Tống Y Tác giả: Mộc Dật Chương 231: Tiểu kiều lưu thủy
Nhóm dịch: Thiên Địa Môn
Nguồn: Sưu Tầm
Các sơn trang đều nằm quấn quanh trên ngọn núi nhỏ ở ngoại thành phía Tây. Trước thôn là một con sông, có tên là Phúc Thọ Hà, tương truyền con sông này nước sông chưa bao giờ cạn, nhưng hễ có ai hay uống nước sông này thì đều có được tuổi thọ rất cao, thế nên sông mới mang tên Phúc Thọ Hà.
Đỗ Văn Hạo và Lâm Thanh Đại ngồi trên xe bò kéo đi ra khỏi thành. Xe bò vừa đi ra khỏi thành, thì Đỗ Văn Hạo bèn ôm Lâm Thanh Đại vào lòng, hai người ôm hôn nhau thắm thiết và thì thầm bên tai nhau những lời yêu thương.
Ông lão đánh xe rất biết ý, ngồi trên thành xe, kéo mành che của xe xuống, miệng còn cao giọng hò một bài sơn ca lạc điệu, quất dây giục bò tiến bước, cũng không làm phiền Đỗ Văn Hạo và Lâm Thanh Đại tình tứ với nhau.
Đỗ Văn Hạo ôm hôn Lâm Thanh Đại một cách say đắm, bất giác đưa tay lên cởi nút áo trên người Lâm Thanh Đại, nhưng Lâm Thanh Đại đã nhanh tay tóm lấy tay của hắn sẵng giọng: “Đứng đắn một chút đi! được không? Lâu lắm rồi hai ta mới đến Quách gia trang, phong cảnh đẹp như vậy, sao lại không thưởng thức phong cảnh cơ chứ?”
Đỗ Văn Hạo cười cười, ngồi thẳng người dậy. Vén màn xe lên nhìn, xe đang đi đến một cây cầu đá hình cầu vồng, dưới cầu nước sông man mác, gió là đà vờn trên mặt sông. Hắn bất giác cảm thấy khoan khoái vô cùng, nói: “Phong cảnh quả là rất đẹp, sao ta lại không đi ngắm nó nhỉ?”
“Ngắm chứ.” Lâm Thanh Đại và Đỗ Văn Hạo hai người cùng đi xuống xe, gọi ông lão đánh xe đi qua cầu trước, còn hai người bọn họ từ từ đi phía sau để còn ngắm phong cảnh. Ông lão gật đầu đồng ý, ra roi quất bò đi trước.
Hai người đứng trên cầu thưởng thức cảnh đẹp trước mắt. Nước sông Phúc Thọ Hà trong vắt đến tận đáy, đứng từ phía trên cầu có thể nhìn thấy cá đang nô đùa ở dưới chân cầu. Lâm Thanh Đại nói: “Nghe nói cá của con sông này có thể chữa được bệnh.”
Đỗ Văn Hạo vòng một tay ôm lấy cái eo nhỏ xinh của Lâm Thanh Đại, liếc mắt nhìn ra xung quanh xem có ai không, rồi nhanh như tia chớp hôn chụt lên má Lâm Thanh Đại, nói: “Vạn vật trên thế gian này đều là thuốc, chỉ tiếc là chúng ta biết quá ít về chúng mà thôi. ”
Lâm Thanh Đại nhẹ nhàng lách khỏi vòng tay của hắn, quay nghiêng người nửa cười nửa không, nhìn hắn: “Bốc thuốc cũng vậy, làm người cũng như vậy. Chàng hiểu thiếp được bao nhiêu đây?”
“Ta dĩ nhiên hiểu nàng chứ! Chúng ta ở bên nhau gần được một năm rồi còn gì?”
“Thời gian không nói lên điều gì cả. Có những người, ở với nhau cả một đời người, mà vẫn không hề hiểu nhau chút nào, cứ như là người xa lạ vậy. Nhưng có những người, chỉ ở với nhau dù chỉ một khắc, thậm chí chỉ một cái liếc mắt thôi, mà đã tâm đầu ý hợp rồi.”
“Đúng là thần giao cách cảm, câu nói của nàng tràn đầy thiền ý đó! Nếu như Tĩnh Từ Sư Thái ở Bạch Vân Xã nghe được câu này, chắc chắn rằng bà ấy sẽ khuyên nàng xuất gia bằng được, để không phải hối tiếc cái huệ căn hiếm có của nàng.”
Lâm Thanh Đại làm mặt hề, cười hì hì: “Thiếp xuất gia, chàng đành lòng sao?”
“Dĩ nhiên là không đành lòng rồi!” Đỗ Văn Hạo trông nàng kiều mỵ đáng yêu như vậy, bất giác lại không cầm nổi lòng, đưa tay ra ôm nàng vào lòng, Lâm Thanh Đại lắc người lẩn tránh: “Đừng đùa nữa! có người lên cầu kìa.”
Đỗ Văn Hạo quay vừa đầu lại, liền nhìn thấy một đàn bò đang đi lên trên cầu, phía sau đàn bò có tiếng hét lớn: “Trên cầu có người không? Nếu nghe thấy, thì mời nhanh chân tránh ra, bò nhà ta rất khó bảo, húc vào người thì đừng trách.”
Mấy con bò đó mũi thở phì phò dẫm đạp lên những viên sỏi lát trên cầu đá, tiếng dẫm đạp ầm ầm dồn dập dường như sắp lên đến nơi. Cây cầu hẹp quá nhỏ, đàn bò xông lên chật cứng, khi Đỗ Văn Hạo định kéo Lâm Thanh Đại xuống cầu lẩn tránh đàn bò, thì Lâm Thanh Đại đã xông lên chắn ngay trước mặt hắn, chờ đàn bò xông đến, nàng đưa tay phất lên một luồng kình lực, đàn bò đã bị đẩy dạt sang một bên.
Mặc dù mấy con bò này đều thuộc hàng hung hãn, nhưng dưới sức ép của chưởng lực từ tay Lâm Thanh Đại, bọn chúng không thể nào áp sát đến bên hai người được nửa bước, cuối cùng bị ép chật cứng thành một đống, chầm chầm từng bước một lết qua cầu.
Đỗ Văn Hạo nói với ông lão chăn bò: “Ông lão ơi, cầu bé như thế này, ông nên nhường cho người ta đi trước rồi mới cho bò qua chứ, nếu không mấy con bò hung hãn này húc người thì làm thế nào? May mà phu nhân của ta biết chút võ công, nếu không, bọn ta đã bị đàn bò của ông hất văng xuống cầu rồi. ”
Ông lão đó gập người đáp lễ liên tục, xin lỗi nói: “Thành thật có lỗi với tiểu huynh đệ quá, mắt của lão phu gần đây kèm nhèm không được tốt lắm, không nhìn rõ sự vật, nhìn cái gì cũng mờ mờ mịt mịt cả, không biết trên cầu có người, thật là đắc tội, đắc tội.”
Đỗ Văn Hạo định thần nhìn lại, mới nhận ra mắt ông lão đã sưng đỏ cả lên, khóe mắt có rỉ vàng như mủ chảy ra, nhìn trông khiếm nhã, bẩn thỉu vô cùng, thế nhưng người nông thôn lại thường rất thật thà, chất phác, chẳng ai quan tâm những tiểu tiết như vậy cả, Đỗ Văn Hạo bèn nói: “Ông lão, bệnh mắt của ông đúng là không nhẹ chút nào.”
“Ừ, đúng vậy, đây là do nóng trong phát hỏa đó.”
Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: “E rằng không phải nóng trong thôi đâu.”
“Ồ? ” Ông lão nheo mắt liếc nhìn Đỗ Văn Hạo: “Nghe cách nói của các hạ, thì các hạ là một lang trung rồi.”
“Tại hạ Ngũ Vị Đường Đỗ Văn Hạo!”
“Đỗ Văn Hạo?” Ông lão dường như không biết đến danh tiếng của Đỗ Văn Hạo, liếc hắn một cái nói: “Tiên sinh đến đây mua thuốc phải không?”
“Ha ha, tại sao ông lại không nghĩ là tại hạ ra đây là chẩn đoán, khám bệnh cơ chứ?”
“Người trong thôn chúng tôi đa số đều hiểu chút ít y thuật, mấy cái bệnh cỏn con này thì tự khám cho mình là được rồi, cần gì cứ phải chạy vào thành tìm đại phu chứ?”
“Nghe ông nói vậy, thì ông cũng học y phải không?”
“Hiểu một ít bề ngoài mà thôi, ài! Bị bệnh mà không tự chữa được cho mình thì kém quá! Thôi ta đi đây!”
Ông lão lắc đầu, thở dài, ra roi quất bò khuất bóng dưới chân cầu.
Chờ ông lão đó đi xa rồi, Lâm Thanh Đại cau đôi lông mày, nhỏ nhẹ hỏi: “Trên người ông ấy có mùi gì vậy?”
Đỗ Văn Hạo gật gật đầu, đáp: “Là mùi của thuốc đắp làm mát hốc mắt. Ông ấy kê thuốc không đúng, nên bị phản tác dụng, bệnh ở mắt ngày càng nặng. Nếu trì hoãn thời gian chữa bệnh quá lâu, thì bệnh sẽ không thể chữa khỏi được nữa.”
“Vậy sao chàng không nói cho ông ấy biết?”
“Nói gì cơ chứ? Người ta căn bản không coi ta ra cái gì cả, một Thái Y Viện Viện Phán lừng lẫy như vậy, mà cũng không biết đến. Đi thôi, chúng ta vào thôn mua thuốc.”
Đỗ Văn Hạo dắt tay Lâm Thanh Đại đi xuống cầu, từ rất xa hình như ông lão nghe thấy điều gì đó. Ông đứng im, quay đầu lại, kinh ngạc ngó nhìn sang đầu cầu bên kia, ngẩn người suy nghĩ.
Sáng ngày thứ hai, dược đường vừa mở cửa. Người đầu tiên bước vào, tự xưng là Quách Kính, chỉ đích danh Đỗ Văn Hạo đến xem bệnh, không muốn bất kỳ một vị đại phu nào ngoài Đỗ Văn Hạo chữa bệnh cho mình cả. Những người hâm mộ tên tuổi của Đỗ Văn Hạo đến tìm hắn chữa bệnh, nhiều đếm không xuể, thế nên mọi người nơi đây cũng quá quen với việc này, làm cho Diêm Diệu Thủ và Hàm Đầu phải hết lời khuyên nhủ thuyết phục.
Người đó tự xưng mình cũng là một đại phu, nhưng kê đơn thuốc rồi mà vẫn không chữa được bệnh mắt của mình, nói là muốn người ta kiểm tra tình hình dùng thuốc hộ mình.
Diêm Diệu Thủ và Hàm Đầu đều nhìn vào đôi mắt của người này, rồi nghe người này trình bày tình hình dùng thuốc của mình xong, cả hai người đều há hốc mồm kinh ngạc, bèn kêu người ra hậu đường gọi Đỗ Văn Hạo đến.
Đúng lúc đó Lâm Thanh Đại đang ngồi nói chuyện với Đỗ Văn Hạo. Nghe thấy vậy, cũng đi theo Đỗ Văn Hạo ra bên ngoài, nhìn thấy bệnh nhân, liền thấp giọng nói với Đỗ Văn Hạo: “Đây không phải ông lão chăn bò hôm qua gặp ở cầu đá sao?”
Đỗ Văn Hạo gật gật đầu tiến lên phía trước ra hiệu bọn tiểu nhị đỡ người đó ngồi xuống.
Ông lão ôm lấy mắt hỏi: “Có phải Đỗ tiên sinh đó không?”
Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Chính là tại hạ.”
Ông lão đưa tay mò mẫm muốn bám lấy cái gìđó, thấy vậy Đỗ Văn Hạo liền đưa tay ra đỡ lấy, ông lão bắt được tay của hắn, chưa kịp nói câu gì thì nước mắt kèm theo những vệt mủ vàng đã từ khoé mắt bị mưng mủ, chảy dài xuống.
Đỗ Văn Hạo vội vàng ngăn lại, nói: “Đừng vội, bệnh của ông không được khóc, có gì cần giúp đỡ cứ việc nói ra, chỉ có điều nước mắt ông không được chảy nữa, cái này không có ích gì cho đôi mắt ông hết .”
Ông lão vội đưa vạt áo lên quẹt nước mắt, rồi run run nói: “Đỗ tiên sinh, xin ngài hãy tha thứ cho lão phu có mắt mà như mù. Hôm qua gặp mặt, mà không biết rằng tiên sinh là thần y Đỗ đại phu. Lại còn lùa bò húc ngài nữa, khi về hỏi mới biết rằng tiên sinh có tiếng như vậy, thật đáng hổ thẹn.”
“Không có gì, không có gì, đừng khách khí quá. Bệnh mắt của ông rốt cuộc là bị làm sao vậy?”
“Đó là một câu chuyện khá dài, lão phu vốn là một đại phu làng nhàng ở quê, hàng ngày ngoài làm việc đồng áng ra, còn biết cắt thuốc để buôn bán lấy tiền và còn xem mấy cái bệnh lặt vặt cho những người trong thôn. Đầu xuân năm nay, đột nhiên mắc bệnh mắt này, cứ ỷ mình cũng là một đại phu, nên không cần mời người khác đến xem bệnh cho mình, mà tự mình kiểm tra, tôi nghĩ đây là nóng trong nên dùng những loại thuốc như Hoàng Liên, Sơn Ngôi, Cúc Hoa, Bạc Hà, toàn những loại thuốc mát lành để chữa, không ngờ bệnh ngày càng nặng thêm. Hôm qua, Đỗ thần y chỉ cần nhìn qua một cái, là biết bệnh của lão phu rồi. Còn nói đặc điểm dùng thuốc của tôi nữa, lão phu kinh ngạc vô cùng, lại biết tiên sinh còn tinh thông Thần Kỹ Hoa Đà nữa, thế nên lão phu vô cùng ân hận khi để lỡ cơ hội được tiên sinh chỉ bảo cho. Do vậy sáng sớm ngày hôm nay, bèn đích thân đến đây mong tiên sinh cứu giúp.”
“Ông lão, ông cứ yên tâm, tại hạ sẽ cố gắng hết sức để chữa khỏi bệnh cho ông.” Đỗ Văn Hạo cầm tay bắt mạch, cẩn thận xem xét lưỡi ông, rồi dò hỏi từng ly từng tí quá trình phát bệnh của ông, cười nói: “Mạch của ông trầm, nhịp mỏng, yếu đích thị là âm hư huyết nhiệt, do sơ gan gây nên, chả trách ông dùng mấy phương thuốc giải nhiệt trị độc đều không khỏi. Bệnh này không khó. Chỉ cần kê ba đơn thuốc là có thể chữa khỏi bệnh trên mắt của ông. ”
Quách Kính mặt nghi ngờ, hỏi: “Lão phu biết thần kỹ của tiên sinh rất cao siêu, nhưng, mắt của lão đã nghiêm trọng như vậy rồi. Tiên sinh kê đơn thuốc gì trị liệu bệnh cho lão, uống thuốc là có thể chữa lành bệnh?”
Đỗ Văn Hạo cười cười, cất bút viết một đơn thuốc đưa cho ông ta, an ủi nói: “Có chữa được hay không, ông cứ uống rồi sẽ biết.”
Quách Kính tiếp lấy đơn thuốc, kinh ngạc nói: “Thưa Tiên sinh, mọi người ai cũng nói là bệnh của mắt đều do nhiệt mà ra cả. Nhưng phương thuốc mà tiên sinh kê lại không có bài thuốc nào làm thanh nhiệt tả hỏa cả, lão phu không hiểu như vậy có chữa được bệnh cho lão phu không?”
“Nóng có hư có thực, bệnh có trong có ngoài. Bệnh bên ngoài thì dùng Hoàng Liên, Thiền Thuế rửa cái là xong. Nhưng nhiệt nóng bên trong là do tỳ vị tụ hỏa, nên nhiệt công lên mắt, đây là chứng nội thực nhiệt. Phải thải được nhiệt bên trong thì mới chữa khỏi bệnh được. Ông hồi trước dùng các bài thuốc hàn lạnh nhưng hỗ hỏa, như vậy là không đúng với chứng bệnh, nên càng chữa bệnh càng nặng thêm. Ông không tìm đúng nguyên nhân của bệnh nên chữa không khỏi là lẽ đương nhiên rồi.”
Quách Kính chợt hiểu ra vấn đề, hổ thẹn chắp tay tạ ơn ra về.
Sau khi về, chỉ cần uống một thang thuốc thì cơn đau nhức giảm đi một nửa, uống hết ba thang thuốc, bệnh ở mắt quả nhiên được chữa lành toàn bộ.
Đưa ông lão Quách Kính về xong, Đỗ Văn Hạo quay lại nội đường. Gọi người chuẩn bị kiệu, sáng nay hắn phải đến Thái Y Viện làm việc. Thay xong quan phục liền lên kiệu, chiếc kiệu đủng đỉnh đưa hắn đến Thái Y Viện. Hắn vẫn vương vấn không biết món Tam Thất hầm gà mái dâng cho Hoàng Hậu thưởng thức, hiệu quả ra sao, nên sau khi đến Thái Y Viện báo danh xong, bèn đem theo Hạ Cửu Bà đến thẳng tẩm cung của Hoàng Hậu.
Nghĩ đến, mình sắp gặp được Hoàng Hậu nương nương sắc nước nghiêng thành, thì tim hắn đập rộn ràng. Muốn đến cung Long Hữu của Hoàng Hậu phải đi qua cổng cung Bảo Từ của Hoàng Thái Hậu. Đến cổng cung Bảo Từ Đỗ Văn Hạo dừng lại. Hắn nhớ ra cuộc hẹn ngày hôm qua, hắn đã hứa với Hoàng Thái Hậu sáng nay phải vào xem bệnh đau kinh cho bà, thế mà chỉ vì nghĩ đến quốc sắc thiên hương của Hoàng Hậu mà hắn suýt chút nữa quên béng mất chuyện này. Hắn lập tức quay người, bước vào trong cung Bảo Từ.
Đã có 3 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Thinhbobo
Tống Y Tác giả: Mộc Dật Chương 232: Tráp bạch ngọc
Nhóm dịch: Thiên Địa Môn
Nguồn: Sưu Tầm
Đến cửa của tẩm cung, một cung nữ vui vẻ chạy đến đón. Chính là cung nữ hôm qua bị Đỗ Văn Hạo quát mắng một trận, chạy đến trước mặt hắn, vén váy quỳ xuống, dập đầu, nói: “Nô tỳ Hàm Ngọc, đa tạ ơn nghĩa của đại nhân.”
Đỗ Văn Hạo kỳ lạ đáp: “Ta có ơn huệ gì với ngươi chứ?”
“Hôm qua, nô tỳ lỡ lời, đại nhân không nói cho nương nương biết, nên nô tỳ tránh được bị trừng phạt, nô tỳ vô cùng cảm kích ơn nghĩa của đại nhân.”
Đỗ Văn Hạo dùng tay đỡ nàng dậy, nói: “Cái này thì có đáng gì đâu, đứng dậy đi, nương nương của các ngươi có đây không?”
Hàm Ngọc đứng dậy đáp: “Dạ có! Nương nương đang chờ đại nhân đó, hỏi nô tỳ mấy lần xem đại nhân đã đến chưa. Bọn nô tỳ nói sẽ đến Thái Y Viện mời đại nhân đến, thì nương nương bảo là không cần, nói chắc là đại nhân bận việc nên đến muộn, đi giục đại nhân lại không hay, đại nhân đã hứa đến đây rồi, khi nào rảnh chắc chắn sẽ đến thôi.”
Đỗ Văn Hạo thầm thấy hổ thẹn, chỉ tại mê mẩn sắc đẹp của Hoàng Hậu, mà suýt chút nữa quên mất việc của Hoàng Thái Hậu, hắn cất bước đi vào trong, hỏi: “Bệnh đau kinh của nương nương ra sao rồi?”
“Dạ, cũng đã đỡ đi nhiều rồi, giờ chỉ còn đau âm ỉ một chút thôi, nương nương vui lắm, cứ khen đại nhân là thần Y giỏi nhất của Thái Y Viện.”
“Ha ha, để nương nương chê cười rồi.”
“Bọn nô tỳ đều nói, Đỗ đại nhân y thuật như thần. Nhất định sẽ chữa khỏi bệnh cho nương nương.”
Người khác càng tin tưởng Đỗ Văn Hạo bao nhiêu thì hắn lại càng lo lắng bấy nhiêu, trong đầu luôn phải nghĩ nên dùng phương thuốc gì.
Vốn dĩ có thể dựa vào phương thức của vị Ngự Y trước đến chữa cho Hoàng Thái Hậu để tham khảo kinh nghiệm của người ta, nhưng chỉ vì say mê sắc đẹp của Hoàng Hậu, nên đầu óc lúc nào cũng nghĩ trong đầu nên chữa chứng băng lậu của Hoàng Hậu nương nương ra sao. Đến bây giờ hắn mới nhớ ra bệnh đau kinh của Hoàng Thái Hậu vẫn chưa tham khảo được chút nào phương thức của vị Thái Y trước đó, nhưng giờ thì đã muộn rồi. Thôi thì cứ chuẩn đoán kiểm tra trước cái đã, còn việc kê đơn thuốc ra sao, thì đằng nào cũng phải thông qua hội nghị Thái Y Viện, đợi nghiên cứu kỹ càng xong, rồi mới kê đơn được, nên cũng không nên hấp tấp vội vàng làm gì.
Đến cổng tẩm cung, cung nữ Hàm Ngọc nhắc: “Đỗ đại nhân, xin chờ một lát, nô tỳ vào bẩm báo một câu.” Nói xong Hàm Ngọc vội vàng đi vào trong, rất nhanh, Hàm Ngọc đã đi ra, vui vẻ đáp lễ: “Đỗ đại nhân, nương nương mời đại nhân vào.”
Đỗ Văn Hạo và Hạ Cửu Bà đi theo Hàm Ngọc, đi vào trong viện, xuyên qua một cái giếng trời, lên cầu thang vào đại sảnh.
Bố cục nơi đây cũng giống trong cung của Hoàng Hậu nương nương, cũng là một giải rèm trắng như tuyết, cắt ngang đại sảnh chia làm hai phần. Phía cách sau rèm trắng có một cái sạp mềm, có một quý phụ ngồi phía trên, đó chính là Hoàng Thái Hậu.
Đỗ Văn Hạo vội vàng cúi người thi lễ: “Thái Y Viện Viện Phán Đỗ Văn Hạo, bái kiến Hoàng Thái Hậu nương nương.” Hạ Cửu Bà cũng thi lễ như hắn.
Một tiếng nói cất lên sau cái rèm trắng, lộ lên vẻ vui mừng: “Đỗ đại nhân vất vả quá, mời đại nhân ngồi.”
Cung nữ Hàm Ngọc vội vàng bê đến một chiếc ghế cho Đỗ Văn Hạo ngồi. Hạ Cửu Bà cúi đầu đứng bên cạnh hắn.
Hoàng Thái Hậu nói: “Đỗ đại nhân, đa tạ đại nhân chữa khỏi bệnh đau kinh cho Ai gia, Ai gia rất vui, y thuật của đại nhân quả là cao diệu.”
“Đa tạ nương nương khen thưởng, nhưng châm cứu làm giảm đau chỉ là một biện pháp nhất thời, nếu muốn trị tận gốc căn bệnh thì phải phối hợp với uống thuốc mới mong khỏi được. Thế nên hôm nay hạ quan đến đây để chẩn đoán kiểm tra lại bệnh chứng một lần nữa. Bệnh này của nương nương bắt đầu từ khi nào vậy?”
Khuôn mặt Hoàng Thái Hậu trở nên buồn bã nói: “Tiên Đế băng hà không được bao lâu, thì ta mắc phải căn bệnh này.”
Có lẽ là do trầm uất nên sinh bệnh. Hoàng Thái Hậu tuy là mẹ của Hoàng Thượng, nhưng nhìn bộ dạng cũng chỉ khoảng trên dưới ba mươi tuổi mà thôi, còn trẻ như vậy mà đã thành quả phụ cũng thật là đáng thương, Đỗ Văn Hạo cúi người hỏi: “Trước và sau khi nương nương bị đau kinh thì thường có biểu hiện gì?”
“Mỗi lần kinh đến trước mấy ngày, vùng bụng dưới của ta đau như dao cắt, miệng ho ra đờm, trong lúc hành kinh thì miệng vẫn tiếp tục ra đờm, càng lúc càng đau hơn. Được sáu bảy ngày sau, thì hết kinh, sự đau đớn cũng giảm dần theo đó. Nhất là khi đau, thì đau xé ruột xé gan. Ai gia muốn hỏi ngươi, lần kinh nguyệt tới, ngươi lại đến giúp Ai gia giảm đau được không?”
Đỗ Văn Hạo nghiêng người cung kính đáp: “Bẩm Hoàng Thái Hậu, thần có thể chữa trị ngày hôm nay với ngày mai, mỗi ngày một lần, sự đau đớn của nương nương sẽ hoàn toàn biến mất. Đến khi kinh của nương nương hết được mười ngày, thần sẽ điều trị thêm lần nữa để củng cố trị liệu. Chờ trước khi lần kinh nguyệt sau đến, khi nương nương mới cảm thấy đau thắt, vi thần sẽ chữa trị tiếp cho nương nương lần thứ ba. Cứ lặp đi lặp lại như vậy, bệnh đau kinh của nương nương sẽ được chữa khỏi.”
Hoàng Thái Hậu thở hắt ra một hơi, cười nói: “Như vậy thì tốt quá rồi, thật phiền Đỗ đại nhân quá.”
“Vi thần phụng chỉ hành y nơi hậu cung, đây là nghĩa vụ của vi thần, Thái Hậu nương nương được khỏe mạnh, cũng là phúc phận của vi thần. Nhưng vẫn là câu nói mà vi thần đã nói, châm cứu chỉ giảm đau nhất thời, không chữa được tận gốc căn bệnh. Muốn trị tận gốc thì phải phối hợp với chẩn đoán, biện chứng kết hợp với uống thuốc nữa.”
Hoàng Thái Hậu gật đầu nói: “Ngươi xoa dịu được cơn đau cho Ai gia. Ai gia cũng yên tâm lắm rồi, chữa tận gốc ra sao. Cũng không nên hấp tấp vội vàng, Thái Y Viện đã chữa cho ta mấy năm rồi, cũng có chữa được cho ta đâu. Ai gia không yêu cầu ngươi khắt khe như vậy, chỉ cần khi đau thì có thể giảm đau cho ta, cũng đã là một thành công to lớn rồi.”
Đỗ Văn Hạo chắp tay đáp: “Hoàng Thái Hậu bị chứng đau kinh này bao nhiêu năm như vậy, không chữa khỏi bệnh cho Hoàng Thái Hậu là do bọn hạ thần vô dụng, mỗi lần nghĩ đến, lại thấy buồn bực. Vi thần nhất định dốc hết sức lực, chữa tận gốc căn bệnh này cho Hoàng Thái Hậu mới thôi, để cho nương nương không phải e sợ căn bệnh này nữa.”
“Được như vậy thì quá tốt rồi. Ha ha” Hoàng Thái Hậu mở miệng cười: “Vậy phiền Đỗ đại nhân chữa trị cho ta tiếp vậy.”
Đỗ Văn Hạo im lặng một lúc, rồi đáp: “Muốn chẩn đoán biện chứng chính xác, thì phải bắt mạch chẩn đoán, mong nương nương cho phép thuộc hạ của vi thần bắt mạch cho nương nương. “
“Không cần, ngươi trực tiếp vào bắt cho ta cũng được. Chẩn đoán bắt mạch thì đích thân nhà ngươi vào bắt là tốt hơn cả.”
Đỗ Văn Hạo giật thót mình, hắn nghe thấy lời mời phải vào sau rèm khám bệnh, bất giác nghĩ tới âm mưu của Thái Hoàng Thái Hậu, lẽ nào Hoàng Thái Hậu cũng có âm mưu gì sao? Nhưng Hoàng Thái Hậu cũng có bảo bọn cung nữ và thái giám lui ra ngoài đâu, vậy cũng đâu có giống chiêu ‘mời chàng vào rọ’ của Thái Hoàng Thái Hậu. Nên hắn liền vội vàng cúi người đồng ý lời mời của Hoàng Thái Hậu.
Hai cung nữ vén màn che lên, bê chiếc ghế của hắn vào bên cạnh chiếc sạp mềm của Hoàng Thái Hậu. Sau khi Đỗ Văn Hạo cáo lỗi xong, liền ngồi xuống, xem lưỡi và bắt mạch cho Hoàng Thái Hậu, trầm ngâm hồi lâu, hắn đứng dậy chắp tay nói: “Bẩm nương nương, an theo quy tắc của Thái Y Viện, vi thần phải quay về hội ý với Thái Y Viện mới được kê thuốc cho nương nương.”
“Phiền đại nhân quá.”
Đỗ Văn Hạo đáp: “Xin nương nương cho phép vi thần được phép châm cứu một lần nữa để củng cố trị liệu.”
“Vẫn còn phải châm cứu nữa sao?”
“Đúng vậy. Hiệu quả của việc châm cứu giảm đau thời gian cũng ngắn, buộc phải liên tục châm cứu trị liệu mới có kết quả tốt được, chờ đến khi vi thần nghĩ ra phương thuốc trị liệu bệnh này tận gốc, thuốc vào dứt bệnh, thì không còn cần đến châm cứu nữa.”
“Vậy thì được, nhưng ngươi chờ ta một chút!” Hoàng Thái Hậu đưa mắt ra hiệu cho cung nữ Hàm Ngọc. Hàm Ngọc gật đầu hiểu ý, bước vào sau hậu đường một lát rồi quay ra, trên tay bưng một chiếc tráp ngọc trắng trên có dát vàng, đứng cạnh Đỗ Văn Hạo.
Hoàng Thái Hậu nói: “Đây là phần thưởng của ta dành cho ngươi, vì ngươi đã giải thoát cho ta khỏi nỗi đau đớn đã dày vò thân xác ta bấy lâu nay, những cơn đau xé ruột xé gan giống như hàng trăm hàng ngàn con kiến gặm nhấm xương tủy của ta vậy. Ai gia rất vui, đợi đến khi ngươi chữa lành hẳn bệnh cho Ai gia, Ai gia sẽ còn thưởng ngươi nhiều thứ nữa.”
“Đa tạ Hoàng Thái Hậu ban thưởng!” Đỗ Văn Hạo vội vã cúi người thi lễ, sau đó lùi lại hai bước, quay người đi, rồi hắn rút từ trong người ra một chiếc khăn màu đen, che mắt lại, rồi thít chặt nút khăn phía sau đầu, nói: “Mời Hoàng Thái Hậu mở áo để thần châm cứu chữa bệnh cho Hoàng Thái Hậu.”
Mấy người cung nữ hầu hạ Hoàng Thái Hậu tiến lại cởi bỏ quần áo trên người Hoàng Hậu ra, để bà nằm lên trên giường. Đỗ Văn Hạo gọi Hạ Cửu Bà vào, cũng giống như lần trước, Hạ Cửu Bà chỉ cho hắn nơi cần châm cứu. Hắn dùng kim tam lăng châm vào kinh lạc để cho máu chảy ra. Xong rồi, lại châm vào hai bên cột sống, eo, hông, bụng dưới, rồi bắt đầu tiến hành gõ ở khu đới mạch.
Sau khi mọi thứ hoàn tất, đợi Hoàng Thái Hậu mặc xong quần áo, ngồi lên chiếc sạp mềm, khi này cung nữ mới tiến đến gỡ khăn đen che mắt của Đỗ Văn Hạo xuống.
Trước khi được Đỗ Văn Hạo châm cứu chữa trị, Hoàng Thái Hậu vẫn cảm thấy vùng bụng dưới âm ỉ đau nhức, nhưng sau khi được châm cứu xong thì sự âm ỉ đau nhức đó dường như tan biến đi hết cả, có khi còn không cảm thấy một chút gợn đau nào nữa, bà liền vui vẻ mỉm cười, nói: “Ai gia gặp được tiên sinh, đúng là Ai gia có phước vô cùng.”
Đỗ Văn Hạo cúi người, đáp: “Đây đều là hồng phúc của nương nương.”
Hoàng Thái Hậu ngắm nhìn Đỗ Thiên Hạo một chốc, chầm chậm nói: “Tốt lắm, thôi ngươi có việc thì cứ đi đi.”
“Tuân chỉ! Vi thần xin được phép cáo lui.”
Đỗ Văn Hạo cẩn thận đỡ lấy cái tráp ngọc mà Hoàng Thái Hậu ban thưởng cho hắn, lùi ra đến cửa, mới dám quay người đi ra khỏi phòng và dẫn theo Hạ Cửu Bà đi ra khỏi cung Bảo Từ của Hoàng Thái Hậu.
Lúc đầu hắn vốn định là sau khi ra khỏi cung Hoàng Thái Hậu thì sẽ trực tiếp đến thẳng cung Long Hữu của Hoàng Hậu, nhưng trên tay phải bưng cái tráp ngọc, cũng cảm thấy bất tiện. Thế nên hắn quyết định quay về Thái Y Viện cất chiếc tráp ngọc, rồi mới đi đến cung Long Hữu thăm Hoàng Hậu nương nương quốc sắc thiên hương sau. Đến xem xem món gà mái hầm Tam Thất hiệu quả ra sao.
Đang lúc hắn định quay người trở lại, từ xa ở phía dưới hàng đào, có hai cung nữ vẫy hắn: “Đỗ đại nhân.”
Đỗ Văn Hạo nhướn mắt ra nhìn hai cung nữ nọ, một người trong số đó hắn không quen, còn một người thì là cung nữ thân cận bên mình của Hoàng Hậu tên Tình Nhi, mặt của Tình Nhi vẫn còn nhiều chỗ thâm tím, sống mũi vẫn phải bôi bột thuốc cao, trông thật tức cười.
Tình Nhi và cung nữ nọ bước nhanh về phía hắn, thi lễ thưa: “Đỗ đại nhân, nương nương của bọn nô tỳ muốn mời đại nhân đến chỗ nương nương một chuyến, lúc nãy bọn nô tỳ đến Thái Y Viện tìm đại nhân, được biết đại nhân đã vào cung, nên vội chạy vào, lại hay Đỗ đại nhân vào cung Bảo Từ nên bọn nô tỳ đứng đợi Đỗ đại nhân tại đây.”
“Ồ, vậy sao? Các ngươi chờ ta quay về Thái Y Viện một lát, cất chiếc tráp ngọc này đi, sau đó sẽ đến ngay tẩm cung nương nương.”
“Đại nhân không cần quay về cất đâu, nương nương đang rất sốt ruột, nếu đến muộn, e rằng nương nương sẽ nổi giận.”
Đỗ Văn Hạo biết tính tình Hoàng Hậu nương nương nóng như lửa, hôm qua suýt chút nữa thì cái mạng cỏn con của hắn cũng đi tiêu vì cái tính này của Hoàng Hậu, dù sao cái tráp ngọc này cũng là Hoàng Thái Hậu ban tặng, đem nó theo, lại càng thể hiện được mình rất lo lắng cho bệnh tình của nương nương.
Nghĩ vậy, hai người bèn đi theo Tình Nhi và cung nữ nọ đến cung Long Hữu của Hoàng Hậu, mọi người đi thẳng vào trong, đến luôn chính đường.
Tình Nhi bảo Đỗ Văn Hạo cùng Hạ Cửu Bà đứng đợi mình và cung nữ nọ vào bẩm báo. Lúc sau, hai người đó đi ra, trên mặt của Tình Nhi thì không sao, nhưng trên khuôn mặt mịn màng của cung nữ kia thì hiện rõ năm vết ngón tay lằn lên đỏ chót, mắt của cung nữ nọ vẫn còn đang ngấn lệ, giọng run run bẩm báo với Đỗ Văn Hạo: “Đỗ đại nhân, nương nương mời đại nhân vào.”
Đỗ Văn Hạo thấp giọng hỏi: “Ngươi lại bị nương nương đánh à?”
Cung nữ nọ gật gật đầu, rồi lại vội vã lắc đầu. Sợ hãi ngoái lại phía sau nhìn một cái.
Lần trước Đỗ Văn Hạo cứu được tính mạng của Tình Nhi. Nên Tình Nhi rất có thiện cảm với hắn, bèn thấp giọng nói: “Nương nương trách bọn nô tỳ đi tìm đại nhân lâu quá. Nên mới đánh bọn nô tỳ.”
“Ngươi cũng bị đánh à?”
Cung nữ nọ đáp thay: “Tình Nhi tỉ bị một cái đạp.”
Đỗ Văn hạo cau mày nói: “Tính tình của Hoàng Hậu nương nương cũng thật là...”
Tình Nhi vội ngắt lời của Đỗ Văn Hạo, nhắc: “Đỗ đại nhân! Nương nương mời ngài vào rồi đấy, nương nương đang chờ ngài đó.”
Đỗ Văn Hạo lắc lắc đầu, kẹp lấy cái tráp ngọc, vén vạt áo lên đi vào phía trong.
Đã có 3 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Thinhbobo
Hoàng Hậu nương nương ngồi trên chiếc sạp mềm, nhưng phía trước vẫn có rèm che, đây là quy định nơi hậu cung, không ai được phép phá bỏ quy định đó cả.
Đỗ Văn Hạo hơi thầm thất vọng, đưa cái tráp ngọc cho cung nữ Tình Nhi cầm hộ, cung kính đi lên trước cúi người thi lễ: “Vi thần Đỗ Văn Hạo, tham kiến Hoàng Hậu nương nương.”
Xem ra tinh thần Hoàng Hậu hôm nay rất tốt, mỉm cười nói: “Cuối cùng thì ngươi cũng chịu đến thăm bổn cung rồi đấy.”
“Nương nương quá lời rồi, nghe cung nữ nói nương nương muốn triệu kiến vi thần, vì vẻ đẹp quốc sắc thiên hương của nương nương, cho dù vi thần không mang giầy đi chăng nữa, cũng lập tức chạy đến ngay bên nương nương với đôi chân trần này.”
Cũng do lần trước nịnh nọt quen rồi, nên lần này đứng trước mặt Hoàng Hậu, Đỗ Văn Hạo không ngớt lời nịnh bợ nàng.
Hoàng Hậu cười khanh khách, nói: “Nhà ngươi mồm mép cũng dẻo gớm, bây giờ cũng dám ăn nói lung tung trước mặt bổn cung rồi đấy hả?”
Đỗ Văn Hạo giật mình cái thót, đây là Hoàng Hậu, là vợ của Hoàng Thượng, đừng có đắc ý quá mà quên mất cái lễ phép quân thần, Hoàng Thượng mà biết được, thì chỉ có mà đem đến cái họa sát thân mà thôi, nghĩ vậy Đỗ Văn Hạo vội vã cúi mình đáp: “Đấy là do vi thần vui mừng quá độ, ăn nói lung tung, mong nương nương tha tội.”
Câu nói này, nghe như đang đùa giỡn vậy. Đỗ Văn Hạo chỉ muốn tát vào mặt mình một cái, hồi trước hắn đâu có thói quen nịnh bợ, mồm mép dẻo quẹo thế này đâu, sao cứ ở trước mặt Hoàng Hậu, hắn lại mồm mép thế không biết? Đúng là tuổi thọ cao rồi thì đều chán sống! Nên vội vã cúi người đáp: “Vi thần trông thấy nương nương tinh thần vui vẻ thoải mái, nên nghĩ thân thể nương nương đã khỏe mạnh, mới nghĩ phương thuốc thần kê cho nương nương uống có chút công hiệu, nên vi thần mới vui mừng đó ạ.”
Hoàng Hậu nở một nụ cười khoan khoái: “Ngươi đúng là tên mồm mép khéo léo, nhưng cũng đúng là nhờ bài thuốc của ngươi mà bệnh băng lậu hành hạ ta mấy năm nay, ngày nào cũng như ngày nào, ươn ướt khó chịu, đến ngày hôm nay thì đã dứt hẳn rồi. Dùng bài thuốc gà mái hầm Tam Thất của nhà ngươi xong, thì cho đến đêm hôm qua, ta đã cảm thấy trong người sạch sẽ vô cùng, bổn cung cũng rất lấy làm vui mừng, thế nên hôm nay ta mới sai người đi tìm ngươi đến đây để ban thưởng cho ngươi. Nhưng cái bọn nô tỳ ăn hại này tìm ngươi nửa ngày trời mới tìm được, mà cũng không biết là do ngươi làm cao hay là bọn chúng vô dụng nữa.”
“Không không vi thần chỉ là một đại phu quèn sao dám làm cao trước mặt nương nương cơ chứ, chỉ vì vi thần vừa đến chỗ Hoàng Thái Hậu xem bệnh. Hai vị cung nữ cứ đứng chờ vi thần bên ngoài cung Bảo Từ của Hoàng Thái Hậu. Việc này của vi thần làm hại bọn họ bị nương nương trách tội, vi thần cảm thấy áy náy vô cùng.”
“Sao? Ngươi thấy bổn cung trách phạt bọn chúng, nên thấy đau lòng lắm phải không? Được! Nể mặt nhà ngươi, từ nay về sau bổn cung sẽ cố gắng không trừng phạt bọn chúng nữa.”
Tình Nhi và cung nữ nọ vội vã quỳ xuống dập đầu nói: “Đa tạ ân điển của nương nương.”
Hoàng Hậu hôm nay tâm tình rất thoải mái, còn đưa tay ra hất hất ra hiệu cho hai cung nữ đứng dậy, rồi liếc nhìn vào chiếc tráp ngọc, dò hỏi: “Ngươi đến chữa bệnh cho Hoàng Thái Hậu, được ban thưởng vật gì hay vậy? Đưa cho bổn cung xem một chút có được không?”
“Tuân chỉ!” Đỗ Văn Hạo vội lấy lại cái tráp ngọc trên tay của Tình Nhi đi đến trước cái rèm, cúi người cung kính: “Đây là tráp ngọc, vi thần vẫn chưa kịp xem xét kỹ xem nó là vật gì.”
“Quà của Hoàng Thái Hậu, nhất định là một vật quý hiếm, đưa đây cho ta xem cái nào!”
Một viên thái giám đứng cạnh Hoàng Hậu định đi đến đỡ lấy cái tráp ngọc trên tay của Đỗ Văn Hạo, thì bị Hoàng Hậu nương nương đứng dậy đạp cho một phát, làm cho tên thái giám lăn lộn trên sàn: “Bổn cung đã kêu ngươi đến chưa? Đúng là đồ có mắt như mù!”
Viên thái giám đó vội vã nằm phục xuống đất tạ tội, Hoàng Hậu hứ một tiếng rồi ngồi về cái sạp mềm, quay lại nhìn Đỗ Văn Hạo, khuôn mặt lạnh như băng của nàng lập tức quay ngoắt một trăm tám mươi độ, tươi như hoa mùa hạ, cười nói với hắn: “Ngươi đem nó lại đây, không cần câu nệ gì hết.”
Tình Nhi vội vã tiến lên vén màn hộ cho hắn.
“Tuân chỉ!” Đỗ Văn Hạo nói xong liền bước luôn vào trong, hắn không hề biết trong cung đình có những lễ nghĩa gì, nên hành lễ ra sao, hơn nữa hắn cũng là người đến từ tương lai, nơi mà trai gái rất dễ dãi với nhau, không bị trói buộc bởi những tư tưởng hủ tục của thời phong kiến, lại là một người trẻ tuổi không sợ trời đất gì cả! Nên cứ bưng cái tráp ngọc đi thằng đến trước mặt Hoàng Hậu. Cúi người đưa cái tráp ngọc dâng lên quá đỉnh đầu của mình.
Hoàng Hậu ngồi trên một chiếc bệ, vốn đã cao hơn hắn rất nhiều, nhưng hắn dâng cái tráp ngọc lên đến quá đầu mình, cũng vừa vặn đến ngay trước mặt của Hoàng Hậu. Hoàng Hậu dùng những ngon tay thon dài mỏng manh như khóm hoa lan, nhẹ nhàng ấn vào nút bấm trên tráp ngọc, chỉ nghe thấy tráp ngọc có tiếng kêu ken két nho nhỏ, rồi miệng tráp ngọc dần khẽ mở ra, từ khe hở trên miệng tráp ngọc, phát ra những tia sáng yếu ớt hắt vào khuôn mặt trắng như bông tuyết của Hoàng Hậu.
Hoàng Hậu hít một hơi thật sâu, có phần ghen tị cười cười nói: “Đúng là một món đồ hay. Hoàng Thái Hậu tặng ngươi một vật vô cùng quý hiếm, ngươi ở chỗ Hoàng Thái Hậu lại lập được công trạng gì rồi?”
Đỗ Văn Hạo cũng rất hiếu kỳ, nghiêng đầu ngó nhìn một cái. Thì thấy trong tráp có một vật hình chữ nhật nằm gọn trong đó!
Chiếc gối này được làm bởi những sợi vàng kết lại với nhau mà thành, trên mặt chiếc gối có những sợi chỉ vàng thêu hình một con rồng bay lượn và một con phượng vẫy cánh, bên cạnh rồng phượng còn có mây bay uốn lượn vào nhau, thần thái, màu sắc đều sống động vô cùng. Hai bên gối còn đính thêm vào rất nhiều chân chu mã não óng ánh, lung linh.
Hoàng Hậu nói: “Ngươi có biết chiếc gối này gọi là gì, lý lịch ra sao, giá trị như thế nào không?”
“Vi thần không biết.”
“Chiếc gối này có tên là Vân Long Tường Phụng Như Ý Chẩm! Tiên Đế và Hoàng Thái Hậu ân ái với nhau vô cùng. Tất cả tình yêu của Tiên Đế đều dành hết cho Hoàng Thái Hậu, cho đến khi Tiên Đế băng hà, thì vẫn chưa bao giờ sách phong cho bất kỳ Phi Tần nào khác. Chiếc gối như ý này là sau khi Tiên Đế kế ngôi, chiếu lệnh những người thợ tay nghề giỏi nhất thiên hạ, mất năm năm mới làm ra được nó, nhưng không ngờ khi chiếc gối này vừa làm xong, thì Tiên Đế băng hà. Hoàng Thái Hậu mỗi lần nhớ đến Tiên Đế, đều ôm lấy chiếc gối như ý này mà khóc.”
Hoàng Thái Hậu Cao Thị là con gái của người chị của Thái Hoàng Thái Hậu Tào Thị (Tào Thị là dì của Cao Thị), từ bé đã vào cung cùng Thái Hoàng Thái Hậu. Tống Nhân Tông không có con trai, liền mời người cháu là Triệu Thự (Tống Anh Tông) vào cung, sau đó lập làm thái tử, Tống Anh Tông mười sáu tuổi thì cưới Hoàng Thái Hậu Cao Thị làm vợ, sau khi Tống Nhân Tông băng hà, thì Tống Anh Tông lên nối ngôi, Cao Thị trở thành Hoàng Hậu, Tống Anh Tông tại vị được năm năm thì mất, thọ ba mươi lăm tuổi, cả đời không nạp một Phi Tần nào cả, cả đời ông chỉ yêu một mình Hoàng Thái Hậu, chuyện tình của hai người từ đó mà trở thành một giai thoại bất hủ.
Đỗ Văn Hạo vốn dốt lịch sử, dĩ nhiên không thể biết chuyện này, nhưng nghe Hoàng Hậu nói vậy, cũng bất giác mủi lòng đau xót.
Hoàng Hậu nói: “Vậy mà ngày nay, Hoàng Thái Hậu lại đem di vật của Tiên Đế tặng cho ngươi, nhất định là có dụng ý gì đó, nhưng đó là dụng ý gì cơ chứ?”
Đỗ Văn Hạo mỉm cười đáp: “Hoàng Hậu mắc bệnh đau bụng kinh hơn mười năm nay, vi thần dùng châm cứu giúp hoàng hậu giảm đau, chắc là vì thế nên Hoàng Thái Hậu ban thưởng cho vi thần đó.”
Hoàng Hậu kinh ngạc nói: “Ngươi nói cái gì cơ? Ngươi chữa khỏi được bệnh đau bụng kinh của Hoàng Thái Hậu sao? Thật không đấy?”
“Vi thần không dám nói chữa khỏi, chỉ là tạm thời giảm đau mà thôi, vi thần đang tìm một phương pháp để chữa trị tận gốc căn bệnh đó.”
“Cũng chẳng trách được, bệnh đau bụng kinh hành hạ Hoàng Thái Hậu hơn chục năm nay, mỗi lần đau là như xé ruột xé gan, ăn không ngon ngủ không yên, nhiều lần còn định chết đi cho xong chuyện, may mà được khuyên can kịp thời. Cũng chỉ vì căn bệnh quái ác này mà bao nhiêu đại phu của Thái Y Viện bị Hoàng Thượng khiển trách, trừng phạt. Vậy mà giờ đây ngươi giảm đau được cho Hoàng Thái Hậu, làm cho Hoàng Thái Hậu thoát khỏi những cơn đau quái ác hành hạ hơn mười năm nay, chả trách Hoàng Thái Hậu lại vui mừng như vây. Còn đem cả vật quý nhất của mình ra để ban tặng cho ngươi.” Nói đến đây Hoàng Hậu cau mày trầm ngâm, tự nói một mình: “Nhưng trong cái hoàng cung muốn gì cũng có này, thì tại sao Hoàng Thái Hậu lại đem tặng ngươi cái gối như ý di vật của Tiên Đế để lại cơ chứ?”
Đỗ Văn Hạo giật mình cái thót, Hoàng Thái Hậu tặng hắn cái gối, người ngoài nhìn vào ai cũng nghĩ hắn và Hoàng Thái Hậu có tình ý gì với nhau, lẽ nào Hoàng Thái Hậu tặng gối cho hắn là muốn ám chỉ điều gì ư? Cái ý nghĩ này vừa lóe lên, thì hắn lại thầm nghĩ: Nghĩ ngợi cái nỗi gì cơ chứ? Ngươi xem lại bộ dạng của mình đi, xem ngươi là hạng người gì, lại còn nghĩ ngợi bậy bạ nữa chứ!
Tống Y
Tác giả: Mộc Dật
Chương 233: Gối như ý (2)
Nguồn: ***********
Gởi bởi người có lòng!
Lông mày lá liễu của Hoàng Hậu nhướng lên, cười nói: “Bổn cung hiểu rồi, từ khi Hoàng Thái Hậu mắc phải chứng đau bụng kinh này, mỗi lần lên cơn là cả đêm ôm gối khóc lóc không ngủ được, còn bây giờ được ngươi giảm đau cho. Nên tặng ngươi chiếc gối như ý này, dụng ý là vì công lao của ngươi, Hoàng Thái Hậu không phải đêm nào cũng ôm gối mà khóc nữa, do vậy mới cố ý tặng ngươi chiếc gối như ý này, để luôn luôn nhắc nhở ngươi rằng, ngươi nên cố gắng hơn nữa để trị tận gốc căn bệnh này, để cho Hoàng Thái Hậu không còn phải đêm nào cũng ôm gối chịu đau, chịu khổ mà không được ngon giấc.”
Nghe xong lời giải thích như vậy của Hoàng Hậu, Đỗ Văn Hạo mới chợt hiểu ra vấn đề, tự cười thầm chế giễu bản thân nghĩ ngợi bậy bạ, linh tinh, bèn đáp lời Hoàng Hậu: “Vi thần nguyện hết sức mình, chữa tận gốc căn bệnh của Hoàng Thái Hậu, nhất quyết không làm phụ lòng ưu ái của Hoàng Thái Hậu.”
“Được như vậy thì tốt quá!” Hoàng Hậu gật gật đầu tán thành, cau mày đóng chiếc tráp ngọc lại: “Hoàng Thái Hậu ban tặng cho ngươi một vật quý giá như thế này, bổn cung cũng sẽ ban tặng cho ngươi một lễ vật, tuy không thể quý giá hơn của Hoàng Thái Hậu, nhưng cũng không thể là hạng tầm thường được, vậy thì tặng ngươi cái gì cho phải nhỉ?”
Đỗ Văn Hạo cúi người đáp: “Vi thần đa tạ ý tốt của nương nương, khám và chữa bệnh cho nương nương là trọng trách của vi thần, không dám mong đợi được ban tặng vật gì cả.”
Hai hàng mắt phượng của Hoàng Hậu chớp chớp: “Ngươi chữa khỏi cho bổn cung bệnh băng lậu, công lao đó không hề thua kém ngươi giảm đau cho Hoàng Thái Hậu chút nào, vậy nên ban thưởng cho ngươi là điều đương nhiên.”
“Vị thuốc đó của vi thần chỉ là cầm máu tạm thời, không thể nói là đã trị tận gốc được! Mong nương nương cho vi thần thêm mấy ngày nữa, dù cho vi thần phải nghĩ nát cả óc, cũng phải tìm cho ra phương thức trị liệu bệnh băng lậu một cách tốt nhất cho nương nương, khi đó lĩnh thưởng e vẫn chưa muộn.”
“Câu này ngươi nói không đúng, tuy rằng bây giờ ngươi chỉ tạm thời trị được bệnh của ta, nhưng bổn cung cũng vẫn tặng thưởng cho ngươi, về sau ngươi trị tận gốc bệnh này, ta còn thưởng ngươi nhiều hơn nữa. Nhưng, nếu ngươi chữa không khỏi, tuy là ta đã hứa không trị tội ngươi, nhưng những món quà ban thưởng cho ngươi ta sẽ thu lại hết, không những vậy còn phạt lấy bổng lộc của ngươi, đây gọi là có thưởng có phạt, sao, ngươi thấy công bằng chứ?”
Đỗ Văn Hạo cũng cười theo nói: “Rất công bằng, chủ ý của nương nương công bằng vô cùng, nếu không chữa khỏi bệnh cho nương nương, thần nguyện bị phạt lấy bổng lộc của mình.”
“Vậy thì tốt!” Hoàng Hậu đứng dậy nói: “Ngươi chờ ta một chút, bổn cung sẽ đích thân đi lấy bảo bối để ban tặng cho nhà ngươi.”
Hoàng Hậu dường như không nghe thấy lời hắn nói, quay người đi vào trong nội đường. Đỗ Văn Hạo ôm tráp ngọc lui ra khỏi rèm. Hắn đưa tráp ngọc cho Tình Nhi cầm hộ, còn mình thì cúi đầu đứng đợi Hoàng Hậu ban tặng lễ vật.
Mỹ nữ Hoàng Hậu này sẽ tặng ta bảo bối gì đây nhỉ? Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ trong lòng, chắc chắn lại là một vật quý giá, hiếm có nào đây. Nhưng phàm là những đồ được ban tặng trong hoàng cung, thì hắn mang về rồi cũng chỉ có nước đưa lên bàn mà thờ phụng chúng mà thôi, hoàng ân to lớn như vậy ai dám đem ra dùng lung tung, lại càng không được tặng hay bán cho người khác, hơn nữa cũng không được làm mất chúng, nếu không sẽ mắc vào tội bất kính. Thế nên, Hoàng Hậu ban tặng cho hắn món đồ gì, thì theo một khía cạnh nào đó mà nói, nó là một cục nợ đúng nghĩa.
Không lâu sau, Hoàng Hậu bước ra trên tay cầm một cái tráp hình chữ nhật, cái tráp này nhìn nhỏ hơn cái tráp của Hoàng Thái Hậu tặng hắn, nhưng dài hơn rất nhiều, bên ngoài còn nạm vàng khảm ngọc, cao quý vô cùng.
Hoàng Hậu vẫy tay ra hiệu cho Đỗ Văn Hạo đi vào trong rèm, đích thân đưa tráp trao vào tay hắn, nói: “Cái tráp này giờ đã thuộc về ngươi rồi, đem về nhà mà xem. Nhưng ngươi cũng nên nhớ chỉ được một mình ngươi xem thôi, không được cho ai xem! Và còn nữa, ngươi vẫn phải tận tâm chữa bệnh cho bổn cung, không được lơ là nghe rõ chưa! Thôi ngươi đi đi.”
“Đa tạ nương nương đã ban thưởng!” Đỗ Văn Hạo cúi rạp người sát đất để thi lễ, xong rồi mới dám đưa tay tiếp lấy cái tráp trên tay Hoàng Hậu, thầm nghĩ, đây là vật báu gì mà Hoàng Hậu không cho mình giở ra xem luôn tại đây nhỉ, đã thế lại chỉ cho một mình mình xem, rốt cuộc đây là báu vật gì không biết? Trong lòng hắn rất hiếu kỳ, hắn đưa tay đón lấy cái tráp rồi cứ thế lui ra đến cửa, sau đó đón lấy cái tráp ngọc mà Hoàng Thái Hậu ban tặng ở trên tay của Tình Nhi, cùng với Hạ Cửu Bà rời khỏi tẩm cung của Hoàng Hậu.
Hạ Cửu Bà mừng ra mặt, cười nói: “Chúc mừng Đỗ đại nhân, được cả Hoàng Hậu lẫn Hoàng Thái Hậu ban thưởng những vật quý báu như vậy.”
Đỗ Văn Hạo cười gượng đáp: “Được ban thưởng càng nhiều, thì trách nhiệm càng lớn! Bệnh tình của hai vị nương nương cũng chỉ dừng ở trong giai đoạn tạm thời trước mắt mà thôi, bao giờ chúng ta trị được tận gốc căn bệnh thì lúc đó mới yên tâm được.”
“Vâng đúng vậy! Người ta hay nói khi gấp quá thì đành chữa trị tạm thời, còn nếu về lâu về dài thì nên chữa tận gốc, đại nhân chỉ cần nhấc tay, nhấc chân một cái là bệnh của hai vị nương nương đã đỡ được đến tám chín phần, theo ý của tại hạ, việc đại nhân chữa tận gốc mấy căn bệnh này thì chỉ cần mấy ngày nữa là xong thôi.”
“Thôi đừng nịnh bợ ta nữa, ngươi nên suy nghĩ hộ ta xem nên chữa thế nào thì hợp lý hơn đấy.” Đỗ Văn Hạo trợn mắt nhìn Hạ Cửu Bà một cái, rồi ôm hai cái tráp, đi về Thái Y Viện.
Đỗ Văn Hạo về Thái Y Viện cất hai cái tráp xong đâu đấy, liền gọi Viện Sử Trịnh Cốc đến thương lượng, hai người sau khi bàn bạc xong, bèn quyết định mở một cuộc hội nghị Thái Y Viện để bàn cách chữa bệnh đau bụng kinh cho Hoàng Thái Hậu nương nương.
Ăn xong bữa trưa, Đỗ Văn Hạo lại như thường lệ đem hết những phương án chữa bệnh của các đại phu của Thái Y Viện đã từng xem bệnh cho Hoàng Thái Hậu ra nghiên cứu từng cái một, cũng giống như lần trước, hắn học được rất nhiều điều, nhưng vẫn chưa tìm ra được hướng đi mới trong cách điều trị.
Đến chiều, trong phòng hội nghị của Thái Y Viện, Viện Sử Trịnh Cốc, Phó Viện Phán Phó Hạc, cùng với Cửu Khoa Thái Y Thừa, tất cả đã có mặt đông đủ.
Đỗ Văn Hạo thuật lại tình hình chẩn đoán bệnh sáng nay của hắn cho mọi người nghe, tất cả các Thái Y nghe Hoàng Hậu sau khi ăn món gà mái hầm Tam Thất xong, thì chứng băng lậu ẩm ướt đã đỡ đi rất nhiều, nên vừa mừng vừa thẹn, bởi đây là chuyện mà các Thái Y trước đây chưa ai từng giải quyết được. Lại nghe, Đỗ Văn Hạo dùng thuật châm cứu giảm được cơn đau bụng kinh hành hạ Hoàng Thái Hậu hơn chục năm nay, lại càng kinh ngạc và mừng rỡ hơn, tất cả bọn họ đều chắp tay cung kính chúc mừng Đỗ Văn Hạo.
Đỗ Văn Hạo nói: “Châm cứu cũng chỉ là một biện pháp chữa trị tạm thời, còn muốn chữa tận gốc căn bệnh của Hoàng Thái Hậu, thì vẫn mong các vị đại nhân góp thêm những ý kiến quý báu cho tại hạ.”
Vừa nói đến những ý kiến cụ thể, thì mọi người đã câm như hến rồi, làm sao mà dám đưa ra những phương pháp trị liệu cho Hoàng Thái Hậu, bon họ cũng chả muốn chuốc lấy trò cười vào mình làm gì.
Thế nên Viện Sử Trịnh Cốc đành phải chỉ điểm từng người phải nói, người đầu tiên là Hạ Cửu Bà.
Hạ Cửu Bà cũng không khách khí gì hết, đứng lên nói luôn: “Ty chức là người đầu tiên đến chẩn đoán bệnh đau bụng kinh của Hoàng Thái Hậu. Khi đó, Tiên Đế mới băng hà, Hoàng Thái Hậu ngày đêm kêu khóc đến mấy tháng liền. Thế nên khí huyết nghịch mà hỗn loạn, sau đó ngưng tụ thành cục dẫn đến đau bụng kinh, khi bệnh mới phát tác cũng không có gì nghiêm trọng lắm, sau khi điều dưỡng cũng đỡ đi nhiều, nhưng do Hoàng Thái Hậu đau buồn quá độ, nên gan bị kết đọng, dẫn đến sơ gan, sau đó thì biến thành đau bụng kinh, tháng nào cũng vậy, đau đớn vô cùng. Dùng tất cả các phương pháp như châm cứu, xoa bóp, uống thuốc đều không có tác dụng.”
“Ừm, ngươi nói biện chứng của ngươi đi.”
“Khi mới phát bệnh, kỳ kinh của Hoàng Thái Hậu rất đều đặn, lượng cũng bình thường, nhưng máu có màu tím và đóng cục, mỗi lần ra đươc cục đó, thì nỗi đau mới giảm đi được một phần. Thường nhật, đau lưng nhức mỏi, ngực căng và nhức, chứng này là do khí huyết ngưng trệ, gan hoạt động bất thường, do kinh mạch tắc nghẽn mà ra. Phục chẩn thì lòng bàn tay nóng, là do huyết dịch bị tổn thương, lâu ngày mang bệnh mà ra; dịch tiết âm đạo đục nhờn và dính, màng lưỡi có màu tím, mạch đập yếu, là hiện tượng của khí trệ đàm huyết. Do vậy, ty chức cho rằng bệnh của Hoàng Thái Hậu là do khí huyết ngưng trệ mà ra.”
“Vậy phải trị bằng cách nào?”
“Nên làm mềm gan điều hòa khí tiết, làm tan ứ đọng. Ty chức dùng bài thuốc Cách Hạ Trục Ứ Thang. Dùng Tam Lăng, để hành khí phá tan ứ đọng, dùng Đào Nhân, Tô Mộc thông kinh giảm đau, Xuyên Đằng, Thố Hương Phụ, Xích Thược, Diên Hồ Sách, Tích Xác, Ô Dược để làm mềm gan điều hòa khí tiết; Đương Quý bổ máu, Cam Thảo dung hòa các thứ thuốc lại với nhau.”
Viện Sử Trịnh Cốc gật gật đầu: “Phương thuốc rất ổn định, không có vấn đề gì, sao lại không có hiệu quả nhỉ?”
Hạ Cửu Bà lộ vẻ hổ thẹn đáp: “Ty chức ngu dốt, không biết mình sai ở chỗ nào.”
Đã có 2 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Thinhbobo
Tống Y Tác giả: Mộc Dật Chương 234: Quà tặng của Hoàng Hậu
Nhóm dịch: Thiên Địa Môn
Nguồn: Sưu Tầm
Ngọc Phương Mạch Thái Y Ngụy Triển nói: “Bệnh tình của Hoàng Thái Hậu, ty chức cũng có tham gia chữa trị.
Có điều ty chức cho rằng, phàm là đau bụng kinh dù là chứng hư hay chứng thực, đều không nằm ngoài các chứng hàn trệ, huyết trệ, khí trệ, nhiệt trệ. Người mắc chứng hư, thì là huyết hư hoặc khí hư, bị trướng hơn là bị đau thì chủ yếu là do khí trệ, bị đau hơn bị trướng, thì chủ yếu là do huyết tật. Hoàng Thái Hậu vừa bị trướng vừa bị đau bụng, đều do khí huyết ngưng trệ mà ra cả. Thế nên Hạ đại nhân chẩn đoán hoàn toàn chính xác, chứng bệnh của Hoàng Thái Hậu đích thị là do khí huyết ngưng trệ mà ra.”
Các Thái Y khác đều lần lượt gật đầu tán thành.
Ngụy Triển lại nói tiếp: “Gan sơ đóng kết thì khí bị mất cân bằng, khí huyết ngưng trệ thì làm cho kinh mạch bị tắc nghẽn. Do máu bị nghẽn nên dẫn đến tử cung bị đau, thế nên phải dùng phương pháp mềm gan điều hòa khí tiết, làm tăng độ tuần hoàn của máu. Hạ đại nhân dùng phương thuốc Cách Hạ Trục Ứ Thang, rất phù hợp với chứng bị tắc nghẽn. Dĩ nhiên, ty chức cho rằng, bổ huyết mà dùng Đương Quý thì không bằng Thược Dược, Hồng Hoa. Còn làm mềm gan điều hòa khí tiết có thể dùng Thố Hương Phục, Dĩ Mộc Hương, nhưng phương pháp của ty chức dùng xong cũng không có hiệu quả gì cả, thật đáng hổ thẹn!”
Các Thái Y khác đều đồng ý cách biện chứng và phương thuốc của Hạ Cửu Bà nhưng trong bài thuốc gia giảm ra sao thì có phần không giống nhau.
Đỗ Văn Hạo nghe xong thở dài: “Nói đến dùng thuốc, tại hạ và các vị đều giống nhau. Tại hạ cũng không hiểu tại sao, rõ ràng đã chẩn đoán chính xác như vậy. Tại sao không có chút tác dụng nào chứ? Tại hạ dùng gà mái hầm Tam Thất cũng chỉ cầm máu nhất thời mà thôi. Còn làm cách nào để trị khỏi hoàn toàn bệnh băng lậu cho Hoàng Hậu, cũng chưa có chủ ý gì cả, ài!”
Nói nửa ngày, cũng không có kết quả gì, Viện Sử Trịnh Cốc đành tuyên bố giải tán cuộc họp.
Đỗ Văn Hạo kẹp hai cái tráp ngọc, ngồi lên kiệu đi về Ngũ Vị Đường. Bàng Vũ Cầm và người trong nhà đều nghe nói Đỗ Văn Hạo được Hoàng Hậu và Hoàng Thái Hậu ban thưởng nên rất tò muốn xem đó là vật gì.
Đỗ Văn Hạo rửa tay xong, cung kính đặt hai cái tráp ngọc lên bàn hương án, rồi dâng hương làm lễ cúng bái. Hắn mở cái tráp ngọc của Hoàng Thái Hậu ban tặng cho trước, lấy cái gối như ý được làm bằng hàng nghìn hàng vạn sợi vàng ra khỏi tráp.
Mọi người nhìn thấy đều trợn tròn mắt kinh ngạc.
Ngốc Béo nuốt nước bọt ừng ực, lắp bắp nói: “Ôi trời đất, cha mẹ ơi! tất cả đều được thêu bằng sợi vàng hết. Không biết người ta mất bao lâu mới làm xong được cái gối này?”
“Vừa tròn năm năm đó!” Đỗ Văn Hạo bùi ngùi đáp lại.
Ngô Thông thì đờ đẫn nói: “Quá tuyệt, cái gối này chắc là đắt tiền lắm nhỉ, có đánh chết đồ tôn cũng đừng hòng bắt đồ tôn nằm gối lên chiếc gối này.”
Anh Tử cười giễu cợt: “Huynh đừng có mơ! Huynh làm gì có phúc mà được hưởng nó cơ chứ?”
Ngốc Béo hiếu kỳ trợn mắt nhìn Ngô Thông nói: “Bảo huynh gối lên cái gối này, sao huynh lại không chịu gối?”
“Thì dĩ nhiên là ta không chịu rồi, huynh nghĩ xem, dưới đầu huynh là một chiếc gối đắt tiền, quý hiếm như vậy, e rằng bị mất một cái có phải là mất ngủ không? Ngày nào cũng bị mất ngủ như vậy, thì sống làm cái quái gì chứ?”
Ngốc Béo giờ mới hiểu ra vấn đề, gật đầu liên tục đáp: “Đúng, đúng vậy! Nếu là ta ta cũng không ngủ được nữa.”
“Vậy tiên sinh về sau ngủ kiểu gì đây?” Nói xong hắn quay ra Đỗ Văn Hạo nhìn với ánh mắt thương hại.
Tuyết Phi Nhi cười đáp: “Thôi được rồi, hai huynh đúng là ngốc, không phải lo lắng như thế, đây là vật quý mà Hoàng Thái Hậu ban cho, làm sao có thể gối lên nó mà ngủ được phải không? Cái gối này là dùng để cung phụng, kể cả sợ bị mất cũng không nên bày ra ngoài, mà nên cất giữ cẩn thận.”
Ngốc Béo lại gật đầu liên tục nói: “Đúng đấy đúng đấy! Đồ Hoàng Thái Hậu ban tặng cho mình, đừng nói là vật quý hiếm, thậm chí chỉ là một cái chổi cùn giế rách, chúng ta cũng phải cúng lạy nó đấy!”
Mọi người đều cười, Lâm Thanh Đại nói: “Văn Hạo sao ngươi còn chưa mở cái tráp còn lại ra, xem trong đó là vật quý hiếm gì, để cho mọi người cùng được mở rộng tầm mắt?”
Đỗ Văn Hạo đáp: “Cái tráp này ta cũng chưa kịp xem, không biết trong đó là cái gì nữa.”
Nói rồi, hắn đưa tay mở cái tráp ngọc ra. Bên trong cái tráp ngọc có một thanh cuộn được bọc trong miếng vải màu vàng.
Bàng Vũ Cầm hiếu kỳ nói: “Là một bức họa cổ?”
Đỗ Văn Hạo vẫn không lên tiếng, tim hắn bỗng dưng lo lắng đập loạn xạ, cẩn thận lấy cái thanh cuộn trong đó ra, một đầu đưa cho Bàng Vũ Cầm, còn đầu kia thì hắn giữ lấy, bảo Anh Tử cởi nút thắt ra, rồi chậm rãi trải cái cuộn ra xem, quả nhiên là một bức tranh. Trong tranh vẽ một cô gái, tóc đen, mày liễu, mắt phụng, miệng nhỏ như anh đào, tay cầm cái quạt tròn nho nhỏ, vạt áo phấp phới trong gió, ngồi nghiêng trên một cái ghế đá cạnh Thái Hồ. Ánh mắt nhìn ngắm đôi chim sẻ đậu trên cành cây đối diện.
Đỗ Văn Hạo chỉ liếc nhìn một cái, tim hắn đã đập liên hồi, như muốn thoát ra khỏi lồng ngực vậy. Cô gái trong bức tranh không ngờ lại chính là Hoàng Hậu nương nương!
Đỗ Văn Hạo bỗng nhiên khô đắng cả miệng, cảm giác như mình bị người khác dí tiền vào tay vu oan là kẻ trộm vậy.
Mấy người đều không ai chú ý đến thần sắc của hắn. Tuyết Phi Nhi thở dài tấm tắc khen: “Ôi chao, hóa ra là một bức tranh vẽ một mỹ nữ.”
Bàng Vũ Cầm cũng khen : “Đúng vậy! Đẹp quá! Phu quân, đây là ai thế?”
Đỗ Văn Hạo có chút chột dạ, lại không dám giấu diếm, nếu không về sau mọi người biết rồi, thì không biết giải thích ra sao đây, bèn ngượng ngùng cười nói: “Là, hề hề, là Hoàng Hậu nương nương.”
Mọi người đều kinh ngạc kêu lên: “Á? Là Hoàng Hậu nương nương ư?”
Lâm Thanh Đại liếc nhìn Đỗ Văn Hạo với hàm ý sâu xa. Nhưng nàng không nói câu gì. Tuyết Phi Nhi nhanh mồm nhanh miệng, vốn đã muốn mở miệng nói từ lâu: “Hoàng Hậu nương nương sao lại tặng ca hình của bà ta cơ chứ?”
“Hả? Đúng vậy, đích thị là như vậy! cái gì nhỉ!” Đỗ Văn Hạo lắp ba lắp bắp, đang cố tìm ra cái cớ để nói, thì bỗng nhiên mắt hắn nhìn thấy chữ ký của người vẽ tranh trên bức tranh, tuy nhìn không rõ lắm, nhưng hẳn nghĩ ngay ra một cái cớ, ung dung nói: “Các ngươi chỉ biết người trong tranh là Hoàng Hậu nương nương, vậy các ngươi có biết ai vẽ bức tranh này không?”
Mọi người đều xúm vào nhìn chữ ký trên bức tranh, Tuyết Phi Nhi đọc: “Lý Công Lân, Lý Công Lân là ai nhỉ?”
Diêm Diệu Thủ điệu bộ tao nhã, tay cầm quạt gấp phe phẩy, nói: “Lý Công Lân là một quan lớn trong triều, thư họa song tuyệt. Nghe nói sở trường của ông ta là vẽ tranh sơn thủy, không ngờ vẽ mỹ nhân cũng xuất sắc như vậy.”
Bàng Vũ Cầm dù gì thì cũng là con gái nhà quan, hiểu biết cũng rộng, bèn nói tiếp: “Lý Công Lân là quan Kiểm Pháp Ngự Sử triều đình. Ngoại trừ sở trường vẽ sơn thủy, chim chóc, hoa lá ra, thì ông còn sở trường vẽ ngựa, sau đó là vẽ mỹ nhân. Ông ta vẽ người, không dùng mực màu, mà chỉ dùng mực đen, đơn sơ mộc mạc, nhưng vẫn làm rung động lòng người.”
Đỗ Văn Hạo cũng không hiểu thư họa, kỳ thực hắn cũng chẳng biết Lý Công Lân là ai, thầm nghĩ, nếu đã là vẽ tranh cho Hoàng Hậu nương nương, thì tuyệt nhiên không phải nhân vật tầm thường. Thế nên chỉ là tìm cớ thoái thác mà nói đại ra vậy thôi, ai ngờ Bàng Vũ Cầm và những người này đều biết cả, liền vui vẻ nói: “Các ngươi nói không sai một chút nào! Ta rất thích tranh của Lý Công Lân. Hôm nay chữa bệnh cho Hoàng Hậu nương nương, chẳng may nhìn thấy bức tranh này, thấy bức tranh đẹp quá, sống động như thật vậy, liền khen vài câu. Ai ngờ Hoàng Hậu tưởng ta thích bức tranh này, lại vì cảm kích ta tạm thời chữa khỏi bệnh cho người nữa, nên mới tặng ta bức tranh này đó.”
Tuyết Phi Nhi hiếu kỳ hỏi: “Sao lại nói là tạm thời chữa khỏi bệnh?”
“Đó là do ta chỉ chữa được tạm thời lúc này thôi, vẫn chưa trị tận gốc được.”
“Ồ !” Tuyết Phi Nhi lại ngắm nghía mỹ nhân trên bức tranh một cách tỉ mỉ, rồi nói: “Hoàng Hậu nương nương đẹp thật đấy, vậy hình mỹ nhân trong tranh này có giống người thật của Hoàng Hậu không?”
Đỗ Văn Hạo vốn định nói là người thật đẹp hơn trong tranh nhiều lắm. Nhưng, hắn lại có tật giật mình, e rằng nói ra nhiều quá thành lộ hết cả, nên chỉ gật gật đầu mà thôi.
“Ôi chao! Trên thế gian này, thật sự là có người đẹp như vậy sao?”
Bàng Vũ Cầm không nghi ngờ hắn chút nào, mỉm cười nói: “Đây là Hoàng Hậu nương nương đó! Không đẹp, thì Hoàng Thượng lấy về làm gì, đúng không hả tướng công?”
Đỗ Văn Hạo gật đầu đồng ý, rồi đem bức tranh cuộn lại rồi đặt trở lại vào trong tráp ngọc, chốt nó lại, xong đâu đó mới âm thầm thở phào nhẹ nhõm, hắn vẫn thắc mắc, Hoàng Hậu nương nương sao lại ban tặng cho mình bức tranh của người nhỉ? Đây là ý gì? Lẽ nào Hoàng Hậu nhìn ra được hắn mê mẩn sắc đẹp của mình, nên tặng tranh có vẽ hình của mình cho hắn ngắm nhìn đỡ thèm chăng? Cái này thì tình ý lộ liễu quá. Nghĩ đến đây, tim Đỗ Văn Hạo lại đập lên rộn rã. Nhưng cứ nghĩ đến Hoàng Hậu là vợ của Hoàng Thượng, thì lại thấy cổ hắn lành lạnh khó tả.
Sau khi đưa cho Bàng Vũ Cầm cất giữ hai cái tráp ngọc xong, Đỗ Văn Hạo lại ra hậu đường ngồi chẩn đoán bệnh.
Trong tiền đường Diêm Diệu Thủ và Hàm Đầu ngồi xem bệnh cho bệnh nhân. Một nam nhân vừa cao vừa gầy, thân hình siêu vẹo đi vào, chính là gã ‘trúc can’ bị đau bụng ngày hôm qua.
Hắn bước vào, đi thẳng đến trước mặt Diêm Diệu Thủ không nói không rằng chỉ vào mặt của Diêm Diệu Thủ quát tháo: “Ta tin vào Ngũ Vị Đường của các ngươi mới đến chữa bệnh, ai ngờ các ngươi lại là một lũ bất tài vô dụng, thật là uổng phí sự tin tưởng của ta dành cho các ngươi!”
Tự nhiên có một người đến đây, chửi như tát nước vào mặt, Diêm Diệu Thủ cũng chẳng kịp có phản ứng gì, nhất thời cứ ngẩn người ra.
Tuyết Phi Nhi cười đón niềm nở, đi đến bên Trúc Can, đon đả nói: “Vị đại ca này, có điều gì cứ từ từ nói, ngồi xuống uống miếng nước đã.”
Nói xong, Tuyết Phi Nhi ra hiệu cho tiểu nhị đứng gần đó bưng nước đến, người đó chỉ trông thấy cô nương này nhỏ nhắn, xinh xắn, mặt cứ cười nói đưa cho gã cốc nước. Người ta thường nói, không bao giờ tát vào khuôn mặt tươi cười cả, hơn nữa đây còn là khuôn mặt của một mỹ nhân nữa! Bèn đón lấy cốc nước, ho khan hai tiếng, rồi ngồi xuống.
Nhưng trong lòng vẫn ấm ức, lửa giận phừng phừng, cầm luôn lấy cốc nước đập mạnh xuống bàn, làm cho nước trong cốc bắn văng tung tóe lên tay của Diêm Diệu Thủ, Diêm Diệu Thủ tức giận quát: “Nhà ngươi kỳ lạ thật đấy, có bệnh thì đến khám bệnh, sao lại giở cái thói điên rồ ra thế làm gì?”
Tuyết Phi Nhi đứng bên cạnh nói: “Tiên sinh nói đúng đấy, đại ca thấy trong người khó chịu chỗ nào, cứ nói cho tiên sinh biết. Tức giận có hại cho sức khỏe đó.”
Trúc Can đáp: “Hôm trước ta đến đây tìm chính tên đại phu này kê cho ta một đơn thuốc chữa bệnh, nhưng bệnh của ta không những không khỏi, mà ngày càng nặng thêm.”
Bệnh nhân uống thuốc rồi mà bệnh không khỏi, khó tránh được bức xúc trong người, cái này Diêm Diệu Thủ cũng hiểu và thông cảm, nên cười gượng nói: “Không vội, không vội. Nói lại cho ta nghe triệu chứng của ngươi, để ta xem xem chỗ nào có vấn đề.”
Trúc Can căm giận nói: “Mấy ngày hôm trước ta đã nói với ngươi rồi. Trong bụng ta có giun, ta bị đau bụng là do giun quấy, nhưng ngươi lại không chịu tin ta!”
Diêm Diệu Thủ muốn nói, người lớn thì làm gì có giun trong bụng, nhưng khi vừa định mở miệng nói, thì lại thôi, nên hỏi tiếp: “Có giun trong bụng như thế nào?”
“Ta cảm giác, toàn thân ta đều có giun bò lổm ngổm. Từ chỗ Đan Điền, bò lên đến dạ dày, rồi từ dạ dày bò đến chỗ hông ngang bụng, sau đó lại quay về chỗ Đan Điền, đi đúng một vòng như thế. Ta bây giờ còn nghe thấy tiếng mấy con giun bò trong bụng ta nữa kia!”
Nghe đến đây, Diêm Diệu Thủ cũng cảm thấy ngứa ngáy ở sau lưng, có chút gì đó ghê ghê và gai gai.
Trúc Can nói tiếp: “Nếu nó chỉ bò như vậy cũng không sao, nhưng bọn chúng còn cắn xé trong bụng ta, đau đến mức ta phải dùng tay đấm thật mạnh vào bụng, thì cơn đau mới vơi đi đôi chút.”
Diêm Diệu Thủ trầm ngâm một lát: “Nếu ngươi vẫn nói có giun trong bụng cắn ngươi, thì thôi đành vậy, ta sẽ kê cho ngươi một đơn thuốc diệt giun.”
Trúc Can cả giận quát: “Ngươi nói lung tung cái gì thế? Cái gì mà ta cảm thấy trong bụng ta có giun thì ngươi đành kê thuốc giết giun cho ta? Ta nói thật đó, trong bụng ta đúng là có giun thật!”
“Ta cũng đâu có nói điều đó là giả đâu!” Diêm Diệu Thủ phe phẩy cái quạt, nói: “Ngươi có triệu chứng như vậy, đích thị là trong bụng có giun đang cắn xé nội tạng của ngươi. Thế nên mới đau đớn như vậy, khi ngươi đấm thùm thụp vào người, nội tạng bị chấn động, giun sợ quá nên trốn đi, do vậy cơn đau mới giảm đi, khi không đấm nữa thì giun lại chui ra cắn xé tiếp, nên ngươi mới lại đau dữ dội hơn, ta nói thế có đúng không?”
Trúc Can cả mừng đáp: “Đúng đúng rồi! Lần này ông nói đúng rồi đó! Nó đúng là như vậy đấy, đại phu, ngài xem bệnh này nên chữa ra sao?”
“Dễ thôi! Ta kê cho ngươi một đơn thuốc giết giun, sau khi ngươi về đến nhà, đem cơm ra trộn với một ít hương liệu, ăn vào, dụ cho giun nó chui ra, sau đó uống cái đơn thuốc giết giun mà ta kê cho ngươi, theo cách đó thì tất cả giun trong bụng của ngươi sẽ chết hết.”
“Thật vậy sao?”
“Ngươi cứ uống vào thì biết.” Diêm Diệu Thủ nở nụ cười bất đắc dĩ nói.
Sáng sớm ngày hôm sau, Đỗ Văn Hạo mặc quan phục lên kiệu đi đến Thái Y Viện.
Hắn vừa mới đi được một lúc, thì Trúc Can lại đến.
Lần này thì gã đứng luôn trước cổng của Ngũ Vị Đường mà lớn tiếng chửi bới, chửi Ngũ Vị Đường là một bọn lang băm, ăn hại. Không những không chữa được bệnh đau bụng cho gã, mà còn kê đơn thuốc lung tung. Làm cho bụng của gã càng ngày càng đau.
Diêm Diệu Thủ nói gì cũng vô ích, vội đi tìm Anh Tử vào bẩm báo với Bàng Vũ Cầm.
Bàng Vũ Cầm gọi Diêm Diệu Thủ lên hỏi rõ ngọn ngành, nghe xong cau mày ra bên ngoài hỏi Trúc Can: “Vị đại ca này, bụng anh bị đau, trong bụng có giun phải không?”
“Dĩ nhiên, nhưng ta đến tìm Đỗ đại phu của các người khám bệnh cho ta, nhưng các người lại không cho Đỗ đại phu ra khám cho ta, cứ để cho tên đại phu ăn hại kia làm bừa hại ta.” Trúc Can nhìn Diêm Diệu Thủ đứng ngay cạnh đó với ánh mắt khinh thường, lớn tiếng quát: “Đây là tên lang băm ăn hại, không nên giữ hắn ở lại nơi này, nếu không sớm muộn gì hắn cũng hủy hoại hết danh tiếng của Ngũ Vị Đường của các người.”
Diêm Diệu Thủ cũng cảm thấy xấu hổ, ngán ngẩm, ngồi một bên không nói câu gì.
Bàng Vũ Cầm cười đáp: “Vậy tiên sinh lần này đến đây, vì bệnh tình nặng thêm hay là….”
Bàng Vũ Cầm vẫn chưa kịp nói hết, thì tên Trúc Can đã cướp lời: “Nói nhảm, nếu bệnh của ta khỏi rồi thì ta còn đến tìm Ngũ Vị Đường của các ngươi làm gì?”
Hàm Đầu đứng bên cạnh tiến lên phía trước nói: “Ngươi rõ thật kỳ quái, có bệnh đến xem bệnh, đừng có vô lễ với Tổ Sư Nương của bọn ta.”
Cũng có thêm mấy người bệnh nhân đến nói đỡ cho Bàng Vũ Cầm cùng mấy người: “Diêm tiên sinh y thuật rất tốt, có lẽ do nhà ngươi đã không đem bệnh tình ra nói rõ cho tiên sinh nghe.”
“Đúng vậy, tiên sinh cũng là con người, nhất thời không biết đó là bệnh gì, cho ngươi uống mấy đơn thuốc kê thử, cũng có thấy ngươi chết đâu, cần gì phải hạ thấp, làm nhục người ta như thế để làm gì?”
“Đúng vậy đó, Ngũ Vị Đường nhà người ta, từ trước đến nay già trẻ đều nể trọng, ngươi không tin thì đừng đến nữa, chứ cũng đừng đem những lời nói như thế ra để nói người ta.”
Bàng Vũ Cầm khoát khoát tay nói với Trúc Can: “Đúng là tiên sinh của Ngũ Vị Đường chúng tôi vẫn chưa chữa khỏi bệnh cho các hạ, trách nhiệm này thuộc về Ngũ Vị Đường chúng tôi, nhưng rất tiếc phu quân của tôi vừa lên Thái Y Viện, không thể khám cho các hạ được, mong các hạ cho phép bọn tôi đổi một đại phu khác, khám bệnh cho các hạ có được không?”
Trúc Can chưa kịp tiếp lời thì bên cạnh có một người nói: “Ai dà, sao ngươi vẫn chưa cám ơn người ta đi? Cái bệnh quái quỷ của ngươi, đến hiệu thuốc khác, sớm bị người ta từ chối rồi, làm gì có chuyện đổi đại phu khám cho cơ chứ?”
Trúc Can cũng biết mình mắc phải một căn bệnh lạ, nên cũng chắp tay tạ ơn Bàng Vũ Cầm.
Bàng Vũ Cầm gọi Hàm Đầu đến, để Hàm Đầu xem Trúc Can thế nào, còn mình quay về hậu đường.
Hàm Đầu biết gã này khó chơi, bèn cười cười ngồi xuống tiếp gã, hỏi: “Mấy ngày gần đây, bụng càng ngày càng đau không có dấu hiệu thuyên giảm đúng không?”
Trúc Can gật đầu, đáp: “Ngày nào cũng như ngày nào, tại hạ bị hành hạ, ngày ăn không ngon, đêm ngủ không yên. Khi cơn đau nó đến tại hạ còn nghe thấy có vật đang gặm xương của tại hạ nữa. Tiên sinh nhất định phải cứu tại hạ, nếu không tại hạ chết mất.”
Hàm Đầu gật gật đầu, đưa cổ tay Trúc Can lên bắt mạch, phát hiện mạch phù nhỏ mà nhu, sau khi ấn vào không thấy có cảm giác, kiểm tra lưỡi xong liền trầm ngâm suy nghĩ.
Đã có 3 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Thinhbobo
Tống Y Tác giả: Mộc Dật Chương 235: Đức Phi nương nương
Nhóm dịch: Thiên Địa Môn
Nguồn: Sưu Tầm
"Không có giun quấy, mà là do hư chứng, cái này e là…hứ!”
“Sao vậy?”
“Ta luôn có cảm giác là trong bụng ta có giun quấy, hồi trước thì vị đại phu kia bảo không có, sau đó lại nói là có, nhưng lại nói với cái vẻ không cam tâm, bây giờ lại đến lượt ngươi nói trong bụng ta không có giun, Ngũ Vị Đường của bọn ngươi rốt cuộc có ai chẩn đoán đúng căn bệnh của ta không?”
Hàm Đầu cũng không tức giận, đáp: “Chữa bệnh mà, làm gì có vị đại phu nào đều có thể lúc nào cũng chỉ cần cắt một bài thuốc một cái là chữa khỏi bệnh ngay cho người ta đâu, huynh đài cứ làm theo phương pháp chữa bệnh của ta xem thế nào đã, rồi tính sau, huynh đài thấy thế nào?”
“Phương pháp gì?”
Hàm Đầu cầm bút lên, vừa viết vừa đọc: “Bổ Trung Ích Khí Thang! Cho thêm nhiều Sâm vào, dùng rượu xào với Hoàng Phách cho năm phần vào bổ trợ. Uống liền ba mươi thang!”
“Á! Ta không tin, ba mươi thang thì thôi, cứ dùng tạm ba thang trước đã, nếu như vẫn không khỏi, thì ngươi phải cho ta gặp Đỗ tiên sinh, ông ấy là Thái Y, ai cũng bảo y thuật của ông ấy cao siêu, ta chỉ tin ông ấy mà thôi!”
“Được!” Hàm Đầu xoa tay nói “Chúng tôi chữa không khỏi bệnh cho huynh đài, nhất định sẽ mời Sư Tổ của chúng tôi chẩn đoán cho huynh, xin huynh đài cứ yên tâm.”
Ngày hôm sau, Trúc Can lại đến Ngũ Vị Đương, trông hắn tiều tụy hơn trước rất nhiều.
Lần này gã không gào thét cũng không làm mình làm mẩy nữa, chỉ ngồi trước tiền đường, ôm lấy hai vai, nói: “Được rồi, hai vị đại phu đều là ăn hại, bụng của ta sắp bị cắt làm đôi rồi. Ta lần này đến đây, chỉ muốn gặp Đỗ tiên sinh mà thôi, nếu Đỗ tiên sinh không chữa cho ta, thì ta biết rằng bệnh của ta đã hết thuốc chữa rồi.” Sau đó, gã rút trong người ra một sợi dây thừng, nói: “Hôm nay, ta quyết định treo cổ trước cổng Ngũ Vị Đường của các ngươi!”
Đêm hôm trước, Bàng Vũ Cầm đã đem toàn bộ sự việc ra nói với Đỗ Văn Hạo. Đỗ Văn Hạo biết được hôm nay Trúc Can sẽ đến đây tiếp, nên đã cho người đến Thái Y Viện xin nghỉ nửa ngày để chờ gã ta.
Ngô Thông chạy như bay vào trong thông báo, Đỗ Văn Hạo vội bước ra ngoài, chắp tay nói: “Vị huynh đài này, tại hạ là Đỗ Văn Hạo.”
Trúc Can vội đứng dậy khỏi chỗ ngồi. Gã tiến nhanh đến trước mặt Đỗ Văn Hạo rồi nhìn ngắm hắn từ trên xuống dưới, nhưng không nói một lời nào liền vén áo lên, quỳ xuống dập đầu côm cốp xuống nền nhà: “Tiên sinh cứu tôi với!”
Đỗ Văn Hạo vội vàng đi đến đỡ gã đứng dậy: “Đệ tử của ta không chữa bệnh được cho huynh đài, làm huynh đài phải chịu khổ như vậy, thật là ngại quá.”
Trúc Can hai mắt đẫm lệ, giọng nói nấc nghẹn, đáp: “Đỗ tiên sinh, tiên sinh mà không cứu ta nữa, thì ta chết mất!”
Đỗ Văn Hạo để gã ngồi xuống, đích thân đi rót trà cho gã, nói: “Đừng nóng vội, để ta khám cho huynh đài xem sao. Huynh đài hãy nói cho ta biết trước huynh rốt cuộc bị làm sao? Khi mới phát bệnh tình hình thế nào, từ từ bình tĩnh nói cho ta biết, càng tỉ mỉ, càng tốt!”
Trúc Can bèn đem hết đầu đuôi, ngọn ngành cơn bệnh ra nói cho Đỗ Văn Hạo nghe.
Khi gã nói Đỗ Văn Hạo cũng không chen ngang, chỉ ngồi im phăng phắc nghe gã kể lại, sau khi nghe xong, Đỗ Văn Hạo gật gật đầu, nói: “Đưa ta bắt mạch cho huynh đã.”
Sau khi bắt mạch, xem lưỡi cho Trúc Can xong, Đỗ Văn Hạo trầm ngâm một lúc nói: “Huynh nói không sai, bệnh của huynh đúng là do trong bụng có giun mà ra!”
Trúc Can vỗ đùi cái đét, nói: “Đúng đó! Đỗ tiên sinh quả nhiên cao minh! Ta đã nói là có giun rồi, mà hai tên đệ tử của tiên sinh không chịu tin ta, lại còn nói ta mắc hư chứng gì gì nữa chứ!”
Đỗ Văn Hạo mỉm cười đáp: “Bọn họ biện chứng, khám không chính xác, nên không có biện pháp diệt trừ con giun trong bụng huynh được.”
“Nếu đúng là như vậy, thì tiên sinh hãy mau mau kê đơn thuốc cho ta uống, ta sắp bị mấy con giun đó hành hạ, gặm nhấm sắp chết đến nơi rồi.”
Đỗ Văn Hạo cười nói: “Không vội, không vội.”
Trúc Can nghe thế, càng nóng vội hơn, nói: “Tiên Sinh, ta sắp chết đến nơi rồi, tiên sinh vẫn nói không vội được sao?”
Đỗ Văn Hạo đứng dậy, đáp: “Ta sẽ kê cho huynh một đơn thuốc. Nhưng huynh phải nhẫn nại chờ đợi, bởi vì phương thuốc này rất đặc biệt, phải chính tay ta đi cắt thuốc mới được” Nói xong bèn rời đi.
Một lúc sau, Đỗ Văn Hạo quay lại. Đưa Trúc Can đến cửa của một căn phòng nhỏ, nói: “Viên dược hoàn này phải dùng trong căn phòng không có ánh sáng này mới có tác dụng. Huynh uống xong viên thuốc này sẽ muốn đi vệ sinh nặng, trong phòng này có một cái bô cho huynh dùng, huynh cứ thoải mái mà đi ở trong này, ta phải xem xét đám phân của huynh thì mới nắm rõ được tình hình, huynh đi vệ sinh xong rồi, thì nhớ gọi ta, ta ngồi ở phòng ngoài chờ huynh.”
Nói rồi, Đỗ Văn Hạo mở cửa, căn phòng này tăm tối vô cùng, Đỗ Văn Hạo móc trong người ra một viên dược hoàn đưa cho gã uống, sau đó đi ra ngoài chờ.
Quả nhiên, không lâu sau, trong căn phòng đó vọng ra tiếng bèn bẹt của phân, kèm theo một mùi thối đặc trưng truyền ra bên ngoài. Làm cho người ta theo phản xạ, lùi lại phía sau mấy bước và đưa tay lên bịt mũi lại.
Chỉ một lúc sau, Trúc Can từ trong phòng nói vọng ra: “Tiên sinh, trong phòng này thối quá, tiên sinh đừng vào đây, để ta tự tay đưa phân của ta ra cho tiên sinh xem.”
“Không sao, huynh cứ mở cửa cho ta.”
Cửa được hé mở với một cái khe khá nhỏ, chỉ nhìn thấy Trúc Can đang bịt mũi, mặt ngượng đỏ tía tai.
Đỗ Văn Hạo không hề ngần ngại, mở toang cái cửa đi vào nhìn cái bồn toàn phân, quay đầu lại nói với Trúc Can: “Huynh lại đây mà xem xem trong đó có gì?”
Trúc Can lắc đầu nguầy nguậy, đáp: “Chỉ là những đám phân hôi thối bẩn thỉu mà thôi, có gì đáng xem cơ chứ?”
Đỗ Văn Hạo cười chỉ vào đám phân bẩn thỉu đó nói: “Huynh nhất định phải xem đấy.”
Trúc Can không thể hiểu nổi Đỗ Văn Hạo muốn gì, chỉ thấy hắn cứ muốn bắt mình đến xem, nên cũng đành phải che mũi ngó đầu đến xem xem, không ngờ trong cái đám phân bẩn thỉu này, hắn trông thấy vô vàn những con dòi nhỏ, lổn nhổn ngoằn nghoèo, nhung nhúc trong đó.
Trúc Can mừng rỡ: “Ối dà! thì ra là mấy con giun này đã bị thải ra ngoài rồi! Đỗ Đại Nhân ngài đúng thật là Thần Y đương thời!”
Trúc Can đi ra sảnh ngoài, trả tiền thuốc xong, vẫn quay ra rối rít tạ ơn Đỗ Văn Hạo.
Từ đó trở đi, căn bệnh đau bụng của Trúc Can được chữa khỏi hoàn toàn.
Sau khi Trúc Can dời đi, Diêm Diệu Thủ và Hàm Đầu vội đi vào căn phòng tối đó, nhìn vào đám phân trông bồn, vô cùng kinh ngạc, bọn họ hồ nghi đáp: “Sư tổ, trong bụng người này đúng là có giun thật sao?”
Hàm Đầu cũng chen vào nói: “Đúng đó sư tổ, đệ tử nghĩ gã chắc là mắc phải hư chứng, nhưng không ngờ, đệ tử cứ nghĩ trong bụng hắn không có giun, nhưng hắn lại thải ra cả đống giun ở đây, đúng là đệ tử học nghệ không được tinh thông, thật đáng hổ thẹn!”
Đỗ Văn Hạo cười lớn: “Các ngươi không cần phải hổ thẹn, bởi vì các ngươi không hề chẩn đoán sai chút nào, trong bụng hắn không hề có giun.”
Hai người đều hỏi: “Không có giun? Thế cái đống giun màu đỏ ở trong đám phân là gì thế ạ?”
“Hai đứa các ngươi cứ mở cửa sổ ra, để phòng sáng hơn rồi nhìn xem, nó là cái gì. Nhìn kỹ vào nhé, đừng có ngại mùi thối của phân đấy.”
Hai người vội vàng mở tất cả các cửa sổ của phòng này ra, rồi bịt mũi ngó vào trong cái bồn đựng phân, quan sát cẩn thận, một lúc sau, Hàm Đầu ngập ngừng nói: “Hình như không phải là giun thì phải, nó không động đậy gì cả.”
Diêm Diệu Thủ cũng nói: “Đúng rồi đó, nó giống sợi chỉ màu đỏ hơn.”
“Không sai! Chính là dây chỉ đỏ.”
Hai người cùng kinh ngạc hỏi: “Sư tổ, thế chuyện này rốt cuộc là như thế nào ạ?”
Đỗ Văn Hạo đáp: “Khi nãy hắn ta thuật lại sự tình rất tường tận, nhưng hai người bọn ngươi sợ bị người ta mắng, nên trốn đi chỗ khác, do vậy mới không nghe thấy. Hắn nói cho ta biết, có một thời gian, hắn uống rượu say bét nhè ở nhà nhạc phụ, nhạc mẫu. Đến nỗi nhạc phụ, nhạc mẫu của hắn ta phải bảo nha hoàn đưa vào trong phòng nằm nghỉ. Nửa đêm hắn ta khát nước, tỉnh dậy tìm nước uống. Không ngờ, nha hoàn của nhà nhạc phụ, nhạc mẫu ngủ say quá, nên đành phải tự mình mò ra ngoài cổng để tìm nước, nhìn thấy có nước trong cái máng nước mưa, nước mưa dưới ánh trăng bạc ánh lên trong suốt, hắn ta do khát quá, nên không thèm suy nghĩ gì cả, uống no cả một bụng nước. Khi trời sáng, mới phát hiện ra, trong cái máng nước mưa đấy, bọ gậy nhung nhúc, hắn sợ quá, cứ lo mình uống bao nhiêu con bọ gậy màu đỏ đấy vào bụng, cộng thêm hôm đó, lại ăn uống vô độ nên bụng có phần khó chịu, bèn nghĩ ngay mình đau bụng là do bọn giun đỏ đó gây ra. Hắn ta càng nghĩ vậy, nên càng thấy bụng mình càng lúc càng đau.”
Hàm Đầu lúc này mới ngã ngửa người hiểu ra sự việc: “Thì ra là vậy, đây là một bệnh tâm lý, trong lòng lo lắng nên mới sinh ra bệnh.”
Diêm Diệu Thủ lúc này mới gấp quạt vào, cười nói: “Ha ha, thật không ngờ việc lại như vậy. Nếu biết sớm hắn ta có tâm lý lo sợ như vậy, thì ta cũng có thể chữa được!”
Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: “Ngươi đã trị cho người ta hai lần rồi, sao vẫn không chữa khỏi cho người ta?”
Diêm Diệu Thủ cảm thấy hổ thẹn, vội vã thu quạt lại, cúi người đáp: “Đồ tôn biết tội, đồ tôn không cẩn thận nghe ngóng bệnh nhân nói về bệnh tình của mình, nên mới không biết nguyên nhân của bệnh là gì, đồ tôn quả là sơ sẩy quá.”
“Đây không chỉ là sơ sẩy đơn giản như vậy!” Đỗ Văn Hạo ngắm nhìn hai người bọn họ một lúc, rồi lên tiếng nói: “Một đại phu giỏi, trước hết phải thông thạo vấn chẩn, không những biết hỏi mà còn phải biết lắng nghe người ta nói! Không chỉ có vậy, khi lắng nghe bệnh nhân nói thì có những tình tiết tưởng như không quan trọng, nhưng chỉ cần bệnh nhân nói cho ngươi nghe, thì chắc chắn là họ cho rằng điều đó có liên quan đến căn bệnh của họ, nên ngươi phải tập trung vào mà nghe! Có rất nhiều đại phu không biết lắng nghe bệnh nhân nói! Tự cho mình là thần y, chỉ cần bắt mạch của người ta xong, rồi lúc lắc cái đầu đoán người ta mắc bệnh này bệnh nọ, mà không hề chịu lắng nghe bệnh nhân rốt cuộc là bị bệnh gì. Phán không đúng bệnh, thì ỷ mình hiểu chút y thuật mà đi cãi lý với người ta, coi khám bệnh cứ như bói toán vậy, chỉ cần một tuần trà là chữa trị xong cho mấy người rồi, như vậy thì còn chẩn đoán chính xác bệnh được nữa không?”
Diêm Diệu Thủ và Hàm Đầu đều hổ thẹn cúi đầu đáp: “Đồ tôn nguyện ghi nhớ lời sư tổ chỉ dạy.”
“Đây không phải là ta dạy cho các ngươi, mà là muốn nói cho các ngươi biết rằng, tất cả các đại phu nên có trái tim nhân từ của bậc cha mẹ, nói câu này thì dễ lắm, nhưng làm được chuyện đó thì có được mấy người! Tại sao lại như vậy? Bởi vì đối với quyền uy, tình thân, bệnh tình nghiêm trọng có lẽ người ta sẽ có trái tim nhân ái đó trong người, nhưng đối với những bệnh nhân bình thường thì sao chứ? Bọn họ rất dễ dàng khám qua loa cho xong chuyện, bởi bọn họ nghĩ, dù gì cũng chẳng phải bệnh gì ghê gớm, việc gì phải nghiêm túc chữa bệnh cho mệt sức cơ chứ. Nhưng ai ngờ, khi các ngươi cho đó là căn bệnh tầm thường thì người bệnh lại coi bệnh của họ nghiêm trọng, và to lớn như trời vậy! Y đức như từ mẫu, ý câu đó chính là phải coi người bệnh như người thân của mình, chăm sóc người bệnh như cha mẹ chăm sóc con mình vậy. Cần phải tỉ mỉ, cẩn thận kiểm tra bệnh tình của bệnh nhân, tuyệt nhiên không được lạnh lùng, vô tình, càng không được qua loa cho xong chuyện. ”
Những lời nói này của Đỗ Văn Hạo, làm cho Diêm Diệu Thủ và Hàm Đầu hai người toát mồ hôi lạnh, cúi người lắng nghe, gật đầu tán đồng liên tục.
“Được rồi! Ta phải vào trong cung xem bệnh cho các nương nương đây. Hy vọng rằng ca bệnh vừa rồi có thể thức tỉnh y đức trong người của hai ngươi!” Đỗ Văn Hạo nói xong khoát khoát tay đi vào trong hậu đường. Sau khi vào hậu đường, hắn được Anh Tử và Bàng Vũ Cầm mặc giúp quan phục, đội mũ quan lên kiệu đi vào trong cung. Kiệu rời khỏi cửa trong sự cung kính, e dè tiễn đưa của Diêm Diệu Thủ và Hàm Đầu, lắc lư một lúc thì thấy Thái Y Viện ở trước mắt.
Vừa đến cổng của Thái Y Viện, người gác cổng liền gập bụng thông báo: “Đỗ đại nhân, Đức Phi nương nương sai người đến mời đại nhân đến khám bệnh, giờ đang ở trong hoa phòng chờ đại nhân đó.”
“Đức Phi nương nương?” Đỗ Văn Hạo chưa gặp nàng bao giờ cả, bèn ngẩng đầu lên trời ngẫm nghĩ những sở thích của các Phi Tần nơi hậu cung, Tiêu công công đã nói cho hắn biết hết rồi, Đức Phi nương nương vốn là một thường dân, từ một Ngự Thị biến thành một Phi Tử, mang trong người rất nhiều yếu tố truyền thuyết. Ngày trước nàng rất được Hoàng Thượng cưng chiều, làm cho rất nhiều Phi Tần và nương nương nơi hậu cung cũng phải ghen tị. Nhưng về sau cũng vì mắc bệnh, nên mới bị Hoàng Thượng lạnh nhạt. Người ta hay nói cây đổ rồi thì lá cũng rơi theo, nhớ hồi trước cung Thánh Thụy đông vui tấp nập bao nhiêu, giờ thì tiêu điều, lạnh lẽo bấy nhiêu.
Nhưng có một điều phải khẳng định là Đức Phi nương nương vô cùng xinh đẹp. Nếu không phải vậy thì làm sao mà hậu cung bao nhiêu giai nhân mỹ nữ như vậy, nàng ta vốn chỉ là một Ngự Thị mà được như ngày hôm nay chứ. Có rất nhiều mỹ nữ xinh đẹp được thi tuyển chọn vào hậu cung, đến tận bây giờ cũng còn chưa biết Hoàng Thượng trông như thế nào nữa cơ.
Đỗ Văn Hạo hỏi: “Đức Phi nương nương bị làm sao vậy?”
“Nương nương bị bệnh, cụ thể là bệnh gì, thì nô tài cũng không biết.”
Đỗ Văn Hạo bảo tên gác cửa gọi tên thái giám của Đức Phi nương nương vào hỏi chuyện, tên thái giám cũng không thổ lộ cho hắn được điều gì cả, nên bèn bảo ông ta dẫn mình vào cung.
Đỗ Văn Hạo vốn muốn dẫn theo Hạ Cửu Bà, nhưng Hạ Cửu Bà lại có một ca khám bệnh nên đã ra ngoài từ sớm, đến giờ vẫn chưa quay về. Thế nên, hắn đành một mình cắp theo hòm thuốc đi theo tên thái giám vào Hoàng Cung đến cung Thánh Thụy của Đức Phi nương nương.
Đi đến cổng, tên thái giám cung kính nói với hắn: “Đỗ đại nhân xin chờ trong giây lát, nô tài vào bẩm báo một tiếng.” Đỗ Văn Hạo được cung nữ mang trà đến hầu, được một lúc sau, tên thái giám đó quay lại, dẫn Đỗ Văn Hạo vào trong.
Trên một chiếc sạp mềm phía sau rèm che, có một người đang ngồi trên đó.
Đỗ Văn Hạo vội tiến tới, cúi mình thi lễ nói: “Vi thần Đỗ Văn Hạo, tham kiến Đức Phi nương nương.”
“Đỗ đại nhân vất vả quá, mời Đỗ đại nhân ngồi” Giọng nói của Đức Phi nương nương mềm mại bay vào lỗ tai của hắn, dễ nghe vô cùng.
“Tạ ơn nương nương!”
“Đỗ đại nhân. Đại nhân xem bệnh cho ta qua tấm rèm che này, liệu có được không?”
“Cái này, thực ra trong bốn kỹ năng nhìn, nghe, hỏi và bắt mạch, thì nhìn là quan trọng hơn cả, nếu như nhìn không tốt thì chẩn đoán sẽ không chuẩn xác.”
“Vậy thì kéo rèm lên.” Giọng Đức Phi nương nương mềm mại nói.
Cung nữ đứng ngay cạnh đấy liền vội vàng tiến đến kéo tấm rèm che lên.
Đỗ Văn Hạo hướng mắt nhìn lên, chỉ thấy Đức Phi nương nương chạc tầm ngoài hai mươi tuổi, khuôn mặt như hoa Phù Dung, lông mày lá liễu, làn da trắng hồng như phấn, răng trắng đẹp đều, cánh tay nõn nà mềm mại. Mái tóc đen dài vấn cao, khắp đầu cài rất nhiều chân châu, lấp lánh trông rất bắt mắt. Đức Phi nương nương bận một chiếc váy đào hồng, cổ áo viền hoa sen gấp khúc, lộ ra chiếc cổ trắng ngần, trên cổ còn đeo một chuỗi hạt chân châu màu hoa đào lóng lánh chói lọi. Đúng là làn thu thủy nét xuân xanh, làm cho hoa ghen thua thắm, tuyết nhường màu da.
Từ bề ngoài mà nói, thì vóc người của Đức Phi nương nương rất đẫy đà. Nhưng eo của nàng rất nhỏ, nếu như nàng mà bước đi thì chắc chắn chiếc hông nàng lắc sẽ rất đặc biệt. Chiếc eo nhỏ đó ẩn chứa biết bao trái tim rung động của đa số nam nhân khi được chiêm ngưỡng nó.
Đỗ Văn Hạo chỉ liếc nhìn một cái, rồi lại vội vã cúi đầu xuống, không dám nhìn lâu, sợ phạm tội vô lễ.
Giọng nói êm ái của Đức Phi nương nương: “Đỗ đại nhân, bổn cung rất xấu phải không? ”
Đỗ Văn Hạo giật thót mình, không biết Đức Phi nương nương nói câu này với dụng ý gì, càng không biết nên trả lời ra sao.
Đức Phi nương nương lại cười nói: “Ngươi ngẩng đầu lên, để bổn cung nhìn ngươi cái nào.”
Ối trời đất ơi! Lẽ nào Đức Phi nương nương muốn ngắm mặt mình sao? Hay là lại có âm mưu gì đó giống Thái Hoàng Thái Hậu? Người ta hay nói câu một lần bị rắn cắn, mười năm sợ dây thừng. Đỗ Văn Hạo vừa nghe cái giọng có tình ý như vậy, thì trong lòng đã thấp thỏm bất an. Hắn từ từ ngẩng đầu lên, bốn mắt nhìn nhau, hai người dường như có đôi chút sửng sốt.
Đức Phi nương nương bật cười, nụ cười giòn tan như muôn hoa đua nở: “ Ha ha ha. Trong cung đều tương truyền, nói có một tiểu sinh anh tuấn ở Thái Y Viện, là Thái Y Viện Viện Phán gì đó. Phụng chỉ vào hậu cung khám bệnh, bổn cung cũng thấy kỳ lạ, tuổi của mấy ông lão trong Thái Y Viện cộng lại cũng gần nghìn năm rồi, làm gì có tiểu sinh anh tuấn nào cơ chứ? Nên nghĩ rằng, mấy tiểu ny tử, thèm nam nhân quá, thèm đến hóa điên cả rồi, hôm nay gặp măt, quả nhiên danh bất hư truyền, ha ha ha. ”
Mặt của Đỗ Văn Hạo nóng bừng bừng như phát sốt, trong bụng thầm nghĩ, lẽ nào Đức Phi nương nương gọi hắn đến đây chỉ là để xem hắn có phải là cái tên tiểu sinh anh tuấn đó không hay sao? Tiểu sinh anh tuấn, lại còn danh bất hư truyền, từ trước tới giờ, đây là lần đầu tiên có người phụ nữ nói mình như vậy. Nói thế làm cho Đỗ Văn Hạo cũng có ý muốn cầm lấy gương đồng soi lại xem, hắn thật sự có được coi là anh tuấn hay không.
Đỗ Văn Hạo cúi người đáp: “Bẩm nương nương, xin được để vi thần khám bệnh cho nương nương.”
Đức Phi nương nương hé miệng cười nói: “Không vội! Đỗ đại nhân, đại nhân có biết rằng, bổn cung đã lâu chưa có khách đến đây không, bổn cung ngày nào cũng phải đối mặt với các cung nữ và thái giám, buồn chết đi được, hôm nay lại có một tiểu sinh anh tuấn như Đỗ đại nhân đến chơi, thảo nào mấy con chim hỷ tước cứ kêu chí cha chí chóe trên cành cây. Bổn cung đã dặn dò người ở bày tiệc rượu trong vườn hoa trong viện Vãn Quân rồi, mời Đỗ đại nhân cùng bổn cung đối ẩm vài chén, chờ tiệc rượu tan rồi mới khám bệnh, đại nhân thấy thế nào? ”
Đỗ Văn Hạo lấy làm kinh hãi, nữ nhân của Hoàng Thượng muốn uống rượu cùng mình? Nàng ta không phải thèm nam nhân đến phát cuồng rồi chứ? Hay là cũng say mê mình, tên thư sinh này rồi? Mẹ kiếp, ngồi tiếp rượu nữ nhân của Hoàng Thượng, việc này không ổn chút nào, nếu mà Hoàng Thượng mà biết tin, thì mình chết chắc rồi, từ chối lời mời này là thượng sách, nghĩ vậy Đỗ Văn Hạo bèn ấp úng nói: “Cái này...,Vi thần đa tạ ý tốt của nương nương, chỉ là vi thần còn phải đi khám bệnh cho Hoàng Thái Hậu nữa, nên thịnh tình của nương nương vi thần khó mà đáp lại.”
Đức Phi nương nương u sầu thở dài, não nề nói: “Ồ vậy sao! Cũng chả trách, Hoàng Thái Hậu tôn quý vô cùng, ta chỉ là một nữ nhân cô đơn nơi hậu cung bao năm vô phúc không được gặp Hoàng Thượng mà thôi, có ai còn để ý quan tâm đến một người thảm thương như ta nữa!” Nói xong Đức Phi nương nương đưa vạt áo lên che mặt, khóc thút thít, còn tay kia vẫy vẫy ra hiệu: “Ngươi đi đi.”
Đỗ Văn Hạo nghe thấy giọng Đức Phi nương nương thê lương như vậy, liền nhớ đến Tiêu công công từng nói đến chuyện Đức Phi nương nương bị thất sủng, nàng đã mấy năm rồi không gặp được Hoàng Thượng, chứ đừng nói đến chuyện được Hoàng Thượng yêu quý lại nữa, điều này đồng nghĩa là nàng đã làm quả phụ mấy năm nay rồi. Hậu cung mỹ nữ nhiều vô kể, Hoàng Thượng đêm nào cũng làm chú rể, bận không xuể, e rằng đã sớm quên vị Đức Phi nương nương này từ lâu rồi. Nghe Đức Phi nương nương than vãn thảm thương như vậy, Đỗ Văn Hạo cũng bất giác mủi lòng, nên nghĩ, cũng chỉ là uống rượu ở vườn thôi mà, cũng có phải trốn vào trong phòng làm chuyện bậy bạ gì đâu, có gì mà ghê gớm chứ! Đi! Đi uống rượu, sợ cái đếch gì!
Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy, bèn cúi người đáp: “Đức Phi nương nương ưu đãi vi thần như vậy, thế nên cung kính không bằng tuân lệnh, vi thần xin tiếp nương nương uống vài chén.”
“Thật không?” Đức Phi nương nương bỏ vạt áo xuống, nước mắt đẫm nhòe hết đôi mắt phượng của nàng, nhưng vẫn ánh lên niềm vui sướng tột độ, “Thế còn Hoàng Thái Hậu nương nương thì ngươi tính sao?”
“Bẩm, bệnh của Hoàng Thái Hậu nương nương cũng không gấp lắm, nên vi thần tiếp rượu nương nương và xem bệnh cho nương nương xong rồi mới đi cũng không muộn.”
“Vậy thì tốt, chúng ta đi thôi.”
Đỗ Văn Hạo đi theo Đức Phi nương nương và chúng cung nữ thái giám đi ra khỏi tẩm cung, xuyên qua một cái lầu các và một hành lang ngoằn nghèo của lầu rồi đến một vườn hoa bên cạnh một cái hồ nhỏ. Nơi này hoa tươi nở rộ, Đức Phi nương nương đến một cái đình nhỏ bên cạnh hồ ngồi xuống, trên cái bàn trong cái đình nhỏ đó, đã bày sẵn những món cao lương mỹ vị rồi.
Có hoa, có nước, có món ăn ngon, có gió mát, có mỹ nhân ngồi tiếp, cho dù Đỗ Văn Hạo có ý ngồi tiếp rượu với Đức Phi nương nương, nhưng dù thế nào đi nữa nàng vẫn là vợ của Hoàng Thượng, không cẩn thận là cũng mất đầu như chơi, nên hắn cảm thấy không thoải mái được như ở ngoài. Hắn cũng chẳng có tâm trí tận hưởng cảnh đẹp, người đẹp, mà chỉ lo sợ mình nói gì sai đắc tội với mỹ nhân bị Hoàng Thượng thất sủng từ lâu này.
Nữ nhân sợ nhất là bị hắt hủi, lạnh nhạt nơi thâm cung lạnh lẽo này, chỉ có mỗi một trái tim cô độc vò võ nơi đây, thế nên đừng có dại mà đi đắc tội với họ, bởi vì bọn họ có thể bộc phát bất cứ lúc nào, gặp người giết người, gặp quỷ giết quỷ, gặp phật cũng giết nốt
Đã có 3 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Thinhbobo