Thời gian đi rất nhanh, từ đây đến Nguyên Đán. Say sưa vì lần hội diện cuối cùng với Alissa, sự phấn khởi của tôi không phút nào suy giảm. Như đã nguyện, mỗi chủ nhật, tôi viết cho nàng mỗi bức thư thật dài, những ngày khác thì tôi xa bạn bè, chỉ chơi với Abel, sống với ý tưởng Alissa, và sách vở tôi ghi chú đầy rẫy những điều chỉ dẫn để cho nàng dùng; đem niềm hào hứng của mình tìm kiếm trong sách vở, mà đặt hết vào trong niềm hứng thú của nàng, niềm hân hoan mà ngày sau nàng ắt sẽ tìm thấy. Thư Alissa có làm tôi lo ngại ít nhiều, nàng vẫn viết cho tôi đều đều, nhưng hình như có ý lo âu khuyến khích sự học của tôi hơn là do tình yêu thúc giục. Tôi còn nghĩ rằng, nếu với tôi, sự thảo luận văn chương chỉ là một phương tiện để giải bày tư tưởng của riêng mình, thì đối với nàng, trái lại, dường như để che giấu không cho tôi rõ ý tưởng của nàng. Đôi khi tôi còn cảm thấy rằng đối với nàng, đấy chỉ là một trò đùa thôi, không khác. Nhưng mặc! Không phàn nàn kêu ca gì hết, trong thư tôi cố xóa nhòa mọi nỗi lo âu.
Cuối tháng chạp, Abel và tôi về Havre.
Tôi đến nhà dì Plantier. Dì đi vắng. Vừa vào phòng riêng, thì người làm vào bảo dì đã chờ ở phòng khách.
Dì hỏi han sức khỏe, học hành xong, âu yếm vào ngay câu chuyện :
- Cháu chưa nói cho dì rõ, những ngày ở Fongueusemare lúc trước có vừa lòng cháu không? Nói cho dì biết, công việc đã tiến hành tồn lưu tồn lập được nhiều ít tập họp chi không?
Thế là lại phải biết chịu đựng sự vụng về thật thà của dì tôi. Tuy khó chịu khi nghe dì sống sượng nói đến mối tình đẹp đẽ của mình, nhưng làm sao cáu được, khi nghe những câu hỏi thân mật thẳng thắn, nhưng tôi vẫn hờn dỗi ra mặt.
- Cháu còn nhớ rằng hồi đầu năm dì có bảo đính hôn như thế là hơi sớm kia mà?
- Ừ, thì đã hẳn: trước tiên cũng phải nói thế chứ, dì vừa nói vừa nắm lấy tay tôi, trìu mến siết chặt. Vả chăng cháu còn học, còn tòng quân, thì chưa dễ gì tính chuyện hôn nhân sớm được. Cũng còn phải nhiều năm, dì biết thế. Và riêng dì, dì không tán thành những cuộc đính hôn kéo dài ra. Kéo dài ra chỉ làm mệt mỏi tồn lưu cho con gái. Nhưng nhiều khi cũng cảm động thật... Mà không cần phải làm chính thức cho phiền. Chỉ cốt cho người ta hiểu - ồ! kín đáo thôi! hiểu rằng không còn cần phải tìm những nơi khác; như vậy mới dễ chuyện giao thiệp, gặp gỡ, thư từ của cháu chứ; và nếu nói cho cùng, có đám nào đến hỏi - sự ấy có thể xảy ra lắm, cháu nhé! - thì cũng có thể để mình trả lời họ rằng... không; rằng không cần cái đó nữa. Cháu biết không, người ta đi hỏi Juliette đấy. Juliette được để ý rất nhiều, mùa đông năm nay. Nó cũng còn hơi trẻ một chút, và đó cũng là lời Juliette đáp với người ta: nhưng người ta lại sẵn sàng chờ đợi; kể ra họ cũng không còn là một chàng trai trẻ hẳn, nhưng dù sao cũng là một đám rất nên; một kẻ rất bằng chắc; ngày mai cháu sẽ gặp, dì dựng cây Noel, có mời anh ta đến. Cháu sẽ cho dì biết cảm tưởng bước chân em chồn tồn lưu nhé.
- Dì ạ, cháu sợ rằng anh ta sẽ mất công mà chẳng được gì, và có thể rằng Juliette đã có một hình ảnh nào ở trong tâm trí rồi - tôi dừng lại chưa muốn nói tên Abel.
- Hừ? - dì tôi như muốn hỏi... với vẻ mặt nghi ngờ và hơi nghiêng đầu về một phía. Cháu làm dì ngạc nhiên! Thế sao Juliette chả nói gì cả?
Tôi mím môi, không muốn nói thêm.
- Chào. Rồi hãy hay sau. Cháu Juliette lúc sau nầy thường mệt mỏi. Vả lại hôm nay không phải để bàn chuyện cô ta. À! Alissa cũng thật là dễ thương lắm... Nào, con đã có bày tỏ ý định tồn lưu với nó chưa?
Dì dùng những tiếng quá thật, tôi đâm bực mình, nhưng trước câu hỏi đột ngột, tôi không quen nói dối, nên lúng túng đáp :
- Vâng, đã ạ. Và cảm thấy mặt mày nóng ran.
“Trâm môn thân phận bất đồng
Lọ là thí chủ tấc lòng lẳng lơ!”
- Alissa đáp sao?
Tôi cúi đầu xuống, không muốn đáp. Rồi lúng túng hơn, tôi bảo :
- Nàng không chịu đính hôn?
- Ừ phải mà. Còn bé thế là tồn lưu có lý. Các cháu còn chán thì giờ đi...
- Dì ạ, thôi gác chuyện ấy lại - tôi muốn chận lời dì, nhưng vô ích.
- Vả điều ấy không làm dì phải ngạc nhiên; dì vẫn thường thấy nó biết điều hơn cháu kia đấy.
Tôi không rõ lòng tôi lúc ấy thế nào; có lẽ mệt nhoài đi vì bà dì cứ gặn hỏi mãi, bỗng dưng tôi thấy lòng mình như rã rời, tan vỡ; như một đứa trẻ con, tôi quỳ xuống, gục đầu vào gối dì, tấm tức :
- Không, dì không hiểu được. Alissa không có ý bảo cháu chờ đợi.
- Sao! Chẳng lẽ nó ruồng bỏ cháu sao? Dì tôi ái ngại vừa nói vừa nâng trán tôi lên.
- Cũng không phải thế. Tôi buồn nản lắc đầu.
- Cháu sợ rằng nó không còn yêu cháu nữa?
- Ồ không. Cháu không sợ điều ấy.
- Cháu ơi, nếu muốn dì hiểu được, thì phải gắng nói sao cho rõ hơn một chút ít chứ.
Tôi vừa thất vọng vừa xấu hổ sao mình có thể mềm yếu như thế? Dì tôi hẳn nhiên là không thể nào hiểu được những hoang mang của tôi; nhưng, nếu có một vài cớ nào rõ rệt ẩn sau lời từ chối của Alissa thì dì có thể dịu dàng hỏi được, sẽ giúp tôi tìm ra... Dì nói tiếp :
- Nầy, cháu nghe đây: sáng mai, Alissa sẽ đến giúp dì trang hoàng cây Noel; dì sẽ hỏi rõ đầu đuôi; trưa lại, dì sẽ cho cháu biết. Cháu sẽ hiểu rằng chẳng có gì đáng ngại lo cả.
Buổi chiều, tôi đến dùng cơm tại nhà cậu Bucolin. Juliette ốm đôi ngày rồi, gương mặt có vẻ khác; đôi mắt nàng có một điều gì khó nói sắc sảo lạnh lùng, gần như tàn nhẫn, càng làm cho nàng khác biệt Alissa hơn. Tối hôm ấy, tôi không nói chuyện riêng được với ai, cả Alissa và Juliette; tôi cũng không mong muốn gì; cậu lại mệt mỏi, tôi ra về.
Hàng năm cây Noel dì tôi dựng quây quần khá đông trẻ con và bạn bè thân thích. Nó được dựng lên ở tiền đình. Cây dọn chưa xong, và qua hôm sau, Alissa đến nhà dì rất sớm để gắn móc giúp vào cành những vật trang hoàng: nến, quả, kẹo, bánh và đồ chơi. Nếu cùng nàng soạn sửa, chắc là tôi vui thích, nhưng phải lánh đi, để cho dì Félicie có dịp dò hỏi riêng. Tôi ra về, không gặp nàng, suốt buổi mai tìm cách nguôi quên những nỗi ưu tư.
Tôi đến nhà cậu, mong gặp lại Juliette; mới hay rằng Abel đã gặp nàng trước tôi. Sợ làm rộn câu chuyện có lẽ sắp dứt khoát giữa hai người, tôi lại đành bỏ đi, lang thang ra bờ ke, và quanh quẩn dạo khắp các đường phố cho đến trưa.
Khi trở về dì Félicie niềm nở :
- Cháu thật là khờ khạo hết sức! Có ai lại tự ý làm hỏng đời mình đến thế hay không! Mọi sự con kể cho dì nghe sáng nay đều sai bét hết cả. Có khó khăn gì đâu: dì bảo cô Ashburton đi ra ngoài nghỉ ngơi, bà ta lo lắng giúp đỡ nhiều cũng nhọc, ở lại một mình với Alissa, dì thong dong hỏi rất tự nhiên “sao cháu không chịu đính hôn trong dịp hè vừa qua”. Cháu tưởng nó lúng túng chắc?
“Không, nó không lúng túng chút nào cả; nó chậm rãi bình tĩnh trả lời rằng nó không muốn lấy chồng trước con em nó. Nếu con mà hỏi thẳng nó, thì nó đã trả lời với con như thế rồi. Chỉ có thế thôi mà tự đày đọa mình khổ! Cháu thấy không, chỉ có thành thật là hơn hết... Tội nghiệp con bé, nó còn nói đến ba nó... ngày càng già yếu, nó không thể rời bỏ mà đi. Ồ! Hai dì cháu nói chuyện suốt buổi. Con bé thật là khôn ngoan hết mực, nói năng phải lời, cháu ạ; nó còn nói rằng không chắc xứng đáng làm vợ cháu; nó lớn tuổi quá, và có ý ước mong cháu lấy một người nào trạc tuổi Juliette là phải hơn...”
Dì tôi còn tiếp tục nói nhiều nhưng tôi không còn nghe thấy gì nữa; chỉ một điều cần yếu: Alissa không muốn lấy chồng trước Juliette. Nhưng đã sẵn Abel kia rồi! Thằng cha lông bông thế mà chí lý: cùng một lúc nó “hạ” luôn hai đám cưới một lần.
Tôi cố gắng giấu sự xúc động của mình trước lời thố lộ giản dị ấy, bằng một niềm vui vừa phải, tự nhiên; và dì tôi sung sướng biết bao, tự thấy như chính mình đem lại niềm vui đó cho thằng cháu. Dùng bữa xong, tôi cáo từ dì, chạy tìm Abel.
Anh ta bá lấy cổ tôi hôn, khi tôi vừa cho anh hay tin vui tồn lập của mình.
- Hừ, tôi nói có sai đâu; tôi có thể cho anh biết trước rằng câu chuyện sáng nay với Juliette thế là dứt khoát, tuy trước sau hai đứa chỉ nói chuyện hầu hết là anh thôi. Nàng có vẻ nhọc... sợ đi xa nữa sẽ làm nàng xúc động, e bất lợi, nên tôi không nấn ná ở lại lâu. Giờ nghe anh nói thế nầy, vậy là yên. Anh xem, tôi vồ lấy nón và can. Giờ anh hãy theo tôi đến nhà cậu anh nhé, và gắng níu tôi lại nếu dọc đường tôi chắp cánh bay mau: tôi cảm thấy mình phơi phới nhẹ nhàng hơn Euphorion [1]. Khi Juliette biết rằng chính vì nàng mà Alissa không nhận lời anh... rồi tiếp liền, tôi cho nàng biết ý định cầu hôn tồn lập của tôi... A! Anh ơi, tôi hình dung thấy cha tôi tối nay đứng trước cây Noel tán dương công đức của Chúa Trời, và chan hòa nước mắt, khóc vì hân hoan, và đưa tay ban phước lành trên đầu bốn đứa yêu nhau đương quỳ gối. Cô Ashburton sẽ thở một hơi dài, và tan ra thành mây khói, dì Plantier sẽ chảy ra thành nước trong bộ áo xiêm, và cả cây Noel dâng ngọn lửa thiên huy hoàng ca ngợi công đức vòi või của Đấng Chí Tôn chan hòa hồng ân trên vạn vật...
Phải đợi đến chiều tối người ta mới đốt sáng cây Noel, và trẻ con, họ hàng, bạn hữu mới đến đông đủ xung quanh. Vừa lo âu, vừa nóng ruột, từ lúc chia tay Abel, tôi bỏ ra đi lang thang ngoài bờ bể cao miền Sainte - Adresse, rồi lạc mất lối, dò dẫm mãi khi về tới nhà thì buổi lễ đã khởi sự từ lâu rồi.
Alissa đứng đấy từ bao giờ, như chờ đợi tôi lâu lắm, vừa thấy tôi, nàng ra đón ngay. Nàng đeo nơi cổ chiếc thánh giá bằng ngọc tím của tôi tặng nàng ngày trước để làm vật kỷ niệm mẹ tôi, xưa nay tôi chưa thấy nàng đeo. Alissa có vẻ khắc khoải, như đau khổ lắm; tôi thấy lòng mình se thắt.
- Sao anh về muộn thế? Nàng hỏi nhanh, giọng hổn hển. Em định nói chuyện nhiều với anh.
- Anh ra chơi ngoài bờ bể, rủi lạc đường về... Nhưng sao trông hoảng hốt thế... Ồ, Alissa, có gì cho anh biết đi.
Nàng đứng im lìm trước mặt tôi, sững sờ, làn môi mấp máy run run, tôi thấy đau khổ cùng cực, không dám hỏi thêm; nàng đặt tay lên cổ tôi, như muốn kéo tôi gần lại. Nàng muốn nói điều gì. Nhưng họ hàng vào đông quá: bàn tay nàng lại tuyệt vọng buông xuôi.
- Thôi, không còn thì giờ nữa anh ạ - Rồi thấy mắt tôi mờ lệ, đầy khẩn khoản, nàng giải thích bừa để tôi yên lòng :
- Không... có gì, anh hãy yên tâm: em chỉ chóng mặt thôi; trẻ con làm ồn quá... em phải trốn ra đây giây lát... Thôi, bây giờ đến lúc phải trở vào.
Tôi đứng lại một mình. Người vào đông đúc ngăn cách hẳn nàng với tôi. Tôi mong gặp lại nàng ở phòng khách; lúc bước vào, thấy nàng ở phía cuối phòng, giữa một đám trẻ con, đương tổ chức cuộc chơi cho chúng. Từ chỗ tôi đến nàng, có nhiều người quen thuộc, nếu tôi tiến lại, thế nào cũng bị họ cầm giữ hỏi han, xã giao, lịch sử, hàn huyên... tôi thấy mình không còn đủ can đảm nữa; cứ men dọc theo tường tiến lại... xem sao.
Khi tôi sắp bước qua cánh cửa kính lớn trước mặt vườn, bỗng một bàn tay nắm lấy tay tôi. Thì ra Juliette; nàng đứng trong góc, che khuất bởi một tấm màn. Nàng hấp tấp nói :
- Chúng ta hãy ra vườn, em có chuyện phải nói với anh. Anh cứ đi phía anh; em sẽ ra vườn gặp lại. Rồi hé cửa nàng bước vội ra.
Có chuyện gì xảy ra? Tôi muốn gặp lại Abel. Anh ta đã nói những gì?... Anh đã làm gì? Quay trở lại phía tiền đình, tôi ra vườn tìm Juliette.
Mặt nàng đỏ như gấc chín. Nàng cau mày lại, xem có vẻ nghiệt khắc và đau đớn làm sao! Mắt nàng long lanh như người lên cơn sốt; giọng nàng như khô cứng lại; nàng đương bị khích động vì cáu tiết chuyện gì, tuy đương lo âu, tôi cũng không khỏi ngạc nhiên, và dường như thấy ngượng ngịu trước sắc đẹp của nàng. Ngoài vườn chỉ có hai chúng tôi. Nàng hỏi ngay :
- Chị Alissa đã nói chuyện với anh chứ?
- Anh đi chơi về quá muộn...
- Anh biết không? Chị Alissa muốn rằng em lấy chồng trước chị?
- Anh biết...
Nàng đăm đăm nhìn tôi :
- Và anh biết chị muốn em lấy ai không?
Tôi đứng im, không biết đáp thế nào.
- Lấy anh! Nàng kêu to một tiếng.
- Nhưng thế là điên cuồng!
- Có phải không!
Giọng nàng vừa hân hoan, vừa như tuyệt vọng. Nàng đứng lên, lùi bước :
- Bây giờ em biết em phải làm gì, nàng thảng thốt nói thêm, rồi mở cửa vườn, lách mình qua, cánh cửa đóng mạnh lại phía sau.
Mọi sự quay cuồng trong đầu. Tôi choáng váng, máu đập mạnh hai bên thái dương. Phải tìm gặp Abel, chắc anh ta sẽ có thể giải thích cho tôi rõ câu chuyện kỳ quặc nầy... Nhưng không thể vào phòng khách. Mọi người sẽ nhận ra vẻ thảng thốt trên mặt mình. Tôi ra ngoài. Không khí lạnh trong vườn làm tôi bình tĩnh lại.
Chiều xuống. Sương mù vùng biển bàng bạc che khuất đô thành. Cây cối trụi lá. Cả trời đất cũng hoang vắng mênh mang... Tiếng ca hát vẳng lên; hẳn là bọn trẻ con đang tụ họp quanh cây Noel.
Tôi trở vào, ngang qua tiền đình. Cửa phòng khách và hành lang đều mở rộng. Phòng khách đã vắng người; thoáng có tiếng dì tôi đương nói chuyện với Juliette. Ở hành lang, quanh cây Noel họ hàng đương xúm xít. Bài thánh ca vừa dứt; im lặng trong giây lát. Mục sư Vautier đứng trước cây, khởi sự thuyết giáo. Ông không bỏ qua một dịp nào để “gieo hạt tốt”, làm như lời ông nói.
Ánh sáng và hơi nóng làm tôi khó chịu, tôi muốn trở ra, vừa đến cửa, thì gặp Abel; hẳn là anh ta đứng đó khá lâu. Anh nhìn tôi, đầy trách móc và rùn vai như thù oán. Tôi tới gần.
- Ngớ ngẩn đến thế là cùng, Abel nói. Rồi thình lình: - A! Chúng ta ra ngoài thôi, tôi đã được một mẻ thật hay. Và khi chúng tôi đã ở ngoài: - Anh ngớ ngẩn đến thế là cùng! Anh ta nói lại lần nữa, trong khi tôi lo lắng, không thốt được lời nào. - Nhưng chính nàng yêu anh kia mà, sao anh ngơ ngẩn quá thế. Ít nữa anh cũng cho tôi biết mới phải chứ!
Tôi kinh ngạc, rụng rời không chịu hiểu.
- Không, không phải! Anh không thể tự mình nhận thấy điều ấy hay sao!
Anh ta nắm lấy cánh tay tôi, cáu tiết lắc mạnh, nghiến răng lại, giọng nói run lên như rít.
- Abel nầy, tôi van anh. - Và trong khi anh ta lôi bừa tôi đi, không biết là đi đâu, tôi nói tiếp: - đừng nóng nảy nữa, gắng kể cho tôi rõ việc xảy ra như thế nào. Tôi hoàn toàn không hay biết gì cả.
Dưới ánh sáng ngọn đèn đường, anh đứng lại nhìn thẳng vào mặt tôi: rồi kéo sát tôi vào mình, anh đặt đầu lên vai tôi, tấm tức nói :
- Xin lỗi anh! Tôi cũng đần độn, còn đần độn hơn anh, và cũng không nhìn thấy sự thật sáng suốt hơn anh tí nào.
- Giờ anh đã nguội dịu bớt; anh ngẩng đầu, bước đi bước lại và nói: - Việc xảy ra, thôi không nên nói lại nữa, chẳng hay gì. Tôi đã nói với anh, sáng nay tôi nói chuyện với Juliette. Trông nàng đẹp dị thường, tươi vui xao xuyến quá; tôi tưởng nàng rung động vì tôi; té ra lẽ giản dị là chỉ vì tôi nói chuyện về anh, thế đấy!
- Lúc ấy, anh chưa nhận rõ được gì?
- Không; cũng không hẳn thế; nhưng bây giờ mọi sự nhỏ bé đều sáng tỏ lắm rồi.
- Anh chắc mình không lầm chứ?
- Lầm làm sao được nữa! Có mà đui mù mới không nhận thấy nàng yêu anh!
- Thế rồi Alissa...
- Thế rồi Alissa muốn hy sinh. Nàng đã thấu được niềm bí ẩn của em gái, và muốn nhường chỗ cho em. Mà sao anh ngớ ngẩn thế. Nào câu chuyện có khó hiểu lắm đâu... Tôi đã định bắt lại câu chuyện với Juliette; ngay những lời đầu, ngay khi nàng bắt đầu hiểu ý tôi, nàng liền đứng lên, rời khỏi chỗ ghế ngồi, và lặp đi lặp lại: “Tôi đã biết chắc lắm mà”, với giọng điệu một người không biết chắc gì ráo!
- Ồ! Anh đừng đùa nữa chứ!
- Sao lại đừng? Tôi thấy câu chuyện thật quá khôi hài... Nàng vụt chạy vào phòng cô chị. Tôi thoáng nghe những giọng cãi nhau kịch liệt. Tôi hoảng sợ. Tôi mong gặp lại Juliette, nhưng một lúc sau, chỉ có Alissa đi ra. Nàng đội nón, hơi ngượng khi nhìn thấy tôi: chào vội một tiếng rồi bỏ đi... Đấy, câu chuyện chỉ có thế.
- Anh không gặp lại Juliette?
Abel ngần ngừ một lúc :
- Có. Khi Alissa đi rồi, tôi đến phòng. Juliette còn ngồi trước lò sưởi, không nhúc nhích, khủy tay chống lên mặt đá hoa, bàn tay nắm lấy cằm, sững sờ nhìn vào tấm gương trước mặt. Khi nghe tiếng chân tôi, nàng không quay lại, nhưng giẫm chân kêu: “Ồ! Để cho tôi yên mà”. Một thứ giọng gay gắt đến nỗi tôi phải quay phắt trở lui, lẹ chân dông mất, không nói một lời. Đó, đầu đuôi câu chỉ có thế.
- Và bây giờ?
- Được nói chuyện với anh thế nầy, tôi thấy lòng nhẹ bớt... Và bây giờ? Thôi thế! Anh hãy thu xếp làm sao cho Juliette, bởi vì, theo như tôi hiểu Alissa, thì nàng không thể nào trở lại với anh, nếu Juliette còn đau khổ.
Chúng tôi bước đi, không nói gì thêm nữa. Sau cùng Abel bảo :
- Thôi, ta về. Họ hàng thân thích giờ nầy đã cáo lui hết. Chắc cha tôi đương chờ tôi.
Phòng khách đã vắng. Trong phòng đợi, bên cây Noel trơn trụi, chỉ còn dì tôi, hai người con của dì, cậu Bucolin, cô Ashburton, vị mục sư, và một nhân vật khá ngây ngô mà trước đó tôi thấy có nói chuyện lâu lắm với dì tôi, nhưng bây giờ tôi mới kịp nhận ra là người cầu hôn Juliette. Hắn cao lớn mạnh mẽ, hồng hào, đầu sói cả, thuộc giai cấp khác, dòng dõi, gia thế khác, hắn hơi ngỡ ngàng trong bầu không khí nầy, và kéo vuốt bộ râu mép rậm rạp rất nóng nảy. Cửa tiền đình mở, không có ánh đèn; chúng tôi lặng lẽ đi vào, không ai hay. Một linh cảm ghê sợ xâm chiếm lấy tôi.
- Dừng lại - Abel bảo và nắm lấy tay tôi.
Trong phòng, người lạ đang tiến đến gần Juliette, nắm lấy tay nàng, Juliette dã dượi không quay lại. Tâm hồn tôi chìm ngập trong bóng tối âm u.
- Nhưng như thế nghĩa là gì, anh Abel! Tôi như chưa hiểu, hay đúng hơn, tôi hy vọng mình hiểu sai.
- Ồ, nào có gì lạ! Cô bé đó muốn vượt hơn chị đấy mà. Nàng không chịu kém đâu. Hẳn là giờ nầy nơi thượng giới, thiên thần đẹp ý đương hoan hô!
Cậu tôi lại hôn Juliette, Miss Ashburton và dì Félicie vây quanh. Mục sư Vautier đến gần. Tôi tiến lên một bước. Alissa nhìn thấy, chạy lại cuống quýnh :
- Ồ, anh Jérôme, không thể nào như thế được. Juliette không yêu chàng. Chính sáng nay nó nói với em. Anh gắng ngăn cản dùm, anh! Nếu sự tình mà xảy ra thế nầy, thì rồi em nó sẽ ra sao!
Nàng níu lấy vai tôi, tuyệt vọng van nài.
Bỗng một tiếng kêu thất thanh. Chúng tôi chạy lại. Juliette té xỉu trên cánh tay dì tôi. Mọi người hốt hoảng, cúi xuống đỡ. Tóc nàng xổ tung, rối rắm. Mặt tái xanh. Toàn thân nàng giãy giụa, trông không giống một cơn ngất tầm thường.
- Nhưng không. Không hề gì. Dì tôi nói lớn cốt để yên lòng cậu tôi, ông đang cuống lên. Nhưng không hề gì cả. Cháu nó xúc động quá đấy thôi. Nào ông Teissières, hãy giúp tôi một tay. Không ai mạnh bằng ông. Ta gắng đem cháu lên phòng, đặt nó lên giường của tôi... lên giường của tôi... Rồi bà nghiêng xuống nói nhỏ một câu vào tai người con trai cả, có lẽ bảo đi mời y sĩ.
Tôi dừng lại trước cửa phòng. Juliette nằm trên giường. Alissa nói thầm với ông Teissières và Abel vài tiếng; nàng theo chân hai người ra đến cửa, yêu cầu chúng tôi để yên cho Juliette tĩnh dưỡng, nàng lại ở với dì Plantier chăm sóc cho em.
Abel nắm cánh tay tôi kéo ra ngoài; trong đêm tối hai đứa bước đi, bước mãi, không mục đích, hết tinh thần, hết can đảm...
Tôi không tìm ý nghĩa nào khác cho cuộc đời mình, ngoài tình yêu Alissa. Tôi bám vào đấy, không chờ mong gì nữa, và không muốn chờ mong gì hết, ngoài những gì do người yêu của tôi đem lại.
Qua ngày hôm sau, tôi sửa soạn đến thăm nàng, thì dì tôi đưa cho tôi một bức thư dì vừa nhận được.
“Cơn ngất của Juliette chỉ bớt sáng nay, nhờ mấy vị thuốc của y sĩ. Cháu xin yêu cầu anh Jérôme đừng tới đây nữa trong vài hôm. Juliette có thể nhận ra tiếng chân đi, hoặc giọng chàng nói, mà em nó hiện cần được yên nghỉ, tĩnh dưỡng hoàn toàn.
Cháu sợ phải ở tại đây lâu vì bịnh tình Juliette. Nếu cháu không gặp lại Jérôme trước khi anh ấy lên đường, thì cô ơi, hãy nói với anh rằng cháu sẽ có thư sau.”
Thế là lệnh cấm chỉ nhắm riêng tôi. Còn dì tôi, còn mọi người thì cứ được tự do đi lại. Dì tôi định sáng nay sang ngay bên ấy. Nói rằng tiếng động của bước chân tôi? Giọng nói của tôi? Cái lý do mới, phi lý làm sao! Thôi mặc.
- Vâng. Được rồi. Cháu sẽ không đến nữa.
Không được gặp Alissa thật là đau đớn: nhưng nếu được gặp nàng, tôi càng thêm lo ngại; nàng sẽ đổ cho tôi chịu trách nhiệm bệnh tình của Juliette. Thà không gặp nhau còn hơn để nhìn nàng hờn giận.
Dù sao, tôi cũng mong mỏi gặp lại Abel. Đến nhà anh, người làm đưa cho mảnh giấy :
“Tôi để lại anh vài dòng này để anh đừng bận tâm lo ngại. Ở tại Havre này, tôi không thể chịu được nữa. Tôi đi Southampton chiều hôm qua ngay sau khi từ biệt anh. Tôi sẽ ở lại nhà Londres, ở nhà S..., ở cho đến hết những ngày lễ này. Chúng ta sẽ gặp lại nhau tại trường”.
Thế là luống công chạy cầu cứu khắp nơi. Tôi không muốn kéo dài thời hạn cuộc sống nơi đây chỉ dành cho tôi toàn những đau khổ. Tôi về Paris trước ngày nhập học. Tôi chỉ còn biết hướng về Thượng Đế... Tôi đem nỗi khổ này phụng dâng cho người. Tôi tin rằng Alissa cũng tìm nương náu trong lòng đấng Chí Tôn và ý nghĩ ấy làm cho lời cầu nguyện của tôi càng thêm thắm thiết.
Thời gian dài trôi qua. Một thời gian suy tưởng, chiêm niệm và học hành, không có những biến cố nào xảy ra. Trước sau chỉ là những bức thư của Alissa, và những bức thư tôi viết lại cho nàng. Tôi còn giữ thư của nàng; những kỷ niệm của tôi nếu có lẫn lộn, từ giờ sẽ nhờ những bức thư ấy đánh dấu rõ hơn...
Nhờ dì Félicie và nhờ nàng nên tôi còn được tin tức ở Havre, được biết bịnh tình nguy kịch của Juliette đã gây lo lắng như thế nào trong những ngày đầu. Mười hai ngày sau khi đi, tôi mới nhận được mảnh thư nhỏ bé này của Alissa :
“Anh Jérôme tha lỗi cho em, vì không viết thư cho anh được sớm hơn. Bịnh tình của Juliette không cho em đủ thì giờ. Từ ngày anh đi, không lúc nào em rời được Juliette. Em có nhờ dì Félicie cho anh hay tin tức nhà, và em chắc dì đã làm theo ý em. Thì hẳn anh đã biết từ ba hôm nay bịnh tình Juliette đã thuyên giảm. Em một lòng cảm tạ Thượng Đế nhưng chưa dám vội hân hoan.”
Và Robert nữa, mà trước nay tôi ít nhắc đến, Robert đã tựu trường và cho tôi những tin tức hai chị. Tuy không hợp tính y, nhưng vì tình yêu đối với người chị, nên tôi để tâm chăm sóc Robert ít nhiều.
Nhờ có Robert nên tôi được biết nhiều điều, không thể trực tiếp hỏi được Alissa: Édouard Teissières thường rất năng lui tới ân cần viếng thăm Juliette nhưng cho đến khi Robert từ giã Havre, chàng vẫn chưa được thấy lại nàng. Tôi cũng được biết rằng từ ngày tôi đi Juliette rất lặng lẽ với chị.
Rồi sau nhờ dì Félicie, tôi được hay tin lễ đính hôn của Juliette, nhưng tôi linh cảm rằng Alissa bất bình cuộc hôn nhân này, nàng rất mong nó sẽ không thành tựu là hơn. Nhưng Juliette lại muốn sớm ngày nào hay ngày ấy. Sự quyết định đó không gì lay chuyển được; van xin khuyên nhủ, cản ngăn đều vô ích. Sự quyết định mạnh mẽ chắn ngang tim nàng, bịt mắt nàng, vây bọc nàng trong một sự lặng lẽ kéo dài mờ hoen ri rỉ.
Thời gian trôi qua. Tôi nhận được toàn những mảnh thư gây tuyệt vọng của Alissa. Sương lạnh mùa đông vây ám suốt tâm tư; ngọn đèn thao thức học hành, tất cả những thắm thiết sôi nổi của tình yêu, và của lòng tin tưởng, không xóa nổi bóng tối lạnh lùng trong lòng tôi. Thời gian qua. Lá còn rớt.
Rồi một buổi sáng mùa xuân đột ngột, một bức thư của Alissa gửi cho dì Plantier, dì vắng nhà buổi đó, bức thư sau này dì tôi gửi lại cho tôi, tôi xin trích ra đây một vài đoạn có thể soi sáng phần nào cho câu chuyện rắc rối kia.
“... Cô xem, cháu dễ bảo biết mấy. Nghe theo lời cô dặn, cháu có tiếp ông Teissières; cháu có nói chuyện nhiều với ông ta. Và cháu có nhận thấy rằng ông ta tỏ ra hoàn toàn về mọi phương diện, và cháu bắt đầu tin rằng cuộc hôn nhân này sẽ không đến nỗi gây đau khổ nhiều như ý con tưởng ban đầu. Thật thế, Juliette không yêu chàng, nhưng càng ngày cháu càng thấy rằng chàng rất đáng được yêu. Chàng bàn đến tình trạng này một cách sáng suốt và tỏ ra hiểu rõ tính khí em của cháu nhiều, nhưng chàng rất tin tưởng ở hiệu lực tình yêu mình, và cho rằng không có gì mà lòng thủy chung của chàng lại không thắng nổi. Nghĩa là cho cô thấy quả chàng đã rất thiết tha.
Cháu rất cảm động thấy Jérôme chăm sóc đến Robert. Cháu nghĩ rằng chàng làm thế vì bổn phận thôi, chớ tính khí của Robert không tương hợp với chàng - và làm thế có lẽ Jérôme muốn cháu vui lòng thôi - nhưng chắc hẳn chàng cũng nhận thấy rằng trách nhiệm mình chịu gánh mà càng nặng thì tinh thần của mình càng được nung nấu và nâng cao. Xin cô đừng cười là đứa cháu nói chuyện “siêu việt” nhé. Đó là những tư tưởng đã nâng đỡ cháu và giúp đỡ cháu có thể gắng nhận ra được rằng cuộc hôn nhân của Juliette là một điều hay.
Lòng ân cần thân ái của cô đối với cháu thật êm dịu và an ủi biết bao! Nhưng xin cô đừng tưởng rằng cháu đau khổ; cháu có thể quả quyết rằng; trái lại, vì chính sự thử thách vừa dày vò Jérôme đã có một phản ứng nơi cháu: “Bất hạnh cho kẻ nào đặt hết lòng tin cậy của mình vào tay con người”. Trước khi tìm lại được câu ấy trong Thánh kinh, cháu đã được đọc lời ấy trên một tấm ảnh Noel của Juliette gởi cháu thuở anh ấy chưa được mười hai tuổi, và cháu vừa được mười bốn tuổi. Trên tấm ảnh ấy, bên cạnh bó hoa mà ngày ấy chúng cháu thấy đẹp vô cùng, có mấy dòng thơ này dịch giải của Corneille:
Huyền ảo nào hướng ta về Thượng Đế?
Thắng khổ lụy trần gian?
Bất hạnh thay kẻ nào tin có thể
Dựng tình mình trên tình của nhân gian.
Cháu thú thật là mấy câu đó không xui cháu cảm kích nhiều. Cháu thích mấy câu “Tiết” đơn giản của Jérémie hơn; hơn đến vạn lần. Chắc anh Jérôme khi chọn tấm carte ấy không để ý mấy đến lời thơ kia, nhưng nếu phán đoán theo thư từ của chàng thì cháu tin rằng những khuynh hướng của chàng ngày nay rất giống của cháu, và mỗi ngày cháu hằng cảm tạ Thượng Đế biết bao. Người đã đồng thời kéo hai tâm hồn của hai chúng con về bên lòng thương vô hạn của Người.
Nhớ lời cô dặn, cháu không viết thư cho chàng dài như trước, để chàng yên tâm học hành. Chắc cháu sẽ thấy rằng chính cũng vì vậy mà cháu tìm đắp đổi cho mình bằng cách nói về chàng cho thật nhiều; sợ còn tiếp tục dài dòng, cháu xin ngừng bút ở đây; một lần này trót lỡ, xin cô chớ rầy rà.”
Bức thư gây cho tôi những ý nghĩ gì! Tôi thầm trách sự can thiệp trống trải của dì tôi (lời dì dặn ấy là lời gì, để cho nàng không viết thư cho tôi nữa?) rồi dì lại còn vụng về ân cần gửi lại tôi bức thư! Sự im lặng của Alissa đã làm tôi khổ não không cùng. Điều nàng không nói với tôi, nàng lại đem nói với kẻ khác. Nếu sự thật có buồn tủi như thế thì thà dì giấu đi, đừng cho tôi hay biết, có phải hơn không? Cả bức thư không lời nào là không làm tôi cáu: sao nàng lại có thể kể cho dì tôi nghe một cách dễ dàng như thế những điều kín đáo nhất riêng giữa hai chúng tôi, sao giọng nàng lại tự nhiên, lại điềm tĩnh, lại trang nghiêm và vui tươi đến thế?
Nhưng nào có gì đâu! Cái điều xui anh cáu, là duy chỉ bởi anh biết được rằng cái thư này, nàng không chịu gửi cho anh! Abel bảo tôi như thế. Tôi xem Abel như người bạn duy nhất, mà hàng ngày tôi có thể kể hết nỗi niềm; hằng ngày cảm thấy cô độc, tôi có thể đem thố lộ hết tâm can: nhớ nhung, sướt mướt, thở than, mọi thứ đều xui tôi tìm tới anh để trút bớt... thiếu tin tưởng ở mình, nhiều lúc luống cuống chỉ còn biết nghe theo lời anh bày vẽ, mặc dù bản tính chúng tôi rất khác nhau, hay có lẽ chính vì chỗ khác nhau ấy mà tôi càng thấy dễ giải bày...
- “Giờ ta hãy xét kỹ bức thư này, anh nói thế và đem giở bày bức thư ra trên bàn. Cặp Juliette Teissières, chúng ta hãy bỏ thiêu trong lửa tình, phải thế không? Chúng ta cũng thừa biết ngọn lửa ấy nó ra cái làm sao rồi! Hừ! Teissières tôi trông có vẻ dáng là con bướm để cháy thiêu trong ngọn lửa ấy được lắm...”
Tôi khó chịu trước lối khôi hài của anh :
- Thôi, gác việc ấy lại. Hãy xét đến việc khác.
- Việc khác?... Mọi việc khác của bức thư là chỉ dành riêng cho anh thôi! Anh còn than van nỗi gì? Không một dòng, một chữ nào không đầy tình thương nhớ anh. Có thể nói rằng cả bức thư trọn vẹn là viết để gửi riêng cho anh thôi. Bà Félicie chuyển nó lại cho anh là đúng lắm; kẻ chân chính được nhận là anh chứ còn ai; vì không gửi được cho anh nên Alissa gửi bừa cho bà cô, cũng như nàng có thể gửi cho một kẻ nào khác. Nếu thật tình muốn nói chuyện với dì anh thì hà tất phải dài dòng văn tự, lại thêm thơ của Corneille nữa, cái mới chết! - Thật thì là thơ của Racine; - quả là nàng chỉ trò chuyện với anh thôi, thật đấy, chỉ với anh thôi, nàng mới tỉ tê tâm sự dài dòng. Anh là một kẻ hết sức khờ khạo, nếu nội trong hai tuần nữa, cô em không viết thư cho anh cũng dài dòng, tự nhiên, và tươi tốt dễ thương như thế.
- Chưa chắc gì.
- Chắc hay không là do anh. Anh muốn tôi khuyên một điều? Từ nay tuyệt nhiên đừng nói gì cả. Đừng. Cứ im lặng, không nói chuyện tình ái, không nói chuyện hôn nhân, không của tin canh thiếp, không nạp thái vu quy... Anh không thấy rằng từ ngày xảy ra cái “tai nạn” Juliette, thì cô chị ghét nhất là nghe nói tới hôn nhân đó sao? Cứ tác động trên tình ruột thịt, cứ nói mãi với nàng về chuyện Robert, nếu anh kiên nhẫn lo chăm sóc cho cái thằng khỉ ngốc đìu hiu ấy. Cứ tiếp tục làm đẹp ý cái phần lý trí của nàng; mọi sự sẽ theo sau, vuông tròn ra hết cả. A! Nếu được tôi mà viết cho nàng thì khỏi phải nói.
- Anh sẽ không xứng đáng được yêu nàng. Tuy thế, tôi vẫn theo lời Abel, và quả đúng như lời chàng, chẳng bao lâu thư của Alissa bắt đầu “có hồn” trở lại. Nhưng tôi vẫn chưa thể hy vọng là nàng đã thật sự hân hoan, khi tình cảnh và hạnh phúc của Juliette chưa được yên ổn. Nhưng dần dà những tin tức về Juliette đã thấy khả quan. Hôn lễ của nàng sẽ cử hành vào tháng bảy. Alissa nói trong thư rằng nàng biết ngày ấy Abel và tôi bận học không thể về... Tôi hiểu ý nàng muốn nói rằng chúng tôi không nên có mặt hôm đó là hơn. Thế là chúng tôi lấy cớ bận học hành, thi cử, nên không về. Chỉ gởi lời chúc mừng.
Mười lăm ngày sau khi hôn lễ Juliette. Alissa viết thư cho tôi :
“Anh Jérôme yêu dấu,
Em ngạc nhiên biết bao, hôm qua tình cờ giở tập thư Racine của anh tặng em ngày nọ, lại thấy bốn câu thơ trong tấm ảnh Noel mà anh gởi cho em năm xưa, mà em giữ đã mười năm nay trong quyển kinh Thánh.
Huyền ảo nào hướng ta về Thượng Đế?
Thắng mọi lụy trần gian
Bất hạnh thay kẻ nào tin có thể
Dựng tình mình trên tình của nhân gian!
Xưa nay em cứ tưởng là mô phỏng theo Corneille, và thú thật là em không thấy tuyệt vời gì cho lắm. Nhưng rồi tiếp tục đọc bản thánh ca thứ tư, em gặp nhiều đoạn hay đến nỗi không thể lặng yên được, đành chép lại cho anh đây. Cólẽ anh đã biết rồi. Không sao! Em chép lại là vì vui mà chép. Chép cho anh hay chép cho em cũng thế, và em cảm thấy như đương cùng anh thong dong đọc lại:
Của chân lý nhiệm mầu
Vang vang lời khuyên bảo :
Hỡi con cái người đời,
Ngươi nhọc sức vì đâu?
Tại sao người nhầm lẫn
Đem máu thắm của mình
Không đổi lấy cơm bánh
Mà đổi lấp chập chờn
Một ảo ảnh pha phôi?
Miếng bánh ta nói đó
Là bánh của thiên thần
Chính do tay Thượng Đế
Tạo với gạo trắng trong
Miếng bánh rất bổ ích
Không hề có ở đời,
Ta hiến cho ai chịu
Bằng lòng theo ta thôi
Nếu ý ngươi muốn sống
Hãy cứ tiến đến gần
Cầm lấy, ăn và sống
Đừng nấn ná, phân vân.
Linh hồn nào may mắn
Chịu tuân mệnh lệnh Người
Thì tìm ra thanh thản
Êm đềm sống yên vui,
Uống nước trong thuần túy,
Tồn lưu chảy dạt dào
Mọi người đều có thể
Uống được cả, quý sao!
Nhưng thương người dại dột
Chạy đi tìm suối dơ
Chạy đi tìm giếng đục,
Nước không sạch bao giờ
Có đẹp không? Anh Jérôme! Anh có thấy những vần thơ ấy đẹp gay cấn như em thấy không?
Trong tập sách của em có ghi chú rằng khi bà Maintenon nghe nàng D’Aumale hát lên, cảm động ngợi khen, và “giỏ mấy giọt lệ” và bảo nàng hát lại nhiều lần. Em đã thuộc lòng nó rồi, và cứ lặp đi lặp lại mãi. Em chỉ buồn một điều là không được nghe anh đọc cùng em.
Tin tức đôi bạn du lịch vẫn rất tốt. Anh đã biết, Juliette đến Bayonne và Biarritz, và nàng mãn nguyện biết bao; mặc dầu trời thì nóng như thiêu như đốt. Rồi tiếp tục họ viếng Fontarabie. Từ Monserrat, Juliette vừa viết về cho em một bức thư thật đầy hứng thú. Hai vợ chồng còn định nấn ná ở Barcelone mười hôm nữa trước khi trở về Nimes - Édouard muốn về trước tháng chín, để có thể tổ chức việc hái nho. Thật là gay cấn.
Từ một tuần nay, ba em và em ở Fongueusemare. Mai đây, cô Ashburton sẽ đến, và Robert sẽ trở về vào khoảng bốn hôm nữa. Anh biết chứ, chú chàng làm sao lại hỏng thi quách, nghe ra thì không khó gì nhưng vị giám khảo hỏi nhiều câu quá bê bối oái oăm làm cho nó luống cuống; em cũng tin rằng Robert đã chuẩn bị dọn thi sẵn sàng, và anh có biên thư cho em biết nó cố gắng nhiều, nhưng hình như vị giám khảo kia có tính lai rai, thích ghẹo chọc cho học sinh lóng cóng leo thang chơi.
Còn những sự đỗ đạt của anh thì em hầu như không thể tìm được lời khen ngợi, vì việc đỗ đạt của anh, em thấy là sự dĩ nhiên. Em vẫn tin tưởng rất nhiều ở anh, Jérôme ạ, hễ nghĩ tới anh, là lòng em thấy chứa chan hy vọng. Anh đã sắp có thể bắt đầu ngay bây giờ công việc mà anh đã nói với em chưa?
... Ở đây không có gì thay đổi cả. Vườn cũ vẫn như nguyên, nhưng trong nhà vẫn có phần vắng vẻ. Anh hiểu chứ, vì sao em lại yêu cầu anh năm nay đừng trở về Fongueusemare nữa: em cảm thấy rằng có lẽ như thế mà hơn, hằng ngày em vẫn tự nhủ thầm với mình điều ấy, mà vẫn yếu đuối cảm thấy buồn nhiều, vì lâu ngày không gặp lại anh... Đôi khi, em dõi tìm anh, lòng bâng khuâng mong đợi... Em tưởng chừng như anh đứng đó tự bao giờ!
Em tiếp tục viết nốt bức thư này. Đêm đã khuya anh ạ; mọi người đã an giấc, em còn chong đèn thao thức viết cho anh, trước khung cửa sổ mở; vườn cây ngào ngạt hương thơm; khí trời ấm áp. Anh còn nhớ chăng, thuở chúng mình còn nhỏ, mỗi khi được thấy hay nghe một điều gì rất đẹp, thì chúng mình lại thầm nghĩ: Xin cảm tạ Thượng Đế đã tạo ra... Đêm nay, với cả tâm hồn, em thiết tha thầm nghĩ: Xin cảm tạ Thượng Đế đã tạo nên cái đêm êm đẹp này. Và bỗng nhiên em mong muốn có anh ở đấy, đứng ngay bên cạnh em, em cũng cảm thấy mãnh liệt đến nỗi tin rằng chắc anh cũng đương cảm thấy như em.
Vâng, anh nói rất đúng:... niềm ca ngợi trong những “tâm hồn phong vận” hòa lẫn với lòng tri ân... Còn biết bao điều em muốn nói! Em nghĩ đến cái xứ huy hoàng kia, mà Juliette đã tả cho em nghe. Em nghĩ đến những xứ nào huy hoàng hơn, bát ngát hơn, và hoang liêu hơn nữa. Em cảm thấy trong lòng một niềm tin lạ lùng rằng một ngày kia, em chẳng hiểu vì sao đôi ta sẽ cùng chung ngắm nhìn một xứ nào huyền ảo...”
Hẳn bạn cũng tưởng tượng nỗi vui lạ thường của tôi khi đọc bức thư ấy. Yêu thương ngập tràn, tâm hồn tôi như thổn thức. Nhiều bức thư khác tiếp theo. Ừ, thật thế Alissa cảm ơn tôi đã nghe lời nàng yêu cầu đừng về Fongueusemare năm nay nữa, thật thế, nàng mong tôi đừng tìm gặp lại nàng năm nay, nhưng rồi nàng hối tiếc, nàng buồn vì vắng mặt tôi; giờ nàng cầu mong gặp gỡ; trang thư nào cũng như vang giọng tha thiết kêu gọi, chờ mong. Làm sao tôi đã đủ sức cưỡng lại. Vì nghe theo lời Abel, vì sợ có thể bất thình lình làm tiêu tan hạnh phúc, và vì khuynh hướng tự nhiên của tâm hồn tôi không chịu nghe theo tiếng gọi lôi cuốn của con tim.
Tôi chép lại đây những trang thư nào có liên quan nhiều đến câu chuyện này, và giúp câu chuyện sáng tỏ hơn.
“Anh Jérôme yêu dấu.
Đọc thư anh, em vui mừng khôn xiết. Em đương sắp hồi âm bức thư anh viết từ Orvieto, thì đồng thời lại bắt tiếp được luôn cả hai bức thư từ Pérouse và Assise. Thế là tâm hồn dõi theo anh và cùng anh hân hoan du hành đây đó, tuy em vẫn ngồi tại nơi đây. Ừ, em cùng anh nhịp nhàng tiến bước song song trên những con đường trắng xóa ở Ombrie, em lên đường với anh buổi sáng, em nhìn với anh hai con mắt mới một cảnh bình minh chói rạng, huy hoàng. Trên gò đống Cortone, có phải anh đã lên tiếng gọi em? Em nghe thấy giọng rõ ràng... Trên sườn núi giáp miền Assise sao mà chúng ta khát nước dễ sợ thế! Và ly nước của người Franciscain càng mát dịu biết bao! Ô! Anh ơi! Em nhìn qua anh, thấy mọi vật, mọi người... Điều anh biết về Thánh Francois đã xui em cảm động xiết bao. Vâng, phải thế không, điều cần tìm kiếm là một niềm phấn chấn thiết tha, chớ không phải là một cơn phóng thích tư tưởng... Phóng thích, thì nhất định là do kiêu hãnh tai hại. Đem cao vọng mình ra để phụng sự chớ không phải để phản kháng.
Tin tức đôi bạn ở Nime mới tốt đẹp làm sao! Và em tưởng như Thượng Đế chịu cho phép em buông linh hồn theo hoang lạc. Buồn một tí là sức khỏe của ba càng ngày càng suy giảm. Mùa hè năm nay ba rất buồn, dù em hết lòng chăm sóc; em rời một bước là ba lại buồn rồi, và càng ngày càng khó làm ba khuây khỏa hơn. Niềm vui của cảnh sống quanh mình nói lên một ngôn ngữ nào ba em không còn hiểu được nữa; và cũng không chịu để ý lắng nghe. Cô Ashburton khỏe mạnh. Em đọc cho hai người nghe những bức thư của anh; mỗi bức đủ để gia đình nói chuyện trong ba ngày; và thế là lại tiếp được một thư mới...
... Robert từ giã gia đình hôm kia; cậu muốn mấy ngày hè về ở chơi quê một người bạn, cha là một chủ trại. Thật anh ạ, đời sống ở đây chả có gì vui đối với Robert cả. Nghe Robert định thế, thì em chỉ còn khuyến khích cậu ta mà thôi.
Em còn biết bao chuyện nói với anh, em muốn liên miên nói mãi không ngừng! Đôi khi em không tìm ra ý rõ rệt nữa, - chiều nay em vừa viết mà như vừa mơ - chỉ giữ một cảm giác rất nồng nàn, đến hầu như chua xót, về một nỗi phong phú vô biên của tâm hồn muốn dâng cho, và mong được nhận.
Làm sao chúng ta đã lặng thinh, không thư từ cho nhau suốt ba tháng trời! anh nhỉ? Chúng ta ngủ một giấc dài cho qua một mùa đông băng giá chắc! Thôi nhé! Cầu trời cho mùa đông lặng lẽ ghê sợ ấy đừng bao giờ trở về nữa, từ nay trên lá cỏ sinh tồn.
Từ ngày viết thư lại cho anh, còn được nói chuyện với anh, thì cuộc đời và linh hồn chúng ta thảy thảy đều đẹp đẽ và phong phú lai láng biết bao lửa lựu lập lòe.
12, tháng chín.
Em có nhận được bức thư anh gởi từ Pise về. Ở nhà thời tiết cũng ôn hòa; trời đất thật là rực rỡ, chưa bao giờ em thấy Normandie đẹp đẽ thế này. Hôm kia em đi dạo đồng một mình, đi không chủ định; lúc về thấy trong người phấn khởi hơn là mệt mỏi, mải mê vì ánh trời và hạnh phúc... Những đống rơm rạ ngoài đồng mới đẹp làm sao dưới ánh trời chang chói! Em không cần phải tưởng tượng mình ở bên Ý mới thấy vạn vật huy hoàng như biển đông xe cát.
Vâng, anh ạ, quả đúng như anh nói, em lắng nghe và nhận rõ trong bản hòa âm mơ hồ huyền diệu của đất trời, có gì như một lời khích lệ, như mọc mời người hãy trút hận để hân hoan. Em lắng nghe rõ giọng chào mừng trong từng tiếng chim ca; em thở niềm vui trong mỗi mùi hương của từng nụ hoa nở. Thấy lòng tràn trào một tình yêu khôn tả, và không hiểu về sau nó sẽ kêu gọi lời gì...
Nhưng anh chớ ngại rằng em say mê cảnh trời mà quay làm người thô lậu. Lúc sau này em đọc sách nhiều lắm: một đôi ngày trời mưa, không ra ngoài được em đã đem hết tâm hồn sùng phụng “xếp vào” trong những trang sách. Em đã đọc xong Malebranche và tiếp liền tập Lettres và Clarke của Leibniz. Rồi để giải trí, em đọc Les Cenci của Shelley, nhưng không thấy thú. Và La Sensitive nữa... Em sắp làm anh giận đấy nhé: em bằng lòng bỏ hết Shelley, hết Byron vì bốn bài đoản thi của Keats, mà chúng ta cùng đọc với nhau mùa hè trước; cũng như em bằng lòng đổi cả Hugo để lấy mấy bài Sonnet của Baudelaire. Cái tiếng “đại thi nhân” chả có nghĩa gì cả; “thi sĩ thuần túy” đó mới là điều quan hệ! Ồ, anh ơi! Em xin cảm tạ anh đã giúp em hiểu biết và yêu chuộng mọi thứ này.
Không, anh đừng nên rút ngắn chuyến du lịch để về nhìn nhau vui hứng trong vài ngày. Thành thật, em nghĩ rằng chúng ta khoan vội gặp nhau. Hãy tin lời em, anh nhé: khi anh ở gần bên em, em sẽ không thể nào nghĩ đến anh nhiều nữa. Em không muốn phiền lòng anh, nhưng sao lạ, em muốn nói rằng ngày nay em như mong đừng gặp lại anh nữa. Em thú thật nhé? Nếu biết rằng chiều nay anh về... em sẽ bỏ đi trốn mất.
Ồ! Đừng bảo em phải giải thích nỗi tình ấy. Em chỉ biết rằng em nghĩ đến anh luôn (như vậy cũng đầy đủ lắm cho hạnh phúc của anh rồi) và em sống sung sướng với lòng thương nhớ ấy.”
Ít lâu sau bức thư này, và ngay khi ở Ý về, tôi bận việc nhà binh, và được đưa về Nancy. Tôi không quen một ai ở đây cả, sống vui trong cảnh cô độc, vì như thế đủ chứng tỏ với tình yêu kiêu hãnh của mình và với Alissa rằng chỉ duy những thư từ của nàng là nơi tôi nương náu êm ấm nhất, và kỷ niệm dung nhan nàng - nói theo điệu Ronsard - kỷ niệm tình yêu nàng là chỗ “thành tựu duy nhất của viên mãn chân lạc chân như”.
Thật thế, tôi chịu đựng rất dễ dàng kỷ luật nghiêm nhặt của nhà binh. Tôi chịu hết mọi khổ dịch, và trong thư từ gởi về nàng, chỉ tỏ lòng buồn nhớ vì vắng em thôi. Chúng tôi tìm thấy trong cách biệt một sự thử thách xứng với lòng kiên nghị của mình. “Anh, anh không bao giờ kém kiên quyết, em không thể nào tưởng tượng anh nhu nhược yếu mềm...” Alissa viết cho tôi như vậy. Hỡi ôi! Thế là từ đó, mọi thử thách, mọi tân toan nghiệt ngã, tôi xin đem hết đời thanh xuân mê gái của mình ra để mà kham lấy hết, chịu đựng hết, để làm bảo chứng cho mấy lời của người em họ gái kia!!! [1]
Một năm qua, từ ngày xa cách, Alissa dường như không nghĩ tới cái thời gian dằng dặc ấy chỉ như mới bắt đầu mọng đợi mà thôi. Tôi trách. Và nàng trả lời.
“Em đã không cùng anh ở Ý hay sao? Anh thật là vong ân nhé! Có một ngày nào là em bỏ anh đâu. Anh hãy hiểu rằng, ngày nay, trong một thời gian, em không còn có thể theo dõi anh nữa, và điều đó, duy chỉ điều đó thôi, em mới gọi là cách biệt. Thật thế, nhiều lần em cũng gắng hình dung anh trong bộ quân phục. Nhưng không được. Nhiều lần cho lắm là gặp anh buổi tối, trong gian phòng nhỏ đường Gambetta, đương cắm cúi viết hoặc đang đọc... Nhưng không: thật ra, em chỉ gặp lại anh tại Fongueusamare hoặc tại Havre còn đúng một năm nữa.
Một năm trời! Em không kể những ngày chờ mong cũ. Em nhìn thấy ngày hội ngộ chầm chậm tiến đến gần, gần... Anh còn nhớ không, ở cuối vườn, có bức tường thấp che giữ những chậu cúc vàng, mà thường ngày chúng ta tập đi trên ấy: Juliette và anh đi rắn rỏi như những người Musulmans mạnh mẽ thẳng bước đi tới Thiên Đàng; còn em, mới bước được một bước là đã thấy choáng váng ngay, trong khi anh đứng dưới kêu lớn: “Đừng có nhìn xuống dưới chân như thế!... Nhìn thẳng tới trước! Tiến lên! Nhìn thẳng đích mà bước!”. Rồi cuối cùng anh leo lên ở đầu tường bên kia chờ em. Thế là em không còn run sợ nữa. Không thấy chóng mặt nữa: em chỉ biết có nhìn anh, và chạy vội đến ngã vào tay anh mở rộng...
Nếu không tin cậy nơi anh, thì em sẽ ra sao, anh Jérôme? Em cần tin tưởng ở anh, tin rằng anh cương nghị, em cần nương tựa nơi anh. Anh đừng tỏ ra yếu đuối.”
Từ đó, như một lối tự thử thách mình, chúng tôi cao hứng muốn kéo dài sự chờ đợi ra thêm - và cũng vì sợ sự tái hợp sẽ không hoàn toàn, chúng tôi thỏa thuận với nhau rằng: mấy ngày nghỉ phép dịp Năm Mới tôi sẽ về Paris, ở với cô Ashburton...
Tôi đã nói rồi: sẽ không chép lại mọi thư từ. Đây là lá thư tôi nhận được, khoảng trung tuần tháng hai.
“Xúc động mạnh, hôm kia, đi ngang đường Paris, thấy trước cửa hàng bày lộ liễu cuốn sách của Abel mà anh có nói cho em biết, nhưng em không thể tin là có thật. Em không cầm lòng được, bước vào gian hàng; nhan đề cuốn sách em thấy lố bịch đến nỗi ngần ngừ mãi không mở miệng hỏi mua: em còn nghĩ tới lúc rời khỏi hiệu sách, phải mang thêm bất cứ một tập sách nào khác... May thay, một chồng tạp chí loại “rẻ rúng” nằm đó, bên chỗ thu tiền. Em vớ bừa một tập, quăng vội mười hào bạc, bước ra khỏi phải thốt lời nào.
Em cám ơn Abel đã tỏ ra còn biết điều đôi chút, nên không gửi tặng sách. Em giở tập sách, mà cảm thấy xấu hổ; xấu hổ nhiều không phải chỉ vì cuốn sách - dù sao cũng chứa nhiều ngốc nghếch hơn là tục tĩu - nhưng xấu hổ vì nghĩ rằng tác giả cuốn sách là Abel, Abel Vautier, bạn của anh Jérôme. Em thu xếp khắp từng trang mà chẳng thấy đâu là cái “tài năng lớn” như nhà phê bình trong tạp chí Thời Đại Bách Khoa đã khám phá ra. Ở Havre, nơi cái xã hội tí hon này, người ta thường nói tới Abel, em mới hay là cuốn sách được tồn lưu lắm. Cái chết bông lông tầm phào vô phương cứu chữa của chú chàng, người lại cho là thể cách “nhẹ nhàng uyển chuyển”: cố nhiên em cẩn thận dè dặt, chỉ nói riêng với anh điều này. Tội nghiệp mục sư Vautier! Ban đầu ông ta buồn phiền là phải, thế mà cuối cùng đâm ra tự nhủ: không chừng cuốn sách thế mà có giá trị, là một lý do để hãnh diện cũng nên. Mọi người xung quanh thôi thì cứ mà tán hưu tán vượn cho ông ta tin thế. Hôm qua, tại nhà cô Plantier, bà V, đột ngột bảo: “Thưa mục sư, chắc hẳn mục sư phải hài lòng lắm đó, vì sự thành công rực rỡ của cậu Abel!”. Mục sư ngượng ngùng đáp: Ồ, quả thật, tôi chưa cảm thấy thế... - “Nhưng rồi mục sư phải cảm thấy thế! Phải cảm thấy thế!” Cô Plantier nói tiếp liền một mạch hồn nhiên vồ vập đến nỗi mọi người cùng cao hứng bật cười, cả mục sư cũng vậy.
Nghe chừng chú chàng còn đương soạn vở Nouvel Abeilard cho một ban kịch nham nhở nào chẳng rõ, nếu đưa ra trình diễn thì sẽ còn xảy ra những gì? Dường như báo chí đã rục rịch khởi sự bàn tới?... Tội nghiệp! Có lẽ nào Abel lại ao ước thành công theo lối đó, và sẽ thỏa mãn với chừng đó hay sao?
Hôm qua em đọc những lời này trong Nguồn Vui Vĩnh Viễn: “Kẻ nào thật sự ước vọng vinh quang chân chính và trường cửu, kẻ ấy không kể gì vinh quang hiện thế; không biết xem thường vinh quang trần tục, là tỏ ra không biết yêu sự vinh hiển cao xa”, và em nghĩ; xin cảm tạ Thượng Đế, đã chọn Jérôme để hướng về sự vinh hiển nơi thương khung bát ngát, so vào thì vinh hiển trần tục còn có nghĩa lý gì.”
Ngày tháng lặng lẽ trôi qua trong những công việc buồn tẻ; nhưng vì mải mê để hết tâm hồn nghĩ đến những kỷ niệm cũ, và hy vọng ngày mai, nên tôi không cảm thấy tháng ngày chậm chạp ri rỉ là bao.
Đúng ra thì vào khoảng tháng sáu, cậu tôi và Alissa đi thăm Juliette ở gần Nimes, Juliette đẻ vào khoảng ấy. Nhưng vì tin tức không được tốt đẹp lắm, nên chuyến đi phải vội vã khởi sự sớm hơn. Alissa viết cho tôi một bức thư như sau :
“Bức thư cuối của anh gửi về Havre đến vào lúc em vừa rời Havre. Làm sao giải thích được vì lẽ đến tám ngày sau, ở Nimes em mới nhận được. Suốt một tuần, em sống thẫn thờ e ngại mòn hao, lạnh lùng... Anh ơi, em chỉ sống vì anh thôi. Chỉ với anh, em mới thật là em, em mới thật là hơn em bội phần. Sức khỏe Juliette đã khá; sắp đến ngày sinh nở rồi; chắc sẽ êm xuôi, không sao. Juliette biết rằng sáng nay em viết thư cho anh. Sau ngày em đến Aigues Vives một hôm, Juliette hỏi em: “Tin tức anh Jérôme ra sao chị? Anh đương làm gì? Vẫn gửi thư về cho chị luôn chứ?”. Và em phải thành thật đáp. Nàng bảo: “Khi nào chị viết thư cho anh, nhớ nói rằng...” nàng có ý ngần ngừ đôi chút, rồi dịu dàng mỉm cười tiếp: “... rằng em đã khỏi bịnh rồi”. Anh Jérôme ạ, trước đây em vẫn thường lo ngại khi nhận được những bức thư rất vui của Juliette, em sợ rằng Juliette cố che dấu lòng mình, và tự dối mình... Hạnh phúc của Juliette ngày nay khác với mộng tưởng ngày xưa biết mấy!... Ồ! Cái điều thiên hạ gọi là hạnh phúc, quả thật là điều rất ít xa lạ đối với linh hồn; và những yếu tố tưởng như cấu tạo nên hạnh phúc từ ở bên ngoài, quả thật là không đáng kể chi mấy! Em xin phép không nói với anh những ý tưởng của mình trong những buổi một mình đi dạo trên “cánh đồng hoang” có điều làm em ngạc nhiên nhất là sao thấy lòng không vui; hạnh phúc của Juliette đáng lẽ làm cho em hân hoan mới phải... Vì sao em lại cảm thấy một nỗi buồn sầu khó hiểu, em gắng xua đuổi mà vẫn hoài công! Phong cảnh ở đây, phong cảnh đẹp vô cùng, em nhận ra, em cảm thấy, lại càng tăng thêm nỗi buồn rầu kỳ quặc. Khi ở bên Ý anh viết thư về, em đã biết nhìn mọi vật qua thị giác anh; ngày nay em thấy hình như mình không chia xẻ với anh, hình như em giữ riêng, em lấy mất của anh những gì em một mình nhìn ngắm... Và thêm nữa, xưa kia... ở Fongueusemare và Havre, em đã từng tạo được cho mình một “năng lực cưỡng kháng” để che chở linh hồn trong những ngày tháng gió mưa; thì ngày nay tại đây, năng lực kia không còn được sử dụng nữa. Và tình trạng buông xuôi “bỏ bê” dã dượi đó, em cảm thấy là một việc trầm trọng vô ngần, em càng hoang mang khôn xiết. Tiếng cười của thiên hạ ở đây làm em bực tức; có lẽ cái mà em gọi là buồn chỉ là không ồn ào được như thiên hạ, thế thôi. Chắc hẳn ngày trước trong nỗi vui của em có pha lẫn chút kiêu hãnh nào, nếu không thì tại sao ngày nay, giữa cái vui bên ngoài,lòng em lại cảm thấy hổ thẹn tủi hờn...Tự ngày tới đây, em cầu nguyện chẳng được mấy tí: em cảm tưởng ngây ngô là Thượng Đế không còn ở vị trí cũ. Nguy rồi! Xin chào anh vội vã. Em xấu hổ vì lỡ thốt lời bất kính phạm thần; em xấu hổ vì lỡ thú nhận sự yếu đuối sầu muộn đó, viết ra những điều mà ngày nay em sẽ xé, nếu chiều nay bưu điện không vội mang đi.”
Bức thư tiếp chỉ nói đến sự sinh nở của đứa cháu, nỗi vui của Juliette và của cậu tôi... tuyệt nhiên không nói gì về tâm tình riêng cả. Cái hôn sơ thủy chan hòa? Không.
Rồi tiếp theo là thư gửi từ Fongueusemare; Juliette về đây với chị vào độ tháng bảy.
“Édouard và Juliette từ biệt ba và em sáng nay. Em quyến luyến nhất là đứa cháu. Sáu tháng nữa, nhìn lại nó, em sợ sẽ không nhận ra được nữa những cử chỉ của cháu; trước nay, em từng theo dõi cháu nhỏ “phát minh” từng cử chỉ cỏn con. Những sự “sinh thành” bao giờ cũng huyền bí nhiệm mầu! Thường thường chúng ta không biết ngạc nhiên là chỉ vì thiếu chú ý. Biết bao lần em đứng im, nghiêng mình bên chiếc nôi tí hon chứa chan hy vọng. Nhưng bởi đâu sự phát triển chấm dứt quá sớm; bởi sự vị kỷ nào, bởi sự tự mãn nào mọi sinh vật bỗng trở thành cố định và dừng lại lúc còn quá cách biệt với Chí Cao? Ồ! Nếu chúng ta còn muốn tiến gần Thượng Đế hơn nữa... thì cuộc hành trình yêu hoa nhị nguyệt sẽ hăm hở nô nức xiết bao.
Juliette có vẻ rất sung sướng. Ban đầu em hơi buồn thấy Juliette bỏ không chơi dương cầm nữa, nhưng vì Édouard Teissières không thích âm nhạc, và cũng không thích xem sách mấy; kể ra Juliette hành động thế là phải, không tìm thú vui riêng cho mình, nếu chồng không thể cùng san sẻ. Trái lại, nàng rất chú tâm vào công việc làm ăn của chồng. Công việc làm ăn rất phát đạt; Édouard thường vui thích nói rằng chính nhờ cuộc hôn nhân này mà chàng có được đông khách hàng ở Havre. Trong những chuyến đi công việc vừa rồi, Robert cùng đi với chàng; Édouard rất lưu tâm chăm sóc em vợ; chàng tin rằng mình rất hiểu tâm tính Robert, và chàng không mất hy vọng sẽ có ngày nhìn thấy Robert thật sự yêu thích công việc làm ăn kia.
Ba em sức khỏe có khá nhiều. Nhìn thấy con gái sống hạnh phúc; dường như ba trẻ ra; và tìm thấy hứng thú trong nông trại. Những lúc rỗi bảo em đọc sách, nghe em đọc những chuyến du lịch của bá tước Huebner; và chính mình cũng thấy thích, em cũng còn nhiều thì giờ rỗi đọc thêm, nhưng em đương chờ những điều chỉ dẫn của anh; sáng nay, em cầm hết tập này đến tập khác mà không thích tập nào cả.”
Từ đây trở đi, thư Alissa ngày càng tha thiết. Vào độ cuối hè, nàng viết :
“Vì sợ anh lo nên em không nói cho anh biết em chờ mong anh như thế nào. Mỗi ngày không thấy anh, em thấy nặng nề làm sao. Còn những hai tháng nữa! Hai tháng, mà sao nghe chừng như dài dằng dặc, dài hơn tất cả những năm tháng xa anh từ trước tới nay. Em cố gắng tìm cách nguôi khuây nhưng vô ích. Sách vở không còn khuây khỏa nữa, đi dạo cũng không vui, cảnh vật hết tươi đẹp, khu vườn quanh nhà cũng phai nhạt phấn hương rồi. Em thèm thuồng những khổ dịch của anh, những sự tập tành bó buộc, không theo ý mình chọn lựa, không cho phép mình ngồi đối diện với mình, chúng lôi bừa anh đi, chúng làm anh mệt nhọc, cho ngày chóng qua, và chiều tối là lăn ngay vào giấc ngủ... Em nghe anh tả những buổi thao diễn, hành binh, mà thấy lòng nao nức, tâm trí cứ bị ám ảnh...
Những đêm gần đây em ít ngủ, nhiều lần trở giấc thình lình nghe tiếng kèn giục giã. Nghe thật sự, anh ạ. Em hình dung rất rõ niềm tê mê phơi phới anh nói đó, mỗi buổi mai thức dậy trước đất trời... giữa bình minh rạng rỡ giá buốt, phong cảnh vùng cao nguyên Malzéville hẳn là phải đẹp lắm!
Vài ngày nay, em không được khỏe lắm. Ồ! Chả có gì hệ trọng lắm đâu. Chỉ tại chờ anh quá nhiều mà nên thế.”
Và sáu tuần sau.
“Đây là thư cuối cùng của em. Dù anh chưa định trước ngày về, nhưng chả còn bao lâu nữa; em không còn thể viết gì cho anh. Em muốn sẽ được gặp anh ở Fongueusemare, nhưng vì thời tiết quá xấu, nên ba em muốn về lại phố. Ngày nay Robert và Juliette cùng đi cả rồi, thì anh có thể trọ lại nhà em được lắm, nhưng tốt hơn là anh nên ở nhà cô Félicie, cô sẽ sung sướng tiếp đón anh.
Ngày về của anh càng gần, em càng thấy xao xuyến. Gần như lo sợ. Trước nay em nóng ruột mong anh về sớm bao nhiêu, thì nay em như sợ gặp lại anh bấy nhiêu; em gắng đừng nghĩ đến; em... tưởng tượng tiếng chuông anh bấm, tiếng chân anh bước lên cầu thang, tim em như ngừng đập, như thắt lại. Nhưng anh đừng mong em có thể thốt được lời nào... Một quá khứ như đã tận cùng. Dĩ vãng của em dường như kết thúc. Ở bờ phía bên kia, em không nhìn thấy ra cái gì hết. Cuộc đời em đầy ắp dừng sững lại đây.”
Bốn ngày sau, nghĩa là một tuần trước ngày tôi bãi khóa, lại nhận được một lá thư ngắn nữa:
“Anh Jérôme, em hoàn toàn tán đồng; không kéo dài quá mức buổi lưu trú tại Havre và thời gian gặp gỡ. Ta sẽ nói được gì nữa với nhau ngoài những điều đã viết? Vậy nếu anh phải về lại Paris ngày hôm 28 vì việc ký danh, anh đừng ngần ngại gì, cũng đừng nên tiếc rằng chúng mình chỉ gặp nhau trong hai hôm. Chúng ta còn cả một cuộc sống, phải không anh?”
[1] Pardon, cher Gide, il nous faut bien ici user quelque peu de violence (dans le Dit de la parole re-créatrico) - pour l’amour de ton Ungedachte diaphane.
Chúng tôi gặp lại nhau ở nhà dì Plantier. Tôi bỗng cảm thấy mình không còn tươi trẻ nữa sau bảy năm ở quân đội... Chắc nàng cũng nhận thấy tôi đổi thay nhiều. Nhưng có nghĩa gì cái cảm tưởng đầu sai lệch ấy. Riêng tôi sợ rằng mình không nhận ra người yêu cũ, nên ban đầu tôi chỉ nhìn thoáng qua... Không; không có gì cả, chúng tôi chỉ bối rối, ngượng ngập vì mọi người buộc chúng tôi đóng cái vai trò vợ chồng chưa cưới mới vô lý làm sao! Mọi người như vội vàng lẩn tránh để chúng tôi được tự do trò chuyện.
- Nhưng thưa cô, nào chúng con có cần nói riêng với nhau những điều gì bí mật đâu. Xin cô cứ tự nhiên - Đó là lời Alissa khi nhìn thấy người cô tỏ vẻ quá hấp tấp lánh đi nơi khác.
- Sao lại không! Sao lại không! Cô hiểu các cháu lắm chứ! Xa nhau lâu ngày, làm gì mà chẳng có trăm nghìn chuyện nói với nhau...
- Con xin cô cứ ở lại; nếu cô đi chỗ khác chúng con phật ý rất nhiều, Alissa nói câu ấy với một giọng gần như bực tức, đến nỗi tôi không nhận ra được đó là giọng của nàng.
- Dì ạ, cháu nói thật rằng nếu dì bỏ đi, chúng cháu sẽ không nói với nhau được một tiếng nào nữa cả! Tôi vừa cười vừa tiếp lời Alissa, nhưng trong lòng vẫn như cảm thấy một nỗi e sợ gì, không muốn cùng nàng trò chuyện riêng.
Thế là ba người lại tiếp tục nói chuyện một cách vô nghĩa, thân mật một cách giả tạo, mỗi người cố gắng làm ra vẻ vui tươi tự nhiên để che giấu mối bối rối bất an của mình.
Buổi chiều đó, khi chia tay nhau, chúng tôi thấy hân hoan như trút được một gánh nặng, không bị buộc phải đóng trò nữa. Chúng tôi đợi ngày mai sẽ gặp lại nhau ở nhà cậu tôi. Trong bữa ăn.
Tôi đến trước giờ mời, thấy Alissa đương tiếp chuyện một người bạn. Nàng không đủ can đảm bảo cô bạn hãy đi, và cô ta cũng không có nhã ý kín đáo cáo từ. Cuối cùng, khi cô bạn đã ra về, tôi giả vờ ngạc nhiên sao Alissa không cầm giữ nàng lại dùng bữa. Cả hai chúng tôi cùng thấy tâm hồn nặng nề, uể oải, sau một đêm thao thức. Cậu tôi bước vào. Alissa như đoán được rằng tôi nhận thấy ba nàng già quá. Ông đã nặng tai, không còn nghe rõ nữa; phải nói lớn tiếng khi chuyện trò, lời nàng bỗng lệch lạc ngây ngô, tôi thấy câu chuyện nặng nề như hang tồn sinh trống trải.
Khi dùng bữa xong, thì dì tôi đến. Dì và tôi đã đồng ý trước điều đó. Dì đem xe đến đưa chúng tôi tới Orcher, với dụng ý để chúng tôi cùng nhau đi bộ trở về, và dọc đường sẽ tha hồ mà hỏi chuyện. Trời nóng quá. Đoạn đường dốc không có bóng cây, giốc nắng chói chang hoa mắt. Thật không thấy hứng thú chút nào. Hai đứa cùng bước vội vàng cho chóng tới chỗ dì tôi đậu xe. Trong đầu nhức mỏi tôi không đào ra được một ý tưởng nào để nói. Muốn tỏ vẻ thân mật, tôi nắm lấy tay Alissa. Bước đi vội vàng, ngực thở hổn hển, cả hai đứa cùng uể oải, sức nóng phừng phừng lên khắp hai mặt. Hai bên thái dương đập mạnh. Gương mặt của Alissa không còn xinh tươi nữa; nắm tay nhau ướt đẫm mồ hôi, càng thêm khó chịu hơn, chúng tôi bỏ tay nhau buồn rầu buông thõng xuống...
Chúng tôi đi vội quá nên đến chỗ đường quá sớm; dì tôi vì muốn chúng tôi có đủ thì giờ trò chuyện nên đánh xe theo một con đường, và đi rất chậm. Chúng tôi ngồi lại trên mô đất bên đường, thân ướt đẫm mồ hôi; một cơn gió lạnh thổi qua thình lình làm tê cóng cả người. Chúng tôi tiếp tục đi để gặp chiếc xe... Khổ nữa là lòng ân cần quá sốt sắng của dì tôi, bà tưởng rằng chúng tôi đã nói chuyện với nhau nhiều lắm, sắp vồn vã hỏi chúng tôi bao giờ đến ngày hôn lễ. Alissa không cầm giữ được nữa, để lệ ràn rụa lên mặt; nàng lấy cớ đau đầu để khỏi đáp. Trên đường về, không ai nói lời nào cả. Vì cơn mê đầy ắp? Vì trận cười đổ lăn?
Hôm sau, thức giấc mình mẩy nhức mỏi, đến chiều tôi mới trở lại nhà cậu. Alissa lại bận tiếp chuyện Madeleine Plissa một đứa cháu gái dì Félicie. Khi tôi bước vào, cô ta vui mừng :
- May quá! Chắc chuyện vãn xong anh trở về bên ấy, tôi cùng đi cho vui.
Thốt nhiên tôi đồng ý; thế là suốt giờ không còn được ngồi riêng với Alissa nữa. Nhưng hình như chính nhờ cô bé ấy mà chúng tôi bớt thấy ngượng ngùng, không còn lúng túng
quá như hôm trước; câu chuyện giữa ba người trở nên dễ dãi, tự nhiên hơn, không đến nỗi quá tẻ nhạt như ban đầu chúng tôi những tưởng. Khi tôi đứng lên từ giã, Alissa mỉm một nụ cười rất lạ; dường như đến lúc đó nàng mới hay rằng sáng hôm sau tôi đã phải lên đường. Nhưng dù sao lần từ biệt nầy cũng không đến nỗi bi thảm quá, chúng tôi mong chẳng bao lâu còn gặp lại nhau.
Nhưng khi dùng bữa tối xong ở nhà dì Plantier, tôi cảm thấy hoang mang lo ngại; tôi trở xuống phố, lang thang gần một giờ rồi mới bấm chuông nhà cậu. Cậu Bucolin tiếp chuyện tôi. Alissa cảm thấy mệt mỏi đã về phòng riêng nghỉ. Tôi nói dăm ba câu chuyện rồi cáo từ.
Những cơ hội quả đã rất lỡ làng! Nhưng cho dẫu có gặp may mắn, cho dẫu có gặp mọi điều thuận lợi, thì chúng tôi cũng chỉ tạo ra nỗi lúng túng cho mình. Không có gì làm tôi khổ tâm hơn, vì biết rằng Alissa cũng cảm thấy như thế.
Trước khi trở lại Paris, tôi nhận bức thư sau đây :
“Anh ơi, lần gặp nhau mới buồn não làm sao! Anh đừng tưởng tượng rằng lỗi là ở nơi kẻ khác; chỉ tại nơi chúng ta thôi. Em tin rằng từ nay sẽ luôn luôn như thế mãi trong những ngày hội ngộ mai sau. Thôi, em van anh, chúng ta đừng bao giờ tìm gặp lại nhau nữa.
Vì đâu mà ngập ngừng, lúng túng im lìm không nói, trong khi chúng ta có một trăm điều để nói cho nhau nghe? Ngày đầu, em vẫn hân hoan với sự lặng lẽ ấy, vì em tưởng rằng ngày mai nó sẽ tan đi, và ngày mai anh sẽ nói với em những chuyện tươi đẹp vô cùng, không thể nào anh lại ra đi trong tình trạng con chuồn chuồn cô đơn ấy.
Rồi buổi đi Orcher... buổi đi thảm đạm vô chừng! Em nhìn nó dần dà im lìm kết liễu; và nhất là lúc đôi bàn tay chúng ta rời rã tuyệt vọng buông xuôi, em thảng thốt thấy lòng mình tan vỡ. Điều làm em đau đớn nhất không phải vì bàn tay anh đã bỏ tay em, mà vì nghĩ rằng nếu anh không làm thế, thì cũng đến lúc em phải buông tay anh mà thôi.
Ngày hôm sau - chính là hôm qua - em chờ mong anh suốt một buổi sáng. Lòng xốn xang quá, em không thể ở nhà, bèn đi ra bờ bể cho nguôi khuây, dặn người nhà nếu anh có đến thì chỉ cho anh biết để ra đấy tìm. Em ngồi nhìn sóng vỗ, lòng đau đớn quá vì chỉ một mình em thờ thẫn trước bờ bể rộng mênh mông. Sao anh không đến? Em bỏ về, và chợt nghĩ rằng về nhà thế nào cũng sẽ gặp anh... em tin rằng anh hiện đương đợi em ở trong phòng. Em biết rằng buổi chiều em sẽ không được rảnh. Madeleine hôm trước đó đã hẹn sẽ đến chơi, và vì nghĩ rằng sẽ gặp anh buổi sáng, nên em vui lòng cho nó đến.
Nhưng có lẽ rằng chính nhờ Madeleine mà chúng ta còn được đôi giây hạnh phúc trong buổi gặp nhau. Trong chốc lát, em có ảo tưởng rằng câu chuyện nhẹ nhàng dễ dãi sẽ còn kéo dài, lâu, lâu lắm... Đến khi anh tiến gần chiếc ghế em cùng ngồi với Madeleine, và nghiêng mình bên em, anh từ biệt, em không nói nên lời: thốt nhiên em chợt hiểu là anh đi.
Anh vừa bước ra với Madeleine, em bỗng thấy không thể nào thế được. Em muốn tìm lại anh. Em muốn nói với anh rất nhiều, nói tất cả những gì em chưa nói. Em chạy đến nhà cô Plantier. Muộn rồi... Em không đủ thì giờ, không dám... Em trở về, tuyệt vọng, viết thư này cho anh, cho anh biết rằng từ nay em không còn muốn viết thư cho anh nữa... một bức thư cuối cùng... bởi vì em đã cảm thấy rõ quá rồi, tất cả thư từ qua lại giữa chúng ta chỉ là mộng ảo, em và anh cũng thế, chúng ta tự viết cho mình, và anh Jérôme ơi, chúng ta vẫn trọn đời cách biệt.
Em đã xé bức thư này: nhưng bây giờ em viết trở lại cũng tương tự như trước thôi. Không. Anh đừng nghĩ rằng em hết yêu anh. Mỗi lần anh đến bên em, em ngượng ngùng, lúng túng thế nào, em càng cảm thấy tình em đối với anh sâu sắc biết bao; nhưng vẫn là nỗi tuyệt vọng hoàn toàn. Bởi vì em phải tự thú nhận rằng ở xa càng yêu anh hơn nữa. Trước đây, em đã có linh cảm như thế. Cuộc gặp gỡ vừa qua đã cho em thấy trọn; và anh, anh cũng phải chịu nhìn nhận. Thôi, chào anh, người anh yêu dấu. Em nguyện cầu Thượng Đế dẫn dắt anh đi. Chỉ nơi Chúa Trời chúng ta mới tiến gần nhau mà không có tội.”
Và dường như nàng thấy bức thư như thế chưa đủ làm tôi đau đớn, ngày hôm sau lại thêm mấy dòng tái bút :
“Em xin yêu cầu anh hãy gìn giữ kín đáo hơn một tí nữa chuyện riêng giữa chúng ta. Bao lần em đã phật ý vì anh đem thố lộ hết tâm tình với Juliette hoặc với Abel. Đó là điều từ lâu xui em nghĩ rằng tình của anh là một mối tình lý trí, sự cố gắng của tinh thần muốn giữ nghĩa thủy chung.”
Chắc vì sợ tôi đưa Abel xem bức thư nên nàng viết mấy dòng tái bút ấy. Làm sao nàng có thể sáng suốt ngờ thế được. Trong những lời nói của tôi trước nay, nàng có nhận thấy chút phản ảnh nào những điều bạn tôi đã bày vẽ không?
Ồ! Nàng khỏi phải lo nữa, từ nay tôi xa biệt Abel hẳn rồi. Mỗi kẻ một đường; nàng dặn dò thế cũng bằng thừa. Nàng không cần phải nhắc nhở, tôi cũng biết tự mình mang một mình cái khối nặng lì lợm ở trong thân.
Trong ba ngày liền rã rời, không làm gì được cả; tôi muốn trả lời Alissa. Nhưng lại sợ đào sâu thêm vết thương những lời bàn cãi quá mãnh liệt, với những lời thề quyết quá thiết tha, hoặc một chút vụng về nào đó; tôi đã xé bao nhiêu thư trước khi gửi đi bức cuối. Cho đến ngày nay đọc lại bản ráp bức thư kia, tôi thấy se lòng.
“Alissa! Em hãy thương hại anh, thương hại hai chúng ta một chút... Thư em làm anh đau đớn. Phải chi mà anh có thể mỉm cười khi đọc được những dòng lo ngại của em! Những điều em viết, anh cũng cảm thấy như em, nhưng nghĩ tới, anh e sợ vô cùng, anh không thể tự thú nhận. Sao em nỡ nói thật một cách phũ phàng những gì ta chỉ nên coi như là do tưởng tượng mà ra! Sao em nỡ làm cho chúng ta nặng nề thêm như thế?
Nếu em thấy rằng, em bớt yêu anh... Ồ! Sao anh lại giả sử một cách tàn nhẫn như vậy! Cả bức thư em đã nói hết những gì! Nhưng đã thế thì những điều lo sợ viển vông của em không còn ý nghĩa nữa! Alissa! Mỗi lần anh muốn bàn cãi với em, lời anh như tê giá lại; anh chỉ còn nghe tiếng thổn thức của lòng mình. Vì quá yêu em, nên anh trở thành lúng túng, nếu anh bớt yêu em chắc anh sẽ bày giãi được dễ dàng hơn. “Tình của lý trí”... anh còn biết trả lời em bằng cách gì nữa! Khi mà anh yêu em hết cả tâm hồn, thì làm sao anh có thể phân biệt đâu là lý trí, đâu là tâm tình? Nhưng thôi, nếu em đã hiểu sai lệch anh đến thế, nếu em cảm thấy rằng từ nay dẫu có viết thư cho anh thì cũng chỉ là tự viết cho mình, và cũng vì lẽ rằng anh không còn đủ sức chịu đựng một bức thư tương tự thế này một lần nữa, nên anh van em, chúng ta hãy tạm ngừng viết cho nhau trong một thời gian vậy.”
Trong đoạn sau, phản đối lời xét đoán bất công của nàng, tôi xin được giáp mặt một lần nữa. Lần trước đã rủi ro quá nhiều, gặp toàn những trường ngang trái: khung cảnh, thời tiết, sự vụng về của dì Plantier, và cả những thư từ sôi nổi trước, không chuẩn bị cho hai tâm hồn một cách thận trọng hơn. Thì lần sau, từ đây cho tới ngày đó, xin hứa với em rằng chỉ còn riêng sự lặng lẽ sẽ xếp đặt cho trùng phùng. Tôi mong sẽ gặp nàng vào mùa xuân tại Fongueusemare. Tôi nghĩ rằng giữa khung cảnh ca nhi này quá khứ sẽ lên lời biện hộ cho tôi. Nàng sẽ đón tôi trong những ngày lễ Phục Sinh. Tùy ý nàng muốn tôi ở lại nhiều ngày hay muốn tôi đi sớm, tôi sẽ bằng lòng nghe theo hết, không trái ý em.
Khi quyết định xong, tâm tình đã dứt khoát, gửi bức thư đi, tôi mới thấy có nghị lực bắt tay vào công việc.
* * * * *
Nhưng tôi gặp lại nàng sớm hơn, vào độ cuối năm ấy. Từ lâu, cô Ashburton, sức khỏe suy yếu nhiều, và qua đời bốn ngày trước Noel. Từ ngày ở quân đội về, tôi vẫn chung sống với cô; không rời cô một lúc, khi lâm chung cô vẫn nhìn thấy tôi đứng ở bên giường. Tôi nhận được một tấm carte của Alissa: đến dự tang lễ rồi về ngay. Theo sau quan tài, nàng và tôi đi bên cạnh nhau, thỉnh thoảng mới trao đổi vài lời; nhưng ở nhà thờ, nàng ngồi bên tôi, nhiều lần tôi cảm thấy nàng đưa mắt, nhìn mình rất âu yếm.
Lúc từ giã, nàng bảo :
- Thỏa thuận rồi đấy nhé: không thư từ từ đây đến Phục Sinh...
- Vậy; nhưng ngày Phục Sinh...
- Em sẽ chờ anh.
Chúng tôi đã ra đến cổng nghĩa địa.
Tôi muốn đưa nàng đến nhà ga; nhưng nàng ra hiệu cho một chiếc xe đỗ lại và không một lời từ biệt, nàng lên xe, để tôi đứng lại một mình.
“Alissa chờ cháu ở ngoài vườn”. Đó là lời cậu tôi nói, sau khi ôm tôi hôn như con ruột, ngày tôi về lại Fongueusemare, khoảng cuối tháng tư. Ban đầu tôi hơi thất vọng, nghĩ rằng nàng không vồn vã đón tôi, nhưng sau đó tôi lại thầm cám ơn nàng đã khéo lẩn đi để tránh cho cả hai sự biểu lộ tình thương quá tầm thường khi gặp gỡ.
Nàng ở cuối vườn. Tôi bước tới. Vườn cây lá um tùm vào mùa hoa nở dâng hương; lilas, sorbiers, cytises. Để nàng khỏi nhìn thấy mình đi lại, tôi tẽ sang phía bên kia vườn, theo con đường “âm u” chạy dưới lá cành mát rượi. Tôi chầm chậm bước; đất trời cũng ấm áp như lòng người, cũng trong trẻo, cũng sáng ngời. Hẳn rằng nàng không tưởng tôi đi theo lối này; tôi đến gần sau lưng nàng, nàng vẫn chưa hay biết; tôi dừng lại... Thời gian như cùng dừng lại với tôi. Đây có lẽ là phút giây trước giờ hạnh phúc, mà chính giờ hạnh phúc cũng không thể dịu ngọt bằng.
Tôi muốn quỳ gối xuống: tôi bước thêm một bước, nàng chợt nghe thấy, vội đứng lên, bỏ rơi đồ thêu xuống, đưa tay đặt lên vai tôi; lặng yên nàng nhìn tôi, cười âu yếm. Màu áo trắng thướt tha rung động. Trên nét mặt nghiêm trang của nàng, tôi nhìn ra nụ cười hồn nhiên của tuổi nhỏ.
Tôi bỗng thốt :
- Này, em Alissa; anh còn đúng mười hai ngày rỗi. Nhưng nếu em muốn anh đi ngày nào thì anh đi ngày ấy. Anh không nấn ná ở thêm nếu em không bằng lòng. Chúng ta hãy thỏa thuận trước với nhau một dấu hiệu nào đó ngụ ý bảo: ngày mai anh phải lên đường. Thế là ngày mai anh vui lòng từ giã, không lời oán trách, thở than. Em nghĩ sao?
Vì không định trước nên lời nói của tôi tự nhiên rất dễ dàng. Nàng suy nghĩ rồi đáp :
- Buổi tối nào xuống phòng ăn em không đeo nơi cổ chiếc thánh giá bằng ngọc tím mà anh vốn thích ấy... anh hiểu chứ?
- Ừ, buổi ấy sẽ là buổi cuối cùng.
- Nhưng anh đi mà không khóc, không buồn đấy nhé.
- Và không từ biệt. Buổi tối ấy ra khỏi phòng ăn, thái độ anh vẫn hệt như tối trước vẫn tự nhiên như thường, cho đến nỗi em sẽ tự hỏi: phải chăng anh chưa hiểu? Nhưng sáng hôm sau, đến phòng tìm anh, em sẽ thấy không còn anh nữa.
- Ngày hôm sau, em sẽ không tìm.
Nàng đưa tay; tôi nắm lấy đưa lên môi và nói :
- Từ nay đến hôm đó, không một lời nào làm anh phải tiên cảm chút gì đấy nhé.
- Và anh cũng đừng nhắc gì đến ngày từ biệt hôm sau.
- Anh muốn rằng những ngày ở cạnh em cũng giống những ngày thường vậy. Anh muốn nói rằng: đừng nên cảm thấy chúng đặc biệt. Và nữa... nếu có thể đừng nói chuyện với nhau quá nhiều...
Nàng bật cười. Tôi tiếp :
- Có công việc gì để chúng ta cùng làm chung cho vui không?
Xưa nay chúng tôi vẫn thích làm vườn. Người làm vườn cũ đã thôi việc trước đây hai tháng. Người mới đến còn vụng về, vì thế khu vườn không được chăm sóc từ hai tháng nay trông thật bề bộn. Nhiều cây hồng cành mé vụng về, nhiều lẵng hoa bị củi khô đè bẹp. Phần đông là do chúng tôi trồng lấy; chúng tôi nhận ra những người bạn cũ. Thế là ba ngày đầu chúng tôi có thể vừa làm vừa trò chuyện nhiều mà không có gì trầm trọng cả; khi ngừng nói, sự im lặng vẫn không nặng nề.
Dần dà chúng tôi hầu như quên rằng có ngày còn phải từ giã nhau. Tôi thấy nàng không quá e ấp như xưa. Nàng cũng không còn thấy tôi dùng dằng thắc mắc... Alissa trẻ và đẹp hơn mùa thu trước. Mỗi chiều chiếc thánh giá vẫn lấp lánh nơi cổ. Lòng tôi chứa chan hy vọng, và lòng nàng cũng thế. Càng ngày câu chuyện mỗi thân mật. Một buổi sáng êm dịu, trời xanh cao, hoa nở ngát vườn, lòng chúng tôi cũng thơm ngát như hoa, tôi nhìn nàng chậm rãi nói :
- Alissa ạ, ngày nay Juliette đã tìm ra hạnh phúc, thì em cho phép chúng ta...
Bỗng thấy nàng tái xanh mày mặt, tôi không nói hết câu. - Anh ơi, nàng nói và quay mặt không nhìn, ở bên anh, em thấy sung sướng vạn phần, không gì sánh được... nhưng anh hãy tin em: chúng ta sinh ra không phải để tìm hạnh phúc.
Tôi sôi nổi đáp :
- Linh hồn con người còn có thể tìm ra được gì hơn hạnh phúc nữa?
Nàng nói rất nhỏ :
- Lòng trong sạch thiêng liêng.
Cả hạnh phúc của tôi thoát tung cánh bay đi, bay mãi về xa thẳm.
- Anh không đạt tới? Nếu cuộc sống này không có em. Và tôi ngồi xuống, ôm đầu khóc như một đứa trẻ con: không có em...
Thế rồi ngày ấy cũng trôi qua như mọi ngày khác. Nhưng buổi chiều xuống phòng ăn, Alissa không đeo chiếc thánh giá. Trung thành với lời hứa, sáng hôm sau, trời còn tờ mờ tối, tôi lặng lẽ ra đi.
Hai ngày sau, tôi nhận được bức thư kỳ lạ này, mở đầu bằng mấy câu thơ Shakespeare :
Ngậm ngùi đàn lệ buông rơi
Thoảng tai nức nở như lời thu phong
Gió thu buốt cánh hoa hồng
Dâng hương cho dịu say nồng... dừng thôi
Giờ không êm ái nữa rồi!
Anh ơi, dù nói thế nào, em vẫn tìm anh suốt buổi sáng. Em không thể tin rằng anh đã đi. Em giận anh, Em không ngờ anh quá trung thành với lời hứa. Em nghĩ : đây chỉ là một trò đùa. Sau bụi cây này, sau cụm cây kia, em sắp nhìn thấy anh hiện ra cười nói...
Nhưng không! Anh đi thật rồi! Em xin cảm tạ Caligula.
Suốt ngày em bị ám ảnh mãi bởi một vài ý tưởng em muốn bày tỏ với anh, một nỗi lo âu kỳ lạ. Em tưởng rằng nếu không bày tỏ hết với anh bây giờ thì mai sau em phải ân hận, anh sẽ oán trách em nhiều.
Những ngày đầu anh ở Fongueusemare, em ngạc nhiên và dần dần e sợ, vì cảm thấy tâm hồn, thể phách mình chan chứa một niềm mãn nguyện đến thế nào mà em không còn mong gì hơn nữa cả. Ôi! Đấy là điều em sợ hãi...
Anh ơi, em sợ rằng nói thể chưa đủ làm anh hiểu em. Em sợ nhất là anh cho rằng đó là một lối lý luận quá “siêu việt”, (Ồ! Nếu quả là lý luận thì vụng về làm sao!) Chứ không phải là lời phô diễn đúng cái tình cảm mãnh liệt nhất của tâm hồn.
“Nếu nó chưa phải đáp trọn niềm khát vọng của linh hồn, thì chưa phải là hạnh phúc, anh đã từng nói với em điều đó; anh còn nhớ chăng? Và em đã không nói gì hơn được nữa. Không, anh ạ; quả nó không đáp trọn được lòng chúng ta đâu. Niềm mãn nguyện say mê kia; không thể xem là chân chính. Mùa thu trước, chúng ta đã không từng thấy nó che giấu bao nhiêu là cùng khổ đó hay sao?”
Chân chính ư! Ồ! Cầu xin Thượng Đế đừng cho là chân chính! Chúng ta sinh ra để tìm một nguồn hạnh phúc khác kia.
Những thư từ qua lại giữa chúng ta một độ đã làm hỏng lần hội diện mùa thu như thế nào, thì ngày nay cái kỷ niệm cuộc gặp gỡ vừa rồi cũng làm cho bức thư bây giờ của em không còn hoan hỷ nữa. Ngày xưa, mỗi lần cầm bút viết cho anh, em thấy lòng vui sướng, reo mừng, ngày nay vì đâu niềm hân hoan kia em không tìm được? Vì những lượt thư từ, vì những lần gặp gỡ, chúng ta đã làm khô cạn niềm vui trong trắng hồn nhiên mà lòng ta khát vọng. Và bây giờ, dù em không muốn, mà lời em vẫn hợp ý Orsino: “Dừng thôi! Giờ không còn êm ái nữa!” Xin cùng anh vĩnh biệt. Anh có biết em yêu anh đến độ nào không?... cho đến trọn đời, đối với người anh duy nhứt, em mãi mãi vẫn là...
Alissa
Trước cạm bẫy của đức hạnh tôi không còn biết chống đối cách nào. Những gì oanh liệt choáng ngợp càng quyến rũ tôi, vì tôi không tách rời, không chia biệt nó với tình yêu... Bức thư của Alissa làm tôi ngây ngất trong một niềm phấn khích vô biên. Thượng Đế cũng hiểu cho rằng sở dĩ hai tiếng đức hạnh cám dỗ tôi mãnh liệt là cũng chính vì lẽ tôi tha thiết yêu nàng. Mọi nẻo đường đi lên đều sẽ dẫn tôi tới chỗ gặp lại mặt nàng. A! Địa trường chẳng bao giờ sẽ rút hẹp lại quá nhanh, để chỉ còn riêng dung nạp hai đứa đối diện nhau mà thôi! Hỡi ôi! Tôi không thể ngờ nổi sự che giấu tinh tế của nàng, tôi không thể tưởng tượng rằng nàng sẽ còn tìm ra lối thoát mất trên một đỉnh chơi vơi.
Tôi viết một bức thư dài phúc đáp. Tôi còn nhớ trong suốt bức thư chỉ có một đoạn này là có phần khá sáng suốt :
“Đối với anh, anh thường thấy rằng những gì cao đẹp nhất anh giữ trong tâm hồn ấy chính là tình yêu em; và mọi đức tính của anh đều tùy thuộc vào đó; chính nó nâng đỡ anh, giúp anh tự vượt mình, nếu nó không còn thì anh sẽ rơi trở vào chỗ thấp kém, tầm thường ngay. Chính do niềm hy vọng gặp lại được em mà nẻo đường chênh vênh nhất đối với anh vẫn là nẻo đường đẹp nhất”.
Tôi còn thêm những gì đến nỗi nàng phải đáp :
Nhưng anh ạ, lòng trong sạch thiêng liêng không phải là một sự chọn lựa; đó là một bổn phận (danh từ này được gạch dưới ba lần trong bức thư). Nếu anh quả đúng là người như lòng em tưởng, thì anh, anh cũng sẽ không thể trốn tránh nó được.
Thế là hết. Tôi hiểu rằng, tôi linh cảm rằng đến đây là chấm dứt mọi thư từ, tôi hiểu rằng những lời khuyên khéo léo nhất cũng như mọi ý chí mạnh nhất vẫn không thể nào làm nàng nao núng được.
Dù thế mặc lòng tôi vẫn còn viết cho nàng, rất dài, rất âu yếm. Sau bức thứ ba, tôi nhận được mảnh giấy này :
Anh đừng nghĩ rằng em cố tình quyết định không viết thư nữa cho anh; em chỉ thấy lòng không thích viết, thế thôi. Thư từ của anh, đọc em vẫn còn thấy vui vui, thích thích, nhưng càng ngày em càng tự trách mình đã chiếm giữ tâm trí anh nhiều đến thế.
Ngày hè không còn xa mấy. Ta hãy tạm gác hẳn thư từ lại. Cuối tháng chín này anh hãy về chơi Fongueusemare với em đi; anh bằng lòng chứ? Nếu anh bằng lòng, thì anh không cần gì phúc đáp, xem như im lặng là thoả thuận vậy. Vì thế nên em mong anh đừng hồi âm nhé.
Tôi không hồi âm thật. Chắc rằng buộc tôi im lặng như thế là ý nàng muốn tôi chịu một sự thử thách cuối cùng. Nên sau vài tháng làm việc, rồi du lịch vài tuần, tôi trở về Fongueusemare, lòng đầy hy vọng.
Làm thế nào chỉ kể suông lại câu chuyện, tôi có thể giúp bạn đọc hiểu ngay điều mà ban đầu chính tôi không hiểu gì ráo? Tôi có thể mô tả lại gì đây ngoài cái nguyên nhân của nỗi thống khổ từ đó đã dày vò tôi trọn vẹn, không thể tự dung thứ cho mình vì sao đã tệ đến nỗi đã không đoán được rằng sự hững hờ lạnh nhạt cố ý tạo ra kia còn che giấu một tấm lòng yêu đương phập phồng tha thiết. Nhưng, biết làm sao, ngày đó tôi chỉ có thể thấy được vẻ lạnh nhạt bên ngoài ấy thôi, và vì không nhận ra được người bạn thân yêu, nên tôi đã lên lời buộc tội. Không, không chính ngay thuở ấy anh vẫn không buộc tội em đâu. Alissa ạ! Anh chỉ tuyệt vọng khóc than vì tìm không ra bóng người yêu. Ngày nay, anh đã ước độ được mối tình của em sâu nặng thế nào qua sự hững hờ dụng ý kia, qua cái mưu chước đau đớn ấy, ngày nay anh còn phải yêu em tha thiết đến giới hạn nào là cũng chính bởi ngày xưa em đã gây buồn khổ vô hạn cho anh.
Lạnh nhạt? Hững hờ? Không; tôi không thể thắng nổi, tôi không chống lại được nữa. Và đã có lần tôi phân vân, lưỡng lự, tự hỏi phải chăng chính mình tạo ra đau đớn cho mình; vì lẽ nguyên nhân quá tinh tế, và vì lẽ Alissa đã quá tài tình làm ra vẻ như không hiểu nguyên nhân. Tôi phàn nàn gì mới được chứ? Sự tiếp đón của nàng vẫn niềm nở, tươi tắn biết bao; chưa bao giờ nàng tỏ ra vồn vã, ân cần đến thế; ngày đầu tôi còn dễ bị lầm... Ừ! Nói cho cùng thì có hại gì mấy đâu, nếu cái lối chải tóc phẳng lì, bẹt xuống rất vụng về làm cho nét mặt nàng trở nên khô cứng, và vẻ mặt nàng kém phần trang nhã, màu không tươi, vải không mịn, rất khô và xấu xí làm hỏng mất những nét mềm mại của tấm thân... ừ, nàng biết làm sao mà chữa... dù tự ý nàng hay nghe theo ý tôi... Tôi càng khổ hơn vì thấy những sự niềm nở, ân cần quá đáng của nàng; xưa nay, giữa chúng tôi chưa hề có thế bao giờ; tôi sợ rằng sự vồn vã là do cố gắng hơn là vì thiết tha, do phép xã giao hơn là vì yêu mến.
Buổi tối, vào phòng khách, tôi ngạc nhiên không thấy chiếc dương cầm ở chỗ cũ; vẫn bình tĩnh trước lời thất vọng của tôi, nàng đáp :
- Dương cầm đã đưa đi cho thợ sửa; nàng nói với một giọng rất điềm tĩnh, tự nhiên.
Cậu tôi lên tiếng trách :
- Ba đã nói với con mấy lần rằng trước nay con vẫn dùng nó được, thì bây giờ con cũng có thể chờ ngày Jérôme từ biệt rồi hãy đưa nó đến thợ cũng không muộn gì, con vội vàng như thế làm Jérôme mất một phần vui lớn...
- Nhưng thưa ba, nàng vừa nói vừa quay đi, đỏ mặt, - thưa ba, con thành thật nói rằng dạo sau này nó hỏng quá mất, cho dẫu Jérôme cố gắng mấy cũng không thể dạo nhạc ra hồn.
- Nghe con đánh nhạc thường ngày ba có thấy nó tệ lắm đâu.
Trong giây lát nàng quay mặt vào bóng tối như bận kéo lại tấm nệm ghế, rồi bỗng bỏ phòng đi ra. Một lúc sau nàng mới trở vào đem niêu thuốc sắc, mà cậu tôi vẫn thường quen dùng mỗi buổi tối. Ngày hôm sau nàng vẫn không đổi cách ăn mặc và lối chải tóc; ngồi bên cậu tôi trên chiếc ghế trước nhà, nàng lặng lẽ tiếp tục khâu vá nốt mấy cái đồ cũ... Bên cạnh nàng còn cả một thúng lớn đầy những bít tất cũ mòn. Và ngày sau, đến lượt khăn, dạ... Công việc khâu vá dường như chiếm hết tâm hồn nàng cho đến nỗi làn môi nàng không chút gì duyên dáng nữa, và mắt nàng như mờ hẳn đi.
- Alissa! - Tôi thảng thốt kêu lớn, khi nhìn thấy gương mặt nàng quá đờ đẫn, tôi thật không còn nhận ra được nữa; từ lâu tôi đăm đăm nhìn mà nàng dường như không hay biết gì cả.
- Có gì thế? - Nàng ngửng đầu hỏi.
- Anh muốn xem thử em có nghe tiếng anh không. Anh thấy tâm hồn em như để ở đâu đâu xa anh lắm.
- Đâu có thế, em vẫn ngồi đây; nhưng công việc khâu vá này cần phải chăm chú lắm mới được.
- Trong khi ngồi khâu, em có muốn anh đọc sách Việt ngữ cho em không?
- Em sợ rằng sẽ không đủ tâm trí mà nghe rõ tiếng Việt.
- Tại sao em lại chọn cái công việc đòi hỏi chú ý nhiều như thế?
- Em không làm thì một người Việt khác phải làm.
- Còn biết bao người nghèo khó, sao em không dành công việc cho họ kiếm cơm. Không phải vì tiết kiệm mà em buộc mình làm cái công việc phũ phàng ấy chứ?
Nàng liền quả quyết rằng không một công việc nào thấy thích hơn nữa, từ lâu nàng vẫn không làm gì khác hơn là khâu vá... Nàng mỉm cười. Chưa bao giờ nàng làm tôi tuyệt vọng nhiều đến thế bằng giọng nói êm đềm kia. Nàng nhìn tôi như muốn hỏi: “Đó là một sự thật rất đơn sơ, có gì lạ mà anh phải buồn sầu?” và bao nhiêu bực tức trong lòng tôi ngừng lại nơi môi tôi. Tôi muốn nghẹt thở.
Ngày hôm sau nữa, khi đi hái hoa ở vườn, nàng bảo tôi giúp nàng đem hoa vào phòng riêng. Phòng của nàng từ một năm nay tôi chưa bước tới. Nghe nàng bảo, tôi bỗng hy vọng hân hoan. Tôi tự trách mình sao mà buồn rầu vô lý thế; chỉ một lời nói của nàng đủ xua đuổi hết mọi bom đạn hoang mang.
Lần nào vào phòng nàng tự dưng tôi thấy xúc động; nơi đây bầu không khí dịu hiền bao phủ, dặt dìu thanh thản như tâm hồn Alissa. Bóng màn xanh cửa sổ, bàn ghế bằng gỗ đào hoa tâm lóng lánh, đồ đạt xếp gọn gàng thứ tự, mọi vật như êm đềm nhủ thầm với lòng tôi những nỗi niềm trong trắng, của gò đống ưu tư...
Sáng hôm ấy tôi ngạc nhiên không thấy hai bức họa lớn của Masaccio trên tường ở bên giường nàng nữa, hai bức họa của tôi đem tự bên Ý về; tôi sắp hỏi nàng chúng mất đi đâu, thì chợt tôi nhìn đến chiếc kệ đóng ở tường nơi nàng xếp những tập sách quý. Tủ sách nhỏ ấy phân nửa gồm những sách tôi tặng nàng; phân nửa gồm những sách khác chúng tôi đã cùng đọc. Tôi vừa chợt nhận thấy rằng những sách ấy bị dời đi đâu mất cả, và được thay thế vào bằng những loại sách vô nghĩa. Tôi ngẩng lên, Alissa gượng cười, vâng, vừa cười nàng vừa nhìn tôi chăm chú.
- Em xin lỗi anh nhé; thấy gương mặt anh em không thể nhịn cười được; thình lình nó xịu xuống khi anh nhìn tủ sách của em...
Lúc ấy thật tôi không còn tâm hồn đâu để pha trò nữa.
- Có thật như chăng, Alissa? Chẳng lẽ đó là những sách em tìm đọc ngày nay?
- Chính em đọc đấy chứ. Có gì mà anh lạ?
- Anh tưởng rằng một tâm hồn quen thuộc những loại sách bổ ích không thể nào còn dung nạp những thứ vô nghĩa lá cồn ấy được nữa.
- Em thật không hiểu ý anh. Đấy là những tâm hồn từ tốn vẫn thường cùng em giản dị chuyện trò, thích hợp với tâm hồn em biết bao. Em biết rằng trước những sách ấy không bao giờ có giọng văn hư phù phờ phĩnh, em đọc chúng thì lòng em không thể nào có những niềm ca ngợi phạm thần.
- Ngày nay em chỉ đọc những loại sách ấy thôi ư?
- Vâng, hầu hết là thế. Từ vài tháng nay. Vả chăng em cũng chẳng có thì giờ rỗi nhiều để đọc sách. Và em thú thật với anh rằng vừa rồi em muốn đọc trở lại những tác giả lớn mà em từng cùng anh ca ngợi, thì em có cảm tưởng như cái kẻ mà trong Thánh Kinh có nhắc tới; anh chàng cố công gia tăng cho thân mình cao thêm nửa thước.
- “Tác giả lớn” đã gây cho em có cảm tưởng ấy là ai?
- Không phải tác giả ấy đã gây cho em cảm tưởng kia. Em muốn nói rằng em có cảm tưởng kia khi tìm đọc lại... Ấy là Pascal. Hay là vì em đã rủi giở nhầm những đoạn không hay?
Nghe nàng nói, tôi không giữ được kiên nhẫn nữa. Nàng nói một giọng rõ ràng đều đặn, như đọc một bài cho ông giáo nghe, và vẫn không ngửng đầu lên, cứ cắm cúi sắp đặt mãi mấy bó hoa. Thấy tôi tỏ vẻ bực mình, nàng dừng lại giây lát rồi vẫn tiếp tục nói, giọng vẫn đều đều :
- Những đại ngôn phù phiếm ấy xui lòng ngạc nhiên: cố gắng gì nhiều thế: để không chứng tỏ dược gì cả. Em thường tự hỏi phải chăng giọng điệu sôi nổi ấy là tác dụng của lòng hoài nghi hơn là của lòng tin tưởng. Lòng tin tưởng sâu xa không thể để lệ trào nhiều thế, và không thể có giọng điệu đầy run sợ bê bối kia đâu.
- Chính sự run sợ ấy, chính những dòng lệ ấy làm nên vẻ đẹp sâu xa của tiếng đoạn trường ấy. Tôi cố gắng đáp lại, nhưng thấy lòng hết can đảm, tâm trí rã rời, tôi không còn nhận ra được trong những lời kia một chút gì của người yêu cũ.
- Nếu ban đầu ông ta không trút bỏ niềm vui ra khỏi cuộc sống trần gian thì cuộc sống kia sẽ làm chĩu cán cân ngay, sẽ nặng cân hơn là...
- Là gì? Tôi kinh ngạc hỏi thế.
- Hơn là cõi hồng phúc bấp bênh mơ hồ của ông ta đề nghị.
- Em không còn tin ở nó nữa hay sao?
- Ích gì! Em muốn rằng nó vẫn bấp bênh mơ hồ mãi để cho mọi tính cách “bán buôn” được loại trừ hẳn. Sở dĩ tâm hồn thiết tha với Thượng Đế chịu dấn sâu vào con đường đức hạnh, ấy là vì lòng cao thượng tự nhiên, chứ không vì hy vọng được lĩnh phần thưởng mai sau.
- Chính do đó mà có chủ nghĩa hoài nghi ẩn kín, mà tâm hồn cao viễn của một Pascal đã tìm về ẩn trú.
Không, không phải hoài nghi chủ nghĩa; mà dương thân chủ nghĩa, nàng nói và mỉm cười. Nhưng biết thế để làm gì? Những tâm hồn từ tốn nơi đây - và nàng quay sang kệ sách - sẽ bối rối lắm không biết đáp sao nếu ta hỏi họ thuộc dương thân chủ nghĩa hay hoài nghi chủ nghĩa, hay vô vi chủ nghĩa, hay những gì gì chủ nghĩa khác nhau em không được rõ. Những tâm hồn này chỉ biết nghiêng mình chiêm ngưỡng đấng Chí Tôn, như cỏ nội hoa hèn cúi đầu trước gió, không ranh mãnh, không trớ trêu, không thắc mắc, không diễm kiều. Họ tự xem mình không có gì quan trọng cả, và hiểu rằng nếu mình có chút ý nghĩa hay giá trị nào là ở chỗ biết khuất phục Thượng Đế chí cao.
- Alissa! Alissa! Vì lẽ gì em tự cắt cánh của mình đi như thế!
Giọng nói của nàng rất bình thản và hồn nhiên, nên tiếng kêu của tôi càng thêm lố bịch.
Nàng lại vẫn mỉm cười, và lắc đầu đáp :
- Tất cả những gì em còn giữ lại của cái cần tìm lại Pascal ấy là...
- Là gì? Tôi hỏi vì thấy nàng dừng lại.
- Ấy là lời nói của Chúa Jésus: “kẻ nào muốn cứu rỗi đời sống của mình sẽ đánh mất đời sống đi thôi”. Còn bao nhiêu điều khác, nàng vừa nói tiếp vừa nhìn tôi chăm chăm, bao nhiêu điều khác, thật tình em xin thú thật là thấy mình hầu như chẳng hiểu gì nữa cả. Khi người ta quen sống với những kẻ bé nhỏ này thì quả thật sự siêu việt của những vĩ nhân làm ta ngột ngạt một cách mau chóng dị thường.
Trong lúc hoang mang, tôi còn biết tìm ra lời gì để đáp?
- Nếu ngày nay anh phải cùng em đọc lại tất cả những bài thuyết giáo, những niềm chiêm niệm hán dương cổ độ kia...
Nàng ngắt lời tôi :
- Ồ, nếu thấy anh đọc lại chúng, thì em sẽ buồn nản biết bao. Thật tình em tưởng rằng anh sống để theo dõi một cái gì hơn kia ạ.
Nàng nói một cách rất giản dị, và như không hiểu rằng những lời nói ấy chia biệt hẳn hai cuộc đời của chúng tôi, nàng không biết rằng những lời nói ấy làm lòng tôi tan nát. Đầu óc tôi nóng bừng bừng; tôi còn muốn nói nhiều, tôi còn muốn khóc, có lẽ nước mắt tôi sẽ làm nàng nao núng; nhưng tôi vẫn đứng im lìm, ôm trán, tì tay trên lò sưởi. Nàng vẫn điềm nhiên, thung dung xếp đặt mấy đóa hoa, không nhìn thấy tôi đau đớn, hay cố ý làm như không thấy...
Bỗng tiếng chuông rung báo hiệu giờ ăn :
- A! Em thấy đói bụng quá. Thôi nhé.
Và nàng nói tiếp, làm như câu chuyện vừa rồi chỉ là một trò đùa.
- Mai chúng ta sẽ bàn trở lại.
Câu chuyện ấy không bao giờ được bàn trở lại nữa. Alissa lẩn tránh tôi mãi, tuy vẫn làm như không cố ý lẩn tránh; những gặp gỡ làm sao được, khi nàng còn lăng xăng bao nhiêu việc gấp rút hơn. Tôi phải đợi, tôi phải chờ cho mọi việc xong xuôi, những công việc gì cứ càng thêm bề bộn mãi, nào chăm nom công việc làm ở bục lúa, nào xem xét trại trâu bò, thăm viếng những người nghèo khó nàng vẫn gia tâm săn sóc. Thì giờ dành cho tôi rất ít; lúc nào thấy nàng cũng đương bận rộn cả. Nhưng có lẽ thà thế mà tôi đỡ thấy bơ vơ. Nếu có một dịp nào chuyện vãn qua loa, tôi càng thấy thêm buồn nản. Khi nào Alissa dành cho tôi chút ít thì giờ, thì có nói cũng là chuyện vô nghĩa, lơ láo đâu đâu. Và thái độ nàng giống như thái độ của kẻ đùa với con nít vậy. Nàng đi ngang bên tôi, lơ đễnh, với nụ cười hờ hững điềm nhiên. Tôi càng cảm thấy bao nhiêu cách biệt. Đôi lúc nụ cười của nàng còn như bao hàm thách thức, hoặc mỉa mai. Dường như làm chìm lấp khát vọng của tôi, là điều nàng lấy làm thích thú. Nhưng liền đó, tôi lại tự trách mình vô lý, tôi không muốn trách nàng, chẳng rõ phải trách nàng điều gì, và chờ đợi ở nàng cái gì.
Ngày giờ cứ thế lặng lẽ trôi đi, những ngày giờ tôi từng mong đem về biết bao hạnh phúc. Tôi thẩn thờ nhìn chúng trôi qua, không thiết gì nữa hết, không muốn chúng dài thêm, cũng không cầu mong chúng đi chậm lại... mỗi ngày chỉ gây thêm sầu tủi mà thôi. Mặc dù, hai ngày trước khi tôi đi, Alissa bằng lòng cùng tôi đi dạo... Chúng tôi lại gần chiếc ghế bên hầm đất vôi... Vào một chiều thu rất dịu. Mọi vật nhuốm toàn màu xanh man mác đến chân trời... một chiều thu mà quá khứ hiện về hiu hắt với muôn vàn kỷ niệm mông lung... Tôi không cầm lòng được nữa, bày giãi thở than, cho nàng thấy nỗi đau khổ của tôi ngày nay gây nên do sự tan tành của bao nhiêu mộng tưởng.
- Nhưng anh nghĩ xem, em có cách gì hàn gắn được? Sao anh lại lẩn thẩn đi yêu một bóng ma?
- Không, không phải một bóng ma, em ạ.
- Một bóng hình tưởng tượng.
- Nào có phải tự anh tạo nó ra đâu. Hình ảnh đối với anh xưa là người bạn chí thiết. Anh còn ghi nhớ gọi về! Alissa! Alissa! Xưa em đã là người của anh yêu dấu! Nay em đã làm gì con người em! Em đã thay hình đổi dạng đến thế nào?
Trong giây lát nàng im lìm không nói. Cầm một đóa hoa trong tay, nàng chậm rãi ngắt từng cánh hoa, lặng lẽ cúi đầu...
- Anh Jérôme! Tại sao không thú thật rằng anh không còn yêu em như xưa nữa?
Tôi tức tối đáp :
- Bởi vì điều ấy không đúng; bởi vì điều ấy không đúng với sự thật một tí nào; bởi vì không bao giờ anh yêu em hơn ngày nay cả.
- Anh nói vẫn yêu em... ấy thế mà anh ta lại tỏ lòng tiếc thương Alissa cũ! Nàng vừa nói vừa gượng cười, và hơi nhún vai một tí.
- Anh không thể đặt tình yêu của mình trong quá khứ.
Tôi thấy mất thăng bằng; đất sụt dưới chân, tôi tìm mọi thứ để bấu víu...
- Thế nào rồi cũng đành chịu để nó tàn phai.
- Không khi nào, trừ phi anh chết.
- Nó sẽ mòn mỏi dần dần. Em Alissa mà anh nói vẫn còn yêu đó, thật ra chỉ còn trong kỷ niệm; rồi một ngày mai anh sẽ chỉ còn nhớ mơ hồ rằng đã một bận yêu em...
- Em đừng tưởng có gì thay thế được Alissa trong tim anh. Em không nhớ rằng chính em cũng đã từng yêu anh hay sao, mà em nỡ nói những lời làm cho anh đau đớn?
Đôi môi nhợt nhạt của nàng mấp mái run run; nàng thì thầm, giọng mơ hồ, yếu ớt :
- Không; không; không có gì thay đổi được nơi Alissa...
- Nếu thế thì mọi sự cũng không có gì thay đổi cả. Và tôi nắm lấy tay nàng...
Nàng trấn tỉnh nói tiếp :
- Chỉ một tiếng thôi đủ giải thích hết mọi điều; tại sao anh không dám nói?
- Tiếng gì?
- Em già rồi.
- Em im đi... và tôi sôi nổi nói rằng tôi cũng già như nàng, rằng sự chênh lệch giữa đôi tuổi vẫn như nguyên... nhưng nàng đã trấn tĩnh; giây phút độc nhất qua, tôi dại dột biện bác dài dòng để lỡ làng cơ hội.
Mặc dù, tôi vẫn còn gặp Alissa một lần nữa. Cách ba năm sau, tôi được thư nàng tin cho hay cậu tôi đã mất. Tôi liền viết cho nàng một bức thư dài từ Palestine, nơi tôi đương du lịch. Bức thư không được hồi âm.
Ngày nay tôi không còn nhớ vì sao trở lại Havre; tự nhiên bàn chân đưa đẩy, tôi lần bước nhắm hướng Fongueusemare. Tôi biết sẽ gặp lại Alissa ở đây; lòng hơi e ngại; tôi sợ sẽ không gặp lại nàng một mình. Tôi không có tin báo trước cho nàng hay. Sợ lần gặp gỡ này sẽ bị xem như một lần thăm viếng thường, nên chân bước mà lòng phân vân: ta có nên vào chăng? Hay là nên bỏ đi, không tìm gặp lại em nữa, không tìm giáp mặt em làm gì? Ừ có lẽ như thế mà hơn; ta sẽ một mình dạo lại lối mòn trong vườn cũ, ta sẽ ngồi lại trên chiếc ghế đá ngày nào, mà ngày nay chắc nàng vẫn chiều chiều còn thường ra nhớ lại. Thế là tôi dứt khoát tâm tình, đương tìm xem sẽ lưu lại một dấu hiệu gì sau khi đi để báo cho nàng biết rằng tôi có ghé về một buổi... Miên man suy nghĩ, tôi chậm rãi đi... Đã quyết không gặp lại nàng, nên nỗi buồn chua chát trong lòng giờ đã nhường chỗ cho một sự ưu tư hầu như êm dịu. Tôi đã giáp với lối mòn cũ, và vì sợ có thể rủi ro bất ngờ bị bắt gặp, tôi lại men theo mặt đường dưới, dọc theo bờ mô đất cao giới hạn sân nông trại. Tôi biết được một nơi trên gò đất, ở đây có thể nhìn vào khắp được khu vườn; đến đó tôi leo lên; một người làm vườn lạ mặt đương cào rác trên lối đi; tôi lánh sang bên cho khuất dạng. Một hàng giậu mới chắn ngang sân vườn. Con chó nghe bước chân tôi, cất tiếng sủa. Xa hơn, nơi lối đi mất hút, tôi rẽ sang bên phải, tới nơi giáp với bức tường cũ của khu vườn, tôi định vào trong chỗ có trồng dẻ gai song song với đường đi lúc nãy, thì bỗng dưng lúc đi ngang qua cánh cửa nhỏ của vườn rau, tôi lại có ý cứ theo lối ấy mà vào vườn.
Cửa đóng. Theo chốt bên trong yếu ớt sẽ dễ dàng bị gãy... Và tôi định kề vai đẩy mạnh... Chính lúc ấy tôi nghe tiếng chân đi: tôi vội vàng nấp sau bức tường.
Tôi không thể thấy ai ở vườn đi ra, nhưng tôi linh cảm là chính Alissa. Nàng tiến lên ba bước, yếu ớt gọi :
- Phải anh đấy không, anh Jérôme?
Tim tôi đương đập mạnh, bỗng đứng lại, có gì chặn nơi cổ, tôi không thốt được một lời. Nàng hỏi lớn hơn :
- Jérôme! Có phải anh đấy không?
Nghe nàng gọi tên mình, nỗi xúc động quá mạnh, tôi quỵ gối xuống và vẫn không đáp được lời nào. Alissa tiến lên vài bước, vòng bức tường, và thoắt bỗng đến sát bên tôi, tôi đưa cánh tay lên che mặt, như sợ hãi chưa dám vội nhìn nàng. Nàng nghiêng mình xuống đặt bàn tay lên vai tôi, tôi nắm lấy đưa lên môi hôn, hai bàn tay nàng mảnh khảnh thật mềm.
- Sao anh lại trốn em làm gì thế? Nàng hỏi một giọng rất giản dị, như xa cách nhau chỉ mới đôi ngày không phải là đằng đẵng ba năm.
- Làm sao em biết rằng anh đã về?
- Em đợi anh.
- Em đợi anh? Tôi quá ngạc nhiên nên chỉ còn biết lặp lại lời nàng trong câu hỏi. Nàng bảo tôi đứng lên :
- Chúng ta hãy lại ngồi trên ghế đá.
- Vâng, em biết rằng thế nào cũng còn dịp gặp lại anh một lần nữa. Từ ba hôm nay, chiều nào em cũng ra vườn đến đây gọi anh, như khi nãy... Tại sao anh không đáp lời em?
- Nếu em không đến đột ngột thế này, thì anh sẽ lại ra đi không tìm gặp lại. Tôi vừa nói vừa cố ngăn nỗi xúc động, không muốn để cho lòng mình yếu mềm như khi nãy. Chỉ vì có dịp trở lại Havre, anh định ghé về dạo qua khu vườn cũ, định đi quanh vườn một vòng, ngồi nghỉ lại giây lát trên chiếc ghế này, vì anh nghĩ chắc em vẫn còn thường ra đây ngồi vậy, rồi thì...
Nàng ngắt lời tôi :
- Anh hãy nhìn, từ ba chiều nay em đến đây đọc lại những gì. Và nàng trao cho tôi một xấp thư từ; tôi nhận ra là những bức thư gởi về nàng ngày tôi du hành bên đất Ý.
Khi đó tôi mới ngẩng mặt nhìn nàng. Gương mặt nàng thay đổi lạ hẳn đi, xanh xao, gầy ốm... Lòng tôi se thắt. Nương vịn cánh tay tôi, nàng nép mình vào tôi, như e sợ điều gì, hay vì thấy lạnh. Nàng vẫn mặc tang phục, và có lẽ dải đăng ten đen nàng quàng đầu bao trùm khuôn mặt, càng làm cho vẻ mặt xanh xao thêm. Nàng vẫn mỉm cười, nhưng ảo não, như kiệt sức. Tôi lo lắng hỏi nàng đang sống một mình ở Fongueusemare sao? Không; có cả Robert nữa. Juliette, Édouard và ba đứa cháu có ghé về thăm vào khoảng tháng tám... Chúng tôi đã ngồi xuống ghế và câu chuyện trong giây lát vẫn còn quanh quẩn về kẻ nọ người kia. Nàng hỏi tôi công việc làm ăn thế nào. Tôi miễn cưỡng đáp. Tôi muốn nàng cảm thấy rằng công việc làm ăn không nghĩa gì đối với tôi nữa. Tôi muốn làm nàng thất vọng cũng như nàng đã làm tôi thất vọng. Tôi không biết có đạt được ý muốn không, nhưng thấy nàng chẳng tỏ vẻ gì hết. Còn tôi, lòng vừa đầy những oán hờn, vừa tha thiết, tôi muốn giữ một giọng điệu thật lạnh lùng, nhưng giọng nói vẫn run run, nỗi xúc cảm trong lòng không làm sao trấn áp được.
Mặt trời ngả bóng, trong giây lát bị mây che, giờ hiện lên ở cuối phương đoài, ngay trước mặt chúng tôi, ánh vàng giăng giăng trên đồng áng, vad cảnh thung lũng bỗng lộng lẫy lạ thường, phơi mở dưới kia. Rồi mặt trời chìm mất. Tôi ngồi lặng lẽ âm thầm, một nỗi niềm dâng ngập tâm hồn, lâng lâng như rửa sạch hết mọi oán sầu, hờn tủi, chỉ còn nghe tình yêu lên tiếng. Alissa nghiêng mình tựa bên tôi, chợt đứng dậy. Nàng lấy trong túi áo ra một gói nhỏ bao giấy mịn, định trao cho tôi, lại dừng lại, ngập ngừng và nói :
- Này anh Jérôme! Đây là chiếc thánh giá bằng ngọc tím em giữ đó; tự ba hôm nay, em mang theo, bởi vì từ lâu em định giao tặng lại anh.
- Em muốn anh dùng nó làm gì?
- Anh sẽ giữ nó làm kỷ niệm của em, cho đứa con gái Adrienne của anh.
- Đứa con gái Adrienne nào? - Tôi nhìn nàng, không hiểu.
- Này, anh hãy bình tâm nghe em nói. Không, anh đừng nhìn em như thế; đừng nhìn em nữa; em đã đau khổ nhiều, khi phải nói với anh; nhưng điều này không thể nào em không nói. Này anh Jérôme, một ngày sau anh sẽ lấy vợ?... Không, anh đừng đáp lại lời em; đừng ngắt lời em, em van anh điều ấy. Em chỉ muốn rằng anh sẽ ghi mãi cái kỷ niệm của tình em từng yêu anh tha thiết, và từ lâu, từ ba năm nay... em nghĩ rằng chiếc thánh giá mà xưa anh thích, một đứa con gái của anh ngày sau sẽ mang giữ để kỷ niệm mối tình của em... Ồ! Mang mà không biết là của ai... và có lẽ anh cũng có thể lấy... tên em... mà... đặt tên cho con anh cũng được...
Nàng dừng lại nghẹn ngào, tôi phản đối, giọng gay gắt :
- Tại sao em lại không tự tay cho nó?
Nàng còn gượng nói nữa. Môi nàng run lên như môi đứa trẻ khóc tấm tức; nhưng nàng không khóc, vẻ sáng ngời dị thường của đôi mắt làm cho gương mặt đẹp lai láng một cách huyền ảo như tiên nga.
- Em Alissa! Anh sẽ lấy ai làm vợ? Em vẫn biết rằng anh chỉ có thể yêu em thôi...
Và thình lình, tôi ôm siết lấy nàng, hầu như tàn bạo vũ phu, tôi hôn dập môi nàng một cách phũ phàng, mãnh liệt. Nàng như kiệt sức, để yên, tôi ôm nàng trong lòng mình, sờ hai cái vú tròn trên ngực; tôi thấy mắt nàng nhòa lệ như sương; và mi nàng khép lại. Rồi bằng một giọng dịu hiền vô hạn không có gì so sánh được, suốt trăm năm :
- Anh Jérôme! Hãy rủ lòng thương hại chúng ta! Anh Jérôme! Đừng làm cho tình yêu của chúng ta phải tan tành, vùi dập...
Có lẽ nàng còn nói nữa: anh đừng hành động đê hèn! Hay có lẽ chính lòng tôi tự nói với mình, tôi không rõ nữa, và thốt nhiên tôi quỳ xuống bên gối nàng, và ôm nàng trong tay với một niềm thiêng liêng sùng kính :
- Nếu em yêu anh thật thì tại sao em cứ ruồng rẫy mãi anh? Em xem! Ban đầu anh chờ cuộc hôn nhân của Juliette; anh hiểu rằng em cũng nguyện cầu tha thiết hạnh phúc cho em mình; và Juliette đã tìm ra hạnh phúc; chính em đã nói với anh. Từ lâu anh tưởng rằng em có ý muốn còn được sống bên cạnh cha già; nhưng ngày nay, đôi ta cùng đơn độc...
- Ồ Jérôme ơi! Xin đừng hoài thương quá khứ. Ngày nay em đã lật qua trang...
- Không, vẫn còn đủ thì giờ, em ạ.
- Không anh ơi! Không còn kịp nữa rồi. Không còn kịp nữa rồi, tự cái ngày mà chúng ta vì yêu nhau, đã nhận ra cho nhau một lối đi nào cao đẹp hơn tình yêu. Chính nhờ anh mà giấc mộng của em đã được nâng lên một mực độ cao viễn vô cùng, cho đến nỗi mọi thỏa mãn của đời này chỉ làm nó tan vỡ mất. Em vẫn thường nghĩ đến cuộc đời của chúng ta, nếu chúng ta cùng nhau chung sống; khi thấy nó không hoàn toàn được nữa, là rồi, em không thừa nhận thừa nhận tình yêu nữa.
- Nhưng em có nghĩ đến cuộc đời của chúng ta sẽ như thế nào, nếu chúng ta không cùng nhau chung sống?
- Không, chả bao giờ.
- Và bây giờ em đã thấy. Từ ba năm, sống một mình, anh vất vưởng lang thang...
Chiều đã tàn. Bên xứ Việt. Nắng đã xế về bên xứ Nam: - “Ta hăm hở chí trai hồ thỷ, bởi đợi tình nên nấn ná nhân duyên. Nàng đê mê phận gái liễu bồ, vì giận phận hóa ngang tàng tính mệnh”.
- Em thấy lạnh.
Nàng đứng lên, khép chặt mình trong chiếc áo choàng, tôi không còn nắm tay nàng được nữa. Anh nhớ chăng lời này trong thánh kinh: “Chúa không thu nhận những gì đã được hứa hẹn, vì Thượng Đế muốn dành cho ta những gì tốt đẹp hơn kia...”
- Em vẫn còn tin tưởng những lời đó?
- Làm sao không tin cho được?
Chúng tôi đi bên nhau trong giây lát, im lìm.
Nàng nói tiếp :
- Anh Jérôme, anh có tưởng tượng ra không: những gì tốt đẹp hơn kia!
Và thình lình lệ trào ngập mắt, nàng lặp trở lại lần nữa: những gì tốt đẹp hơn!
Chúng tôi đã đến chỗ cánh cửa nhỏ của vườn rau. Nàng quay mặt lại nhìn tôi :
- Thôi! Vĩnh biệt. Không, anh đừng bước thêm nữa. Vĩnh biệt thôi, người anh yêu dấu! Chính bây giờ là khởi sự... “những gì tốt đẹp hơn kia”.
Trong giây lát nàng nhìn tôi như vừa muốn níu giữ tôi, vừa muốn xô đẩy tôi, hai cánh tay dang thẳng, và bàn tay đặt lên vai tôi, đôi mắt nồng nàn một tình thương vô hạn...
Khi cánh cửa đã khép lại, khi tôi nghe nàng cài then bên kia, tôi qụy xuống bên cửa, một niềm tuyệt vọng cùng cực xâm chiếm tâm hồn, và lâu lắm tôi ngồi im trong đêm tối nghẹn ngào như sâm bồ tát ở biên cương.
Nhưng nếu giữ nàng lại, nhưng nếu cứ xô cửa mà đi, nhưng nếu xông bừa vào nhà, dù sao người ta vẫn không cấm tôi điều đó, nhưng như thế có được không? Không, cho đến nay hồi tưởng lại và sống lại cái quá khứ đau buồn kia... Không, điều ấy không thể được. Và kẻ nào bây giờ không hiểu tôi thì tôi cũng không hiểu tôi ngày ấy.
Vài hôm sau, cảm thấy lo lắng dị thường, tôi viết thư cho Juliette báo cho nàng biết rằng tôi có về viếng Fongueusemare, và nói hết nỗi lo sợ của mình thấy Alissa xanh xao, và gầy ốm, tôi khuyên nàng hãy để tâm lưu ý và cho tôi hay mọi tin tức, vì những tin tức ngày nay không còn mong được Alissa cho biết nữa rồi.
Gần một tháng sau, tôi nhận được bức thư sau đây :
Anh Jérôme thân mến,
Em báo anh hay một tin buồn: chị Alissa không còn nữa... Hỡi ôi! Những nỗi lo sợ của anh bày tỏ trong thư quả là quá gần sự thật. Từ vài tháng nay, tuy không hẳn là đau ốm, chị Alissa cứ ngày càng hao mòn mãi, mặc dù chị cũng có nghe lời em cầu khẩn, chịu đi khám bác sĩ A, ở Havre. Bác sĩ có viết thư cho em biết là chị không có bệnh gì trầm trọng cả. Nhưng ba ngày sau bữa anh về thăm chị, bất thình lình chị rời bỏ Fongueusemare. Em hay tin là do một bức thư của Robert, chị ít viết thư cho em lắm, đến nỗi nếu không có Robert, thì em chẳng hay biết gì về sự chị bỏ trốn đi. Em rầy la Robert sao đã lơ đễnh để chị đi như thế, sao không cùng đi với chị tới Paris. Anh không thể tưởng tượng được rằng từ đó, chúng em sống hoang mang như thế nào, vì hoàn toàn không biết địa chỉ của chị Alissa. Anh có thể hiểu chúng em lo sợ đến mực nào; không thể tìm gặp chị, cũng không thể viết thư cho chị. Vài ngày sau, Robert có đến Paris, nhưng tuyệt nhiên không dò la được gì hết. Robert tính cũng lười quá. Em ngờ rằng Robert không thật sự cố tâm. Đáng lẽ phải báo cảnh sát; chúng em không thể nào sống trong tình trạng bặt vô âm tín thế được... Édouard bèn lên đường, hết lòng tìm kiếm, và cuối cùng cũng đã tìm ra nơi nương náu của chị Alissa, là một viện điều dưỡng nhỏ. Nhưng than ôi, muộn mất rồi. Édouard không kịp gặp chị nữa. Đồng thời với bức thư của vị giám đốc viện điều dưỡng báo tin chị đã qua đời. Ngày cuối cùng chị mới chịu viết địa chỉ chúng em trên một phong bì, để người ta có thể tin cho chúng em hay... và một chiếc phong bì khác chứa phúc bản một bức thư chị đã gửi cho vị nô-te ở Havre, trong đó chị để lại những lời di chúc. Em tưởng như một phần của bức thư có liên hệ đến anh. Em sẽ giao lại anh sau này. Édouard và Robert có dự tang lễ, cử hành hôm kia. Theo sau quan tài còn có vài người bịnh ở viện điều dưỡng, họ muốn dự lễ mai táng, và đưa di hài người chết đến nơi an nghỉ cuối cùng. Riêng em sắp sinh đứa cháu thứ năm, khổ thay, em không thể rời nhà đi được. Anh Jérôme ơi, em biết nỗi buồn sâu thẳm của anh khi nghe tin này, và viết thư cho anh, lòng em tan nát. Hai ngày nay em liệt giường và gượng dậy viết thư rất khó khăn, nhưng em không muốn để một người khác, cho dẫu là Édouard hay Robert, nói với anh về người chị thân yêu, mà tâm sự chỉ riêng anh và em hiểu thấu. Ngày nay em đã thành một người mẹ luống tuổi trong gia đình, ngày nay mà bao nhiêu tro tàn của thời gian đã phủ trùm quá khứ, thì em có thể mong muốn được gặp lại anh. Nếu có ngày nào hoặc vì tiện đường hay vì vui hứng, anh ghé về Nimes, thì hãy đến Aigues Vives, anh nhé. Édouard sẽ sung sướng được biết anh, và anh và em sẽ có thể nói nhiều về chị Alissa yêu dấu. Thôi; chào anh Jérôme thân mến. Buồn rầu em hôn anh.
Vài ngày sau, tôi được biết rằng Alissa để Fongueusemare lại cho em trai, nhưng yêu cầu mọi vật trong phòng mình và một vài đô ̀đạc nàng chỉ rõ, phải được gửi về Juliette. Và tôi sắp được nhận những giấy tờ Alissa mà Juliette sẽ gởi sau. Tôi cũng được biết rằng nàng có yêu cầu người ta đeo vào cổ nàng chiếc thánh giá bằng ngọc tím mà tôi đã từ chối không nhận ngày trở về thăm nàng lần cuối, và Édouard cho hay rằng người ta đã làm theo nguyện vọng.
Bao thư niêm phong, vị nô-te gửi lại tôi, chứa tập nhật ký của Alissa. Một phần lớn của nhật ký tôi xin chép ra đây, không phẩm bình gì hết. Bạn sẽ tưởng tượng những cảm nghĩ của tôi khi đọc chúng và những nỗi niềm xáo trộn tâm can tôi không thể tìm lời bày giãi.
Nhật ký của Alissa
Dường như bên nóc bên thềm
Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng
Nguyễn Du
Aigues Avives
Ở Havre, khởi hành hôm kia; hôm qua đến Nimes; chuyến du lịch đầu tiên của tôi! Không còn bận tâm gì về việc nội trợ, bếp núc, rất nhàn rỗi.. thì hôm nay, ngày 23-5-188...
Ngày lễ chu niên hai mươi lăm tuổi của tôi, tôi khởi sự viết một tập nhật ký, không vui hứng gì lắm, viết cho “có bạn”, thế thôi; vì có lẽ đây là lần đầu trong đời, tôi cảm thấy cô đơn – trên một miền xứ lạ, tôi chưa có dịp làm quen. Miền này sẽ nói với tôi những gì, chắc hẳn cũng giống những điều xứ Normandie đã cùng tôi kể lể, và ở Fongueusemare tôi từng liên miên mê mải lắng nghe – bởi vì Thượng Đế muôn nơi vẫn là Thượng Đế - nhưng miền đất xứ Nam nơi đây nói một thứ tiếng tôi chưa học nên khi lắng nghe tôi rất đỗi ngạc nhiên.
24 tháng 5
Juliette ngủ trên một chiếc ghế dài bên cạnh tôi, trong hành lang trông rất xinh của ngôi nhà làm theo kiểu Ý, phẳng lì với mặt sân rải cát tiếp nối mặt vườn. Juliette không rời chiếc ghế trường kỷ, có thể nhìn nội cỏ xanh rợn thấp xuống dần dần, thấp mãi đến ao nước có hai con thiên nga đương thung dung lội. Một dòng suối chảy về, đem nước nhỡn cho ao, rồi tăn teo chảy qua khu vườn càng xa càng rậm vắng, hoang liêu, và càng hẹp lại giữa những vườn nho, và những cánh đồng hoang cằn cỗi.
Hôm qua Édouard Teissières đã đưa ba tôi dạo vườn, viếng nông trại, đồng nho, trong khi tôi ở nhà với Juliette – nên sáng sớm nay tôi được đi dạo một mình trong vườn cây và hân hoan trước cảnh vật mới mẻ. Rất nhiều cây lạ, và tôi muốn được biết tên. Tôi bẻ của mỗi cây mỗi nhánh nhỏ, định khi trở về sẽ bảo người ta cho biết tên. Tôi nhận ra chính những cây này là loại sên xanh mà Jérôme đã ca ngợi ở villa Borghèse hoặc Doria-Pamphili. Chúng không giống tí gì những giống cây đồng loại ở Bắc phương, chúng ở cuối vườn, che một rặng rừng thưa hẹp, huyền bí, và nghiêng bóng trên một nội cỏ mịn màng, như mời mọc nữ thần cùng tiên nga múa hát. Tôi lấy làm ngạc nhiên, dường như hãi sợ vì sao nơi đây tình yêu thiên nhiên của tôi từ xưa ở Fongueusemare vốn đượm màu sâu xa Thiên Chúa giáo, thì bây giờ lại dường như pha màu thần thoại, ngoài ý muốn của tôi. Dù sao niềm hãi sợ e ấp trong lòng vẫn còn đượm nhuần tôn giáo, và càng lúc càng tăng...
Tôi lẩm nhẩm: hic nemus [1]. Bầu không khí trong mát. Cảnh vắng lặng dị thường. Tôi đương nghĩ tới Orphée Armide, thì bỗng nhiên một tiếng chim ca trỗi dậy, một tiếng chim độc nhất, vẳng lên sát gần bên tôi và cùng cảm động, và trong trẻo đến nỗi trong một phút tôi tưởng rằng vạn vật đều đương khao khát chờ mong. Tim tôi đập rất mạnh; trong giây lát tôi dừng lại, tựa mình vào một thân cây, rồi trở về nhà chưa ai thức giấc.
26 tháng 5
Vẫn không được thư Jérôme. Nếu anh có viết thư cho tôi mà gửi về Havre, thì tất nhiên thư sẽ được gửi tiếp về đây...
Tôi chỉ còn biết ký thác cho tập vở này bao nỗi niềm lo ngại; cuộc đi chơi ở Baux hôm qua và bao nhiêu lời nguyện cầu nữa từ ba hôm nay vẫn không khuây khỏa một phút nào. Hôm nay không thể viết vào đây chút gì khác cả; mối sầu kỳ quặc tự ngày đến Aigue – Avives có lẽ không do nguyên cớ nào khác; nhưng tôi cảm thấy nó nằm trong phần sâu thẳm nào của tâm tư cho đến nỗi ngày nay tôi tưởng rằng từ lâu nó vẫn ngự trị nơi đó, và niềm tin vui tôi từng tự nhủ là vinh diệu chỉ có thể tạm che phủ lên thôi.
27 tháng 5
Tại sao tôi lại dối mình? Nếu khi nhìn hạnh phúc Juliette, mà tôi thấy lòng hân hoan thì đó là kết quả của nhiều lần suy luận. Cái hạnh phúc xưa tôi đã hằng nguyện cầu cho em, cho đến nỗi bằng lòng chịu hy sinh hạnh phúc của mình, ngày nay tôi như đau khổ thấy rằng nó đến quá dễ dàng, và không giống cái hạnh phúc mà em tôi xưa vẫn thường hình dung trong tưởng tượng. Sao mà phức tạp thế! Nếu... Tôi nhận thấy rõ một niềm vị kỷ ghê sợ như xui lòng tôi tức bực vì Juliette đã tìm ra hạnh phúc ở ngoài sự hy sinh của tôi, nàng không cần đến sự hy sinh của tôi mà vẫn sung sướng.
Và ngày sau, khi cảm thấy nỗi lo ngại lạ lùng của mình trước sự im lặng của Jérôme, tôi lại tự hỏi: sự hy sinh ấy có thật đã thành tựu ở lòng mình? Tôi thấy như xấu hổ lắm vì Thượng Đế không còn đòi hỏi tôi sự hy sinh ấy nữa. Phải chăng tôi không còn đủ đức hy sinh?
28 tháng 5
Sự phân tích nỗi buồn sầu ấy mới nguy hiểm làm sao! Thế là từ nay tôi đã nặng tình với tập vở này rồi. Cái tính phù phiếm ưa làm dáng, mà tôi tưởng đã chết hẳn, phải chăng như sống dậy nơi đây? Không; không thể nào tập nhật ký này là tấm gương dễ dãi để tâm hồn tôi soi vào mà tìm lối điểm trang! Tôi viết tập nhật ký này không phải vì nhàn rỗi như tôi đã tưởng, mà vì buồn rầu. Sự buồn rầu là một trạng thái tội lỗi, tôi muốn gột rửa khỏi linh hồn. Tập vở này thế nào cũng giúp tôi tạo lại được niềm vui.
Buồn sầu là một điều phức tạp. Xưa có bao giờ tôi tìm cách phân tích hạnh phúc đâu, ở Fongueusemare tôi cũng từng sống cô độc lắm, còn cô độc hơn là khác... thế mà tại sao tôi không cảm thấy điều đó? Và khi Jérôme từ bên Ý viết thư về cho tôi, tôi bằng lòng chịu để chàng sống xa tôi, cách biệt tôi, tôi đã để tâm tư mình theo dõi chàng. Tôi đành lòng tìm hạnh phúc mình trong hạnh phúc Jérôme. Mà ngày nay dù muốn dù không, lòng tôi vẫn âm thầm kêu gọi... Vắng chàng, mọi vật mới mẻ tôi ngắm nhìn chỉ làm cho lòng tôi thêm phiền muộn...
10 tháng 6
Tập nhật ký vừa bắt đầu đã chịu dứt đoạn một khoảng lâu. Ngày sinh của cháu Lise; những đêm dài thức bên Juliette; những điều muốn viết cho Jérôme, tôi không thích viết ra đây chút nào cả. Tôi muốn tránh cho mình cái tật xấu chung rất khó chịu của đàn bà: ưa viết nhiều quá. Xem tập vở này như là một phương tiện trau dồi, cải thiện...
Tiếp theo nhiều trang ghi chú những điều nhận xét về những sách vở đã đọc... Nhiều đoạn văn sao chép lại v.v... rồi nhật ký trở lại được ghi đề tại Fongueusemare.
10 tháng 7
Juliette sung sướng, nàng nói thế, và trông có vẻ thế: tôi không có lý do để nghi ngờ... Thế thì do đâu, khi ở bên nàng tôi lại cảm thấy niềm gì như không thỏa mãn, không hài lòng, như khó chịu? Có lẽ vì hạnh phúc của nàng quá thiết thực, quá dễ dàng như theo “khuôn mẫu sẵn”, nên nó thu hẹp linh hồn, gò bó linh hồn cho ngột ngạt...
Và ngày nay tôi tự hỏi phải chăng chính hạnh phúc là điều tôi nguyện cầu, hay đúng hơn, là sự tiến dần về hạnh phúc. Hỡi Thượng Đế! Hãy ngăn ngừa con, đừng để cho con hưởng vội một niềm vui nào có thể quá dễ dàng đạt tới. Hãy dạy cho con biết chần chờ, trì hoãn hạnh phúc lại cho đến bao giờ con đến trình diện trước mặt người.
Nhiều tờ tiếp theo bị xé bỏ; có lẽ những tờ ấy ghi lại cuộc gặp gỡ đau lòng ở Havre. Tập nhật ký bắt đầu trở lại qua năm sau; những tờ không đề ngày tháng, nhưng hẳn là viết trong những ngày tôi về lại Fongueusemare.
Đôi khi nghe chàng nói, tôi lại tưởng như chính mình tư tưởng. Chàng giải thích cho tôi nghe, và tôi càng thấy tự hiểu mình hơn. Không có chàng, thì có thể có tôi không? Tôi sinh ra đời tôi sống, là chỉ sống với chàng...
Đôi khi tôi ngần ngại không biết mối tình của tôi đối với chàng có thật phải là cái tình mà người ta gọi là tình yêu không; vì chưng tình yêu thường thường được người ta mô tả tôi thấy không giống tí gì với mối tình tôi muốn tả. Tôi muốn rằng đừng nên nói một tí gì của tình yêu ấy cả, và yêu mà chẳng biết là mình yêu: Nhất là tôi muốn yêu chàng mà chàng không hay biết.
Sống bất cứ nơi đâu, hoàn cảnh nào mà không có chàng, lòng tôi không còn thấy hạnh phúc. Tất cả đức hạnh của tôi là cốt để vừa ý chàng, nhưng tại sao, ở cạnh chàng tôi lại thấy đức hạnh mình nao núng?
Xưa tôi thích học dương cầm bởi vì thấy rằng mình có thể mỗi ngày mỗi tiến. Có lẽ đấy cũng là bí quyết của niềm vui hứng tôi cảm thấy khi đọc một tập sách ngoại ngữ, cố nhiên tôi không phải tôi có thể yêu một ngôn ngữ nào hơn tiếng mẹ, cũng không phải sách của văn nhân nước nhà viết ra có thể thua kém sách người, nhưng chỉ vì lẽ: cái chút khó khăn nhẹ nhẹ khi theo dõi ý nghĩa và tâm tình xúc cảm, và cũng có lẽ niềm kiêu hãnh tiềm tàng thấy mình thắng được khó khăn, và càng ngày càng thắng dễ hơn, chính những cái ấy gia tăng rất nhiều hương vị cho niềm hân hoan của tinh thần, và chút gì như niềm đẹp ý của linh hồn mà dường như không thể nào tôi dứt bỏ được.
Dù nó tốt đẹp đến bao nhiêu, tôi không thể cầu mong một trạng thái im lìm, không tiến bộ. Tôi hình dung niềm vui diễm ảo mai sau không phải như một sự hòa hợp hoàn toàn với Thượng Đế, mà như một sự tiến gần, tiến mãi, vô hạn, liên miên... và nếu không sợ bị cười là ưa chơi chữ, tôi sẽ nói rằng tôi bất sá một niềm vui nào không tiến bộ.
Sáng nay, chúng tôi cùng ngồi trên băng đá trong vườn. Chúng tôi không cảm thấy cần phải nói gì. Chợt chàng hỏi tôi có tin tưởng ở đời sống mai sau không. Tôi vội thốt lớn :
- Sao anh lại hỏi thế. Đối với em đời mai sau không những chỉ là một niềm hy vọng: đó là một sự thật...
Và bỗng nhiên, tôi cảm thấy như tất cả niềm tin tưởng đã vỡ tan trong lời kêu thiết tha ấy.
- Anh muốn rõ... Chàng nói thêm... và dừng lại rồi nói: Em sẽ hành động thế nào, có khác không, nếu không có lòng tin tưởng ấy?
Làm sao em hiểu được điều ấy: nhưng chính anh, dù muốn dù không anh ạ, dù lòng dạt dào niềm tin tưởng tha thiết hay không, anh cũng không thể nào hành động khác. Và em sẽ không yêu anh nếu anh khác thế.
Không, anh Jérôme ạ! Chúng ta cố gắng không phải vì phần thưởng mai sau: tình yêu của chúng ta không tìm đến một phần thưởng. Nghĩ tới sự thù lao công trình, điều ấy làm tổn thương nhiều cho những linh hồn cao thượng. Đức hạnh cũng không phải là một món đồ trang sức; không, đức hạnh là hình thể cái đẹp của linh hồn đó thôi.
Ba tôi không được khỏe; không có gì trầm trọng cả, tôi mong thế, nhưng ba tôi phải chịu nằm yên trên giường bịnh từ ba hôm nay.
Tối hôm qua, lúc Jérôme đã lên phòng riêng, ba cùng với tôi còn thức, ba ra ngoài trong giây lát. Tôi đương ngồi trên chiếc ghế dài, hay đúng hơn - điều này ít khi xảy đến - tôi nằm dài trên ghế, không hiểu vì sao. Bóng đèn che mắt tôi khỏI vòm ánh sáng, che khuất cả phần trên của cơ thể tôi, tôi chợt nhìn xuống đầu mấy ngón chân, lộ ra phía dướI tà áo, và một ánh đèn chiếu vào. Khi ba trở vào, ngườI dừng lạI trước ngưỡng cửa, trong giây lát ba nhìn tôi một cách kỳ dị, vừa mỉm cườI, vừa sầu hận. Bỡ ngỡ, tôi đứng lên và người bảo :
- “Con hãy lại ngồi bên ba”. Và tuy đã khuya, người bắt đầu nói chuyện mẹ tôi, đây là điều không bao giờ xảy ra từ ngày mẹ tôi bỏ đi. Người kể lại tôi nghe đã cưới mẹ tôi như thế nào, đã thương mẹ tôi biết mấy, và ban đầu mẹ tôi đáp lại tình yêu trọn vẹn làm sao.
Tôi hỏi :
- Thưa ba, xin ba cho con biết vì lẽ gì ba kể cho con nghe những điều ấy tối nay, cái gì xui ba kể những điều ấy chính vào đêm nay... (Nữ-thí-chủ chất vấn hơi nhiều).
- Bởi vì khi nãy, lúc ba ở ngoài vào, và nhìn thấy con nằm trên ghế, trong một phút ba tưởng thấy lại mẹ con.
Nếu tôi năn nỉ thế, ấy cũng chính vì đêm ấy... Jérôme đứng sau lưng tôi nghiêng mình nhìn qua vai tôi đọc trang sách, chàng tựa vào chiếc ghế của tôi. Tôi làm như vẫn tiếp tục đọc sách, nhưng không còn hiểu nữa; không phân biệt được những dòng chữ nữa; một niềm bàng hoàng hoang mang kỳ lạ xâm chiếm lấy tôi, buộc tôi đứng lên gấp, trong khi tôi còn đủ sức đứng lên. Cũng may là tôi gượng bước ra được khỏi phòng giây lát, và chàng không nhận thấy sự gì. Nhưng sau đó một mình ngồi lại trong xa lông, tôi nằm trên chiếc ghế dựa dài, và ba tôi đã nhận ra tôi giống mẹ tôi, chính khi ấy cũng là lúc tôi nghĩ đến mẹ tôi.
Đêm ấy tôi ngủ không yên, thao thức, lo sợ, lòng da diết, rứt ray, tâm hồn bị ám ảnh bởi quá khứ cứ trở về dâng ngập tâm tư một niềm ân hận. Hỡi Thượng Đế! Hãy dạy cho con biết ghê sợ tất cả những gì có một ít vẻ xấu xa. Tội thay Jérôme! Nếu chàng hiểu rằng đôi lúc chàng chỉ cần làm một cử chỉ nhỏ thôi, và cử chỉ ấy đôi lần tôi mong đợi...
Ngày còn nhỏ, chính vì chàng mà tôi mong mình đẹp. Và ngày nay, tôi cố gắng “tiến đến chỗ hoàn toàn” dường như cũng vì chàng mà nên cả.
Nhưng sự hoàn toàn ấy chỉ có thể đạt tói một mình, không thể cùng chàng đạt tới, thì than ôi! Hỡi Thượng Đế! Trong mọi điều dạy bảo của người, đấy là điều làm cho linh hồn con hoang mang nhiều nhất.
Sung sướng biết bao, những linh hồn nào hòa giải được tình yêu và đức hạnh! Những linh hồn nào mà đức hạnh và tình yêu hòa chung làm một. Đôi khi tôi nghi ngờ không biết có một đức hạnh nào khác là tình yêu thương, yêu thương nhiều, yêu thương mãi... nhưng than ôi, nhiều lúc tôi lại thấy rằng đức hạnh là sự cưỡng kháng lại tình yêu. Sao! Làm sao tôi dám gọi là đức hạnh, cái khuynh hướng tự nhiên của lòng mình! Ôi! Ngụy biện! Ôi! Ảo tưởng cám dỗ của hạnh phúc mới tinh quái làm sao!
Sáng nay đọc trong La Bruyère: “Đôi khi trong đời có những mối du khoái thân thiết và những niềm cảm giao êm dịu dường nào, mà ta bị người đời cấm đoán, thì làm sao không ước mong có lần được hưởng thụ, đó là lẽ tự nhiên; những lối hấp dẫn mê hoặc kia chỉ có thể được vượt qua bởi lòng say mê trong tinh thành, biết khước từ du khoái bởi đức hạnh mà thôi”.
Thế thì sao tôi còn gắng tìm lối chống chế? Phải chăng vì một vẻ quyến rũ âm thầm lôi cuốn tôi, một vẻ quyến rũ nào mãnh liệt hơn, ngào ngạt hơn vẻ quyến rũ của tình yêu. Ôi! Làm sao có thể đồng thời giục giã cả hai linh hồn chúng tôi vì tình yêu mà vượt qua tình yêu – làm sao có thể!
Than ôi! Ngày nay tôi đã hiểu quá rõ rồi; giữa Thượng Đế và chàng nếu có gì trở ngại ấy là chính bản thân tôi. Nếu quả như lời chàng nói, ban đầu chính tình yêu tôi làm chàng thiên về Thượng Đế, thì bây giờ, tình yêu ấy đã cản trở chàng rồi, chàng dần dà cân nhắc, chính vì tôi trở thành thần tượng ràng buộc chàng, không cho chàng tiến lên đường đức hạnh.
Phải làm sao cho một trong hai chúng tôi tiến tới. Hỡi Thượng Đế, nếu ngày nào cơn tuyệt vọng không mong gì thắng nổi tình yêu của buồng tim con sa đọa, thì con xin Thượng Đế cho phép con đủ sức giúp chàng hiểu rằng đừng nên yêu con nữa; làm sao cho con đủ sức; con chịu đành lòng khước bỏ sở năng mình, để dâng Người những sở năng quý hơn của chàng... Và ngày nay nếu linh hồn con thổn thức vì mất chàng, có phải chăng để rồi ngày sau con tìm lạI được chàng ở giữa mêng mông của Thượng Đế?
Hỡi Thượng Đế! Còn một linh hồn nào xứng đáng với Người hơn? Phải chăng chàng sinh ra để làm những gì cao đẹp hơn là để yêu con? Và con sẽ yêu chàng nhiều nữa không, nếu chàng dừng lại nấn ná bên con? Trong hạnh phúc, bị thu hẹp những gì đáng lẽ phải liên tồn vinh diệu biết bao.
Chủ nhật.
“Thượng Đế dành cho chúng ta những gì cao đẹp hơn”.
Thứ hai ngày 3 tháng 5
Sao cho hạnh phúc tới sát gần, ngay trước mặt, nếu nó mời mọc, yêu cầu... chỉ cần đưa tay là nắm lấy.
“Sáng nay, nói chuyện với chàng, tôi đã đưa sự hy sinh tới chỗ thành tựu. Tầm sưu túy điệu vô thường. Dìm trăng sái diện môi trường hôm qua”.
Mai đây chàng lên đường.
Anh Jérôme ơi, em mãi mãi yêu anh bằng một tình yêu vô hạn; nhưng không bao giờ em còn có thể nói nữa điều đó với anh. Sự gượng ép buộc mắt mình, môi mình, linh hồn mình phải kiềm giữ, sự gượng ép đau xót đến mực độ nào, mà xa anh, đối với em là một lần giải thoát, cay đắng mà hân hoan.
Tôi cố gắng hành động cho hợp lẽ, nhưng chính lúc hành động thì những nguyên cớ giục tôi hành động lại bay bổng mất đi, hoặc không còn ý nghĩa nữa, tôi không còn tin tưởng nữa...
Những nguyên cớ nào xui tôi lẩn tránh chàng? Tôi không còn tin chúng nữa... ấy thế mặc dù, tôi vẫn lẩn tránh, buồn đau mà lẩn tránh chàng, và không hiểu vì lẽ gì mình cứ cố tìm lẩn tránh...
Hỡi Thượng Đế! Chúng con tiến tới người. Jérôme và con, song đôi đứa này vì đứa khác, đi suốt đường đời như hai lữ khách bên nhau và thỉnh thoảng kẻ này nói với kẻ kia: “Bạn ơi, hãy nương vịn vào ta nếu bạn mỏi” và kẻ kia đáp lại: “Chỉ cần cảm thấy rằng bạn vẫn ở bên ta, thế là đủ...”. Nhưng không. Hỡi Thượng Đế, con đường Người chỉ dẫn chúng con, là một con đường hẹp, hẹp lắm, hẹp đến nỗI không thể nào đi song đôi mà tiến lên được cả.
Hơn sáu tuần nay rồi, tôi không giở lại tập vở này. Tháng vừa rồi, đọc lại đôi trang, tôi chợt bắt gặp một sự cố gắng tội lỗi và phi lý, cố gắng viết hay... vì chàng mà ra cả...
Làm sao thế được. Tập nhật ký này khởi sự là cốt giúp tôi quên chàng, thì tại sao tôi lại phải vì chàng mà viết?
Tôi đã xé hết những trang nào có vẻ viết hay (tôi biết tôi muốn nói gì trong lời nói ấy). Đáng lẽ ra, tôi phải xé tất cả những trang nào có nhắc tớI chàng. Đáng lẽ phải xé hết. Tôi không nỡ.
Và thế là xé xong một đôi trang, tôi đã cảm thấy chút kiêu hãnh... một thứ kiêu hãnh có thể xui tôi buồn cười, nếu lòng tôi không quá đau thương.
Như chừng việc làm kia là một công trạng gì đáng kể! Và những tờ giấy xé đi có ý nghĩa gì lắm đó, hỡi ôi!
6 tháng 7.
Tôi đã đành loại trừ khỏi tủ sách... từ cuốn này tới cuốn khác, tôi trốn tránh chàng, và cứ gặp lại chàng mãi. Ngay cả trang sách tôi khám phá một mình, không có chàng chỉ dẫn, tôi vẫn nghe rõ giọng chàng đọc cho tôi nghe. Tôi chỉ thích những gì chàng thích, và tư tưởng tôi rập theo khuôn mẫu tư tưởng chàng, cho đến nỗi tôi không cách gì phân biệt được, thôi đành hòa chung làm một vậy. Đôi lúc tôi gắng viết thật dở để thoát khỏi sức lung trạo của tiết điệu chàng; nhưng chống lại chàng, cũng là còn lưu tâm ý với chàng. Tôi quyết định từ nay trong một thời gian, chỉ đọc kinh thánh mà thôi (và có lẽ l’Imitation nữa) [2] và chỉ ghi thường nhật vào trong cuốn sổ này cái tiết nào quan trọng trong Kinh Thánh mà thôi.
Tiếp theo là cái loại “Bánh ăn thường nhật” và từ đó trở đi, tiếp theo mỗi ngày tháng ghi, lại có mỗi tiết Thánh Kinh... Tôi chỉ chép ra đây những tiết nào nàng có chú thêm vài lời bàn luận.
20 tháng 7
“Bán hết mọi thứ ngươi có, và đem phân chia cho kẻ nghèo”. Tôi hiểu rằng phải chia cho kẻ nghèo quả tim mà tôi chỉ dành riêng cho Jérôme. Và có phải như vậy là đồng thời chỉ dẫn cho chàng biết phải làm theo? Xin Thượng Đế cho con có đủ can đảm ấy.
24 tháng 7
Tôi đã chấm dứt việc đọc Nguồn Vui Vĩnh viễn. Các loại cổ ngữ kia xui tôi thích thú lắm, nhưng làm cho tinh thần tôi xao nhãng, và cái niềm vui hầu như vô tín ngưỡng mà tôi hưởng thụ được ở trong đó, chẳng có gì liên hệ với cuộc giáo hóa cao viễn mà tôi đã định tìm kiếm trong kia. Đọc trở lại l’Imitation, không đọc trong nguyên bản; tôi phù phiếm thế này, làm sao đọc nguyên bản mà có thể hiểu cho được. Tôi cũng còn muốn là bản dịch tôi đang cầm đọc đừng có mang tên dịch giả, bản dịch thuộc tinh thần Ki Tô Tân giáo, thật vậy, nhưng “thuận ứng theo mọi thanh khí đồng tâm Ki Tô giáo” như nhan đề đã nói. “Ôi! Nếu ngươi biết rõ cái niềm yên vui thanh thản mà ngươi sẽ thu hoạch được, nó sẽ ra như thế nào, và nếu ngươi biết rõ niềm vui mà người sẽ đem lại cho kẻ khác lúc người tiến sâu vào trong đức hạnh, thì ta xin nói quyết rằng người sẽ dốc lòng vào trong công cuộc nọ với mốI tình nồng nhiệt hơn nhiều”.
10 tháng 8
Hỡi Thượng Đế, cho dẫu con tha thiết gọi Người với tấm lòng tin trong sáng của tuổi nhỏ, và với giọng lời siêu việt của thiên thần.
Tất cả những điều ấy đến với con, con biết, không phải do Jérôme mà do người.
Nhưng vì sao, giữa Người và con, Người lạI cứ đặt khắp nơi hình ảnh chàng làm chi vậy? Trùng dương thiên tải giữa ngày? Em lên gò đóng di hài vũ dương?
Chỉ còn hai tháng nữa để hoàn thành công việc ấy. Hỡi Thượng Đế! Hãy giúp con!
20 tháng 8
Tôi cảm thấy rất rõ, do niềm sầu tủi của mình, tôi cảm thấy rõ rằng sự hy sinh không thật thành tựu ở lòng tôi. Hỡi Thượng Đế, làm sao giúp con thấy rằng niềm vui ấy là của con nhận nơi Người, niềm vui mà riêng chàng giúp con thấy được.
28 tháng 8
Ôi! Tôi cố công lắm mới đạt tới một thứ đức hạnh tầm thường đó sao! Tôi tự đòi hỏi mình nhiều quá chăng? Không còn đau khổ vì sự đó nữa.
Luôn luôn khẩn cầu Thượng Đế ban thêm sức lực cho, sao đớn hèn thế. Bây giờ, mọi tiếng nguyện cầu của tôi đều ảo não.
2 tháng 9
“Hãy nhìn hoa huệ ngoài đồng...”
Lời nói giản dị ấy sáng nay đã gây cho tôi một nỗi buồn sầu khôn xiết: Không có gì làm khuây khỏa được. Tôi đã ra đồng, và những lời ấy tôi lặp lại liên miên, như đem lệ dồn ngập cả tấm lòng, dâng trào lên mi mắt. Tôi nhìn mãi cánh đồng mênh mông trống trãi, có người nông phu lam lũ trên luống cày... “Những hoa huệ ngoài đồng...”. Nhưng, hỡi Thượng Đế, con phải nhìn đâu cho thấy chúng?
6 tháng 9 – 10 giờ đêm
Tôi đã gặp lại chàng. Chàng ở đây, dưới mái nhà này. Tôi nhìn thấy trên nội cỏ ánh sáng từ khung cửa sổ chàng dọi xuống. Trong khi viết những dòng này, chàng còn đương thao thức; và có lẽ chàng nghĩ đến tôi. Chàng không thay đổi; chàng nói thế; tôi cảm thấy thế. Tôi có thể gặp chàng mà giữ được thái độ như tôi đã quyết định đó không? Làm sao cho tình yêu chàng phủ nhận mất tôi đi?...
14 tháng 9
“Ôi! Cuộc trò chuyện đau đớn khôn cùng. Tôi đã cố giả vờ hờ hững, trong khi cả linh hồn đã ngất lịm thiết tha. Trước nay tôi đã cố gắng trốn tránh chàng. Sáng nay tôi đã có thể tưởng rằng Thượng Đế sẽ cho tôi đủ sức để thắng, và lẩn tránh hoài không giáp chiến là tỏ ra yếu hèn. Tôi đã thắng chưa? Jérôme đã bớt yêu tôi rồi chứ? Than ôi! Đó là điều tôi vừa mong mỏi, và vừa lo sợ. Chưa bao giờ tôi cảm thấy yêu chàng hơn lúc này.”
Hỡi Thượng Đế! Nếu cần phải để con chìm đắm mới cứu vớt được chàng thoát khỏi tình yêu con, thì xin Ngài cứ quyết.
“Hãy cứ bước vào trong linh hồn con để mang hết những đau thương của con, và tiếp tục chịu đựng trong con những gì Người còn phải chịu dày vò bởi Khổ Nạn”.
Chúng tôi đã nói về Pascal. Tôi đã nói được gì với chàng? Ôi những lời xấu xa, tồi tàn, phi lý. Nếu lúc nói, tôi đã đau xót vô cùng, thì bây giờ, đêm nay, tôi ân hận ăn năn như đã thốt lời bất kính phạm thần. Tôi tìm lại tập Tư Tưởng, ngẫu nhiên bắt gặp đoạn này, thuộc chương Thư Từ gởi nàng Roannez :
“Khi tự ý hân hoan theo gót kẻ lôi kéo mình đi, thì người ta không cảm thấy dây ràng buộc; nhưng khi bắt đầu cưỡng lại và đi ngược chiều, thì người ta đau khổ lắm”.
Những lời đó lập tức xui tôi xúc động vô cùng, không cách gì tiếp tục đọc nữa; nhưng khi giở trở lại tập sách lần nữa; bỗng tôi gặp một đoạn tuyệt diệu trước kia tôi không hề biết, và tôi vừa chép lại ở trên đây.
Đến đây là hết quyển đầu của tập nhật ký.
Chắc hẳn quyển tiếp theo bị đốt bỏ, vì trong giấy tờ còn lại, tập nhật ký bắt đầu trở lại ba năm sau; lại ở Fongueusemare – vào tháng chín – nghĩa là một thời gian trước buổi tôi về gặp nàng lần cuối. Những dòng sau mở đầu cho tập cuối.
17 tháng 9
Hỡi Thượng Đế, Người biết rằng con cần có chàng ở bên con, thì con mới đủ sức yêu Người. Hỡi Thượng Đế!
Hỡi Thượng Đế, trả lại chàng cho con, để con có thể dâng Người quả tim con tan nát.
Hỡi Thượng Đế, cho phép con gặp lại chàng một bận nữa thôi.
Hỡi Thượng Đế, con xin cam kết dâng trọn Người linh hồn con; xin Thượng Đế ưng chuẩn cho điều con cầu xin tha thiết. Rồi con sẽ dâng riêng cho Người chút gì còn thoi thóp sống của đời con.
Hỡi Thượng Đế, hãy xá tội cho con, cho lời nguyện cầu cùng khốn này, nhưng con không thể cấm làn môi mình không nhắc đến tên chàng, con cũng không thể làm sao nguôi quên được sầu khổ.
Hỡi Thượng Đế, con tha thiết gọi Người, Thượng Đế đừng bỏ con trong cảnh khốn cùng vô hạn.
21 tháng 9
Tất cả những gì ngươi lấy danh nghĩa ta mà cầu xin Thượng Đế...
Than ôi! Lấy danh nghĩa của Người, con không dám.
Nhưng nếu con không thốt nên thành lời cái điều con ước nguyện, có vì vậy mà Người không biết được cái điều cầu mong tha thiết của lòng con?
Sáng nay, một niềm yên tĩnh lớn. Suốt đêm trường suy tưởng, chiêm niệm, nguyện cầu. Rồi thốt nhiên, dường như từ đâu lan xuống một niềm thanh thản sáng ngời... Tôi liền đi nằm, sợ rằng niềm vui kia chỉ do một sự kích thích thần kinh, tôi ngủ sớm, niềm hân hoan vô hạn vẫn không đổi dời. Suốt buổi sáng nay vẫn còn nguyên vẹn.
30 tháng 9
Anh Jérôme! Hỡi người yêu của em; anh mà em còn gọi: người anh ruột thịt của em, nhưng em còn yêu muôn vàn nhiều hơn một người anh ruột thịt... Biết bao nhiêu lần em gọi tên anh trong vườn cây dẻ gai, anh có biết! Mỗi buổi chiều, lúc mặt trời lặn em ra vườn, qua cánh cửa nhỏ của vườn rau, em men theo lối đi đã bắt đầu mờ tối... Em gọi, và bỗng nhiên anh sẽ đáp lời; anh hiện ra, đấy, chính nơi kia, phía sau mô đất sỏi mà đôi mắt em vội vã nhìn quanh, hay là em nhìn thấy anh ở xa xa, ngồi trên ghế đá chờ em, em không ngạc nhiên một tí... trái lại em lấy làm lạ vì sao không được thấy anh. Caligula của em.
1 tháng 10
Vẫn chưa có gì. Mặt trời đã lặn trên nền trời biêng biếc xanh. Tôi chờ. Tôi biết rằng chẳng bao lâu trên chiếc ghế này tôi sẽ cùng ngồi với người anh yêu dấu... Tôi lắng nghe giọng chàng... Tôi muốn nghe giọng chàng nói đến tên tôi. Chàng sẽ ngồi đấy. Tôi sẽ đặt bàn tay mình trong bàn tay của chàng! Tôi sẽ để trán mình tựa vào vai chàng. Hôm qua tôi có mang theo vài bức thư của chàng ra đọc lại; nhưng tôi không đọc được, vì lòng xao xuyến quá. Tôi cũng có đem theo chiếc thánh giá bằng ngọc tím xưa chàng rất thích mà tôi thường đeo chiều chiều, những ngày hè xưa cũ, mỗi lần muốn chàng còn ở lại, khoan đi.
Tôi muốn trao chàng giữ chiếc thánh giá ấy. Từ lâu tôi mong ước: chàng có vợ; tôi là mẹ đỡ đầu cho đứa con gái đầu lòng của chàng, một cháu bé tên Alissa, mà tôi sẽ giao tặng chiếc thánh giá này... Tại sao chẳng bao giờ tôi dám nói với chàng điều đó?
2 tháng 10
Hôm nay linh hồn tôi nhẹ nhàng và vui sướng như một con chim đã làm xong chiếc tổ ấm ở trên trời. Hôm nay, chàng sẽ đến; tôi cảm thấy thế; tôi muốn nói lớn cho mọi người biết là chàng sẽ về; tôi muốn ghi lại điều ấy ra đây. Tôi không thể che giấu niềm vui được nữa? Cho đến Robert ngày thường lơ đễnh là thế, hôm nay cũng phải để ý. Những câu hỏi của em tôi làm tôi lúng túng không biết trả lời sao. Làm sao tôi sẽ chờ cho đến chiều nay?
Tôi không hiểu dải băng trong suốt nào mở cho tôi thấy hình ảnh của chàng lớn thêm ra ở khắp nơi khắp chốn, và tập trung mọi tia sáng của tình yêu về riêng một điểm nóng bỏng giữa tim tôi.
Ôi! Chờ đợi mệt làm sao!
Hỡi Thượng Đế! Hãy mở rộng trong giây lát trước mặt con những cánh cửa bát ngát huy hoàng của hạnh phúc.
3 tháng 10
Thôi thế là hết! Than ôi, chàng đã thoát ra khỏi vòng tay tôi và đi mất, lẩn mất như một bóng mơ hồ. Chàng đã ở đây! Tôi còn cảm thấy. Tôi gọi chàng. Tay tôi, môi tôi luống công tìm chàng trong đêm tối.
Tôi không thể ngủ cũng không thể nguyện cầu. Tôi trở ra ngoài khu vườn tăm tối. Trong phòng tôi, trong khắp nhà, ở nơi nào tôi cũng thấy sợ hãi; tôi trở ra cánh cửa; phía bên kia, tôi đã đành bỏ chàng một mình; tôi mở cửa, lòng ngập một niềm hy vọng điên cuồng: nếu chàng trở lại! Tôi lên tiếng gọi. Tôi mò mẫm đi trong đêm tối. Tôi trở vào để viết thư cho chàng. Tôi không thể nào đành lòng chịu cảnh giá đơn dằng dặc.
Những gì đã xảy ra? Tôi đã nói với chàng những gì? Tôi đã làm gì? Tại sao lại cứ phải nói mãi về đức hạnh trước mặt chàng? Nó còn chút giá trị nào, cái đức hạnh mà cả tâm hồn tôi chối bỏ; tôi không thành thực nữa; âm thầm tôi tự dối mình với những lời Thượng Đế đặt vào môi tôi. Tất cả những gì tràn ngập tim tôi không chút gì được thốt cả. Jérôme! Jérôme! Hỡi người anh đau đớn! Gần anh, em thấy tan nát cõi lòng, mà xa anh, em chết, tất cả những điều em đã nói, anh chỉ nên nghe những gì mà tình yêu của em đã kể lể với anh thôi.
Xé mất bức thư, rồi viết lại... Bình minh; u ám, ẩm ướt những lệ nhòa, cũng buồn sầu như tâm hồn tôi vậy. Tôi nghe những tiếng động đầu tiên của nông trại... Mọi vật sống dậy. “Bây giờ ngươi hãy đứng lên. Giờ trọng thể đến...”
Bức thư của tôi sẽ không gửi tới chàng.
5 tháng 10
Thượng Đế ghen ghét lắm chi, đã chiếm hết kho tàng của con, còn chần chờ chi nữa mà không chiếm khối tim con. Từ nay không còn gì làm cho nó nóng ấm lại nữa rồi. Người hãy giúp con thắng chút phần hồn phách còn lại của mình. Ngôi nhà này, khu vườn nhắc gợi quá nhiều mối tình xưa, càng gây thêm nhiều đau xót quá. Con muốn trốn đi một nào chỉ còn thấy riêng Thượng Đế mà thôi.
Người hãy giúp con dàn xếp chút của cải mình mà gởi lại cho kẻ nghèo nàn; cho phép con lưu Fongueusemare lại cho Robert, vì con không thể bán nó đi dễ dàng được. Con có viết một tờ di chúc, nhưng con không rõ những yếu kiện cần thiết, và hôm qua con không thể nói chuyện nhiều hơn nữa với vị nô te, vì sợ ông ta sẽ thấu điều quyết định của con mà báo cho Juliette và Robert biết...
10 tháng 10
Tôi đến đây mỏi mệt đến nỗi trong hai ngày đầu phải chịu liệt giường.
Vị thầy thuốc người ta mời đến (ngoài ý muốn của tôi) có nói rằng cần phải chịu một sự mổ xẻ. Phản đối làm gì? Tôi chỉ nói rằng nghe nói đến mổ xẻ tôi kinh sợ quá, và xin chờ khi nào trong người thấy khỏe hơn hãy hay.
Tôi giấu được tên tuổi và địa chỉ của mình. Tôi có gửi trước cho viện điều dưỡng một số tiền khá đầy đủ để người ta chịu nhận tôi, và cho tôi nương náu đến lúc nào Thượng Đế chịu gọi tôi đi.
Căn phòng này vừa ý tôi. Rất sạch sẽ. Tôi ngạc nhiên thấy mình hầu như vui sướng. Ấy vì chính tôi không còn mong đợi gì ở đời nữa. Ấy vì chính bây giờ tôi chỉ còn được phép nghĩ đến Thượng Đế mà thôi, và tình yêu Thượng Đế chỉ thanh cao tuyệt diệu là khi nó chiếm cứ trọn tâm hồn ta.
Tôi không mang theo một quyển sách nào ngoài quyển Kinh Thánh; nhưng ngày nay mọi lời tôi đọc trong Kinh Thánh đều bị át đi trước tiếng kêu nức nở si cuồng của Pascal :
“Tất cả những gì không phải là Thượng Đế, đều không thể nào thỏa mãn niềm kỳ vọng của tôi”
Ôi, mới phàm tục làm sao, cái niềm vui của lòng can dại khờ xưa nguyện ước! Hỡi Thượng Đế! Phải chăng vì muốn thu được tiếng kêu thống thiết kia mà Người đã làm con tuyệt vọng thế này?
12 tháng 10
Hỡi Thượng Đế! Thời trị vì của Người, xin hãy đến. Hãy đến với con! Sao cho riêng Người ngự trị trên tâm hồn con trọn vẹn. Con không còn muốn cân nhắc mặc cả với Người quả tim của con làm chi nữa.
Con mệt mỏi như một kẻ già nua vậy, nhưng linh hồn con còn giữ được trẻ trung thơ dại lạ thường. Con vẫn là đứa bé gái như thuở nào, con bé tươm tất sắp đặt mọi vật trong phòng cho ngăn nắp và xếp lại quần áo thay ra rất hẳn hoi, rồi mới chịu ngủ.
Như ngày nhỏ, bây giờ con cũng muốn chuẩn bị để lìa đời.
13 tháng 10
Đọc lại tập nhật ký trước khi thiêu hủy. “Đối với những tâm hồn cao thượng, gieo rắc ra ngoài niềm hoang mang mình cảm thấy, đó là điều không xứng đáng”.
Hình như tôi tưởng đó là lời nói cao đẹp của Clotilde Vaux.
Chính lúc định quăng vào lửa tập nhật ký này, bỗng tôi dừng lại; tôi tưởng như nó không còn là của tôi nữa; tôi không có quyền tước đoạt nó của Jérôme, xưa nay tôi có viết nó, là cũng vì Jérôme, mà tôi viết. Những nỗi lo âu, hoài nghi, sợ hãi của tôi, nay xem thấy không đáng kể nữa, thì chuyện gì mà sợ Jérôme sẽ phải hoang mang. Hỡi Thượng Đế! Làm sao cho chàng đôi lúc bắt gặp thấy trong tập này giọng điệu vụng về của kẻ tha thiết đến điên cuồng muốn giục chàng tiến đến đỉnh cao vời của đức hạnh, mà riêng con đã từng tuyệt vọng không dám tiến lên.
Hỡi Thượng Đế, hãy dẫn con đến nơi tảng đá chênh vênh mà con không thể một mình đạt tới.
15 tháng 10
“Vui, vui, vui, lệ trào vì vui...”
Trên hết mọi niềm vui phàm tục, và vượt xa mọi đau khổ trần gian, vâng, tôi linh cảm niềm vui rạng ngời, siêu việt ấy. Tảng đá chênh vênh mà tôi không thể đạt tới, tôi biết rằng tên nó là: hạnh phúc. Tôi hiểu rằng cả cuộc đời mình là vô nghĩa nếu không để đi tìm đến hạnh phúc... Chao! Hỡi Thượng Đế! Người đã hứa hẹn cho riêng những linh hồn biết khước từ lạc thú và giữ lòng trong sạch thiêng liêng. “Từ nay, như lời Người đã nói, từ nay sẽ được sung sướng, những kẻ nào chết trong lòng Thượng Đế mênh mông”.
Con có phải đợi cho đến giờ chết? Chính bây giờ là lúc lòng tin tưởng của con đã thấy lung lay... Hỡi Thượng Đế! Con thống thiết kêu gọi Người, con kêu gọi Người đến kiệt sức. Con đương ở trong đêm tối rợn rùng. Con chờ đợi bình minh. Con kêu gọi Người cho đến chết. Người hãy đến thỏa mãn niềm khát vọng của con. Cái hạnh phúc tuyệt vời lòng con khao khát...Hay là con còn phải tự làm cho mình tin là sẽ gặp... Và giống như con chim nóng lòng chờ đợi, cất giọng ca hát giục giã trước bình minh, kêu gọi hơn là báo tin ngày về tươi sáng, phải chăng con cũng nên hót ngay bây giờ, không cần phải đợi đến đêm tối tan đi, rồi mới hót?
16 tháng 10
Jérôme, em muốn vẽ cho anh niềm vui trọn vẹn.
Sáng nay, bị một lần nôn ọe, tôi rã rời. Tôi cảm thấy mệt mỏi vô cùng, tưởng giờ chết đã đến. Nhưng không. Trong khắp người tôi, một niềm thanh thản lớn ngập tràn; rồi tiếp theo, một niềm hãi sợ xâm chiếm tâm tư, một mối run tê lạnh chạy khắp thể xác và linh hồn; dường như thốt nhiên nhận rõ sự thật của đời mình, và mộng vừa tan vỡ. Dường như đây là lần đầu tôi nhìn thấy những bức tường trơn trụi hãi hùng của gian phòng lạnh lẽo. Tôi run sợ. Đến bây giờ tôi còn viết nữa để an tâm, để tìm chút bình tĩnh. Hỡi Thượng Đế, làm sao giúp con đạt đến cùng mà không lên lời báng bổ.
Tôi không còn đủ sức đứng lên. Tôi quỳ xuống như một đứa bé. Tôi muốn chết; chết ngay bây giờ, chết gấp, chết trước khi còn biết rằng mình quá cô đơn.