Ra Côn Đảo, Phương Thảo chuyển hướng
Bị thanh trừng, mắt hỏng một con
Tù Quốc dân Đảng được giam chung một dãy dài. Đôi bạn Liệu, Thảo được ở chung một salle (phòng). Nhất nhất Thảo đều noi theo Liệu. Nhà báo kiêm nhà văn đã tỏ ra xứng đáng là đàn anh của Thảo. Là cánh Tây học nhưng Liệu cũng thâm Nho rộng Hán nhờ lúc thiếu thời cũng bỏ bụng ba chữ thánh hiền. Cái vốn “Tam Tự Kinh” đó lại đóng một vai trò quan trọng trong việc nhồi nặn tâm hồn kẻ sĩ: “uy vũ bất năng khuất, phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di”. Trong tù Trần Huy Liệu vẫn ung dung như lúc làm báo viết văn ở Sài Gòn. Với thầy chú, cặp rằn anh rất lịch sự nhưng không khúm núm. Với miếng ăn anh rất tự trọng, không vì cái gọi là “đệ nhất tứ khoái” địch tung ra mà tách riêng, xa rời tập thể. Nhờ có Liệu mà Thảo nương theo, không ngả nghiêng trước cuồng phong bão tố.
Vài tháng sau lại có thêm một chuyến tù Quốc dân đảng ra đảo. Căng tù thêm đông thêm vui. Trong số bạn tù mới có anh người Bắc to cao vạm vỡ. Anh ít học nhưng hơn các bạn tù ở đức hạnh. Những chuyện nặng nhọc như khiêng vác ai cũng ngại. anh xung phong. Chuyện săn sóc tù bịnh truyền nhiễm, ho lao, tù hủi ai cũng gớm, anh tình nguyện. Trong một vụ tranh đấu đòi cải thiện chế độ lao tù, Táy đàn áp mạnh: huy động thầy chú dùng “ma trắc” đánh đập tù túi bụi. Lập tức anh nông dân này xông tới, đưa tấm lưng “ba vừng” ra đón đỡ đòn cho anh em tiểu tư sản thành thị. Xong trận khủng bố, lưng anh nông dân bầm tím những vết roi gân bò và “ma trắc”, nhiều mảng da tróc ra để lòi bầy nhầy. Thảo cùng anh em hết lòng chăm sóc người dũng sĩ đáng yêu này. Anh tìm hiểu:
- Anh tên gì, quê ở đâu?
- Độ. Trần Xuân Độ, quê Hải Phòng.
Thảo mừng rỡ xiết tay: “Tôi cũng sống ở Hải Phòng đây. Tha phương ngộ cố tri. Còn gì vui bằng”. Độ lớn hơn Thảo chừng mười tuổi, tánh trầm lặng, khiêm tốn: chỉ nói khi thật cần thiết. Thảo hỏi tới đâu Độ nói tới đó. Ông bị kết án chung thân và có vẻ cam phận. Nhưng Thảo đã đánh giá lầm ông Độ. Tâm hồn người nông dân ít nói này là một đáy biển có nhiều lượn sóng ngầm. Lúc các vết thương kéo da non. sáng nào ông cũng tình nguyện quét lá bàng ngoài sân.
Thảo tò mò tình nguyện theo và được biết vì sao ông Độ khoái quét lá bàng.
Bagne 2 (trại 2) gồm hai dãy khám dài đối diện nhau, cách một sân rộng. Bên này ngó thấy bên kia.
Bên này là tù Quốc dân đảng, bên kia là tù Cộng sản. Khi quét lá bằng, tù hai căng có thể trao đổi vài câu là không sợ thầy chú hay bạn tù cùng căng nghe được.
Đi quét lá bàng ngoài sân: Thảo và Độ thường nói chuyện với anh em bên cộng sản, tìm hiểu tình hình bên đó để xem căng nào “dễ thở” hơn. Anh bạn tù cộng sản cười:
- Từ chánh trị thì Cộng sản hay Quốc dân đảng gì, Tây cũng coi là tù hết nó chỉ phân biệt tù chính trị với tù thường phạm. Bagne 2 mình đây tương đối “dễ thở” hơn bagne 1 là nhờ anh em mình biết tổ chức biết đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, người mạnh làm choàng người yếu, người biết chữ dạy người không biết, người chánh trị cao dạy người chánh trị thấp. Hột muối cắn làm đôi...
Đó là chuyện lạ đối với Thảo. Ở dãy anh làm gì có chuyện đó. Ở tù mà còn phân biệt giai cấp. Anh thấy chuyện lạ đời: ăn cơm có người hầu, người quạt. Hỏi Liệu mới biết đó là nhóm Đại Việt quan lại, cũng theo chủ nghĩa tam dân nhưng phần lớn là quan lại hoặc con ông cháu cha, làm cách mệnh mà chưa bỏ được thói quen ăn trên ngồi trốc.
Những khám phá về căng bên kia Thảo đều thì thầm cho Liệu biết. Thế là vài ngày sau Liệu tập hợp một số anh em trẻ trong salle lại nói chuyện tình hình “nghe đỡ buồn”. Tất nhiên trong số này có Thảo. Anh kéo theo ông Độ là người rất ham học. Với tài kể chuyện hấp dẫn, Liệu thu hút hầu hết anh em trong salle. Một số anh em khác salle cũng tham gia. Không khí căng có phần sinh động hơn trước.
Theo gợi ý của Liệu, Thảo cũng mở lớp dạy văn hoá, vì có văn hoá- học chánh trị mới dễ hiểu hơn. Không biết năm châu bốn biển thì làm sao hiển được tình hình thế giới!...
Ông Độ tuy lớn hơn Thảo gần một con giáp nhưng ông vẫn chịu khó ngồi học một người non trẻ hơn mình. Có người chế nhạo, ông Độ cười: “Nó nhỏ mà nó giỏi, còn mình lớn mà mình dốt, hễ dốt thì phải học. Tự ái là dốt suốt đời”.
Một hôm người quét lá bàng căng bên kia cho biết: “Tối nay có diễn kịch mừng ngày lễ quốc tế lao động Một tháng Năm”. Thế là bộ ba Liệu, Thảo, Độ lén qua bên kia xem văn nghệ. Núp bên ngoài mà xem. Càng lén lút càng say mê, như ăn vụng bao giờ cũng ngon. Trong tù mà sân khấu cũng có sơn thuỷ như các gánh hát ngoài đời. Đào kép cũng son phấn hia mão, gươm dáo, không thiếu thứ gì. Thảo rất mê cô đào trong vở tuồng đêm ấy. Ở tù lâu quá, mắt không thấy đàn bà, huống chi đây là đàn bà đẹp, môi son má phấn, đi đứng yểu điệu.
Từ đó mỗi khi nghe căng bên kia có diễn kịch là Thảo trốn qua xem. Đêm nào có “cô đào” trên sân khấu là Thảo vui thú làm. Lòng mến mộ trẻ con đó không qua được cặp mặt tinh đời của Liệu. Có hôm Liệu nói đùa: “Coi chừng cô đào đó là cộng sản”. Thảo thành thật tâm tình: “Tại sao lại phân biệt như vậy? Tôi chỉ thấy hai bên có một nét đẹp chung: lòng yêu nước. Còn đi sau thêm về chánh kiến thì tôi không đủ trình độ như anh. Với tôi thì lòng yêu nước là đỉnh cao của con người. Tây bắt chúng ta đày ra hải đảo này là vì chúng sợ lòng yêu nước của chúng ta, còn phân biệt cộng sản với quốc dâu đảng là chuyện thứ yếu”
Liệu im lặng khá lâu dường như chìm trong suy nghĩ. Hôm sau Liệu kéo Thảo ra chỗ vắng nói nhỏ:
- Lâu nay mình suy nghĩ nhiều về cộng sản và quốc dân đảng. Mình nhận ra điều này: Cộng sản là một phong trào quốc tế, còn quốc dàn đảng nằm trong phạm vi quốc gia. Xu thế cách mạng hiện nay mở rộng ra các nước ngoài tìm đồng minh để có thêm sức mạnh chống đế quốc thực dân. Quan niệm bế quan toả cảng các triều vua Nguyễn đã lạc hậu lỗi thời rồi. Ra đây, được gần các anh em cộng sản mình nên học hỏi thêm.
Thảo góp ý:
- Anh học nhiều hiểu rộng thấy xa, còn tôi thì chỉ thấy sinh hoạt bên kia dân chủ hơn, tiến bộ hơn, vui vẻ hơn...
Độ chừng nhận thấy như vậy. Và còn có một số người cũng đồng tình với bộ ba này.
Không chỉ có bộ ba Liệu, Thảo, Độ hướng tầm mắt về căng bên kia mà còn có vài nhóm khác như nhóm anh Tưởng Dân Bảo cũng xung phong quét lá bàng để bí mật tiếp xúc anh em bên kia.
***
Được tôi rèn trong lò lửa cách mạng. Thảo thấy mình có ít nhiều tiến bộ, nhưng Liệu mới là người hăng hái trong hoạt động chuyển hướng. Từ tam dân anh chuyển sang quốc tế vô sản. Những cuộc nói chuyện trong salle, anh nói rõ xu thế ấy.
Một hôm ông Độ cho Thảo một tin quan trọng. Những người cầm đầu căng Quốc dân đảng đã thấy sự chuyển hướng của nhóm Trần Hny Liệu. Họ quyết định lập ban thanh trừng bọn phản đảng. Độ khuyên Thảo nên ăn nói thận trọng. Thảo báo ngay cho Liệu, nhưng Liệu vẫn tiếp tục bày tỏ quan điểm của mình như trước. Đúng Liệu là một tay tuyên truyền trong máu, không có gì có thể ngăn chặn tài hùng biện của anh được. Thế rồi chuyện phải đến đã đến; vào nửa đêm trong lúc cả salle chìm trong giấc ngủ, một bóng đen di động. Hắn thủ một lưỡi dao “con chó” đã mài bén như dao cạo. Đã rình rập tư trước, hắn mò đến nơi “tên phản động” nằm. Nhanh như chớp, hắn quỳ xuống, choàng chân ngồi lên ngực nạn nhân, tay trái nắm đầu, tay mặt lia dao cắt cổ. Nạn nhân chỉ kịp kêu lên một tiếng, máu chảy đỏ cả ngực... Tiếng kêu ấy đã cứu nạn nhân: thầy chú gác đêm nghe động bám đèn pin chạy tới. Hung thủ vội vàng bỏ con mồi chạy thoát thân. Cả salle giật mình thức giấc. Họ phát hiện người bạn tù bị cắt cổ đang quằn quại, máu me đầy mình. Lập tức nạn nhân được đưa đi cấp cứu. Nạn nhân cuộc thanh trừng đầu tiên năm đó là nhà báo kiêm nhà văn Trần Huy Liệu. Rất may vết thương không sâu và được điều trị kịp thời. Mọi người trong salle vui mừng được biết nhà báo họ Trần đã thoát chết đồng thời nguyền rủa bọn chủ trương giết người không cùng một chánh kiến với mình.
Dù bị lên án, bọn quá khích vẫn tiếp tục “thanh toán mấy tên phản Đảng”. Nạn nhân thứ hai cũng bị cắt cổ vào nửa đêm. Và cũng rất may là thầy chú tới kịp hung thủ bỏ chạy và nạn nhân được cấp cứu kịp thời. Không chết nhưng mang vết sẹo to ở cổ như nhắc nhở mọi người phải hết sức cảnh giác khi quyết định gia nhập một Đảng nào đó. Nạn nhân này là Tưởng Dân Bảo. Cũng là người miền Bắc.
Hai vụ cắt cổ xảy ra trong vòng một tuần khiến cả dãy lo sợ. Nạn nhân thứ ba sẽ là ai đây? Thảo nghĩ thấm: “Mình là cái bóng của anh Liệu. Chúng đã nhắm vào anh Liệu thì chắc chắn không bỏ sót mình. Phải đề phòng và cẩn thận”. Nhiều đêm anh thức suốt luôn luôn nằm trong thế thủ, hễ thấy động là tấn công ngay. Anh rất mê bóng đá và nhớ một huấn luyện viên đã chủ trương “công là thủ hay nhất”. Nhưng thức ròng rã ba đêm mà kẻ “thi hành kỷ luật” không dẫn xác tới. Đến hôm thủ tư thì quá mỏi mòn, vừa đặt lưng xuống là ngủ vùi như chết. Kẻ thi hành kỷ luật như một tay thợ săn lành nghề, biết lúc nào giăng lưới, lúc nào buông tên. Và lần này hắn không dùng dao con chó mà đùng bàn chải đánh răng. Bản án thi hành cho Nguyễn Phương Thảo không phải là tử hình mà “lấy một tròng mắt” tên phản đảng.
Trong bóng đêm một bóng ma xuất hiện. Đến bên Thảo, bóng đen nhằm ngay mắt đâm mạnh bàn chải xuống. Thảo rú lên một tiếng làm cả salle náo động.
Hung thủ nhanh chân biến mất. Thầy chú đưa Thảo tới bịnh xá. Dù được chăm sóc tận tình, con mắt trái đã hỏng. Đành phải chịu tật suốt đời.
Lạ lùng thay, mất một mắt mà từ đó Thảo thấy mình sáng hơn trước. Sáng ở thuật đối nhân xử thế, sáng ở thuật gạn đục khơi trong. Anh đã trả một giá rất đắt khi chọn Đảng. Chủ nghĩa tam dân rất đẹp với tôn chỉ độc lập tự do, hạnh phúc là đỉnh cao của dân tộc, dân quyền, dân sinh, nhưng đó chỉ là khẩu hiệu suông để mê hoặc thiên hạ, còn bọn cầm đầu thì chỉ theo mục đích hèn hạ là vinh thân phì gia và không ngần ngại thủ tiêu những đồng đảng khác chính kiến. Anh nhất định phải học người xưa ở điểm quay lưỡi bẩy lần trước khi nói. Chọn Đảng chính trị cũng phải động não bẩy lần trước khi quyết định.
***
Từ bịnh xá trở về bagne 2, Nguyễn Phương Thảo đã biến thành người khác về nhân dạng cũng như về tâm hồn. Trước kia, Thảo đẹp trai với đôi mắt sáng rỡ, tánh tình hồn nhiên: bây giờ xấu xí chột mắt u uất trầm ngâm kiệm lời.
Anh thất vọng về quốc dân đảng đã cướp đi của anh một con mắt nhưng anh không trách người đã đưa anh vào Đảng này. Trần Huy Liệu cũng là nạn nhân của những cụm mỹ từ “tam dân, dân tộc độc lập dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”. Cái sẹo to nơi cổ là một tấm biển cảnh giác “đừng mắc bẫy những mỹ từ trống rỗng”. Hãy nhớ mãi câu nói: “thùng rỗng khua to” để thận trọng trong mọi nhận xét người và việc.
Năm 1935, tù Côn Đảo được trục xuất về nguyên quán, bộ ba Liệu, Thảo, Độ trả xong bản án năm năm tù được “quy hồi cố hương”.
Đoạn đường mới, tên phải đổi mới.
Nguyễn Phương Thảo “cải hiệu” Nguyễn Bình.
Trở về quê Bần Yên Phú, Thảo tính sổ: thấm thoát đã tám năm anh rời quê cha đất tổ. Trong tám năm lưu lạc miền Nam, anh đã học được rất nhiều, đúng như người ta nói: “đi một ngày đàng, học một sàng khôn”! Điều anh tâm đắc nhất là đã biết được miền Nam cả về đất nước và con người, cả trên đất liền đến ngoài hải đảo. Dân miền Nam sao mà dễ thương dễ mến, hào hiệp, cởi mở, chân thật, hiếu khánh... Đất miền Nam trên cơm dưới cá, làm chơi ăn thiệt.
Sau những ngày đoàn tụ gia đình, Thảo tự thấy không thể sống thúc thủ ở Bần Yên Phú được. Như một cánh chim di trú đã biết những chân trời xa lạ không thể ru rú một cụm rừng, Thảo bắt đầu đi đó đi đây. Anh lên Hà Nội tìm Trần Huy Liệu. Khi chia tay, Liệu đã dặn Thảo: “Muốn tìm tớ cậu hãy đến các nhà báo. Làm báo viết văn là nghề của chàng”.
Thảo tìm Liệu không khó. Liệu báo tin vui:
- Đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản, còn cậu thì sao? Có muốn vào Đảng không? Tớ giới thiệu cho.
Thảo lắc đầu:
- Con chim bị tên sợ cây cong...
Liệu cười:
- Tớ cũng vậy! Nhưng thất bại là mẹ thành công. Mỗi lần vấp ngã là một bước tiến trên con đường mình tự nguyện dấn thân. Về phần cậu, nếu không thích thì thôi, tớ không rủ rê vì mỗi khi nhìn mắt cậu, tớ thấy hối hận: chính tớ đã đưa cậu vô con đường bất hạnh...
Nguyễn Phương Thảo khoát tay:
- Chuyện đã qua, không nên nhắc lại. Nhưng đã lỡ nhắc lại thì tôi cũng nói để xoá tan nỗi ân hận của anh. Tôi hận kẻ quá khích trong tù đã chủ trương thanh trừng những tên mà họ cho là phản Đảng, nhưng tôi không hề trách anh. Vì chính anh cũng là nạn nhân của những kẻ quá khích ấy. Vết thẹo trên cổ anh cũng như con mắt chột của tôi là dấu vết của một kinh nghiệm trả bằng xương máu... Ngày nay anh đã tìm được con đường để thực hiện lý tưởng của anh, tôi lấy làm mừng cho anh. Còn về phần tôi thì xin cho một thời gian suy nghĩ đã. Khi nào thấy cần tham gia, tôi sẽ nhờ anh giới thiệu.
***
Năm 1940 tình hình chính trị sục sôi với cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ, đầu năm 1941 tới Khởi nghĩa Đô Lương... Giữa năm 1941 Mặt trận Việt Minh ra đời. Đây là một thời sự lớn. Thảo liền tìm Liệu và được Liệu giới thiệu công tác:
- Thời cơ sắp đến cho cách mạng Việt Nam. Chiến tranh thế giới nổ ra, hiện nay trục phát xít Bá Linh - La Mã - Đông Kinh tấn công ồ ạt, nhưng rồi đồng minh ngũ cường Anh Mỹ Pháp Nga Tàu sẽ phản công. Tình hình biến chuyển, cách nào mình cũng có lợi. Nhân dịp Pháp Nhật đấu đá nhau ta củng cố lực lượng võ trang. Hiện giờ ta rất cần súng. Cậu ở Hải phòng có nhiều chiến hạm. Làm sao ngoại giao chơi bời với đám thuỷ thủ vận động mua súng của chúng. Cậu có thể làm được không?
Thảo gật:
- Được chứ! Tôi nhận công tác mua sắm vũ khí cho dân quân. - Trầm ngâm một lúc Thảo nói tiếp - giai đoạn mới mình cũng phải có một cái tên mới. Nguyễn Phương Thảo còn hơi hướng Quốc Dân Đảng, mình không muốn nhắc tới. Tôi đã chọn được một tên mới...
Liệu cười hỏi:
- Tên gì có ghê gớm lắm không?
- Nguyễn Bình. Hai chữ thôi. Nguyễn là dòng họ còn Bình là...
Liệu cướp lời:
- Mình hiểu ý cậu rồi - tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Tu-tề-trị-bình, đó là bốn bước của kẻ sĩ. Hay lắm? Cái tên đó nói lên chí lớn của cậu: bình thiên hạ.
Thảo bắt tay Liệu:
- Chịu thầy! Anh đi guốc trong bụng tôi.
***
Cảng Hải Phòng, chiến hạm Pháp đậu nghỉ ngơi sau những chuyến hải hành. Chiều chiều trong nhóm thuỷ thủ lên bờ dạo phố, vào quán giải khát và tán tỉnh các cô gái trong quán. Thảo nay là Nguyễn Bình cũng la cà các quán ấy tìm cách làm quen với đám thuỷ thủ. Một hôm anh tình cờ gặp một bạn học cũ nay là thuỷ thủ. Tên anh là Lê Phú.
- Ê Thảo. Lâu quá mới gặp!
- A, Phú. Mười năm mới thấy mặt nhau.
Hai bạn bắt tay. Bình nhìn anh bạn trong bộ đồ hải quân Pháp. Trên mũ vải có mấy chữ tên chiến hạm Commandant Bourdais.
- Sao anh bạn? Vợ con gì chưa? Bình gọi bia đãi bạn.
- Đời lính như cánh hải âu, nay đây mai đó. Vợ con làm gì cho thêm bận bịu. Còn Thảo?
- Mình cũng ham bay nhảy nên chưa dừng chân nơi nào. Có lẽ mình phải xin vô hải quân mới thoả chí tang bồng.
Lê Phú cười lớn:
- Trong Nam có câu: “con cá trong lờ đỏ lờ con mắt, con cá ngoài lờ ngúc ngắc muốn vô”. Thói đời là đứng núi này trông núi nọ. Mình đã chán hê cái đời bèo bọt rong biển, thế mà có người lại mơ ước cái mà người ta muốn vứt đi.
Bình khai thác ngay:
- Sao mà bi quan chán đời vậy?
Lê Phú hất hàm về phía chiến hạm nói:
- Nhật đổ bộ lên Đông Dương, ngày càng lấn lướt Pháp. Paris đã đầu hàng nhục nhã, tuyên bố thành phố bỏ ngỏ để giữ nguyên vẹn các đền đài di tích lịch sử. Pháp ở đây hết sức nhân nhượng, nhưng được đằng chân lân đằng đầu, Nhật càng làm già. Mấy cha hạm trưởng hăng tiết vịt đòi đánh nhưng mấy tướng lục quân chỉ tìm đường rút chạy. Càng thất thế chúng càng cay cú. Giận cá chém thớt, mấy cha hạm trưởng hành hạ bọn này ghê quá!
- Có định nhảy không? Bình gợi ý.
- Cũng có ý đó, nhưng đang chờ xem đã...
- Nếu muốn nhảy thì mình giúp cho. Trong khi chờ đợi nên tìm hiểu tình hình.
Lê Phú gật:
- Đó là chuyện đương nhiên. Bọn này đang theo dõi tình hình hàng ngày tin chiến sự các mặt trận...
- Vậy mà có một mặt trận cực kỳ quan trọng mình cam đoan các anh không biết. - Bình cười vẻ bí hiểm.
- Mặt trận nào?
- Mặt trận Việt Minh! Có bao giờ nghe nói mặt trận đó chưa?
Lê Phú lúng túng:
- Có nghe loáng thoáng. Chỉ biết họ ở trong rừng sâu...
- Nếu họ có người xuống Hải Phòng này, Phú có dám tiếp họ không? - Bình nửa đùa nửa thật.
- Làm gì có chuyện đó!
- Nhưng nếu có thì Phú có dám gặp họ?
- Sợ gì chứ?
Bình hài lòng với cuộc gặp gỡ này.
Mới ngày đầu, không nên hấp tấp. Phải điều tra cẩn thận đã. Phải nắm chắc mới xúc tiến công việc.
Sau khi biết chắc Lê Phú là người tốt, Bình đặt vấn đề: cách mạng cần súng, nhờ Lê Phú tổ chức mua lén súng lấy cắp trong kho dưới tàu. Lính Hai quân ăn chơi quen thói cần tiền nên sẵn sàng lấy trộm súng đi bán cho bất cứ ai mua.
Lập tức Bình gặp Liệu để tìm người chuyển số súng đó. Liệu giới thiệu Bình với đồng chí Nguyên Văn Tuệ là bạn tù năm xưa. Liệu cho địa chỉ: chùa Phương Mỹ, huyện Thuỷ Nguyên.
Bình tới nơi. Anh xiết đỗi ngạc nhiên khi một nhà sư ra tiếp:
- Chào sư thầy. Tôi muốn gặp ông Tuệ.
- Tuệ là tôi đây.
- Tôi được anh Trần Huy Liệu giới thiệu tới chùa gặp anh.
Nhà sư mời Bình vô sau liêu bàn chuyện:
- Trụ trì này là sư cụ tên là Trụ. Sư cụ rất có cảm tình với cách mạng. Về đồng chí thì anh Liệu đã có nói với tôi rồi. Hai anh chàng hoạt động ở Sài Gòn và cùng ra Côn Đảo năm 30...
- Chuyện ấy xưa rồi. Tôi đã đoạn tuyệt với Quốc dân đảng. Bây giờ xin bàn chuyện hiện tại: theo sự phân công của anh Liệu, tôi đã mua được một số súng, đồng chí cho người xuống Hải Phòng đem về.
- Được bao nhiêu súng?
- Sáu súng trường cả đạn nữa. Chuyến tới sẽ quan trọng hơn. Tôi đang vận động anh em tháo gỡ hai cây đại liên trên tàu.
Nhà sư ngạc nhiên:
- Làm sao dám gỡ súng trên chiến hạm?
Bình tươi cười:
- Mình lợi dụng mâu thuẫn Pháp - Nhật. Nhật đòi Pháp giao các chiến hạm để nó lo phòng thủ Đông Dương. Thằng Pháp đang dùng dằng làm kế hoãn binh. Tôi có bạn học cũ trên chiến hạm Commandant Bourdais. Anh này có tinh thần yêu nước. Nghe cách mạng cần súng, anh bạn này vận động anh em lấy cắp súng dưới tàu bán cho ta. Thấy Tây không thiết tha tới chiến hạm, mình bước thêm bước nữa: gỡ hai cây trây-đơ.
Công tác mua súng thành công. Bình phấn khởi làm binh vận tại đồn Cửa Ông: Một đồng chí tên Tư Thành được Bình giao liên lạc với anh công nhân Phan Mạnh Hà đưa cả tiểu đội ở đồn Cửa Ông vô chiến khu Đông Triều ôm theo cả súng.
Như vết dầu loang, thắng lợi này kéo theo thắng lợi khác. Tổ binh vận thị xã Kiến An mang vô khu sáu súng trường, ba súng lục. Khí thế cách mạng ngày càng dâng cao. Nguyễn Bình làm một cú lớn: Nhật tổ chức một lực lượng vũ trang gọi là Đại Việt Quốc gia liên minh để chống Việt - Minh. Chỉ huy Liên Minh này là một cán bộ Đại Việt tên Bùi Sinh. Nguyễn Bình cho trinh sát tìm hiểu về Bùi Sinh, biết anh là người yêu nước nên tìm cách tiếp xúc. Bùi Sinh hưởng ứng lời kêu gọi của Việt Minh, đưa hai tiểu đội Đại Việt Quốc gia liên minh vô chiến khu để làm nòng cốt cho ta đánh thị xã Uông Bí.
Tri phủ Nguyễn Quang Tạo bí mật ngả theo phong trào cách mạng. Nguyễn Bình gợi ý cho Tạo lên Tỉnh xin thêm súng để về phòng thủ huyện Thuỷ Nguyên. Lãnh được súng đạn rồi, Tạo đưa hết vô chiến khu: 15 súng trường, 500 viên đạn.
Chùa Bắc Mã trở thành căn cứ
Huyện Đông Triều mở rộng chiến khu
Công tác bình vận và mua sắm vũ khí của Nguyễn Bình được xứ uỷ Bắc Kỳ đánh giá cao. Nhờ súng đạn nhiều, Đông Triều trở thành chiến khu vững vàng. Bấy giờ sư Tuệ chuyển về chùa Bắc Mã.
Nguyễn Bình đến đó bàn củng cố căn cứ. Chùa Bắc Mã là ngôi chùa cổ khá lớn, vị trí thuận lợi, trước mặt là đồng lúa giáp đường cái, đường 18, phía sau là rừng chồi, trong sâu là rừng già. Từ trong chùa có thể kiểm soát địch hành quân trên lộ 18. Nếu cần rút lui thì rừng che cả đại đội du kích. Trong chùa có nhiều Bụt to, cán bộ có thể ngủ ngay dưới chân Bụt. Gác chuông, gác chép kinh có thể dùng làm nơi giấu tài liệu Hai dãy nhà ngang có thể làm nơi hội nghị, mở lớp huấn luyện.
Sư Tuệ giới thiệu Nguyễn Bình với sư cụ trụ trì:
- Đây là sư Nguyệt, một nhà sư dám vứt áo cà sa khoác chiến bào...
Nguyễn Bình vui vẻ nói:
- Tôi chưa hân hạnh thấy sư cụ khoác chiến bào nhưng đã thấy sư cụ in truyền đơn kêu gọi dân chúng chống Nhật và xây dựng chiến khu Đông Triều.
Sư Nguyệt nói:
- Dân trong vùng rất tốt. Thấy người lạ lảng vảng là họ bắt nạp cho chùa. Tới nay họ bắt hai người, một của địch và một của ta. Một tên tay sai của bọn Đại việt quốc gia liên minh lò mò vô đây bị tóm bắt ngay. Còn người kia là anh Sơn Vỹ, một thanh niên đi tìm cách mạng. Ta đã cho Sơn Vỹ dự khoá huấn luyện quân chính, nay Sơn Vỹ đang chỉ huy du kích Đông Triều.
Từ khi Nguyễn Bình về đây, chùa Bắc Mã trở thành tổng hành dinh quân giải phóng chiến khu Đông Triều. Sáng chiều tiếng đại hồng chung ngân nga. Nghe tiếng chuông quen thuộc, dân chúng vững lòng làm mùa: họ biết Việt Minh vẫn hoạt động bình thường. Tài năng quân sự của Nguyễn Bình đã gặp đất dụng võ. Anh lập đội võ trang tuyên truyền Đông Triều. Đội gồm 5 người: Sư Tuệ, Hải Thanh, Vũ Đình Thiệp, Thiệu và Lê Hải. Hải Thanh tới chùa Bắc Mã sau Nguyễn Bình. Vũ Đình Thiệp là thanh niên tháo vát được anh Bình chọn làm thư ký riêng. Mỗi sáng Thiệp dùng nước nóng rửa mắt cho Bình. Xong rồi, gọn gàng trong bộ áo nâu bạc màu, súng sáu nhét lưng, Nguyễn Bình cỡi xe đạp đi công tác. Thiệp nhớ rõ chuyến võ trang tuyên truyền tại Mạo Khê. Anh và Lê Hải có nhiệm vụ bảo vệ hai diễn giả là sư Tuệ và Hải Thanh. Còn Thiệu thì canh gác vòng ngoài. Sự đột nhập táo bạo ấy gây tiếng vang lớn. Dân rất phấn khởi được thấy cán bộ Việt Minh về làng. Còn địch thì hoàn toàn bất ngờ, không can thiệp kịp.
Sau ngày Nhật đảo chánh Pháp 9-3-1945, Đông Triều sục sôi khí thế. Binh lính của Đội Hiền ở Đông Triều gồm 30 tên hoang mang không dám phá phách như trước. Do ta tuyên truyền, Đội Hiền lung lay và sau cùng ngả theo ta. Nhờ vậy mà chỉ có bốn súng trường, ta cướp đồn do nội ứng của Đội Hiền, lính đồn mở cửa cổng và nạp súng. Quần chúng ào theo phá kho thóc chia cho dân nghèo. Trong lúc địch chạy toán loạn, ta chia nhau bắt sống Trưởng Khiết và tri huyện Đông Triều, chiếm luôn Bưu điện huyện.
Kể từ tháng 5-1945 Bắc Mã đã trở thành trung tâm hoạt động quân sự quan trọng. Bộ chỉ huy gồm ba người: Nguyễn Bình, Hải Thanh và Đội Hiền. Do chuyển hướng theo cách mạng và lập công trong trận đánh Đông Triều vừa qua, Đội Hiền được Nguyễn Bình tin dùng. Sư Tuệ lo tổ chức các Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời khắp 54 làng trong huyện.
Không khí phấn khởi trong vùng, làm nô nức mọi người. Một Mạnh thường quân tên Lý Bá Sinh cống hiến tài sản nuôi cán bộ trong huyện. Họ Lý được bầu chủ tịch huyện Đông Triều.
Ngày 6-6 có tin bọn phỉ sẽ chiếm đồn Bảo an Chí Linh vào ngày 8-6. Ban lãnh đạo khởi nghĩa ở Bắc Mã quyết định ra tay trước. Theo kế hoạch đã định, sáng sớm ngày 8-6, đội võ trang nổ súng trên một tuyến đường dài 24 km trên lộ 18. Ta diệt bốn đồn, phá kho thóc phát cho đồng bào. Bốn đồn này là đồn Đông Triều chiếm trước đây do công nội ứng của Đội Hiền. Đồn Mạo Khê chỉ giải quyết trong vòng hai tiếng. Đồn Tràng Bạch ta chiếm bằng kế giả lính Nhật tiến thẳng vô đồn bắt sống trưởng đồn, chiếm kho vũ khí. Đồn Chí Linh, ta trương cờ đỏ sao vàng kéo vô đồn, phá kho thóc phát cho dân. Chiều hôm ấy ta họp mít tinh ở Hổ Lao, thyên bố chánh thức lập chiến khu Đông Triều. Uỷ ban quân sự cách mạng gồm các đồng chí Nguyễn Bình, Trần Cung, Hải Thanh. Trần Cung tên thật là Nguyễn Ngọc Cư, bút hiệu Hoả Mai, quê tỉnh Thái Bình. Đỗ khoá sinh, Cung về quê dạy học. Năm 1929 anh gia nhập Đảng cộng sản, năm 1932 anh bị bắt lãnh án 20 năm khổ sai, đày Sơn La rồi Côn Đảo. Được phóng thích, anh về chùa Bắc Mã, giả sư để hoạt động. Anh làm bài thơ tự trào:
Tránh Tây ta phải giả thầy tu
Súng sính nâu sồng bộ pháp sư
Không đạo đóng vai người mến đạo
Chẳng tu làm bộ kẻ chân tu
Hai mươi thu trải năm nhà ngục
Bôn chục xuân qua năm độ tù
Chiến sĩ mấy phen nương bóng phật
Tụng kinh mác xít, niệm nam mô.
Phát huy khí thế, chiến khu Đông Triều mở rộng các vùng lân cận, đổi tên là chiến khu Trần Hưng Đạo. Từ ngày mang tên vị anh hùng ba lần đánh thắng quân Nguyên, chiến khu Đông Triều thu nhiều chiến thắng vang dội. Trận phục kích trên Kinh Thầy đánh thuyền vận tải địch thu nhiều lương thực và vũ khí. Kế là trận tấn công đồng loạt năm đồn Thanh Hà, Kinh Môn, Thuỷ Nguyên, Uông Bí và Bí Chợ. Riêng đồn Bí Chợ ta thu trên trăm súng, phá kho thóc đồn điền xếp Sâm chia cho dân. Lực lượng võ trang trong lúc này vọt lên 400 tay súng chia làm bốn đại đội. Đó là các đại đội Hoàng Hoa Thám, Phạm Hồng Thái, Hoàng Văn Thụ và Ký Con. Ngoài ra còn một đội thuỷ quân gồm công nhân mỏ Mạo Khê. Đội này đã đánh cướp tàu Diamant của chủ mỏ. Trận Quảng Yên khiến tên tuổi Nguyễn Bình nổi như cồn. Tỉnh lỵ Quảng Yên nằm trên trục giao thông thuỷ bộ giữa Vàng Danh, Uông Bí và Hải Phòng. Bốn đại đội đi thuyền từ Đông Triều theo sông Kinh Thầy tiến đến thị xã Quảng Yên. Khí thế cách mạng áp đảo bọn địch. Năm trăm lính bảo an khiếp vía ném súng đầu hàng, ta thu năm trăm súng. Bọn Nhật cũng hốt hoảng phóng tàu chạy về Hải Phòng. Chiến lợi phẩm chở đẩy mười xe bò gồm 600 súng trường, 40 trung liên. Lập tức ta tổ chức mít tinh triển lãm chiến lợi phẩm. Đó là ngày đẹp nhất của quân giải phóng Đông Triều. Nguyễn Bình mặc bộ quân phục tên quan tư Nhật ta giết ở Uông Bí, mang cả kiếm, súng lục và dao găm của tên này. Trông thật là oai!
Không dừng lại ở đây, Nguyễn Bình chỉ huy hai ca nô chở đầy lính đi yểm trợ cuộc khởi nghĩa Hải Phòng, sau đó giải phóng Tiên Yên, Ba Chẽ, Hòn Gai, Cẩm Phả, Cát Bà...
Tháng 8-1945 có nhiều biến cố quan trọng tác động đến cả nước. Đại hội Tân Trào họp ba ngày 13, 14, 15-8-1945 cử Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc và ra lệnh Tổng khởi nghĩa. Ba ngày sau ta cướp chính quyền tại Hà Nội.
Cũng trong những ngày nóng bỏng này, quân Tàu Tưởng tiến chiếm thị xã Quảng Ninh. Đó là sư đoàn 82 của tướng Lư Hán. Đồng thời giặc Pháp ngoài đảo Cô Tô rục rịch đánh chiếm thuộc địa cũ. Tình thế thêm căng khi bọn Việt Cách núp bóng quân Tàu ngang nhiên cướp phá các thị trấn chúng đi qua. Rồi thêm bọn thổ phỉ người Hoa nổi lên.
Tình thế này khiến Nguyễn Bình không thể nghỉ ngơi sau thời gian “đánh Đông dẹp Bắc”. Đó chỉ là bước đầu. Bọn phỉ của tên tướng Lương Đại Bân chiến huyện Hoành Bồ. Bọn Việt Cách chiếm Hòn Gai. Nguyễn Bình cử người thương lượng nhưng tên Việt Cách không chịu, cứ tiếp tục lấn chiếm các vùng Tiên Yên, Đình Lập. Nguyễn Bình áp dụng chiến thuật vừa đánh vừa đàm. Việc đánh do anh phụ trách, việc đàm do sư Tuệ lo.
Sư Tuệ cho trinh sát điều tra nội bộ tên tướng phỉ Tàu Lương Đại Bân. Tên này có một tình nhân người Việt, tên Xập Nhi, con gái Bang Xàng ở phố Đông Triều. Bang Xàng là người có cảm tình với cách mạng. Nhà ông là cơ sở bí mật. Sư Tuệ cho người gặp cô Xập Nhi thuyết phục họ Lương thoả hiệp với cách mạng. Nhờ mỹ nhân kế mà ta hạn chế được đám phỉ Lương Đại Bân.
Các trận đánh giữa Việt Minh và Việt Cách diễn ra khắp vùng biên giới. Quân Tàu ở Đông Hưng yểm trợ bọn Việt Cách khiến chúng càng hung hăng. Có nơi hai bên quần nhau tới 23 ngày đêm. Mãi đến khi. quân Tàu rút, Việt Cách mới bỏ chạy.
Chiếm Hải Phòng, đặt đại bản doanh
Tiếp sứ giả, Nguyễn Bình phẫn nộ
Ngày 23-8 Nguyễn Bình chỉ huy hai đại đội Phạm Hồng Thái và Ký Con cùng cánh quân thứ hai gồm hai đại đội Đề Thám và Hoàng Văn Thụ từ Thuỷ Nguyên về chiếm Hải Phòng. Địch hoảng sợ bỏ chạy.
Nguyễn Bình chọn nhà băng Năm Sao làm trụ sở Bộ Tư lệnh Đệ Tứ Quân Khu. Tên này được đặt theo quyết định của Hội nghị quân sự cách mạng Bắc kỳ họp từ ngày 15 đến 20-4-1945 tại Hiệp Hoà, Bắc Giang.
Hội nghị quyết định cả nước chia làm bẩy quân khu. Bắc Bộ có bốn quân khu Lê Lợi, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung, Trần Hưng Đạo cũng gọi là Đệ tứ Quân Khu. Trung Kỳ có hai chiến khu Phan Đình Phùng và Trưng Trắc. Nam Bộ có một chiến khu: Nguyễn Tri Phương.
Đệ Tứ Quân Khu có các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hải Phòng, Quảng Yên, Hòn Gai, Móng Cái và Lạng Sơn. Cũng có người gọi theo xưa là chiến khu Đông Triều hay chiến khu Duyên Hải.
Đóng tại Hải Phòng, tư lệnh Nguyễn Bình thay đổi cách ăn mặc cho thích ứng tình thế. Ông thay bộ nâu sồng bạc màu để mặc quân phục ka ki may kiểu Nhật. Vóc dáng to cao, mặc nhà binh xem ra rất vẻ tướng lãnh.
Tin từ miền Nam cho biết quân Anh Ấn tới Sài Gòn giải giới quân Nhật. Bọn Pháp được tên tướng Anh Gracey thả từ các khám giam. Bọn này thừa lúc quân Pháp từ chánh quốc sang bắt đầu gây hấn dưới sự yểm trợ của quân Anh. Nghe tin này tim Nguyễn Bình sôi lên. Miền Nam là quê hương thứ hai của anh: Anh nhớ lại bao kỷ niệm tưởng đã nằm im dưới lớp bụi thời gian. Hai mươi năm trước, một trang thiếu niên mười bẩy đã bước lên cảng Khánh Hội, qua Cầu Móng đi về Chợ Cũ. Tất cả đều xa lạ. Ngôi nhà đồ sộ có vòng rào kiên cố đập vào mắt: nhà chú Hoả. Rồi căn phố nuôi cơm tháng trong hẻm với nhưng chiếc ghế bố và những bữa cơm ồn ào vui vẻ.
Nổi bật nhất là căn gác trọ ngôi nhà số 2 đường Lefebvre với bảng hiệu Nam Chấn Hưng. Đó là nơi anh chung sống với nhà văn - tướng cướp Sơn Vương. Thời gian tuy ngắn nhưng ghi đậm cảm tình... Rồi căn nhà ở Đakao, nơi anh mở tiệm giặt ủi với số tiền Sơn Vương cướp của tên phó giám đốc sở cao su Minot ở biên giới. Và sau cùng là bagne 2, căng tù Quốc dân Đảng, nơi anh phải trả giá quá đắt cho việc chọn lầm lý tưởng. Ký ức nung nấu lòng căm thù: không thể ngồi yên nhìn quân cướp nước dày xéo đồng bào trong Nam. Phải làm gì đây?
Nguyễn Bình đang xốn xang vì tình cảm gắn bó với miền Nam thì có đặc phái viên của Bộ quốc phòng tới. Nguyễn Bình đọc giấy giới thiệu: Xin giới thiệu đồng chí Lê Quang Hoà là đặc phái viên Quốc phòng... Ký tên: Võ Nguyên Giáp.
Chờ Nguyễn Bình đọc xong, phái viên nói:
- Anh Trần Cung có nói về anh. Anh đã hoạt động trong nam, bị thực dân đày ra Côn Đảo. Khi được phóng thích, anh về Hải Phòng, xây dựng chiến khu Dông Triều, tiền thân của Đệ Tứ Quân Khu ngày nay...
Nguyễn Bình cắt lời:
- Đồng chí đi hẳn vào đề đi?
- Hiện nay Tổng bộ Việt Minh đặc biệt quan tâm tới việc củng cố các chiến khu để bảo vệ chính quyền cách mạng. Tôi đang làm bí thư Ban cán sự tỉnh Sơn Tây thì được điều động vào quân đội. Anh Võ Nguyên Giáp phân công tôi về làm công tác chính trị trong lực lượng võ trang ở đây.
Nguyễn Bình nhìn khách không chớp. Đây là chuyện lạ. Ngày chiến đấu gian lao, sống chết chẳng thấy người này tới giúp mình, nay bỗng nhiên tới đòi chia quyền lãnh đạo. Nguyễn Bình gật gù cười lạt. Đoán biết ý chủ, khách nói:
- Xin nói rõ thêm. Anh vẫn là tư lệnh. Còn tôi chỉ làm công tác chính trị...
Nguyễn Bình cắt ngang:
- Tôi chưa thông về việc này. Cho tôi có thì giờ suy nghĩ đã!
Tự biết mình không đủ uy thế để thuyết phục vị tư lệnh Đệ Tứ Quân Khu, Lê Quang Hoà đành rút lui, ông sẽ về báo cáo với cấp trên. Phải là người thế nào mới được Nguyễn Bình nghe. Vì đây là một tay hảo hớn “dọc ngang nào biết trên trời có ai”.
Được Bác gọi. Bình lên Hà nội
Lần thứ hai khăn gói vào Nam
Sau cuộc gặp gỡ phái viên Bộ Tổng một tuần, Nguyễn Bình được thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi về Thủ đô. Tư lệnh Đệ Tứ Quân Khu nửa miệng nửa lo. Mừng là từ lâu mong được gặp vị chủ tịch nước từng là một nhà cách mạng bôn ba khắp thế giới tranh đấu giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho nước nhà. Còn lo là về chuyện chống lại Bộ Tổng, không nhận chia quyền chỉ huy cho người xa lạ chưa từng đóng góp xương máu cho mảnh đất Đông Triều thân yêu. Chuyến về thủ đô ngàn năm văn vật giữa tháng chín năm ấy Nguyễn Bình nhớ mãi. Anh suy nghĩ nhiều về cách ăn mặc khi vào Bắc Bộ Phủ gặp vị chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Phải ăn mặc thật đàng hoàng. Phải đúng phong cách một tướng lãnh, một tư lệnh quân khu. Ông mặc quân phục ka ki, mang giày bốt da lấy của Nhật, đeo cả súng lẫn gươm của Nhật, đội kết cũng là chiến lợi phẩm của Nhật. Tất cả trang sức đó vừa đẹp vừa nói lên chiến công hiển hách vừa qua. Theo ông, đó là gián tiếp báo cáo với thượng cấp thành tích cách mạng của chiến khu Duyên Hải mà anh là người đại diện.
Từ Hải Phòng Nguyễn Bình đi xe hơi về Hà Nội.
Nước nhà đã tuyên bố độc lập rồi, nhưng đường phố lểnh ngểnh bọn lính Tàu Tưởng đáng ghét. Nếu chúng dẫn xác vào giang sơn của ông thì chắc chắn là sẽ có lắm tên đi chầu Hà Bá.
Đến Bắc Bộ Phủ, một bất ngờ lớn đang chờ ông thay vì một vị chủ tịch ăn mặc đúng thời trang, côm-lê cà vạt, giày da bóng láng, ông được một cụ già giản dị trong bộ quần áo mặc thường ngày, chân đi dép.
Thấy vị chủ tịch nước “phú quý bất năng dâm” như thế, tự nhiên Nguyễn Bình đâm ngượng về cách ăn mặc diêm dúa của mình. Nhưng Bác không quan tâm tới chuyện nhỏ nhặt mà đi thẳng vào chuyện quốc gia đại sự:
- Chú là Nguyễn Bình, tư lệnh Đệ Tứ Quân Khu đấy ư?
Bác vừa hỏi vừa đưa tay ra bắt. Nguyễn Bình nắm lấy bàn tay Bác xúc động. Ông hoàn toàn bất ngờ trước cử chỉ thân ái. Vị chủ tịch nước tiếp một tư lệnh quân khu không theo nghi thức “triều đình” mà theo lối thân tình bác cháu:
- Thưa Bác, cháu là Nguyễn Bình. Về đây theo thư Bác gọi.
Bác Hồ chỉ ghế mời khách ngồi, chìa gói thuốc thơm ra mời. Bình rút một điếu. Bác lại bật quẹt cho Bình.
Hai bác cháu cùng hút vài lời trước khi vào chuyện:
- Bác có nghe báo cáo về các hoạt động của cháu ở chiến khu Đông Triều. Bác có lời khen... Mấy ngày qua chú có nghe tình hình trong Nam?
- Thưa Bác có. Ngày 23-9 vừa qua, Pháp đã gây hắn. Đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn đã nhất tề đứng lên kháng chiến.
Bác nói:
- Cũng như một trăm năm trước, giặc nhắm vào miền Nam đánh trước. Nhưng ngày nay khác hẳn ngày xưa. Triều đình Huế cắt đất, cầu hoà, còn chúng ta nhất định không để mất một tấc đất. Nam Bộ là máu của chúng ta, là xương của chúng ta. Nam Trung Bắc một nhà, không ai có thể chia ly được. Nguyễn Bình gật lia. Ông Cụ nói đúng tâm trạng của mình quá. Ông toan nói nhưng ông Cụ nói tiếp:
- Máu chảy ruột mềm. Rất nhiều đồng chí tình ngnyện vào Nam chiến đấu. Các đoàn Nam Tiến đang chuẩn bị lên đường. Bác có nghe đồng chí Trần Huy Liệu nói chú trước kia có hoạt động trong Nam. Bác nghĩ rằng các lực lượng vũ trang trong đó đang cần một chỉ huy có tài năng để tập hợp cán bộ đội địa phương lại, nếu không sẽ có thể xảy ra nạn thập nhị sứ quân rất tai hại trong lúc này. Người chỉ huy đó phải là người đã biết rõ miền Nam, lại phải là một người có đủ bản lãnh thu hút những tay giang hồ kiểu Bình Xuyên. Chú có thể đảm trách vai trò đó không?
Nguyễn Bình hoàn toàn bất ngờ trước câu hỏi ấy. Ông đinh ninh Bác sẽ thuyết phục ông chia quyền với phái viên Bộ Tổng mà ông đã một lần từ chối. Chưa có lúc nào ông ngờ Bác chọn mình để phái vào Nam. Ông đang lúng túng thì Bác nói tiếp:
- Chú có đủ điều kiện nói trên. Chú đã sống trong Nam, am hiểu nhiều loại người. Không ai xứng đáng hơn chú để lĩnh trọng trách tập hợp các giáo phái trong Nam để đương đầu với địch. Chú nghĩ thế nào?
Nguyễn Bình đã có lần mơ ước chuyện vào Nam thăm lại người xưa cảnh cũ, nhưng ông không thể vào Nam như một khách nhàn du vì nay ông là tư lệnh một quân khu quan trọng: quân khu duyên hải, là yết hầu của thủ đô Hà Nội. Nay chính vị chủ tịch nước chánh thức giao công tác vào Nam cho anh. Vậy là đúng lý hợp tình. Ông gật ngay:
- Bác đã tín nhiệm cháu, cháu xin nhận.
Bác vui vẻ nói:
- Bác giao miền Nam cho chú đó. Chú hãy tỏ ra xứng đáng với lòng tin yêu của Bác và của đồng bào miền Nam. Hãy về thu xếp vào Nam ngay. Tình hình trong đó như nước sôi lửa bỏng. Nhớ ghé qua chú Giáp lấy giấy tờ. Bác đã bảo chú Giáp làm giấy giới thiệu đặc phái viên Bộ Tổng cho chú rồi. Bác xiết thật mạnh bàn tay Nguyễn Bình thời nói:
- Chúc chú thượng lộ bình an.
Rồi thật bất ngờ Bác ông choàng luôn lên hai má Nguyễn Bình. Đây là cách biểu lộ tình cảm của người phương Tây. Pháp gọi là: “accolade” ông Bình chỉ thấy trong phim thời sự mà thỏi. Nay không ngờ vị chủ tịch nước đã “accolade” mình. Theo phản ứng tự nhiên, Bình cũng hôn đáp lễ những chỉ kịp áp má vào râu Bác. Chừng xuống tam cấp Bác Bộ Phủ, ông vẫn còn nghe nhột nhột trên má, dường như râu Bác còn cạ vào má ông.
Ghé Bộ Quốc phòng lấy giấy giới thiệu, Nguyễn Bình về Hải Phòng thu xếp hành lý vào Nam. Dù chuyến đi được quyết định một cách đột ngột, thành phố Hải Phòng cũng cấp tốc làm tiệc tống biệt vị tư lệnh bách chiến bách thắng của mình. Đại diện thành phố Cảng trao tặng khu trong khẩu súng lục liệu Wicker để làm kỷ niệm, mong rằng khẩu súng mang trong người sẽ nhắc nhở Khu trưởng rằng dân Hải Phòng luôn luôn theo dõi từng bước chân của Khu trong trên đường vào Nam thi hành trọng trách mà Bác Hồ đã giao. Rất xúc động, Nguyễn Bình đưa cao khẩu súng nói lớn:
- Bác đã giao miền Nam cho Nguyễn Bình. Thành phố Cảng tặng Nguyễn Bình khẩu súng này để hoàn thành nhiệm vụ Bác giao. Nguyễn Bình thề với khẩu súng này: Nếu để Nam Bộ mất, Nguyễn Bình sẽ chết theo khẩu súng này.
Cả hội trường xúc động cao độ với lời thề son sắt ấy. Việc chuẩn bị tiến hành nhanh gọn. Khu trưởng làm lễ bàn giao cho người thừa kế và sau đó khăn gói lên đường. Trên đường thiên lý, đơn thương độc mã, Nguyễn Bình có nhiều thì giờ để nghĩ ngợi chuyện đời: ngày xưa, khi ngỏ ý cùng cha nguyện vọng vào Nam tìm đất sống thay vì tiếp tục học để giật mảnh bằng sư phạm, ông thân khuyên: “Chớ nên thả mồi bắt bóng”. Đây có phải là thả mồi bắt bóng không, chắc chắn là không phải. Tất cả chỉ vì tổ quốc Việt Nam thân yêu. Phong cảnh đẹp hai bêu đường đánh thức tâm hồn nghệ sĩ trong ông. Tới Đèo Ngang bất giác ông ngâm:
Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, lá chen hoa
Nhưng thơ Bà Huyện Thanh Quan nghe hiền lành quá mà tâm hồn nhà tướng đang bừng bừng khí thế. Bình chuyển sang bài thơ “tráng sĩ hề” với hình tượng kiếm cung, kỵ mã:
Tráng sĩ hề, gặp thời loạn
Như cá gặp nước hề, ta vẫy vùng
Một ngựa một gươm hề, một cây cung
Ta xông pha hề, trong chốn lao lung