Nguyễn Thượng Hiền, người làng Liên Bạt (Hà Đông) sinh năm 1867, năm 17 tuổi (1884) đỗ Cử nhân. Năm sau (1885) ông đi thi Hội đã trúng cách, chưa kịp truyền loa thì xảy ra biến cố Kinh Đô thất thủ, ông phải bỏ về. Mãi đến năm Thành Thái 5 (1892) mở lại khoa thi ông vào thi Hội (chỉ vào kỳ Đình đôi) và ông đỗ Hoàng giáp.
Ông nổi tiếng tài hoa, nếu không xảy ra biến cố năm 1885 thì có lẽ ông đã đỗ Hoàng giáp từ ấy (khoảng 18 tuổi). Đỗ xong ông lưu lại Huế chờ làm Toản tụ quốc sử quán các gia đình vọng tộc có con gái đang tuổi lấy chồng hết sức trọng vọng ông. Người ta tìm mọi cách để mời ông đến nhà yến tiệc mãn ngày thâu đêm. Ông cảm thấy bị quấy rầy quá thể. Từ chối không được mà nhận lời cũng quá phiền. Ông bèn nghĩ ra một cái kế: đi ăn ông ăn rất xấu, ăn xong giả đò đút thức ăn vào áo, vào xắc để cho người ta khinh đừng ai thèm mời nữa. Nhưng kế ấy cũng không thành công nhưng ông chỉ nhận lấy con gái Tôn Thất Thuyết.
Giữa lúc ấy thì ông anh của ông mất sớm, gia đình đã nhắm ở Thanh Hóa (nơi gia đình ông sinh sống) cho ông một bà vợ. Không thể từ chối với người ông đã hứa (con gái Tôn Thất Thuyết - người đã theo vua Hàm Nghi và đã xuất dương cầu viện cứu nước) và lại càng không được từ chối với người mà gia đình đã chọn lựa cho ông. Cuối cùng ông đã phải quyết định một ngày cưới luôn hai bà: một bà chánh thất và một bà á thất.
Vua Minh Mạng đang ngự tại điện Cản Thành, nghe Võ Xuân Cẩn vừa đi phát chuẩn ở Nghệ An về muốn xin vào chầu, ông liền ra điện Văn Minh để tiếp.
Minh Mạng hỏi:
- Dân tình Nghệ An thế nào?
- Tâu nhờ ơn nước, nay dân khỏi đói.
Minh Mạng hỏi với giọng gay gắt:
- Nghe người ta nói: có bọn ăn cướp đã thành án, mà lại đào, thừa dịp phát chẩn này, cũng chen vào với lương dân, đứa lãnh gạo, đứa lãnh tiền, thầy biết mà giả lơ, không cho bắt; việc ấy thật hư như thế nào?
Võ Xuân Cẩn đứng lên sẳn sàng chịu tội, miệng tâu ngay thật:
- Chúng tôi thiển nghĩ, triều đình ta có đủ oai lực để bắt bọn hung đồ; bằng khi phát chuẩn nay mà làm luôn cả việc cầm phòng thì nhân tâm có thể ngờ lầm rằng: Triều đình đã hết kế. Chúng tôi sợ việc hay hoá dở, mất lòng tín nhiệm của dân.
Minh Mạng là một ông vua luôn luôn cho rằng mình là "chính đại quang minh" nên khi nghe lời tâu ngay thật của bề tôi ông rất cảm kích. Giọng ông trở nên tình cảm, bảo Võ Xuân Cẩn:
"Nhà ngươi nghĩ phải lắm. Đối với ai bao giờ cũng phải thị tin. Huống chi với dân, cũng như cha mẹ đối với con, há nở thừa khi cơ cầu để thi hành pháp luật hay sao!".
Khi quan thượng từ về, Minh Mạng trở lại điện Càn Thành, ông nói với Miên Thẩm:
- "Võ Xuân Cẩn khá lắm. Ít người biết thương dân và lo cho dân như thế".
Một ông hoàng giáp làm bạn với "một cậu ấm tàng tàng"
Ngày xưa việc kén chọn nhân tài đều qua các kỳ khảo hạch, các cuộc thi Hương, thi Hội và thi Đình. Thi Đình là lần thi cuối cùng tổ chức ngay trước sân vua, nhà vua ra đề và chính tay vua chấm. Những người được vào thi Đình là những người "ưu tú" nhất trong thiên hạ, sau khi thi đỗ, họ sẽ ra gánh vác việc nước.
Năm 1892 dưới triều Thành Thái, vì nhà vua còn nhỏ tuổi nên các quan Phụ chánh thay mặt vua ra đề thi Đình. Biết ý vua muốn làm một cái gì để cứu nước, muốn biết về tình hình thế giới và tìm được người có hiểu biết về cái mới để giúp nước nên đã ra cái đề:"Thiên hạ thế nhi dĩ hỷ", sau đó hỏi tiếp việc thế giới: nước mạnh lấn nước yếu, các nước phải giao lân với nhau như thế nào.
Trước tình hình thế giới đang tranh chấp nhau đi tìm thị trường buôn bán và hoàn cảnh nước Việt Nam bị Pháp đô hộ, ra đề như thế là đúng. Nhưng tiếc thay sĩ tử lúc đó nặng về từ chương, mù tịt việc thời sự và thế giới, trừ Võ Phạm Hàm và Nguyễn Thượng Hiền có đọc Dinh Hoàn Chí Lược viết được đôi trang, còn ngoài ra thấy đều ngậm bút, cố gắng hí hoáy viết dăm ba câu để nộp cho đủ quyển mà thôi. Trong đám sĩ tử ngậm bút ấy có một người tức giận với cái đề thi Đình, vì nó mà anh không đạt được mộng công danh. Y liền nghĩ đến việc trả thù. Một thì ăn cả hai ngả về không, Y bèn ra khỏi sân vua và chạy thẳng qua toà Khâm sứ Huế bên bờ nam sông Hương. Anh nhờ một người bạn báo với Khâm sứ:
- "Năm nay đề thi Đình có nói động đến thời thế!".
Bọn Khâm sứ đã saÜn mối nghi ngờ ông vua trẻ Thành Thái, nghe thế chúng liền cho người qua hỏi ngay. Các quan Phụ Chánh thấy thế hoảng sợ phải thay một cái đề khác. Nhưng đến như thế mà bọn thực dân Pháp vẫn chưa bằng lòng. Chúng buộc nhà vua phải giáng hoặc cách chức các quan Phụ Chánh đã dự ra cái đề thời thế không hợp thời ấy thì chúng mới yên tâm. Khắp đất Thần Kinh xôn xao về việc này. Nguyễn Lộ Trạch con một vị quan to, hiểu biết rộng nhưng không thích việc cử nghiệp nghe nói đến cái đề có liên quan đến thời thế ấy ông đã làm bài "Thiên Hạ Đại Thế Luận" để nói lên sự hiểu biết của mình trườc thời thế. Ông đưa bài này cho Nguyễn Thượng Hiền vừa đỗ Hoàng giáp xem. Nguyễn Thượng Hiền đọc xong và cho rằng trong đám đỗ đại khoa vừa rồi không có người nào làm được một góc bài ấy. đọc xong, Nguyễn Thượng Hiền nâng bút viết ngay một bài đề hậu để tỏ lòng khâm phục con người đã bị người đời lúc ấy cho là một "cậu ấm tàng tàng". Thượng Hiền còn tặng cho Lộ Trạch một câu đối:
"Ngã đường huề mỹ tửu, đăng cao sơn, tứ cố màng nhiên, hồi thủ đông minh, khang nhật xuất;
- Quân kim bàng thang giang, kiết mao ốc, sổ bôi túy hậu, nhứt thân lương lộ, bạn hoa miên".
Dịch nghĩa:
"...Ta thường mang rượu tốt lên núi cao, bốn phía mênh mông, một góc vừng đông trời ló mặt;
...Người nay dựa bờ sông, kết nhà lá vài chung say quỵt, đầy mình sương lạnh ngủ cùng hoa".
Từ đó hai người thân nhau. Một ông Hoàng giáp làm bạn với "Một cậu ấm tàng tàng". Đến khi Lộ Trạch mất (1898) toàn bộ sách vở, tài liệu của ông được Nguyễn Thượng Hiền cất giữ cẩn thận. Nguyễn đã trao những bí thư này cho Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng mượb đọc... Các ông này mở mắt ra với năm châu một phần nhờ tư tưởng của Nguyễn Lộ Trạch.
Ông Đỗ Huy Uyển là một người hay chữ nổi tiếng ở đất Nam Thành (Nam Định). Sau khi đỗ cữ nhân năm Canh Tý (1840), sĩ tử đều tin là Uyển sẽ đỗ đầu khoa thi hội năm sau (1841). Gia đình ông cũng nghĩ như thế, thân sinh ông là cữ nhân Đỗ Huy Cảnh làm tuần phủ ở Trung Việt, nhân trong lúc về hầu vua Thiệu Trị đúng vào dịp Kinh đô đang chuẩn bị mở thi Hội, gặp nhân viên hội đồng sắp đi chấm thi, Huy Cảnh mau miệng nói:
- Năm nay tôi có thằng con lớn sắp đi thi Hội, các bác phải về xem lại sách mới chấm nổi văn nó, cú đừng có hồ đồ mà cháu nó cười cho đấy!
Câu nói trong lúc cao hứng đã đến tai những người sẽ đọc quyển khoa thi hội năm ấy (hai người giữ vai trò quan trọng là Trương Đăng Quế và Phan Thanh Giản) mấy ông đều lấy làm phật ý.
Khi vào thi Hội, các quyển thi đều rọc phách, việc chấm bài rất chu đáo. Đến khi hồi phách quyển của Đỗ Huy Uyển bốn kỳ cộng lại được 17 phân đáng đỗ đầu. Nhưng hội đồng sực nhớ lời nói của Huy Cảnh lonh chưa hết giận nên dù không thể đánh hỏng được nhưng nhất quyết không cho Huy Uyển đỗ cao. Họ cố ý tìm trong quyển của Huy Uyển những chữ sơ sót để chỉ trích. Tìm mãi trong bài kim văn bỗng thấy có ba chữ "đáp thiên khiển" nghĩa là: "Vua phải sửa mình để tạ lỗi với trời". Các quan dâng sớ bẻ ba chữ ấy là [khiếm trang] và chỉ cho Huy Uyển đỗ gần cuối bảng (chỉ hơn được Phạm Xuân Quế ở Quảng Binh).
Thấy tên mình suýt nữa đội bảng, Đỗ Huy Uyển lấy làm nhục, toan trả lại sắc Phó bảng để kho sau thi lại đỗ cao hơn, lúc ấy bạn bè mới cho ông hay vì thân sinh ông đã cao hứng lở lời xúc phạm đến quan trường nên ông phải nhận lấy cái hậu quả ấy. Huy Uyển vở lẽ nên không trả nữa.
Sau đó Đỗ Huy Uyển làm quan đến chức biện lý bộ hình. Con ông là Huy Liệu có thực tài, thận trọng trong mọi việc ứng xử, đỗ Hoàng giáp. Huy Liêu nổi tiếng là người giỏi văn chương và có khí tiết. Huy Liêu từng làm phụ đạo cho vua Hàm Nghi. Hằng ngày ông vào Nội đọc sách và dẫn nghĩa cho vua nghe, khi về thì ông lại ở trong nhà Tôn Thất Thuyết dạy cho Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp học. Khí tiết của Huy Liêu có một phần ảnh hưởng đến vua Hàm Nghi, Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp.
Năm 1916, vua Duy Tân cùng các nhà yêu nước Thái Phiên và Trần Cao Vân tổ chức khởi nghĩa chống thực dân Pháp. Việc tuy không thành, vua bị đày sang đảo Rê-Uy-ni- Ông, Thái Phiên và Trần Cao Vân bị tử hình, nhưng tinh thần yêu nước của nhà vua và hai ông Thái, Trần vẫn sống mãi. Trong dân gian vẫn truyền tụng nhiều mẫu chuyện nói lên nổi ưu tư mất nước của ông vua trẻ và quyết tâm chống giặc ngoại xâm của ông.
Năm 1907 vua Thành Thái yêu nước nên bị giặc Pháp truất phế đày vào Vũng Tàu. Hoàng tử Vĩnh San lúc ấy mới 8 tuổi, giặc Pháp tôn ông lên làm vua, lấy niên hiệu là Duy Tân, để chúng nhân danh ông đè đầu cưỡi cổ bóc lột người Việt Nam. Chúng tưởng rằng nhà vua nhỏ tuổi, giặc nói gì ông cũng nghe. Nhưng không ngờ mới một ngày ngồi trên ngai vàng, bộ mặt của cậu bé 8 tuổi hoàn toàn thay đổi. Cậu bé Việt Nam 8 tuổi này tỏ ra không muốn làm một ông vua bù nhìn. Chẳng bao lâu sau, giặc phải làm một nhà thừa lương ở Cửa Tùng xa Kinh đô hàng trăm cây số để cho Duy Tân ra đó chơi đùa, sao nhãng bớt chuyện làm vua.
Ở Cửa Tùng, giữa cảnh trời cao bể rộng, vua Duy Tân không thể quên được lý do vì sao vua cha bị đày, ông lại càng không quên trách nhiệm làm vua của ông đối với nổi khổ cực lầm than của dân. của nước. Một hôm ông ngồi vốc cát biển lên chơi, hai tay bẩn. Một ông quan thị vệ bưng nước đến cho ông rửa tay. Vừa thò tay vào nước rửa lỏm bỏm, ông vừa nhìn ông quan thị vệ hỏi rằng:
- "Tay nhớp lấy nước mà rửa. Nước nhớp lấy chi mà rửa?"
Ông quan sợ quá, nhìn ông hai môi mấp máy mà không nói được nên lời. Nhà vua thông cảm cho người quản gia tội nghiệp, ông tự trả lời:
- "Máu!"
Một lần khác, một ông quan đại thần ra thăm vua, thấy nhà vua có vẻ buồn bực, ông liền bày cần câu đưa vua đi ghe ra biển câu.
Ra đến biển, vua mới buông câu thì lưỡi câu đã bị mắc. Nhà vua vừa lần gỡ câu vừa hỏi dò ý ông quan đại thần được nhà vua rất tin cậy, bằng một câu đối:
"Ngồi trên nước không ngăn được nước,
Buông câu ra đã lỡ phải lần!"
Biết ý nhà vua muốn hoạt động cứu nước, ông quan đại thần sợ nguy hiểm cho vua bèn đối lại, khuyên vua không nên có ý nghĩ táo bạo ấy:
Sống ở đời mà ngán cho đời,
Nhắm mắt lại đến đâu hay đó!"
Biết được tinh thần cầu an của ông quan đại thần, từ đó vua Duy Tân không bao giờ thổ lộ tâm tình với ông này một lần àno nữa. Nhưng ý muốn cứu nước của nhà vua lại được nhân dân địa phương biết đến rất nhanh. Lúc ấy có ông Khóa Bảo - một người hoạt động yêu nước ở Quảng Trị - đã tìm mọi cách để được đến gặp nhà vuạ.. Gặp nhau vua tôi rất mừng. Ông Khóa đã kể hết những chuyện tai nghe mắt thấy về tội ác của giặc Pháp bóc lột dân ta và nổi lầm than khổ ải của dân mình, nhà vua nghe chuyện và đã khóc.
Nhờ Ông Khóa Bảo mà đảng bí mật của Thái Phiên và Trần Cao Vân biết được vua Duy Tân đang muốn hoạt động cứu nước. Hai Ông đã rất công phu, giả người đi câu hẹn gặp nhà vua và bàn với nhà vua kế hoạch cứu nước. Vua Duy Tân chấp nhận mọi ý kiến của hai nhà yêu nước và hối thúc hãy hành động nhanh lên để giàng được cơ hội tốt.
Vua Duy Tân cũng như hai nhàyêu nước Thái, Trần, tinh thần yêu nước, căm thù giặc có thừa, nhưng thiếu một đường lối cứu nước tiên tiến, thiếu một phương pháp tổ chức thích hợp nên cuộc khởi nghĩa hồi tháng 5 năm 1916 đã thất bại, những người cầm đầu bị dìm trong biển máu.
Lúc giặc vây bắt nhà vua tại một căn nhà gần núi Thiên Thai, nhà vua vẫn bình tĩnh, saÜn sàng nhận mọi sự đối xử tàn bạo của kẻ thù. Bọn giặc thấy một vật gì cồm cộm bên hông giắt trong áo nhà vua, chúng loay hoay muốn soát. Nhà vua hiểu ý, chỉ cái vật ấy và nói với tên Khâm sứ và tên chánh mật thám người Pháp rằng:
- "Mấy Ông tưởng cái ni là súng lục hả? Không phải mô. Tui mà có súng thì tui bắn mấy Ông chết hết rồi, đây là cục lương khô thôi!"
Bọn giặc bị hạ nhục nhưng chúng cũng được yên tâm. Tên Khâm sứ đưa vua Duy Tân về giam trong đồn Mang Cá của chúng. Trên đường đi, chúng hỏi nhà vua:
- "Nhà vua có ân hận gì về cuộc phiêu lưu vừa rồi không?"
Vua Duy Tân đáp một cách thản nhiên:
- "Có chớ!"
Tên Khâm sứ mừng rỡ hỏi tiếp như hỏi một cậu học trò:
- "Ân hận như thế nào?"
Vua Duy Tân đáp không một chút ngại ngùng:
- "Vì ta chưa đánh được người Pháp mà đã bị bắt!"
Không khuất phục được ý chí của vua Duy Tân, chúng bắt đem nhà vua về giam. Giặc Pháp làm áp lực, bắt triều đình và gia đình vào nhà giam thuyết phục nhà vua hãy bỏ ý chí cứu nước để chúng sẽ đưa nhà vua trở lại ngai vàng. Vua Duy Tân nói rõ ý muốn của mình:
- "Ta saÜn sàng trở lại ngai vàng, nhưng muốn ta trở lại, nước Pháp phải thi hành những điều khoản tự chủ của Việt Nam trong hòa ước 1884, nước Pháp bảo trợ cho nước Việt Nam chứ không phải bảo hộ nước Việt Nam. Phải coi ta là một ông vua trưởng thành, trên ta không có hội đồng Phụ chánh. Pháp không được nhân danh ta làm những điều thuộc quyền của ta!"
Điều kiện của vua Duy Tân đưa ra quá cao đối với bọn thực dân, vì thế chúng đã quyết định đày ông đến một nơi xa xứ là đảo Réunion tận bên trời châu Phi. Đến lúc Ông sắp lên đường, bọn Pháp lại cho người đến ban một ân huệ cuối cùng. Tên tay sai Pháp thưa:
- "Thưa ngài, chúng tôi biết trong nội khố, ngài còn một số tiền lớn, ngài lại có một tủ sách tiếng Pháp rất nhiều. Ngài có cần lấy một ít tiền cầm tay và số sách để đọc dọc đường không?"
Vua Duy Tân đáp:
- "Ta làm gì có tiền, Tiền trong nội khố là tiền của dân. Ta là người tù của Pháp, Pháp không nuôi được một người tù sao mà cần phải cầm tiền theo. Còn nếu người Pháp biết điều, muốn để cho tù nhân đọc sách thì người hãy lấy cho ta bộ sách cách mạng Pháp 1783 của Michelet và phải lấy cho đủ bộ!"
Tên tay sai đi gặp vua Duy Tân về trình bày lại với Pháp, bọn Pháp ngao ngán thở ra:
- "Không thể nào thỏa hiệp được với con người này".
Sau đó nhà vua vào Nam xuống tàu đi đày cùng một chuyến với vua cha sang đảo Réunion.
Ba mươi năm sau, vua Duy Tân đã bị giết một cách bất ngờ.