trung cười khà khà:
– Nếu ngươi không muốn cho cái lão tướng số biến thành một oan hồn, thì nên ngoan ngoãn nghe lời ta.
Ngô Phụng lộ vẻ khích động:
– Gia gia tôi còn sống à?
Người trên không trung đáp:
– Nếu lão chết rồi, thì ta đã quăng chiếc đầu của lão xuống cho ngươi trông thấy, thay vì quăng tấm bố chiêu bài. Nhưng bây giờ nếu ngươi chỉ nói với ta nửa tiếng không thôi, lập tức chiếc đầu của lão rơi liền, lăn lông lốc cạnh chân ngươi cho ngươi xem.
Ngô Phụng không dám ngoan cố nữa.
Người trên không trung cười khanh khách, tiếp:
– Quan Sơn Nguyệt! Ngươi nói rằng, tại Ngũ Đài Sơn, có con bé họ Trương tài tình lắm, ta hỏi nàng có thủ đoạn thần xuất quỷ một như ta chăng? Nàng có dám chống đối ta chăng?
Cho đến phút giây này, Quan Sơn Nguyệt chưa biết mảy may về đối tượng.
Bởi thế, chàng do dự, không dám vội đáp lời.
Người trên không trung cười vang, tiếp luôn:
– Vấn đề đó, ta để tùy ngươi thong thả suy nghĩ. Ta chỉ đề tỉnh ngươi một câu này, là trong vòng ba hôm, nếu ngươi không đến Vạn Ma Sơn Trang thì ta sẽ bắt người tại Ngũ Đài Sơn làm áp lực với ngươi, cứ mỗi hôm ta giết một tên, cho ngươi xem ...
Quan Sơn Nguyệt không còn dằn lòng được nữa, hét to:
– Không cần chờ đợi ba hôm hay mấy hôm, hiện tại các hạ cứ xuống ngay đây, chúng ta giải quyết vấn đề ngay lập tức. Tại hạ còn bao nhiêu chuyện khác phải làm, không thể vì một chuyện này mà bỏ các việc đó.
Người trên không trung cười nhẹ, đáp:
– Ngươi muốn giải quyết ngay vấn đề, song ta thì không muốn hội kiến ngươi trong hiện tại. Ta đưa ra một thời hạn ba hôm, ngươi đến hay không tùy ngươi vậy. Nên nhớ ta không khi nào sợ ngươi trốn mất.
Đoạn y gọi:
– Vương Thập Phương! Chuẩn bị ly khai cục trường!
Vương Thập Phương đáp ứng một tiếng.
Quan Sơn Nguyệt toan bước tới ngăn cản, bỗng một tiếng đùng vang lên, khói mờ bốc trước mặt, che khuất nhãn tuyến của chàng. Khói lan nhanh, bao bọc chung quanh chàng, chẳng biết thứ khói gì, dày độ bao nhiêu.
Chàng vung kiếm chạy loạn trong vầng khói, nhưng chỉ chạy loanh quanh trong vòng một trượng tròn thôi, nếu chàng vượt ra ngoài phạm vi đó một bước, thì có một kình lực hất chàng trở lại chỗ cũ.
Không lâu lắm, vầng khói đó tan đi, áp lực bên ngoài cũng nhẹ đi Quan Sơn Nguyệt lúc đó mới hoạt động được theo ý muốn. Nhưng còn gì làm nữa? Chàng không thấy một bóng người nào quanh chàng. Đến cả những xác chết, trước đó nằm la liệt trên mặt đất, bây giờ cũng biến mất như những người sống. Chỉ còn lại cái hộp bằng gỗ, đựng Bích Ngọc Phụng Hoàng nằm trước mặt chàng, cách không xa lắm.
Chàng bước tới, thất trên hộp có một mảnh giấy, không chậm trễ, chàng đọc:
«Nếu thật có cái tâm phó ước như lời đề nghị, thì ngươi không nên mở vội chiếc hộp này, bởi vật trong hộp vị tất thuộc quyền sở hữu của ngươi, cái quyền đó chỉ thuộc đứt về ngươi sau khi cuộc ước hội diễn tiến xong. Còn như ngươi không muốn đến Vạn Ma Sơn Trang thì ngay bây giờ đi thẳng đến Ngũ Đài Sơn thông tri bằng hữu của ngươi bảo tất cả nên tìm chỗ an toàn lẩn tránh, may ra bọn ấy còn giữ được chiếc đầu trên cổ.» Bên dưới mảnh giấy là một dọc tên người, tên Trương Thanh, Giang Phàm, Liễu Y Ảo, Lạc Tiểu Hồng, và những người khác trong Thái Cực Phái, nhưng chỉ là tên nữ nhân, không có tên một nam nhân nào cả, cứ đó mà suy, người bí mật kia hiểu rất rành tình hình trên Ngũ Đài Sơn như lòng bàn tay.
Quan Sơn Nguyệt không khỏi kinh hãi. Chủ nhân Vạn Ma Sơn Trang là ai, mà lại có tài thông thiên triệt địa như thế? Trương Thanh dù có Xà Thần bên cạnh liệu nàng đủ tài năng đương cự với người bí mật này chăng?
Nếu chàng giữ nguyên tánh khí ngông cuồng, không chịu đến thẳng Vạn Ma Sơn Trang, hội ước với y, thì chắc chắn là bọn Trương Thanh sẽ bị hại nơi tay độc của người này? Dĩ nhiên chàng không muốn có việc như vậy. Thì còn có cách là phải đến Vạn Ma Sơn Trang, hội ước với người bí mật.
Nội cái việc hội kiến với con người tài ba đó, cũng đáng giá cho cuộc viễn hành ngoài chương trình dự liệu, không nói chi đến việc cứu cha con Ngô Khẩu Thiên và Thương Nhân, việc mà chàng phải làm, không thể bỏ qua được.
Nhưng, Vạn Ma Sơn Trang ở tại địa phương nào? Muốn đến đó, phải do lộ trình nào? Con người bí mật đó, an bài mọi việc rất chu đáo, song lại quên mất chỉ chỗ cho chàng.
Chàng thừ người một lúc, rồi cất chiếc hộp vào mình.
Đúng lúc đó, từ phía sau lưng chàng, có âm thinh vọng đến:
– Ngươi nhất định phó ước!
Quan Sơn Nguyệt vụt quay người lại, thấy một thiếu nữ bận áo trắng, bỏ xõa tóc dài, phủ kín đôi bờ vai, mặt đẹp nhưng rất lạnh lùng. Chàng giật mình, hỏi:
– Cô nương là ai?
Thiếu nữ nhạt giọng đáp:
– Tôi là thị tỳ. Chủ nhân Vạn Ma Sơn Trang lưu tôi lại đây. Tôi tên là Ngọc Phương.
Quan Sơn Nguyệt thốt:
– Ngọc cô nương ...
Thiếu nữ vẫn lạnh lùng, chận lại:
– Họ của tôi đâu phải là Ngọc? Tên tôi là Ngọc, thiếu hiệp cứ gọi Ngọc Phương, đừng thêm hai tiếng cô nương làm chi. Tôi không xứng đáng.
Quan Sơn Nguyệt giật mình, cảm thấy thiếu nữ này bất cận nhân tình không tưởng nổi, thảo nào mà nàng chẳng có bộ mặt lạnh như giá băng. Chàng còn nói được gì nữa với nàng. Suy nghĩ một lúc, chàng hỏi:
– Chủ nhân cô nương là ai?
Nàng đã bảo chàng đừng dùng hai tiếng cô nương, song không gọi như vậy thì xưng hô bằng cách nào bây giờ?
Ngọc Phương lạnh lùng đáp:
– Nếu thiếu hiệp định phó ước, thì khi nào song phương gặp nhau thiếu hiệp sẽ hiểu, cần gì phải hỏi?
Quan Sơn Nguyệt bình sanh chưa hề gặp cái thứ người ngang ngạnh lạnh lùng hầu như chẳng có mảy mai lễ độ, dù muốn dù không chàng cũng có giận ít nhiều, cũng may là nàng còn gọi chàng với hai tiếng thiếu hiệp, nếu nàng dùng cái tiếng ngươi cộc lốc, hẳn là chàng phải tức tràn lòng.
Không muốn nói nhiều với nàng nữa, Quan Sơn Nguyệt buông gọn:
– Đi!
Ngọc Phương không cười, nhếch khóe mắt xéo qua, khinh khỉnh:
– Quyết tâm phải không?
Quan Sơn Nguyệt sừng sộ:
– Tự nhiên. Nếu không, thì tại hạ bảo đi làm gì?
Bây giờ thì Ngọc Phương không kiêng nể nữa:
– Vậy thì ngươi lên ngồi trên lưng ta đây, ta cõng ngươi đi.
Nàng khom mình xuống.
Quan Sơn Nguyệt giận hơn một chút nữa:
– Nói bậy! Ta không có chân sao, lại phải nhờ ngươi cõng?
Ngọc Phương trầm giọng:
– Đi chậm như ngươi, thì ba năm nữa cũng chưa đến nơi, ngươi nên nhớ là hạn định chỉ có ba hôm thôi đấy.
Thốt xong, chẳng đợi Quan Sơn Nguyệt có đồng ý hay không, nàng bước nhanh tới, vươn tay điểm vào một huyệt đạo nơi hông chàng.
Chàng nghe toàn tân tê dại, muốn cự nự cũng không còn một điểm nhỏ khí lực để phản kháng.
Ngọc Phương chụp Quan Sơn Nguyệt, đặt lên lưng nàng rồi lạnh lùng bảo:
– Có đói, có khát hay muốn gì, cứ nói thật với ta, ta sẽ dừng lại cho đừng cậy tài giở thói làm càng mà phải khổ.
Nàng nhún chân, thân mình vọt tới, nàng chạy nhanh hơn bay, Quan Sơn Nguyệt phải phục thầm, nhưng chàng cũng thẹn, giận.
Thẹn và giận cũng vô ích khi chàng không còn làm gì được nữa.
Chẳng biết bao lâu thời gian, chẳng biết bao dài lộ trình rồi, Quan Sơn Nguyệt chỉ hiểu là chàng khó chịu hết sức, thời gian lâu và lộ trình dài càng làm cho chàng khó chịu đựng trong bao lâu nữa?
Dù lâu bao nhiêu cũng chẳng quá ba ngày, đã chỉ là ba ngày, chàng cũng không chịu nổi. Nếu đi như thế này nhiều ngày nữa, chắc là chàng phải chết vì bực. Cái khổ cho chàng hầu như cùng cực là Ngọc Phương không chọn những con đường lớn mà đi, nàng chọn những con đường mòn nhỏ, để trách sự dòm ngó của khách lữ hành, nàng lại không đi theo một chiều hướng duy nhất, khi rẽ Đông, khi quẹo Tây, lao vòng qua Bắc và trở về Nam. Có lúc nàng vượt núi cao, có lúc qua sông rộng, khi đi xuyên qua rừng, khi lướt qua những cánh đồng bao la bát ngát.
Đường dù khó, thân pháp của nàng nhanh nhẹ, bộ pháp vững vàng, nàng đi nhứ bước trên nhung lụa, êm ái ung dung, không hề lộ vẻ khó khăn vất vả.
Quan Sơn Nguyệt phải phục nàng, càng phục nàng chàng càng sợ chủ nhân Vạn Ma Sơn Trang, bởi một nữ tỳ mà có bản lĩnh phi thường như vậy thì chủ nhân ghê gớm đến mức độ nào nữa? Một con người, chưa đầy hai mươi tuổi, có được một bản lĩnh cao cường như thế đó, họa chăng nàng luyện võ ngay từ lúc còn nằm trong bụng mẹ mới đạt đến mức thành tựu cao với. Chàng dù sao cũng là tay có hạng chứ, thế mà nàng chỉ vươn tay là chàng bị áp đảo ngay!
Trong khi chàng đang miên man nghiền ngẫm với bao nhiêu ý niệm trong đầu, thì thái dương cũng chuyển dần về Tây, rút ngày ngắn lại. Không khí mất sáng dần dần, màn đêm sắp phủ xuống vạn vật, tính ra, cả hai đã trải qua hai tiếng đồng hồ rồi, và Ngọc Phương cũng đã vượt ít nhất là mấy trăm dặm đường.
Chừng như Ngọc Phương mệt mỏi, Quan Sơn Nguyệt nhận ra sự kiện đó qua hơi thở dập dồn của nàng. Ngực chàng áp lên lưng nàng, ngực áo ướt, chứng tỏ lưng nàng có rịn mồ hôi.
Cuối cùng, nàng rẽ bước vào một khu rừng, tìm chỗ bình thản dừng chân lại, đặt Quan Sơn Nguyệt xuống đất, sau đó thu nhặt những lá khô, làm nệm tạm, cho Quan Sơn Nguyệt nằm. Kế tiếp, nàng gom những cành khô chất đống lại, để đốt lửa đêm.
Sau cùng, vẫn với giọng lạnh, nàng hỏi:
– Ngươi muốn ăn gì không!
Không còn khí lực, hoàn toàn do người định đoạt số phận, chỉ vâng theo sự an bài của người ta, Quan Sơn Nguyệt cảm thấy tủi nhục vô cùng. Chàng «hừ» lạnh một tiếng đáp cộc lốc:
– Cái gì ta cũng chẳng thèm ăn!
Mãi đến bây giờ, nét cười thoáng hiện nơi gương mặt của Ngọc Phương.
Nàng hỏi lại:
– Ngươi giận à?
Quan Sơn Nguyệt cũng «hừ» một tiếng như trước, không hồi đáp.
Giận là cái chắc rồi, song giận thì để trong tâm, chứ nói ra làm sao cho tiện.
Ngọc Phương cười thành tiếng, tiếp:
– Ngươi xem được quá! Được ở chỗ có dõng khí, vượt qua một đoạn đường dài mà còn giận nổi, kể cũng có hạng đấy. Ngươi biết không, trước đây, ta từng cõng nhiều người người như ta cõng ngươi, những người đó sau khi ta đặt xuống đất mỗi lần dừng chân nghỉ, đều kinh khiếp đến độ tan biến thần hồn, làm gì họ còn giận nổi được như ngươi.
Quan Sơn Nguyệt động tính hiếu kỳ hỏi:
– Trước đây, ngươi cũng có cõng người như thế này?
Ngọc Phương gật đầu :
– Có chứ! Mỗi khi chủ nhân mời khách đến trang, đều dùng phương thức này. Ta cõng tất cả là bốn người rồi, nhưng kết cuộc chẳng một ai đến trang, tất cả đều bị ta giết dọc đường.
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Tại sao ngươi giết họ?
Ngọc Phương cười nhẹ :
– Họ thấy ta có bản lĩnh vượt núi băng rừng, khiếp quá biến sắc như người chết. Cái thứ vô dụng như vậy, có xứng đáng gì cho chủ nhân phải thừa tiếp?
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một lúc:
– Chắc là chủ nhân của ngươi có vũ công cao lắm?
Ngọc Phương đáp:
– Tự nhiên. So với ta, chủ nhân cao minh không biết gấp mấy trăm ngàn lần.
Thú thật với ngươi, ta không ức lượng nổi mức độ cao thâm của người. Bất quá ngươi có thể so tài với chủ nhân của ta.
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– So với ngươi, ta còn kém xa, làm gì có việc tương đương với chủ nhân ngươi được chứ?
Ngọc Phương mỉm cười:
– Đừng khách khí quá vậy. Thật ra, thuật khinh công của ta cũng có hạng, ta còn có công phu điểm huyệt linh diệu hơn ngươi. Nhưng, ngoài hai thứ công phu đó ra, về những môn khác thì ta dở tệ.
Quan Sơn Nguyệt tặc lưỡi:
– Biết rành hai môn đó cũng đủ lắm rồi. Ngươi đưa tay ra, là ta co rúm, dù ta có công phu cao, cũng chẳng còn thi thố được, thì có cũng như không, ích lợi gì đó mà ỷ trượng vào?
Ngọc Phương lắc đầu:
– Ngươi yên trí. Khi giao đấu với ngươi, chủ nhân sẽ không dở thủ pháp điểm nguyệt đâu. Bởi vì công phu đó, trên đời này chỉ mỗi một mình chủ nhân luyện đến độ siêu huyền nhập ác, đem một môn công vô địch thủ thắng trước mặt ngươi, thì vinh hạnh gì cho chủ nhân ta?
Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc:
– Thế chủ nhân dùng môn công gì giao đấu với ta?
Ngọc Phương dài thích:
– Dùng cái sở trường của ngươi. Giả như ngươi chuyển dùng kiếm, thì người sẽ đánh kiếm. Vả lại, người cũng không bằng vào nội lực mà tranh thắng, chỉ luận thấp cao về chiêu thức thôi.
Quan Sơn Nguyệt cúi đầu trầm tư. Chàng tìm một phương pháp giao chiến với con người thần bí, quái dị đó.
Ngọc Phương mỉm cười, hỏi:
– Đừng vận dụng tâm tư trong lúc này làm gì. Cứ chờ khi nào cuộc trắc nghiệm can đảm thực hiện xong, ngươi sẽ có cơ hội tranh chấp với chủ nhân, lúc đó ngươi hãy suy nghĩ.
Quan Sơn Nguyệt lại một phen kinh ngạc:
– Ngươi nói cái gì là trắc nghiệm can đảm?
Ngọc Phương tiếp:
– Trong đời, chủ nhân không ghét gì hơn là bọn có lá gan bé bằng lá gan chuột. Cho nên, những nam nhân trong trang khi được sử dụng, giao phó thi hành công tác, đảm nhiệm một trách vụ gì, đều phải trải qua một cuộc trắc nghiệm tại Hắc Ngục Vong Hồn, xem họ có can đảm hay không ...
Quan Sơn Nguyệt hoang mang:
– Hắc Ngục Vong Hồn là cái gì?
Ngọc Phương lắc đầu:
– Ta cũng không hiểu rõ, bất quá ta chỉ biết rằng, Hắc Ngục Vong Hồn được tạo lập với mục đích trắc nghiệm bọn nam nhân. Nơi đó, có ba cõi ảo ảnh cực kỷ khủng khiếp, cõi đầu đã khủng khiếp rồi, cõi kế lại còn khủng khiếp gấp trăm ngàn lần cõi trước, và kém trăm ngàn lần cõi sau.
Quan Sơn Nguyệt bắt đầu sanh hứng, lại hỏi:
– Khủng khiếp thế nào? Có làm chết người chăng?
Ngọc Phương cười mỉa:
– Đã nói là ảo ảnh, thì làm gì có việc gây chết cho người? Tuy nhiên nếu ngươi nhát quá, vào đó mà khiếp sợ cực độ, cũng dám chết lắm. Chết như vậy, là vì sợ, chứ đâu phải Hắc Ngực Vong Hồn giết người ...
Quan Sơn Nguyệt cười vang:
– Nếu chẳng phải là cạm bẫy giết người, thì có gì đáng sợ đâu mà phải chết vì sợ?
Ngọc Phương nghiến răng, lời nói của Quan Sơn Nguyệt gây niềm bất mãn nơi nàng. Nàng trầm giọng, thốt:
– Ngươi đừng khinh thường, đến việc rồi ta chỉ sợ ngươi mất cả thần hồn, không còn tự chủ được nữa. Từ ngày chủ nhân thiết lập Hắc Ngục Vong Hồn đến nay chưa có một tay nào sang đến cõi thứ ba. Có kẻ giỏi lắm là đến cõi thứ hai, và phần đông xỉu ngay cõi thứ nhất.
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Ngươi chẳng đã nói rằng tất cả nam nhân trong trang đều phải trải qua cuộc trắc nghiệm như thế, nhưng trên thuyền, ta thấy ngoài Vương sư gia ra còn có mấy nam nhân nữa mà? Họ được chủ nhân sử dụng, tức nhiên là họ có qua cuộc trắc nghiệm. Họ phải lọt qua cõi thứ ba, chủ nhân mới hài lòng mà sử dụng họ chứ?
Ngọc Phương đáp:
– Dùng người là một lẽ, trắc nghiệm là một lẽ khác. Vương sư gia xỉu ngay tại cõi thứ hai, nhờ vậy mà y có một địa vị cao hơn bọn kia chỉ vào Hắc Ngục Vong Hồn là hôn mê ngay tại cõi thứ nhất. Tuy nhiên, Vương sư gia còn kém Trầm tiên sanh.
Quan Sơn Nguyệt chớp mắt:
– Trầm tiên sanh là ai?
Ngọc Phương mỉm cười:
– Trầm tiên sanh là bằng hữu của chủ nhân, tiên sanh qua lọt hai cõi, song lại xỉu ở cõi thứ ba, chủ nhân khen ngợi là tay khá, nên dùng lễ đối đãi, xem như một bậc nhân tài.
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Chủ nhân ngươi có ý tưởng kỳ quái thật! Tại sao lại nghĩ ra cách trắc nghiệm lạ lùng thế?
Ngọc Phương không đáp câu đó, cứ giải thích luôn cách tuyển dụng thủ hạ của trang chủ Vạn Ma Sơn Trang:
– Chủ nhân không giết ai cả, chỉ dùng bọn người xỉu tại cõi thứ nhất làm nô dịch, dùng bọn người xỉu tại cõi thứ hai làm quản sự, làm sư gia ...
Quan Sơn Nguyệt chặn lời:
– Người lọt qua hai cõi, được đối xử như khách, giả như có người qua hết ba cõi thì sao? Chủ nhân ngươi dành thái độ nào cho họ?
Ngọc Phương nghiêm sắc mặt:
– Rất mực kính trọng.
Quan Sơn Nguyệt «ạ» lên một tiếng.
Ngọc Phương tiếp:
– Chủ nhân không tin rằng trên đời có người thông qua cả ba cõi. Tuy vậy người hằng ước mong một ngày nào đó, một nhân tài xuất hiện, vào Hắc Ngục Vong Hồn, như vào cảnh trí thanh lịch, không mảy may kinh tâm khiếp đảm. Chủ nhân từ lâu quá tịch mịch ...
Quan Sơn Nguyệt bĩu môi:
– Sự tịch mịch của kẻ tài cao, không người đối địch? Con người ta không ai cam chịu cái tịch mịch, điều đó thì rất thường. Nhưng bày ra Hắc Ngục Vong Hồn, để trắc nghiệm tài năng và can đảm của kẻ khác, rồi lại xem như cừu địch những ai lọt qua đủ ba cõi. Như vậy là nghĩa gì?
Ngọc Phương giải thích:
– Tài học của chủ nhân cầm như thông thần, công lực cao thâm cùng cực, bình sanh tự ví mình như bậc thánh hiền, nên rất chịu cái câu:
«Tự cổ thánh hiền giai tịch mịch». Bởi, có ai đáng mặt tri kỷ của hạng thánh hiền? Do đó, phàm gặp người tài cao, dù người đó là cừu địch, chủ nhân vẫn kính trọng. Ta nói cừu địch, là nói về phương diện so hơn kém tài năng, chứ không theo chủ trương tranh chấp quyền lợi.
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:
– Tôn kính mà đem cái địch ý đối xử với nhau à?
Ngọc Phương gật đầu:
– Đúng vậy. Địch, là ngang nhau, bởi ngang nhau nên tôn kính, vì ngang nhau mà song phương đều muốn trên nhau, do đó có địch ý. Địch ý đưa nhau đến chỗ cao siêu, đi dần đến thập toàn chứ không tiêu diệt nhau. Cho nên, có sự kính trọng bậc đồng tài, trên tài, và đối với bọn thông thường thì dùng quyền thế mà sai khiến. Bước ra một tấc đường, là ngươi gặp vô số kẻ tầm thường, trái lại bậc tài năng thì đi khắp non sông, chưa chắc sẽ gặp được một tay. Như vậy, có phải bậc hiền tài là hy hữu chăng?
Không đồng quan niệm, Quan Sơn Nguyệt và Ngọc Phương tranh luận với nhau mãi, chàng thì cho rằng trang chủ ngông cuồng mới có ý tưởng quái đản, thiết lập Hắc Ngục Vong Hồn, nàng thì bảo là chàng cũng ngông cuồng không kém, dám tự phụ qua lọt đủ ba cõi trong ngục tối đó.
Ngông cuồng, nên không sợ, bởi kẻ điên còn biết sợ gì?
Quan Sơn Nguyệt cãi, không sợ là vì thừa can đảm, còn đủ lý trí để nhận định mọi khủng khiếp hiện ra, tìm cách giải trừ, đối phó, không hẳn là không sợ tại vì ngông cuồng.
Cuối cùng, họ chấm dứt cuộc cãi vả, ở chỗ bất đồng ý kiến, rồi Ngọc phương lấy trong tay áo ra một chiếc bọc, có đủ cơm khô, cá thịt khô, có cả một bao đậu.
Nàng bày số lượng đậu ra trên mặt đất, rồi chu miệng hú một tiếng dài.
Từ trên không trung, một con chim ưng xuất hiện, xuyên qua cành lá, bay xuống.
Nàng vẫy tay ra hiệu, chim ưng há mỏ gắp chiếc bao đậu, bay trở lên không.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Ngươi nuôi nó?
Ngọc Phương đáp:
– Chủ nhân nuôi đúng hơn. Dùng sai khiến trong những công việc vặt.
Nàng mời chàng ăn.
Chàng cứ ngồi yên. Vì bị điểm huyệt, chàng còn làm sao cử động được mà ăn uống?
Phát giác điều đó, Ngọc Phương đưa tay võ nhẹ nơi mình chàng, thốt:
– Cứ theo sự phân phó của chủ nhân thì ta phải đút cho ngươi ăn, nhưng ta nghĩ, làm vậy thì ngươi sẽ tủi thẹn, tạm thời ta nương tình một chút, cho ngươi được tự tiện.
Nửa thân trên thoải mái ngay sau khi nàng giải huyệt, Quan Sơn Nguyệt chỉ còn tê dại nửa thân dưới thôi. Tay cử động được song chân không nhúc nhích.
Chàng cau mày, hỏi:
– Tại hạ có trốn đi đâu? Tại sao chủ nhân dành thái độ đó đối với khách?
Chàng bắt đầu xưng tại hạ, lễ độ đã trở về với chàng, bởi chàng nghĩ rằng nói năng thô bạo với một nữ nhân, dù cho nữ nhân đó có là cừu nhân đi nữa thì cũng kém đẹp. Bất quá, trong thời gian qua, vì quá tức, uất mà chàng hằn học, lỗ mãng, bây giờ, cơn giận đã nguôi rồi, chàng thấy cần nhã nhặn với nữ nhân.
Phần chàng là thế, còn Ngọc Phương thì chàng không quan tâm lắm, mặc nàng muốn xưng hô làm sao, tùy sở thích của nàng.
Ngọc Phương mỉm cười, đáp:
– Đâu phải ta sợ ngươi trốn? Đó là ta không muốn để cho ngươi tiêu hao thể lực, giúp ngươi khi đến Vạn Ma Sơn Trang rồi, ngươi còn nguyên vẹn tinh thần để ứng phó với mọi thử thách.
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng, không nói gì, cứ ăn, uống.
Quan Sơn Nguyệt ăn, uống như vũ bão, Ngọc Phương ở bên cạnh cứ cười, đợi chàng ăn xong nàng mới thốt:
– Ta không ngờ cái bụng của ngươi to quá, chẳng kém bụng một con heo nái. Nếu sớm biết như vậy, thì ta đã chuẩn bị một số lượng thực vật nhiều hơn, để ngươi không kêu la thiếu thốn.
Quan Sơn Nguyệt bật cười khanh khách:
– Đủ lắm rồi, cô nương! Tại hạ rất no, bình sanh chưa lần nào ăn no như hôm nay.
Ngọc Phương lại cười:
– Thế ra, từ lâu rồi, ngươi luôn luôn ăn đói? Chỉ có lần nầy thôi, ngươi mới ăn đầy đủ số lượng? Vậy là ngươi lớn lên, bằng vào cái đói chứ không nhờ ăn no, uống đậm!
Họ cười với nhau, Ngọc Phương mất dần cái vẻ lạnh lùng lúc ban đầu, tuy nàng chưa tỏ rõ sự thân thiện.
Bỗng, Quan Sơn Nguyệt đưa tay ký trên đầu mình kêu một tiếng cốc, thốt:
– Đáng chết! Đáng chết thật!
Ngọc Phương giật mình:
– Việc gì thế?
Quan Sơn Nguyệt tặc lưỡi:
– Tại hạ chỉ cố ăn, quên mời cô nương! Lại ăn sạch sành sanh, không dành phần cho cô nương ...
Ngọc Phương cười xòa:
– Ăn ráo trơn ráo trọi rồi mới nhớ đến ta, ngươi chẳng thấy là quá muộn và vô ích hay sao chứ?
Quan Sơn Nguyệt cúi đầu, giấu vẻ thẹn.
Ngọc Phương lại nói tiếp:
– Nói vậy chứ, không sao đâu. Ta không ăn cũng chẳng quan hệ gì đó.
Xem ngươi ăn, ta cao hứng quá, cũng nghe no rồi.
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Cô nương có ý tứ gì, nói lên câu đó?
Ngọc Phương đáp:
– Ngươi là tri âm của ta. Giả như ta có công khó tìm các thức ăn cho ngươi, mà ngươi chỉ ăn qua loa, lấy lệ, thì ta buồn biết bao nhiêu? Ngươi ăn thành thật, ăn nhiều như vậy, là hưởng ứng sự chí tình của ta. Tự nhiên, ta cao hứng, và khi con người cao hứng, dù không ăn gì cũng cảm thấy no lòng, no với niềm vui tràn ngập.
Dù nàng nói như thế, Quan Sơn Nguyệt vẫn không hết áy náy, tự trách mình quá thô lỗ, kém tế nhị.
Ngọc Phương an ủi luôn:
– Phàm là anh hùng, hảo hán, thì cái khí khái, lắm lúc khó tránh cương mãnh, thô bạo, chẳng những trong hoạt động, mà cả đến cái ăn cái uống cũng biểu hiện cá tính đó ít nhiều. Ngươi không nên thắc mắc, chính ta lại hoan nghênh lối ăn uống như vũ bão của ngươi lắm chứ.
Rồi nàng lại ôn tồn bảo:
– Chắc là ngươi mệt mỏi nhiều. Vậy, hãy nghỉ ngơi một lúc đi.
Nàng lấy một vuông khăn lụa, nhúng nước, trao cho Quan Sơn Nguyệt.
Quan Sơn Nguyệt tiếp lấy, tạ ơn nàng, rồi lau mặt mày. Bổng chàng giật mình, thần sắc lộ vẻ kinh ngạc.
Ngọc Phương lấy làm lạ, hỏi:
– Ngươi làm sao thế?
Quan Sơn Nguyệt hỏi lại:
– Cô nương ... cô nương không sợ nước à?
Chàng nhớ lại sự việc đã qua, bất cứ người nào của Vạn Ma Sơn Trang ở trên thuyền ngày đó, đều sợ nước như sợ rắn rết. Rồi bây giờ, Ngọc Phương dám nhúng khăn vào nước, trao khăn ướt cho chàng. Như thế, phải là một sự kiện lạ lùng.
Ngọc Phương mỉm cười đáp:
– Trong Vạn Ma Sơn Trang chỉ có nam nhân là không được để nước vấy vào mình, còn nữ nhân thì tha hồ mà vọc, mà nhúng.
Quan Sơn Nguyệt đi từ kinh ngạc nầy đến kinh ngạc khác:
– Sao lại có việc khác biệt như vậy?
Ngọc Phương giải thích:
– Chủ nhân nói rằng nam nhân được cấu tạo bằng đất, mà đất thì không thể vấy nước, đất đẫm nước tất phải rã rời ...
Quan Sơn Nguyệt thất vọng. Trong tâm chàng, niềm thắc mắc lớn lao qua những ngày rày, là sự sợ nước của người trong Vạn Ma Sơn Trang. Chàng mong mỏi khám phá ra được sự bí mật đó, dịp tốt đã đến, nhưng Ngọc Phương lại giải thích rất ngây ngô, chàng chung quy vẫn thắc mắc như thường.
Tuy nhiên, chàng không lộ vẻ gì chứng tỏ là quá tha thiết với vấn đề đó, nhiều lắm là chàng để lộ phần nào sự kinh dị do hiếu kỳ mà có vậy thôi. Rồi chàng hỏi:
– Còn nữ nhân? Chất gì cấu tạo nên nữ nhân?
Ngọc Phương cười nhẹ:
– Ngươi đoán thử xem!
Quan Sơn Nguyệt đáp gọn:
– Nước, nước cấu tạo nên nữ nhân!
Chàng còn đoán cái gì khác nữa, nữ nhân không sợ nước, thì đúng là nước rồi.
Ngọc Phương bật cười ròn rã:
– Hay ghê! Hay hết sức! Ngươi có cái lối nói năng giống chủ nhân vô cùng!
Ta không ngờ một chàng trai có tâm tình cứng rắn như ngươi, mà cũng đưa ra một luận điệu như vậy!
Quan Sơn Nguyệt giả vờ ngây ngô, hỏi:
– Thế chủ nhân của cô nương nói làm sao?
Ngọc Phương đáp:
– Chủ nhân nói rằng, nữ nhân là nước, bất quá người nói hơi rành rẽ hơn ngươi một chút vậy thôi. Chủ nhân nói thêm rằng, thứ nước cấu tạo nên nữ nhân, có pha trộn nhiệt tình và tàn nhẫn.
Quan Sơn Nguyệt ừ hử lấy lệ. Vấn đề do Ngọc Phương vừa nêu ra đó, không gây được một hứng thú nào nơi chàng. Do đó, chàng chuyển hướng câu chuyện, tìm một đề tài khác để tranh luận, rồi nhân cuộc tranh luận, chụp sơ hở của đối tượng, khai thác mà phăng lần manh mối về việc nam nhân Vạn Ma Sơn Trang sợ nước. Chàng hỏi:
– Còn chủ nhân? Có sợ nước không?
Ngọc Phương đáp:
– Tự nhiên là không sợ.
Quan Sơn Nguyệt sáng mắt lên:
– Vậy chủ nhân thuộc phái nữ.
Ngọc Phương điểm một nụ cười, gật đầu:
– Mà làm sao ngươi biết được chủ nhân là nữ?
Quan Sơn Nguyệt đáp:
– Không sợ nước, thì là nữ rồi chứ gì? Không sợ nước là được cấu tạo bằng nước chớ không bằng đất, dù có ướt át cũng chẳng rã rời kia mà!
Ngọc Phương lại cười:
– Ngươi đoán đúng! Nhưng, không hoàn toàn đúng. Và cái phần còn sai đó hiện tại thì ta không thể giải thích tường tận cho ngươi hiểu được. Sau khi gặp chủ nhân rồi, ngươi sẽ hiểu, tự nhiên mà hiểu.
Quan Sơn Nguyệt chớp mắt:
– Giả như chủ nhân của cô nương đúng là nữ nhân, thì tại hạ rất sợ gặp người.
Ngọc Phương hỏi gấp:
– Sao kỳ vậy?
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ đáp:
– Tại hạ có nghe giọng nói của chủ nhân cô nương. Bằng vào giọng nói mà đoán người, tại hạ nghĩ rằng chủ nhân cô nương có dung mạo đáng khiếp lắm. Có thể vì dung mạo không gây nổi thiện cảm đó, mà chủ nhân hành động quái dị, nghịch thường.
Ngọc Phương chớp mắt:
– Ngươi có thể nghe âm thinh mà đoán dung mạo người được à?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Tại hạ thấy, đoán như thế không sai lắm. Tại hạ từng gặp rất nhiều nữ nhân, trong lứa tuổi thanh thiếu, những nàng ấy không đến đổi xấu xí, họ có âm thanh rất êm dịu, lời nói của họ lọt vào tai ngọt như mật rót ...
Ngọc Phương vụt biến sắc mặt:
– Gặp chủ nhân rồi, tốt hơn hết là ngươi đừng đề cặp đến nữ nhân, tránh được điều đó là ngươi có lợi. Ta cũng nên tỏ cho ngươi biết là chủ nhân không có dung mạo như ngươi tưởng tượng đâu. Bất cứ nữ nhân nào trong số quen biết với ngươi, nàng ấy có xinh đẹp đến đâu, đem so sánh với chủ nhân thì vẫn còn kém, kém ít nhất cũng mười phần, nếu ta có nói kém trăm phần hẳn là ngươi không tin.
Và thinh âm của chủ nhân không đáng sợ như ngươi vừa nói đó ...
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Vậy cái âm thinh mà tại hạ nghe lọt, tại bờ sông hôm đó, chẳng phải là do chủ nhân ngươi phát ra sao?
Ngọc Phương trầm gương mặt:
– Chính chủ nhân phát ra âm thinh đó. Nhưng, chẳng phải là giọng thật ...
Quan Sơn Nguyệt lấy làm kỳ. Một người làm gì có thể phát âm dưới nhiều giọng? Chàng hỏi:
– Chủ nhân có nhiều âm điệu như vậy à?
Ngọc Phương «hừ» một tiếng:
– Ít nhất cũng hơn mười âm điệu, cho ngươi biết. Cái giọng mà ngươi nghe tại bờ sông hôm ấy, là thứ giọng chủ nhân dùng để nói năng với kẻ dưới tay.
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Âm thinh thật của chủ nhân như thế nào?
Ngọc Phương trầm gương mặt lượt nữa:
– Ta hy vọng ngươi không có dịp nghe.
Quan Sơn Nguyệt còn muốn hỏi gì nữa, nhưng Ngọc Phương đã thu dọn những chén bát trước mặt, cho có khoảng trống, đoạn bảo:
– Đừng hỏi nhiều! Ta cho ngươi biết bao nhiêu việc đó, kể cũng quá đáng rồi đó, đáng lẽ thì ta phải giữ bí mật, ngươi hiểu chưa? Bây giờ, cứ ngủ đi, ngủ gấp. Chúng ta chỉ có hai giờ để ngủ thôi, không nên phí phạm.
Nàng vươn tay, điểm dưới nách Quan Sơn Nguyệt, trong khi chàng phòng bị, bởi chàng đoán chắc thế nào nàng cũng làm cái việc đó, sau lúc chàng ăn xong.
Cho nên, thấy nàng vừa chớp tay, chàng né mình tránh liền.
Ngọc Phương chuyển bàn tay từ dưới nách ra trước ngực, nơi đó là tử huyệt, nếu điểm trúng bất cứ huyệt nào là Quan Sơn Nguyệt ít nhất cũng thọ thương nặng. Bất giác, nàng thu hồi công lực.
Nhưng, trước một dịp may như vậy, khi nào Quan Sơn Nguyệt bỏ qua?
Lập tức, chàng vươn tay chụp theo, trúng cổ tay nàng.
Mạch môn của nàng bị chế trụ, nàng bị dồn vào cái thế thụ động, hoàn toàn chịu sự sai xử của chàng.
Ngọc Phương biến sắc mặt, cử ngay bàn tay kia lên. Vô ích, ngón tay nàng có chạm vào mình Quan Sơn Nguyệt thật, dù vậy chẳng làm gì chàng nổi, bàn tay của nàng như mất hết công lực, chạm vào mình chàng nhẹ như tay trẻ nít sờ. Bởi Quan Sơn Nguyệt chuyền công lực sang qua nàng, ngang mạch môn, lực đạo của chàng phá tan kình lực của nàng, biến tay nàng mềm dịu như bún.
Nàng càng biến sắc hơn, kêu lên:
– Ngươi định làm gì chứ?
Quan Sơn Nguyệt đáp:
– Tại hạ không làm gì cả. Bất quá, tại hạ không muốn làm hình nộm trong tay cô nương, như trước vậy thôi.
Nàng hét lớn:
– Nhưng, ngược lại, có lợi cho ngươi! Ta muốn tốt cho nên mới biến ngươi thành hình nộm chứ!
Quan Sơn Nguyệt điểm một nụ cười:
– Tại hạ không chịu ơn một cách hồ đồ như thế, cô nương đừng bận tâm lo liệu cho tại hạ. Nếu bắt buộc tại hạ phải nằm trên lưng cô nương, cho cô cõng thêm vài hôm nữa, thì thà giết tại hạ còn hơn. Tại hạ thích chết hơn làm làm một tên phế thải. Bây giờ nên đặt điều kiện đi.
Ngọc Phương trợn tròn đôi mắt:
– Điều kiện gì?
Quan Sơn Nguyệt đáp:
– Cô nương chỉ cách cho tại hạ giải khai huyệt đạo về hạ bộ của tại hạ, cho tại hạ hành động tự do, thì tại hạ sẽ buông tha cô nương. Bằng không, thì luôn cô nương cũng chẳng nhích động được một bước nhỏ, y như tại hạ vậy!
Ngọc Phương lắc đầu:
– Không được! Chủ nhân phân phó, ta phải làm như thế, ta đâu dám trái lịnh?
Quan Sơn Nguyệt thuyết phục:
– Cô nương yên trí, chấp nhận điều kiện đi. Đến trước mặt chủ nhân rồi, tại hạ sẽ lãnh phần giải thích, chịu trách nhiệm hoàn toàn, nếu chủ nhân hẹp hòi quở phạt.
Ngọc Phương cười khổ:
– Chắc gì chủ nhân chịu nghe ngươi giải thích? Thôi thì ngươi cứ giết ta đi là ổn tiện ...
Thấy nàng lộ vẻ cương quyết, Quan Sơn Nguyệt biết là chẳng khi nào nàng chấp nhận để cho chàng được tự do, giả như chàng cũng quyết làm trái ngược lại ý của nàng, thì nàng dám tự sát lắm. Bất giác, chàng lỏng bàn tay, rồi thở dài thốt:
– Tại hạ không biết Vạn Ma Sơn Trang có thủ đoạn xử trí những thuộc hạ như thế nào? Tuy nhiên, còn một vấn đề cuối cùng nầy, tại hạ hy vọng cô nương giải đáp ...
Ngọc Phương kinh ngạc. Nàng không tưởng Quan Sơn Nguyệt có thái độ cởi mở đối với nàng như vậy. Nhìn chàng một chút, nàng hỏi:
– Ngươi muốn biết điều chi?
Quan Sơn Nguyệt chỉnh sắc mặt nghiêm trang, cất tiếng:
– Vấn đề tại hạ muốn biết, là mục đích chân chính của chủ nhân cô nương, tại sao không để tại hạ đi đứng tự do, mà lại bắt cô nương phải cõng về căn cứ?
Ngọc Phương chớp mắt:
– Chứ ta đã chẳng nói với ngươi rồi đó sao? Chủ nhân muốn cho ngươi giữ nguyên công lực khi về đến Vạn Ma Sơn Trang.
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Có đích xác đó là lý do duy nhất không?
Ngọc Phương gật đầu:
– Phải! Đến Vạn Ma Sơn Trang rồi, ta sẽ giải huyệt cho ngươi, ngươi khôi phục hành động, ta bảo đảm vũ công của ngươi không hề bị mảy may ảnh hưởng do sự tê liệt dọc đường.
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc lâu, đoạn thở dài, thốt:
– Tuyển chọn cô nương vào công tác nầy, quả thật chủ nhân biết dùng người lắm. Sự thành thật của cô nương hiện rõ nơi gương mặt, không ai biết được có một ngụy tạo nào!
Nói như thế, là chàng hoài nghi Ngọc Phương giả vờ, dù chàng nhượng bộ trước niềm kiên quyết của nàng, chàng vẫn cho là nàng giả vờ niềm kiên quyết đó. Giả vờ, hay sự thể chẳng đặng đừng, cũng thế thôi. Chàng cho rằng làm việc đó, nàng có phần nào miễn cưỡng, bởi không dám trái lịnh của chủ nhân, thì còn làm chi hơn là bắt buộc phải lấy giả làm thực?
Tuy nhiên, Ngọc Phương vẫn cãi:
– Chẳng có gì đáng cho ngươi hoài nghi cả, sự thực là thế đó, ngươi càng suy diễn càng làm nhọc tâm tư thôi, không ích lợi gì.
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Thì tại hạ cũng cố mà tin là sự thực đó. Bất quá, tại hạ thắc mắc ở điểm này, là rõ ràng hành trình chỉ đòi hỏi thời gian một ngày thôi, mà chủ nhân cô nương lại dùng cái lối đón rước khách như thế nầy, để kéo dài thời gian thành ba hôm. Cô nương nghĩ có đáng lấy làm lạ chăng? Có ai đón tiếp khách lại mong cho khách đến chậm? Làm mọi cách cho khách diên trì trên con đường phó ước?
Ngọc Phương thoáng giật mình, hỏi:
– Tại sao ngươi có ý tưởng đó?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Trước hết, chúng ta hãy tính xem, trong ngày hôm nay đi được bao nhiêu dặm đường ...
Ngọc Phương đáp chận:
– Đại khái, độ bảy trăm dặm.
Quan Sơn Nguyệt thốt:
– Trong vùng Tứ Xuyên, trừ Vu Sơn ra, chẳng có một khu núi non nào chiếm khoảng rộng bảy trăm dặm. Tại hạ lại tin rằng hiện tại chúng ta không giẫm chân lên đất địa Vu Sơn, bởi lẽ giản dị nhất là tại hạ quen thuộc vùng núi non đó như lòng bàn tay. Huống chi, ven vùng Vu Sơn, còn có một con sông!
Nếu tại hạ đoán không lầm, thì nơi đây là vùng Kim Phật Sơn, giáp giới hai địa phương Xuyên và Kiềm. Vạn Ma Sơn Trang ở tại đây sao?
Ngọc Phương lắc đầu:
– Không phải đâu!
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Tại hạ nhận ra, suốt ngày nay, chúng ta chạy loanh quanh mãi trong vùng.
Ngày mai, còn phải chạy loanh quanh như vậy nữa, để cuối cùng sang ngày kia thì đùng một cái, chúng ta đến nơi, cái nơi đó chỉ cách nơi nầy độ mấy dặm, mấy mươi dặm là cùng. Và nơi đó, hẳn là Nghiêu Long Sơn!
Ngọc Phương biến sắc kêu lên:
– Ngươi ... làm sao ngươi biết ...
Hiển nhiên, Quan Sơn Nguyệt hoàn toàn đúng. Thần thái của Ngọc Phương chứng minh điều đó một cách hùng hồn.
Chàng cười hì hì, đáp:
– Cô nương hỏi làm gì? Hãy đáp cho tại hạ biết đi. Có phải sơn trang ở tại Nghiêu Long Sơn chăng?
Ngọc Phương nín lặng.
Quan Sơn Nguyệt hỏi để mà bắt bí nàng, chứ cần gì chàng nghe nàng các nhận?
Chàng lại cười, tiếp luôn:
– Lấy hành trình một ngày, nhân lên gấp ba, để tỏ ra địa phương ở rất xa, phải vượt đúng ba ngày đường, với toàn tốc lực, điều đó có dụng ý gì, hở cô nương?
Ngọc Phương thừ người một thoáng, rồi đáp bâng quơ:
– Ta có biết đâu! Chủ nhân bảo sao, ta làm y như vậy thôi.
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút, nói:
– Nếu chủ nhân muốn thế, thì tại hạ không nên buộc khó cô nương làm gì.
Bất quá, ngày mai, chúng ta không cần đi đâu hết, tránh khỏi vất vả vô ích trọn một ngày. Chúng ta cứ ở đây đợi đúng ngày, đúng giờ, ba ngày qua rồi, thì đi thẳng về Nghiêu Long Sơn.
Ngọc Phương lại lắc đầu:
– Điều đó, ta không dám chủ trương đâu. Ta phải tuân hành mạng lịnh của chủ nhân.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Lần nầy, cô nương cứ nghe lời tại hạ đi, tại hạ bảo đảm là cô nương không hề bị quở phạt.
Ngọc Phương làm gì tin được lời nói đó.
Nhưng từ đâu đó, trong chỗ khuất kín, một âm thinh vọng ra:
– Chẳng cần phải đợi đủ ba hôm. Hiện tại, ngươi có thể khởi hành. Hạn cho ngươi vào giờ ngọ ngày mai, phải đến sơn trang. Này, gã họ Quan kia, ngươi là một tay khá đấy!
Nghe âm thinh đó, Ngọc Phương biến sắc, bởi chính là âm thinh của chủ nhân Vạn Ma Sơn Trang, thứ âm thinh tàn khốc, lạnh lùng, mà chủ nhân dùng đối thoại cùng thuộc hạ.
Quan Sơn Nguyệt gọi to:
– Chủ nhân đã có mặt quanh quẩn nơi đây, tại sao không xuất hiện để gặp nhau?
Người trong chỗ khuất cười lạnh, đáp:
– Giờ gặp mặt, nơi gặp mặt, là vào giờ ngọ ngày mai, đâu phải bất cứ tại đâu và trong bất cứ phút giây nào!
Câu nói không dài lắm, tiếng đầu nghe gần, tiếng cuối cùng nghe xa, chứng tỏ đối tượng vừa thốt vừa rời cục trường, câu nói dứt là người cũng đã khá xa rồi.
Quan Sơn Nguyệt gọi to hơn:
– Chủ nhân chấp thuận cho tại hạ tự mình di động chứ?
Từ xa xa, chủ nhân đáp vọng lại:
– Nếu ngươi không sợ nhọc, thì tùy tiện làm sao cũng được.
Chủ nhân đi xa rồi, sự việc cũng chẳng can gì đến nàng, mà Ngọc Phương vẫn sợ, hiện tại nàng còn sợ như thường.
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ, trấn an nàng:
– Người ta đã đi rồi, cô nương bình tịnh lại đi chứ, sợ gì mà sợ dài lâu thế?
Ngọc Phương lộ vẻ lo:
– Thật ta không tưởng là chủ nhân lảng vảng quanh vùng. Hôm nay ta nói với ngươi quá nhiều lời, mà lại toàn là những việc thuộc phạm vi bí mật trong trang ... Đáng lẽ ta không nên nói với ngươi ...
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Cô nương càng nói, tại hạ càng khó hiểu! Cho dù là những điều đó thuộc phạm vi cơ mật đi nữa ...
Ngọc Phương càng lo lắng nhiều hơn, hấp tấp chận lời:
– Ta đã mấy phen khuyến cáo ngươi, ít nói năng một chút nhưng ngươi cứ hỏi dồn mãi! Trong sáu nàng hầu cận chủ nhân, ta là người cẩn thận hơn hết, thế mà hôm nay cái lưỡi của ta ngứa ngáy lạ lùng ... Chẳng rỏ ma trù quỷ ám làm sao mà ta không còn dè dặt như thường ngày ...
Quan Sơn Nguyệt bật cười khan:
– Ma trù quỷ ám là lẻ đương nhiên, bởi Vạn Ma Sơn Trang là nơi nặng mùi tà khí, một nơi tụ tập quỷ ma, phát xuất những trò quỷ ma kia mà! Không lạ lùng chi đâu, cô nương ơi!
Ngọc Phương nổi giận:
– Ta đang lo chết đây, ngươi vui sướng gì mà đùa cợt chứ?
Quan Sơn Nguyệt cười hì hì:
– Ai bảo cô nương lo rối lên rồi quýnh quáng như kiến bò quanh chén nóng?
Nếu chủ nhân cô nương có ý trừng phạt, thì đâu phải đợi đến lúc về đến Sơn Trang mới ra oai? Theo tại hạ thấy thì, quý chủ nhân phải xuất thủ ngay từ lúc đầu rồi. Người không xuất thủ là không quở trách đó.
Ngọc Phương cau mày:
– Ngươi không biết được đâu! Chủ nhân cố kỵ nhất là sự nói lén nói lút sau lưng người ... Dĩ nhiên nói lén lút như vậy là bình luận người, mà bình luận trong chiều hướng không đẹp lắm ...
Quan Sơn Nguyệt lại cười:
– Nếu chủ nhân là một nữ nhân, thì những gì cô nương nói hôm nay với tại hạ, chẳng phải là những lời bình luận xấu, quý chủ nhân không quở trách cô nương được. Nhớ lại xem, cô nương nói toàn là những sự tốt cho người kia mà!
Vậy tại hạ khuyên cô nương cứ an tâm.
Ngọc Phương không tin tưởng như chàng vừa nói đó. Nàng hỏi:
– Chưa bao giờ ngươi gặp chủ nhân, dù chỉ là một lần, dù trong phút giây ngắn ngủi, thì làm sao ngươi biết được người?
Quan Sơn Nguyệt cười khanh khách:
– Có thể quý chủ nhân là một người phi thường, nhưng một người dù là phi thường, vẫn do xương thịt cấu tạo, như vậy là vẫn còn lẩn quẩn trong thường tình, thử hỏi có ai nghe thiên hạ nói tốt cho mình mà oán ghét thù hận kẻ nói tốt đó chăng? Tại hạ nghĩ, phi thường ở các tài năng, song vẫn bình thường ở tự ái.
Ngọc Phương khoát tay:
– Ngươi nói bậy rồi! Chủ nhân chúa ghét những lời nịnh bợ.
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Đối diện mà nói, thì là nịnh bợ, cách mặt mà phê bình, đó là tôn kính. Chủ nhân không thích được nịnh bợ, song chẳng lẽ cấm đoán luôn người khác tỏ sự tôn kính?
Ngọc Phương cúi đầu, trầm ngâm một lúc. Rồi nàng thốt:
– Quả thật hôm nay chủ nhân có thái độ hơi khác thường! Từ lâu, mời khách là có hạn lệ ba hôm. Dù cho khách đến sớm hơn một giờ, một khắc, cũng chẳng bao giờ phá lệ ...
Quan Sơn Nguyệt cứ cười luôn:
– Bởi có chỗ diệu dụng, nên quý chủ nhân đặt thành lệ ba hôm. Song, chỗ diệu dụng đó, bị tại hạ khám phá rồi, thì còn giữ lệ làm quái gì nữa? Cho nên, cuộc tương hội càng diễn ra sớm, càng hay. Chúng ta đi đi, cô nương!
Ngọc Phương không đi liền, mà lại hỏi gấp:
– Diệu dụng đó như thế nào?
Quan Sơn Nguyệt đáp:
– Giả như cô nương không biết đi, tốt hơn hết, cô nương không nên hỏi làm gì. Bởi đương nhiên rồi tại hạ cũng tỏ bày cho mà biết. Có điều, nếu cô nương biết, thì có thể chủ nhân sẽ sanh tâm nghi kỵ.
Ngọc Phương động tính hiếu kỳ, nhưng lại e dè, niềm sợ hãi thoáng hiện nơi đôi mắt. Nàng thốt:
– Nếu vậy, thì ta không hỏi làm chi. Từ đây đến Vạn Ma Sơn Trang con đường còn độ bảy tám trăm dặm dài, ta đi thì không khó khăn lắm, chỉ sợ ngươi không đủ sức vượt qua. Ngươi nghĩ sao?
Quan Sơn Nguyệt cười lớn:
– Tại hạ dù là vô dụng, song có lý nào vô dụng đến độ kém một nữ nhân?
Ngọc Phương nhìn xéo chàng một thoáng:
– Ta có ý tốt với ngươi đó nhé. Ngươi thử suy nghĩ xem, vượt qua đoạn đường dài bảy tám trăm dặm, lúc đến đích rồi, ngươi phải thần suy lực giảm, như vậy làm sao vào được ngục tối Vong Hồn?
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:
– Nếu lúc đến nơi, tại hạ giữ nguyên tinh thần phấn khởi thì chỉ sợ không vượt nổi cái ngục quái dị đó. Cho nên, tại hạ hy vọng khi đến Vạn Ma Sơn Trang, càng mệt nhọc càng có lợi, mệt nhọc đến độ không còn cử động nổi lại càng hay.
Ngọc Phương trố mắt, nửa tin nửa ngờ, toan nói chi đó, Quan Sơn Nguyệt khoát tay, rồi tiếp nối:
– Nếu cô nương không muốn mất sự tin cậy của chủ nhân thì đừng hỏi gì nhiều nữa. Hãy giải khai gấp huyệt đạo nơi đôi chân của tại hạ đi. Rồi chúng ta chuẩn bị khởi hành.
Ngọc Phương lại do dự, chưa chịu xuất thủ.
Quan Sơn Nguyệt gắt:
– Chủ nhân cô nương đã phân phó như vậy, chẳng lẻ cô nương không tuân?
Ngọc Phương không còn biết làm sao hơn, đành đưa tay giải huyệt cho chàng.
Quan Sơn Nguyệt tung mình đứng lên, lập tức chạy đi về phía trước mặt, đồng thời gọi vọng lại:
– Đi chứ, cô nương! Nghiêu Long Sơn ở về phía Tây Nam, con đường đó nhất định là tại hạ không lầm lạc được.
Ngọc Phương cứ sợ chàng lạc lối, cấp tốc chạy theo sau.
Không lâu lắm, nàng vượt qua mặt chàng.
Quan Sơn Nguyệt nghiến răng gia tăng tốc lực, quyết bắt kịp nàng.
Cả hai một trước một sau, cùng thi đua mà chạy, thân hình lao đi vun vút như hai mũi tên, lúc ngày tranh sáng trong khi đêm còn muốn giữ tối tăm, thì cả hai nhìn xa xa thấy lờ mờ một tòa núi. Và không lâu lắm, vầng thái dương đã phóng những tia sáng đầu tiên vượt đỉnh cao hơn.
Ngọc Phương mệt, hơi thở không tiếp nối điều hòa, còn Quan Sơn Nguyệt thì nhễ nhại mồ hôi. Nàng không dám đề nghị dừng chân nghỉ mà chàng cũng nhất định chạy luôn. Họ chỉ còn cách sơn cước độ hơn dặm đường.
Quan Sơn Nguyệt trông thấy Ngọc Phương nhợt nhạt thần sắc, cực kỳ tiều tụy, nàng nhọc phờ đến độ mặt tím lại, bất giác sanh lòng bất nhẫn, thốt:
– Chúng ta dừng chân một chút đi, cô nương! Đã đến nơi rồi còn lo ngại gì nữa.
Ngọc Phương trầm giọng:
– Không cần thiết! Từ đây lên đỉnh núi, còn hơn hai mươi dặm nữa đó, mà lại không có lối đi, muốn đến tận nơi, chúng ta phải hoàn toàn nhờ thuật khinh công. Ngươi đã cho rằng càng mệt nhọc càng có lợi cho ngươi, thì ta cũng cố gắng giúp ngươi được toại nguyện. Bởi, ta ước mong ngươi không bỏ cuộc ngay tại cửa ải thứ nhất hoặc thứ hai, trong Hắc Ngục Vong Hồn.
Thay vì dừng lại, thốt xong, nàng vọt mình đi, nhanh hơn trước.
Quan Sơn Nguyệt giật mình, tiến nhanh lên, sánh đôi với nàng mà chạy.
Đến chân núi, Ngọc Phương đâm đầu vào vùng đá lởm chởm mà tiếp tục phóng mình, cứ mỗi cái nhảy là nàng vượt độ ba bốn trượng xa, và nơi đặt chân lại nhọn hơn mũi đao, kiếm. Giả như nàng đặt chân sai một phân thôi, thì chắc chắn là phải trượt xuống hố sâu, lòng hố cũng lợp đầy đá nhọn.
Vượt như thế được mấy mươi trượng, bất thình lình trong một cái nhảy cao, thay vì đáp xuống như trước thì thân hình nàng mềm lại, tợ hồ mất lực, sau đó rơi xuống như chiếc lá rụng.
Quan Sơn Nguyệt kinh hãi vươn tay ra, chụp áo nàng.
Máu từ miệng nàng phún ra, bắn vào đầu, vào mặt chàng.
Nàng mở đôi mắt, lờ đờ nhìn chàng, thốt qua giọng yếu ớt:
– Đừng quan tâm đến ta. Ngươi cứ lên trên đó đi. Ta đã hiểu cái dụng ý của chủ nhân rồi. Hắc Ngục Vong Hồn là nơi chứa chất đầy khủng bố, nơi đó con người hành động hoàn toàn bằng tâm cơ, ý thức, chứ không sử dụng công lực như tại các chiến trường. Nơi đó, chỉ có những ảo cảnh, do ảo tưởng mà sanh ra.
Ai vào đó với tâm thần càng ổn định thì ảo cảnh càng dễ hiện ra và hiện với mức độ khủng khiếp càng cao. Bởi, tâm thần có ổn định thì tưởng tượng mới phát sanh.
Còn như ngươi quá mệt nhọc, thì đến chỗ dừng chân rồi, ngươi còn biết có mỗi một việc là nghỉ ngơi, đối với ngoại cảnh, ngươi không buồn quan tâm đến ...
Quan Sơn Nguyệt điểm một nụ cười, mang nàng đến một tảng đá bằng phẳng, đặt xuống đó, rồi làm mấy động tác cứu tỉnh nàng hoàn toàn, giúp nàng tiêu trừ lao nhọc, khôi phục nguyên trạng.
Ngọc Phương thở phào, dần dần nàng nghe trong mình khoan khoái trở lại.
Tuy nhiên, nàng luôn miệng giục:
– Ngươi đi đi! Đừng quan tâm đến ta! Cứ để ta ở đây, bất quá sau một lúc ta sẽ khỏe lại. Chẳng có gì đáng lo cả.
Quan Sơn Nguyệt lại cười, thốt:
– Cô nương yên trí, đến đó chậm một chút cũng chẳng sao. Tại hạ lưu lại đây với cô nương một lúc nữa.
Một lúc sau, chàng lại tiếp:
– Những gì cô nương vừa nói đó, có đúng thật, song chỉ đúng một phần thôi.
Mệt nhọc quả có làm cho con người quên đi ngoại cảnh, song điều cốt yếu chẳng phải nằm trong sự kiện đó đâu.
Ngọc Phương thoáng giật mình, nhưng nàng không hỏi chi.
Quan Sơn Nguyệt tiếp luôn:
– Thoát lực quá độ rồi, cô nương không còn dụng lực nữa được, dù để làm một cử động nhỏ. Vậy cô nương cứ để tại hạ mang luôn lên trên đó.
Thốt xong, không đợi nàng phát biểu ý kiến, chàng bế xốc nàng lên, vọt đi liền.
Ngọc Phương cố vùng vẫy, không khứng để cho chàng mang đi như vậy.
Nàng luôn miệng phản đối:
– Buông ta ra! Đặt ta xuống ngay! Ngươi làm cái điệu nầy, chủ nhân trông thấy, ngươi cũng mất mạng luôn với ta!
Quan Sơn Nguyệt cười hì hì:
– Chủ nhân của cô nương đâu có quá hẹp hòi mà sanh ghen vì các việc nhỏ mọn nầy? Nếu người là nam nhân, thì có ghen cũng hợp lý, bởi ai lại để người đẹp nằm trong tay một nam nhân khác, khi người đẹp đó lệ thuộc vào mình?
Nhưng, chủ nhân của cô nương vẫn là nữ nhân như cô nương kia mà!
Ngọc Phương không đáp, nơi khóe mắt, lệ trào ra từng hạt.
Nàng thương cảm? Vì nguyên nhân nào? Nàng đổ lệ cho ai, cho chính nàng, hay cho Quan Sơn Nguyệt?
Chỉ có nàng mới hiểu nổi những điều phức tạp đang phát sanh nơi tâm tư, phức tạp hiện ra nơi gương mặt nàng.