Kể đến những sách tố cáo chế độ cực quyền phát xít hay cộng sản, truyện "1984" của George Orwell là một trong những tác phẩm đứng hàng đầu. Hơn cả chục bộ khảo luận dày cộm, "1984" mô tả một cách xúc động rõ ràng guồng máy độc tài và thân phận hãi hùng của con người bị tước hết quyền tự do, biến thành một đám nô lệ ngoan ngoãn phục vụ một lũ cầm quyền nặc danh vô nhân đạo.
George Orwell (bút hiệu của Eric Arthur Blair) sinh năm 1903 tại Ấn Độ (Motihari, Bengale). Sau khi tốt nghiệp trường Eton (1921) ông xin gia nhập Cảnh sát hoàng gia tại Miến Điện, nhưng vài năm sau (1928) ông từ chức vì chán ghét chính sách đế quốc như quyển "Những ngày ở Miến Điện" (1934) của ông chứng nhận. Từ đây ông cố sống với ngòi bút. Ông có kể lại mấy năm hàn vi của ông trong quyển "Túng thiếu tại Paris và London" (1933). Có một thời ông dạy học nhưng vì thiếu sức khỏe ông phải bỏ dạy đi giúp việc cho một tiệm sách ở ngoại ô London. Sau đó cho tới năm 1940 ông cộng tác với tuần báo "New english weekly". Tiếp theo một chuyến đi thăm hai vùng bị nạn thất nghiệp ở Anh quốc, ông mãnh liệt lên tiếng thay dân thợ nghèo trong quyển "Đường đến đê Wigan" (1937). Năm 1936 ông sang Tây Ban Nha chiến đấu bên phe Cộng hòa và bị thương. Trong thời gian này, ông có dịp quan sát các phái tả hữu, nên rất am hiểu rồi ngao ngán tư tưởng và đường lối độc tài. Những điều chứng kiến được ông ghi lại trong cuốn "Cảm phục Catalonia" (1938) được nhiều người coi là kiệt tác của ông. Hồi đệ nhị thế chiến ông được miễn dịch vì sức yếu, nhưng được nhận làm cho đài BBC và giữ chân phê bình văn chương chính trị cho báo "Tribune". Kể từ năm 1945 ông làm đặc phái viên cho báo "The observer" tại Pháp và Đức, và cộng tác đều với báo "Manchester evening news". Kinh nghiệm Đức quốc xã và độc tài xúi ông viết hai truyện "Trại súc vật" (1945) và "1984" (1949) là hai tác phẩm chính trị bất hủ mang lại danh tiếng cho ông. Tuy ai cũng phải công nhận văn chương của ông trong hai cuốn này rất điêu luyện, sắc bén chẳng kém những ý tưởng sâu xa của ông, trước khi được nhà Seder & Warburg nhận in, quyển "Trại súc vật" đã bị khoảng mười nhà xuất bản viện lẽ này nọ từ khước. Chung qui vì những đề tài do ông nêu ra đụng chạm các học thuyết xã hội thịnh hành lúc bấy giờ (và tới tận đầu năm tám mươi). Trái với dự đoán của nhà xuất bản, "Trại súc vật" được độc giả Âu Mỹ nhiệt liệt hoan nghênh, và sự hưởng ứng đó khuyến khích ông viết "1984" (84 là ngược số của 48, tức năm ông khởi sự viết truyện này) mặc dầu lúc ấy ông đang bị bệnh lao hoành hành. Ông đã dồn hết sinh lực và tâm tư của ông vào sự hoàn thành tác phẩm chót này, đến độ học viết tay trái khi tay phải của ông bị liệt vì bị tiêm quá nhiều. Bởi được viết khi ông đang chống chọi với tử thần - ông mất đầu năm 1950, vài tháng sau khi được thấy sách xuất bản - "1984" cũng là di chúc của ông khuyến cáo nhân loại cảnh giác trước mối đe dọa nguy ngập của nền độc tài cực quyền.
Đó là một ngày tháng tư sáng lạnh, vừa lúc đồng hồ điểm báo mười ba trăm . Cằm rụt xuống ngực để mong tránh gió ác, Winston Smith lướt nhanh qua cửa kính của khu Nhà Chiến Thắng nhưng không đủ nhanh để ngăn một luồng bụi cát lùa vào theo anh.
Hành lang hôi mùi cải luộc chiếu nát. Nơi một phía đầu tường thấy phô một tấm bích chương mầu, quá lớn để mang trang trí trong nhà. Nó hình dung một gương mặt kếch xù, rộng hơn một thước: mặt một người đàn ông chừng bốn mươi nhăm tuổi, có râu đen dày và nét đẹp cứng cáp. Winston leo lên cầu thang. Thử thang máy vô ích. Thuở thịnh nhất thỉnh thoảng máy mới chạy, nữa là bây giờ điện lại bị cúp vào ban ngày. Biện pháp này thuộc phong trào tiết kiệm sửa soạn "Tuần lễ Hận thù". Căn phòng của Winston ở tận lầu bẩy, anh đã ba mươi chín tuổi lại mắc chứng loét giãn tĩnh mạch nơi đầu gối phải, nên anh đi chậm chạp, dừng nghỉ nhiều lần giữa cầu thang. Tại mỗi thềm, trước lồng thang máy, tấm bích chương với gương mặt kếch xù từ tường nhìn ra. Đấy là một loại tranh được bố trí sao cho cặp mắt tuồng như theo dõi từng cử động bên ngoài. BÁC ĐANG NHÌN BẠN, dưới bức tranh có lời ghi như vậy.
Trong căn phòng một giọng nói ngọt ngào đang đọc một bảng kê liên quan đến việc sản xuất gang. Tiếng nói xuất phát từ một tấm kim khí thuôn dài giống như một tấm gương xỉn gắn trên mặt tường phải. Winston vặn một nút và tiếng nói giảm xuống tuy vẫn còn nghe được từng chữ. Máy đó (gọi là máy truyền hình) có thể bị giảm âm nhưng không có cách nào tắt hẳn nó. Winston bước tới cửa sổ. Anh là một người nhỏ bé mảnh khảnh, dáng gầy được tăng bởi bộ áo liền quần xanh, đồng phục của Đảng. Tóc anh rất vàng, mặt anh đỏ tự nhiên, da anh bị chai cứng bởi sà phòng xoàng, dao cạo cùn và tiết lạnh mùa đông mới hết.
Ngoài trời, ngay qua kính cửa sổ đóng, thế giới có vẻ lạnh lẽo. Dưới phố, những xoáy gió nhỏ làm quay xoắn bụi và giấy rách; mặc dầu mặt trời đang chiếu và trời xanh rát, hình như không vật gì có mầu ngoài những tấm bích chương dán khắp nơi. Bộ mặt râu đen nhìn xuống từ mỗi nơi trọng yếu. Có một bộ ngay bên kia nhà. BÁC ĐANG NHÌN BẠN, lời thuyết minh ghi vậy, trong khi cặp mắt đen nhìn xòng xọc vào mắt Winston. Dưới đường, một bích chương khác bị rách một góc đập đều theo gió làm ẩn hiện mỗi chữ ANH XÃ. Ngoài xa, một chiếc trực thăng len giữa mái nhà, lượn một hồi như nhặng, rồi thoáng bay vòng trở lại. Đó là đội cảnh sát tuần tra chõ mũi vào cửa sổ nhà dân chúng. Tuy nhiên đội tuần tra không ăn nhập gì. Chỉ có Cảnh Sát Tư Tưởng mới đáng kể.
Sau lưng Winston tiếng máy truyền hình vẫn xì xồ về gang và dư quả của kế hoạch ba năm thứ chín. Máy đồng thời vừa thâu vừa truyền. Tiếng động nào lớn hơn tiếng thì thầm do Winston gây ra cũng có thể bị thâu; lại nữa, anh còn ở trong phạm vi thị giác của tấm kim khí, anh còn có thể bị nhìn cũng như bị nghe. Dĩ nhiên, không có cách nào biết được khi nào mình đang bị nhìn. Bao lần và theo hệ thống nào Cảnh sát Tư Tưởng mắc điện rình đường dây mỗi cá nhân, không ai đoán được. Chửa biết chừng họ không ngưng dòm xét tất cả mọi người. Dầu sao mặc lòng, họ có thể bắt rình đường dây của bạn mỗi khi họ muốn. Bạn phải sống — và sống với thói quen đã trở thành linh tính — với ý nghĩ rằng mỗi tiếng động bạn làm đều bị nghe thấy và, trừ phi ở trong bóng tối, mỗi cử động của bạn đều bị dò xét.
Winston giữ cho lưng quay về phía máy truyền hình. Như vậy thận trọng hơn dù anh thừa biết rằng ngay lưng cũng có thể lộ tẩy anh. Cách đây một cây số, Bộ Sự Thật, nơi anh làm việc, dựng đứng khối rộng trắng trên phong cảnh thê lương. Đây là Luân Đôn, anh nghĩ với một niềm chán ghét mơ hồ, đây là Luân Đôn, thủ đô của Vùng Một Không Quân, tỉnh đông dân cư thứ ba của Đại Dương. Anh cố nặn khỏi óc một vài kỷ niệm ấu thời xem Luân Đôn có vẫn từng như thế này hay không. Vẫn có chăng các phối cảnh nhà nát của thế kỷ mười chín với xà dựng chống đỡ bên hông, với bìa vá cửa sổ, với tôn sóng trát mái, và với bờ rào vườn hoang nghiêng ngả ? Vẫn có chăng các vị trí bị oanh tạc với bụi thạch cao xoắn trong không trung và cỏ liễn diệp dăng tràn trên các đống vôi gạch đổ nát ? Còn các nơi do bom khai quang thành một khoảng rộng trên đó mọc lên cả tập đoàn gian nhà gỗ nhơ nhớp y như chuồng gà ? Nhưng vô ích, anh không nhớ ra; tuổi thơ ấu của anh không để lại gì ngoài một loạt hình ảnh sáng chói không bối cảnh và phần đông khó hiểu.
Bộ Sự Thật — Bộ Thật theo Ngôn Mới — nổi hẳn trên mọi vật xung quanh. Đó là một kiến trúc hình tháp to lớn làm bằng cốt thép trắng xóa, vươn cao hết gác thượng này lên gác thượng kia tới ba trăm thước trên không. Từ chỗ Winston đứng có thể đọc được ba khẩu hiệu của Đảng được khắc một cách thanh nhã trên nền mặt trắng của tháp:
CHIẾN TRANH LÀ HÒA BÌNH
TỰ DO LÀ NÔ LỆ
DỐT NÁT LÀ SỨC MẠNH
Nghe đâu Bộ Sự Thật gồm ba nghìn phòng trên lầu và từng đó chi nhánh dưới nhà. Rải rác khắp Luân Đôn chỉ có ba tòa nhà khác có hình dáng và kích thước tương tự. Mấy tháp ấy đè bẹp kiến trúc xung quanh đến nỗi từ nóc Nhà Chiến Thắng người ta có thể nhìn thấy cả bốn một lúc. Đó là trụ sở của bốn bộ chia nhau guồng máy nhà nước. Bộ Sự Thật lo việc thông tin, giải trí, giáo dục và mỹ thuật. Bộ Hòa Bình liên quan đến chiến tranh. Bộ Tình Yêu duy trì luật lệ và trật tự. Còn Bộ Sung Túc chịu trách nhiệm về kinh tế. Tên các bộ theo Ngôn mới là: Bộ Thật, Bộ Bình, Bộ Yêu, Bộ Túc.
Bộ Tình Yêu là bộ đáng sợ nhất. Bộ không có cửa sổ gì cả. Winston chưa vào trong đó và cũng chưa từng bước chân vào vòng nửa cây số quanh khu vực bộ. Đó là một nơi không thể vào được trừ phi có nhiệm vụ chính thức, và khi vào phải qua một đồ trận rắc rối có dây gai nhằng nhịt, cổng thép, với ổ súng máy giấu quanh. Ngay những phố đưa đến hàng rào của bộ cũng có đầy lính gác mặt đười ươi mặc y phục đen và mang dùi nối khớp tuần hành.
Winston đột nhiên quay mình lại. Anh đã đặt trên nét mặt anh một vẻ lạc quan thanh thản là sắc diện nên đeo khi đứng trước máy truyền hình. Anh qua phòng vào căn bếp nhỏ xíu. Rời Bộ vào giờ này là anh đã hy sinh bữa cơm trưa tại sở, và anh cũng biết không có thức ăn trong bếp trừ một khẩu bánh mì đen mà anh dành cho bữa sáng mai. Anh với trên kệ một chai chất lỏng không mầu có rõ nhãn hiệu: "Rượu Gin Chiến Thắng". Từ rượu thoảng ra một mùi dầu buồn nôn giống như rượu nếp Trung Hoa. Winston rót ra gần một chén đầy, thâu can đảm để chịu sức choáng váng rồi nốc cạn rượu như một liều thuốc đắng.
Tức thì mặt anh đỏ tía và nước mắt anh trào ra. Chất rượu giống như tiêu toan, nuốt chửng nó vào tưởng chừng như bị gậy cao xu đập sau đầu. Nhưng một lát sau cảm giác nóng rực tan dần và thế giới trở nên tươi đẹp hơn. Winston rút một điếu thuốc lá từ một hộp nhàu nát có tên là "Thuốc Lá Chiến Thắng", nhưng anh không đề phòng cầm ngược điếu khiến thuốc lá rơi xuống sàn nhà. Anh có hên hơn với điếu sau. Anh trở vào phòng khách và ngồi xuống một cái bàn nhỏ ở bên trái máy truyền hình. Từ ngăn kéo bàn anh lấy ra một quản bút, một lọ mực, một quyển vở dày khổ bốn là còn y nguyên có lưng đỏ và bìa vân đá.
Vì lý do gì đó, máy truyền hình trong phòng khách có một vị trí bất thường. Thay vì được gắn như thông thường ở tường cuối, nơi bao quát được cả gian phòng, nó lại ở tường dài đối diện với cửa sổ. Bên máy có một hốc nông trong đó Winston đang ngồi, chắc xưa người xây nhà dành nó cho kệ sách. Ngồi trong hốc và xoay lưng đúng cách, Winston có thể giữ mình ngoài vòng thị giác của máy truyền hình. Dĩ nhiên anh có thể bị nghe, nhưng anh còn ở trong vị trí hiện tại anh không thể bị nhìn. Cách bố trí kỳ dị của căn phòng đã có phần gợi cho anh cái việc anh sắp làm đây.
Nhưng ý nghĩ này cũng được gợi bởi quyển vở anh mới lấy ra khỏi ngăn kéo. Đó là một quyển vở đẹp đặc biệt. Giấy mịn như kem hơi bị thời gian làm vàng của nó thuộc loại không được chế tạo nữa từ ít nhất bốn mươi năm nay. Thế nhưng anh có thể đoán cuốn vở còn xưa hơn nữa. Anh đã thấy nó nằm trong tủ kính của một tiệm đồ cũ mục nát tại một khu bần tiện của thành phố (đúng khu nào thì anh không nhớ nữa) và anh đã lập tức bị lôi cuốn bởi lòng thèm khát làm chủ nó cho được. Đảng viên coi như không được vào các tiệm thường (nghĩa là "mua bán trên thị trường tự do") nhưng kỷ luật này không được chấp hành nghiêm chỉnh vì có nhiều thức như dây giầy và dao cạo không kiếm được nơi nào khác. Anh đã liếc nhanh từ trên xuống dưới đường rồi lẻn vào trong tiệm mua cuốn vở với giá hai đôn rưỡi. Lúc đó anh không ý thức sẽ dùng cuốn vở vào việc nhất định nào, nhưng anh cảm thấy có tội khi mang nó về, vì dù không viết gì trong vở, giữ nó cũng đã là một điều nguy hiểm.
Việc anh sắp làm đây là bắt tay viết nhật ký. Đó không phải là một hành động phi pháp (không có gì phi pháp cả vì không còn luật pháp nữa), nhưng nếu bị khám phá thủ phạm sẽ có thể bị tử hình hay ít ra cũng bị phạt hai mươi nhăm năm tù khổ sai. Winston gắn một ngòi bút vào quản bút và mút nó để hút nhớt ra. Bút là một vật dụng cổ ít ai dùng tới ngay cả để ký, và anh đã khó khăn lén lút kiếm một cái chỉ vì nghĩ rằng tờ giấy kem đẹp đáng được viết lên bằng đường tô của một ngòi bút thực sự thay vì nét sướt của một chiếc bút máy. Thật ra thì anh không quen viết tay. Trừ vài câu chú ngắn, thói thường anh đọc tất vào máy phát ghi, một điều cố nhiên không thể thi hành được với dự định của anh. Anh nhúng bút vào mực rồi do dự một giây. Anh thấy run tận đáy lòng. Gạch vào giấy là hành động quyết định. Bằng nét nhỏ vụng về anh viết:
Tháng 4 năm 1984
Anh ngồi thẳng lại. Cảm tưởng mình hoàn toàn bất lực xâm chiếm anh. Thoạt tiên anh không chắc năm nay là năm 1984. Phải là khoảng đó vì anh đinh ninh anh ba mươi chín tuổi và tin mình sinh năm 1944 hay 1945; nhưng ngày nay chẳng bao giờ có thể định được thời gian sát hơn một hai năm.
Bỗng anh tự hỏi mình viết nhật ký cho ai đây ? Cho tương lai, cho những kẻ chưa sinh. Tâm hồn anh thơ thẩn một lúc quanh năm tháng khả nghi ghi trên trang, rồi vọt vấp phải từ Ngôn mới ý đôi. Lần đầu tiên anh thực hiện tầm quan trọng của việc anh làm. Làm sao thông báo được tương lai ? Hiển nhiên là không thể được. Hoặc tương lai sẽ hệt như hiện tại và trong trường hợp đó sẽ không ai nghe anh; hoặc nó sẽ khác hẳn và điều răn của anh sẽ vô nghĩa lý.
Anh ngồi thừ mình nhìn giấy một lúc. Máy truyền hình mới đổi sang một chương trình quân nhạc inh ỏi. Lạ là không những anh mất khả năng diễn đạt tư tưởng, anh còn quên cả điều anh nguyên định viết. Hàng tuần qua, anh đã sửa soạn cho lúc này và không bao giờ nghĩ ngoài can đảm sẽ phải cần đến điều gì khác. Anh tưởng viết sẽ dễ dàng. Anh sẽ chỉ cần chuyển sang giấy những độc thoại liên miên vô tận trải bày trong óc anh cả mấy năm nay. Thế nhưng lúc này ngay độc thoại cũng cạn. Hơn nữa, chứng loét giãn tĩnh mạch của anh bắt đầu làm anh ngứa ngáy chịu không nổi. Anh không dám gãi vì hễ làm vậy thế nào đầu gối cũng sẽ sưng lên. Giây phút trôi qua. Anh không ý thức gì ngoài sự rỗng tuếch của trang giấy trước mặt, nỗi ngứa ngáy của da anh nơi đầu gối, tiếng rống của nhạc và cơn say nhẹ do rượu gin gây ra.
Bất thình lình anh bắt đầu viết như cuồng, không tri giác gì về những giòng ghi. Tuồng chữ nhỏ non của anh leo lên leo xuống trang; mới đầu anh bỏ chữ cái rồi sau bỏ luôn cả dấu chấm.
Tháng 4, 1984. Đêm qua đi coi hát. Toàn là phim chiến tranh. Có một phim thật hay về một con tàu đầy dân tị nạn bị bỏ bom đâu đó trên Địa Trung Hải. Khán giả rất thích chí khi hình chiếu một người đàn ông mập mạp cố bơi xa một chiếc trực thăng đang đuổi theo ông ta, thoạt đầu thấy ông ta đầm mình trong nước như một con cá heo, sau thấy ông hiện qua ống súng của trực thăng, rồi mình ông đầy lỗ hổng, biển quanh ông nhuộm hồng, và ông lặn mất làm như lỗ hổng khiến ông bị nước ngập, khán giả cười vang khi ông chìm. lại thấy một chiếc xuồng cứu đắm đầy trẻ con với một máy trực thăng lượn ở trên. có một bà đứng tuổi có lẽ là người do thái ngồi trên đầu xuồng ẵm một đứa bé trai khoảng ba tuổi, đứa bé hét lên vì sợ rúi đầu vào ngực bà ta như cố vùi người trong lòng bà và người đàn bà quàng tay quanh nó cùng an ủi nó mặc dầu bà ta cũng xanh người vì sợ hãi, luôn luôn ra sức bao bọc đứa bé làm như bà ta nghĩ tay bà có thể gạt được đạn xa người nó. rồi trực thăng ném một trái bom 20 ký xuống đám họ chớp loé khủng khiếp và chiếc xuồng thiêu tan như diêm. sau đó là hình ảnh tuyệt vời của một cánh tay đứa nhỏ vươn cao lên cao mãi cao mãi trên không có lẽ có trực thăng gắn máy quay phim nơi đầu theo rõi cánh tay ấy một tràng vỗ tay nổi lên từ ghế khán giả nhưng một người đàn bà ngồi ở khu bình dân bỗng dậm chân làm ầm thét không nên đưa trò đó cho con nít coi không có quyền không được thế trước mặt con nít không được cho đến khi cảnh sát tống cổ bà ta ra tôi nghĩ bà ta không hề gì không ai để ý đến dân đen phản ứng tiêu biểu của dân đen không bao giờ đươc chúng —
Winston ngưng viết, phần vì anh bị chuột rút. Anh không biết vì sao anh nhả ra tràng giòng phi lý kia. Nhưng lạ là khi anh viết một kỷ niệm khác hẳn hiện trong óc anh, rõ đến nỗi anh cảm thấy có thể ghi ngay được nó. Bây giờ anh hiểu chính tại chuyện đó mà anh bỗng quyết định về nhà ngày hôm nay khai trương nhật ký.
Chuyện đó xảy ra sáng nay tại Bộ, nếu một điều lờ mờ như vậy có thể được gọi là xảy ra.
Lúc đó gần mười một trăm, và trong Cục Văn Khố, nơi Winston làm việc, mọi người lôi ghế từ các ô phận đem tập trung giữa đại sảnh đối diện với máy truyền hình lớn để chuẩn bị Hai Phút Hận Thù. Winston đang tiến lại chỗ ngồi ở một hàng giữa thì có hai người mà anh biết mặt nhưng không nói chuyện với bao giờ bất ngờ bước vào. Một người là cô gái anh thường gặp trong hành lang. Anh không biết tên cô nhưng anh biết cô làm tại Cục Truyện. Anh đoán — vì anh thỉnh thoảng thấy tay cô ta dính dầu và cầm một cái chìa vặn — cô ta hành sự máy móc gì đó trên máy viết truyện. Đó là một cô gái có vẻ dạn dĩ khoảng chừng hai mươi bẩy tuổi, tóc rậm, mặt có tàn nhang, với cử chỉ nhanh nhẹn đầy lực sĩ tính. Một sợi giây lưng đỏ biểu hiệu của Liên Đoàn Thanh Niên Chống Sinh Dục được thắt nhiều vòng quanh bộ áo liền quần của cô, đủ chật để thể hiện đường cong của hông cô. Winston ghét cô ta ngay lần gặp đầu tiên. Anh biết tại sao. Đó tại cái không khí bãi khúc côn cầu, phiên tắm nước lạnh, cuộc dạo chơi chung và tinh thần trong sạch toàn diện mà cô ta có cách tỏa quanh mình cô. Anh ghét gần hết đàn bà, nhất là đàn bà trẻ đẹp. Bao giờ đàn bà và nhất là đàn bà trẻ cũng là kẻ si mê theo Đảng nhất, cả tin khẩu hiệu, sẵn làm điệp viên tài tử và chăm phát hiện tà thuyết. Nhưng riêng cô gái này có vẻ nguy hiểm hơn ai. Một lần khi hai người gặp nhau trong hành lang, cô ta liếc nhìn anh thật nhanh làm như muốn xuyên thủng anh khiến anh đầy khiếp đảm một hồi. Thoáng trong óc anh còn có ý nghĩ cô ta là nhân viên của Cảnh Sát Tư Tưởng. Một điều, thật ra, vị tất đúng. Song le anh tiếp tục nghiệm thấy một cảm giác đặc biệt bất ổn, sợ hãi lẫn lộn với khắc nghịch mỗi lần cô ta gần anh.
Người kia là một đàn ông tên là O Brien, một thành viên Đảng Trong giữ một chức vụ cao xa đến nỗi Winston chỉ có một ý niệm rất lờ mờ về tính chất của nó. Một sự im lặng nhất thời trùm trên đám người quanh ghế khi thấy bộ áo liền quần đen của một thành viên Đảng Trong tới gần. O Brien là một người cao lớn mập mạp, có cổ dày và gương mặt thô bạo hóm hỉnh. Mặc dầu bề ngoài hộ pháp, phong cách của ông ta có phần quyến rũ. Ông có điệu chỉnh lại kính trên mũi lạ thay hiền lành và văn minh khó tả. Đấy là một cử chỉ khiến người ta, nếu còn người nghĩ theo lối cũ, liên tưởng đến một nhà quý tộc thời thế kỷ mười tám mời khách hít thuốc. Trong gần mười hai năm có lẽ Winston chỉ được nhìn mặt O Brien có một tá lần. Anh cảm thấy bị lôi cuốn sâu xa bởi ông ta, không riêng vì anh bị kích thích bởi sự tương phản giữa phong cách lịch sự và hình dáng đô vật của ông ta. Lý do mạnh hơn là anh thầm kín tin rằng — có lẽ đó không hẳn là một niềm tin mà là một mối hy vọng — tính chính thống chính trị của O Brien không được hoàn hảo. Có cái gì trong gương mặt ông ta nhất thiết gợi lên ý đó. Vả lại có lẽ chẳng phải tính bất chính thống mà chỉ trí thông minh thể hiện trên mặt ông ta. Dù sao chăng nữa ông có cái bề ngoài của một người nói chuyện với được nếu lừa được máy truyền hình và được giáp mặt ông ta một mình. Winston chưa hề thử kiểm chứng ước đoán này: mà cũng chẳng có cách nào làm nổi. Vừa lúc ấy O Brien liếc nhìn đồng hồ tay, thấy rằng đã gần mười một trăm, và hiển nhiên quyết định ở lại Cục Văn Khố cho tới khi Hai Phút Hận Thù chấm dứt. Ông ta ngồi xuống một chiếc ghế cùng hàng với Winston, cách anh hai chỗ. Một bà nhỏ bé tóc hung làm việc tại ô phận cạnh Winston ngồi giữa họ. Cô gái tóc đen ngồi ngay đằng sau. Lát sau, một giọng kèn kẹt gớm ghê như tiếng cọt của một bộ máy quái đản khô dầu nổi bùng lên từ máy truyền hình ở cuối sảnh. Đó là một tiếng động khiến người nghiến răng gợn tóc gáy. Hận Thù đã bắt đầu.
Như thường lệ, gương mặt của Emmanuel Goldstein, Kẻ Thù Dân Tộc, lộ ra trên màn ảnh. Có tiếng huýt đây đó trong đám khán giả. Người đàn bà nhỏ bé tóc hung hét lên vì sợ hãi và kinh tởm. Goldstein là kẻ lừa lọc phản bội đã một lần, từ lâu lắm (từ bao lâu, không ai nhớ được), là một nhân vật lãnh đạo của Đảng sánh hàng với Bác, sau đâm hành động phản cách mạng, bị xử tử rồi trốn thoát và mất tích một cách bí mật. Chương trình Hai Phút Hận Thù thay đổi từng ngày nhưng không ngày nào là không có Goldstein đóng vai chính. Ông ta là kẻ phản bội đầu sỏ, kẻ sớm nhất làm uế tạp sự trong sạch của Đảng. Mọi trọng tội chống Đảng sau này, mọi sự phản trắc, mọi hành động phá hoại, mọi tà thuyết, mọi sai lệch, xuất phát từ sự dạy bảo của ông ta. Nơi nào đó, ông ta vẫn sống và đang mưu đồ phản loạn: có lẽ tại hải ngoại, dưới sự che chở của quan thầy ngoại quốc, hay cũng có thể — như thỉnh thoảng có tin đồn — ngay tại một chốn giấu kín ở chính Đại Dương.
Cơ hoành của Winston co lại. Anh không bao giờ thấy mặt Goldstein mà không bị ngập bởi nhiều cảm xúc lẫn lộn đau buồn. Ấy là một khuôn mặt Do Thái mỏng bao quầng bởi một mớ tóc bạc mờ ảo với một bộ râu dê ngắn — một khuôn mặt thông minh nhưng có vẻ cố hữu đáng khinh thế nào ấy, cùng có vẻ ngốc nghếch già nua ẩn nơi cái mũi dài hẹp đội kính gần đầu sóng. Nó giống như mặt cừu, và giọng nói cũng vậy, be be như tiếng cừu. Goldstein đang công kích độc địa chủ nghĩa của Đảng — công kích một cách quá lố và đồi bại đến nỗi một đứa trẻ con cũng có thể nhìn thấu, nhưng đủ sát thật để reo mối lo người khác ít óc thăng bằng hơn mình có thể bị mắc lừa. Ông ta rủa Bác, tố cáo sự độc tài của Đảng, đòi hỏi phải lập tức giảng hòa với Âu Á, bênh vực tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tư tưởng, kêu gào loạn lên rằng cách mạng đã bị phản bội — cứ vậy với những lời lẽ dài dòng nhanh nhảu nhại lại văn phong của các diễn giả thuộc Đảng chêm vào nhiều từ Ngôn mới: còn nhiều từ Ngôn mới hơn cả số được các đảng viên thông dụng ngoài đời. Đồng thời, để không còn ngờ vực về thực tế che đậy dưới lời phỉnh gạt của Goldstein, sau đầu ông ta trên máy truyền hình tiến bước đội binh vô tận của quân đội Âu Á — liên tiếp hàng hàng người vạm vỡ với bộ mặt lầm lì của dân Á Châu đổ ra trên màn ảnh rồi biến đi để được thay thế bởi hàng hàng người khác y hệt. Tiếng giầy ống cồm cộp nặng nề nhịp nhàng của đoàn lính đệm cho tiếng be be của Goldstein.
Ba mươi giây trước khi Hận Thù bắt đầu, phân nửa cử tọa không dằn nổi lời than tức tối. Khuôn mặt cừu tự mãn trên màn ảnh và uy lực khủng khiếp của quân đội Âu Á đằng sau khích động quá sức chịu đựng: vả lại hình ảnh Goldstein hay ý nghĩ không thôi về ông ta tự động gây ra sự sợ hãi và tức giận. Ông ta là đối tượng của sự thù ghét thường hơn Âu Á hay Đông Á, vì khi Đại Dương giao chiến với cường quốc này, Đại Dương giảng hòa với cường quốc kia. Có điều lạ là mặc dù Goldstein bị ghét và khinh khi bởi mọi người, mặc dù ngày nào cả ngàn lần trên bục kệ, trên màn ảnh, trên sách báo, lý thuyết của ông ta cũng bị bác bỏ, đập nát, nhạo báng, vạch trần tính cách ngu xuẩn tồi tệ — mặc dù vậy, ảnh hưởng của ông ta không bao giờ giảm sút. Lúc nào cũng có kẻ dễ bị lừa sẵn sàng bị quyến rũ bởi ông ta. Không ngày nào là ngày Cảnh Sát Tư Tưởng không lột mặt nạ của gián điệp hay quân phá hoại hành động dưới sự điều khiển của ông ta. Ông là người chỉ huy một đại quân trong bóng tối, một mạng lưới mưu phản bí mật chuyên rình lật đổ chính quyền. Được biết tên tổ chức này là Hội Tình Thân. Người ta còn thì thầm về một cuốn sách ghê gớm tóm tắt mọi tà thuyết, do Goldstein là tác giả, được lưu truyền lén lút đây đó. Cuốn sách không có tên. Dân chúng nhắc tới sách, nếu có nhắc, thì gọi nó là quyển sách. Nhưng người ta chỉ biết những chuyện ấy qua lời đồn thôi. Hội Tình Thân cũng như quyển sách là một đề tài mà Đảng viên thường nào cũng tránh nhắc tới nếu tránh được.
Sang phút thứ hai Hận Thù biến thành mê sảng. Dân chúng nhảy lên nhảy xuống tại chỗ và ra sức hét để cố đè tiếng be be làm họ điên cuồng thốt ra từ màn ảnh. Mặt bà nhỏ bé tóc hung sáng hồng, môi bà mấp máy như cá mắc cạn. Ngay gương mặt O Brien cũng đỏ bừng. Ông ta ngồi thật ngay trên ghế, bộ ngực lực lưỡng phồng lên dẹp xuống như thể phải đương đầu với sức tấn công của sóng. Cô gái tóc đen đằng sau Winston bắt đầu kêu lên: "Đồ lợn ! Đồ lợn ! Đồ lợn !" và đột nhiên cầm một quyển tự vị Ngôn Mới ném vào màn ảnh. Cuốn sách đập vào mũi Goldstein và nảy ra. Tiếng nói tiếp tục vang khắc nghiệt. Trong một chốc sáng suốt Winston thấy mình đang hét cùng người khác và đá mạnh gót giầy vào thành ghế. Cái ghê rợn của Hai Phút Hận Thù không phải ở chỗ ai cũng phải đóng trò mà ở chỗ không sao tránh được sự tham gia. Nội ba mươi giây sau không ai cần phải đóng kịch nữa. Một cảm giác ngây ngất gớm ghiếc, sợ hãi lẫn thù oán, ham muốn giết người, hành hạ người, đập búa nát mặt người, hình như lan truyền như điện khắp khán giả, biến mỗi người bất kể ý chí họ thành một kẻ điên rồ nhăn nhó thét gào. Tuy nhiên sự cuồng nhiệt đó chỉ là một cảm xúc trừu tượng, gián tiếp, có thể xoay hướng từ đối tượng này sang đối tượng kia như ngọn lửa đèn rọi. Vậy nên có lúc nỗi căm hờn của Winston không hướng về Goldstein chút nào mà ngược lại chống Bác, Đảng và Cảnh Sát Tư Tưởng; và những lúc ấy tim anh đập cho người dị giáo cô độc bị nhạo báng trên màn ảnh, người canh giữ sự thật và lương tri trong một thế giới dối trá. Nhưng chỉ lát sau anh lại hòa đồng với người xung quanh anh, và những điều nói về Goldstein đối với anh lại đúng. Những lúc này sự thù ghét của anh đối với Bác biến thành thờ phụng, và Bác dường như vươn cao như một đấng bảo quốc vô địch không biết sợ hãi, vững như đá trước bầy rợ Á Châu, và Goldstein mặc dù cô độc không có kẻ giúp và bị nghi là không có thật, tựa như một phù thủy hung dữ có năng hiệu phá vỡ cơ cấu văn minh bằng riêng quyền lực của giọng nói ông ta.
Còn có lúc có thể nhờ hành vi tự nguyện xoay chuyển tùy ý nỗi hận thù. Đột nhiên, như người cố sức giứt mạnh đầu khỏi gối để thoát cơn ác mộng, Winston thành công trong sự chuyển oán hận sang cô gái tóc đen sau anh. Nhiều ảo giác sắc sảo tuyệt vời thoáng qua mắt anh. Anh quật cô ta đến chết với một chiếc gậy cao xu. Anh buộc cô ta trần truồng vào cột và bắn tên vào cô ta như thánh Sébastien. Anh hiếp cô ta và cắt cổ cô ta đúng lúc mê ly. Hơn bao giờ trước, anh hiểu tại sao anh ghét cô ta. Anh ghét cô vì cô trẻ đẹp và vô tính, vì anh muốn ngủ với cô nhưng không bao giờ làm được, vì quanh cái eo mềm dịu hình như đòi hỏi sự ôm ấp của cô, có sợi giây lưng đỏ tệ hại tượng trưng khiêu khích cho sự trinh tiết.
Cơn Hận Thù lên tới cực điểm. Tiếng nói của Goldstein thực sự trở thành tiếng be của con cừu và trong chốc lát mặt ông biến thành mặt cừu. Rồi cái mặt cừu tan thành hình một binh sĩ Âu Á to lớn dữ tợn, có vẻ như đang lao mình dội súng liên thanh, như muốn nhảy sổng khỏi màn ảnh khiến cho một số người ở hàng ghế đầu ưỡn ngực ra phía sau. Nhưng đồng thời với tiếng thở nhẹ nhõm của mọi người, hình ảnh thù địch tan thành gương mặt tóc đen râu đen đầy bình thản uy nghi bí mật và to lớn đến nỗi chiếm gần hết màn ảnh của Bác. Không ai nghe được Bác nói gì. Đó chỉ là vài lời khích lệ, loại lời thốt ra giữa tiếng ầm của chiến trận, không phân biệt được chữ nào, nhưng hễ thốt ra là khôi phục được niềm tin. Rồi gương mặt Bác biến mất thay vào đó là ba khẩu hiệu của Đảng viết bằng chữ cái đậm:
CHIẾN TRANH LÀ HÒA BÌNH
TỰ DO LÀ NÔ LỆ
DỐT NÁT LÀ SỨC MẠNH
Nhưng gương mặt Bác hình như lưu lại vài giây trên màn ảnh như thể tác động của nó trên mắt mọi người quá dai dẳng để bị tẩy đi tức thì. Người đàn bà tóc hung tung người vào lưng ghế trước. Vừa lên tiếng thì thầm nghe như "Đấng Cứu Thế của tôi", bà ta vừa giương cánh tay về phía màn ảnh. Rồi bà ta úp mặt vào bàn tay. Rõ ràng bà ta đang cầu nguyện.
Lúc ấy toàn nhóm người cất lên một tiếng hát trầm chậm chạp nhịp nhàng: Bác !... Bác !..., hát đi hát lại thật chậm chạp, lặng một hồi sau mỗi tiếng Bác — tiếng hát nặng nề, thì thầm, man dại kỳ lạ tuồng như nổi trên tiếng nện của chân không và tiếng đập của chiêng trống. Họ hát như vậy cũng được ba mươi giây. Đó là loại điệp khúc được nghe thấy trong những cơn xúc động tràn trề. Có phần nó là một bài ca tụng trí khôn ngoan và vẻ oai vệ của Bác, nhưng hơn nữa nó là một sự tự thôi miên, một sự cố ý dập tắt lương tâm bằng nhịp. Winston thấy lạnh xương sống. Trong Hai Phút Hận Thù anh không khỏi dự vào cơn mê sảng tập thể nhưng tiếng hát hạ nhân Bác !... Bác !... bao giờ cũng làm anh ghê tởm đầy mình. Cố nhiên anh hát với mọi người: không thể làm khác được. Ngụy trang tình cảm, kiểm soát sắc mặt để làm những điều mọi người khác làm là một phản ứng do bản năng. Nhưng trong khoảng vài giây ánh mắt của anh tưởng như có thể phản anh. Và chính trong khoảng ấy điều đáng kể xảy ra — nếu quả thật có xảy ra.
Trong giây lát anh bắt gặp mắt của O Brien. O Brien đã đứng dậy. Ông đã tháo kính và đang đặt nó lại bằng cử chỉ đặc biệt của ông ta. Nhưng có khoảnh khắc mắt hai người gặp nhau và trong khắc đó Winston biết — phải, anh biết — O Brien nghĩ hệt như anh. Một thông điệp rõ ràng đã được đưa qua. Y như hai tâm hồn họ đã mở ra để cho tư tưởng lưu thông từ người này sang người kia qua ánh mắt. "Tôi về phe anh". O Brien hình như nói vậy với anh. "Tôi biết rõ anh đang cảm thấy gì. Tôi biết hết về nỗi khinh khi, hận thù và ghê tởm của anh. Nhưng đừng lo, tôi ở bên anh !" Rồi mối liên cảm chớp nhoáng tan biến và gương mặt của O Brien lại khó đoán như gương mặt ai khác.
Chỉ có thế thôi, và chửa chi Winston không còn chắc chuyện đã xảy ra. Loại tình tiết ấy không bao giờ có hậu quả. Nó chỉ có uy lực duy trì trong anh niềm tin hay hy vọng rằng ngoài anh còn có người khác thù ghét Đảng. Ấy vậy mà có thể tin đồn về những cuộc đồng mưu rộng lớn là tin đúng — có thể Hội Tình Thân có thật ! Không thể chắc chắn Hội Tình Thân không phải là một huyền thoại mặc dù luôn luôn có những vụ bắt bớ, thú tội và hành quyết. Có ngày anh tin, có ngày anh không. Không có gì làm bằng, chỉ có những tia sáng chập chờn có thể có nhiều nghĩa hay không có nghĩa gì: mẩu câu nghe lỏm, chữ viết nguệch ngọac mờ ảo trên tường nhà xí — có lần có cả cử động nhẹ nơi bàn tay hai người lạ mặt lúc chạm trán nhau như thể họ ra ký hiệu để nhận ra nhau. Tất cả chỉ là ước đoán: chắc hẳn anh tưởng tượng mọi chuyện. Anh đã đi về ô phận của anh mà không nhìn lại O Brien. Ý nghĩ đeo đuổi sự tiếp xúc nhất thời với ông ta không mấy qua óc anh. Điều đó nguy hiểm không thể tưởng tượng được dù anh có biết phải hành động ra sao. Trong một hai giây hai người đã trao đổi một cái nhìn lập lờ, và thế là hết chuyện. Nhưng thế cũng là một sự kiện đáng nhớ trong cái đời sống cô đơn khép kín bó buộc của anh.
Winston ngồi thẳng dậy. Anh ợ một cái. Rượu gin dâng lên trong dạ dầy anh.
Mắt anh lại tập trung vào trang giấy. Anh khám phá ra anh vẫn viết trong khi anh quên mình mơ màng, tuy viết một cách máy móc. Chữ anh lại không còn khít và vụng về như trước. Bút anh đã thích thú lướt trên tờ giấy mịn, viết lên bằng chữ hoa lớn đẹp:
ĐẢ ĐẢO BÁC
ĐẢ ĐẢO BÁC
ĐẢ ĐẢO BÁC
cứ thế liên tiếp đầy một nửa trang.
Anh không khỏi cảm thấy lên cơn hoảng. Vậy là vô lý vì viết mấy dòng đặc biệt ấy không nguy hiểm hơn hành động khởi đầu khai trương nhật ký, nhưng trong một lúc anh toan xé mấy trang nhem nhuốc và bỏ cuộc luôn.
Song le anh không làm vậy vì anh biết làm thế vô ích. Anh có viết ĐẢ ĐẢO BÁC hay nén không viết cũng chẳng khác gì. Anh có tiếp tục nhật ký hay không tiếp tục cũng thế thôi. Cảnh Sát Tư Tưởng sẽ bắt anh hệt như vậy. Anh đã phạm — sẽ tiếp tục phạm, ngay nếu anh không bao giờ gạch bút trên giấy — tội trọng chính yếu chứa đựng mọi tội khác. Nó có tên là Tội Tư Tưởng. Tội tư tưởng không là một thứ có thể giấu mãi được. Anh có thể tránh thoát một thời gian, có khi hàng năm, nhưng trước sau thế nào chúng cũng bắt anh.
Bao giờ cũng vào đêm — các cuộc bắt bớ chuyên môn xảy ra ban đêm. Đang ngủ bỗng chồm dậy, bàn tay thô bạo lay vai, đèn rọi chói mắt, vòng mặt tàn nhẫn quanh giường. Phần đông trường hợp không được tòa xử và không có báo cáo về sự bắt bớ. Dân chúng biến mất, thế thôi, luôn luôn giữa đêm. Tên họ bị loại khỏi các sổ, các chứng vật về mọi hành động của họ bị hủy hết, đời sống của họ bị chối bỏ rồi quên lãng. Họ bị thanh trừng, trả về hư vô: theo danh từ thông dụng, họ bị hóa hơi.
Trong một lúc Winston gần như điên loạn. Anh bắt đầu vội vàng ngoáy viết:
Chúng sẽ bắn tôi tôi không sờn chúng sẽ bắn tôi vào gáy tôi không sờn đả đảo bác chúng luôn luôn bắn vào gáy người tôi không sờn đả đảo bác —
Anh ngồi thẳng lại trên ghế, hơi ngượng ngùng, và đặt bút xuống. Được một lát anh vụt nhỏm dậy. Có ai gõ ngoài cửa.
Đã rồi ! Anh ngồi thừ như chuột với hy vọng mỏng manh rằng kẻ nào đó đang gõ cửa sẽ bỏ đi sau một lần thử. Nhưng không, tiếng gõ tiếp tục. Nguy nhất là chần chừ. Tim anh đánh trống mạnh nhưng mặt anh nhờ thói quen chắc hẳn không lộ sắc. Anh đứng dậy nặng nề đi ra phía cửa.
Đặt tay trên quả đấm cửa, Winston sực thấy anh đã để mở quyển nhật ký trên bàn. Khắp trang giấy ĐẢ ĐẢO BÁC được viết lên trên, bằng chữ đủ lớn để được đọc nổi từ bên kia phòng. Thật là một việc làm ngu xuẩn không thể tưởng tượng được. Nhưng anh nhận thức rằng ngay trong cơn kinh hoảng anh đã không muốn đóng vở lại vì sợ mực còn ướt làm nhòe tờ giấy mịn.
Anh nín thở rồi mở cửa. Tức thì một luồng khí nhẹ nhõm thông khắp mình anh. Đứng ngoài cửa là một người đàn bà có dáng mệt mỏi, nhạt nhẽo, với mớ tóc rối tung và bộ mặt nhăn nheo.
"A, đồng chí", bà ta lên tiếng bằng một giọng sầu thảm than vãn, "tôi như nghe thấy đồng chí về. Đồng chí có thể qua nhà chúng tôi xem hộ cái bồn rửa bát trong bếp chúng tôi được không ? Nó bị tắc và —"
Đó là bà Parsons, vợ một người láng giềng cùng tầng với anh. ("Bà" là một chữ bị Đảng tẩy chay — phải gọi mọi người là "đồng chí" — nhưng đối với một số đàn bà dùng chữ bà là một điều tự nhiên.) Bà khoảng ba mươi tuổi nhưng trông già hơn nhiều. Cảm tưởng như có bụi trên mặt bà ta. Winston theo bà ta dọc hành lang. Những chuyện sửa chữa tài tử này gần như là việc bực dọc hàng ngày. Các căn Nhà Chiến Thắng đã cũ, được xây vào khoảng 1930, nay đang đổ từng mảnh. Thạch cao tróc luôn nơi trần và tường, ống dẫn vỡ nứt mỗi khi nước đông cứng, mái bục mỗi khi tuyết rơi, hệ thống sưởi thông thường chạy nửa sức nếu không bị đóng hẳn vì lý do cần kiệm. Những sự tu sửa, trừ loại làm lấy được, phải được phép của các ủy ban xa xăm có thể để cả hai năm trời mới xét đến một việc như thay thế một ô kính cửa sổ.
" Dĩ nhiên chỉ tại Tom không có nhà ", bà Parsons mơ hồ nói.
Căn nhà của gia đình Parsons rộng hơn căn nhà của Winston và cũng xoàng xĩnh nhưng một cách khác. Vật gì cũng có vẻ bị giẫm đập như thể toàn căn nhà đã được một con thú dữ to lớn thăm viếng. Dụng cụ thể thao — những gậy khúc côn cầu, những găng quyền Anh, một quả bóng đá cầu xẹp, một chiếc quần cộc lộn ngược đẫm mồ hôi — lê khắp sàn nhà, trên bàn thì bầy một đống đĩa bẩn với vở tai chó. Trên tường là cờ đỏ của Liên Đoàn Thanh Niên và Đoàn Gián Điệp cùng một bích chương lớn khổ hình dung Bác. Có mùi bắp cải luộc thường lệ, chung cho toàn cư xá, nhưng nó xông lẫn một mùi mồ hôi nồng — thoạt hít thấy liền, khó bảo tại sao — mồ hôi của một người hiện vắng mặt. Trong một phòng bên có ai lấy lược với giấy vệ sinh gắng thổi theo nhịp quân nhạc vẫn phát từ máy truyền hình.
"Tụi trẻ đó", bà Parsons vừa nói vừa nhìn với phần sợ sệt về phía cửa. "Cả ngày nay chúng không ra khỏi nhà. Vậy nên — "
Bà ta có tật ngắt câu nửa chừng. Bồn rửa bát trong bếp ngập tận bờ bởi một thứ nước xanh hôi mùi cải hơn bao giờ hết. Winston quỳ xuống ngắm xem cái khớp cạnh của ống nước. Anh ghét dùng tay, và ghét cúi người vì cử động này làm anh lên cơn ho. Bà Parsons bất lực nhìn anh.
"Dĩ nhiên nếu Tom có nhà anh ấy đã sửa được liền", bà ta nói. "Anh ấy thích loại việc này. Anh Tom vốn là khéo tay."
Parsons là đồng nghiệp của Winston tại Bộ Sự Thật. Anh ta là một người mập mạp nhưng hiếu động, có tính ngơ ngẩn đẫn đờ, đúng một khối nhiệt tình ngu xuẩn — cái giống con chiên sùng tín không bao giờ đặt vấn đề, có nhiều hiệu lực giữ vững Đảng hơn cả Cảnh Sát Tư Tưởng. Năm nay ba mươi nhăm tuổi, anh mới bị gạt bất đắc dĩ khỏi Liên Đoàn Thanh Niên, và trước khi được thăng vào Đoàn Thanh Niên anh đã chạy chọt để được ở lại quá hạn một năm tại Đoàn Gián Điệp. Tại Bộ anh giữ một chân thuộc hạ không cần trí thông minh, nhưng mặt khác anh là một nhân vật lãnh đạo trong Ủy Ban Thể Thao và các ủy ban chuyên tổ chức các cuộc dạo chơi tập thể, biểu tình tự động, chiến dịch tiết kiệm, và các hoạt động tình nguyện nói chung. Giữa hai hơi thuốc lá, anh ta có thể kể với môt niềm hãnh diện bình thản rằng trong bốn năm qua,chiều nào anh cũng có mặt tại Trung Tâm Cộng Đồng. Một mùi mồ hôi nồng nặc, làm bằng chứng cho cuộc đời hăng say của anh, theo anh khắp nơi, vẫn còn phẳng phất sau khi anh đi khỏi.
"Bà có chìa vặn không ?" Winston vừa hỏi vừa xoay cái đai ốc nơi khớp cạnh.
"Chìa vặn", bà Parsons lập tức nhũn người lại, "tôi không biết, tôi không chắc. Có lẽ tụi trẻ —"
Tiếng giầy ống cồm cộp và tiếng kèn thổi trên lược nổi lên cùng lúc tụi trẻ ùa vào phòng khách. Bà Parsons mang chìa vặn ra. Winston cho nước chảy đi hết rồi gơm gớm lôi ra cụm tóc đã làm tắc ống. Anh rửa tay dưới nước lạnh cho sạch được chừng nào hay chừng đó, rồi quay trở ra phòng khách.
"Giơ tay lên !", một giọng man rợ hét.
Một thằng bé độ chín tuội, đẹp trai nhưng có vẻ cứng đầu, chồm lên sau bàn dọa anh với một khẩu súng lục trò chơi tự động, trong khi một đứa bé gái nhỏ hơn cũng làm một cử chỉ tương tự với một mẩu gỗ. Cả hai đều mặc quần cộc xanh, áo sơ mi xám với khăn quàng đỏ, tức y phục của Đoàn Gián Điệp. Winston giơ tay trên đầu, nhưng khó chịu trong lòng vì bộ điệu thằng bé đanh ác đến nỗi không còn hẳn tính cách trò đùa.
"Ông là một quân phản bội !", thằng bé hét. "Ông là một tội phạm tư tưởng ! Ông là một tên gián điệp Âu Á ! Tôi sẽ bắn ông, tôi sẽ hóa hơi ông, tôi sẽ đầy ông đi mỏ muối !"
Bỗng cả hai vừa nhảy quanh anh vừa hò "Đồ phản bội !" và "Đồ tội phạm tư tưởng !", đứa bé gái bắt trước anh nó từng cử động một. Cái trò đáng sợ làm sao, như trò nhảy nhót của hổ con sắp lớn và sắp ăn thịt người. Trong mắt thằng bé hiện ra một vẻ dữ tợn tính toán, một lòng hiển nhiên muốn đánh đá Winston và một ý thức sắp đủ lớn để thực hiện ý mình. Cũng hay là nó không cầm một khẩu súng thật, Winston nghĩ vậy.
Mắt bà Parsons bồn chồn liếc qua liếc lại Winston và các con. Dưới ánh sáng rõ hơn của phòng khách anh nhận thấy quả thực có bụi trên nét nhăn trên mặt bà.
"Chúng ồn ào thiệt", bà ta nói. "Cũng tại chúng không được đi coi treo cổ đó. Tôi quá bận rộn không dẫn tụi nó đi được, Tom thì không đi làm về kịp."
"Cớ sao tụi con không được đi coi treo cổ ?", thằng bé lớn tiếng gào.
"Coi treo cổ đi ! Coi treo cổ đi !", đứa bé gái vừa nhảy quanh vừa hát.
Winston sực nhớ có vài tù binh Âu Á, phạm tội chiến tranh, sẽ bị treo cổ chiều nay. Cảnh này xảy ra khoảng mỗi tháng một lần, và là một trò diễn được dân ưa chuộng. Trẻ con luôn luôn vòi vĩnh để được đi xem. Winston cáo từ bà Parsons ra cửa. Anh chưa đi được sáu bước trong hành lang thì một vật đập vào gáy anh làm anh đau điếng người. Cỡ chừng anh bị xuyên bởi một sợi giây thép nung đỏ. Anh quay đầu lại vừa kịp thấy bà Parsons đẩy thằng con trai vào nhà đương lúc nó cất vào túi một chiếc ná.
"Goldstein !", thằng bé la lên khi cánh cửa khép lại sau nó. Nhưng điều làm Winston xúc động nhất là cái vẻ sợ hãi bất lực trên gương mặt xam xám của người đàn bà.
Trở về căn nhà của mình, anh đi nhanh qua máy truyền hình và ngồi xuống bàn trở lại, tay vẫn xoa cổ. Nhạc từ máy truyền hình đã dứt. Thay vào đó, một giọng nhà binh hống hách đọc to một cách thích thú hung tợn một bảng liệt kê các vũ khí trên chiếc Pháo Đài Nổi mới thả neo giữa Ích Lan và đảo Faroe. Với lũ con như vậy, anh nghĩ, người đàn bà ủ rũ kia chắc sống một chuỗi đời khiếp đảm. Một hai năm nữa, chúng sẽ đêm ngày rình bà xem có triệu chứng bất chính thống nào không. Gần như trẻ con nào thời buổi này cũng đáng ớn. Điều tồi tệ nhất là qua các tổ chức như Đoàn Gián Điệp chúng triệt để biến thành bầy trẻ dã man bất trị, nhưng thế lại không hề gây trong chúng một xu hướng nào đối nghịch với kỷ luật của Đảng. Ngược lại, chúng mê Đảng và mọi sự liên quan tới Đảng. Bài ca, đám rước, cờ xí, cuộc dạo chơi chung, buổi dượt súng giả, phiên hò hét khẩu hiệu, việc tôn thờ Bác — toàn là thứ trò chơi vinh quang đối với chúng. Mọi tính hung dữ của chúng được hướng ra ngoài về phía kẻ thù Nhà Nước, chống ngoại nhân, quân phản bội, phường phá hoại, lũ tội phạm tư tưởng. Gần như thường tình, dân ngoài ba mươi sợ chính con mình. Mà họ sợ là phải, vì khó có tuần trong Thời Báo không có mục thuật lại chuyện một tên chỉ điểm oắt con — danh từ thông dụng là "anh hùng trẻ tuổi" — nghe lỏm được một lời phê phán tai hại rồi tố cáo cha mẹ với Cảnh Sát Tư Tưởng.
Cảm giác nóng bỏng của đạn ná đã tan. Winston kém hăng hái khi nhấc bút, tự vấn có thêm điều gì đáng ghi trong nhật ký không. Bỗng dưng anh lại bắt đầu nghĩ đến O Brien.
Mấy năm trước — bao lâu nhỉ ? Bẩy năm có lẽ — anh có nằm mơ thấy mình đi qua một căn phòng tối đen. Có người ngồi một mé bên nói với anh khi anh bước ngang y: "Chúng ta sẽ gặp nhau tại một nơi không có bóng tối." Câu nói bình thản, gần như vô định — là một sự ghi nhận, không phải là một mệnh lệnh. Anh đã tiếp tục tiến bước không dừng lại. Điều lạ là lúc đó, trong giấc mơ, mấy lời ấy không làm anh xúc động nhiều. Chỉ sau này và dần dần anh mới thấy nó có ý nghĩa. Anh không nhớ trước hay sau giấc mơ ấy anh gặp O Brien lần thứ nhất, và anh cũng không nhớ khi nào anh nhận ra giọng nói trong mơ chính là giọng O Brien. Nhưng sao chăng nữa, sự đồng nhất hóa đó có thật. Đúng O Brien đã nói vọng từ bóng tối với anh.
Winston không bao giờ có thể chắc — ngay sau ánh mắt hồi sáng cũng không thể chắc được — O Brien là bạn hay thù. Mà điều đó cũng không thành vấn đề cho lắm. Có một mối giao cảm giữa hai người, quan trọng hơn tình thương hay tình đồng đội. "Chúng ta sẽ gặp nhau tại một nơi không có bóng tối", ông ta đã nói vậy. Winston không hiểu thế nghĩa là gì, chỉ tin rằng bằng cách này hay cách khác điều đó sẽ thành sự thật.
Tiếng nói từ máy truyền hình tạm ngưng. Một tiếng kèn gọi trong đẹp nổi vang trong không khí tù hãm. Tiếng nói khàn khàn nối tiếp:
"Chú ý ! Xin chú ý ! Một điện tín từ mặt trận Malabar vừa tới nơi. Quân ta tại Nam Ấn Độ đã gặt được một thắng lợi vẻ vang. Tôi được phép báo rằng chiến công đó có thể đưa chiến tranh gần đến hồi kết thúc. Đây là điện tín —"
Tin xấu sắp tới đây, Winston nghĩ vậy. Và chắc chắn, sau một bài tường thuật sống động về sự tiêu diệt quân đội Âu Á với những con số tù binh và binh tử trận kinh hồn, đến lượt bản thông cáo kể từ sau khẩu phần xúc cô la sẽ bị giảm từ 30 xuống 20 gam.
Winston lại ợ. Rượu gin đã tan, để lại một cảm giác ép xẹp. Máy truyền hình — có thể để mừng cuộc thắng trận, có thể để dìm nỗi tiếc phần xúc cô la bị mất — tung ra bài "Đại Dương, đây là của Người". Theo lẽ, ai cũng phải đứng nghiêm. Nhưng trong vị trí hiện tại anh là người vô hình.
"Đại Dương, đây là của Người" nhường phiên cho một bản nhạc nhẹ. Winston đi ra cửa sổ, quay lưng về máy truyền hình. Trời vẫn sáng lạnh. Đâu đó đằng xa một trái bom lửa gầm nổ dội vang. Hiện khoảng hai ba chục trái bom rơi xuống Luân Đôn mỗi tuần.
Dưới phố gió đập qua đập lại tấm bích chương bị rách, làm chữ ANH XÃ lúc ẩn lúc hiện. Anh Xã. Những nguyên lý thiêng liêng của Anh Xã. Ngôn mới, ý đôi, tính đổi thay của quá khứ. Winston cảm như mình đang lang thang trong rừng dưới đáy biển, lạc lõng trong một thế giới quái gở trong đó anh là một quái vật. Anh cô độc. Quá khứ đã chết, tương lai không tưởng tượng được. Chắc gì có người sống cùng phe với anh ? Và làm sao biết được sự thống trị của Đảng sẽ không tồn tại mãi mãi ? Như một lời đáp, ba khẩu hiệu trên mặt tường trắng của Bộ Sự Thật hiện ra trước mắt anh:
CHIẾN TRANH LÀ HÒA BÌNH
TỰ DO LÀ NÔ LỆ
DỐT NÁT LÀ SỨC MẠNH
Anh rút ra từ túi một đồng 25 xu. Trên mặt tiền cũng vậy, có khắc một bên ba khẩu hiệu kia bằng chữ thanh nhỏ, một bên dung mạo Bác. Cả từ đồng tiền cặp mắt đuổi theo bạn. Trên tiền, trên tem, trên bìa sách, trên cờ xí, trên bích chương, và trên vỏ hộp thuốc — khắp nơi. Luôn luôn cặp mắt nhìn bạn và giọng nói bao trùm bạn. Ngủ hay thức, làm việc hay ăn uống, trong nhà hay ngoài nhà, trong bồn tắm hay trong giường — không sao thoát nổi. Không có gì là của riêng bạn ngoại trừ vài phân vuông trong sọ bạn.
Mặt trời đã quay, và mấy ngàn cửa sổ của Bộ Sự Thật, không còn ánh sáng chiếu vào, có vẻ hung dữ như lỗ châu mai của một pháo đài. Tim Winston lịm đi trước ụ hình tháp đồ sộ. Nó quá lớn, không thể đập đổ nó được. Một ngàn trái bom lửa cũng không phá nổi nó. Anh lại tự hỏi anh viết nhật ký cho ai. Cho tương lai, cho quá khứ — cho một thời chỉ có trong tưởng tượng. Và trước mặt anh là viễn tượng không phải của sự chết mà của sự hủy diệt. Cuốn nhật ký sẽ bị hủy ra tro và anh sẽ bị hủy thành hơi. Chỉ Cảnh Sát Tư Tưởng sẽ đọc được những điều anh viết trước khi gạt chúng khỏi cuộc đời và ký ức. Làm sao kêu gọi được tương lai, khi không tồn tại một vết tích gì của mình, ngay cả một chữ vô danh ngoạch trên một mẩu giấy ?
Máy truyền hình điểm mười bốn giờ. Nội mười phút nữa anh phải rời nhà. Mười bốn giờ rưỡi anh phải làm việc trở lại.
Lạ thay, tiếng chuông giờ hình như truyền niềm tin mới cho anh. Anh là một con ma cô độc thốt ra một sự thật chẳng ai bao giờ nghe được. Nhưng anh còn phát biểu được nó, đường giây liên tục âm thầm không bị gián đoạn. Duy trì di sản của nhân loại không phải là khiến người khác nghe mình, mà là giữ sao cho mình được lành mạnh. Anh trở về bàn, chấm mực viết:
Gửi cho tương lai hay cho quá khứ, cho một thời khi tư tưởng được tự do, khi con người khác biệt nhau và không sống cô đơn — cho một thời có sự thật, trong đó việc đã làm không thể bị gạt bỏ.
Từ thời đồng nhất, từ thời cô độc, từ thời Bác, từ thời ý đôi — xin chào!
Anh đã chết rồi, anh ngẫm vậy. Dường như đối với anh, chỉ bây giờ, khi anh đã bắt đầu diễn tả được ý nghĩ của anh, anh mới thực sự quyết tâm. Hậu quả của hành động nào cũng được bao gồm trong chính nó. Anh viết:
Tội tư tưởng không dẫn tới chết; tội tư tưởng LÀ chết.
Giờ đây anh đã nhận ra mình là người chết, điều quan trọng đâm thành giữ mình sao cho sống thật lâu. Hai ngón tay phải của anh lấm mực. Đây đúng là tiểu tiết có thể phản anh. Một dân tò mò sốt sắng ở Bộ (hẳn là phụ nữ: kiểu bà nhỏ bé tóc hung hay cô gái tóc đen ở Cục Truyện) có thể tự hỏi tại sao anh viết trong giờ ăn cơm, tại sao anh dùng bút lỗi thời, anh viết gì đó— rồi đến khu hữu trách mách bóng gió về anh. Anh vào nhà tắm cẩn thận cọ sạch hết mực với miếng xà phòng thô đen nâu làm rát da như thể giấy ráp nhưng nhờ thế rất hợp với mục tiêu của anh.
Anh cất nhật ký trong ngăn kéo. Lo giấu nó vô ích, nhưng ít ra cũng đánh chắc được xem nó có bị khám phá ra chưa ? Để một sợi tóc nơi mấy trang cuối quá lộ liễu. Với đầu ngón tay anh nhặt một hạt bụi trắng dễ nhận và để nó vào một góc bìa, ở chỗ nó sẽ phải bay mất nếu quyển vở bị xê dịch.
Winston đang nằm mơ thấy mẹ.
Theo anh nghĩ, khi mẹ anh mất, anh khoảng mười, mười một tuổi. Bà là một người cao lớn, đẹp như tượng, khá lặng lẽ, có cử chỉ chậm chạp và một mái tóc đẹp tuyệt vời. Về cha, anh nhớ mơ hồ hơn như một người tóc đen gầy gò, chuyên mặc quần áo màu sậm thẳng nếp (Winston đặc biệt nhớ cái đế giầy rất mỏng của cha), và đeo kính. Chắc hẳn cả hai đã bị dìm ngập trong một cuộc đại thanh trừ đầu của những năm năm mươi.
Hiện mẹ anh đang ngồi tại một nơi xa xôi dưới anh, tay bồng em gái anh. Anh không nhớ gì về em gái ngoại trừ sự nó là một đứa nhỏ yếu đuối luôn luôn im lặng với cặp mắt to chăm chú. Cả hai ngước mắt nhìn anh. Hai người ở một nơi nào đó trong lòng đất — đáy giếng chẳng hạn, hay một nấm mộ sâu — một nơi không những đã xa dưới chân anh, lại còn chìm xuống xa dần. Hai người ở trong khách sảnh một con tàu đắm, ngước mắt nhìn anh qua nước đặc dần. Hãy còn không khí trong khách sảnh nên cả hai còn nhìn thấy anh và anh còn nhìn thấy họ, nhưng đồng thời hai người chìm sâu mãi trong nước xanh chốc lát sẽ vĩnh viễn che đậy họ khỏi mắt anh. Anh ở ngoài trong ánh sáng và không khí trong khi mẹ và em anh bị hút xuống cõi chết, hai người ở dưới kia bởi anh ở trên này. Anh biết thế và mẹ cùng em anh biết thế, và anh có thể đọc sự hiểu biết đó trên mặt hai người. Không có sự trách cứ trên mặt hay trong tâm của mẹ và em anh, chỉ có sự hiểu biết rằng hai người phải chết để cho anh sống, rằng điều đó thuộc trật tự sự vật không thể tránh được.
Anh không thể nhớ việc gì đã xảy ra, nhưng trong giấc mơ anh hiểu rằng sao đó mẹ và em gái anh đã hy sinh đời sống của mình cho anh. Đây là một giấc mơ thuộc loại tuy giữ phối cảnh đặc biệt của giấc mơ vẫn tiếp tục sinh hoạt của trí tuệ, khiến những sự kiện và ý nghĩ hiện trong giấc mơ vẫn còn hình như mới mẻ và có giá trị khi người nằm mơ tỉnh giấc. Điều bỗng kích động Winston lúc này là sự cái chết của mẹ anh, gần ba mươi năm về trước, bi thảm và đau buồn không thể bao giờ còn thế được. Cảnh bi thảm, theo nhận xét của anh, thuộc thời xưa cũ, một thời còn có tình riêng, tình yêu và tình bạn, khi mọi người trong một gia đình sát cánh bên nhau không cần biết đến lý do. Lòng tưởng nhớ mẹ xâu xé tim anh, bởi bà mất đi đương lúc thương yêu anh, khi anh còn quá nhỏ và ích kỷ để yêu lại bà, và bởi vì sau đó, anh không nhớ ra sao, bà đã hy sinh đời bà cho một quan niệm trung thực cá nhân bất di bất dịch. Những sự thể này, như anh hiểu, không thể xảy ngày nay. Ngày nay có sợ hãi, có hận thù, có đau đớn, nhưng không có phẩm cách trong cảm xúc, không có những đau buồn sâu đậm hay phức tạp. Mọi điều này anh hình như thấy trong cặp mắt to của mẹ và em gái anh, đang ngước nhìn anh qua làn nước xanh hàng trăm sải dưới sâu, và đang chìm xuống dần.
Đột nhiên anh đứng trên một bãi cỏ ngắn mềm vào một buổi chiều hạ khi ánh dương tà chiếu vàng mặt đất. Quang cảnh anh đang nhìn trở đi trở lại trong những giấc mơ của anh, thường xuyên đến nỗi anh không bao giờ chắc hẳn anh có từng thấy nó ngoài đời hay không. Những khi tỉnh nghĩ tới nó anh đặt tên nó là Xứ Vàng. Đó là một bãi đồng cỏ lâu đời, bị thỏ gặm nhấm, xuyên qua bởi một con đường mòn, đây đó nhô lên một ổ chuột chũi. Tại một bờ rào bên kia cánh đồng, nhánh cây du đu đưa dưới gió nhẹ, khuấy lá thành mớ dày đặc như tóc đàn bà. Ở đâu gần đó, tuy ngoài tầm mắt, có một dòng suối trong veo chảy chậm, tới dưới các cây liễu đọng lại thành vũng trong đó cá bạch bơi lội.
Cô gái tóc đen băng qua cánh đồng về phía cây liễu. Cơ hồ chỉ bằng một động tác, cô ta xé toạc quần áo rồi văng nó xuống bên một cách khinh thường. Thân hình cô ta trắng mịn nhưng không gợi tình dục nào nơi anh, anh còn hầu như không thèm ngắm cô ta. Cảm giác tràn ngập anh lúc đó là lòng hâm mộ cử chỉ ném văng quần áo của cô. Vẻ duyên dáng lờ lững của cử chỉ đó hình như tiêu diệt cả một văn hóa, cả một hệ thống tư tưởng, làm như Bác, Đảng và Cảnh Sát Tư Tưởng có thể bị quẹt vào cõi hư vô bởi một cái phất tay tuyệt đẹp. Đó cũng là một cử chỉ thuộc thời xa xưa. Winston tỉnh dậy với chữ "Shakespeare" trên môi.
Máy truyền hình phát ra một tiếng còi điếc tai kéo dài ba mươi giây. Đã không trăm bẩy nhăm, giờ ngủ dậy của nhân viên các sở. Winston nhoai ra khỏi giường — trần truồng, vì một đảng viên Đảng Ngoài chỉ được lĩnh ba ngàn phiếu quần áo một năm, mà một bộ áo ngủ tốn sáu trăm phiếu — và vơ lấy một chiếc áo gi lê tồi tàn với một chiếc quần cộc vắt ngang trên ghế.Chương trình Chấn Thể sắp bắt đầu. Lát sau một cơn ho mãnh liệt thường chụp lấy anh mỗi khi anh mới tỉnh giấc làm anh gấp hai người lại. Nó rút hết khí khỏi ngực anh hết trọn đến nỗi anh phải nằm ngả lưng hít kỹ một hồi mới thở lại được. Tĩnh mạch anh phồng lên vì cơn ho làm anh tổn sức, và chứng loét giãn tĩnh mạch bắt đầu làm anh ngứa.
"Đoàn ba mươi đến bốn mươi !", một giọng đàn bà the thé nổi lên. "Đoàn ba mươi đến bốn mươi ! Xin ra chỗ đứng. Lứa từ ba mươi đến bốn mươi !"
Winston nhảy ra đằng trước máy truyền hình trên đó đã xuất hiện một thiếu phụ gầy gò nhưng vạm vỡ, mặc áo lót rộng và đi giầy thể thao.
"Gấp duỗi cánh tay lại !" bà ta hô. "Làm theo tôi ! Một, hai, ba, bốn ! Một, hai, ba, bốn ! Nào nữa, các đồng chí, hăng lên một chút chứ !Một, hai, ba, bốn ! Một, hai, ba, bốn !..."
Nỗi đau đớn do cơn ho chưa xóa hết nổi khỏi óc anh ấn tượng của giấc mơ, và cử động thể dục nhịp nhàng như thể phục hồi ấn tượng đó. Trong khi anh máy móc giơ tay ngược xuôi cùng đeo trên mặt nét nghiêm vui được coi là thích hợp với giờ Thể Chấn, anh gắng hướng tâm về thời thơ ấu xa xưa mù mịt của anh. Cực kỳ khó. Mọi sự trước những năm cuối thời năm mươi đều đã phai nhạt. Khi không có ngoại chuẩn làm đối chiếu, ngay đường đời của chính mình cũng mất phần minh bạch. Bạn nhớ nhiều sự kiện quan trọng có thể chẳng hề xảy ra, bạn nhớ chi tiết của nhiều sự việc nhưng chẳng sao bắt lại được bầu không khí quanh chúng, và có những chuỗi thời gian dài rỗng tuếch không thể gắn gì vào được. Thời đó cái gì cũng khác. Ngay tên các xứ và hình thể các xứ trên bản đồ cũng khác. Không Phận Một, chẳng hạn, hồi đó không tên là vậy: Nó được gọi là Anh quốc hay Britain, mặc dầu Luân Đôn, anh chắc chắn vậy, vẫn luôn luôn được kêu là Luân Đôn. Winston tuyệt nhiên không thể nhớ ra thời nước anh không có chiến tranh, nhưng rõ ràng hồi anh còn nhỏ có một thời kỳ hòa bình lâu dài vì một kỷ niệm xa xưa nhất của anh là một vụ phi cơ oanh tạc làm mọi người sửng sốt. Có lẽ đó là lần bom nguyên tử rơi xuống Colchester. Anh không nhớ chính vụ oanh tạc, nhưng anh nhớ rõ bàn tay của cha anh nắm lấy tay anh đồng thời hai cha con chạy nhanh xuống, xuống, xuống mãi tận một vực sâu hoẳm dưới lòng đất, quanh quanh một chiếc cầu thang xoáy rung rinh dưới chân anh và làm anh mỏi cẳng đến nỗi anh mếu máo khiến cha anh phải dừng chân nghỉ. Mẹ anh theo xa sau với dáng điệu chậm chạp như chiêm bao của bà. Bà ẵm em gái sơ sinh của anh — hay có thể bà chỉ ôm một đống khăn giường: anh không chắc lúc ấy em gái anh đã ra đời chưa. Cuối cùng gia đình anh đổ tới một nơi ồn ào đông người, một trạm xe điện ngầm theo anh hiểu.
Nơi đây dân chúng nào ngồi khắp sàn đá lát, nào ngồi sát nhau thành tụm, người nọ trên lòng người kia trên ghế dài sắt. Winston và cha mẹ kiếm được chỗ ngồi trên sàn đất, và gần họ có hai ông bà già ngồi sát nách nhau trên ghế sắt. Ông già mặc một bộ quần áo sẫm chỉnh tề và đội một chiếc mũ dạ đen nghiêng về phía sau mái tóc bạc phơ; mặt ông ta đỏ ngầu và cặp mắt xanh của ông đầy nước mắt. Ông ta hôi mùi rượu gin. Hình như rượu toát ra từ da thịt ông thay thế cho mồ hôi, và có thể tưởng tượng rằng nước mắt đang chảy trên mặt ông là rượu gin nguyên chất. Nhưng dù ông hơi say, ông quả đau đớn vì một nỗi buồn thành thực không thể chịu đựng nổi. Winston khờ khạo hiểu rằng một chuyện ghê gớm, một chuyện không thể tha thứ được, một chuyện vô phương cứu vãn đã xảy ra. Mà hình như anh hiểu chuyện đó là gì. Một người được ông già yêu thương — có lẽ một cháu bé gái — đã bị giết. Cứ năm phút, ông già lại nhắc lại:
"Mình không nên tin tưởng chúng. Tôi từng nói vậy, phải không Bà ? Tin chúng là thế đó. Tôi vẫn nói vậy. Mình không nên tin cái giống đó."
Nhưng cái giống không đáng tin là giống gì thì Winston hiện không nhớ ra.
Từ hồi đó, chiến tranh gần như liên tiếp, mặc dầu, nói cho đúng, không phải lúc nào cũng một thứ chiến tranh. Nhiều tháng, khi anh còn nhỏ, có những cuộc giao tranh hỗn tạp trong đường phố Luân Đôn, vài trận anh nhớ như in. Nhưng xét lại lịch sử của cả thời đó xem ai đánh ai, đánh vào lúc nào, hoàn toàn không thể được, vì không có tài liệu viết cũng như lời nói nhắc tới một sự tích khác hiện tình. Ví như ngày nay, vào năm 1984 (nếu quả là 1984), Đại Dương tranh chiến với Âu Á và giao kết với Đông Á. Trong các phát ngôn công cộng hay riêng tư không bao giờ có sự chấp nhận rằng có thời ba cường quốc liên kết lối khác. Thật ra, như Winston biết rõ, chỉ mới bốn năm trước Đại Dương đánh nhau với Đông Á và liên minh với Âu Á. Nhưng đó chỉ là mảnh hiểu biết vụng trộm ngẫu nhiên đến với anh vì trí nhớ anh không hoàn toàn bị kiềm chế. Chính thức thì sự thay đổi đồng minh không hề xảy ra. Đại Dương đang giao chiến với Âu Á: vậy là Đại Dương bao giờ cũng đánh nhau với Âu Á. Kẻ thù đương thời bao giờ cũng bị tả như quân ác tuyệt đối, cho nên không thể có một sự giao kết với họ trong quá khứ hoặc tương lai.
Điều hãi hùng, anh nghĩ vậy lần thứ mười ngàn trong khi anh khó nhọc ưỡn vai về phía sau (tay chống háng, ai nấy xoay người từ eo trở lên, một cử động được coi là tốt cho bắp thịt lưng) — điều hãi hùng là có thể mọi sự đó là sự thật. Nếu Đảng có thể chỉ tay về quá khứ mà bảo về sự kiện này kia nó không hề xảy ra, điều đó chẳng đáng sợ hơn cả sự tra tấn hay cái chết ư ?
Đảng bảo rằng Đại Đương không bao giờ liên minh với Âu Á. Anh, Winston, biết rằng Đại Dương đã liên kết với Âu Á mới bốn năm trước. Nhưng sự hiểu biết này do đâu mà có ? Chỉ trong tâm thức của riêng anh, mà tâm thức anh thế nào rồi cũng bị tiêu diệt. Và nếu mọi người khác chấp nhận lời nói dối do Đảng áp đặt — nếu mọi tài liệu ghi hệt nhau — thì điều man trá đi vào lịch sử và biến thành sự thật. Theo khẩu hiệu của Đảng " Kẻ nào kiềm chế được quá khứ, kẻ đó kiểm soát được tương lai: kẻ nào kiểm soát được hiện tại, kẻ đó kiềm chế được quá khứ ". Tuy nhiên quá khứ, mặc dầu bản năng dễ biến đổi, chưa bao giờ bị ngụy tạo. Bất cứ điều gì hiện nay được coi là thật vĩnh viễn và vĩnh viễn thật. Hết sức giản dị. Chỉ cần không ngưng áp chế ký ức bạn. Thế gọi là "Kiểm soát thực tế": Ngôn Mới là "ý đôi".
" Nghỉ !" Nữ huấn luyện viên hô một cách vui vẻ hơn một chút.
Winston buông thõng tay xuống và chậm chạp hít thở đầy lồng ngực. Óc anh lén vào thế giới ngoắt nghéo của ý đôi. Vừa biết vừa không biết, ý thức sự thật trong khi thận trọng đặt điều, giữ cùng một lúc hai quan điểm hủy loại lẫn nhau, biết rằng hai quan điểm đó trái ngược nhau mà cứ tin cả hai, dùng luận lý chống lại luận lý, bác bỏ luân lý đồng thời dựa vào luân lý, tin rằng nền dân chủ không thể có được nhưng cho là Đảng bảo vệ dân chủ, quên bất cứ điều gì cần quên, rồi kéo lại điều đó trở về ký ức khi nào cần đến, rồi lại vội vàng quên nó ngay: và trên hết áp dụng quá trình ấy cho chính quá trình. Tinh tế đến thế là tột độ: dẫn dụ một cách ý thức sự vô ý thức, rồi lại không ý thức hành động tự thôi miên vừa rồi. Ngay muốn hiểu biết danh từ "ý đôi" phải đồng thời sử dụng ý đôi.
Nữ huấn luyện viên lại kêu gọi mọi người chú ý: "Và bây giờ xem ai sờ được ngón chân nào !" bà ta hăng say nói. "Xin các đồng chí thẳng người từ hông trở lên. Một - hai ! Một - hai !..."
Winston ghét vận động này, nó làm anh đau buốt từ gót tới mông và thường tận cùng làm anh lên cơn ho. Những suy tưởng của anh mất đi phần dễ chịu. Quá khứ, theo anh nghĩ, không chỉ bị ngụy tạo mà còn bị hủy diệt. Bởi làm sao xác định được ngay sự kiện hiển nhiên nhất nếu không có gì làm chứng ngoài ký ức của riêng mình. Anh cố nhớ anh nghe nhắc tới Bác lần đầu tiên năm nào. Anh cho có lẽ vào khoảng những năm sáu mươi, nhưng không thể nào chắc được. Trong các sách sử về Đảng, dĩ nhiên Bác hiện như vị lãnh tụ và nhà bảo vệ Cách Mạng ngay từ những ngày đầu. Công trạng của Bác đã được đưa lùi dần vào thời gian cho tới khi gia nhập thế giới huyền hoặc của những năm ba mươi bốn mươi, khi dân tư bản đội mũ lạ đời hình trụ dạo đường phố Luân Đôn trong những xe hơi bóng nhoáng hay cỗ xe ngựa có cửa kính. Không làm sao biết được truyền kỳ đó có bao phần thật bao phần bịa. Winston còn không nhớ được ngay cả chính Đảng ra đời hồi nào. Anh không tin đã được nghe nhắc tới từ Anh Xã trước năm 1960, nhưng có thể nó được phổ biến sớm hơn dưới hình thức Ngôn Cũ "Xã Hội Chủ Nghĩa Anh". Mọi sự loãng tan trong sương khói. Tuy nhiên, thỉnh thoảng có thể vạch ra được một điều dối trá rành rành. Ví như việc không phải Đảng chế ra tàu bay như sách sử về Đảng tuyên bố. Anh nhớ đã có tàu bay từ thời thơ ấu xa xưa nhất của anh. Nhưng không thể chứng minh điều gì. Không bao giờ có chứng cớ. Chỉ đúng một lần anh đã cầm trong tay một bằng chứng không thể chối cãi được về sự ngụy tạo sự kiện lịch sử. Và lần đó —
"Smith !" tiếng the thé hét lên từ máy truyền hình. "6079 Smith W. ! Phải, anh kìa ! Xin anh cúi đầu xuống thấp hơn ! Anh có thể làm khá hơn thế ! Anh không cố gắng. Cúi thấp hơn nào ! Như vậy khá hơn đó, đồng chí ! Bây giờ cả đoàn nghỉ và xem tôi."
Bất thần, mồ hôi nóng toát ra khắp mình Winston. Mặt anh vẫn giữ vẻ hoàn toàn thản nhiên. Chớ bao giờ tỏ sự sợ hãi ! Chớ bao giờ tỏ nỗi oán giận ! Chỉ một chớp mắt cũng đủ phản mình. Anh đứng nhìn trong khi nữ huấn luyện viên giơ tay trên đầu và — không thể gọi là một cách duyên dáng nhưng với một điệu đặc biệt gọn gàng hiệu nghiệm — cúi người xuống rồi đặt đốt đầu ngón tay dưới các ngón chân.
"Đây nhé, các đồng chí !Đấy là điều tôi muốn thấy các đồng chí làm. Xem lại tôi nào. Tôi lên ba mươi chín và đã có bốn con. Coi này". Bà ta lại cúi xuống. "Các đồng chí thấy đầu gối tôi không cong chứ. Ai cũng làm được như vậy nếu muốn," bà ta vừa nói thêm vừa đứng thẳng người lại. "Bất cứ ai dưới bốn mươi nhăm tuổi cũng đều có thể sờ được ngón chân. Tất cả chúng ta không có hân hạnh chiến đấu ngoài mặt trận nhưng ít nhất toàn thể chúng ta có thể giữ mình sao cho khỏe. Hãy nhớ tới những thanh niên của chúng ta trên mặt trận Malabar ! Và những thủy thủ trên Pháo Đài Nổi ! Hãy nhớ tới những điều họ đang chịu đựng. Bây giờ các đồng chí tập thử lại. Thế khá hơn đó, đồng chí, thế khá hơn nhiều," bà ta khuyến khích trong khi Winston cúi mạnh người xuống, và lần đầu tiên từ mấy năm nay anh sờ trúng ngón chân mà không còng đầu gối.
Với tiếng thở dài vô thức não nuột mà anh không dằn nổi mỗi khi bắt tay vào công việc hàng ngày mặc dầu máy truyền hình ở kế cận, Winston kéo máy ghi âm về phía anh, thổi bụi khỏi miệng ống nói và đeo kính vào mắt. Rồi anh giở và đính liền bốn cuộn giấy nhỏ tuột sẵn từ ống hơi trên mé phải bàn anh.
Trên tường ô phận của anh có ba lỗ hổng. Bên phải máy ghi âm là một ống hơi nhỏ dành cho bản tin viết, bên trái là một ống hơi lớn hơn dùng cho báo chí; trên tường ngang, vừa tầm tay của Winston, có một khe hở rộng hình thuẫn được che bởi một lưới sắt. Đấy là lỗ hổng đón nhận giấy rác. Có hàng ngàn hàng vạn khe hở tương tự trong khắp dinh thự, không những tại mỗi phòng mà tại nhiều chặng ngắn ở mỗi hành lang. Vì một lý do nào đó các khe ấy được mệnh danh là lỗ ký ức. Khi biết một tài liệu nào phải bị tiêu hủy, hay nữa khi thấy một mẩu giấy lê quanh, ai cũng có hành động máy móc nhấc nắp lỗ ký ức gần nhất để vứt giấy vào trong đó, từ đó giấy sẽ bị một luồng hơi ấm cuốn đến những hỏa lò to lớn xây giấu đâu đó trong lòng dinh thự.
Winston xem bốn tấm giấy đã được anh tháo cuộn. Mỗi tấm chứa đựng một hai dòng tin viết theo một biệt ngữ vắn tắt — không hẳn là Ngôn Mới nhưng gồm nhiều từ Ngôn Mới — được dùng trong Bộ trong việc nội bộ.
thời 17.3.84 diễn văn b thuật xấu phi châu sửa
thời 19.12.83 dự đoán 3 n quý 4 83 in lầm kiểm số mới
thời 14.2.84 bộ sung ghi xấu xúc cô la sửa
thời 3.12.83 thuật nghị trình b không tốt hơn bội chiếu không người viết lại đủ trình trên dưới xếp
Winston hơi hài lòng khi bỏ ra một bên bản tin thứ tư. Chuyện này phức tạp và hàm trách, nên xét sau cùng. Ba bản kia là chuyện thường tuy bản thứ hai thế nào cũng bắt phải tham khảo hàng loạt bảng số tẻ nhạt.
Winston đánh chữ "số cũ" trên máy truyền hình và đòi những số Thời Báo liên can, chỉ vài phút sau báo tuột ra khỏi ống hơi. Những bản tin anh nhận được liên quan đến những bài báo và tin tức vì lẽ này nọ được coi là cần được biến đổi, hay được tu chỉnh để nói theo văn chính thức. Ví dụ, Thới Báo ngày mười bảy tháng ba đăng rằng hôm trước Bác đọc diễn văn tiên đoán mặt trận Nam Ấn Độ sẽ tiếp tục yên tĩnh nhưng sẽ có một cuộc tấn công của Âu Á vào Bắc Phi Châu. Sự xảy ra thì Tổng Tư Lệnh Âu Á đánh vào Nam Ấn Độ mà bỏ mặc Bắc Phi. Thành thử cần phải viết lại một đoạn diễn văn của Bác làm sao cho Bác tiên đoán đúng việc đã thực sự xảy ra. Lại nữa, Thời Báo ngày mười chín tháng chạp có đăng dự đoán chính thức về năng suất các loại thực phẩm trong quý thứ tư năm 1983 tức quý thứ sáu của kế hoạch ba năm thứ chín. Số báo ngày hôm nay cho biết năng suất thật sự, chiếu theo đó thì dự đoán trên nhất nhất nhầm to. Việc của Winston là sửa lại những con số nguyên thủy làm cho nó ăn khớp với các con số sau này. Về phần bản tin thứ ba, nó đề cập đến một sai lầm nhỏ chỉ hai phút là sửa xong. Mới tháng hai gần đây, Bộ Sung Túc tuyên hứa (danh từ chính thức là "nhất quyết cam kết") sẽ không giảm bớt khẩu phần xúc cô la trong năm 1984. Trên thực tế, như Winston biết, khẩu phần xúc cô la đã bị giảm từ 30 gam xuống 20 gam cuối tuần này. Chỉ cần thay thế lời hứa trên bằng lời bố cáo có thể cần giảm bớt khẩu phần vào khoảng tháng tư.
Mỗi lần giải quyết xong một vấn đề trong bản tin, Winston đính bản sửa viết máy vào số báo liên can và ấn cả hai vào ống hơi. Rồi bằng một cử động gần như vô thức, anh vo viên thông điệp cùng các chú thích của anh và ném cả vào lỗ ký ức cho lửa thiêu.
Những gì xảy ra dọc đường ngoắt nghéo không ai thấy được của ống hơi, anh không rõ chi tiết nhưng anh biết đại khái. Các phần sửa chữa cần thiết cho mỗi số Thời Báo được tập họp và đối chiếu, xong xuôi số báo được in lại ngay, nguyên bản bị hủy và tu bản được xếp thay trong tủ. Quá trình biến sửa liên miên này được áp dụng không những cho báo chí mà cho cả sách, tập san, văn châm biếm, bích chương, tờ quảng cáo, phim, băng nhựa, tranh khôi hài, hình ảnh — cho mọi loại văn hay tài liệu có thể được coi là có một ý nghĩa chính trị hay học thuyết. Ngày ngày và gần như phút phút quá khứ được cập nhật hóa. Như vậy dự đoán nào của Đảng cũng có tài liệu hiển nhiên chứng minh là đúng, và không một mẩu tin hay một quan điểm nào đối lập với nhu cầu đương thời được duy trì trong văn khố. Toàn thể lịch sử là một tấm da cừu được nạo sạch và biên chép lại bao lần cũng đuợc mỗi khi cần thiết. Việc đã thành, không có cách nào chứng minh sự hiện thực của ngụy tạo. Ban lớn nhất thuộc Cục Văn Khố, lớn hơn ban của Winston nhiều, gồm toàn người chỉ có phận sự lùng xét và tập họp các bản sách báo và tài liệu khác đã bị thay thế nên buộc phải tiêu hủy. Một số Thời Báo có thể, vì những thay đổi trong đường lối chính trị hay những tiên đoán sai lầm của Bác, được viết đi viết lại một tá lần, nhưng vẫn được xếp trên kệ dưới ngày tháng nguyên thủy, và không có bản nào khác được giữ để đem đối chứng với nó. Sách cũng vậy, bị thâu hồi, viết đi viết lại và in lại, nhưng không bao giờ ghi nhận một sự sửa đổi nào. Ngay các chỉ thị viết gửi đến Winston mà anh luôn luôn vứt đi sau khi hết dùng tới, cũng không bao giờ ra lệnh hay ám chỉ một hành động giả mạo nào: luôn luôn chỉ thấy nhắc tới lỗi sót, lỗi lầm, lỗi in, lỗi trích cần phải chỉnh lại cho chính xác.
Nhưng thật ra đó cũng chẳng phải là giả mạo, Winston vừa nghĩ vậy vừa sửa lại các con số của Bộ Sung Túc. Đó chỉ là lấy một điều vô nghĩa này thay thế một điều vô nghĩa khác. Phần đông các tài liệu do anh sử dụng không liên hệ gì đến thực tế, dù là loại liên hệ chứa đựng trong một lời nói dối thẳng. Những số thống kê trong nguyên cảo huyền hoặc chẳng kém số ghi trong tân cảo. Thường thường phải bịa đặt ra những số ấy. Ví dụ, Bộ Sung Túc ước tính sản lượng giầy ống quý này là 145 triệu đôi. Năng suất thực chỉ là 62 triệu. Tuy nhiên, khi viết lại dự đoán, Winston giảm con số xuống 57 triệu để còn nước cho Bộ tuyên bố như thường lệ rằng định số đã được vượt quá. Dù sao chăng nữa, con số 62 triệu chẳng sát thật gì hơn con số 57 hay 145 triệu. Rất có thể chẳng có đôi giầy ống nào được sản xuất. Đúng hơn nữa, chẳng ai biết có bao nhiêu đôi đã được sản xuất, mà cũng chẳng ai bận lòng tới. Chỉ biết rằng mỗi quý hàng số khổng lồ giầy ống được sản xuất trên giấy tờ trong khi phân nửa dân chúng Đại Dương đi chân không. Và cứ thế với mọi loại sự kiện lớn bé được ghi. Mọi sự tan loãng trong một thế giới mù mịt trong đó tận cùng đến ngay ngày tháng cũng thành bất định.
Winston liếc qua đại sảnh. Trong ô phận đối diện với anh, một gã đàn ông cằm đen, dáng bộ ngăn nắp tên là Tillotson đang làm việc hăng hái, với một tờ báo gấp trên đầu gối và miệng kề sát ống nói máy ghi âm. Anh ta có vẻ cố bảo vệ sự bí mật của những điều anh ta đang nói cho chỉ anh ta và máy truyền hình được biết đến mà thôi. Anh ta ngước mắt nhìn lên và cặp kính của anh ta tia ra một ánh mắt đầy ác cảm về phía Winston.
Winston không mấy quen Tillotson và không có một ý niệm gì về công việc của anh ta. Dân trong Cục Văn Khố không nói chuyện dễ dàng về công việc mình. Trong đại sảnh dài không cửa sổ với hai hàng ô phận không ngớt phát ra tiếng giấy sột soạt và tiếng lẩm bẩm trong máy ghi âm, có đến một tá người Winston không biết được tên mặc dầu ngày nào anh cũng thấy họ qua lại vội vàng trong hành lang hay khoa tay múa chân trong Hai Phút Hận Thù. Anh biết trong ô phận cạnh anh người đàn bà bé nhỏ tóc hung ngày ngày nhọc nhằn với mỗi việc tra xét và loại bỏ khỏi báo chí tên những người đã bị hóa hơi cho nên bị coi là không từng sống trên đời. Có một sự hợp tình trong đó vì chồng bà bị hóa hơi hai năm trước. Vài ô phận cách anh, một người hiền hòa, kín đáo, mơ màng, tên là Ampleforth, với hai tai đầy lông và biệt tài đùa với âm vận, lo việc biến đổi — gọi là soạn bản dứt khoát về — những bài thơ đâm xúc phạm chủ nghĩa nhưng vì lẽ này lẽ nọ vẫn cần được giữ trong hợp tuyển. Đại sảnh đây, với khoảng năm mươi nhân viên, chỉ là một tiểu ban, xem ra chỉ là một phần tử trong bộ máy phức tạp của Cục Văn Khố. Ngoài bên, trên dưới, có hàng đàn nhân viên tham gia vào vô số công việc không thể tưởng tượng được nổi. Nào là các xưởng in với các viên phó xuất bản, các chuyên viên ấn loát, và các ảnh viện trang bị tối tân dùng vào việc ngụy cải hình ảnh. Nào là ban chương trình truyền hình với các kỹ sư, các viên sản xuất, và các toán tài tử được chọn vì thuật mạo giọng giỏi. Nào là các đội sưu tập viên có phận sự soạn bảng kê các sách báo phải thâu hồi. Nào là các phòng lưu trữ rộng lớn chứa những tài liệu đã được tu chỉnh, và các hỏa lò ẩn giấu dùng để thiêu hủy các nguyên bản. Và đâu đó là những bộ óc lãnh đạo hoàn toàn nặc danh, đứng ra phối hợp sức cố gắng của toàn thể, và đặt ra đường lối chính trị bó buộc mẩu quá khứ này phải được duy trì, mẩu quá khứ kia phải bị ngụy tạo và mẩu quá khứ kĩa phải bị tẩy khỏi thế gian. Chung qui Cục Văn Khố chỉ là một chi nhánh của Bộ Sự Thật, mà phận sự cốt yếu không phải là tái thiết quá khứ, mà là cung cấp cho dân Đại Dương báo chí, phim ảnh, chương trình truyền hình, kịch bản, tiểu thuyểt — đủ loại tin tức, kiến thức, trò giải trì, từ bức tượng cho tới khẩu hiệu, từ bài thơ trữ tình cho đến tập khảo luận về sinh vật học, từ sách dạy đánh vần cho trẻ con tới từ điển Ngôn Mới. Và không những Bộ phải đáp ứng nhu cầu trùng phức của Đảng, Bộ còn phải tái diễn toàn dịch vụ đó theo một trình độ thấp hơn cho dân đen hưởng. Có cả một dãy cục riêng rẽ chuyên về văn chương, nhạc kịch và các mục giải trí bình dân thông thường. Nơi đây được sản xuất các tờ báo nhảm nhí nội dung gần như chỉ có thể thao, hình sự và tử vi, các truyện giật gân năm xu, các phim tình dục ướt át, và các bản tình ca được soạn một cách hoàn toàn máy móc nhờ một thứ kính vạn hoa đặc biệt gọi là máy làm thơ. Còn có cả một tiểu ban — theo Ngôn Mới gọi là Ban dâm — chuyên sản xuất loại sản phẩm khiêu dâm hạ cấp nhất, để gửi ra ngoài trong những gói được niêm phong, cấm các Đảng viên ngoài nhân viên công tác nhìn vào.
Ba bản tin nữa tuột từ ống hơi đương lúc Winston làm việc, nhưng những vấn đề liên quan thật đơn giản, Winston giải quyết xong xuôi cả trước khi Hai Phút Hận Thù ngắt việc anh. Khi Hận Thù chấm dứt anh trở về ô phận mình, với quyển từ điển trên kệ, đẩy máy ghi âm sang một bên, và bắt tay vào công việc chính của buổi sáng.
Cái thú lớn nhất trong đời Winston là công việc của anh. Phần đông là việc quen tay tẻ nhạt, nhưng cũng có việc khó khăn phức tạp đến nỗi anh có thể chìm mình trong đó như trong uyên ảo của một bài toán — đó là những việc giả mạo tinh tế không có gì hướng dẫn trừ sự thông hiểu nguyên lý Anh Xã và sự phỏng đoán ý muốn của Đảng. Winston rất giỏi việc này. Có lần anh được tín nhiệm giao cho việc sửa chữa những bài xã luận trong Thời Báo được viết hoàn toàn bằng Ngôn mới. Anh giở bản tin mà anh để riêng ra trước đây. Thông điệp như sau:
Thời 3.12.83 thuật nghị trình b không tốt hơn bội chiếu không người viết lại đủ trình trên trước xếp
Ngôn cũ (hay văn thường) có thể giải ra là:
Bài tường thuật nghị trình của Bác ghi trong Thời Báo ngày 3 tháng 12 năm 1983 rất bất hợp thức và nhắc tới những người không hiện hữu. Viết lại hết và trình lên cấp trên trước khi cất xếp.
Winston đọc kỹ bài báo can phạm. Nghị trình của Bác hình như chủ yếu là khen công tác của một cơ quan có danh hiệu là FFCC có nhiệm vụ cung cấp thuốc lá và các tiện khoái khác cho thủy thủ Pháo Đài Nổi. Đồng chí Withers nào đó, một đảng viên cao cấp thuộc Đảng Trong, đã được tuyên dương đặc biệt và thưởng huân chương Công Trạng Đặc Sắc hạng hai.
Ba tháng sau FFCC bỗng nhiên bị giải tán không thấy tuyên bố lý do. Có thể suy định rằng Withers và đồng bọn nay bị thất sủng, nhưng không có báo cáo về vụ này trên Báo hay máy truyền hình. Điều này kể cũng không lạ vì hiếm khi tội phạm chính trị bị xử hay lên án công khai. Các cuộc thanh trừ lớn lao bao gồm hàng ngàn người, với các phiên tòa công cộng xử quân phản bội và tội phạm tư tưởng phải chịu xưng tội một cách hèn hạ trước khi bị hành hình, là những màn kịch không được diễn quá hai năm một lần. Thông thường hơn, những người làm phật ý Đảng chỉ biến mất và không ai nghe nói tới họ nữa. Không hề có một bằng chứng nhỏ nào cho biết sự gì đã xảy ra cho họ. Cũng có vài khi họ không bị giết. Riêng Winston biết đến khoảng ba mươi người, không kể cha mẹ anh, đã mất tích trong trường hợp này nọ.
Winston khẽ gãi mũi với một cái kim gài giấy. Trong ô phận bên kia lối Đồng Chí Tillotson vẫn bí mật cắm cúi nói trong máy ghi âm. Một lát anh ta ngẩng đầu lên: lại nữa tia nhìn ác cảm qua cặp kính. Winston tự hỏi không hiểu Đồng Chí Tillotson có cùng một công tác như anh không. Rất có thể lắm. Một việc lắt léo như vậy không nên giao cho một người không thôi: mặt khác, đưa việc cho một ủy ban có nghĩa là công nhận thực hiện một hành vi gian trá. Chắc hẳn độ một tá người đang tranh đua với anh soạn lại bản tuyên cáo của Bác. Rồi một bộ óc quan thầy nào đó thuộc Đảng Trong sẽ chọn bản này hoặc bản kia, cho in nó lại và phát huy quá trình tất yếu phức tạp của sự kiểm điểm các bản dẫn, sau đó điều dối trá được chọn sẽ nhập vào văn khố thường trực và trở thành sự thật.
Winston không biết tại sao Withers bị thất sủng. Có thể vì tham nhũng hay bất tài. Có thể Bác chỉ muốn loại một thuộc viên quá được lòng dân. Có thể Withers hay một thân nhân của ông ta bị nghi ngờ là có xu hướng tà giáo. Hay có thể — có lẽ đúng nhất — sự việc xảy ra vì các cuộc thanh trừ và hóa hơi đóng một vai trò thiết yếu trong guồng máy thống trị. Chứng tích độc nhất nằm ở chữ "chiếu không người" chỉ rằng Withers đã chết. Chẳng thể vì thế mà suy luôn rằng những người bị bắt đều bị đem ra xử tử liền. Có khi họ được tha và phóng thích ra ngoài ở khoảng một hai năm trước khi bị hành hình. Năm chừng mười họa có người tưởng là đã chết từ lâu tái hiện như ma qủy trong một phiên tòa công cộng để buộc tội hàng trăm người khác với lời chứng của họ trước khi biến mất, và lần này biến luôn. Dù sao chăng nữa, Withers đã trở thành một không người. Ông ta không sống: ông ta không bao giờ sống. Winston quyết định rằng đổi ngược chiều hướng của bài diễn văn của Bác chưa đủ. Nên làm cho nó đề cập đến một chuyện hoàn toàn không dính dáng gì tới nguyên đề.
Anh có thể biến bài diễn văn thành một bản cáo trạng quân phản bội và tội phạm tư tưỏng, nhưng làm vậy hơi quá lộ liễu, còn bịa một cuộc chiến thắng ngoài mặt trận, hay một vụ sản xuất thăng bội thành công trong kế hoạch ba năm thứ chín, sẽ gây nhiều xáo trộn trong văn khố. Cần nhất đó phải là một chuyện hoàn toàn tưởng tượng. Bổng nhiên hiện ra trong óc anh, như đợi sẵn, hình ảnh một Đồng chí Ogilvy mới tử trận một cách anh dũng. Có nhiều lần Bác dành nghị trình cho việc truy niệm một đảng viên thấp kém được Bác coi đời sống và cái chết như một tấm gương đáng noi theo. Hôm nay Bác sẽ truy niệm Đồng Chí Ogilvy. Thật ra không có Đồng Chí Ogilvy nào như vậy, nhưng vài giòng in và hai tấm ảnh giả sẽ sớm đem anh nhập cuộc đời.
Winston nghĩ một lúc rồi kéo máy ghi âm về phía anh và bắt đầu đọc theo thể văn quen thuộc của Bác: một thể văn vừa độc đoán theo lối nhà binh, vừa lên mặt mô phạm, dễ bắt chước vì cái thói đặt câu hỏi rồi trả lời ngay ("Ta phải rút bài học gì từ sự kiện đó, hỡi các đồng chí ? Bài học — cũng là một nguyên lý Anh Xã — rằng v.v...").
Hồi ba tuổi Đồng Chí Ogilvy đã từ chối mọi đồ chơi trừ một cái trống, một khẩu liên thanh và một máy trực thăng thu nhỏ. Lên sáu tuổi — sớm hơn một năm nhờ một đặc miễn điều lệ — anh gia nhập Đoàn Gián Điệp, lên chín anh đã làm đội trưởng. Năm lên mười một anh tố cáo chú anh với Cảnh Sát Tư Tưởng sau khi nghe lỏm được một câu chuyện coi như có ý hướng tội lỗi. Năm mười bảy tuổi anh làm khu tổ chức viên cho Đoàn Thanh Niên Chống Dục Tính. Năm mười chín tuổi anh vẽ mẫu một trái lựu đạn tay được Bộ Hòa Bình chấp nhận, đem thử lần đầu giết chết một lúc ba mươi mốt tù binh Âu Á. Năm hai mươi ba tuổi anh bỏ mạng đương khi thi hành nhiệm vụ. Bị máy bay phản lực địch rượt đuổi đương lúc anh bay qua Ấn Độ Dương mang theo nhiều công hàm quan trọng, anh buộc súng máy vào người cho nặng và nhảy từ trực thăng xuống nước sâu với cả công hàm — một cái chết không thể không thèm thuồng và chiêm ngưỡng, theo lời Bác. Bác còn chua thêm vài lời về tính trong sạch ngay thẳng của đời Đồng Chí Ogilvy. Anh là một người không hề uống rượu, không hề hút thuốc, không có giải trí nào ngoài một giờ tập thể thao mỗi ngày, đã nguyện ở độc thân vì tin rằng lấy vợ và săn sóc gia đình tương khắc với sự tận tụy phục vụ hai mươi tư trên hai mươi tư tiếng. Anh không có đề tài nói chuyện nào ngoài nguyên lý Anh Xã, và không có mục đích nào trong đời ngoài sự thất bại của quân thù Âu Á và sự săn bắt phường gián điệp, phá hoại, tội phạm tư tưởng và phản loạn nói chung.
Winston tự thảo luận với mình xem có nên thưởng huân chương Công Trạng Đặc Biệt cho Đồng Chí Ogilvy không: cuối cùng anh bác ý định đó vì nó lôi theo một sự đối chiếu kiểm điểm không cần thiết.
Một lần nữa, anh liếc về phía địch thủ bên kia ô phận. Làm như có cái gì đảm bảo với anh rằng Tillotson bận bịu cùng một việc với anh. Không có cách nào biết được bản sửa của ai sẽ được chọn, nhưng trong thâm tâm anh tin nó sẽ là bản cuả anh. Mới một tiếng trước, ngay trong tưởng tượng cũng không có Đồng Chí Ogilvy, thế mà bây giờ anh ta đã thành người thật. Winston chợt thấy lạ là tạo người chết thì được mà tạo người sống lại không được. Đồng chí Ogilvy không bao giờ sống trong hiện tại nhưng giờ nay sống trong quá khứ, và một khi hành vi ngụy tạo bị quên lãng, anh ta sẽ sống một cách xác thực, chiếu theo bằng chứng hiển nhiên, chẳng khác gì Charlemagne hay Julius Caesar.