Tại sao người ta di cư? Cái gì khiến họ nhổ rễ và rời bỏ tất cả những gì quen thuộc để đến một nơi xa tận bên kia chân trời? Tại sao phải trèo qua dãy thái sơn của các thủ tục giấy tờ khiến ta cảm thấy mình như một kẻ ăn mày? Tại sao phải dấn bước vào khu rừng ngoại lai nơi tất cả mọi thứ đều lạ lẫm, khó khăn và chưa từng thấy?
Chỉ có một câu trả lời: người ta di cư vì hy vọng có một cuộc đời tốt đẹp hơn.
Giữa thập kỷ 1970 là một thời kỳ khó khăn của Ấn Độ. Tôi đoán biết điều đó từ những nếp nhăn trên trán cha mỗi khi cha đọc báo. Hoặc từ những mẩu đối thoại tôi nghe được giữa cha, mẹ, Mamaji và những người khác. Không phải là tôi không hiểu nổi những chuyển biến trong những vấn đề họ nói với nhau. Nhưng tôi không mấy quan tâm đến chúng. Bầy khỉ độc vẫn hau háu chờ món chapattis của chúng hằng ngày; lũ khỉ chẳng bao giờ hỏi tin tức New Dehli; tê giác và dê vẫn tiếp tục chung sống yên ổn; chim chóc vẫn hót líu lo; mây vẫn mang mưa, mặt trời vẫn nóng; trái đất vẫn thở đều; Thượng đế vẫn... chẳng có gì cấp cứu trong thế giới của tôi.
Cuối cùng thì bà Gandhi đã làm cho cha hết chịu đựng nổi. Tháng Hai 1976, Dehli giải tán chính quyền vùng Tamil Nadu. Chính quyền từng to mồm chỉ trích bà nhiều nhất. Vịêc chuyển giao chính quyền diễn ra êm thấm - chính phủ địa phương của thủ tướng Karunanidhi im lặng biến mất qua các vụ “từ chức” và quản thúc tại gia. Thực ra, việc một chính quyền địa phương bị giải tán thì có là cái gì so với việc bản Hiến pháp của cả quốc dân đã bị phế từ cả tám tháng trước đó? Nhưng với cha, đó là dấu hiệu cuối cùng của việc bà Gandhi đã lên ngôi độc tài và tiếm đoạt quốc gia. Con lạc đà trong vườn thú chẳng hề hấn gì, nhưng cái sợi rơm ấy đã bẻ gãy lưng cha.
Cha kêu lên, “Chẳng mấy chốc mụ sẽ đến vườn thú của chúng ta và bảo rằng các nhà tù của mụ đều đã chật ních cả, rằng mụ cần thêm chỗ, rằng liệu chúng ta có giam được ông Desai vào cùng một chuồng với sư tử được chăng?”
Morarji Desai là một chính khách đối lập. Không phải bạn với bà Ganhdi. Tôi thấy buồn vì nỗi lo không dứt của cha. Bà Gandhi có thể tự tay bỏ bom vườn thú, chuyện đó cũng chẳng có sao đối với tôi nếu cha cũng vui vẻ coi đó là việc bình thường. Giá mà cha đừng khổ sở dằn vặt đến thế. Thật khổ cho một đứa con trai phải thấy cha nó phát ốm vì lo lắng.
Cha lo lắm. Việc làm ăn nào cũng có rủi ro cả, nhưng không có rủi ro nào bằng một công việc làm ăn nhỏ, khi đã mất là mất cả chì lẫn chài. Vườn thú là một thiết chế văn hóa. Cũng như một thư viện công cộng, một nhà bảo tàng, nó phục vụ công chúng trong lĩnh vực giáo dục và khoa học. Trong quan điểm đó, nó không phải là một việc làm ăn vì mục đích kiếm tiền, vì Điều Thiện Lớn và Lời Lãi Lớn là những mục tiêu không tương thích nhau. Cha đã rất cáu vì thế. Sự thật là, chúng tôi không phải là một gia đình giàu có, nhất là theo tiêu chuẩn Canada. Chúng tôi là một gia đình nghèo tình cờ sở hữu một lũ thú vật, mặc dù không sở hữu được cái mái nhà trên đầu chúng, và cả trên đầu chúng tôi nữa, nhân tiện phải nói luôn thế. Cuộc sống của một vườn thú, cũng như cuộc sống của các cư dân trong hoang dã, là bấp bênh khôn lường. Nó không phải một doanh nghiệp đủ lớn để có thể đứng trên luật pháp, mà cũng không đủ nhỏ để sống sót được sau những mất mát. Để phồn thịnh, vườn thú cần đến quốc vụ viện, các cuộc bầu cử dân chủ, tự do ngôn luận, tư do báo chí, tự do hội họp, luật lệ pháp chế rõ ràng và đủ mọi thứ khác nữa mà người ta đã cam kết thiêng liêng là phải có trong bản Hiến pháp Ấn Độ. Không thế thì không tài gì mà lo cho vườn thú được. Lâu dài mà nói, chính trị tồi là có hại cho doanh nghiệp.
Người ta di cư vì mệt mỏi quá rồi trong tình trạng lo âu. Vì cái cảm giác cắn rứt rằng dù mình có cố mấy đi nữa thì cũng chẳng ăn thua gì, rằng công sức cả năm rồi cũng bị người khác cướp mất chỉ trong một ngày. Vì cái ấn tượng rằng, tương lai thế là hết, rằng mình thì thế nào cũng xong nhưng con cháu mình thế là hết đường rồi. Vì cái cảm giác rằng chẳng có gì thay đổi nữa, rằng hạnh phúc và phồn vinh chỉ có thể có được ở một nơi nào khàc mà thôi.
Nước Ấn Độ Mới đã bị đập vỡ tan tành và sụp đổ trong ý nghĩa của cha. Mẹ nhượng bộ. Chúng tôi sẽ bùng đi nơi khác thôi.
Quyết định ấy được tuyên cáo trong một bữa ăn tối. Ravi và tôi ngồi chết lặng! Canada! Nếu như Andhra Pradesh, ngay phía bắc chúng tôi, đã là một viễn xứ; nếu Sri Lanka, chỉ cách chúng tôi một eo biển hẹp khỉ có thể nhảy qua, đã là cái phía tối của mặt trăng, thử tưởng tượng xem Canada sẽ là cái gì? Canada không là gì đối với chúng tôi cả. Nó giống như Timkubu [1], theo định nghĩa là một nơi mãi mãi xa vời.
[1] Timkubu, một thị trấn ở trung bộ Mali, Tây Phi, một nơi nổi tiếng hẻo lánh, nên cái tên Timkubu đã đồng nghĩa với một nơi rất xa vời.
Xem tiếp chương 30
Chương 30
Anh đã có vợ. Tôi đang cúi cởi giầy thì nghe anh nói: Xin giới thiệu đây là nhà tôi. Tôi ngẩng lên và ngay ở đó, bên cạnh anh... là bà Patel. Xin chào, chị lên tiếng, giơ tay ra cho tôi bắt và mỉm cười. Piscine đã nói với tôi rất nhiều về anh. Tôi thì không thể nói với chị điều tương tự. Tôi đã chưa biết tí gì về chị. Chị đang sắp phải đi nên chúng tôi chỉ chuyện trò được đôi câu. Chị cũng là người Ấn Độ nhưng nói giọng Canada điển hình hơn. Chắc là thế hệ thứ hai. Chị trẻ hơn anh một chút, da hơn đen hơn một chút, tóc dài đen tết thành một bím nặng. Cặp mắt đen láy và sáng và hàm răng trắng thật đáng yêu. Chị mang trên tay một cái áo choàng phòng thí nghiệm trắng tinh vừa giặt khô vẫn còn để trong bao ni lông, chị làm nghề bào chế thuốc. Khi tôi chào: rất được hân hạnh, thưa bà Patell, chị đáp: Xin anh cứ gọi tôi là Meena. Vợ chồng hôn nhẹ nhau một cái, rồi chị ra khỏi nhà vì một phiên làm ngày thứ Bảy.
Căn nhà này không phải chỉ là cái hộp đầy các tượng thờ nữa. Tôi bắt đầu để ý thấy các dấu hiệu nho nhỏ của một cuộc sống lứa đôi. Chúng vẫn ở đó cả thôi, nhưng trước đây tôi đã không tìm kiếm chúng.
Anh là một người nhút nhát. Cuộc đời đã dạy anh chớ có khoe khoang những gì quý giá nhất của mình.
Chẳng nhẽ chị đã là thủ phạm của những vụ bụng da tôi ậm ạch sau những lần ăn uống tại nhà anh?
Tôi vừa làm món sốt chua ngọt đãi anh đấy, anh nói, miệng mỉm cười.
Thì ra không phải chị, mà chính là anh.
Họ gặp nhau một lần, ông Kumar với ông Kumar, ông làm bánh với ông thầy giáo. Ông Kumar thứ nhất nói ông muốn đến thăm vườn thú. “Ngần ấy năm sống ở đây mà tôi chưa lần nào được xem. Mà thật là ngay gần đây. Cậu sẽ hướng dẫn tôi chứ?” Ông hỏi.
“Vâng, tất nhiên rồi,” tôi đáp. “Thật là một vinh dự cho cháu”.
Chúng tôi hẹn gặp nhau ở cổng chính sau giờ tan trường ngày hôm sau.
Tôi lo lắng suốt ngày hôm đó, bụng bảo dạ, “Mày thật ngốc nghếch! Sao lại hẹn ở cổng chính? Lúc nào chỗ đó cũng đông người. Mày quên là ông ấy chẳng có đặc điểm gì rồi à? Mày sẽ không khi nào nhận được ra ông ấy cho mà xem!” Nếu tôi đi ngay qua cạnh ông mà không nhận ra ông thì ông chắc sẽ tự ái lắm. Ông sẽ nghĩ tôi đã thay lòng đổi dạ và không còn muốn cặp kè với một người làm bánh Hồi giáo nghèo khổ nữa. Ông sẽ bỏ đi không thém nói một lời. Ông sẽ không giận dữ - ông sẽ chấp nhận lời biện bạch của tôi là tôi bị chói mắt không nhìn thấy ông - nhưng ông sẽ không còn muốn đến thăm vườn thú làm gì nữa. Tôi có thể thấy sự việc sẽ diễn ra như thế. Tôi bắt buộc phải nhận ra ông. Tôi sẽ nấp và đợi đến khi nào chắc chắn đó là ông, nhất định sẽ phải làm như vậy. Nhưng tôi đã từng nhận thấy rằng cứ khi nào tôi cố hết sứcđể nhận dạng ông thì lại là lúc khó khăn nhận ra ông nhất. Hình như càng cố thì càng khó là đằng khác.
Đến giờ hẹn, tôi đứng trực ngay trước cổng chính của vườn thú và bắt đầu dụi mắt bằng cả hai tay.
“Mày làm cái gì thế?”
Đó là Raj, một thằng bạn.
“Tao đang bận”.
“Mày bận dụi mắt à?”
“Cút đi”.
“Mình đi ra bờ biển đi”.
“Tao đang đợi một người”.
“Thế thì mày sẽ lỡ hẹn nếu cứ dụi mắt lia lịa như thế kia”.
“Cảm ơn mày đã nhắc. Mày đi chơi bờ biển cho vui nhé”.
“Hay là đi Vườn Nhà nước đi mày”.
“Tao không đi được, tao bảo rồi mà”.
“Thôi đi”.
“Tao xin mày, Raj, mày đi đi”.
Nó bỏ đi. Tôi lại dụi mắt.
“Mày giúp tao làm bài tập toán được không, Pi?”
Đó là Ajith, một thằng bạn khác.
“Để sau, mày đi chỗ khác đi”.
“Chào Piscine”.
Đó là bà Radhakrishna, một người bạn của mẹ. Tôi xua được bà đi chỗ khác sau một vài câu nhẹ nhàng.
“Xin lỗi, đến phố Laporte đi lối nào?”
Một người lạ.
“Lối kia”.
“Vé vào vườn thú bao nhiêu tiền?”
Một người lạ khác.
“Năm rupi. Quầy bán vé ở ngay kia”.
“Cậu bị chlorine vào mắt hay sao?”
Đó là Mamaji.
“Chào bác Mamaji, không phải đâu ạ”.
“Bố cháu có đây không?”
“Chắc có ạ”.
“Gặp cháu sáng mai nhé”.
“Thưa bác vâng ạ”.
“Tôi đây, cậu Piscine”.
Tôi đông cứng lại trước mắt mình. Cái giọng nói đó. Vừa lạ vừa quen. Tôi cảm thấy như trong lòng mở một nụ cười.
“Salaam alaykum, bác Kumar! Gặp bác cháu rất mừng”.
“Wa alaykum as-salaam [1]. Mắt cậu làm sao thế?”
“Không, không sao đâu ạ. Chắc chỉ là một hạt bụi”.
“Đỏ hết cả rồi”.
“Không sao đâu ạ”.
Ông đi về phía quầy vé nhưng tôi gọi ông lại.
“Không, không. Thầy không phải mua vé đâu ạ”.
Thật là vinh hạnh khi tôi xua tay về phía quầy vé và mở đường cho ông Kumar bước vào vườn thú.
Ông kinh ngạc trước tất cả mọi thứ, nào là vì cây cao mà sinh ra hươu cao cổ, rồi chuyện các loài ăn thịt thì được cấp thức ăn là loài ăn cỏ, rồi loài ăn cỏ thì có cỏ mà ăn, rồi thì chuyện có các loài ăn đêm và các loài ăn ngày, con nào cần có mỏ sắc thì có mỏ sắc, con nào cần có chân tay nhanh nhẹn thì có chân tay nhanh nhẹn. Tôi sung suớng thấy ông kinh ngạc đến như vậy.
Ông dẫn lời kinh Koran: “Có thông điệp của Thượng đế cho những ai biết dùng trí xét đoán của mình trong tất cả những điều này”.
Chúng tôi đến chỗ bọn ngựa vằn. Ông Kumar chưa từng nghe về những con vật này chứ đừng nói đến chuyện đã từng nhìn thấy một con. Ông đứng ngây người.
“Ngựa vằn đấy ạ”. Tôi bảo.
“Người ta sơn vẽ chúng bằng bút lông à?”
“Không, không. Trông thế thôi chứ là tự nhiên đấy ạ”.
“Trời mưa thì sao?”
“Chẳng sao ạ”.
“Những cái vạch lông kia không nhòe nhoẹt đi à?”
“Không ạ”.
Tôi có mang theo ít cà-rốt. Còn một củ to và cứng. Tôi lấy nó ra khỏi túi. Đúng lúc ấy tôi nghe thấy tiếng sỏi lạo xạo ở phía bên phải. Đó là ông Kumar, đang bước về phía hàng rào trong dáng điệu lắc lư khập khiễng quen thuộc.
“Chào thầy ạ”.
“Chào Pi”.
Ông làm bánh, bẽn lẽn nhưng đàng hoàng, gật đầu chào ông thầy giáo. Ông này lại gật đầu chào lại.
Một chú ngựa vằn tinh ý đã thấy củ cà-rốt của tôi và đã bước đến chỗ rào thấp. Nó vẫy tai và giậm chân nhè nhẹ. Tôi bẻ củ cà-rốt làm đôi, đưa cho mỗi ông Kumar một nửa. “Cám ơn Piscine”, một ông nói. “Cám ơn Pi” ông kia bảo. Ông Kumar làm trước, thò tay qua hàng rào. Cặp môi dày đen bóng và khoẻ mạnh của con ngựa vằn ngoạm ngay lấy củ cà-rốt. Ông Kumar không bỏ ra, con ngựa vằn đớp ngập răng vào mẩu cà-rốt và cắn nó ra làm hai. Nó nhai rau ráu trong vài giây, rồi ngoạm nốt nửa kia, môi nó phủ kín các đầu ngón tay ông Kumar. Ông buông miếng ca-rốt và vuốt ve cái mũi mềm mại của con ngựa vằn.
Đến lượt ông Kumar. Ông không làm khó cho con ngựa vằn như ông kia. Khi môi con ngựa đã ngoạm nửa miếng cà-rốt, ông buông tay. Cặp môi ấy vội vàng lùa miếng cà-rốt vào trong miệng.
Ông Kumar với ông Kumar có vẻ sung suớng.
“Cậu bảo gì nhỉ, ngựa vằn à?” Ông Kumar nói.
“Đúng thế ạ”. Tôi trả lời. “Nó thuộc cùng một họ với lừa và ngựa.”
“Xe Rolls-Royce của các nhà kỵ sỹ” ông Kumar nói.
“Con này là một con ngựa vằn giống Grant,” tôi nói.
Ông Kumar nói, “Equus burchelli beohmi [2]”.
Ông Kumar nói, “Allahu akbar [3]”.
Tôi nói, “Nó rất đẹp”.
Chúng tôi tiếp tục nhìn.
[1] Salaam alaykum là câu chào nhau của người Hồi giáo, có nghĩa tương tự như xin Thượng đế ở cùng bạn và Wa alaykum as-salaam là câu đáp lại, cũng có nghĩa đó (ND).
[2] Tiếng Latin, có nghĩa: con ngựa rất đẹp. (ND)
[3] Nghĩa là: Vinh danh thánh Allah. (ND)
Xem tiếp chương 32
Chương 32
Có nhiều thí dụ về cách các thú vật thu xếp cuộc sống rất đáng ngạc nhiên. Tất cả đều giống như hiện tượng nhân dạng hoá (anthropomorphism), mà trong động vật học gọi là hiện tượng thú dạng hoá (zoomorphism) - hiện tượng một con thú coi một người hoặc một con thú khác loài như thể cùng loài với mình.
Nối tiếng nhất và cũng phổ biến nhất là trường hợp các con chó cảnh nuôi trong nhà. Chúng đã đồng hoá người vào thế giới chó sâu xa đến mức muốn cả giao phối với họ, một sự thực mà bất kỳ người chủ nào đã phải kéo con chó si tình của mình ra khỏi háng một vị khách sợ hết hồn cũng sẽ sẵn sàng khẳng định là có.
Con điêu thử lông vàng và con chuột lông chấm trắng của chúng tôi sống rất hòa thuận với nhau, quấn quít nhau và ngủ dúi dụi vào nhau cho tới lúc con điêu thử lông vàng bị người ta bắt trộm mất.
Tôi cũng đã nhắc đến tê giác với đàn dê, và trường hợp của sư tử trong rạp xiếc.
Có những câu chuyện được khẳng định hẳn hoi về những thuỷ thủ sắp chết đuối được cá heo đội lên khỏi mặt nước, là cách điển hình mà loài cá này vẫn dùng để cứu lẫn nhau.
Trong sách vở có nhắc đến trường hợp một con chồn trắng sống hòa thuận với con chuột nọ, trong khi vẫn lập tức nuốt chửng các con chuột khác theo đúng kiểu chồn trắng.
Vườn thú của chúng tôi đã thấy chuyện các con thú ăn thịt sống với con mồi của chúng rất lạ lùng. Chúng tôi có một con chuột đã sống với bầy rắn độc trong suốt nhiều tuần lễ. Trong khi các con chuột khác bỏ vào chuồng rắn đều bị toi mạng trong vòng một hai ngày, con chuột nhỏ màu nâu này nhởn nhơ tha rác làm một cái tổ xinh xinh, thu trữ các hạt ngũ cốc mà chúng tôi rắc cho nó vào những chỗ giấu khác nhau và chạy đi chạy lại ngay trước mắt các con rắn. Chúng tôi ngạc nhiên hết sức. Chúng tôi treo một cái biển để người xem để ý đến hiện tượng con chuột này. Sau rồi nó cũng không tránh được kết cục của số phận: nó bị một con rắn non cắn. Con rắn ấy không biết đến địa vị đặc biệt của con chuột sao? Hay nó cảm thấy không ưa và không muốn quan hệ với con chuột? Chẳng biết thế nào. Có điều con chuột ấy lập tức bị nuốt chửng. Nếu bầy rắn đã bị bỏ bùa thì con rắn non đã giải được cái bùa ấy. Mọi việc trở lại bình thường. Chuột lại bị lũ rắn nuốt chửng theo tốc độ như cũ.
Trong nghề nuôi thú, người ta hay dùng chó làm mẹ nuôi sư tử con. Mặc dù sư tử con lớn lên và to lớn hơn mẹ nuôi và cũng nguy hiểm hơn nhiều. Chúng không bao giờ làm rầy mẹ nuôi. Con chó cũng không bao giờ hết dịu dàng và cũng vẫn giữ được quyền làm mẹ của nó đối với lũ sư tử. Phải có biển giải thích cho công chúng đến xem rằng con chó trong chuồng kia không phải là thức ăn sống của bọn mãnh sư (cũng như chúng tôi đã phải có biển nói rằng tê giác là loài ăn cò và không ăn thịt dê).
Có thể lý giải hiện tượng thú dạng hoá như thế nào đây? Chẳng nhẽ tê giác không thể phân biệt được to với nhỏ, da cứng với lông mềm? Chẳng nhẽ cá heo không thể nhận ra nhau? Tôi tin rằng câu trả lời dành nằm trong cái mà tôi đã nhắc đến trước đây, trong cái liều lượng điên rồ vẫn thúc cho sự sống vận động theo những cung cách lạ lùng nhưng là cứu cánh. Con chuột lông vàng cũng như con tê giác, đều cần có bạn đồng hành. Bọn sư tử làm xiếc không cần biết vị thủ lãnh của chúng là một người yếu ớt; tinh thần hư cấu đảm bảo cuộc sống xã hội của chúng và ngăn chặn tình trạng bạo lực vô chính phủ. Còn đối với bọn sư tử con, chúng sẽ ngã ngửa ra vì sợ khi biết rằng mẹ chúng chỉ là một con chó, vì điều đó có nghĩa là chúng không có mẹ, một tình trạng tồi tệ nhất mà bất cứ sinh linh máu nóng nhỏ nhoi nào cũng có thể tưởng tượng ra. Tôi tin rằng ngay cả con rắn già, khi nuối chửng con chuột, chắc chắn phải cảm thấy ở một xó nào đó trong tâm trí chưa phát triển của nó một thoáng ân hận, một cảm giác rằng có cái gì đó lớn lao hơn vừa bị mất đi, một bước nhảy của trí tưởng tượng ra khỏi miền thực tại thô thiển và đơn côi của một con thú bò sát.
Anh cho tôi xem những kỷ vật gia đình. Trước tiên là ảnh cưới, một đám cưới Ấn Độ trên nền Canada nổi bật ngoài rìa. Một anh trẻ hơn, một chị trẻ hơn. Họ đi trăng mật ở thác Niagara. Một chuyến đi thật đáng yêu. Những nụ cười khẳng định điều đó. Rồi ngược thời gian nữa, những tấm ảnh hồi anh còn là sinh viên ở đại học Toronto; với bạn bè; trước cửa nhà thờ thánh Micheal; trong phòng ở; trên đường phố; đang đọc sách ở nhà thờ thánh Basil trong bộ áo chùng màu trắng; đang vận một áo choàng trắng kiểu khác trong phòng thí nghiệm của khoa động vật học trong ngày tốt nghiệp. Một nụ cười trong mọi lúc, nhưng cặp mắt anh lại kể một câu chuyện khác.
Những bức ảnh ở Brazil, với rất nhiều các con cu li ba móng chụp tại chỗ.
Với một động tác giở trang, chúng tôi nhảy qua Thái Bình Dương; và hầu như chẳng có hình ảnh gì. Anh nói có chụp ảnh liên tục trong tất cả các dịp quan trọng, nhưng đã mất tất cả rồi. Vài bức ít ỏi là do Mamaji cóp nhặt gửi sang sau này.
Có một bức ảnh chụp ở vườn thú nhân dịp một quan chức cao cấp đến thăm. Một thế giới khác hiện ra đen trắng trước mắt tôi. Bức ảnh đầy người. Vị bộ trưởng trong nội các chính phủ liên hợp là trung tâm của bức ảnh. Đằng sau có một con hươu cao cổ. Gần bên rìa đám đông, tôi nhận ra ông Adirubasamy trẻ tuổi.
“Mamaji đây à?” Tôi hỏi, chỉ vào đó.
“Vâng”. Anh nói.
Có một người đàn ông đứng cạnh ông bộ trưởng, đeo kính gọng sừng và mái tóc chải rất mượt. Rất có thể là ông Patel, mặt tròn hơn mặt con trai.
“Có phải đây là cha anh?” Tôi hỏi.
Anh lắc đầu. “Tôi không biết ông ta là ai”.
Im lặng vài giây, rồi anh nói, “Chính cha tôi chụp bức ảnh này”.
Cũng trên trang đó còn có một bức ảnh chụp tập thể khác, phần lớn là học sinh. Anh gõ gõ ngón tay lên bức ảnh.
“Richard Parker đấy”. Anh nói.
Tôi kinh ngạc. Tôi nhìn gần hơn, cố tách biệt nhân cách và hình thức bề ngoài. Không may là bức ảnh đen trắng lại không được nét. Kiểu ảnh chụp chơi lúc cuộc đời còn vô lo vô nghĩ. Richard Parker đang ngoảnh nhìn ra chỗ khác. Nó cũng chẳng biết là người ta đang chụp ảnh nó.
Trang đối diện là cả một bức ảnh màu chụp cái bể bơi ở Aurobindo Ashram. Một cái bể ngoài trời rộng và đẹp, nước trong vắt soi rõ đáy bể màu xanh lơ và một cái bể lặn bên cạnh.
Trang tiếp trưng một bức ảnh chụp trước cửa trường Petit Seminaire. Một cổng vòm có sơn dòng chữ tiêu biểu của trường: Nil magnum nisi bonum. Không có cái thiện thì cũng không có cái vĩ đại.
Anh có vẻ trầm ngâm.
“Chán nhất”, anh nói, “là tôi không còn nhớ lại được dung nhan của mẹ tôi. Tôi có thể tưởng tượng mẹ, nhưng chỉ trong một thoáng là mất. Mỗi khi tôi cố hình dung mẹ cho rõ ràng, mẹ lại mờ dần đi. Cả giọng nói mẹ cũng thế. Nếu tôi thấy mẹ ngoài phố bây giờ, chắc là mọi thứ sẽ trở lại rõ ràng. Nhưng chắc chẳng được nữa rồi. Thật buồn khi không thể nhớ được mẹ mình trông ra sao”.
Anh gập cuốn sổ lại.
Cha nói: “Chúng ta sẽ đi tầu thủy như Columbus!”
“Ông ấy đã chỉ hy vọng tìm thấy được Ấn Độ”. Tôi buồn rầu nói.
Chúng tôi bán vườn thú, trọn gói tuốt tuột. Đến một xứ sở mới, một cuộc đời mới. Ngoài việc đảm bảo cho bầy thú của chúng tôi có một tương lai hạnh phúc, việc bán chác này còn giúp chúng tôi có tiền di chuyển và một món kha khá để bắt đầu lại từ đầu ở Canada (bây giờ nghĩ lại cái món kha khá đó thật nực cười - quả thật chúng tôi mù tịt về chuyện tiền nong). Chúng tôi có thể bán bầy thú cho các vườn ở Ấn Độ, nhưng các vườn thú ở Mỹ chịu trả giá cao hơn. Lúc ấy, Hiệp định Quốc về buôn bán các loài thú quý hiếm vừa ra đời, và hành lang buôn bán thú hoang đã bị đóng của hoàn toàn. Tương lai các vườn thú từ nay nằm trong tay các vườn thú khác. Vườn thú Pondicherry đóng cửa vừa đúng lúc. Người ta tranh nhau mua bầy thú của chúng tôi. Những khách hàng cuối cùng là một số các vườn thú, chủ yếu là vườn thú Lincoln Park ở Chicago và vườn thú Minesota lúc ấy mới sắp mở cửa. Những con thú lẻ thì bán rải rác sang cho các vườn ở Los Angeles, Louisville, Oklahoma City và Cincinnati.
Và có hai con được chở bằng tàu thủy sang Vườn thú Canada. Đó là Ravi và tôi. Cả hai chúng tôi đều cùng một cảm nghĩ đấy. Chúng tôi không muốn đi. Không muốn sống ở xứ sở gió giật suốt ngày và với những mùa đông lạnh hai trăm độ âm [1]. Canada không có trên bản đồ của môn cricket. Chỉ đến khi bắt tay vào chuẩn bị cuộc di cư chúng tôi mới dần quen với ý nghĩ sẽ phải đi. Việc chuẩn bị cũng hết hơn một năm trời. Không phải với chúng tôi, mà là với bầy thú kia. Nếu nghĩ rằng các con vật có phải lo gì đến quần áo, giầy dép, chăn màn, bàn ghế, đồ bếp núc và đồ vệ sinh; rồi quốc tịch cũng chẳng có ý nghĩa gì với chúng, không phải lo tí gì đến hộ chiếu, tiền nong, khả năng công ăn việc làm, trường học, nhà ở, y tế... Nghĩa là, nếu nghĩ rằng bầy thú thật là nhẹ nhàng trong tất cả những cái đó, thì mới ngạc nhiên là việc di chuyển chúng mới khó khăn làm sao. Di chuyển một vườn thú cũng giống như di chuyển một thành phố vậy.
Nguyên thủ tục giấy tờ đã hàng núi rồi. Tốn hàng lít nước để pha mực đóng dấu. Viết hàng trăm đơn từ kiểu “Kính thưa ngài Mỗ với ngài Mỗ”. Rao giá. Thở dài. Nghi ngờ. Bàn đi cãi lại. Trình lên trên xin quyết định. Ngã được giá cả. Ra được thỏa thuận. Ký tên vào những chỗ chấm chấm trong văn bản hợp đồng. Trao đổi những lời chúc mừng. Kiếm các chứng chỉ nguồn gốc. Kiếm các chứng chỉ sức khỏe. Kiếm các giấy phép xuất khẩu. Kiếm các giấy phép nhập khẩu. Làm rõ các điều lệ cách li. Tổ chức vận tải. Tiêu hàng cả gia tài vào tiền điện thoại. Có một câu nói đùa trong nghề vườn thú, một câu đùa mệt mỏi, rằng đống giấy tờ cần thiết để mua bán một con chuột mõm nhọn ăn sâu bọ thôi cũng nặng hơn cả một con voi, rằng giấy tờ mua bán một con voi thì nặng hơn cả một con cá voi, và rằng chớ bao giờ có ý định mua bán một con cá voi, chớ bao giờ. Hình như có một bọn quan liêu chuyên bới lông tìm vết ngồi xếp hàng một từ Pondicherry đến Minneapolis, qua Dehli và Washington, ai cũng nhăm nhăm các biểu mẫu, những vấn đề khó khăn và những nỗi hoài nghi của mình. Chở các con vật lên mặt trăng có thể còn đỡ phức tạp hơn. Cha đã giật đứt hầu hết tóc trên đầu và đã nhiều lần suýt tung hê hết cả.
Có những chuyện không lường được. Hầu hết chim chóc, bò sát, tê giác, khỉ độc, khỉ đuôi sư tử, hươu cao cổ, thú ăn kiến, hổ, báo hoa, báo cheetah, linh cẩu, ngựa vằn, gấu culi và gấu Hymalaya, voi Ấn Độ được hỏi mua tíu tít, nhưng lại có nhiều con không ai hỏi han gì đến, ví dụ như chú hà mã Elphie của chúng tôi. “Một cuộc giải phẫu nhân mắt!” Cha vừa kêu vừa lắc lắc một bức thư trong tay. “Họ sẽ mua nếu mình mổ nhân mắt bên trái cho nó. Cho một con hà mã! Còn gì nữa chứ? Sửa mũi cho tê giác chắc?” Một số con thú bị coi là “quá thường” ví dụ sư tử và khỉ đầu chó. Cha đã phải đổi các con vật này lấy một con khỉ độc từ vườn thú Mysore và một con đươi uơi từ vườn Manila. (Còn con hà mã Elphie thì sống đến hết đời tại vườn thú Trivandrum). Một vườn thú hỏi mua một “con bò Bramin chính hiệu” để trưng trong khu dành cho trẻ em. Cha liền và khu rừng đô thị Pondecherry và mua một con bò cái có cặp mắt ướt đen tuyền, một cái bướu rõ to và cặp sừng thẳng băng mọc thật vuông góc với cái đầu như thể nó đã liếm phải một ổ điện. Cha cho sơn cặp sừng ấy mầu da cam thật tươi rồi gắn những cái chuông nhựa nhỏ xíu vào mũi sừng, cho nó thêm chính hiệu.
Một phái đoàn ba người Mỹ đến. Tôi rất tò mò. Tôi chưa từng thấy người Mỹ thật còn sống. Họ đến, hồng hào, béo tốt, rất thân thiện, thạo việc và cứ ra mồ hôi như tắm. Họ khám các con thú của chúng tôi. Họ cho chúng ngủ rồi nghe tim, kiểm tra nước giải và phân như thể xem tử vi, lấy máu vào ống tiêm rồi đem đi phân tích, xoa bóp các loại bướu, gõ thử răng, chiếu đèn pin vào mắt, cấu thử da, vuối và nhổ thử lông. Khổ thân các con thú. Chắc chúng tưởng người ta đang khám tuyển chúng vào quân đội Mỹ. Chúng tôi nhận được những nụ cười vui vẻ nhất của những người Mỹ này, và những cái bắt tay chặt tưởng gãy xương của họ.
Kết quả là bầy thú, cũng như chúng tôi, nhận được hết các giấy tờ cần thiết. Chúng sẽ thành những công dân Mỹ tương lai, còn chúng tôi, những công dân Canada tương lai.
Chúng tôi rời Madras ngày 21 tháng Sáu năm 1977, trên con tàu hàng Nhật Bản treo cờ Panama mang tên Tsimtsum. Các sỹ quan trên tàu là người Nhật, thủy thủ đoàn là người Đài Loan, và con tầu thật lớn, thật ấn tượng. Ngày cuối cùng của chúng tôi ở Pondicherry, tôi chào tạm biệt Mamaji, ông Kumar và ông Kumar, tạm biệt tất cả bạn bè và cả nhiều người chưa quen biết. Mẹ vận bộ sari đẹp nhất. Bím tóc dài của mẹ, gập lại một cách mỹ thuật và cài lại sau gáy, được trang điểm bằng một vòng hoa nhài tươi. Mẹ đẹp. Và buồn. Vì mẹ đang rời bỏ Ấn Độ, nước Ấn Độ nóng nực của những cơn mưa mùa, những cánh đồng lúa và dòng sông Cauvery, những bờ biển và đền miếu xây bằng đá tảng, những cỗ xe bò kéo và những chiếc xe tải sặc sỡ của bạn bè và những người chủ tiệm quen thuộc, con phố Nehru và phố Goubert Salai, của cái này cái nọ, nước Ấn Độ quen thuộc và yêu mến với mẹ đến thế. Trong khi những người đàn ông trong nhà - tôi tưởng mình là một trong số họ - mặc dù mới mười sáu tuổi - đang vội vàng để lên đường, tưởng mình đã là thị dân Winnipeg bên xứ Canada xa xôi kia, thì mẹ còn nán lại.
Hôm trước khi đi, mẹ chỉ một hàng bán thuốc lá và hỏi giọng khẩn khoản, “Ta có nên mua một vài bao không anh?”
Cha đáp, “Bên Canada cũng có thuốc lá, mà sao em muốn mua? Mình có ai hút đâu?”
Vâng, bên Canada cũng có thuốc lá - nhưng họ có thuốc lá Gold PHlake không? Họ có kem nhãn hiệu Arun không? Xe đạp của họ có phải xe đạp Hero không? Có tivi Onidas không? Có ô tô Ambassador không? Các hiệu sách có tên là Higginbothm không? Đó, tôi nghĩ, là những câu hỏi quay cuồng trong đầu mẹ khi mẹ đang tính mua mấy bao thuốc lá ấy.
Bầy thú đã được đánh thuốc ngủ, lùa hết vào lồng và khóa lại, đồ ăn thức uống đã trữ hết vào hầm tàu, dây neo đã tháo hết, và những hồi còi rúc lên. Khi con tàu len lỏi ra khỏi bến và tìm đường ra khơi, tôi cuống cuồng vẫy chào Ấn Độ. Mặt trời tỏa sáng, gió thổi đều, và bầy hải âu cất những tiếng kêu chói tai trên không trung. Lòng tôi rộn rã.
Mọi việc ở đời có bao giờ diễn ra như ta vẫn tưởng, nhưng biết làm sao. Cuộc đời đem cho ta cái gì thì ta phải nhận cái đó và chỉ còn cách làm cho chúng tốt đẹp nhất mà thôi.