Báo Nam Phong (tập IV, số 21, tr. 229-230) đăng mười bài thơ Khuê Phụ Thán với tên tác giả là Nguyễn Thịï Phi (Do Phan Sơn Đại sao lục) đã làm cho người đọc hết sức cảm động. Tác giả "Nữ Lưu Văn Học" là ông Sở Cuồng Lê Dư (tr. 60-63) cho rằng mười bài thơ này là nỗi lòng của bà Nguyễn Hoàng Phi - một trong những bà phi vợ vua Thành Thái, đối với người chồng vì yêu nước mà bị lưu đày. Nhưng thực sự có đúng như thế không?
Lúc ấy ở Huế còn nhiều bà phi vợ vua Thành Thái người ta đã đến hỏi thì được biết cũng có nhiều bàgiỏi thơ văn nhưng họ thích làm thơ chữ Hán chứ không có ai giỏi thơ nôm đến có thể sáng tác được mười bài thơ trên. Như thế rõ ràng đã có một nhàyêu nước nào đó đã mượn hoàn cảnh và tâm sự gia đình ông vua yêu nước Thành Thái để tỏ chí mình. Vậy người ấy là ai?
Có người mách với nhà thơ Vân Đài rằng tên tác giả mười bài thơ Khuê Phụ Thán là một nhà thơ xứ Huế tên thật là Phang Quốc Quang hiệu là Thượng Tân Thị, sinh năm 1880, cụ đã vào miền Nam sau khi vua Thành Thái bị đày, và đến dạy học ở xã Tam Bình, quận Tùng Liên tĩnh Vĩnh Long (cũ). Vào Khoảng năm 1943, chị Vân Đài đã tìm đến thăm Thượng Tân Thị, hỏi về mười bài Khuê Phụ Thán. Cụ Thượng Tân Thị phàn nàn rằng:
- "Nếu tôi biết sự thể ra như ri thì tôi không cho con tôi (tức là Phan Đại Sơn) đăng báo làm chi! bây chừ người ta cứ lôi tên tuổi mình ra người ta hỏi, mà mình thì không muốn trả lời!"
Chị Vân Đài:
- "Cũng tại cụ khi cho đăng lên báo cụ không để tên thật của cụ, lại để tên Nguyễn Thị Phi nên người đời lầm tưởng là phải!"
Thượng Tân Thị:
- Với tui mười bài thơ Khuê Phụ Thán này ra đời, chẳng qua chỉ là một lúc cảm cái thân thế vô duyên của kẻ cùng đồ, nên mượn cảnh mượn tình một hoàng phi thất thế để để nói tâm sự mình. Tui không dè người đời lại để ý đến. Ba chữ Nguyễn Thị Phi tức là một bà phi nhà họ Nguyễn chớ không có chi khó hiểu. Vậy mà có người nghĩ là Nguyễn Thị Phi. Nguyên văn của tôi cũng có chỗ in sai lạc đi, như câu:
Ướm hỏi từ đây qua tới đó,
Đường đi non nước độ bao dài...
Người ta cứ in lầm là "bao đài".
Hôm ấy Thượng Tân Thị đã cho chị Vân Đài xem thêm một số tác phẩm của ông.
Sau khi từ giả Thượng Tân Thị, chị Vân Đài về khách sạn ở lại và đã làm 10 bài thơ họa 10 bài Khuê Phụ Thán.
Từ khi 10 bài Khuê Phụ Thán ra đời, nhiều người yêu nước đã vịn vào đó mà làm 10 bài họa để tỏ chí mình. Riêng ở Huế có Hoài Nam Nguyễn Trọng Cẩn (1900 - 1947) tác giả tập "Tiếng cuốc canh khuya" (xuất bản năm 1937) cũng làm 10 bài họa với tựa đề chung là Tiếng Gọi Bên Trời. Mười bài Khuê Phụ Thán thì nhiều người đã đọc, nhưng "Tiếng Gọi Bên Trời" thì ít người biết, chúng tôi xin sao lục đăng dưới đây để đọc giả ngâm nga cho vui.
Tiếng gọi bên trời
Xã tắc khôn nhìn nữa vợ con!
Trăm năm hết tính cuộc vuông tròn.
Nguyền xưa vàng đá trôi dòng nước,
Hồn cũ mây mưa cách mấy non.
Mù mịt ven trời tin nhạn lạc,
Gập ghềnh đất khách vó câu von.
Phần sầu, phần giận, phần trông nhớ,
Mắt đã mòn thêm ruột lại mòn.
Mắt mòn bên Á lại bên Âu,
Mà nước non nhà có thấy đâu?
Kiến cỏ trêu người khi lỡ bước,
Mưa ngâu giục khách mấy cơn sầu...
Tấc lòng muôn dặm đôi hàng lệ,
Chiếc bóng năm canh một đĩa dầu.
Trướng phụng kìa ai chờ đợi đó?
Tấm lòng thổ thức suốt canh thâu.
Thổn thức canh thâu đứng lại ngồi,
Càng không yên giấc ruột càng sôi.
Nghìn năm cơ nghiệp còn đâu đó?
Mấy cuộc tang thương sự đã rồi.
Thương kẻ ngậm ngùi khi tựa gối,
Biết con trằn trọc lúc nằm nôi.
Nào con, nào vợ, nào ai đó?
Mình luống than mình, mình hỡi ôi!
Hỡi ôi!việc cả bấn hơn tương,
Để lại cho ai một tấm thương!
Mây mắt lờ mờ che đỉnh Ngự,
Sóng lòng cuồn cuộn lấp dòng Hương.
Non sông xưa những ngoài muôn dặm,
Trời đất nay đành khep một phương!
Nhục nhục, vinh vinh, âu cũng thế,
Tan tan, hợp hợp vẫn cơ thường.
Cơ thường tan hợp gác bên vai,
Hợp bởi vì ai, tan bởi ai?
Hợp giống cơn mây xây trước mắt,
Tan như trạn gió thoảng ngoài tai.
Gương sa xuống đất không tròn nữa,
Bóng giọt bên đèn dễ hoá hai.
Thôi nỏ tình chi cho mệt xác,
Quản bao tình vắn lại tình dài.
Tình dài tình vắn kể sao cùng,
Hai lẻ công tư đổ lộn chung.
Vì nước đã quen thân vạn thặng,
Không nhà đành phụ bạn tam tùng.
Đỉnh chung một cuộc, mưa tan tác,
Chăn gối đôi nơi, nguyệt lạnh lùng.
Muốn lặng để xem trời đất chuyển,
Sóng cồn đâu đã dậy lung tung.
Lung tung ngọn sóng vỗ quanh thành,
Khắc khoải lòng riêng suốt mấy canh.
Cỏ ngậm hơi sương tuông tả lá,
Lan theo ngọn gió phất phơ mành.
Để ai gối chếch lòng bao nả,
Vì nước hoa trôi phận đã đành.
Nông nỗi kiếp này thôi đã vậy,
Còn duyên hay nợ kiếp lai sinh?
Kiếp lai sinh có nợ gì không?
Trả hết cho tròn với núi sông.
Xao xác trời Nam trăm lũ kiến,
Chơi vơi bể Bắc một mỉnh hồng.
Rồng nằm bến cạn khôn phun nước,
Phượng mắc giây đăng khó rật lòng.
Nghĩ đến tôi con thêm thẹn, hổ...
Lại mang lấy tiếng "đức ông chồng".
Cái "đức ông chồng" bạc lắm chăng?
Tình kia chưa thoa? dạ chưa bằng.
Nguồn ân dòng ái đôi đường cách,
Núi thảm non sầu một dải dăng.
Các dạ trường xe sông khó lấp,
Đá tinh vệ ngập bể khôn ngăn.
Gương thề một mảnh chia đôi ngả,
Sực nhớ nguyền xưa thẹn với trăng.
Thẹn với trăng già với núi non!
Trăng bao nhiêu tuổi núi bao hòn?
Trăng toan mở mặt vì mây ám,
Núi muốn quay đầu sợ đá mòn.
Chim Việt lìa rừng ôm tổ khóc,
Ngựa Hồ quen lối thẳng đường bon.
Trăm năm thân thế mong gì nữa...
Xã tắc khôn nhìn nữa vợ con!
Rồng là mô típ trang trí phổ biến ở kinh đô Huế. Trong các kiến trúc của triều Nguyễn, nếu Phụng tượng trưng cho phái nữ như các bà Thái hậu, các bà công chúa thì rồng là biểu tượn của phái nam, của vua. Nhưng muốn phân biệt con rồng của vua và con rồng của phái nam phải cấu tạo con rồng của vua có năm móng, không phải vua thì chỉ có bốn móng. Vì thế mà khi muốn vẽ rồng 5 móng, triều đình phải rất thận trọng, phải tìm cho được hoa. sĩ giỏi nhất và phải dùng những chất liệu, những phương tiện tốt nhất để thể hiện.
Khải Định là một ông vua suốt mười năm ngồi trên ngai vàng chỉ lo xây lăng, cung An Định và điện Kiến Trung. Các công trình đã chịu ảnh hưởng nặng nề của kiến trúc châu Âu, có nhiều mảng tường lớn nên Khải Định đã phải xử dụng nhiều họa sĩ, điêu khắc làm tranh tượng hoành tráng. Một trong những họa sĩ bị trưng dụng là ông Cửu Tánh.
Một hôm Khải Định lên xem thợ xây lăng thì thấy Cửu Tánh đang nằm ngửa trên một cái giàn tre, trên thân hình chỉ độc nhất có một cái quần đùi, hai chân quắp hai cái cọ vẽ nhúng vào phẩm vẽ rồng năm móng ẩn mây trang trí cái trần điện Khải Thành. Thấy vua mà không chịu ăn mặt đàng hoàng đến phủ phục phục chào vua đã là mắc tội khi quân, lại còn dùng hai chân mà vẽ rồng năm móng nữa, quả thật Cửu Tánh không thể tránh được tội chết.
Khải Định đứng dưới dòm lên nói như quát vào mặt Cửu Tánh:
- "Vì răng mi dám dùng chân mà vẽ rồng năm móng? Mi không biết khi quân rứa là chết à?"
Cửu Tánh vẫn nằm ngửa, mắt nhìn lên trần điện Khải Thành hai chân vẫn ngúy ngoáy bệt phẩm vẽ lia lịa, miệng nói với xuống đất với Khải Định:
- "Dạ bẩm Hoàng thượng mô dám! Vì vẽ bứa rồng ẩn mây ni lớn mà khoảng cách giữa tay với mắt lại quá gần không thể điều chỉnh xa gần đậm lạt được, nên thần phải dùng chân!". Khải Định nghe có lý nên phải dịu giọng nói: - "May mà chỉ có một Cửu Tánh, chứ có đến hai đứa thì tau phải lấy cái đầu mi!". Cửu Tánh tủm tỉm cười và hình như cái đầu rồng vừa vẽ xong dưới cái trần nhà đang nhìn Khải Định và nhe răng cười.
Năm 1301, sau khi thắng quân Nguyên, vua Trần Nhân Tôn nước Đại Việt sang thăm Chiêm Quốc. Vua nước Chiêm lúc ấy là Chế Mân đã tổ chức Nghi Lễ đón vua Trần vô cùng trọng thể. Sau chín tháng trò chuyện, thăm viếng bàn bạc ngoại giao giữa hai nước, vua Trần đã quyết định gả công chúa Huyền Trân yêu quí của nước Đại Việt cho Chế Mân - mặc dù vua nước Chiêm đã lớn tuổi và đã có nhiều vợ.
Khi cái tin vua Trần hứa gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân đưa về đến Kinh đô Thăng Long, quần thần và dân trăm họ vô cùng xao xuyến. Công chúa Huyền Trân thì hoảng hốt, vật vả người một cách thảm thiết. Phần thì công chúa lo đi làm vợ vua Chiêm ở xứ lạ quê người, phần thì công chúa đau đớn phải xa lìa người yêu là Trần Khắc Chung - một vị tướng trẻ của nước Đại Việt. Suốt mấy năm liền, công chúa cứ ẩn mình trong cung, nổi khổ tâm da diết của công chúa không thể nào diễn tả cho hết được. Trong lúc đó quần thần và dân trăm họ chưa hiểu được dụng ý của vua Trần đã dùng thơ văn chế nhạo việc gả bán của nhà vua. Dư luận chống lại việc gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân đã vượt biên giới lan tận tai vua Chiêm, vua Chiêm không ngạc nhiên và cũng không bỏ ý định cưới Huyền Trân.
Năm 1306, vua Chiêm cho người sang Thăng Long xin vua Trần thực hiện lời hứa cũ và thông báo cho nước Đại Việt biết nếu cưới được công chúa Huyền Trân thì vua Chiêm sẽ cắt hai châu Ô, Lý (là đất cũ của nước Đại Việt) trả về cho nước Đại Việt làm quà sính lễ. Công chúa Huyền Trân vốn đã hiểu được nổi thao thức của vua cha về đất nước: Hai châu Ô, Lý của Đại Việt đã lọt vào tay nhà Tần rồi nhà Hán từ xa xưa và lệ thuộc Chiêm Thành, cho nên nghe tin ấy công chúa Huyền Trân đang đau khổ bổng dưng bà trở nên vui tươi. Bà hiểu được dụng ý của vua cha dùng tình cảm giao hảo giữa hai nước mà tiết kiệm được máu xương của trăm họ, Bà chịu hy sinh tình riêng để nhận lời ra đi.
Khi Bà sang đến Chiêm Quốc thì đồng bào ở hai châu Hoan, Aùi (Thanh Hóa, Nghệ An ngày nay) cũng rầm rộ kéo nhau vào tiếp nhận hai châu Ô, Lý. Châu Ô đổi thành châu Thuận, châu Lý đổi thành châu Hóa. Đồng bào thường gọi chung là Thuận Hoá.
Người đời sau biết ơn bà đã làm nhiều thơ văn ca ngợi sự hy sinh của bà.
Sau này, các điệu ca Huế nổi tiếng Nam Bình, Nam Ai ra đời cũng xuất phát từ cuộc ra đi của Bà Huyền Trân. Mấy câu ca kết thúc bài Nam Bình "Nước non ngàn dặm ra đi" thật thấm thía:
"Dặn một lời Mân quân,
Nay chuyện đà như nguyện.
Đặng vài phân,
Vì lợi cho dân.
Tình đem lại mà cân,
Đắng cay muôn phần."
Cao Bá Quát có tài học mà chẳng được dùng, quan tỉnh Bắc Ninh thấy thế liền mật tấu về Kinh, nên năm 1841, ông được sung chức Hành tẩu bộ Lễ.
Nhân gặp khoa thi Hương, ông được cữ đi làm sơ khảo trường Thừa Thiên. Trong khi chấm văn, ông thấy có một quyển văn hay mà viết phạm một chữ húy; chữ ấy đáng lẽ phải bớt nét (tỉnh hoạch) mà thí sinh lại sơ suất không bớt. Đúng phép thì quyển văn dù hay đến đâu mà đã viết phải một chữ phạm vào quốc húy là phải đánh bỏ, nếu phạm vào trọng húy thì lại còn phải tội là khác, ông Quát vốn là người phóng đạt nên ông cho rằng những luật lệ ấy là quá khắc nghiệt của trường qui loại bỏ. Vì lòng thương tài, trong tâm trí ông bổng nảy ra ý nghĩ rằng phải sửa hộ để cứu quyển văn có giá trị này. Nhưng khốn thay ở chốn quan trường chỉ có mực son chứ không có bút mực xạ thì làm sao chữa hộ cho được? Ngừng một lát rồi ông lấy một mảnh giấy, hơ lên trên ngọn đèn để lấy muội khói, rồi gợt sạch bút son, dầm quện vào cái muội ấy thay làm mực để chữa. Đoạn, ông cứ cho điểm vào quyển ấy để láy như thường, nhưng sau đó người ta phát hiện ra việc sửa bài này. Người được Cao Bá Quát cứu ấy là Phạm Gia Hanh. Ông Quát bị cách chức và phát phôi đi Đà Nẵng.
Theo Đại Nam liệt truyện của Quốc sử quán triều Nguyễn thì không phải ông Quát sửa một quyển mà chính ông cùng với bạn đồng sự là Phan Nhạ đã dùng muôi đèn chữa những 24 quyển văn, trong đó có 5 quyển được đỗ. Việc vỡ lở, quan giám sát Trường thi là Hồ Trọng Tuấn dàn hặc, ông Quát bị ghép vào tội tử hình. Vua Thiệu Trị là người sính văn chương đã có sẵn cảm tình với ông Quát nên nhà vua đã gia ân giảm án cho ông thành "giam để chờ xử giảo". Nhưng sau ông Quát được ân xá và khởi dụng trở lại.
Sau ngày thất thủ kinh đô bọn giặc Pháp chiếm đóng Huế, đồng bào bị sưu cao thuế nặng vô cùng đau khổ. Dân gian đã phải ta thán:
"Từ ngày Tây lại đế đô,
Sưu cao thuế nặng biết chừng mô hỏi trời.
Còn lo một nổi khổ đời,
Quan trên ỷ thế nhiều lời hiếp dân".
Đó cũng là tình trạng chung của cả nước. Đến đầu năm 1908 phong trào chống thuế ở các tỉnh phía Nam bùng nổ. Ngọn lửa khán sưu, chống thuế ở Huế - Thừa Thiên có dịp sáng lên. Đặc biệt ở hai làng Gia. Lê Chánh và Công Lương (xã Thủy Vân ngày nay). Ông Khóa Nối (Tên thực là Nguyễn Hoàng Chi) giả làm người buôn quế loan truyền một tờ Thông tri mang nội dung như sau:
"Đáng yêu thay dân tỉnh Quảng Nam!
Đáng kính thay dân tỉnh Quảng Nam!
Đáng học thay dân tỉnh Quảng Nam!
Giặc Pháp mượn tiếng bảo hộ, ngược đãi dân ta thật đã quá lắm. Hàng năm nộp xong sưu thuế rồi, mình không còn chiếc áo lành, bụng không được ăn cơm no đi nới khác tìm ăn, khổ hết chỗ nói. Nếu không một phen đứng dậy tỏ tình kêu nài thì sưu thuế vẫn còn tăng mãi. Dân ta mười nhà đã đến chín nhà rỗng không. Khó lòng gánh chịu được. Nếu cứ ngồi mà đợi chết, chi bằng vùng dậy mà tìm lối sống!"
Bạn ông Khoá Nối là Lê Đình Mộng - người làng Gia. Lê - đứng lên lãnh đạo nông dân hội họp dân chúng phát động phong trào chống thuế ở Huế - Thừa Thiên.
Nghe tin đó, thực dân Pháp vội phái Ông Phủ doãn Thừa Thiên là Trần Trạm - một người nổi tiếng thanh liêm, cùng Phó quản Trần Phán đem theo một đội lính khố xanh, có tri huyện Phú Vang Trần Hữu Chí dẫn đường chèo đò về Công Lương - Gia. Lê với ý định hiểu dụ dân chúng không nên có những hành vi chống thuế như hạt Quảng Nam sẽ mang họa vào thân.
Dân chúng đón hỏi:
- "Lúc ni mà Ông Phủ doãn đi mô rứa?"
- "Quan binh đi hành hạt, sao dân không ra nghênh đón mà hỏi chi khiếm lễ rứa?"
- "Dân đói kém đang định kéo nhau lên Phủ, lên Huyện xin sâu, xin thuế, dân tình đâu có ở nhà mà quan Phủ doãn đi hành hạt?"
- "Ai cho phép dân đi?"
- "Cái bụng đói bắt đi!"
Sau một hồi tranh cãi bỗng có một người đứng trên cầu Gia. Lê ném một cục đất vào thuyền do Trần Phán chỉ huy. Dân chúng tưởng Lê Đình Mộng ra hiệu lệnh ùa xuống nước định bắt trói Trần Trạm. Nhưng may sao có ý kiến cho rằng Ông là người tốt chỉ bị bọn thực dân lợi dụng thôi nên họ bỏ Ông vô thúng ngồi. Bọn Trần Phán và Trần Hữu Chí hạ lệnh nổ súng. Dân chúng nghe súng nổ càng sôi máu, họ dùng đất rang ném lại bọn quan binh như mưa. Ông Nguyễn Cường - Người Công Lương, bị bắn chết tại chỗ. D6an đưa ra sau lấy lá Thầu Dầu đắp kín chuẩn bị khiêng đi đấu tranh chứ không chôn.
Tên Trần Phán hung hăng nhất bị trói ngoé, những tên lính đã gây nợ máu bị trói và bị nhận nước.
Sáng hôm sau (10-04-1908), dân hai làng Công Lương - Gia. Lê đã gánh Ông Trần Trạm và khiêng xác Nguyễn Cường vào Huế đấu tranh. Dân sáu huyện Thừa Thiên hay tin cũng kéo vào. Đoàn người đi đấu tranh có những nét rất đặc biệt: tóc cắt ngắn, áo quần rách tả tơi, mang bị như người đi xin và họ gọi nhau là đồng bào.
Bọn Pháp đã xua lính ở Mang Cá lên đàn áp đẫm máu cuộc đấu tranh. Tuy vậy, trước khí thế của quần chúng, bọn thực dân đã phải giảm sưu, hạ thuế. Và từ đó làm gì có hại cho dân, chúng cũng phải cân nhắc.