Quan Sơn Nguyệt vận dụng toàn công lực, vượt qua nhiều đỉnh núi, đến một gành đá, chàng dừng chân lại.
Gành đá cao độ mấy mươi trượng, đứng bên dưới mà nhìn lên, chàng đoán là nó trơn trợt vô cùng, bởi chung quanh nhẵn thín bóng láng như mặt thủy tinh. Làm sao phi thân lên trên gành đá đó, chàng tin chắc là chẳng có chỗ nào nhám nhúa để đáp xuống mà khỏi bị trượt. Nếu trượt chân, cả hai phải rơi xuống hố sâu, bỏ mạng luôn. Huống hồ, con người dù tài ba đến đâu cũng chẳng làm sao vượt nổi một chiều cao hằng mấy mươi trượng.
Ngoài cái cách duy nhất dùng thuật phi đằng mà lên đó, chàng không thấy một con đường nào khác.
Bên trên gành đá, ẩn ước có nhiều tòa kiến trúc, tựa hồ nơi đây là căn cứ địa chính thức của Vạn Ma Sơn Trang.
Làm sao lên đó?
Ngọc Phương đã khôi phục tinh thần phần nào, có điều sức lực còn suy nhược quá, hiện tại nàng vòng tay quanh hai đầu vai chàng, đeo cứng cho dù muốn dù không nàng cũng trở thành một gánh nặng cho chàng.
Quan Sơn Nguyệt cau mày, lẩm nhẩm:
– Làm sao lên trên đó?
Ngọc Phương nhắm mắt lại đáp:
– Nơi khoảng giữa gành đá, có một đường dây buông lơ lửng, nắm đường dây đó mà giật, đầu trên có lục lạc, lục lạc reo vang, người ta thòng giỏ xuống mình ngồi vào giỏ, người bên trên kéo giỏ lên.
Quan Sơn Nguyệt đảo mắt tìm, quả thấy đường dây ẩn kín trong một cái hang nhỏ, chỉ lộ ra ngoài một khoảng độ mấy tấc thôi. Cũng vì đầu dây không dài lắm, nên lúc đầu chàng không trông thấy, hơn nữa, nó lại ở một mức độ cao bảy tám trượng, chàng làm sao nhận định nó được giữa những dây cỏ dù không nhiều nhưng cũng chẳng ít!
Chàng lập tức đặt Ngọc Phương xuống, rồi nhún chân tung bổng người lên.
Nhưng, Ngọc Phương cố đeo dính nơi vai chàng, dịu giọng thốt:
– Hãy bế ta một lúc nữa đi! Đừng bỏ rơi ta vội như thế này ...
Quan Sơn Nguyệt cau mày, từ từ gỡ tay nàng ra, đồng thời dùng giọng trang nghiêm thốt:
– Cô nương! Thế cô nương đến đây chẳng qua vì đạo nghĩa mà thôi, phàm con người thấy đồng loại gặp khó khăn thì tiếp trợ nhau cho được việc, tại hạ tuyệt nhiên chẳng có dụng tâm bất chính xin cô nương đừng hiểu lầm.
Ngọc Phương trầm ngâm một lúc lâu, mặt lộ vẻ u buồn, đáp:
– Ta biết, ngươi chẳng có ý tứ gì, song ... song ...
Quan Sơn Nguyệt thấy nàng úp mở, không thổ lộ thực trạng tâm tư, hơi bực phần nào, đáp với giọng hằn học:
– Cô nương đã biết tại hạ không phải là phường hiếu sắc, thì tốt hơn đừng nói chi nhiều.
Ngọc Phương nhắm đôi mắt lại, từ nơi khóe mắt, vài hạt lệ trào ra, long lanh như hạt châu, buồn thảm tiếp:
– Quan đại hiệp! Tôi biết đại hiệp là bậc anh hùng, thịnh danh rất trọng, rền vang khắp sông hồ, tôi cũng biết luôn đại hiệp đã lưu ấn tượng trong lòng bao kiều nữ, đại hiệp là nhân vật chánh của quá nhiều cuộc diễm tình, biết như vậy rồi thì tôi cũng phải biết nốt là khi nào tôi gây được một xúc động nhỏ nào trong thâm tâm của đại hiệp. Tôi là một thiếu nữ bần tiện, tôi tự biết mình, đại hiệp ơi ...
Bây giờ, nàng đổi lối xưng hô, và sự thay đổi đó chứng tỏ nàng đang nói những lời chí thành nhất đời.
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Cô nương càng nói, càng đi xa thực tế! Con người hùng do cô nương vừa phác họa đó, chỉ có trong tưởng tượng dồi dào của cô nương thôi.
Ngọc Phương vụt mở mắt, tinh quang bắn sáng rực, giọng nàng cũng trở nên cứng rắn:
– Không khi nào tôi nuôi hy vọng đại hiệp lưu ý đến tôi. Những gì tôi vừa tỏ bày, chẳng phải để biểu hiện một tình yêu đối với đại hiệp, tôi chỉ thực nghiệm một nhận xét về con người thôi, để cho biết cái tư vị cuộc tiếp xúc này, để tìm hiểu hoài bão của một người thành danh đang thời tuổi còn trẻ, bọn tôi tất cả sáu người đều được chủ nhân ưu đãi, sủng ái, cả sáu người chưa ai biết được cái tư vị đó, chưa ai có dịp thực nghiệm một nhận xét như tôi vừa tường trình, trừ tôi với dịp duy nhất này. Làm được việc này rồi, giả như tôi có bị chủ nhân sát hại, tôi vẫn vui mà về chốn mịt mờ, thiên thu phiêu phưởng. Tôi thành thật đa tạ Quan đại hiệp thẳng thắn giải tỏa niềm thắc mắc mà tôi đeo mang từ lâu, và cầu chúc đại hiệp vượt êm ba cửa ải khó khăn trong Vong Hồn Hắc Ngục.
Thốt xong, nàng tung mình lên, vương tay chụp đầu dây báo động.
Tiếng lục lạc reo vang, từ bên trên, một chiếc giỏ được thòng xuống.
Quan Sơn Nguyệt còn bàng hoàng trước những sự giãi bày của nàng, cứ theo sự thố lộ của nàng, thì chẳng hóa ra chủ nhân không phải là nữ nhân sao.
Nếu chủ nhân là nữ, thì tại sao nàng tha thiết với niềm sủng ái do nhân vật đó dành cho? Tại sao nàng cần thực nghiệm hoài bão của một nữ nhân qua cá nhân chăng?
Chàng không lưu ý đến chiếc giỏ, chỉ trố mắt nhìn nàng hỏi.
– Cô nương đã chẳng nói với tại hạ, chủ nhân là nữ nhân đó sao?
Ngọc Phương lạnh lùng:
– Quả có nói như vậy.
Quan Sơn Nguyệt càng lấy làm lạ hơn:
– Thế thì có chi đáng nói đâu? Nữ nhân sủng ái nữ nhân kể ra cũng là việc thường mà?
Ngọc Phương lắc đầu:
– Không biết được chiều sâu sự việc thì đại hiệp đừng hỏi gì là hơn.
Rồi nàng bước tới, vào chiếc giỏ mà ngồi.
Quan Sơn Nguyệt với niềm hoang mang cực độ, thẫn thờ theo nàng, vào ngồi trong giỏ.
Chiếc giỏ được kéo lên từ từ.
Bên trên, có một tòa nhà khá lớn, kiến trúc rất trang nhã, chung quanh có tường cao bao bọc, tường sát mé gành, cửa vào có vọng lầu gác.
Trên vọng lầu gác, có bốn chữ to lớn là Vạn Ma Sơn Trang, kèm hai vế liễn hai bên, đại khái bao hàm cái nghĩa đời có hai đường thiện ác, mang tâm ác mà đi trên đường thiện, vẫn ác như thường mang tâm thiện mà đi trên đường ác thì vẫn gặt hái được cái quả lành như thường.
Theo Quan Sơn Nguyệt nhận xét, thì hai vế liễn này chỉ có cái ý giải thích tên xưng sơn trang mà thôi. Chủ nhân ngầm phân tách ý nghĩa bao gồm trong hai tiếng Vạn Ma.
Nơi cửa vọng lâu, có một thanh niên áo xanh, thứ áo dành cho hạng nho sinh. Thanh niên có nghi biểu hiên ngang, tay cầm quạt, chiếc quạt phe phẩy mãi dù không khí chẳng oi bức gì. Y có vẻ phiêu nhiên thoát tục, bất quá sắc diện thì lạnh lùng, biểu hiện sự thiếu vắng cảm tình hoàn toàn. Sự thiếu vắng đó, do tánh trời sanh, hay bắt buộc phải có bởi vai tuồng của một vở kịch?
Ngọc Phương bước ra khỏi giỏ, nghiêng mình chào:
– Trầm tiên sanh!
Thanh niên «hừ» một tiếng lạnh nhạt, xa xôi, khinh miệt, đoạn buông gọn:
– Đến sớm quá!
Ngọc Phương tiếp:
– Vị Quan đại hiệp này có thuật khinh công rất cao, trên hẳn tỳ nữ đó tiên sanh.
Thanh niên lại «hừ» một tiếng lạnh nhạt hơn, xa xôi hơn, khinh miệt hơn. Rồi y thốt:
– Chẳng trách ngươi dành cho hắn nhiều cảm tình, vì hắn mà ngươi dám vi phạm sơn quy, ta mầng cho ngươi đó nhé, cái tâm nguyện bình sanh của ngươi được thỏa rồi, thì có chết cũng không còn ân hận!
Ngọc Phương biến sắc mặt trầm lặng một lúc lâu, mới đáp:
– Tỳ nữ biết mình có tội nặng, ngay từ phút giây này, xin đến thẳng yết kiến chủ nhân, lãnh cái chết.
Nàng toan bước tới, để vào nhà. Thanh niên ngăn lại, thốt:
– Bất tất! Uyển Hoa không nghe biết gì những lời ngươi nói đâu. Ta không báo cáo thì chẳng bao giờ nàng biết. Ngươi có muốn ta báo cáo chăng?
Ngọc Phương thoáng giật mình, thấp giọng đáp:
– Nếu tiên sanh có lòng che chở cho, thì tỳ tử cảm kích vô cùng.
Thanh niên khoát tay:
– Đừng nói những tiếng khách sáo. Mà cũng không cần cảm kích. Ta chỉ mong là ngươi ghi nhận nơi tâm, thế cũng đủ rồi.
Ngọc Phương ngửng mặt nhìn lên lạnh lùng tiếp:
– Trầm tiên sanh! Nếu thật sự tiên sanh có tâm nguyện đó, thì tại sao tiên sanh không trình bày với chủ nhân?
Thanh niên sững sờ.
Ngọc Phương tiếp luôn, giọng lạnh lùng hơn:
– Tiên sanh thiếu can đảm thấy rõ.
Chừng như thanh niên phẫn nộ phần nào. Y cất tiếng hơi to:
– Nói bậy! Ta không hề sợ nàng ...
Ngọc Phương chụp ngay cơ hội:
– Thế càng hay. Bất cứ lúc nào, nếu tiên sanh được sự đồng ý của chủ nhân, thì lập tức tỳ tử tuân mạng. Phải chi tiên sanh sớm có cái khí khái của nam nhân một chút, thì tỳ nữ đâu hướng về ngoại nhân mà cầu cạnh?
Thốt xong, nàng mạnh dạn bước đi, qua cửa vọng lâu, thanh niên bước tới ngăn chận, nhưng ánh mắt sắc lạnh của nàng làm cho y gờm gờm, rồi y buông xuôi đôi tay xuống.
Quan Sơn Nguyệt gọi gấp:
– Cô nương! Khoan đi chứ, hãy đưa tôi đến gặp mặt chủ nhân.
Từ bên trong vọng cửa, Ngọc Phương quay đầu lại, đáp:
– Trầm tiên sanh sẽ làm cái việc đó hộ tôi, tôi cần đi gặp chủ nhân gấp để phúc lịnh.
Quan Sơn Nguyệt toan bước theo nàng.
Thanh niên lại dang tay chặn, hỏi:
– Các hạ là Minh Đà Lịnh Chủ Quan Sơn Nguyệt?
Quan Sơn Nguyệt nhận ra, lúc đối thoại với Ngọc Phương, con người đó để lộ rõ ràng tà khí, chàng đố kỵ y ngay, bây giờ nghe y hói, chàng cười lạnh một tiếng, buông cộc lốc:
– Chủ nhân đã về đây rồi, đương nhiên là có nói cho các hạ biết tại hạ là ai.
Như vậy, cần gì phải hỏi!
Thanh niên trầm gương mặt:
– Này, họ Quan! Tại Vạn Ma Sơn Trang, thân phận của ngươi chưa được xác định kia mà. Thì, đối với ta, ngươi nên giữ lễ độ một chút. Trừ ra ngươi qua lọt ba cửa ải trong Hắc Ngục Vong Hồn, hoặc ít nhất cũng hai cửa, thì ngươi mới có tư cách vênh mặt với ta. Cái khẩu khí cao hãnh của ngươi đó, hãy giữ lại, đợi khi nào có địa vị cao hơn ta hãy mang ra mà dùng. Chứ nếu không thì ngươi nên đếm từ ngày mà chờ chết.
Quan Sơn Nguyệt giật mình, không tưởng là đối tượng câu mâu quạu quọ đến độ không giấu nổi sự bất mãn. Có lẽ y bất mãn từ lúc vào đây, và giữ sự bất mãn đó cho đến một ngày nào có đủ tài năng giúp y cao mặt mà đối diện với chủ nhân. Chàng dùng giọng khích, thốt:
– Thì ra, các hạ là người «bị» chủ nhân xem như bằng hữu?
Xem như bằng hữu mà dùng cái tiếng «bị» thì đúng là có sự miễn cưỡng rồi, sự miễn cưỡng sở dĩ có bởi lòng nhân đạo của chủ nhân, bởi nhu cầu nhân lực trong Vạn Ma Sơn Trang. Và, bị xem như bằng hữu trong Sơn Trang thì có khác nào được chọn làm thuộc hạ? Có điều là cái thứ nô dịch thân tín thôi.
Thanh niên cười lớn. Y hãnh diện mà cười, hay cười để che lấp sự thẹn ngượng? Tuy nhiên, vẻ cao ngạo hiện lộ nơi gương mặt y, phát xuất qua giọng cười của y, điều đó chứng tỏ y hãnh diện hơn là thẹn ngượng. Bằng cớ, là y cao giọng thốt:
– Phải đó. Trong Vạn Ma Sơn Trang, chỉ có mỗi một mình Trầm Quân Lượng này là có thể gọi tên tộc của Uyển Hoa. Trừ một Uyển Hoa ra, tất cả gặp ta đều phải cúi đầu.
Quan Sơn Nguyệt hỏi:
– Uyển Hoa là tên của chủ nhân?
Trầm Quân Lượng gật đầu:
– Ừ! Nàng họ Điền! Toàn danh tự là Điền Uyển Hoa. Hiện tại, biết thì cứ biết, chứ ngươi chưa đủ tư cách gọi ngay tên họ của nàng đâu. Ta khuyên ngươi nên dùng hai tiếng chủ nhân, chứ đừng xưng hô Uyển Hoa, Tạo Hoa gì cả.
Quan Sơn Nguyệt nổi giận:
– Tại hạ đâu có ý gì cầu cạnh, kết giao với nàng?
Trầm Quân Lượng cười lạnh:
– Ngươi dù muốn cầu cạnh, chắc gì được toại nguyện? Đừng tưởng bất cứ ai cũng có thể với cao được! Cái cao, là sự ưu đãi của tạo hóa dành riêng cho một số người rất ít, còn cái thấp là sản hữu của đại chúng, ngươi hiểu chứ?
Quan Sơn Nguyệt nổi nóng:
– Ngươi vào gọi nàng ra đây gấp cho ta!
Trầm Quân Lượng bật cười ha hả:
– Gọi Uyển Hoa ra đây nghinh tiếp ngươi? Thế ngươi đang nằm mộng đấy à? Chưa trải qua Hắc Ngục Vong Hồn, ngươi lấy tư cách gì mà đòi tiếp xúc với nàng? Thân phận của ngươi tại đây chưa xác định kia mà!
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:
– Ta có cần thân phận quái gì đâu? Ta chẳng hề có ý lập thân tại Vạn Ma Sơn Trang, sở dĩ ta muốn gặp nàng, là vì ta có chút việc cần giải quyết thôi.
Trầm Quân Lượng lại cười vang:
– Đến Vạn Ma Sơn Trang rồi mà ngươi còn tưởng là sẽ ra đi được thong thả à? Ngươi lại nuôi thêm một cái mộng thứ hai!
Quan Sơn Nguyệt kêu to:
– Các hạ tránh qua một bên, và đừng nói vớ vẩn nữa. Tự tại hạ đi tìm nàng cũng được rồi.
Chàng mạnh dạn bước tới.
Trầm Quân Lượng rẹt chiếc quạt, phát nhẹ, một đạo kình lực vút ra.
Quan Sơn Nguyệt có cảm giác bị đấm mạnh vào ngực, vội lùi mấy bước:
Trầm Quân Lượng cười lạnh, thốt:
– Minh Đà Lịnh Chủ quả nhiên danh bất hư truyền, chịu nổi một chiêu «Thanh Phong Từ Lai» của tại hạ. Tuy nhiên, với tài năng đó, các hạ chỉ kỳ vọng được sung vào chức chấp sự sư gia mà thôi, không hơn không kém.
Quan Sơn Nguyệt nghe lồng ngực đau nhói. Chính cái đau đó làm cho chàng phẫn nộ, chàng «hừ» lên một tiếng, rút ngay thanh Hoàng Diệp Kiếm nơi hông cầm tay hét:
– Nếu các hạ không tránh qua một bên, thì tại hạ phải thất lễ đó.
Trầm Quân Lượng điềm nhiên quét ánh mắt từ đầu chàng xuống chân, thốt:
– Vương sư gia có thuật lại, ngươi cũng biết một vài chiêu khá, sử dụng hơi rành thanh kiếm trong tay ngươi đó. Ngươi cố biểu diễn cho ta xem đi nào. Ta muốn biết cái tài của Minh Đà Lịnh Chủ đáng giá bao nhiêu đồng tiền, mà giang hồ dư hơi ba hoa ca ngợi từ mấy năm qua.
Y lại giở cái giọng xấc, lên mặt kẻ cả đối với Quan Sơn Nguyệt.
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Tại hạ nói một lần nữa, và là lần cuối đấy nhé, các hạ hãy bước qua một bên ngay!
Người ta không giữ lễ độ với chàng, chàng vẫn giữ lễ độ đối với người ta, xưa nay chàng không hề có cái lối đánh võ miệng, dù cho đối diện với kẻ tử thù, chàng cũng nhã nhặn ôn hoa như thường. Huống hồ, ở đây chàng gặp một người kiêu căng, sính tài.
Trầm Quân Lượng vừa rẹt chiếc quạt, vừa đáp:
– Muốn cho ta tránh qua một bên, cũng chẳng khó khăn gì, bất quá ngươi cứ tỏ ra cái tài, bức ta tạt qua, hoặc giả ngươi quật ngã ta, rồi lướt qua trên thân xác ta mà đi vào.
Quan Sơn Nguyệt cao giọng:
– Các hạ nhất định gây phiền phức cho nhau à? Đừng tưởng rằng thanh kiếm này không bén!
Ánh kiếm thoáng chớp lên, thân hình theo kiếm bay tới, chiêu thức phát xuất liền.
Trầm Quân Lượng rẹt chiếc quạt, nhưng trước thì xòe, bây giờ thì xếp. Cầm chiếc quạt, y tiến thẳng vào vùng kiếm ảnh.
Một tiếng «coong» to lớn vang lên, lửa bắn bốn phía, song phương đã chạm chiêu đầu tiên.
Vừa lúc đó, từ bên trong cửa vọng lầu canh, một thị nữ tuổi trẻ bước ra, thốt:
– Trầm tiên sanh, chủ nhân bảo tiên sanh dừng tay.
Trầm Quân Lượng nhún chân nhảy vọt về phía hậu, hỏi!
– Tại sao? Chẳng lẽ hắn thắng nổi ta?
Thị nữ đáp:
– Chủ nhân không có ý nghĩ như thế. Chỉ vì, hiện tại chưa phải lúc đọ sức tranh tài. Chủ nhân yêu cầu tiên sanh đưa y thẳng đến Hắc Ngục Vong Hồn.
Trầm Quân Lượng không phục:
– Đưa hắn đi để làm gì? Hắn đâu có muốn lưu lại sơn trang của chúng ta mà hòng quăng hắn vào lò thực nghiệm?
Thị nữ mỉm cười:
– Cái đó thì xin lỗi tiên sanh nhé, bởi tiên sanh không có quyền quyết định.
Trầm Quân Lượng nổi giận.
– Muốn đưa hắn đi, ngươi cứ tự mình đưa đi, ta chẳng phải là tay nô bộc, ta không thể làm công việc của bọn phục dịch.
Thị nữ lại cười:
– Chủ nhân nói rằng, hôm nay tánh khí của Trầm tiên sanh thay đổi lạ lùng quá. Tiên sanh hoàn toàn biến thành con người khác, mất hết phong độ ung dung nhàn nhã của ngày thường. Chủ nhân rất thất vọng vì tiên sanh đó nhé.
Trầm Quân Lượng tợ hồ muốn phác tác, nhưng nghĩ sao đó, y lại dằn tâm quay đầu bước vào cửa lầu.
Thị nữ nhìn Quan Sơn Nguyệt, điểm một nụ cười, thốt:
– Trầm tiên sanh giận bỏ đi rồi, vậy là tôi phải dẫn đại hiệp đi. Xin Quan đại hiệp theo tôi.
Quan Sơn Nguyệt hỏi:
– Có phải là đi tiếp xúc với chủ nhân cô nương chăng?
Thị nữ vẫn cười, lắc đầu:
– Không! Trước hết, đại hiệp đến Hắc Ngục Vong Hồn.
Quan Sơn Nguyệt cũng lắc đầu:
– Không! Tại hạ không đến nơi đó đâu. Tại hạ đến đây với mục đích cứu người.
Nữ nhân cười nhẹ:
– Ngọc Phương bép xép quá, đem mọi việc tiết lộ hết với đại hiệp. Chủ nhân biết trước thế nào đại hiệp cũng nêu lên câu đó, cho nên đã sớm an bài, đại hiệp không thể không trải qua địa điểm đó được.
Quan Sơn Nguyệt nổi giận.
Thị nữ điềm nhiên đáp:
– Ngô Khẩu Thiên bị bỏ nơi cảnh giới thứ nhất trong Hắc Ngục Vong Hồn, còn Thương Nhân thì ở tại cảnh giới thứ hai. Ngô Phụng và Ngọc Phương ở tại cảnh giới thứ ba. Như đại hiệp có ý muốn cứu người, thì cái thế bắt buộc phải vào đó rồi vậy. Tốt hơn hết, đại hiệp nên dạo qua một chuyến đi, dù sao thì đại hiệp cũng không nỡ bỏ các người đó trong chỗ tối tăm lạnh lẽo. Giả như họ chết đi, thì có phải là đại hiệp hối hận suốt đời chăng?
Quan Sơn Nguyệt giật mình, hỏi gấp:
– Bỏ họ vào đó? Để làm gì chứ?
Thị nữ mỉm cười, đáp:
– Thì để cho đại hiệp vào cứu họ, chứ còn để làm gì nữa. Chẳng phải đại hiệp đến cứu người đó sao? Cứu người, phải cứu bằng công lực, chứ nói năng mấy tiếng mà xong được cho à?
Quan Sơn Nguyệt vội đáp:
– Cha con họ Ngô và Thương Nhân sở dĩ lâm nạn, là do tại hạ, tự nhiên tại hạ phải cứu họ.
Thị nữ tiếp:
– Còn Ngọc Phương? Nàng lâm nạn, thế chẳng do đại hiệp hay sao?
Chẳng lẽ đại hiệp không cứu nàng? Mà thôi, cứu ai thì tùy đại hiệp, bỏ ai cũng tùy đại hiệp. Tôi chỉ có việc cho đại hiệp biết là hiện tại họ đều ở trong Hắc Ngục Vong Hồn ...
Thốt xong nàng mỉm cười, nụ cười châm chích, mỉa mai, nửa trách phiền, nửa khiêu khích. Rồi nàng quay mình bước đi.
Quan Sơn Nguyệt đi theo sau nàng. Dù muốn dù không, chàng cũng phải đến ngục tối, bởi chẳng ai chịu đưa chàng vào gặp chủ nhân, thì chàng còn làm sao hơn?
Qua khỏi vọng cửa lầu, chàng đến một tòa đại sảnh, sảnh đường trống không, chẳng có một vật nào, ngoài một chiếc thang bằng gỗ.
Thang gỗ đưa lên lầu canh, thị nữ đưa tay chỉ chiếc thang thốt:
– Bên trên đó, là cảnh giới thứ nhứt của Hắc Ngục Vong Hồn, đại hiệp cứ đi lên, tôi không thể theo đại hiệp nữa. Lão già họ Ngô đang ở trên đó, chắc là đang run vì lạnh. Muốn cứu người, đại hiệp phải hành động gấp, chỉ sợ lão ấy sẽ cóng mình mà chết đấy nhé.
Nàng bỏ chàng tại đó, ly khai đại sảnh.
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút, đoạn tra kiếm vào vỏ, mạnh dạn bước lên thang.
Thang có mấy mươi bậc, lên nốt chiếc thang, chàng đến đỉnh lâu.
Trước mắt chàng, là một vọng cửa bằng gỗ, trên cửa có tấm biển, ba chữ nhỏ, hai chữ lớn hiện rõ:
«Vong Hồn Đệ Nhất Giới».
Hai bên cửa, có vế liễn:
«Vô mãnh vô cương, bạo hổ phùng hà, thất phu hà kham ngôn dõng.
Vô úy vô nổi, đường tý đường xa, Chí sĩ tự tri sở cường.» Đại ý, câu liễn cảnh cáo con người đừng tự đắc, tự tôn, đừng ỷ tài ỷ sức, tuyệt đối không nên cho mình là vạn năng, làm được tất cả mọi việc trên đời.
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Câu liễn nói đúng đạo lý, song chẳng biết bên trong kia có những gì đáng chờ đợi ta?
Chàng toan đưa tay đẩy cánh cửa, bỗng một luồng gió lạnh thổi tạt vào mặt.
Lập tức, chàng ngưng thần vận khí, chuyển cương khí khắp người, chuẩn bị sẵn sàng rồi, mới bước vào.
Vừa bước ngang ngưỡng cửa chàng nhận ra cảnh sắc đột nhiên biến đổi, trước mắt chàng là những chiếc giường bằng giá băng, trên giường có những người cụt tay, cụt chân, có nam, có nữ, người nào cũng nhợt nhạt thần sắc. Có điều họ vẫn còn sống.
Quái dị nhất, là ở dưới mỗi chiếc giường, có một bồn lửa, cháy không phải do một nhiên liệu thông thường nào, mà là bằng xương người, thịt người, tay chân người.
Một người nào đó kêu lên:
– Lạnh quá! Trời ơi! Lạnh chết đi! Khẩn cầu ngươi thêm lửa vào cho ấm một chút đi!
Người vừa phát âm đó, là một nữ nhân, tác độ trung niên đang run hơn cầy sấy.
Quan Sơn Nguyệt giật mình. Lý trí cảnh giác cho chàng biết đó là những ảo tưởng, nhưng con mắt trông ra sự tình như vậy, lỗ tai nghe rõ những lời kêu than như vậy, thì làm sao mà chàng chẳng cho là thực tế?
Tuy nhiên, chàng cố dằn lòng, không lưu ý đến lời kêu rên thống thiết cửa nữ nhân, cứ thẳng đường đi tới. Đảo mắt nhìn qua chàng ước độ gian nhà đó rộng hơn mười trượng vuông là có một chiếc giường, dĩ nhiên là giường bằng giá băng, giường xếp thành hàng, hai giường đối diện với nhau.
Có trên hai mươi chiếc giường. Và tự nhiên có trên hai mươi người thọ thương.
Lửa bên dưới giường bốc cháy mạnh ngọn, song băng giá chẳng hề tiêu tan.
Nhờ cương khí vận hành khắp thân thể, Quan Sơn Nguyệt không nghe lạnh, nhưng những lời kêu thảm thống thiết của những người đó vang vọng đến tai chàng, làm chàng cũng cảm thấy lạnh luôn. Lạnh lòng, lạnh ý, chứ chưa lạnh thân xác.
Tiếng kêu thảm tiếp nối vang lên:
– Yêu cầu ngươi thêm lửa! Thêm thật nhiều vào! Lạnh chết ta đi thôi!
Lần này, chính là một nam nhân tác độ trung niên, cất tiếng kêu than. Lửa bên dưới chiếc giường của y suy yếu lắm rồi, hầu như chực tắt. Y lạnh quá, thân hình rung rung, đến phát ra tiếng động, tiếng của răng đập vào răng, xương chạm với xương.
Quan Sơn Nguyệt không dằn lòng được, buột miệng hỏi:
– Các vị là những ai? Tại sao lại ở chốn này?
Nam nhân đó đáp:
– Ngươi hãy thêm lửa cho ta đi, ta lấy lại khí lực, rồi mới cáo tố với ngươi được. Úy da! Ta không chi trì nổi nữa rồi. Ngươi hãy làm một cái gì, giúp ta ngươi sẽ được phước lớn!
Niềm thống khổ càng phút càng hiện đẫm trên gương mặt của y, thinh âm càng phút càng thê thảm. Nhìn y, không ai chịu đựng nổi cảm xúc vầy vò.
Quan Sơn Nguyệt hỏi:
– Lấy cái gì mà thêm vào?
Người đó chừng như không còn nói năng gì được nữa. Cánh tay tả của y đã bị đứt mất rồi, đôi chân thì chỉ còn thừa lại một đoạn xương đùi, hiện tại còn cánh tay hữu.
Y nhếch cánh tay hữu lên, hết sức yếu đuối, biểu hiện cái ý cho Quan Sơn Nguyệt biết là chỉ còn cánh tay đó thôi, có thể dùng làm nhiên liệu gầy lại ngọn lửa hồng.
Làm sao Quan Sơn Nguyệt nỡ chặt cánh tay đó, quẳng vào bồn lửa?
Trong khi chàng do dự thì người đó nhắm mắt lại, thân hình rung rung, vẻ thống khổ biểu lộ rõ rệt.
Người ở trên giường bên cạnh y kêu lên:
– Ngươi cứ chặt cánh tay hữu của y, quăng gấp vào bồn, nếu lửa bên dưới tắt đi, thì không làm sao gầy lại được, và y sẽ vĩnh viễn chịu thống khổ ...
Quan Sơn Nguyệt cao giọng:
– Các ngươi chịu hình phạt như thế này, thì thà chết đi còn sướng hơn ...
Người đối thoại thở dài, đáp:
– Nếu mà ngươi có cách làm cho bọn ta chết được, thì đó là ngươi làm một công đức. Khi nào bọn ta cam chịu cái hình phạt này? Chỉ vì bọn ta muốn chết mà không làm sao chết được đó thôi. Ngươi nên thêm lửa cho y gấp đi!
Quan Sơn Nguyệt rút thanh trường kiếm, nhắm ngay khoảng tim của người đang oằn oại đâm thẳng vào.
Thanh kiếm lút sâu vào ngực người đó, y rú lên một tiếng. Nhưng, nhát kiếm không kết liễu tánh mạng của y.
Quan Sơn Nguyệt rút thanh kiếm ra khỏi ngực y, máu theo kiếm vọt ra, máu vọt khỏi vết thương liền đông đặc lại.
Người bên cạnh kêu lên.
– Ngươi không giết chết bọn ta được đâu! Ngươi xem nơi chiếc giường gần đấy, có một người, chỉ còn có cái đầu thôi, mà cũng chẳng chết đước thay, hà huống y còn nhiều bộ phận hơn? Phương pháp duy nhất làm cho bọn ta dịu cơn đau khổ là giữ cho ngọn lửa mãi mãi cháy mạnh, lửa còn thì cơn lạnh bớt xâm nhập vào mình, bớt hành hạ ...
Quan Sơn Nguyệt nhìn về phía đó, quả nhiên thấy một chiếc đầu người, đầu của một nữ nhân, bên dưới cổ, còn một phần ngực. Một con người trong tình trạng đó, vẫn sống được, thật là lạ.
Chàng không biết làm sao hơn, đành chặt cánh tay hữu của người đã van kêu chàng, quẳng cánh tay đó vào bồn lửa bên dưới giường, ngọn lửa lập tức bốc cao, người đó hết rên ngay.
Y mở mắt ra, buột miệng thở phào, thở luôn mấy cái, xem chừng khoan khoái lắm.
Việc đó gây phấn khởi cho toàn thể nạn nhân trong gian nhà, và ai ai cũng kêu gọi chàng.
Đến nữ nhân còn độc một chiếc đầu đó, cũng van cầu chàng thêm lửa.
Chàng nhận thấy, ai ai cũng chỉ cần có lửa thôi, chẳng ai nhờ chàng cứu thoát khỏi gian nhà đó.
Chàng lần lượt cắt từng bộ phận của từng người một, quăng bộ phận đó vào bồn lửa bên dưới giường. Làm công việc đó, mắt thấy máu hồng tuông đổ, mũi ngửi da thịt xuông chảy khét lẹt, chàng như quên mình ở trong cảnh huống nào.
Riêng về nữ nhân chỉ còn một chiếc đầu đó, thì chàng cảm thấy khó khăn vô cùng. Cắt phần da thịt nào để quăng vào lửa đây? Cái đầu, thì không thể cắt rồi. Còn cổ? Cũng không luôn! Nửa phần ngực gần đôi vú? Cũng không thể nốt.
Chàng hỏi:
– Tại hạ làm sao giúp cô nương đây?
Chàng muốn hỏi, phải cắt phần nào trong cái phần còn lại gồm đầu, cổ và vú.
Nữ nhân đáp:
– Ngươi cứ tùy tiện! Cắt chỗ nào cũng được!
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút, đoạn vung kiếm chém vào đầu nàng.
Kiếm chạm đầu, vang lên một tiếng khô khan, như chạm vào một vật bằng kim khí cực kỳ cứng rắn. Nếu là kim khí thực sự, thì không một kim khí nào chịu nổi với thanh Hoàng Diệp Kiếm của chàng. Nhưng, chiếc đầu của nữ nhân không hề hấn gì cả!
Nữ nhân kêu lên:
– Ngươi đừng làm một việc vô ích. Chẳng một biện pháp nào làm cho ta dứt trừ vĩnh viễn niềm đau khổ, kể cả sự kết liễu sanh mạng ta. Ngươi cứ giúp ta, gây lửa cháy cao ngọn là được. Còn lại nơi ta bộ phận nào, ngươi cứ cắt mà quăng vào bồn.
Rồi nàng giục:
– Động thủ gấp đi!
Quan Sơn Nguyệt hỏi:
– Giả như cái phần cuối cùng của cô nương được cho vào bồn lửa, thì cô nương sẽ ra sao?
Nữ nhân đáp với giọng bi thảm:
– Nếu chỉ còn lại có mỗi một chiếc đầu trụi, thì ta vĩnh viễn chịu đau khổ, chứ còn ra sao nữa. Song ta chẳng quản chi hết, ta chỉ biết là đỡ khổ vì lạnh lúc nào, hay lúc ấy thôi. Được như vậy, là ta mãn nguyện lắm rồi.
Quan Sơn Nguyệt lại suy tư mấy phút:
– Tay chân của người khác, quẳng vào bồn lửa bên dưới giường của cô nương, có được chăng?
Nữ nhân lại kêu gấp:
– Không được! Không được! Da thịt xương của người nào, chỉ sưởi cho người đó. Vả lại, các bộ phận nơi mình của mỗi người đâu phải là nhiều, dùng cho chính mình còn không đủ, có dư đâu mà đem cho người khác? Không được!
Ngươi đừng làm một việc vô ích.
Người trong gian nhà kêu rú lên hãi hùng, họ sợ Quan Sơn Nguyệt chặt tay chân thân thể của họ, đem dùng cho người khác, làm như thế là họ phải thiếu lửa.
Thiếu lửa, họ chịu làm sao thấu với cái lạnh này?
Quan Sơn Nguyệt cắn môi. Dù nữ nhân đã bảo như vậy, song ý chàng đã quyết, trở ngược thanh kiếm, tự chặt cánh tay chàng.
Chàng nghĩ, có tay chân quẳng vào bồn là có lửa, mà lửa thì vẫn nóng lửa làm cho nạn nhân bớt lạnh, chứ đâu có thứ lửa chọn lựa, của ai nấy dùng.
Chàng cảm thấy lạnh qua cái chạm của thanh kiếm với làn da, sau đó cánh tay tả của chàng rơi xuống. Điều làm cho chàng kinh dị hơn hết là chàng không nghe đau đớn chút nào.
Rồi chàng cúi mình xuống nhặt cánh tay rơi quăng vào bồn lửa dứa chiếc giường của nữ nhân.
Lửa bốc cháy cao ngọn, nữ nhân lộ vẻ khoan khoái vô cùng.
Hiện tại thì mường tượng chàng không thiết tha đến sự việc gì khác cả, ngoài cái việc gây niềm khoan khoái cho ngoại nhân và việc chàng vừa làm đó là trọng yếu, có lẽ chàng còn làm nữa, làm mãi cho đến khi nào không thể làm được.
Gian nhà lạnh trở nên tịch tịnh phi thường, một thứ tịch tịnh cô đọng vì lạnh.
Chàng nhìn qua đầu vai. Hiện tượng trước mắt làm chàng sững sờ. Hiện tượng đó là nơi chỗ bị chặt chẳng có máu! Không một điểm máu nào rỉ ra! Như chàng chặt vào một cành cây khô, cành gãy không một giọt mủ cây rịn chảy.
Nữ nhân như hiểu được sự nghĩ ngợi của chàng nên vội giải thích:
– Máu không chảy đâu. Bởi vì máu trong người vốn nóng, vào đây rồi khí lạnh làm ngưng đọng, máu chẳng chảy được.
Như hiểu, như không hiểu, Quan Sơn Nguyệt miễn cưỡng gật đầu. Nhưng liền sau đó chàng hỏi:
– Không hẳn là vậy. Bằng cớ là vừa rồi tại hạ chặt cánh tay của người kia, máu vẫn chảy kia mà?
Nữ nhân cười thảm:
– Giữa bọn ta và ngươi có chỗ bất đồng. Máu của bọn ta là thứ máu lạnh, đã lạnh thì không đọng lại cho nên phải chảy ra.
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Làm gì có việc như vậy?
Nữ nhân thở dài:
– Việc chỉ không thể có ở bên ngoài, tại đây vẫn có như thường.
Quan Sơn Nguyệt chợt tỉnh ngộ thầm nghĩ:
“Nàng nói có lý. Chính ta thấy tận mắt có những người tàn phế đến độ khó sống mà họ vẫn sống được như thường. Và bằng chứng hùng hồn nhất là kẻ kia chỉ còn có một cái đầu mà vẫn sống!”.
Chàng hỏi:
– Các ngươi làm sao lại lọt vào nơi này?
Nữ nhân nhếch nụ cười khổ đáp:
– Bọn ta là những kẻ tối độc ác trên thế gian nên bị đưa vào đây để phải chịu dày vò, hành hạ, phải trải qua mọi khổ đau. Riêng về ta thì trong dĩ vãng ta đã làm rất nhiều tội ác, ta là kẻ độc hại nhất trong số người tại đây.
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Tại hạ xem cô nương chẳng có vẻ gì là ác độc cả.
Chàng trở về cái giọng lễ độ như thường nhật.
Nữ nhân thở ra:
– Cái thiện ác của con người phát sanh từ nơi tâm tánh chứ nào phải biểu lộ nơi dung mạo, hình dáng? Nhìn vào dung mạo, hình dáng mà ức đoán phẩm cách con người thì không làm sao đúng được.
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:
– Thế cô nương đã làm những việc gì?
Nữ nhân trầm lặng rất lâu, sau cùng thở dài mấy lượt rồi từ từ thốt:
– Không thể nào nhớ hết, cũng như chẳng làm sao nhớ rõ ràng. Đại khái thì ... bất cứ điều ác nào mà con người làm được là ta có làm cả. Ta đã làm hết, chẳng sót một điều nào.
Quan Sơn Nguyệt đang nghĩ ngợi mông lung, những người kia lại kêu lên thê thảm, những tiếng kêu than đó đưa chàng trở lại thực cảnh quá đau thương.
Tất cả đều kêu lên những tiếng vang cầu như nhau:
– Lửa! Hãy thêm lửa cho ta! Thêm mau đi.
Tiếng kêu than của họ kích thích chàng mãnh liệt, chàng bước đến gần một nam nhân chỉ còn thừa lại nửa thân trên với đôi cánh tay.
Chàng đưa cao thanh kiếm định chặt một cánh tay của người đó.
Ngờ đâu người đó lại buông giọng trách:
– Ngươi không công bình! Ngươi đã chặt cánh tay của ngươi gầy lửa cho nàng ấy, đến lượt ta ...
Nữ nhân chận lời:
– Trên mình ta đâu còn phần da thịt nào dùng được nữa. Còn ngươi thì các bộ phận thừa thãi quá mà. Tại sao không dùng tới bộ phận của ngươi, lại đòi hỏi người ta chia chác những cái của người ta? Đã đến nông nỗi này rồi mà ngươi chưa chịu từ bỏ tánh tham à?
Nam nhân cười lạnh:
– Tội ác của ngươi nhiều quá, ngươi làm ác nhiều hơn ta thì ngươi phải chịu hành hạ nhiều hơn ta chứ. Còn như nói về tánh tham thì con người ai lại không tham? Bất quá tham nhiều, tham ít, tham kín đáo, tham lộ liễu.
Nữ nhân hướng qua Quan Sơn Nguyệt:
– Đừng quan tâm đến hắn. Ngươi đừng hy sinh cho kẻ chẳng bao giờ biết ăn năn tự hối.
Nam nhân kêu lên:
– Bây giờ mà nói đến việc tự hối ăn năn thì quá muộn rồi. Dù có hồi đầu hướng thiện, ta cũng vẫn chịu thống khổ như thường. Hiện tại ta không cần gì hơn là lửa, thứ lửa tối cao cho sanh mạng của ta, lửa ở dưới giường.
Quan Sơn Nguyệt trầm tư một chút rồi cử kiếm định cắt một phần da thịt trên mình chàng tặng nam nhân đó, cho hắn không phân bì nữa, nhưng nữ nhân lại gọi:
– Đừng hy sinh vô lý. Ngươi toan hủy diệt bản thân sao?
Quan Sơn Nguyệt đáp gọn:
– Phải cho vị nhân huynh đó một mảnh da thịt.
Nữ nhân lắc đầu:
– Hắn là kẻ bại hoại, ngươi không nên hy sinh cho những kẻ bại hoại!
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ.
Chứ nàng không là kẻ bại hoại sao? Chính nàng đã tự thú có làm rất nhiều tội ác kia mà, nhiều hơn tất cả những người hiện diện tại đây kia mà. Thì tại sao nàng đòi hỏi người ta hy sinh cho nàng, còn đối với kẻ khác thì nàng lại ngăn cản?
Chàng đáp:
– Tại hạ bất chấp các vị là người tốt hay người xấu. Tại hạ chỉ nhìn vào hiện cảnh của tất cả, thương hại cho tất cả nên muốn giúp các vị được phần nào hay phần ấy vậy thôi. Vì thương hại mà làm thì không thể cân phân việc làm cũng như xét đoán con người mà mình muốn giúp. Tại hạ không tiếc chi cả, miễn sao giúp ích được cho các vị thì thôi.
Thốt xong, chàng cắt chân tả quăng vào chiếc lò dưới giường của nam nhân đó.
Tất cả những người còn lại trong gian nhà đều cất tiếng kêu van:
– Tốt quá! Tốt quá! Còn bọn ta đây! Hãy làm cái gì giúp bọn ta đi!
Còn lại một chân, Quan Sơn Nguyệt nhảy cò cò đến cạnh một lão nhân.
Lão nhân là người còn nhiều bộ phận hơn tất cả những kẻ khác, hai tay hai chân còn đủ, chỉ có phần ngực là bị khoét một lỗ lớn.
Quan Sơn Nguyệt định cắt một mảnh thịt tặng lão, nhưng lão vội gạt đi, thốt:
– Ta không cần ngươi tiếp trợ.
Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ:
– Tại sao?
Lão nhân đáp:
– Thịt xương của ngươi không giúp cho ta được đâu. Ngọn lửa sanh mạng của ta không phải cấu tạo bằng thứ nhiên liệu huyết nhục. Muốn giúp ta, ngươi chỉ có mỗi một phương pháp mà thôi, đặc biệt hơn phương pháp giúp người khác.
Quan Sơn Nguyệt hỏi:
– Phương pháp gì?
Lão nhân nhắm đôi mắt lại:
– Thôi, ta không nói làm chi. Ta có nói ra vị tất ngươi chấp nhận.
Quan Sơn Nguyệt nóng nảy:
– Thì lão trượng cứ nói đi mà! Nếu là việc trong sức của tại hạ, tại hạ nhất định đáp ứng lão trượng ngay.
Lão nhân suy nghĩ một chút:
– Cái phần khiếm khuyết nơi ta là một quả tim. Nếu ngươi móc lấy tim của ngươi trao cho ta thì ta có thể ly khai cái địa phương quỷ quái này, không còn chịu khổ vì khí lạnh cóng người.
Quan Sơn Nguyệt lộ vẻ khẳng khái:
– Điều đó có gì là khó khăn đâu lão trượng!
Lão nhân cười lạnh tiếp:
– Ngươi không nên đáp ứng hấp tấp như vậy. Ngươi biết không, hiện tại ngươi chưa thấm thía cái lạnh giết người của nơi này là vì ngươi còn có con tim trong lồng ngực. Giả như ngươi móc lấy nó trao cho ta thì ngươi làm cái việc thay thế ta, ở vào vị của ta, và lập tức ngươi phải thống khổ như ta đang thống khổ, như mọi người chung quanh đây thống khổ.
Quan Sơn Nguyệt sững sờ một chút.
Một người bên cạnh cất tiếng:
– Ngươi không thể móc tim tặng lão được. Nếu ngươi làm như vậy thì phải chịu thống khổ hơn tất cả mọi người tại đây.
Lão nhân lạnh lùng thốt:
– Phải! Ta đã già rồi, cho dù có thống khổ cũng chẳng cần phải chịu bao nhiêu năm nữa. Còn ngươi, ngươi đang thời thanh thiếu, tương lai của ngươi còn dài, ngươi còn nhiều mộng đẹp đang chờ đợi, ngươi không nên hy sinh cho ta là phải.
Quan Sơn Nguyệt trầm tư mấy phút nữa.
Lão nhân tiếp:
– Ta ra khỏi nơi này rồi bất quá ta hưởng dụng một vài năm an nhàn dật lạc nữa thôi, một vài năm ngắn ngủi rồi ta cũng sẽ chết thôi. Chứ còn ngươi mà nằm tại đây ở cái vị trí của ta, thì chẳng biết là đến thời gian nào ngươi mới được giải thoát.
Đột nhiên Quan Sơn Nguyệt hoành ngọn kiếm rọc nơi ngực mình, đoạn quăng trường kiếm, dùng tay mà móc lấy con tim ra trao cho lão nhân. Chàng thốt:
– Lão trượng cầm đi.
Lão nhân do dự:
– Ngươi thật tâm tặng ta?
Quan Sơn Nguyệt nghiêm sắc mặt:
– Đúng vậy.
Lão nhân tiếp:
– Ngươi tặng ta như vậy, chẳng biết đến ngày nào mới có người thứ hai tặng ngươi con tim để thay đổi vị trí cho ngươi ly khai nơi này. Ngươi có hối hận chăng?
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Tại hạ không hề hối hận. Vả lại, tại hạ cũng không chờ đợi kẻ thứ hai đến đây thay đổi vị trí cho tại hạ. Vậy lão trượng tiếp nhận quả tim này đi, rồi cắt hết những bộ phận còn lại trên người tại hạ phân phát cho các vị kia.
Lão nhân trầm giọng:
– Thế là ngươi chết còn gì?
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Các vị cầu mong được chết mà không chết được, nếu tại hạ chết được thì có phải là hạnh phúc hơn tất cả các vị tại đây sao? Lão trượng cứ tự lo cho mình, cầm lấy quả tim này, và làm hộ cho tại hạ phần việc vừa nhờ đó, rồi ly khai nơi này đi.
Lão nhân trầm ngâm lâu lắm, sau cùng hỏi:
– Ngươi còn việc chi trên đời này chưa làm xong? Ngươi có cần nhờ ta làm nốt cho hoàn thành chăng?
Quan Sơn Nguyệt suy tư một chút:
– Việc chưa hoàn thành còn rất nhiều, song chẳng có việc nào ngoại nhân làm được. Không một ai thay thế tại hạ thi hành những việc đó lão trượng ạ.
Lão nhân mỉm cười:
– Nếu thế thì nhẹ nhàng cho ta quá.
Thốt xong, lão chụp quả tim nơi tay chàng nhét vào ngực lão.
Quả tim vừa rời khỏi tay, Quan Sơn Nguyệt cảm thấy cơn lạnh đột nhiên xâm chiếm toàn thân, một cái lạnh hãi hùng bình sanh chàng chưa hề cảm giác.
Lạnh không do từ ngoài vào mà mường tượng phát sanh từ xương cốt, chàng không còn đứng vững được nữa, ngã ngay xuống chiếc giường băng giá của lão nhân. Thống khổ đã đến với chàng, một thứ thống khổ không có danh từ mô tả. Chàng chỉ mong chết để được tự giải thoát.
Lão nhân nhích bước toan ly khai gian nhà, Quan Sơn Nguyệt vội gọi:
– Lão trượng ơi! Lão trượng quên giết chết tại hạ rồi.
Lão nhân cười lạnh:
– Trong ngục Hàn Băng này, không một ai do cái chết mà tự giải thoát được.
Ngươi phải thọ nhận thống khổ vô cùng cho đến khi nào ngọn lửa sanh mạng bên dưới giường tự động tắt thì thôi.
Quan Sơn Nguyệt giật mình hỏi:
– Lửa sanh mạng đến lúc nào mới tắt?
Lão nhân mỉm cười:
– Khó nói lắm. Cho đến khi nào ngươi hoàn toàn mất hết hy vọng về sanh mạng của ngươi thì ngọn lửa đó mới tắt. Niềm hy vọng đó, ngươi còn nhiều hay ít?
Quan Sơn Nguyệt bối rối:
– Tại hạ không hiểu được ...
Lão nhân chận lại:
– Thế thì khó thật. Trong niềm thống khổ, ngươi cố gắng giữ bình tĩnh suy tư cho đến lúc nào ngươi cảm thấy những hy vọng biến thành tuyệt vọng thì ngọn lửa sanh mạng tự động tắt liền.
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:
– Thế các vị kia đều còn hy vọng?
Lão nhân lắc đầu:
– Không. Đối với sanh mạng, họ chẳng còn một điểm hy vọng nào cả. Nếu còn hy vọng thì đó là hy vọng được chết gấp, có chết gấp mới được giải thoát mọi sự khốn khổ.
Quan Sơn Nguyệt kêu lên:
– Thế thì ngu quá! Muốn chết không xong, phải thọ nhận mọi sự thống khổ!
Cứ chịu thống khổ rồi chết, bởi tất cả mọi sự thống khổ cuối cùng rồi cũng đưa đến chỗ chết. Tại sao họ cố nuôi dưỡng sự thống khổ bằng cách gầy ngọn lửa sanh mạng cho tồn tại mãi mãi?
Lão nhân mỉm cười:
– Ta hy vọng ngươi không ngu như họ và tìm được cách giải thoát.
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:
– Còn cách giải thoát nào khác hơn là cách hủy diệt thân thể mình? Tại hạ hiểu rồi lão trượng ạ! Vậy lão trượng hãy chặt tay, chặt chân của tại hạ hết đi, phân cấp cho các vị tại đây mỗi người một chút ít.
Chưa làm theo lời chàng, lão nhân chỉ nhặt thanh trường kiếm cắt một chút thịt của chàng quang vào lò bên dưới giường.
Chàng cảm thấy niềm thống khổ giảm đi một chút. Bây giờ chàng mới biết tại sao các người tại đây dám chặt tay, chặt chân, lóc thịt quăng vào lò lửa. Thì ra tự hủy diệt như vậy để có ngọn lửa cháy đều, bản thân không đau đớn vì sự cắt chặt đó, trái lại còn khoan khoái nhiều.
Lão nhân mỉm cười hỏi:
– Ngươi có muốn thêm lửa chăng?
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Tại hạ không muốn thêm lửa. Nhưng lão trượng cứ cắt thịt của tại hạ thêm lửa cho các người kia đi.
Lão nhân thốt:
– Cái ngọn lửa của ngươi đó, chỉ duy trì được mấy phút thôi nó sẽ tàn và ngươi sẽ thấy đau đớn cực độ, không bút mực nào tả nổi niềm đau đớn đó. Vậy tốt hơn, ngươi hãy dành cơ thể của ngươi lại để tự dụng.
Quan Sơn Nguyệt tỏ vẻ kiên quyết:
– Không đâu! Tại hạ không cần! Trong đời tại hạ chỉ có mỗi một hy vọng là làm sao giúp đỡ được đồng loại, không đem hạnh phúc lại cho người được thì ít nhất cũng làm giảm thiểu niềm đau khổ của người. Tại hạ mong lão trượng thành toàn ý nguyện của tại hạ.
Lão nhân lắc đầu:
– Người như ngươi thật hiếm thấy trên đời. Hiện tại ngươi chỉ còn có mỗi một xác thân, đem cái xác thân đó phân chia ra cho mọi người thì ngươi còn cái gì đâu? Trong lúc đó ngươi lại chưa chết, hơn nữa, nếu chưa chết thì niềm hy vọng giúp đỡ đồng loại vẫn còn. Ngươi mới làm sao giúp đỡ đồng loại? Đã không giúp được ai, chính ngươi cũng không tự giải thoát được, thì dù muốn dù không ngươi cũng trở thành một kẻ vô dụng.
Quan Sơn Nguyệt càng kiên quyết hơn:
– Lão trượng nói đó là tương lai, còn ý tại hạ muốn là muốn nói cho hiện tại.
Tương lai ra sao tại hạ chẳng cần biết đến, chỉ hiểu là trước mắt đây nếu có thể làm cho đồng loại bớt khổ đau thì tại hạ sẵn sàng làm liền. Vậy lão trượng cứ cắt chân tay tại hạ phân phối cho mỗi người một ít đi.
Lão nhân thở dài:
– Ngươi muốn thế, ta bắt buộc phải làm cho ngươi vui lòng.
Lão vung kiếm lên chặt chân tay của chàng chia ra từng khúc, dĩ nhiên chàng phải đau, song ý đã quyết rồi, dù đau chết đi nữa chàng vẫn muốn làm.
Chàng cắn răng, nhận thọ niềm đau hành hạ. Khi lưỡi kiếm áp vào gò má chàng, chàng có cảm giác là thân thể không còn thuộc về chàng nữa.
Lão nhân dừng tay hỏi:
– Ngươi có muốn ta chừa lại cho ngươi chút đỉnh nào chăng? Ngọn lửa dưới giường ngươi sắp tàn diệt rồi đó.
Quan Sơn Nguyệt không còn một điểm khí lực nào để giúp chàng lắc đầu.
Chàng chỉ còn có cách là chớp chớp mắt để tỏ thái độ cự tuyệt.
Lão nhân thở dài, mang tất cả các phần xương thịt vừa chặt ra đó đem quăng vào lò lửa dưới giường của mọi người, mỗi lò một ít.
Quan Sơn Nguyệt không thấy bao nhiêu người quanh chàng khoan khoái ra làm sao, chỉ nghe từ các nơi vọng về tai chàng những tiếng cảm tạ. Đồng thời tiếng kêu la rên xiết cũng lắng dịu lại.
Đó là niềm an ủi duy nhất cho chàng, chàng có cần chi hơn?
Cơn thống khổ hành hạ chàng cực độ, nhưng dù có đau hơn nữa chàng vẫn vui bởi vì cái đau đó là sự thể hiện lòng bác ái của chàng mà! Chàng cắn răng, nhắm mắt cố chịu đau.
Bỗng chàng cảm thấy có ai đó nâng bổng chiếc đầu của chàng lên và mọi niềm thống khổ đột nhiên tan biến. Chàng mở vội đôi mắt ra, bất giác giật mình, nhận thấy đang ở bên ngoài chứ không còn trên chiếc giường ở trong gian nhà nữa. Điều làm cho chàng kinh dị hơn hết là thân mình của chàng còn trọn vẹn.
Chàng tự hỏi:
“Hình hài của ta, ta đã phân chia cho những người kia hết rồi, sao lại còn nguyên như thế này?”.
Chàng không tin có sự kiện như vậy dù là sự thật rõ ràng, sự thật của chính chàng.
Quái dị hơn nữa là thanh Hoàng Diệp Kiếm đang ở trong tay chàng!
Chàng quay đầu nhìn lại, thấy gian nhà còn đó như trước, những người tàn phế cũng còn đó trên những chiếc giường bằng băng giá như trước. Chỉ có mỗi một việc đổi khác là chiếc giường của chàng thì trống không.
Lão nhân mà chàng khẳng khái cứu đang đứng cạnh chàng, miệng điểm một nụ cười. Cạnh chân người đó có một người đang nằm, người nằm chính là vị tướng số Ngô Khẩu Thiên.
Chàng hoang mang cực độ hỏi:
– Cái gì như thế này? Cái gì?
Nụ cười của lão nhân lồng vẻ trang nghiêm tôn kính, niềm tôn kính đó dĩ nhiên dành cho Quan Sơn Nguyệt, dù tuổi chàng so với lão còn thấp kém rất nhiều. Lão vòng tay thốt:
– Mừng cho Quan đại hiệp đã thông qua cảnh giới thứ nhất trong Hắc Ngục Vong Hồn. Lão phu là Tần Tử Minh, nhiệm chức chấp sự tại ngục tối này, kính thỉnh đại hiệp sang qua cảnh giới thứ hai.
Quan Sơn Nguyệt lại càng hoang mang hơn:
– Tại hạ ... tại hạ đã vượt qua cảnh giới thứ nhất rồi sao?
Tần Tử Minh gật đầu:
– Phải. Có nhiều dũng sĩ thông qua cảnh giới thứ nhất, nhưng họ dùng nhiều phương thức, toàn là những phương thức thông thường, chỉ có cách của Quan đại hiệp là khác biệt, và tại giới cảnh này chỉ có mỗi một Quan đại hiệp là dùng một phương thức khác biệt đó thôi. Lão phu hết sức kính phục.
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Những người khác làm cách nào để thông qua mà lão trượng cho là thông thường? Thế họ không chặt tay, chặt chân, cắt từng bộ phận như tại hạ à?
Tần Tử Minh giải thích:
– Có gì đâu, chẳng hạn họ nương theo tánh bạo tàn xem sự đau khổ của đồng loại như một trò giải trí, họ thản nhiên bước đi ngang qua những cảnh tượng đau thương, tai thì lờ đi trong khi quanh mình tiếng kêu than rên xiết vang lên thê thảm. Họ là những bạo nhân nhưng cứ tưởng mình là dũng sĩ, ở đây không ai buồn tranh luận làm gì nên cứ gọi luôn như thế cho tiện ...
Dừng một chút lão tiếp:
– Là bạo nhân, họ không có lòng nhân như Quan đại hiệp, họ chuyên dùng bạo, còn đại hiệp thì chuyên dùng nhân, họ không thể được xếp chung hạng với đại hiệp. Trong khi họ bị chủ nhân liệt vào hàng nô bộc thì Quan đại hiệp lại tỏ ra là con người đáng tôn kính ...
Trầm ngâm một chút, lão tiếp luôn:
– Từ trước đến nay, chỉ có một người có chút lòng nhân, người đó là Trầm tiên sinh. Tuy nhiên, sánh với Quan đại hiệp thì Trầm tiên sinh còn kém, kém rất xa.
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Có phải Trầm Quân Lượng chăng?
Tần Tử Minh gật đầu:
– Phải đó. Trầm tiên sinh chỉ tiếp giúp người khác cắt tay, cắt chân gầy lửa sanh mạng thôi, chứ không hề tự chặt tay, chặt chân lão mà duy trì lửa cho người khác như Quan đại hiệp đã dám làm. Cho nên lúc gặp nữ nhân đó, lão ta đi luôn không hề quan tâm đến nàng.
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:
– Những hiện tượng trong gian nhà băng giá này đều là thật cả, hay giả tạo?
Tần Tử Minh mỉm cười hỏi lại:
– Đại hiệp nhận thấy như thế nào? Giả hay thật?
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Thật khó mà nói cho đúng. Nếu tại hạ cho rằng thật thì làm gì có sự thật như vậy?
Tần Tử Minh nghiêm sắc mặt tiếp:
– Chủ nhân bổn trang có tài học thông thiên triệt địa, chẳng có việc gì mà người không làm nổi. Hai tiếng không thể, cầm như mất nghĩa đối với người.
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Vậy những hiện tượng này toàn là sự thật?
Tần Tử Minh đáp lững lờ:
– Có thể là thật, có thể là giả. Có cái thật, có cái giả.
Quan Sơn Nguyệt hết sức hoang mang sự tình quả là hồ đồ cùng cực.
Tần Tử Minh cười tiếp:
– Trong gian nhà lạnh, nhất thiết đều là thật, chỉ có những điều ứng hiện trên thân thể của đại hiệp là do ảo cảnh sanh ra thôi. Cho nên đại hiệp «xả thân» cứu người mà tự mình chẳng hề bị tổn hại.
Quan Sơn Nguyệt muốn hỏi thêm, Tần Tử Minh khoát tay chận:
– Những điều có thể nói, lão phu đã nói hết rồi. Nếu đại hiệp còn nghi vấn gì khác, xin kiên nhẫn đợi đến lúc gặp chủ nhân sẽ hỏi. Bây giờ xin mời đại hiệp tiến vào cảnh giới thứ hai.
Quan Sơn Nguyệt đưa tay chỉ Ngô Khẩu Thiên thốt:
– Người này ...
Tần Tử Minh vội thốt:
– Lão ta bị chủ nhân dùng một thủ pháp phong bế huyệt đạo, đại hiệp đã qua được cảnh giới thứ nhất rồi thì lão đương nhiên được cứu, lão phu sẽ đưa lão đến chủ nhân, nhờ chủ nhân giải huyệt.
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:
– Theo sự nhận xét của tại hạ thì cảnh giới thứ nhất của Hắc Ngục Vong Hồn có hai phương diện. Phương diện bên ngoài là trắc nghiệm dũng khí của đương sự. Còn phương diện bên trong như thế nào? Lão tiên sinh có thể giải thích cho tại hạ hiểu được chăng?
Tần Tử Minh mỉm cười:
– Chủ nhân có cái lập luận về dũng khí không giống như phần đông khách giang hồ. Do đó, lão phu không thể nào giải thích dụng ý của chủ nhân cho rõ ràng được. Vậy đại hiệp cứ tiến tới rồi cũng có dịp thắc mắc của đại hiệp sẽ được cởi mở hoàn toàn. Dịp đó sẽ đến với đại hiệp khi nào cả ba cảnh giới đều được đại hiệp thông qua, cuộc hội kiến giữa đại hiệp và chủ nhân sẽ khai diễn, đại hiệp trực tiếp nêu vấn đề với chủ nhân.
Nhiều nghi vấn nổi lên trong tâm tư Quan Sơn Nguyệt, nghi vấn trước chưa giải tỏa thì nghi vấn sau lại hiện, dồn chồng chất lên nhau gây hoang mang cực độ cho chàng. Nhưng hỏi thì đối tượng không chịu giải thích, chàng còn làm sao hơn. Chỉ còn có cách là gặp mặt chủ nhân thôi.
Chàng nóng nảy cần gặp mặt chủ nhân gấp. Muốn gặp gấp tất phải cố gắng vượt nốt hai cảnh giới còn lại, càng nhanh chóng càng đỡ nôn nao hơn.
Nghĩ thế, chàng vòng tay thốt:
– Về phần Ngô tiên sinh, tại hạ xin nhờ lão tiên sinh lo liệu hộ. Bây giờ xin lão tiên sinh chỉ cho tại hạ biết cảnh giới thứ hai của ngục tối Vong Hồn ở tại địa phương nào.
Tần Tử Minh trước hết đáp lễ, sau đó mới đáp:
– Cảnh giới thứ hai ở trước mặt kia, đại hiệp tiến tới theo đường hành lang này, lão phu khỏi phải hướng dẫn. Về phần Ngô Khẩu Thiên thì đại hiệp cứ yên trí, đã có lão phu liệu lý.
Quan Sơn Nguyệt gật đầu bước đi ngay.
Hành lang quanh co, chàng qua khỏi mấy khúc quanh đến một tòa nhà lầu.
Cũng có bảng trước cửa, cũng có chữ «Đệ Nhị Giới Vong Hồn». Có điều đôi liễn nơi đây thì không đồng nghĩa với đôi liễn ở cảnh thứ nhất. Đại khái khuyên con người thoát tục tìm nhàn, bao nhiêu việc trên đời dù thành dù bại chung quy rồi thế nhân cũng chẳng nắm giữ được gì để về trong lòng đất lạnh.
Vọng cửa không có chiếc vòng cơ quan đóng mở như ở cửa của cảnh giới thứ nhất. Quan Sơn Nguyệt chẳng biết phải làm cách nào để tiến vào trong.
Chàng dừng lại suy tư. Chàng bình tâm, tịnh ý, lắng tai nghe.
Có âm thanh rất nhỏ vọng ra, âm thanh phát xuất từ hai bên tả hữu, một bên là tiếng róc rách như nước chảy, một bên là tiếng lăng líu như chim hót.
Có nước là có khe suối, có chim là có cây cối. Như thế bên trong có núi rừng, khe suối?
Khe suối chứ chẳng phải sông, bởi nước xuôi dòng không phát sanh tiếng róc rách được, chỉ có nước suối chảy theo triền chạm đá mà phát ra âm thanh đó.
Âm thanh khác loại do hai bên phát xuất gieo một nghi vấn cho chàng. Một bên là sơn, một bên là thủy. Chàng phải đi bên nào. Chàng quyết định gấp bởi chàng muốn thông qua cảnh giới này gấp. Người xưa có lưu lại câu này:
«nhân giả lạc sơn, trí giả lạc thủy». Chàng không dám ví mình là bậc trí, bất quá chàng nhận thấy mình có chút lòng nhân, không còn do dự nữa chàng hướng về phía có tiếng chim kêu mà đi tới.
Sở dĩ chàng lọt vào bên trong là vì ở đây có vọng cửa nhưng cửa không có cánh đóng mở. Nhìn vào bên trong, chàng trông thấy một cảnh giới mông lung, man mác, không tối lắm nhưng chẳng sáng sủa chút nào.
Không có cửa để mở, không có cơ quan dùng đóng mở cũng như báo hiệu sự hiện diện của người ngoài, thì làm sao gọi được người bên trong tiến ra để chàng hỏi han? Cho nên chàng chỉ bằng vào sự suy đoán mà vào trong, cương quyết vào bởi bắt buộc phải vào.
Nghe tiếng chim tìm phương hướng, Quan Sơn Nguyệt từ từ dò từng bước, chàng tiến như vậy chẳng rỏ được bao lâu, mà cũng chẳng biết đi được bao nhiêu dài. Chàng tự hỏi, đi như thế này lúc nào mới thoát ra ngoài vùng hắc ám.
Rồi chàng cũng trông thấy một tòa núi. Chàng chẳng biết tại sao tòa núi hiện lộ trước mắt chàng, trong khi chàng chăm chú nhìn thì không phát giác ra sự chi cả, đến lúc vô tình nó hiện ra sừng sững.
Qua màn hắc ám, thoạt đầu, chàng thấy núi lờ mờ, bỗng chốc nó hiện lộ ra rất rõ ràng.
Một hòn núi đặc biệt, không giống như các hòn núi khác trên thế gian nầy!
Tiếng chim vang lên, song chẳng có chim.
Hương hoa phảng phất, song chẳng có hoa.
Thế thì chàng thấy gì? Điều chàng thấy, thật khó mà tin, song bắt buộc chàng phải tin, bởi nó sờ sờ trước mắt kia! Một quả núi cấu tạo bằng xương trắng!
Một tòa bạch cốt sơn!
Xương bất đồng hình thể, có thứ xương từ đoạn, tay chân, đầu lâu, có thứ xương nguyên hình người.
Núi không cao lắm, nhưng lại rộng. Chàng chỉ thấy một mặt thôi, còn mặt đối chiếu thì chẳng rõ trải lan ra đến bao nhiêu dặm dài nữa!
Chỉ thấy một hòn núi xương thôi, ai ai cũng phải rợn lạnh mình. Huống hồ, trên đỉnh núi, phiêu phưởng những âm hồn?
Phiêu phưởng, tự nhiên xê dịch, mà hồn xê dịch, trông như một cái chợ ma!
Quan Sơn Nguyệt chưa từng trông thấy quỷ mà chàng cũng không tin trên đời có quỷ. Không tin có quỷ, thì những hình ảnh kia là gì? Chàng dùng tiếng gì để gọi những hình ảnh có ngoài hai tiếng quỷ, ma?
Phải là ma, quỷ hay không, thì chẳng biết điều chắc chắn là chẳng phải con người sống!
Tiếng chim bây giờ cũng biến đổi, không còn êm tay nữa, chàng nghe như tiếng ma gào, quỷ khóc.
Hương hoa cũng biến thành mùi tanh thúi nực nồng.
Chàng có cảm tưởng mình lạc lõng vào một vùng cổ mộ, nơi đây người ta không chôn xác chết, mà chỉ chất thành đống, để mặc các xác rữa thịt, rả xương theo năm tháng trôi qua.
Quan sơn Nguyệt không sợ hãi đến hôn mê, song cái đũng khi giúp chàng tiến tới, hầu như tan biết mất rồi.
Khi ý tưởng quay mình trở lại chợt hiện trong tâm tư chàng, thì chàng thấy một mảnh gỗ, trên gỗ có hai hàng chữ:
«Âm dương giới vô hồi đấu lộ, Vạn Kiếp hỏa luyện bất tử thân.» Quan Sơn Nguyệt giật mình, nhìn đôi hàng chữ, suy nghĩ miên man, qua một lúc rất lâu, chàng vẫn chưa tìm được ý nghĩa chính xác. Bất quá, chàng nhận thức sơ khai là mình đang ở trong cảnh giới thứ hai của Hắc Ngục Vong Hồn vậy thôi.
Đến cảnh giới nầy, chàng còn trải qua một cuộc trắc nghiệm dũng khí, giả như chàng quá hãi hùng trước những hiện tượng quái đản, rồi bỏ cuộc trở ra, thì đành là có sự mất mặt, song sự mất mặt chẳng đáng kể, điều quan trọng là chàng không cứu được người.
Người chàng định cứu đây, là Thương Nhân, nếu chàng bỏ cuộc là Thương Nhân phải chết. Chàng chẳng có trách nhiệm gì về cái chết của Thương Nhân, nếu cái chết đó đến với y.
Song, biết rằng sự sống chết của một con người ở trong tay chàng, thế mà chàng dửng dưng được, bỏ rơi được con người lâm nạn, thì có khác gì chàng giết y? Và chàng còn đâu cái lòng nhân mà chàng từng tự hào?
Ý niệm quay trở lại tan biến ngay, chàng bất chấp việc gì sẽ xảy ra trong những bước đường sẽ tới, cứ đi, đi thẳng, mạnh dạn mà đi. Vả lại, biết đâu con đường trở lại chẳng nguy hiểm hơn đoạn đường đi tới? Bởi, chàng không đến đổi quá ngu mà chẳng hiểu là người ta bố trí cái dễ để dụ dẫn chàng đi vào, sau đó người ta sẽ giăng mắc cạm bẫy để ngăn lắp con đường ra. Và muốn thoát đi, lối thoát hiển nhiên ở trước mặt, chứ đường lùi thì nhất định là bị đoạn hậu rồi.
Hiểm tượng đầu tiên dọa khiếp chàng là những âm hồn đang phiêu phưởng trên đỉnh bạch cốt sơn kia.
Nhưng, chàng không tin là những âm hồn đó sẽ gây tổn hại chi cho chàng nổi.
Chàng thở một hơi dài không khí, đặt tay lên chuỗi trường kiếm đeo nơi hông, ngực ưởn ra, giẫm chân lên những lớp xương chất thành nấc thang, từ từ tiến lên.
Chàng thong thả bước đi, không lâu lắm, lên đến đỉnh, chen mình giữa đám u linh.
Những u linh chừng như kinh hoàng trước sự hiện diện của chàng, chúng nhốn nháo lăng xăng quanh mình chàng, mường tượng tìm đường ẩn tránh.
Đúng như vậy, Quan Sơn Nguyệt đi tới, chàng đi đến đâu thì âm hồn nơi đó tản mác ra, chúng xô đẩy dồn ép nhau mà tránh, có những âm hồn chậm chạp, yếu đối, không chịu đựng nổi, phải ngã nhào.
Tuy nhiên, dù chúng chạy nhảy xô đẩy, ép dồn nhau, hay ngã xuống, chung quy vẫn phiêu phưởng trên không gian. Chúng chẳng hề chạm đất.
Cũng có một vài u linh, bị «đồng loại» hất văng xa xa, rơi theo triền núi xương, những u linh đó bật kêu như người sống, thê thảm, hãi hùng, chúng chưa rơi đến đất là biến thành những vãng khói, gió nhẹ lướt qua, quét tan những vãng khói đó ngay.
Quan Sơn Nguyệt hết sức lấy làm lạ. Ma, quỷ là cái gì mà phần đông thiên hạ sợ hãi, cho dù cái thứ ma quỷ sợ ngược lại người đi nữa, thì ma quỷ đó lẻ loi, đơn độc, chứ khi chúng tụ họp thành đàn, thì âm hồn nầy sợ còn có âm hồn kia không sợ, chúng nương tựa nhau, chúng uy hiếp người sống như thường.
Sao lại có thứ âm hồn sợ người? Trong khi người lại đơn côi cô độc? Giả như sợ, thì bất quá chúng tản ra xa xa, chẳng dám gần chàng vậy thôi, cớ sao chúng mãi chạy tán loạn như thế? Chạy đến đổi giẫm bừa lên nhau, xô lấn nhau như giành cái sống? Rồi tại sao chúng kêu gào thê thảm, tỏ rõ sự khủng kiếp cực độ?
Những âm hồn tại đây gồm đủ những hạng tuổi, từ thiếu nhi đến lão nhược.
Âm hồn bị xô đẩy phải văng đi, là những âm hồn già nua, yếu đuối, hoặc những thiếu nhi không đủ sức chịu đựng trước những làn sóng tản mác của hạng tráng niên.
Âm hồn nào bị rơi xuống triền rối là phải tiêu tan, điều đó câm như một cảnh chết, có khác chăng là cái chết đó của những âm hồn, của những kẻ đã chết một lần rồi.
Muốn truy nguyên sự tình, Quan Sơn Nguyệt nhận thấy chàng cần tiếp cận đám u linh.
Như đã nói, chàng làm sao tiếp cận chúng được, bởi chàng đi đến đâu là chúng tản mác nhanh nơi đó. Cứ mỗi lần chúng tản mác như vậy là có mấy âm hồn tan biến. Chàng càng muốn tiếp cận chúng, càng gây nên «chết chóc» cho một vài âm hồn. Dù là cái chết của hồn ma, phách quỷ, Quan Sơn Nguyệt vẫn bất nhẫn như thường.
Tại tòa núi do xương trắng chất thành đống cấu tạo nên, có rất nhiều âm hồn chen chúc vào nhau, hầu như không còn một lỗ hở nào giữa nhau cả. Chỉ vì chàng xuất hiện nơi đó, mà một số âm hồn phải bị hủy diệt.
Đại khái thì cái kết luận của chàng như vậy trước hiện hình, và chàng nhận thấy là chẳng một âm hồn nào chịu để mình rơi xuống triền núi, mà cũng chẳng muốn tiếp cận với chàng.
Tuy âm hồn không còn sanh mạng nữa, nhưng chúng cũng không muốn bị hủy diệt, nên phải tranh nhau thành ra cường tráng thì còn vững vàng, mà suy nhược thì rơi xuống để rồi tan biến.
Dù là âm hồn, khi âm hồn biết sợ hủy diệt, và không tránh khỏi bị hủy diệt, thì cái cảnh đó tính cũng đáng thương hại lắm. Nhất là những âm hồn tan biến vì sự xuất hiện của chàng lại là những âm hồn suy yếu, vô thế, vô năng, những âm hồn cần được bảo vệ hơn tất cả.
Lòng nhân nào không nhắm vào những kẻ vô thế năng trước nhất? Bởi trong số những người đáng thương hại, thì kể yếu đuối đáng được kẻ chuyên tâm hành thiện lưu ý đến nhiều hơn người còn một vài phương tiện tự túc, tự vệ.
Quan Sơn Nguyệt không nỡ đi tới nữa, vừa dừng chân lại, chàng hỏi liền:
– Các âm hồn có thể nói năng chăng?
Âm hồn là những cái bóng, thì làm sao nghe được làm sao nói được? Vì khẩn cấp mà chàng mất sáng suốt, buông một câu hỏi ngây ngô.
Ngờ đâu, bên cạnh chàng, một âm thinh suy nhược vang lên:
– Được!
Quan Sơn Nguyệt giật mình.
Tuy nhiên, chàng chưa tin hẳn là âm hồn phát ngôn được. Chàng lập lại câu hỏi:
– Các ngươi nói tròn câu chuyện được chăng? Các ngươi có thể nghe tròn câu nói của ta chăng?
Âm thinh đó đáp:
– Tròn.
Quan Sơn Nguyệt gấp giọng:
– Các ngươi thực sự là cái gì?
Cái gì là sao? Có lẽ chàng muốn hỏi, thực sự các ngươi là ma, hay quỷ là người còn sống, nhưng chàng tóm lược bao nhiêu ý tứ vào một câu gọn, thành ra mơ hồ quá.
Thinh âm đó thở dài:
– Những u linh vạn kiếp bất thường! Vạn kiếp không hề bị thương tổn.
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Có thật những u hồn mãi mãi tồn tại trên thế gian sao?
Âm thinh đó tiếp nối với tiềm thê lương:
– Sự thật trước mắt đó ngươi không mục kích sao mà còn hỏi?
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút:
– Do đâu, các ngươi tụ hội tại đây?
Âm thinh đó đáp:
– Xác chôn ở đâu, u hồn tụ ở đó, chôn xác là phần việc của người sống, chúng ta không thể chọn lựa cho mình một chỗ nào. Thì cái việc chúng ta đồng quy tụ tại đây, không thuộc chủ trương của chúng ta, như vậy câu hỏi của ngươi không giải đáp được. Chúng ta chỉ yêu cầu ngươi đừng theo đuổi mà làm hại chúng ta thôi.
Quan Sơn Nguyệt kêu lên:
– Ta làm hại các ngươi?
Âm thinh đó tiếp:
– Phải! Ngươi là người sống, chúng là những u hồn, những kẻ đã chết đi rồi, còn phiêu phưởng lại trần gian một bóng mờ. U minh cách biệt, sanh tử phân chia, người sống nơi mình có thứ lửa tam muội. Thứ lửa đó chạm đến là u hồn phải tan biến.
Quan Sơn Nguyệt mới hiểu tại sao những u hồn sợ chàng như thế.
Thì ra, chúng sợ tam muội hỏa, chạm vào chúng là chúng ta biến ngay.
Chàng suy nghĩ một chút, thốt:
– Các ngươi sợ người sống, thế sao không tìm một nơi u tịnh mà ẩn nấp?
Âm thinh đó thở dài:
– Hồn không xa xác, xác chôn tại đâu, hồn phải ở đó. Xác là nơi hồn nương tựa, bỏ đi rồi là lạc lõng bơ vơ, hà huống ly khai nơi nầy là hồn tiêu, phách tán.
Thì làm sao đi tìm một nơi u tịnh? Ngươi chẳng thấy, chẳng nghe đó sao. Những u hồn chạm vào người của ngươi, bị văng ra khỏi núi, gió mạnh quét qua hồn tan phách biến liền. Hồn phách vừa tan, u hồn vẫn kêu than thê thảm dù biết có kêu lên cũng chẳng ích gì ... Thì làm sao chúng ta rời khỏi nơi nầy được, để tìm một nơi ngàn năm chẳng có bóng sanh nhân?
Quan Sơn Nguyệt núi lặng một lúc lâu, rồi hỏi tiếp:
– Các ngươi ở tại đây độ bao nhiêu thời gian rồi?
Âm thinh đáp:
– Bao lâu thì không nhớ rõ, nhưng chắc chắn là từ khi chết đến nay. Nơi đây, không có năm tháng ngày giờ, không đêm không ngày, vĩnh viễn là một khung cảnh mông lung, huyền ảo. Trong một khung cảnh mông lung, huyền ảo như thế, còn ai giữ được ấn tượng thời gian?
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Trước, các ngươi không biết đã ở tại đây được bao lâu rồi, nhưng sau các ngươi sẽ còn ở độ bao lâu nữa?
Âm thinh đó đáp:
– Làm sao ta biết được điều đó? Ta không đoán nổi đến thời gian nào thì xương trắng của ta tiêu tan, hồn phách của ta tiêu tan.
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Thế là các ngươi phải ở lại đây chờ đến ngày hủy diệt?
Âm thinh đáp:
– Phải. Người chết đi, còn hồn, hồn chết nữa thì «thần» mới diệt. Thần diệt là «siêu». Có siêu mới trở lại cõi đời. Vòng luân chuyền là vậy đó.
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc, điểm một nụ cười, hỏi:
– Ta không giống các ngươi à?
Thinh âm đó cười lạnh một tiếng, đáp:
– Trên đời, làm gì có thần tiên trường sanh bất tử chứ? Những cái đó do con người thêu dệt ra để lừa gạt người, chắc ngươi từng nghe chuyện của Lữ Nham, Trương Tần, họ được thiên hạ từ nhiều thế hệ qua thần thánh hóa, song tất cả đều có mặt tai đây.
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Ở đây?
Thinh âm đáp:
– Xa thì xa nghìn vạn dặm tận chân trời, gần thì gần bên đây trước mắt chúng ta.
Quan Sơn Nguyệt kinh hãi, hỏi:
– Ngươi là Lữ Thuần Dương sao?
Thinh âm thở dài:
– Lúc sống, ta lấy hiệu là Sơn Nham đạo nhân, học được trò ảo thuật mà con mắt, mê loạn tâm thần, quy tụ được bảy bằng hữu, cộng thành một nhóm tám người, cùng nhau du hí khắp nhân gian, lưu lại cái tên là Bát Tiên, thực sự cái việc đó chỉ là việc khi người, mà cũng tự khi luôn, trong số có ta và Trương Quả Lão có vận khí tốt hơn hết, nên xương tàn được nằm yên giữa lòng núi, không hứng chịu phong sương mài giũa, xâm nhiễm, nhờ thế mà hồn còn kết tụ chưa tan biến như phần đông. Sáu người kia đều tan biến cả rồi, tan biến lẫn cả hình xương và phách quỷ.
Quan Sơn Nguyệt sững sờ, lâu lắm mới thốt:
– Điều đó ... khó mà làm cho con người tin tưởng ...
Thinh âm tiếp:
– Ta lấy sự chứng nghiệm của bản thân, nói cho ngươi nghe tại sao ngươi chưa hiểu rõ?
Quan Sơn Nguyệt sửa chữa câu nói:
– Thực sự, chẳng phải ta không tin, có điều ta nghĩ, những gì người vừa nói có vẻ kỳ quái hết sức. Đã là Bát Tiên, các ngươi thuộc về thời cổ, các ngươi đã chết ít nhất trên ngàn năm rồi, thế tại sao còn ở lại nơi nầy? Và làm gì thứ xương trải qua ngàn năm mà vẫn tồn tại?
Thinh âm cười nhẹ:
– Bọn ta là những kẻ học đạo, tự nhiên phải biết cách chọn đất chôn xương, và tự nhiên phải chọn cho mình một khoảnh đất tốt, nhờ thế mà giữ được hồn tàn cốt rủ đến ngày nay. Dù không được trường cửu, ít nhất cũng dài lâu hơn người thường.
Quan Sơn Nguyệt hỏi:
– Như vậy, thì sớm muộn gì cũng đi đến chỗ hủy diệt, tiên sư lưu lại hồn tàn cốt rủ đó để làm gì? Cố giữ gìn cho những thứ đó bất diệt, hẳn cũng phải có một dụng ý chứ?
Chàng thay thái độ, đổi cách xưng hô, dù không tin con người đối thoại là bậc thần tiên, ít ra cũng hiểu con người đó có một niên kỷ khá cao.
Thinh âm thở dài liên tiếp mấy lượt, đoạn đáp:
– Ngươi vừa nêu một vấn đề, cho rằng một vấn đề ngu cũng được, mà là thông minh cũng được. Ta đây, dù mang tiếng là bậc thần tiên, cũng chẳng đáp nổi câu hỏi của ngươi. Ta chỉ có thể hỏi lại ngươi một câu, ngươi đáp được câu hỏi của ta, là cầm như ngươi thấu triệt phần nào vấn đề đang thành hình trong tâm não của ngươi.
Quan Sơn Nguyệt buông nhanh:
– Tiên sư cứ chỉ giáo.
Thinh âm nín lặng một lúc lâu, đoạn cất tiếng hỏi:
– Con người, ai cũng biết là mình phải chết và cái chết đến vội đến vàng, thế tại sao ai ai cũng muốn sống, càng sống dai càng thích chí?
Quan Sơn Nguyệt đáp vu vơ:
– Chỉ vì ở cảnh sống có những cái mà người ta lưu luyến, không đành dứt khoát để ra đi.
Thinh âm tiếp:
– Thì bao nhiêu u hồn tại Bạch Cốt Sơn nầy cũng vì cái lý do đó mà không muốn bị hủy diệt.
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– U hồn khác với người sống, u hồn đâu có hưởng những lạc thú nhân sanh, thì còn gì mà lưu luyến?
Thinh âm tiếp:
– Ngươi nói thế là sai. Đành rằng người sống mới hưởng thọ lạc thú, người chết không còn được hưởng lạc thú nữa. Nhưng dù cho đã chết đi, u hồn vẫn chưa tan, thì ký ức vẫn còn đeo đuổi theo u hồn, chính cái ký ức đó gieo niềm lưu luyến xa xăm, không hưởng thọ thực sự, u hồn vẫn hồi tưởng, luôn luôn man mác mơ hoài.
Quan Sơn Nguyệt suy tư một lúc lâu, trầm giọng thốt:
– Đời là biển khổ, mang xác thân lạc lõng giữa dòng đời, là chịu những cái khổ triền miên tiếp nối. Thì chết đi là giải thoát. Nhưng chết là sự giải thoát xác thân, u hồn vẫn khổ trong giới cảnh lung linh, khi nào u hồn tiêu diệt, thì lúc đó mới được giải thoát hoàn toàn. Cho nên, tại hạ nghĩ sống không bằng chết, chết không bằng thần hồn tan diệt. Bởi tan diệt là sự giải thoát hoàn toàn ...
Quan Sơn Nguyệt chưa dứt câu, thinh âm chận lại, cười mấy tiếng:
– Ta luận theo người chết, ngươi đứng trong cương vị người sống mà đối thoại, tự nhiên khó gây niềm thông cảm với nhau. Ta thì không thể sống lại rồi, để song phương cùng ở trong một trường hợp, vậy ngươi hãy chờ đến lúc tắt thở, ngươi trở thành một u hồn như ta, lúc đó ngươi sẽ có một suy tưởng khác biệt hẳn lý luận hiện tại của ngươi. Ở đây cũng có rất nhiều cao tăng phật môn, lúc sống họ cũng lập luận như ngươi, nhưng sau khi chết rồi ...
Quan Sơn Nguyệt hỏi:
– Rồi sao?
Thinh âm cười, đáp:
– Sau khi chết rồi, họ đều hối tiếc lúc sống đã bỏ trôi khoảng thời gian kiếp đời trong hư không, họ tưởng tượng những lạc thú mà người ngoài tục hưởng thọ, họ muốn sống trở lại để làm như mọi người hưởng thọ, lấp bằng cái trống không của kiếp đời với tất cả mọi niềm vui hoan lạc. Sống trở lại không được, họ cầu mong được hủy diệt nhanh chóng, để sự hối tiếc không ray rứt vầy vò liên tục.
Hiện tại thì họ khổ sở vô cùng. Chính cái cảnh nầy là khổ hải của họ, chứ chẳng phải lúc sống trên đời đâu.
Quan Sơn Nguyệt suy tư một lúc:
– Tại sao lại cầu mong hủy diệt mà không được? Có một cách rất giản dị cho họ là cứ nhẩy ra khỏi tòa Bạch cốt sơn này, gió từ xa cuốn về quét tan u hồn của họ. Họ chẳng hiểu được cái lẽ giản dị đó sao?
Thinh âm lại cười khổ, giải thích:
– Ở đây, không u hồn nào lại chẳng biết lẽ giản dị đó. Có điều, u hồn hội đủ phương tiện làm thì lại không muốn làm, còn những u hồn muốn làm lại không nắm được phương tiện để làm. U hồn có phương tiện là những u hồn ở vòng ngoài, họ muốn nhảy, cứ nhảy xuống triền, chẳng gây xáo trộn gì cho u hồn nào ở bên trong cả. Những u hồn kém phương tiện là những u hồn ở tận trong lòng núi, nếu nhích động thì phải làm xáo trộn đồng loại ở vòng ngoài, hơn nữa vượt đi rồi là gây khoảng trống, ngay tại lòng núi, mà ở đây thì không thể có những khoảng trống, vì lòng núi trống rỗng thì cả tòa núi phải sụp đổ, bao nhiêu u hồn phải bị hủy diệt, sự kiện đó, bọn ta chẳng ai muốn có xảy ra.
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:
– Đã biết u hồn tiêu tán là giải thoát, thế mà các vị không tạo cơ hội cho toàn thể giải thoát bằng chính sự tự giải thoát của mình, chẳng hóa ra các vị ích kỷ lắm sao?
Thinh âm thốt:
– Như ta đã nói, u hồn như kẻ sống, vẫn còn luyến tiếc mùi đời qua ký ức, do đó có một số đông chưa chịu hủy diệt để giải thoát. Ngươi chẳng thấy trên đời, có lắm người muốn chết, vì chán cái sống chán chường, nhưng họ không thể chết vì cái chết của họ sẽ gây tai hại cho những người chung quanh, hoặc những người có liên quan đến họ. Bọn ta vì tránh tai hại cho đồng loại mà không thể tự hủy diệt đó thôi. Bọn ta tự hủy diệt, để tìm giải thoát, trong khi phần đông còn luyến tiếc, chưa chịu hủy diệt như bọn ta, thì hành động đó cầm như vô nhân đạo.
Quan Sơn Nguyệt suy lời thinh âm, xét đến mình, trọn đời chàng, chàng chưa hưởng được một lạc thú nào, là vì chàng mãi lo giúp cho bao nhiêu kẻ khác được sinh tồn. Thì, trách làm sao được u hồn kia có thể giải thoát được nhưng vẫn giam mình trong cảnh khổ? Sự hủy diệt của họ sẽ gây bất mãn, oán hận nơi đồng loại, nên họ nhẫn nhục, mà không thể làm theo ý muốn được.
Chàng thở ra, thốt:
– Không ngờ trong cảnh chết vẫn còn có lụy phiền như vậy. Sau nầy có chết đi, tại hạ tìm cách chết sao cho âm hồn tiêu tán luôn cùng một lúc với thể xác.
U hồn đó thoáng giật mình, thốt:
– Người còn thanh thiếu, tại sao lại sớm bi thương vơ vẩn? Ngày trời còn nhiều, phải bám lấy sự sống mà hưởng thọ mọi lạc thú nhân sinh, giả như ngươi có điều bất mãn, thì ngươi cũng có thể san bằng với thời gian thừa thãi. Nghe ta đi, cứ hưởng những cái gì sẵn có, đồng thời tìm những cái chưa có mà hưởng nốt, hưởng thật nhiều, sau nầy khi trở thành một u hồn như ta, thì ngươi sẽ được khoan khoái mà hưởng thụ lại một lần nữa, bằng ký ức, cho dù không thực tế, ngươi cũng thấy sướng như thường.
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Tiên sanh chừng như có ít nhiều thiên kiến, mỗi con người đều có một xử cảnh riêng biệt, trong xử cảnh khác nhau, con người không thể hành động như nhau, duy trì một tư tưởng giống nhau, do đó thành quả trên trường đời cũng chẳng giống nhau, và dĩ nhiên những thành quả đó có nhiều sắc thái như vui buồn, sướng khổ, cay đắng, ngọt thơm ...
U hồn nín lặng một chút:
– Thôi được! Ta cũng không dư hơi đâu mà tranh luận với ngươi dông dài, chúng ta mỗi người mỗi cảnh, dương thì ta có trải qua rồi, hiện tại ta ở trong cảnh âm, mà người cũng không hiểu nổi. Ta chỉ khuyên ngươi một điều, là ngươi nên cẩn thận trong bước đường sắp tới, đừng bao giờ xung chạm làm tiêu tán u hồn của lão hòa thượng phía trước đó nhé.
Quan Sơn Nguyệt đáp ứng:
– Tiên sanh yên trí, tại hạ ghi nhớ lời tiên sanh dặn dò.
U hồn lại tiếp:
– Ngươi không có ý xung tán họ, chưa phải là đủ, ngươi còn cần cẩn thận hơn nữa, là rất có thể họ tìm ngươi mà chạm vào để mong được giải thoát. Vậy ngươi phải lưu ý tránh xa, thật xa họ nhé. Ngươi không tâm đụng họ, họ lại tìm đụng ngươi, thì cái hậu quả tai hại cho bọn ta đây do bên nầy hay bên kia gây ra, cũng đồng dạng thôi.
Quan Sơn Nguyệt kêu lên:
– Thế thì tại hạ phải làm sao đây? Dường như tiên sanh có nói là họ bị các u hồn khác bao quanh mà? Họ đâu có thể tự tiện xông ra mà đụng chạm vào tại hạ?
U hồn đáp:
– Sự tình là vậy đó, song khi ngươi đi tới, những u hồn chưa muốn giải thoát, phải né tránh ngươi, bọn hòa thượng kia nhân dịp đó xông ra, điều ấy họ làm rất dễ vì vòng vây bên ngoài đã tan vỡ, không còn cái gì ngăn trở họ nữa. Kẻ tránh người, chạy đi, bỏ khoảng trống cho kẻ muốn đụng chạm ngươi. Huống chi, vị trí của họ lại nằm ngay trên lộ trình của ngươi. Chỉ còn có cách là ngươi phải thay đổi đường đi lối bước, thay vì thẳng tiến, thì phải đi vòng quanh.
Quan Sơn Nguyệt vội hỏi:
– Còn có đường khác nữa sao?
U hồn đáp:
– Còn. Ngươi hãy đi vòng theo triền núi, ngươi sẽ không đụng chạm với họ.
Quan Sơn Nguyệt nhìn ra, theo con đường do u hồn vừa chỉ, thấy các u hồn nơi đó đều là yếu đuối, gồm lão nhược, phụ nữ, trẻ con. Họ nghe u hồn đối thoại với chàng vừa bảo như vậy, tất cả đều kêu la, than khóc ồn ào, khó chịu hết sức.
Rồi âm phong từ bốn phía vốc lên, âm phong không mạnh song thê thảm phi thường. Quan Sơn Nguyệt bất nhẫn đáp:
– Nếu tại hạ theo đường đó mà đi tới, thì những u hồn bạc nhược kia khó tránh được hủy diệt ...
U hồn đối thoại đáp:
– Chỉ còn có cách đó thôi. Ngươi không theo con đường ấy thì bắt buộc phải xẻ núi xuyên lối mà đi. Ta không còn biện pháp nào giúp ngươi nữa. Phàm con người sống, ai ai cũng gặp hoặc hữu hạnh, hoặc bất hạnh, thì u hồn cũng thế, tất cả đều khổ không bằng một nhóm người nhỏ khổ, nói một cách khác hy sinh một phần nhỏ, tránh hủy diệt toàn thể. Thì, điều bất hạnh của một nhóm nhỏ sẽ là sự đại hạnh của mốt số lớn lao.
Quan Sơn Nguyệt nổi giận, trách:
– Tiên sư lúc sống, được mọi người trọng vọng, tôn sùng, sao lúc chết đi lại nói năng vô nhân phi đạo như vậy? Phàm ai có lòng nhân, thì đối xử trong mọi trường hợp, cũng phải căn cứ vào nhân đạo chứ, có đâu tính toán, cân phân chú trọng đến sự hữu ích lớn mà dám làm những điều vô nhân đạo nhỏ? Tội ác là tội ác, lớn nhỏ gì cũng là tội ác, đâu có chuyện hủy diệt số nhỏ để bảo gìn số lớn?
Thật là bất cận nhân tình! Thật là tự tư!
U hồn đối thoại cười nhẹ:
– Lúc làm người sống, thì ta rất chú trọng đến nhân tình, nhưng khi trở thành một u hồn, tự ta ta chưa đủ sức bảo vệ ta, thì ta còn tâm tư đâu lại lo liệu cho kẻ khác chứ? Ở đây, không ai lo sợ cho cái họa của kẻ khác, cũng như không tìm cái phúc cho kẻ khác. Ở đây, thiếu hẳn tình tương thân tương trợ, mà chỉ có cạnh tranh thôi.
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:
– Mặc dù tiên sanh nói gì, tại hạ không thể làm như vậy được.
U hồn đối thoại hỏi:
– Thế người định làm như thế nào?
Quan Sơn Nguyệt đáp:
– Tại hạ quay đầu, trở lại con đường cũ, hạ sơn ...
U hồn kêu lên kinh hoàng:
– Đừng! Ngàn vạn lần, ngươi không nên làm như vậy!
Quan Sơn Nguyệt nổi giận:
– Tại sao chứ? Tại hạ không muốn đụng chạm đến các vị thì tại hạ trở lại.
Có cái gì ngăn trở, không cho tại hạ trở lại?
U hồn rung rung giọng tiếp:
– Không có cái gì ngăn trở được người, song ngươi không thể trở lại. Lúc vào đây, ngươi chẳng nhìn kỹ tấm mộc bài à? Mộc bài ghi mấy chữ:
«Âm dương giới vô hồi đấu lộ», quá rõ ràng kia mà! Người đã lên núi rồi, thì không còn quay đầu được nữa. Rằng ngươi cương lý, trở lại thì đúng là ngươi hại bọn ta đó.
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Tiên sư nói cái gì thế? Tại hạ chẳng hiểu nỗi.
U hồn thở dài:
– Dưới chân Bạch Cốt Sơn, có một thứ lửa ngầm ngầm từ muôn đời, lửa đó cái tên là Kiếp Hỏa, bởi lâu năm người ta gọi là Vạn Niên Kiếp Hỏa, ngươi trở lại là lửa đó bốc bừng lên liền. Chính ngươi cũng bị chôn vùi trong biển lửa đó, nói chi đến bọn ta là những u hồn, từ lâu phưởng phất tại đây với niềm sợ hãi triền miên trước mọi đe dọa bốc cháy của những ngọn lửa đó.
Quan Sơn Nguyệt sững sờ. Một lúc lâu, chàng hỏi:
– Tới không được, lui không xong, thế tại hạ phải làm sao đây?
U hồn suy tư một phút, đáp:
– Ta không dám bày biểu chi cho ngươi cả. Vậy ngươi cứ tùy tiện mà hành động.
Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:
– Giả như tại hạ rút kiếm, tự chém chết mình, điều đó có được chăng?
U hồn đáp:
– Được chứ! Bất quá, bọn ta đâu dám yêu cầu ngươi làm một việc như vậy?
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Tại sao?
U hồn giải thích:
– Nếu ngươi chết tại đây, tự nhiên không có người thu liệm thi hài của ngươi, thi hài đó phải bộc lộ trước phong sương, chim chóc sẻ mỗ, rỉa ngươi sẽ cảm thấy đau đớn khổ sở phi thường.
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Người chết rồi, thì cảm giác cũng tiêu tan, còn biết gì mà thê rằng đau khổ.
U hồn cười nhẹ:
– Ngươi lại nói lẩn quẩn nữa rồi. Ta đã giải thích cho ngươi hiểu đại khái rồi mà! Xác ở đâu, hồn ở đó, hồn xương xác, nêu niềm thống khổ đến với ngươi, xác không cảm giác như hồn bị xúc động như thường. Tóm lại, ngươi không đau xác, mà ngươi lại đau hồn. Ngươi hiểu rõ chưa?
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc nữa:
– Ngoài phương pháp đó, tại hạ đành chịu, chẳng biết phải làm sao bây giờ.
U hồn thốt:
– Ta thấy cần phải nhắc lại ngươi một lần nữa, toàn diện khổ không bằng phiến diện khổ. Toàn thể khóc, tự nhiên phải thê thảm hơn một nhóm người khóc.
Nếu bắt buộc ngươi phải gây khóc hận thì dù sao ngươi cũng tránh gây hại cho số đông, và nhắm vào số ít. Vậy ngươi nên đi theo triền núi, như ta đã chỉ, bất đắc dĩ mà ngươi chạm phải số ít, thì cũng đành thôi, ngược lại, ngươi cứu được số nhiều.
Quan Sơn Nguyệt lộ vẻ trang nghiêm, cương quyết thốt:
– Toàn diện khổ, không bằng phiến diện khổ, phiến diện khổ không bằng cá nhân khổ. Tại hạ thấy phương pháp đó hữu hiệu hơn hết.
Những u hồn bao quanh chàng, lúc đó tản mác ra, trừ một Lữ Nham. Lữ Nham thốt:
– Sự quyết tâm của ngươi, bọn ta rất hoan nghinh, bất quá khi ngươi tự sát, thì ngươi nên hành động từ từ, ngươi tự cắt chầm chậm, thì máu chỉ rỉ ra chứ không phún vọt thành tia dài, vấy cả hình hài của bọn ta. Ngươi biết không, nếu bọn ta vấy máu của ngươi, thì dù muốn dù không cũng phải chia sớt niềm đau của ngươi sau khi chết, mình đã quá khổ vì chính mình, lại còn phải chia sớt gánh chịu thêm phần của kẻ khác, thì kể ra cũng bất công đấy chứ. Ta nghĩ, ngươi đâu có muốn gây khổ cho bọn ta?
Bây giờ, Quan Sơn Nguyệt mới biết tại sao các u hồn đều tản mác ra xa xa, cả Lữ Nham thốt xong câu cũng bước tránh ra ngoài. Quan Sơn Nguyệt căm hận, gằn từng tiếng:
– Các vị đã chết rồi mà vẫn còn giữ lòng tự tư, tự lợi, như thế đâu đáng cho tại hạ phải thận trọng?
U hồn cười mỉa, đáp:
– Tự ngươi muốn vậy, nào ai yêu cầu, thúc giục ngươi đâu? Có điều, người chết đi, cũng đừng nên di lụy cho người khác. Đã chết rồi mà còn hại được người khác, thì quả thật ác độc cùng cực đó nhé!
Quan Sơn Nguyệt thở dài, từ từ rút kiếm, từ từ cắt ngang qua yết hầu. Niềm đau từ từ xâm chiếm, từ chỗ bị cắt lan dần khắp thân thể. Cuối cùng, niềm đau hành hạ quá mạnh, chàng suýt hôn mê mấy lượt.
U hồn bất mãn, thốt:
– Một vết thương, không đủ! Ngươi phải cắt thêm mấy chỗ nữa đi, cho máu phân tán theo các vết thương mà chảy ra, máu tản mác tất nhiên chảy yếu. Máu chảy yếu, có lợi cho bọn ta nhiều. Ta nghỉ, ngươi đâu có lòng nào gây hại cho bọn ta?
Quan Sơn Nguyệt không nói thêm tiếng gì nữa, rút thanh trường kiếm khỏi vết thương, rồi xốc ngược mũi kiếm, cố chịu đau, đâm thốc vào mấy yếu huyệt trên mình chàng.
U hồn cất tiếng chỉ thị chàng:
– Đâm cạn cạn một chút, như vậy vết thương mới không lớn, ngươi cảm thấy ít đau, còn có thể vận khí ngăn chậm máu chảy được thế là hay lắm. Ngươi cắn răng cố gượng đi, khi nào gây được hơn mười vết thương rồi, sẽ buông lơi huyết mạch, ngươi có thể chết gấp như ý muốn, mà máu của ngươi cũng không bắn vọt quá xa, không gây tai hại gì cho bọn ta. Làm nhanh đi!
Thực sự, Quan Sơn Nguyệt cảm thấy đau đớn cực độ, song không thể không làm, chàng tự cắt cứa, đâm vào mình như tự thi hành một bản án lăng trì.
Thử hỏi, có ai gan lỳ như chàng vậy chăng?
Trước sau, chàng chẳng hề rên xiết, chàng cảm giác cái chết từ từ đánh đuổi sanh lực nơi chàng, xâm chiếm cơ thể chàng dần dần.
Chàng nghe, bên tay văng vẳng tiếng cười đắc ý của đám u hồn.
Trong lúc niềm đau cực độ dầy vò, chỉ còn chờ cái chết đến với chàng, dù nó đến chậm xong rồi cũng sẽ đến, Quan Sơn Nguyệt cảm giác mình từ từ rời khỏi xác.
Chàng biết rõ, mình phải chết chắc chắn, và bây giờ đây thì đã chết rồi, chân chánh chết rồi. Bởi, chàng nhận ra cái xác của chàng đang ở trước mắt chàng, như vậy chàng và xác là hai, chứ không còn là một nữa.
Cái xác đó còn rỉ máu, máu rơi từng giọt, từng giọt xuống Bạch Cốt Sơn, mà Bạch Cốt Sơn chỉ là một gò cấu tạo thành do một đống xương trắng.
Chàng đưa mắt nhìn ra bốn phía, thấy đám u linh ùn ùn kéo tới, tuy vẫn còn giữ cái dáng dè dè, e sợ, chàng cảm thấy mình chẳng khác những u linh chút nào.
Rồi, những u linh đó từ từ bớt dè dặt, từ từ dạn di hơn. «Họ» đã hết sợ chàng rồi.
Chàng vẫn còn nghe, còn thấy được như thường, nhưng trừ cái xác của chàng ra, chàng chẳng thấy cái u linh của chàng như thế nào, trong con mắt chàng, u linh của chính chàng là một bóng mờ mờ, hư ảo.
Những u linh kia, đến gần chàng rồi, bao vây bốn phía, u linh nầy một câu, u linh kia mấy tiếng, cùng nhau bàn luận.
Họ thốt với nhau:
– Cái gã đó xem ra vẫn có lương tâm!
– Chắc là gã không thích sống nữa, sự sống không làm gã khoan khoái tí nào, nên gã định chết để tìm giải thoát. Gã có hiểu câu chết rồi không những chẳng giải thoát, mà còn đau khổ hơn nhiều. Rồi đây, chim chóc sẽ đến, rỉa thây gã, lúc đó gã sẽ biết.
– Đến cái lúc mà gã thọ tội, nhất định là gã sẽ kêu la, gã làm huyên náo lên.
Chẳng ai được yên tĩnh với gã đâu. Chúng ta nên lôi gã, quăng ra ngoài kia đi!
– Làm vậy coi sao được! Dù sao thì gã cũng có vì chúng ta.
– Cái gì mà được với không được? Sở dĩ chúng ta còn bảo trì u hồn tàn dư nầy, là vì còn tham vọng hưởng thọ bằng hồi ức, nếu còn gã ở bên cạnh, gã làm ồn lên, chúng ta hưởng thọ cái quái gì được nữa? Sự ồn ào của gã sẽ làm rối loạn hồi ức của chúng ta.
– Ta xem, tất cả chúng ta nên nhẫn nại một chút, không lâu lắm đâu, xác gã sẽ bị chim chóc ăn hết, cơ thể gã sẽ chỉ còn thừa lại những đoạn xương trắng, lúc đó đó gã sẽ hết thống khổ, tự nhiên gã không kêu la rên xiết nữa.
– Không được! Ai biết được là chúng ta còn tồn tại trên thế gian nầy bao nhiêu lâu nữa? Chúng ta không nên vì gã mà lãng phí những phút giây quý báu, cứ vất gã đi xa xa đi là hay hơn hết.
Chàng nghe cuộc đối thoại phảng phất vọng đến tai, rồi mông lung thấy mấy u linh đó túm lấy chàng, quăng đi xa xa nơi triền núi. Chàng cực lực vùng vẫy, song vô ích.
Khi các u linh đó sắp sửa buông tay, một âm thinh vang lên:
– Không được! Hiện tại, máu thịt của hắn chưa tan rã, phải chờ cho các thứ đó tan rã trước, rồi các ngươi mới có thể quăng hắn đi, như vậy thần khí của hắn có tiêu tan, cũng vô hại cho chúng ta. Nếu bây giờ các vị quăng vội vàng, thần khí tan trước, máu thịt chưa tan, sanh ra mùi hôi thúi, chúng ta không chịu nổi đâu.
Một u linh hỏi:
– Vậy chúng ta phải làm sao?
Âm thinh vừa ngăn chặn đó đáp:
– Cứ đưa hắn đến hiệp đoàn với bọn hòa thượng kia đi.
U linh tán thành:
– Phải! Đến đó rồi, hắn muốn gây uyên náo, cứ gây, bọn hòa thượng kia cố mà chịu đựng, chúng ta không còn phải khổ với hắn nữa.
Nhiều u linh phụ họa theo:
– Hay! Chủ ý đó được lắm!
Quan Sơn Nguyệt có cảm giác bị u linh đó đưa đi, và chẳng phản kháng được, chàng bi phẫn cực độ, oán khí bốc cao. Chàng vì u linh mà hy sanh, các u linh lại đối xử với chàng như vậy, thì còn nghĩa lý gì nữa chứ? Cái bọn u hồn nầy, quả thật vong ân bạc nghĩa, tự lợi tự tư quá chừng.
Bỗng, một luồng hơi ấm bay qua chạm vào ngực chàng.
Tức khắc, chàng khôi phục vũ công, việc làm trước nhất của chàng là vung hai cánh tay, thoát khỏi sự cưỡng chế của các u linh.
Hai u linh qua phản ứng của chàng, ngã nhào, họ cũng kêu lên:
– Không xong! Hắn chết rồi, mà cũng tồn mang vũ công theo nữa chứ!
Một u linh khác tiếp nói:
– Lỗi tại chúng ta! Chàng ta muốn cho hắn chết gấp, nên mới có việc đó.
Bây giờ, hắn trở thành một con quỷ dữ, chúng ta sẽ thảm khổ vì hắn từ đây!
Rồi có mấy u hồn quỳ xuống trước mặt chàng, van cầu:
– Chúng ta không hề xung phạm đến ngươi đó nhé, sự tình đó do Lữ Nham bày biểu, ngươi muốn báo phục thì hãy tìm Lữ Nham mà làm chi thì làm, chúng ta không liên can.
Lữ Thuần Dương thốt:
– Thật các ngươi chẳng có chút lương tâm nào? Ta uốn ba tấc lưỡi, nói đến khan cổ khô môi, mới khuyên hắn từ bỏ sanh mạng được đó, chứ đâu phải dễ dàng gì? Cái lợi, tất cả đều hưởng, sao bây giờ lại đổ trút mọi tội lỗi lên đầu ta?
Bọn u hồn đồng kêu lên:
– Ngươi! Chính lại ngươi! Bảo hắn chết, sao ngươi không nói cho hẳn biết là phải chết triệt để? Thành ra bây giờ, cái khí dữ của hắn không tiêu tan, biến hẳn trở thành quỷ dữ, hiện tại ngọn Bạch Cốt Sơn nầy trở thành giang sơn của hắn rồi đó nhé!
Lữ Thuần Dương tiếp:
– Các ngươi đừng lo quýnh quáng lên như vậy. Chúng ta còn có một phương pháp đối phó với hắn kia mà! Nhân lúc thi thể hắn chưa tan rã, chúng ta quăng thi thể hắn ra khỏi Bạch Cốt Sơn là được.
Một u linh cất tiếng:
– Tay chân chúng ta không còn cử động được, thì làm sao đời cái xác của hắn đi nơi khác?
Lữ Thuần Dương đáp:
– Rất đơn giản! Hiện tại thì thi thể chưa sình, chúng ta có thể dùng phương pháp xác choàng hồn, vậy một người nào đó trong các ngươi, nhập hồn vào xác hắn, rồi nhảy vọt khỏi Bạch Cốt Sơn là xong chuyện.
Bọn u linh lại kêu lên:
– Phương pháp đó được lắm, song ai chịu nhập vào xác hắn đây?
Tất cả đều nín lặng, tựa hồ chẳng ai muốn làm cái việc đó cả. Cuối cùng, có một u linh lên tiếng:
– Lữ Nham! Chủ ý đó, do ngươi xướng xuất, vậy ngươi hãy làm đi!
Lữ Nham vội đáp:
– Không được! Ta đã vì các ngươi mà xuất lực một lần rồi, tránh cho các ngươi đời đời kiếp kiếp trầm luân. Ta không thể hy sinh thêm một lần nữa đâu!
U linh đó cao giọng:
– Ngươi không thể làm cũng phải cố gắng mà làm, bắt buộc phải làm. Chỉ vì ngươi sơ hở mà tạo hắn thành một con quỷ dữ, còn chúng ta bất quá thọ tội thêm một chút thôi, ai bảo ngươi làm ra vẻ thông minh, bày biểu bậy bạ khiến cho hắn chết gấp như thế?
Rồi tất cả cùng động thủ, chụp Lữ Nham đưa lên cao, ý chừng muốn quăng Lữ Nham đến thi thể của Quan Sơn Nguyệt.
Lữ Nham cố hết sức mình, vùng vẫy.
Quan Sơn Nguyệt vụt kêu to:
– Dừng tay!
Đám u linh bất động liền.
Quan Sơn Nguyệt phẫn nộ, quát:
– Các ngươi định làm gì chứ?
Lữ Nham đáp nhanh:
– Chúng định bức ta mượn xác ngươi mà hoàn hồn, cho ngươi chết luôn, đời đời kiếp kiếp trong cảnh trầm luân.
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:
– Thế ngươi không chán ghét ta sao? Tại sao ngươi phản đối hành động của bọn kia?
Lữ Nham không đáp. Một u linh đáp thay:
– Y sợ đấy. Rất có thể là y bị hủy diệt theo ngươi!
Quan Sơn Nguyệt lại cười lạnh:
– Thì ra là thế! Các ngươi đưa qua, đẩy lại nhau, cuối cùng rồi chẳng một kẻ nào chịu làm.
Lữ Nham vội thốt:
– Cái lũ đó là bọn vong ân bội nghĩa.
Quan Sơn Nguyệt quát to:
– Câm ngay! Cái chủ ý đó do ngươi đề xuất mà!
U linh kia kêu gấp:
– Phải đấy! Cho nên, y đã làm nên tội thì y phải đền tội.
Chính u linh đó toan động thủ, Quan Sơn Nguyệt nổi giận, quát:
– Không một kẻ nào được nhít động. Ta không biết các ngươi thực sự là những cái quái gì, bỗng không lại từ bỏ sanh mạng để thành toàn các ngươi, chứ theo cái tánh của ta thì rất có thể quăng tất cả xuống chân núi đấy.
Đám u hồn nín lặng, u hồn nào cũng lộ vẻ sợ hãi.
Quan Sơn Nguyệt thở dài, hỏi:
– Còn cái bọn hòa thượng tại đâu? Ta đã thành toàn các ngươi, thì khi nào ta lại các ngươi mà sợ? Các ngươi không thích ta, thì ta thấy thẹn mà nhập vào hàng ngũ của các ngươi, nên muốn đến nơi khác.
Lữ Nham vội đáp:
– Đám hòa thượng ở ngay giữa lòng núi.
Quan Sơn Nguyệt tiếp:
– Tốt! Ta không muốn các ngươi tranh chấp với nhau nữa đó. Phần ta, ta cứ đến đó, ở chung với đám hòa thượng. Bất quá ta cảnh cáo các ngươi, đừng một ai chạm vào cái xác của ta!
Đám u hồn đồng thanh đáp:
– Phải! Phải! Bọn ta không dám đâu.
Quan Sơn Nguyệt lại thở dài:
– Ta không phải sợ bị hủy diệt, cảnh sống không có gì đáng cho ta lưu luyến, thì cảnh chết lại vui gì? Sao cho bằng sớm được giải thoát? Có điều, ta không muốn cái bọn ô trược như các ngươi chạm vào xác ta.
Lữ Nham thốt gấp:
– Vậy ngươi tự mình hoàn hồn vào xác mình đi, để tìm đường giải thoát, thế có hay hơn không?
Quan Sơn Nguyệt giật mình, thầm nghĩ:
“Có thể ta sẽ làm như vậy lắm, những gì ở đây ta chưa hiểu hết cho rõ ràng, ta cứ đi tìm các u hồn khác, tiếp xúc với chúng xem sao rồi hãy tính.”.
Lữ Nham ngăn lại:
– Ngươi bất tất đi tìm u hồn tiếp xúc nữa, tại Bạch Cốt Sơn nầy có hai thứ u hồn, một thứ nỗ lực giữ gìn cho được tồn tại như bọn ta đây, còn thứ kia thì ngược lại, chỉ muốn được hủy diệt thôi.
Quan Sơn Nguyệt hỏi:
– Như đám hòa thượng đó, phải chăng?
Lữ Nham giải thích:
– Không hẳn chỉ có cái bọn đó là muốn như vậy. Cũng có những u hồn khác, họ là những con người lúc sống chịu hầu hết những khổ đau trên đời, thì ký ức của họ không ghi chú những gì đáng quyến luyến thiết tha cả, họ không hề biết một lạc thú nhân sanh, như vậy họ còn muốn tồn tại để làm gì?
Dừng lại một chút, Lữ Nham tiếp:
– Họ khổ suốt đời, khi chết đi, mang theo những hình ảnh khổ, họ sanh lòng tật đố, họ tìm một cách để gây nên cảnh hủy diệt đại đồng, toàn diện, cho bao nhiêu u hồn tại đây cùng hủy diệt như họ. Cũng may, họ là thiểu số ...
Quan Sơn Nguyệt thốt:
– Ta phải đi tìm bọn đó. Ta luận đàm cùng họ, sự tiếp xúc với họ rất cần cho ta.
Lữ Nham suy nghĩ một chút:
– Ngươi đi tìm họ, kể ra cũng chẳng quan hệ gì, điều mà ngươi cần lưu ý là đừng bao giờ để mình chịu ảnh hưởng của họ. Hiện tại, ngươi là quỷ dữ duy nhất tại Bạch Cốt Sơn nầy, tất cả u linh quy tụ tại đây đều chịu sự chi phối nơi ngươi, nói một cách khác, tất cả u linh tại đây, hoặc tồn tại, hoặc hủy diệt đều do ngươi cả.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Thế thì ta cao hứng quá! Bất quá, các ngươi cứ yên tâm ta không để cho ta bị ảnh hưởng của họ đâu. Ta không tin rằng trên thế gian, chẳng có một người nào tốt, ta cũng không tin là Bạch Cốt Sơn nầy chẳng có một u hồn nào lương thiện. Giả như bọn đó là những u hồn bại hoại, thì ta sẽ có cách xử trí.
Lữ Nham hỏi gấp:
– Ngươi sẽ làm gì?
Quan Sơn Nguyệt cao giọng:
– Ta sẽ đuổi các ngươi ra khỏi Bạch Cốt Sơn, cho gió cương khí thổi tạt vào, cho các ngươi tan biến ...
Tất cả u linh quanh chàng cũng rập nhau kêu lên kinh hãi, nhưng Quan Sơn Nguyệt dửng dưng, không màng đến họ, cứ bước những bước dài, dõng dạc đi tới.
Chàng cảm thấy thân mình nhẹ nhõm, xê dịch như chiếc lá rơi, thân thể nhẹ nhưng khí hùng lại bốc cao muôn trượng.
Chàng chỉ muốn đi nhanh, càng chóng đến nơi càng hay, đi như thể có sanh gió mạnh quanh mình, gió đó thổi tạt vào những u hồn dọc đường, họ ngã lăn ra, nhào lên nhau, họ vừa bị gió quật ngã, tự họ cũng tìm được né tránh chàng, tránh gió, gây thành cái cảnh hỗn loạn, điểm xuyết thêm những tiếng kêu la vang dội.
Chàng là u hồn có oai quyền nhất tại Bạch Cốt Sơn, mỗi cử động của chàng kể như một quyết định đối với các u hồn khác, một quyết định tồn tại, hay hủy diệt.
Nghĩ đến đều đó, chàng buồn cười hết sức. Chàng không ngờ, chàng phải chết tại Bạch Cốt Sơn, và chàng cũng chẳng không ngờ luôn, khi chết đi, u hồn cũng có oai khí như lúc sống, ai ai cũng ngán sợ chàng cả. Cái địa vị bá chủ giữa đám u hồn, đến với chàng như ngọn gió bên đường, từ cánh đồng không quét đến, rồi quyện quẩn quanh chàng.
Bất ngờ cực độ! Giờ đây, có u hồn nào dám kháng cự chàng?
Nhưng, với oai quyền đó, chàng chẳng thu hoạch được cái gì tốt đẹp! Một thứ oai quyền đối với những bóng hình phiêu phiêu phưởng phưởng, một thứ oai quyền hư vô, không thực tế nên không ích lợi gì. Thì có mà chi?
Chàng bỗng sanh buồn, man mác buồn, chàng mang niềm buồn mông lung diệu vợi đó mà đi tới, đi một lúc lâu, chàng gặp một nhóm u hồn khác. Cứ nhìn vào cái dáng bên ngoài của những u linh đó, chàng cũng nhận ra họ là những đệ tử Phật môn, trong đó có chen lẫn một vài u hồn không tu đạo.
Những đệ tử Phật môn, hoặc ngồi xếp bằng tròn nhập định, hoặc đứng lặng suy tư xuất thần, cũng có người nằm dài trên mặt đất. Họ bị một vần sương buồn bao quanh, trông họ đáng thương vô cùng với cảnh thê thảm.
Thê thảm vì sương buồn bao phủ mờ mờ, thê thảm vì hầu hết đều thở dài, than ngắn, dù là kẻ đang nhập định, chốc chốc cũng bừng tỉnh để hòa đồng âm thinh trong tiếng than thở của toàn thể. Họ tỏ vẻ xa xôi với hiện cảnh quá, Quan Sơn Nguyệt đã đến gần rồi mà họ chẳng hề hay biết.
Dù cho có u hồn nào hay biết, u hồn đó cũng không lưu ý đến chàng.
Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, dừng chân lại đứng nhìn họ một lúc, sau cùng chàng vỗ tay lên đầu vai một lão tăng.
Lão tăng đưa tay, hất tay chàng ra khỏi vai, rồi gắt:
– Bước đi nơi khác!
Cái hất tay đó, không làm sao Quan Sơn Nguyệt rời tay khỏi vai lão, trái lại chính lão bị chấn động rồi ngã nhào. Lão lồm cồm ngồi dậy, hỏi:
– Ngươi là ai?
Quan Sơn Nguyệt cười nhạt:
– Ta là một u hồn. Một u hồn mới.
Lão tăng không hỏi nữa, nhưng từ xa xa một thiếu nữ hỏi vọng lại:
– Ngươi đến đây để làm gì?
Quan Sơn Nguyệt đáp:
– Ta không làm gì cả. Ta đến đây vì cái lũ kia đuổi ta đến.
U hồn thiếu phụ không hỏi nữa.
Quan Sơn Nguyệt chờ một lúc lâu, không nghe thiếu phụ nói gì thêm, cất tiếng hỏi lại:
– Tại sao chẳng ai mở miệng nói gì hết?
Thiếu phụ cười lạnh mấy tiếng:
– Có cái gì hay ho đâu mà nói!
Quan Sơn Nguyệt tiếp với giọng lạnh:
– Ta biết, tất cả các ngươi đây, ai ai cũng trải qua nhiều nỗi thương tâm, ta biết tất cả các ngươi đều mong cầu được hủy diệt, ao ước cho điềm u linh của các ngươi tiêu tán, nhưng chẳng bao giờ các ngươi chẳng thấy hy vọng toại nguyện, thì ít nhất các ngươi cũng bắt chuyện phiếm với nhau, cho cảnh tịch mịch bớt đè nặng trên điềm u linh đó chứ? Tại sao các ngươi cứ trầm mặc mãi, khiến cho tịch mịch cứ nặng nề thêm như thế?
Thiếu nữ chưa kịp đáp, bốn năm lão tăng đã hét lên:
– Cút! Cút đi khỏi nơi nầy gấp! Không ai mượn ngươi lải nhải, xốn tai bọn ta lắm.
Quan Sơn Nguyệt hơi giận:
– Trước khi chết, các ngươi là những kẻ xuất gia mà! Sao các ngươi ăn nói cộc lốc thế? Con nhà Phật có thái độ như vậy sao?
Câu nói đó mường tượng gây căm phẫn cho đa số, bọn lão tăng cùng nhảy dựng lên, cùng nhào tới. Một lão tăng quát:
– Ngươi bắt bọn ta, nhốt đống ta đây, làm cho bọn ta khổ sở cùng cực, như vậy cũng chưa vừa lòng sao, lại còn tìm đến chốn nầy mà tạo thêm khổ cho bọn ta nữa? Bọn ta phải đánh chết ngươi mới hả cho!
Quan Sơn Nguyệt cố ý không hoàn thủ, cứ để cho họ tay đấm, chân đá, những cái đấm đá đó bay tới tấp đến mình chăng, ào ào như mưa to đổ xuống.
Nhưng, chàng không nghe đau đớn gì cả. Trái lại, các u linh chạm vào người chàng rồi, đều bị bật dội trở lại có u linh lại ngã ngay, bò lăn chiêng.
Cảnh hỗn loạn diễn ra, trông họ hết sức thương hại.
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Các ngươi nóng giận, múa may làm chi cho khổ lấy mình thế? Ta đã chết rồi các ngươi múa may cũng vô ích, có lẽ nào ta lại chết một lượt thứ hai nữa?
Bọn lão tăng lóp ngóp chở dậy, cũng sửng sốt, chẳng ai biết phải làm gì, đối phó với tình hình.
Bỗng, một người kêu lên:
– Cái thằng nầy còn nguyên vẹn vũ công! Gã đã trở thành một lệ quỷ rồi đó nhé!
Mấy người khác cũng kêu lên:
– Đúng vậy! Gã là một con quỷ dữ!
Bỗng, tất cả cùng rộ lên cười lớn.
Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, hỏi:
– Các ngươi cười chi?
Một lão tăng cười to hơn trước, thốt oang oang:
– Kiên nhẫn thọ nhục mấy trăm năm qua, bây giờ có dịp hả hơi, thì cứ cười mà xả hơi.
Lão lại vọt mình tới, hai tay vươn ra, nhằm đôi mắt của Quan Sơn Nguyệt mà đâm vào.
Dù không muốn hoàn thủ, vô hình trung bản năng tự vệ bừng dậy, bất giác chàng cất cao cánh tay lên, gạt ngang qua.
Lão tăng bị bắn đi xa. Lão bay vọt lên trên đỉnh đầu các u linh kia, bay luôn ra khỏi Bạch Cốt Sơn, rơi xuống triền. Lập tức, lão biến thành một đợt khói mờ, trong phút giây, đợt khói tan biến mất dạng.
Quan Sơn Nguyệt có cảm giác đôi chân nhích động nhẹ nhẹ.
Tiếp theo đó, mấy lão tăng nữa nhào tới.
Lần nầy thì Quan Sơn Nguyệt chẳng dám dùng tay mà gạt bắn họ như trước.
Chàng trụ hình, đứng vững, để mặc họ chạm vào người chàng.
Các lão tăng đó phảng phất còn nhớ những chiêu thức vũ công, họ chỉ nhằm vào những yết huyệt trên người chàng làm mục tiêu mà đá chân, đấm tay.
Quan Sơn Nguyệt như lần trước, chẳng cảm giác đau đớn nào cả. Chàng không nhúc nhích, song nội lực trong người chàng do sự phản ứng tự nhiên phát sanh, chàng không làm gì nhưng nội lực của chàng cũng bắn dội các lão tăng trở lại tung bay khỏi đầu các u linh khác, rơi xuống triền, biến thành khói, tiêu tan như u linh trước.
Rồi từ bên dưới chân núi, một tràng tiếng nổ vang lên ầm ầm, Bạch Cốt Sơn nứt ra, một phần lớn tách rời khỏi núi.
Quan Sơn Nguyệt biết ngay sự tình như thế nào rồi.
Các u linh lão tăng lợi dụng vũ công còn nguyên vẹn của chàng làm cho thần khí tiêu tan, xương cốt của họ cũng tan biến luôn. Do đó, có khoảng trống trong lòng Bạch Cốt Sơn, lớp núi bên ngoài sụp xuống, lấp lỗ trống đó.
Nhanh như chớp, chàng tung mình lên cao, tránh cái chụp của các lão tăng, sau đó chàng đáp xuống giữa một nhóm u linh khác.
Vừa lúc đó, Lữ Nham đến nơi, hỏi gấp:
– Thật sự ngươi muốn làm cho bọn ta tiêu tan hết phải không?
Quan Sơn Nguyệt nổi giận, gắt:
– Nói nhảm! Chính chúng nhào vào người ta, chứ ta thì có làm gì đâu mà ngươi đổ lỗi?
Lữ Nham giật mình, lẩm nhẩm:
– Không ngờ bọn trọc đó khả ố cùng cực như vậy. Ngươi hãy lui ra xa xa đi, đừng để chúng chạm vào mình ngươi. Ta quên dặn dò ngươi điều đó!
Hiện tại tình thể đổi khác rồi, Quan Sơn Nguyệt thoái xuất vô hình trung chàng tạo ra một kình lực, kình lực đó phát ra, chấn động những u hồn ngoài tầng, những u hồn nầy kết thành một vòng vây, vòng vây bị chấn động, một lỗ hổng bày ra.
Rồi những u hồn nội tầng do lỗ hổng đó, chạy ùa ra, u hồn ngoại tầng cố ngăn chận, song làm sao ngăn chận nỗi?
Lữ Nham hỏi gấp:
– Ngươi có thể giúp đỡ một chút việc chăng?
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Ta giúp thế nào được? Nếu ta cử động, thì các u hồn khác sẽ tiêu tan nhanh chóng. Như vậy có khác nào ta giục chúng hủy diệt gấp?
Lữ Nham lo lắng ra mặt:
– Đúng vậy! Đó là một sự cố kỵ ... Tuy nhiên, còn có biện pháp nầy, là ngươi có thể lợi dụng vũ công, bắt chúng, đưa trở vào. Nếu được, đem chúng trám vào lỗ hổng, cho vòng vây liên lạc lại như cũ.
Quan Sơn Nguyệt bĩu môi:
– Ích lợi gì mà cần làm như vậy? Chúng không tự động bỏ ra ngoài sao?
Lữ Nham giải thích:
– Ngươi không hiểu. Trong lòng Bạch Cốt Sơn, có gió cực lạnh, gió đó quét trúng vào u hồn nào, thì u hồn đó như đông lại thành giá băng, không còn hành động tùy ý được nữa.
Quan Sơn Nguyệt cũng hoang mang phần nào trước cảnh rối loạn của các u hồn, vì hoang màng nên chàng mất tự chủ, hành động kém suy nghĩ, hay đúng hơn chàng không kịp suy nghĩ gì cả, nghe Lữ Nham bảo thế, chàng vội chụp hai u hồn, quăng đến lỗ hổng.
Động tác đó làm kinh động đến các u hồn khác, chúng như bị cầm chân lại tại chỗ. Rồi chúng nhóm tụ lại thành một khu, chúng quanh quẩn trong khu đó, không còn dám loạn động như trước.
Tất cả đều im thin thít, chỉ có một thiếu phụ khóc than rên tỉ:
– Tại sao ngươi giúp bọn kia, gây tổn hại cho bọn nầy?
Quan Sơn Nguyệt cao giọng:
– Các ngươi tự mình không tha thiết đến sự tồn tại, cái tâm tùy tiện các ngươi, muốn làm chi thì làm, tại sao các ngươi lại lôi cuốn người khác vào cảnh đồng quy ư tận?
Thiếu phụ vẫn khóc:
– Chứ ngươi không hãm hại bọn ta sao? Ngươi quăng hai u hồn đó, trám bít lỗ trống, gió lạnh luồng lộn quanh đây, làm cho bao nhiêu u hồn trở nên băng giá, ngươi cố ức độ hai u hồn đó thọ khổ như thế nào qua hành động của ngươi chăng?
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Chúng làm sao?
Lữ Nham lo âu bối rối, thốt gấp:
– Đừng nghe lời mụ ấy! Đừng! Mụ ta chỉ nói nhảm thôi.
Quan Sơn Nguyệt khoái tay:
– Ngươi im đi, để ta hỏi nàng cho biết sự tình như thế nào.
Thiếu phụ tiếp:
– Ngươi cũng biết, lúc sống, chúng ta không hạnh phúc chi, lúc chết vẫn còn bị cái khổ sanh tiền đeo đuổi, dù tử hậu vẫn bị ám ảnh như thường, cho nên chúng ta đều mong ước được hủy diệt sớm, để được giải thoát sớm ...
Quan Sơn Nguyệt chận lại:
– Ta hiểu điều đó nhưng các ngươi muốn hủy diệt mà lôi cuốn các u hồn khác cũng hủy diệt theo các ngươi, trong khi họ không muốn như vậy. Thử hỏi hành động của các ngươi có hợp lý không chứ? Mà thôi, ta không nói chi đến việc đó nữa, bây giờ ta thử hỏi ngươi, hai u hồn kia rơi xuống đó, gặp gió lạnh rồi, chúng sẽ phải ra sao mà ngươi quá tha thiết cho chúng, trách cứ ta nặng lời?
Thiếu phụ đáp:
– Gió lạnh bên dưới rít từng cơn, mỗi cơn gió quét qua như ngàn đao bén cắt cứa da thịt, họ vừa lạnh, vừa đau, đau không tưởng nỗi. Ta nghĩ, dù cho họ có là đồng, là sắt, là đá, họ cũng không chịu nổi cảnh đó.
Quan Sơn Nguyệt nhớ lại số ngươi ở cảnh giới thứ nhất trong ngục Vong Hồn, tất cả đều mong được chết hơn là chết đau mà sống. Ở cảnh giới thứ hai nầy, cũng có cái trường hợp đó, u hồn muốn hủy diệt hơn là tồn tại trong đau đớn.
Chàng trầm ngâm một chút, rồi hỏi:
– Có cách nào cứu chúng ra khỏi nơi rơi xuống đó chăng?
Thiếu phụ đáp:
– Chúng ta không thể xuống đó được, nếu xuống là bị lạnh như họ ngay.
Chỉ có mỗi một mình ngươi.
Lữ Nham vội ngăn:
– Không được. Đành là với vũ công còn lại nơi ngươi, ngươi xuống đó, chịu đựng nỗi cái lạnh một thời gian, song ngươi đưa chúng lên trên rồi, chính ngươi cũng bị đông lạnh như họ, thay thế cho họ. Ngươi sẽ ở dưới đó mãi mãi.
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một, đoạn bất thình lình chạy vụt về lỗ hổng.
Lữ Nham khuyên:
– Đừng tự chuốc khổ, ngươi hãy nghe lời ta. Bên dưới đó lạnh lắm!
Quan Sơn Nguyệt buông nhanh:
– Ta muốn biết cái lạnh đó như thế nào.
Lữ Nham vẫn khuyên:
– Đừng liều lĩnh!
Quan Sơn Nguyệt cứ theo lỗ hổng đó, nhảy xuống.
Nhưng, chàng biết hết sức lấy làm lạ. Còn đâu là Bạch Cốt Sơn? Bên dưới đó, là khung cảnh trong sáng, chẳng có u hồn, chẳng có lạnh, không khí ấm áp vô cùng.
Chàng đã đi qua cảnh giới thứ hai của Hắc Ngục Vong Hồn.
Người nghinh đón Quan Sơn Nguyệt bên ngoài cảnh giới thứ hai, vẫn là Tân Tử Minh. Lão đứng đó, nhìn chàng, điểm nhẹ một nụ cười trong tay có cầm một cái chén. Chén đó chứa một thứ nước cốt, bốc lên ngùn ngụt. Lão trao cái chén nước cốt đó cho chàng.
Quan Sơn Nguyệt chưa hết giật mình vì găn lại lão ta ở đây càng lấy làm lạ hơn khi thấy lão trao chén cao cho chàng. Chàng hỏi:
– Các hạ làm gì thế?
Tân Tử Minh cười đáp:
– Mầng cho Quan đại hiệp, lấy cái tâm nhân đạo vô biên, độ các vong hồn thoát ly cảnh giới thứ hai. Chén cao nầy có cái tên là Vong Ưu Cao, hòa với nước thành cao, để nguyên trạng là tán, xin đại hiệp uống ngay đi.
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút, lại hỏi:
– Tại sao các hạ muốn cho tại hạ phải uống chén cao đó?
Tần Tử Minh nghiêm sắc mặt:
– Cảnh giới thứ hai của Hắc Ngục Vong Hồn, tuy toàn là hư ảo cấu thành, song vẫn do một học vấn huyền lĩnh chỉ dẫn phương pháp. Bởi đại hiệp vừa thoát từ mông lung, hư ảo mà ra, có lẽ tâm hồn cần phải được trấn định, hoặc tẩy trừ những dấu vết lo ngại, cho nên cần phải uống thứ Vô Ưu Cao nầy, để lấy lại bình tĩnh, sáng suốt.
Rồi lão tiếp:
– Đại khái, cái lý do khiến đại hiệp uống chén thuốc là thế còn như những gì khác thì tại hạ không hiểu lắm, sức học về khoa huyền linh của tại hạ rất kém.
Quan Sơn Nguyệt cười nhạt:
– Thế là các hạ không giải rõ lý do chánh yếu của chén thuốc rồi. Uống một chén thuốc mà không hiểu cái công dụng thực sự của nó như thế nào, thì làm sao dám uống, hở các hạ?
Lão đáp:
– Tại vì lão phu không giải thích rành rẽ, nên đại hiệp chẳng được yên tâm.
Chén thuốc nầy giúp đại hiệp phục hồi phần tiêu hao của ngươn thần khi đại hiệp xâm nhập vào cảnh giới thứ hai. Hơn nữa, khi ra khỏi cảnh giới thứ hai đó rồi, đại hiệp vẫn còn hoang mang, thương cảm những u hồn trong đó, chén thuốc này giúp đại hiệp quên tất cả những ảo cảnh, để cái tâm được bình tịnh vậy thôi. Tóm lại, chén thuốc sẽ trả đại hiệp về nguyên trạng, từ thể xác lẫn tinh thần, trước khi vào cảnh giới thứ hai.
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ hỏi:
– Uống chén thuốc vào, là nhất thiết việc gì cũng quên mất?
Tần Tử Minh gật đầu:
– Phải đó! Trang chủ đi khắp sông núi hải hồ bốn phương đất nước, tìm kỳ dược phối hợp lại, chế luyện ra thứ Vô Ưu Tán này, và chính người đích thân nấu nước, hòa thuốc cho đại hiệp dùng đó.
Quan Sơn Nguyệt đã cầm cái chén nơi tay, sắp sửa uống. Nghe Tần Tử Minh thốt đoạn cuối cùng, chàng liền ngưng tay lại, rồi hỏi:
– Chính Trang chủ đích thân hòa thuốc đấy à?
Tần Tử Minh gật đầu luôn:
– Phải! Và sự tình đó không phải thường thường có đâu nhé! Trang chủ bình sanh có tình tự tôn, đối với bất cứ ai cũng từ trên cao nhìn xuống. Duy đối với Quan đại hiệp thì người phá lệ cũ, cam tâm hành hạ mình làm một cái gì để giữ tròn lễ độ với đại hiệp. Đại hiệp nên hiểu, loại thuốc này pha không khéo thì hiệu dụng không đúng mức đấy. Không khéo là ở chỗ nước nhiều nước ít, nước nóng nước nguội, ngoài ra còn phải dùng một phân lượng vừa vặn ...
Lão ta kết luận:
– Công phu lắm đó, đại hiệp ơi!
Quan Sơn Nguyệt lạnh lùng:
– Nhưng, phải mất bao nhiêu thời gian hở lão trượng?
Tần Tử Minh cười đáp:
– Đại hiệp mỉa mai Trang chủ quá đi thôi. Dù sao thì Trang chủ cũng dành cho đại hiệp một điểm chân thành. Phải biết nấu chén thuốc nầy, Trang chủ dùng trọn bốn thùng nước, ngồi trước lò mà đun củi, đun mãi cho đến khi nước còn đúng một chén nầy. Đại hiệp tưởng tượng đi, cũng phải mất bao nhiêu thời gian.
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Mất nhiều thời gian như thế sao? Vậy là công phu đâu phải nhỏ!
Tần Tử Minh giục:
– Uống đi, đại hiệp, đừng để thuốc nguội mất linh hiệu. Thuốc nấu xong mất một ngày, áp dụng phương pháp đặc biệt, giữ cho thuốc nóng suốt một ngày nữa.
Đại hiệp đừng để nó nguội rồi phải phí công nấu lại, mất thì giờ lắm.
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Nấu một hôm, bảo trì nhiệt độ một hôm, mà tại hạ thì ở tại Hắc Ngục Vong Hồn ...
Tần Tử Minh chận lời:
– Ba hôm rồi đó!
Quan Sơn Nguyệt không tin:
– Làm gì đến ba hôm? Ta nhận thấy, chỉ hơn mấy khắc thôi ...
Tần Tử Minh lắc đầu:
– Lão phu không hề bịa chuyện, nói vu vơ đâu. Đại hiệp ở đây được ba hôm rồi vậy. Thực ra thì cũng còn nhanh đó nhé, trong ba hôm mà đại hiệp từ sanh vào tử, rồi từ tử lại sanh, chẳng khác nào một cuộc luân hồi trên cõi thế. Làm một cuộc luân hồi, người ta ấn định thời gian ít nhất cũng năm sáu mươi năm đến một trăm năm, trừ trường hợp yếu tử, còn đại hiệp chỉ có ba hôm thôi, mà cũng xong cuộc luân hồi. Thế chẳng đáng gọi là nhanh sao?
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Thật tại hạ không ngờ mình lại ở đây quálâu như vậy. Tại hạ cứ cho rằng mình như mới vào đây thôi, thế mà đã qua ba ngày đêm liền!
Chàng không ngần ngại, uống cạn chén cao Vô Ưu. Thứ cao đó vừa đắng, vừa cay, uống vào rồi, chàng muốn mửa ra ngay, song chàng cắn răng, cố nuốt cho thuốc theo hơi nuốt chạy luôn xuống bụng.
Tần Tử Minh tiếp lấy chén không, niềm vui lộ trên gương mặt, lão thốt:
– Đại hiệp uống chén cao, thật là hay vô cùng! Trang chủ chỉ sợ đại hiệp từ khước thôi.
Miệng còn đắng, Quan Sơn Nguyệt nhăn nhó mặt mày, nhưng cũng cố điểm một nụ cười gượng gạo, hỏi:
– Tại sao Trang chủ lại sợ như vậy?
Tần Tử Minh giải thích:
– Trang chủ nghĩ rằng, trong tình thế chưa phân biệt là địch hay là bằng hữu của nhau, đại hiệp tất phải cẩn thận phòng bị, và cái lẽ đương nhiên là không khi nào dám uống thứ gì do một người mà mình chưa tin tưởng trao cho. Phải biết, như lão phu đã nói, nấu được chén cao Vô Ưu đó, Trang chủ hao phí bao nhiêu thời gian và tâm tư! Cho nên người phải sợ đại hiệp từ chối. Và nếu quả thật đại hiệp từ chối thì cái công phu của người cầm như trôi theo dòng nước, cuốn theo ngọn gió đưa rồi!
Quan Sơn Nguyệt bật cười ha hả:
– Trang chủ khéo đa nghi! Tại hạ hiện tại như con cá nằm trên thớt, con thịt nằm trong chuồng, sanh mạng đặt trọn nơi tay người, người muốn xử trí cách nào tùy hứng. Thì, muốn giết tại hạ, Trang chủ có thiếu chi phương tiện, đợi gì phải mất công nấu thuốc độc mấy hôm liền?
Tần Tử Minh thở dài:
– Đại hiệp quả thật cao kiến hơn người thường. Mà tánh tình lại sảng khoái, chẳng bù Trầm tiên sanh ...
Lão lại làm một cuộc so sánh giữa chàng và Trầm Quân Lượng!
Mùi vị đắng của thuốc đã qua, Quan Sơn Nguyệt chợt nghe vị ngọt thấm nhuần trong nước bọt, và một mùi thơm từ tâm phế lồng lên mũi. Kế đó, toàn thân thư thái vô cùng.
Bất giác, chàng vươn tay duỗi chân, làm mấy động tác luyện gân cốt, rồi hỏi:
– Lúc trước, Trầm Quân Lượng vượt qua cảnh giới thứ hai, cửa ngục Vong Hồn, phải mất bao nhiêu thời gian?
Tần Tử Minh đáp:
– Bảy hôm! Lúc y vượt qua cảnh giới, thì vẻ người phờ phạc, gân xương mỏi, khí lực kiệt, Trang chủ phải sai người đem cho y thứ thuốc Cố Thần Bồi Ngươn, y không dám uống, kết quả y mang khổ cho đến ngày nay, công lực chưa khôi phục toàn vẹn ...
Quan Sơn Nguyệt có gặp qua Trầm Quân Lượng, nhận thấy gương mặt y xanh nhợt, chừng như có bịnh. Bây giờ chàng mới hiểu nguyên nhân của tình trạng đó. Chàng trầm giọng hỏi:
– Thật vậy à? Y ở tại cảnh giới thứ hai này đến bảy hôm à?
Tần Tử Minh gật đầu:
– Thật chứ! Đúng bảy hôm. Tuy nhiên, vượt qua cảnh giới này đâu có phải là không khó khăn? Cho nên, dù y phí mất bảy hôm, kể ra cũng là một tay khá!
Phải biết, trong thời gian đó, y không ăn, không ngủ, luôn luôn ứng phó với mọi ấn tượng ...
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Các hạ hiểu sai lời nói của tại hạ. Tại hạ chỉ muốn biết y có uống Vong Ưu Tán như tại hạ hay không ...
Tần Tử Minh cười hì hì:
– Không. Vì chỉ có tinh thần và ngươn khí của y tiêu hao mà thôi.
Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:
– Những ảo tưởng y gặp trong Vong Hồn Hắc Ngục có đồng dạng với những ảo tưởng của tại hạ chăng?
Tần Tử Minh đáp:
– Tự nhiên là đồng dạng. Sở dĩ y không cần uống Vong Ưu Tán là vì phương pháp vượt giới cảnh của y không giống với phương pháp của đại hiệp. Trang chủ không đành phí bỏ một thứ thuốc cực quý như thế.
Quan Sơn Nguyệt nghe cảm hứng trào dâng rạt rào. Đồng thời, chàng cũng động tính hiếu kỳ, hỏi tiếp:
– Y vượt cảnh giới với phương pháp như thế nào?
Tần Tử Minh đáp:
– Y dùng phương pháp tối tàn nhẫn, tối độc ác, để nguyên thân xác bằng xương bằng thịt mà đi.
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Thế các u linh không ngăn trở y?
Tần Tử Minh mỉm cười:
– Tự nhiên là có ngăn trở chứ! Các u linh khổ van cầu, thậm chí biểu hiện mọi hình dung khủng bố để dọa khiếp y, chúng làm mọi cách song không ngăn chận y nổi ...
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Y thản nhiên nhìn các u linh và thần đồng tiêu diệt sao?
Tần Tử Minh gật đầu:
– Đúng vậy. Y làm như không thấy gì, ngang nhiên tiến tới, rồi vì ứng phó với hàng ngàn hàng vạn u linh, y mất hết bảy hôm, tâm lực tiêu hao quan trọng ...
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Thật tình tại hạ không hiểu nổi! Cảnh giới thứ hai lấy chữ Nhân là tiêu chuẩn, dụng ý là khảo nghiệm lòng nhân từ của con người, mà y lại dùng phương pháp tàn bạo để thông qua ...
Tần Tử Minh cười nhẹ:
– Đại hiệp nói câu đó nghe hay quá chừng! Lão phu xin hỏi đại hiệp, tiếp xúc với những u linh đó, đại hiệp có đồng tình với chúng chăng?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Có chứ! Tại hạ rất đồng tình với họ trong xử cảnh đó ...
Tần Tử Minh lắc đầu:
– Đại hiệp nghĩ như thế là bất đồng với thế nhân về tiêu chuẩn nhân từ rồi.
Chúng ở trong một xử cảnh mà mọi hy vọng đều không thể phát sanh, tuy nhiên họ vẫn nuôi niềm dục vọng, họ bị những dục vọng đó bao mờ tâm ý, như vậy đủ biết lúc sống họ không thuộc hạng người có đầy đủ thiện lương ...
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Phàm là con người, ai không có dục vọng ít nhiều? Đó là cái tính thông thường của thế nhân mà! Thì, đâu thể lấy đó làm tội.
Tần Tử Minh cũng thở dài:
– Trời đất bất nhân, sanh loài chó má, rồi lại sanh hạng người hung ác để sát hại thứ chó má đó. Nhưng, đạo trời không khuyết kém, cho nên có cái lẽ báo ứng tương xứng, để thực hiện sự báo ứng đó, trời sanh luôn hạng anh hùng hiệp sĩ, có phận sự giết sĩ, có phận sự giết gian, sát bạo. Đại hiệp thấy cái chỗ mâu thuẫn lẩn quẩn của ý trời chăng?
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Cái đạo lý đó huyền diệu thâm hậu cực độ, chúng ta là những con người phàm tục, không làm sao hiểu nổi đâu.
Tần Tử Minh mỉm cười:
– Những u linh tụ họp tại Bạch Cốt Sơn đều là những con người lúc sanh tiền làm nhiều tội ác. Trừ diệt ác nhân, dù là linh hồn của ác nhân, cũng là một hành vi nhân đạo. Còn như đại hiệp có hành động vừa rồi thì đó là cái tâm của thánh nhân, so với hành vi nhân đạo thì hành vi thánh tâm cao hơn một bậc.
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc, đoạn thốt:
– Bỏ qua những điều đó đi, đừng nói đến nữa. Tại hạ xin trở lại vấn đề của Trầm Quân Lượng. Y không uống Vô Ưu Tán thì ấn tượng của giới cảnh thứ hai vĩnh viễn còn khắc ghi trong tâm não của y ...
Tần Tử Minh cười nhẹ:
– Y quên hay không quên, cái đó chẳng quan hệ gì, bởi đối với các u linh, y chẳng mảy may thương tiếc, y hủy diệt chúng thì cũng do suy tư của y cho rằng lẽ đương nhiên là phải hành động như vậy. Y không hề thấy mình có lỗi ...
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Tại hạ vì chúng mà cam tâm hy sanh, như vậy đâu cần uống Vong Ưu Dược?
Tần Tử Minh cãi:
– Không, chính vì đại hiệp cam tâm nên cần phải uống Vong Ưu Tán đó. Bởi những ấn tượng bội nghĩa vong ân còn lưu đọng nơi tâm não của đại hiệp thì sau nầy lòng nhân cứu thế tế nhân của đại hiệp phải giảm đi, Trang chủ không tiếc công, tiếc thuốc, chẳng qua để bảo giữ cái tâm trung nghĩa của đại hiệp đó.
Quan Sơn Nguyệt bật cười sang sảng:
– Cái đó là vì Trang chủ của các vị quá lo nghĩ xa xôi mà thôi, tại Bạch Cốt Sơn, tại hạ nhất cử nhất động đều do bổn tâm mà làm, chứ không hề mong mỏi ở các u linh một sự báo đáp nào thì bổn tâm của tại hạ đâu có vì đám u linh đó mà cải biến chủ trương?
Tần Tử Minh cười nhẹ:
– Lão phu không hiểu gì hơn là nghe Trang chủ nói làm sao thì thuật lại làm vậy với đại hiệp. Còn như Vong Ưu Tán thì quả thật là một món thuốc rất quý đó đại hiệp, giả như đại hiệp không cần nhờ nó mà vong ưu, khước phiền thì nó cũng là một linh dược cực kỳ bổ dưỡng. Uống nó vào, đại hiệp vẫn có cái lợi như thường.
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:
– Nghe nói vị minh chủ của thủy đạo lục lâm là Thương Nhân bị giam tại cảnh giới thứ hai trong Hắc Ngục Vong Hồn ...
Tần Tử Minh gật đầu:
– Phải. Lúc đại hiệp vừa thoát ra ngoài là lão phu tuân theo lời giao ước, cứu tỉnh y rồi. Chỉ vì y thọ nội thương trầm trọng, cho nên lão phu đã đưa y đi điều trị.
– Tốt! Còn Ngô Phụng và Vương Phương, cả hai ở tại cảnh giới thứ ba, xin tiền bối đưa tại hạ đến đó gấp, để tìm cách cứu họ thoát ly nơi giam hãm. Tại hạ cũng muốn biết ở trong cản giới đó có những gì?
Tần Tử Minh mỉm cười:
– Thì lão phu xin làm tiền đạo, đưa đại hiệp đi!
Lão ta bước đi ngay khi buông dứt câu nói.
Họ đi chưa được bao xa, đã thấy một vọng cửa gỗ chắn ngang trước mắt, trên cửa chỉ có tấm bảng ghi mấy chữ:
«Đệ Tam Cảnh Giới Hắc Ngục Vong Hồn».
Không có những câu liễn như ở tại cửa hai cảnh giới thứ nhất và thứ nhì.
Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ:
– Tại sao nơi đây không có liễn?
TầnTử Minh cười đáp:
– Hai cảnh giới trước, có liên hệ đến sự dõng và sự nhân, cho nên Trang chủ dán liễn để ngầm thức tỉnh người vào cảnh. Còn tại cảnh giới thứ ba này thì mục đích là trắc nghiệm trí lực, phàm trí là tri, mà cái sự biết của con người phải bao la vạn tượng, biến hóa đa đoan, con người tùy cơ mà ứng biến, do đó không thể dùng một vài mươi chữ, gói ghém trong một đôi câu liễn mà biểu đạt được trọn vẹn tất cả quyền vi, tế nhị. Cho nên, Trang chủ không đặt liễn tại đây.
Quan Sơn Nguyệt không nói gì thêm nữa, đưa tay đẩy cửa.
Tần Tử Minh bước theo vào.
Quan Sơn Nguyệt cau mày hỏi:
– Vào cảnh giới này, tại hạ không đi một mình được sao?
Tần Tử Minh gật đầu:
– Đúng vậy. Ở đây, những hiện tượng đều là thực tế, khác với những ảo ảnh ở hai cảnh trước. Lão phu phải đi theo, phòng bất trắc cho đại hiệp.
Quan Sơn Nguyệt lại cười, không hỏi nữa, ung dung bước tới, tuy ung dung song vẫn chững chạc, niềm cương quyết dồn cả xuống đôi chân đó.
Giả như chàng biết rằng mình sắp đi vào cảnh cùng, chàng cũng đi như thường. Và chàng nghĩ, có hối hả, vội vàng, chung quy rồi cũng phải đi thì tại sao mình chẳng ung dung cho ra cái vẻ?
Bên trong, chẳng có cái gì là đặc biệt, bất quá như một gian phòng rộng rãi của một nữ nhân thông thường.
Chàng vào đó một lúc rất lâu, song chẳng có một người xuất hiện, chẳng có một sự tình phát sanh. Chán nản quá, chàng hỏi:
– Đây là nơi nào?
Tần Tử Minh đập nhẹ tay xuống một chiếc ghế, bảo:
– Đại hiệp đừng nóng nảy, cứ bình tâm ngồi xuống đi. Cái gì phải đến, sẽ đến với đại hiệp mà!
Quan Sơn Nguyệt không cần suy nghĩ, ngồi xuống ngay.
Ngoài một mùi hương thoang thoảng phất qua mũi, chàng chẳng phát hiện ra một sự tình nào khác cả.
Ngồi một lúc, chàng toan mở miệng hỏi Tần Tử Minh, nhưng chàng vừa quay đầu sang phía lão ta, chàng không còn thấy lão ở đó nữa.
Lão đi đâu? Đi từ lúc nào?
Quan Sơn Nguyệt bắt đầu hồi hộp. Nhưng hồi hộp là vì hiếu kỳ, vì chàng biết là trong phút giây sắp tới đây sẽ có sự lạ, chứ chẳng phải vì mất bóng Tần Tử Minh mà chàng phải nao núng. Chàng đâu cần sự có mặt của lão bên cạnh chàng? Bình sanh chàng rất ghét sự ỷ lại kia mà!
Mùi hương lạ đó càng lúc càng nghe nặng, ngồi trong phòng kín, ngửi mùi nặng dù là mùi thơm, con người cũng cảm thấy tâm não hôn trâm không nhiều thì ít.
Chàng ngẩng mặt nhìn lên một bức vách, thấy hai cánh cửa sổ rất dài. Bên ngoài cửa sổ là hoa cỏ, cây lá, không được xum xuê cho lắm, gió từ xa từng cơn thổi đến, gây tiếng động xạc xào. Chàng đứng lên, định mở tung rộng rãi hai cánh cửa sổ đó cho thoáng khí lọt vào làm loãng mùi hương nặng bên trong. Nhưng, đứng lên rồi, vừa cất chân chàng như đóng đinh tại chỗ, mà chàng chỉ cảm thấy không còn một điểm khí lực để nhấc chiếc chân. Làm sao chàng hiểu được nguyên nhân sự tình?
Nhưng rồi chàng nhớ lại, ở đây người ta trắc nghiệm trí và lực thì sự kiện này hẳn cũng do công cuộc trắc nghiệm trí và lực mà có. Cho nên chàng bình tâm lại ngay, chờ xem cái gì sẽ xảy ra kế tiếp!
Đợi mãi, chẳng thấy gì, chàng mệt mỏi quá chừng, muốn ngồi xuống ghế, chứ cứ đứng như thế này thì biết đứng đến bao giờ? Là con người bằng xương bằng thịt, có ai đứng nguyên một chỗ suốt ngày? Có ai chịu nổi việc làm đó?
Nhưng, định ngồi xuống, chàng chợt cảm thấy mình cũng không còn khí lực làm cái việc ngồi xuống nữa. Rồi chàng bắt buộc phải đứng như vậy, đứng như một pho tượng gỗ mà phải lâu lắm.
Sau cùng, chàng nghe có tiếng cười khúc khích ở phía sau, tiếng cười tập thể do năm sáu nữ nhân phát ra. Chàng muốn quay đầu nhìn lại nhưng cần cổ chàng cứng đờ, không làm sao lắc, chuyển, xoay được theo ý muốn. Bắt buộc, chàng đành ỳ ra như thế, để mặc cho các nữ nhân đó từ từ tiến đến gần chàng.
Rồi có vật chi đó, rơi xuống nền, nhưng âm thinh thì mường tượng một vật rơi xuống nước. Trong khi đó, bọn nữ nhân cũng cười khúc khích như trước.
Chừng như họ dùng một thứ tiếng lóng, nói năng với nhau. Tuy nhiên, giọng cười nghe rất dịu, tiếng nói cũng dịu như vậy.
Có nàng bạo dạn, vươn tay nắm lưng áo của chàng, chực cởi ra.
Chàng hét lên:
– Các ngươi làm gì thế?
Người phía sau lưng không hề lưu ý đến chàng, cứ tiếp tục làm cái việc cởi áo của chàng, họ đã mở đường dây lưng cột ngang áo, họ đã cỡi chiếc áo ngoài của chàng và bắt đầu cởi đến áo trong.
Quan Sơn Nguyệt sôi giận cực độ, nhưng không làm sao động đậy được.
Rồi chàng làm lỳ, không màng đến họ nữa. Để mặc họ làm chi thì làm.
Khi áo ngoài, áo trong cởi hết rồi, chàng lại nghe tiếng tặc lưỡi phía sau lưng, những tiếng tán thán. Họ khen thân vóc của chàng cường kiện? Thân vóc đó hấp dẫn lắm à?
Chàng không cần suy tưởng nữa, các nữ nhân đó nói trắng trợn ra là con người chàng đẹp quá, đáng mê quá. Ngôn ngữ của họ đượm đầy cái chất dâm dật, chàng nghe phải lợm giọng, chói tai. Một nữ nhân thốt:
– Không ngờ một chàng trai mặt sắt dạ đồng, mà có thân hình quá đẹp!
Làn da của hắn đáng mê thật.
Một nữ nhân khác cười, thốt:
– Đúng rồi! Da hắn trắng như ngọc, mịn màng quá, hơn hẳn da của ta nhiều!
Lại một nữ nhân khác thở dài, thốt:
– Điều đáng tiếc là con người ngọc đó lại không phải là phần hưởng thụ của bọn chúng ta! Với thân phận của chúng ta thì còn hy vọng gì?
Một nàng khác gắt tiếng, chận nữ nhân đó:
– Tử liễu đầu mày dày mặt dạn quá chừng. Bảo ngươi đến đây trợ giúp hắn tắm rửa, tại sao ngươi không làm công việc giao phó, lại đứng đây mà nhìn, mà ngắm, rồi khích động tâm tình, mơ tưởng bậy bạ? Chẳng lẽ ngươi định thưởng thức cái hương vị lạ này hay sao chứ?
Nữ nhân bị chặn lời không phục, cao giọng cãi lại:
– Ta bị khích động tâm tình, chẳng lẽ các ngươi lại không bị khích động như ta? Ta không tin các ngươi là gỗ đá hay là những xác chết không hồn!
Các nữ nhân khác chừng như bị thức phá tâm sự, cũng thở dài, thốt:
– Động tâm mà làm gì? Ích lợi chi đó, thà lơ đi còn đỡ khổ hơn! Quy củ của Trang chủ rất sum nghiêm, ai dám chạm đến mình hắn mà động tâm? Ta nghĩ ngươi nên bóp chết con tim của ngươi đi, chứ để cho nó sôi động lên mãi rồi thì ngươi lại mất mạng luôn đó nhé.
Một nàng tiếp nối:
– Không hưởng thụ được thì chúng ta cứ sờ mó cái vóc ngọc ngà đó cũng được chứ! Có hao mòn chi đó mà sợ? Ăn nhiều không được thì tìm cách mà chấm mút tí ti cũng đỡ khổ đấy.
Rồi các nàng cùng cười lên hi hí, bảy tám bàn tay, bảy tám chiếc chân nhích động, chân chịu, tay bế, quăng Quan Sơn Nguyệt vào bồn tắm.
Quan Sơn Nguyệt không thể làm một cử động nhỏ để phản kháng.
Lúc quăng chàng vào bồn tắm, bọn nữ nhân không muốn cho chàng trông thấy mặt, nên để cho chàng nằm sấp, úp mặt xuống đáy bồn. Một nữ nhân lòn tay vào nước, nâng đầu chàng lên cho mũi và miệng chàng không ngộp nước, chàng chỉ thấy tay nàng trắng nỏn mà thôi.
Rồi bảy tám bàn tay bắt đầu chà xát lên mình chàng, có nàng vốc nước trong lòng bàn tay, rưới lên đầu, lên cổ chàng đùa giỡn.
Chúng vừa hành động vừa cười rúc rích ...
Bỗng dưng bị ngươi mang đi tắm rửa, cầm như chàng là một trẻ nít, tự nhiên Quan Sơn Nguyệt phải phẫn nộ, nhưng phẫn nộ thì cũng chẳng làm gì được.
Không phản kháng được, chàng chỉ còn có cách là quát tháo lên, song chàng nghĩ, dù có quát tháo vị tất bọn nữ nhân ngán, chẳng những chúng không ngừng công tác, trái lại còn cười thêm. Chàng đành bất động, chỉ thở dài, thầm kêu khổ.
Nghe chàng buông tiếng thở dài, các nữ nhân giật mình, cũng ngưng bặt tiếng cười, rồi một nàng cất tiếng hỏi:
– Tại sao ngươi thở dài?
Quan Sơn Nguyệt cố lấy giọng thật dịu, đáp không phải đáp:
– Các ngươi là người của Trang chủ?
Bọn nữ nhân gật đầu:
– Phải!
Một nàng hỏi tiếp:
– Ngươi hỏi để làm gì?
Quan Sơn Nguyệt điểm một nụ cuời:
– Trong bọn các ngươi, ta chỉ biết mặt có một nàng, nàng đó là Ngọc Phương, nàng đưa ta đến đây, dọc đường ta nhờ nàng chiếu cố săn sóc từng tí, từ cái ăn cái uống ...
Nữ nhân vừa hỏi chàng đó, cười nhẹ, hỏi tiếp:
– Ngươi còn nhớ đến nàng ấy?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Nhớ chứ! Ta luôn luôn nhớ dung mạo của nàng, tuy nàng ân cần săn sóc ta, song về phương diện cảm tình thì nàng tỏ ra hết sức lạnh nhạt, lắm lúc ta cho rằng nàng là con người máy, được giao phó bên cạnh ta thôi. Cho nên, suốt quãng đường dài, ta không dám tiếp cận nàng, cứ giữ khoảng cách lễ độ mà chiêm ngưỡng dung nhan, âm thầm chiêm ngưỡng dung nhan của nàng thôi!
Nữ nhân đối thoại lắc đầu:
– Ngươi dối lòng đó! Lời nói của ngươi khó tin lắm. Ta biết, trên giang hồ, có rất nhiều nữ nhân sẵn sàng dâng hiến trọn vẹn cả hồn lẫn xác cho ngươi, các nữ nhân đó có nhan sắc trên hẳn Ngọc Phương, thế mà ngươi vẫn lờ tất cả, ngươi không mảy may chú ý đến một nàng nào ...
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Đâu phải ta dối lòng, bịa lời không thật? Chỉ vì các ngươi không hiểu đó thôi. Không phải ta vô tình đối với họ, bất quá ta không dám dính dấp đến họ.
Nàng nào cũng đòi làm vợ ta, mà ta thì không thích sống chung với bất cứ nàng nào, ta không có ý lập gia đình. Đối với nữ nhân, ai đẹp thì ta khen đẹp, ai tài thì ta phục tài, ta chỉ chiêm ngưỡng, tán thưởng chứ không hề muốn hưởng dụng ...
Nữ nhân hỏi gấp:
– Tại sao?
Quan Sơn Nguyệt đáp:
– Ta sợ phiền lụy. Có gia đình là có phiền lụy. Ngoài ra, còn một điểm này, thái độ của ta bao giờ cũng chân thành, trung trực, nếu ta lấy vợ thì ta phải giữ cái tâm duy nhất đối với vợ. Như vậy, ta đâu còn tiếp xúc với những nữ nhân khác nữa?
Nữ nhân đó bật cười vang:
– Thì ra, ngươi là một kẻ đa tình! Muốn được tiếp cận tất cả nữ nhân trên đời nên phải cố tránh bị ràng buộc bởi một người. Thế mà bọn ta cứ cho rằng ngươi là con người đá, một con người không hề tìm thấy thích thú bên cạnh nữ nhân.
Quan Sơn Nguyệt cũng cười:
– Là con người, tất phải có tri có giác, không như cỏ cây mà thiếu vắng cảm tình. Bằng cớ là ta chấp nhận tiếp xúc với rất nhiều nữ nhân từ trước đến nay.
Nhưng đến lúc nghe họ tự nguyện hiến thân và đòi hỏi ta phải tiếp nhận sự cung hiến đó, lập tức ta xa chạy cao bay ...
Nữ nhân đó lại hỏi:
– Thế thì cái thái độ chân chánh của ngươi đối với nữ nhân như thế nào?
Quan Sơn Nguyệt đáp:
– Xem nhau như bình thủy tương phùng, nếu cần giao duyên thì thời giao duyên không quá một đêm,một ngày, sau đó mỗi người một lối rẽ, không ai nợ ai một ý tình nào, không ai bắt buộc phải tưởng nhớ đến ai.
Chàng trầm giọng tiếp:
– Thử hỏi, trên thế gian này, có nữ nhân nào chấp nhân cái lối giao duyên như thế đó chăng?
Nữ nhân cười mỉa:
– Có chứ sao không?
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Có? Ở đâu?
Nữ nhân bỉu môi:
– Trong các xóm Bình Khang!
Quan Sơn Nguyệt bật cười ha hả:
– Đúng lắm! Rất đúng! Bình Khang không phải là chốn xa lạ gì đối với ta.
Ta vẫn thường xuyên đến đó, nhưng rất tiếc là ta không gặp kẻ xứng tâm vừa ý.
Nới đó chỉ có hạng gái tầm thường, khó mà tìm được một nàng có ít nhiều nhan sắc. Ta muốn nói đến nhan sắc chân chánh, chứ không phải là thứ ngụy tạo với phấn son ...
Nữ nhân đối thoại cũng trầm lặng một lúc, đoạn hỏi:
– Ngươi đem những việc đó nói với bọn ta, để làm gì?
Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:
– Không có ý tứ chi cả. Bất quá ta muốn trông thấy các ngươi thôi.
Nữ nhân cười nhẹ:
– Trông thấy bọn ta rồi làm sao? Bất quá, bọn ta cũng thuộc phường son phấn ...
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Đâu có đến nỗi như thế! Tuy không trong thấy các ngươi, ta cũng có thể hình dung các ngươi qua một dung mạo mỹ miều cho dù các ngươi không là giai nhân thì ít nhất cũng trên hạng thông thường. Các ngươi đừng quên ta từng thấy được dung mạo Ngọc Phương. Mà Ngọc Phương là đồng bạn của các ngươi, đồng đội với các ngươi. Nội cái tiếng «đồng» cũng đủ nói lên những điểm tương tự mà mỗi nàng các ngươi cần phải có.
Nữ nhân lạnh lùng:
– Bọn ta không sánh kịp Ngọc Phương đâu!
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Các ngươi nghĩ thế chứ thật sự đâu phải thế, và đương nhiên là ta không chấp nhận cái ý tưởng đó rồi. Ta không thấy mặt các ngươi, nhưng ta vẫn thấy được bàn tay, cánh tay các ngươi. Chẳng hạn như tay của nàng đang nâng chiếc đầu ta đây, nếu không là một mỹ nhân thì làm gì có bàn tay mềm dịu, cánh tay trắng mịn như thế? Làn da non mát đó chừng như không chịu nổi sự chà xát của tơ lụa mặc trên mình, dù là thứ tơ lụa nhẹ nhàng nhất, mịn màng nhất.
Cánh tay của nàng đang nâng đầu Quan Sơn Nguyệt bỗng rung rung lên, Quan Sơn Nguyệt biết là những lời nói của chàng đã gây xúc động nơi nàng này rồi. Chàng vội vã tiếp luôn:
– Mỹ nhân hầu hạ tắm rửa, đó là một diễm phúc cho nam nhân, được như vậy có nam nhân nào lại không cảm giác là mình đang bay bổng lên tận chín tầng mây? Tuy nhiên, dù cho sướng bao nhiêu đi nữa, mà không được trông thấy những gương mặt đẹp bên mình thì ta nghĩ rằng cái sướng đó giảm sút đi rất nhiều. Chẳng khác nào lúc ta đang đói, các ngươi cho biết là sẽ dọn một bữa tiệc lớn mời ta, nhưng khi vào tiệc rồi thì ta chỉ được ăn toàn những thức tưởng tượng.
Dù sao thì cái bánh vẽ cũng nhạt nhẽo lắm!
Nữ nhân đó chừng như do dự. Một nàng khác cao giọng thốt:
– Chúng ta cứ cho hắn thấy mặt đi!
Một nàng khác lại ngăn:
– Không được! Trang chủ đã phân phó ...
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Chính ta thỉnh cầu mà, Trang chủ có quở trách thì cứ nhằm vào ta mà quở trách, ta đảm nhận tất cả hình phạt, nếu Trang chủ muốn trừng phạt!
Bọn nữ nhân thì thầm với nhau một lúc, sau cùng thì lật ngửa Quan Sơn Nguyệt lên, tuy nhiên các nàng cũng đỏ mặt vì thẹn. Mà chàng cũng hổ thẹn không kém chúng. Bởi, cũng như chàng, bọn nữ nhân hầu hêt chỉ mặc một thứ áo rất mỏng, chiếc áo không đủ che thân, để lộ những đường cong tuyệt mỹ ...
Chúng hầu như trần truồng! Chàng cũng trần truồng!
Chúng vừa vào lứa tuổi hai mươi ba, hai mươi bốn trở lại thôi, da trắng nõn nà, tóc dài đen mượt. Nàng nào cũng xinh, cũng đẹp, mỗi nàng có một vẻ đẹp riêng biệt.
Chúng giương mắt nhìn chàng, cơn thẹn lòng qua rồi, nàng nào cũng muốn ăn tươi nuốt sống chàng cả.
Quan Sơn Nguyệt có ý nhìn mỗi nàng một lúc, nhìn cho no mắt, sau cùng, buông tiếng thở dài, thốt:
– Các ngươi lật sấp ta trở lại đi!
Một nàng lộ vẻ không vui, hỏi:
– Chẳng lẽ bọn ta như vầy vẫn chưa xứng ý ngươi ...
Quan Sơn Nguyệt lại thở dài:
– Không phải vậy đâu! Các ngươi đồng là những trang tuyệt sắc như nhau, nếu ta được gần kề một trong các ngươi thôi thì cũng là tam sanh hữu hạnh rồi, hà huống ta lại được bao nhiêu đây cùng chiếu cố một lượt? Trời, sáu mỹ nhân quây quần bên cạnh ta! Nằm mộng ta cũng chẳng hưởng được cái cảnh này!
Song ...
Chàng lại thở dài, rồi tiếp:
– Song ... để mà chi? Quanh mình có đến sáu tiên nữ, mà ta thì lại cứng đơ như xác chết lạnh thế này! Thà không trông thấy còn đỡ khổ hơn cho ta! Các ngươi lật sấp ta lại đi, ta van cầu các ngươi!
Bọn nữ nhân lộ vẻ khoan khoái. Một nàng hỏi:
– Chớ ngươi muố làm sao?
Quan Sơn Nguyệt hỏi lại:
– Chứ các ngươi muốn làm sao với ta, trước khi đến đây?
Nữ nhân đó cười, đáp:
– Bọn ta chỉ vâng lịnh tắm rửa cho ngươi, tắm xong rồi, mang ngươi lên giường. Những gì kế đó thì chỉ có Trang chủ biết mà thôi, bọn ta chẳng hiểu chi hết.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Những gì kế đó, ta không nghĩ là nên hiểu mà làm gì. Ta chỉ biết, trước mắt đây ...
Một nữ nhân hấp tấp thốt:
– Ngươi nghĩ quấy rồi đó nhé! Bọn ta đâu phải là những kỹ nữ?
Quan Sơn Nguyệt lại cười:
– Ngươi hạ thấp giá trị của ngươi làm chi, ta đâu có ý tưởng như vậy? Ta không bao giờ mơ những chuyện phi phận cả. Ta biết quy củ của Trang chủ các ngươi rất sum nghiêm, dù ta có chết mê chết mệt vì các ngươi đi nữa, cũng chẳng bao giờ vọng động gây tai họa cho các ngươi đâu.
Một nữ nhân buột miệng thở dài:
– Giả như thật sự ngươi có cái tâm hướng về bọn ta thì dù phải chết bọn ta cũng vui, chết mà đáng giá thì cũng nên chết lắm. Tuy nhiên, chắc gì Trang chủ giết ngay bọn ta, có thể là nhiều hình phạt ghê gớm hơn cái chết sẽ được dành cho bọn ta đó.
Rồi nàng tiếp:
– Về phần ngươi, thực sự ngươi muốn gì, cứ nói ngay ra đi không phải ái ngại.
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Các ngươi còn phải hỏi nữa sao? Ta còn muốn gì hơn là được tự do hoạt động, có như vậy ta mới âu yếm ấm ôm các ngươi được. Thú thật với các ngươi, được vuốt ve, mơn trớn các ngươi rồi, dù ta phải chết, ta cũng cam tâm!
Một nàng thoáng biến sắc mặt:
– Cái đó thì không thể được rồi. Đừng nói là chúng ta trả tự do hoạt động lại cho ngươi làm chi, giả như chúng ta muốn làm như vậy cũng không thể làm được.
Bởi tình trạng của ngươi hiện tại là do công hiệu của Vong Hồn Tán gây nên, chứ không phải tại bọn ta hạ thủ.
Quan Sơn Nguyệt sững sờ. Một phút sau, chàng hỏi:
– Vong Hồn Tán giúp ta quên mọi ảo ảnh tại giới cảnh thứ hai trong Hắc Ngục Vong Hồn, chẳng lẽ nó có tác dụng nào khác nữa sao?
Bọn nữ nhân toan đáp. Tần Tử Minh đột nhiên xuất hiện. Bọn nữ nhân sợ hãi, đồng chạy đi tán loạn.