Bốn năm đã qua. áo quần của tôi đã nối nhau rách như xơ mướp. Mặc dầu khí hậu miền này rất nóng, tôi vẫn phải dùng quần áo như thường. Hết áo quần bằng vải, tôi may bằng da thú. Tôi dùng những tấm da mềm nhất để may một cái mũ, mặt có lông trở ra ngoài. Dùng thử mũ thấy tốt, tôi bèn may một bộ quần áo bằng da lông thú. Bộ áo quần này dùng để che mưa nắng hơn là chống rét nên tôi may khá rộng rãi, mặt có lông trở ra ngoài để nước mưa trôi nhanh, khỏi thấm vào trong. Tôi đã phải mất nhiều công phu và thì giờ mới làm được một cái dù giống như thứ người ta vẫn dùng ở Bra-din, để chống cái nóng gay gắt. Làm đi hỏng lại nhiều phen trong một thời gian khá lâu tôi mới có được một đồ dùng tàm tạm để che mưa, che nắng. Thế nhưng tôi vẫn chưa thỏa mãn với kết quả đó và cả hai ba cái làm về sau cũng thế. Tôi có thể giương dù lên nhưng chưa cụp nó xuống được, nên cứ phải mang nó chềnh ềnh trên đầu, phiền phức quá! Cuối cùng, tôi cũng làm được một chiếc khung dù tạm dùng được rồi căng da lên, mặt có lông trở lên trên. Trời mưa, tôi đứng dưới dù cũng như đứng dưới mái hiên; trời nắng như thiêu như đốt, tôi vẫn đường hoàng đi dạo dưới bóng dù như những ngày râm mát. Lúc nào không cần thiết tôi cụp nó lại và cắp gọn gàng dưới nách. Ngoài những việc trên kia đã nói, suốt một thời gian năm năm không xảy đến chuyện gì đáng kể. Ngoài việc đi săn, gặt lúa phơi và cất nho khô, công việc chính của tôi là làm một cái xuồng nhỏ. Tôi đã làm xong chiếc xuồng và đào một con mương sâu sáu bộ, rộng bốn bộ, đưa xuồng ra biển. Còn chiếc xuồng thứ nhất, đồ sộ quá mức vì thiếu tính toán trước như các bạn đã biết, thì chẳng bao giờ tôi có thể hạ thủy nó được nữa! Tôi đã đi bộ suốt từ đầu này đến đầu kia đảo; những điều tai nghe mắt thấy trong cuộc du lịch đó đã khiến tôi càng nôn nóng muốn biết rõ tất cả những phần bờ bể khác quanh hòn đảo.
Thế là tôi lại loay hoay vào việc đi thăm bờ biển. Để tiến hành cuộc đi cho cẩn thận và chắc chắn, tôi chuẩn bị hết sức chu đáo cho chiếc xuồng nhỏ. Tôi dựng một cột buồm rồi căng buồm đi thử, và thấy buồm rất ăn gió. Tôi lại làm những khoang, những thùng ở hai đầu để cất giấu thức ăn và thuốc đạn, phòng khi nước mưa, hoặc nước biển có tràn vào trong xuồng cũng không bị ướt. Tôi lại ngăn một khoang riêng để cất khí giới và che đậy cẩn thận. Cuối cùng tôi cắm cái dù vào sau lái thuyền để che mưa nắng. Hôm ấy là ngày mồng 6 tháng 11 thuộc về năm thứ sáu của "triều đại tôi" hoặc của sự cầm tù của tôi (các bạn muốn gọi là gì cũng được, tùy thích), tôi xuống xuồng bắt đầu đi thăm đảo. Cuộc du lịch này đã kéo dài trong một thời gian quá lâu, ngoài dự tính. Cứ nhìn bao quát thì hòn đảo không rộng lắm, nhưng ở về phía đông có một doi núi đá chạy nhô ra biển dài đến hai dặm đường, lủng củng những đá nhô lên trên mặt nước hoặc mọc ngầm dưới nước. Một dải cát khô tiếp theo doi đá chạy dài thêm ra ngoài biển chừng nửa dặm nữa, thành ra muốn vòng qua mỏm đất đó, tôi phải đi khá xa ra ngoài khơi. Trước trở ngại đó, tôi đã toan bỏ dở cuộc đi, phần vì chưa quen đường, phần ngại không biết sẽ trở về bằng cách nào. Tôi đã quay xuồng lại và nhả neo. Tôi cũng quên chưa nói để các bạn biết tôi đã làm được cả neo cho chiếc xuồng bằng một đoạn neo lớn lấy ở tàu đem về. Chiếc xuồng đậu yên chỗ rồi, tôi lấy khẩu súng săn và lên bộ rồi trèo lên một ngọn núi nhỏ. ở đó tôi nhìn suốt cái doi đá và cát, ước lượng được chiều dài của nó; thế là tôi quyết định tiếp tục cuộc du lịch. Tôi chú ý thấy ngoài khơi có một luồng nước chảy rất nhanh, xiết về phía đầu mỏm đất; nếu tôi sa vào đó thì dễ bị cuốn đi lắm. Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu kỹ, tôi thấy nếu điều khiển thuyền cho khéo thì cũng có thể tránh cái luồng nước ấy rồi nương theo cái cồn phía trái mà vòng qua bên kia dễ dàng. Tôi nghỉ lại ở đồi hai đêm vì gió đông nam thổi mạnh, ngược với dòng nước. Gió dồn sóng đập ầm ầm vào mỏm đá, thật là bất lợi: tôi không thể đi sát vào bờ mà cũng không dám ra xa ngoài khơi sợ có thể bị luồng nước ngoài đó cuốn đi mất.
Tới ngày thứ ba, gió tạnh, biển lặng, tôi tiếp tục cuộc hành trình. Những người hoa tiêu hùng hổ và ngốc nghếch hãy chú ý tới việc sẽ xảy ra cho tôi sau đây mà rút kinh nghiệm. Tôi chưa ra được đến đầu doi đất đã thấy mình bơi thuyền trên một vùng biển sâu, giữa một dòng nước chảy mạnh như thác đổ. Lúc đó tôi chỉ cách bờ đất chừng bằng chiều dài chiếc xuồng. Luồng nước cuốn chiếc xuồng đi mạnh đến nỗi không lúc nào tôi có thể đưa nó lại gần bờ được. Tôi thấy mình bị cuốn đi xa dần cái cồn cát bên trái. Trời im phăng phắc, tôi chẳng còn trông chờ gì vào gió nữa. Cố gắng chèo chống bao nhiêu cũng thành vô ích. Tôi tự coi mình là người chết rồi, vì hòn đảo này có hai luồng nước chạy quanh, chỉ chừng vài dặm nữa là chúng gặp nhau và cuốn tôi ra biển cả. Đến nước này thì thật không còn bấu víu vào đâu được nữa. Tôi không còn há vọng sống, chẳng phải là sợ chết đuối nhưng vì thấy mình không thể nào thoát được nạn đói một khi lương ăn đã cạn. Luồng nước này sẽ cuốn tôi ra tận biển cả. Trong khi trôi lênh đênh hàng ngàn dặm, tôi sẽ không còn há vọng được gặp một bờ đất, một hòn đảo hay một dải đất liền; trên thuyền vẻn vẹn chỉ có một vò nước ngọt, một ít bánh khô và một con rùa lớn đã làm thịt sẵn. Không ai có thể hiểu thấu được hết nỗi đau lòng của tôi lúc thấy mình bị cuốn ra biển cả, xa hòn đảo thân yêu. Tôi đã bị cuốn đi xa tới hai dặm đường và chẳng còn há vọng gì trở lại nữa. Tuy vậy tôi vẫn cố gắng phấn đấu không ngã lòng. Tôi hết sức hướng cho chiếc xuồng chuyển về phía bắc, tức là về phía luồng nước mà tôi đã chú ý thấy có một bãi cồn chắn ngang. Chừng buổi trưa, hình như có một luồng gió nhẹ lướt qua mặt man mát và thổi từ hướng nam đông nam; tôi bắt đầu có há vọng. Chừng nửa giờ sau, gió thổi mạnh dần và trở thành rất thuận cho tôi. Lúc đó tôi đã cách xa hòn đảo lắm rồi, chỉ còn thấy lờ mờ nữa thôi. Nếu trời âm u thì thật rồi đời, vì tôi quên mang cả địa bàn đi biển nên chỉ có thể theo mắt nhìn vào hòn đảo mà định hướng trở về. Nhưng cũng may trời vẫn quang đăng; tôi giương buồm lên và nhằm hướng nam mà đi, cố gắng thoát khỏi luồng nước độc địa. Tôi vừa giương buồm lên, nhìn xuống thì đã thấy nước trong, báo hiệu có một sự thay đổi ở luồng nước; khi chảy mạnh thì nước có vẻ đục và khi sức chảy càng yếu đi thì nước càng trong dần. Đi về phía đông, được chừng nửa dặm biển, tôi gặp một ghềnh đá rải rác chạy dài ra biển. Ghềnh đá ấy chắn luồng nước rẽ thành hai dòng: dòng lớn chảy theo phía nam, như vậy là ghềnh đá nằm về phía đông bắc của nó; còn dòng kia bị đá chắn lại, đâm mạnh về phía tây bắc. Bây giờ tôi đứng giữa hai luồng nước, một luồng ở về phía nam tức là luồng nước đã cuốn tôi ra xa; một luồng ở về phía bắc, cách xa chừng một dặm đường thì dồn về hướng khác. Mặt biển thật phẳng lặng, không một gợn sóng, nhưng nhờ cơn gió nồm thổi thẳng tới đảo, tôi cứ tiến dần vào mặc dầu rất chậm, chậm hơn lúc tôi bị luồng nước cuốn ra ngoài khơi nhiều. Vào khoảng bốn giờ chiều tôi còn cách xa hòn đảo chừng một dặm đường nữa thì nhận ra chính cái mỏm đá là nguyên nhân tất cả những chuyện rắc rối đó. Nó chạy dài về phía nam và gây ra một luồng nước cực mạnh, đồng thời cũng trở thành một ghềnh đá hướng lên phía bắc. Dòng nước chỗ này phẳng lặng, không đẩy tôi về phía bờ được, nhưng tôi đã lợi dụng sức gió và điều khiển buồm thật đúng hướng, len lỏi qua ghềnh đá theo một con đường ngắn nhất. Khoảng một giờ đồng hồ sau, tôi chỉ còn cách bờ độ một dặm biển. Mặt biển yên tĩnh và chẳng mấy chốc tôi đã vào tới bờ. Vừa nhảy lên bãi cát, tôi quì xuống như muốn tha thiết ôm chầm lấy hòn đảo thân yêu. Tôi quyết định từ nay sẽ không làm những chuyện dại dột nguy hiểm như thế này nữa. Tôi neo tạm chiếc xuồng trong cái vũng nhỏ, dưới một đám cây. Thể xác và tinh thần đều mệt nhọc quá độ, tôi lăn kềnh ra đánh một giấc không còn biết trời đất là gì nữa.
Ngủ dậy, tôi muốn đi men theo bờ đảo phía tây để tìm một nơi yên ổn mà cất chiếc xuồng, lúc nào cần đến là có ngay. Được độ một dặm đường tôi gặp một cái vũng rất vừa ý; càng vào sâu trong đất liền nó càng hẹp lại cho tới lúc gặp một dòng suối nhỏ chảy thẳng ra vũng. Tôi neo chiếc xuồng ở đó. Bây giờ tôi phải tìm xem mình hiện ở vào chốn nào trên đảo. Thì ra cũng không xa chỗ hôm trước, khi tôi bắt đầu đi xuyên qua đảo. Thấy vậy, tôi để tất cả mọi thứ cần dùng lại trong xuồng, trừ khẩu súng và chiếc dù (vì trời rất nắng) rồi tôi lên đường. Mặc dầu hãy còn rất mệt, tôi vẫn đi một cách vui thích; buổi chiều, tôi đã tới cái trại gây dựng hồi trước. Đó là ngôi "biệt thự" của tôi ở nông thôn. Tôi vẫn chăm sóc trồng trọt cây cối cho nên hoa quả sinh sôi nảy nở rất nhiều và rất nhanh. Tôi trèo qua rào mà vào bên trong. Mệt quá, tôi nằm dài dưới bóng cây nghỉ ngơi và ngủ một giấc thật say. Các bạn đương theo dõi câu chuyện của tôi, các bạn tưởng tượng xem tôi đã ngạc nhiên tới mức độ nào khi chợt nghe bên tai có tiếng ai gọi mình dậy, gọi luôn một lúc mấy lần chính tên tôi: "Rô-bin-xơn, Rô-bin-xơn, Rô-bin-xơn Cơ-ru-xô, anh Rô-bin-xơn Cơ-ru-xô khốn khổ! Trước kia anh ở đâu?". Vì đã chèo xuồng suốt cả buổi sáng, đi bộ suốt cả buổi chiều nên mệt quá, tôi không dậy hẳn được. Nửa mê nửa tỉnh, tôi tưởng như nằm mơ thấy ai nói chuyện với mình. Nhưng tiếng nói ở đâu vẫn nhắc đi nhắc lại: "Rô-bin-xơn Cơ-ru-xô, Rô-bin-xơn Cơ-ru-xô", làm cho tôi cuối cùng tỉnh dậy hẳn. Hoảng hốt vô cùng và kinh ngạc tột bực, tôi ngơ ngác nhìn quanh. Thấy con vẹt của tôi đậu trên hàng rào, dần dần tôi trấn tĩnh lại và đoán ra nó đã gọi tôi, bởi vì chính tôi đã dạy nó nói những tiếng đó. Thường ngày, nó vẫn đến đậu trên ngón tay tôi và ghé cái mỏ lại gần mặt tôi, kêu lên: "Rô-bin-xơn Cơ-ru-xô đáng thương ơi! Anh ở đâu? Trước kia anh ở đâu? Làm sao anh lại đến nơi này?" và nhiều câu tương tự. Mặc dầu biết chắc chắn không còn có thể có ai nói chuyện với mình ngoài con vẹt, tôi vẫn phải cố gắng lắm mới trấn tĩnh hẳn được.
Tôi tự hỏi: "Tại sao nó lại bay đến đây mà không tìm mình ở chỗ khác!". Nhưng thực ra ở đây chỉ có nó mới có thể nói với tôi được thôi. Cho nên tôi cũng chẳng nghĩ xa nghĩ gần thêm nữa. Tôi gọi rõ tên nó; con chim đáng yêu bay lại đỗ trên ngón tay cái của tôi và, ra vẻ mừng rỡ lại được thấy tôi, nó lại nói: "Anh Rô-bin-xơn Cơ-ru-xô khốn khổ ơi !Trước kia anh ở đâu?" Tôi vuốt ve nó và sau đó tôi đem nó về nhà. Tôi sống yên ổn trên đảo chịu đựng số phận mình hơn một năm nữa. Suốt thời gian đó tôi không ngồi rỗi, bằng lòng với những thứ mình đã có. Tôi vẫn làm việc không mệt mỏi. Tôi say sưa với công việc. không còn nghĩ ngợi vẩn vơ. Luôn luôn tôi được hưởng cái thú hoàn thành một kết quả lao động mà trước kia mình phải bó tay. Mặt khác, càng ngày tôi càng lành nghề trong nhiều ngành thủ công. Tôi đã trở thành thợ nặn rất khéo; ngoài bát đĩa, chum vại, bình vò thừa dùng để cất đặt mọi thứ lương ăn, tôi còn nặn được một cái tẩu hút thuốc, một công trình tuyệt mỹ đối với tôi, mặc dầu còn thua xa thứ tẩu vẫn bán ở phố. Tôi rất thích thú với cái tẩu hút thuốc: tôi đã có thuốc lá nay lại có cả tẩu để hút. Tôi lại cũng trở thành một tay đan giỏi. Tôi đã tìm được một thứ miên liễu, cành rất dẻo, có thể đan được rất nhiều thứ. Trước hết tôi đan một đôi thúng thật chắc, mỗi lần săn bắn được hoặc kiếm được thức ăn thì bỏ vào thúng quẩy về nhà. Dạo trước nhiều khi vì nặng không xách về được hết, phải bỏ sót lại thật uổng. Tôi lại đan cả bồ đựng thóc và nhiều đồ dùng khác nữa. Thuốc đạn càng ngày càng khan, lương thực cũng vơi dần. Tới năm thứ mười một ở trên đảo, tôi phải chú trọng đặc biệt đến việc nuôi dê. Đánh bẫy được một con dê đực và hai con dê cái, tôi bèn dựng một cái chuồng để nuôi chúng.
Trong khoảng một năm rưỡi, tôi đã có một đàn mười hai con dê vừa nhớn vừa nhỏ. Hai năm sau, số dê lên tới bốn mươi ba con và tôi bắt đầu giết thịt ăn dần. Tôi làm thêm tất cả năm chuồng nữa nhỏ hơn, mỗi chuồng có nhiều ngăn để lúc cần thì bắt dê cho tiện. Nuôi được khá nhiều dê cái, tôi mới nhớ đến chuyện vắt sữa. Mặc dầu nghĩ đến hơi muộn, sữa dê vẫn làm cho tôi thích thú vô cùng. Tôi tiến hành công việc và có ngày vắt được bảy tám chai sữa. Thừa sữa uống, tôi bèn làm thử bơ và pho-mát. Sau vài ba lần hỏng, tôi đã làm nhiều bơ và pho-mát ngon lành, tăng thêm chất và vị cho bữa ăn. Các bạn thử nghĩ, một mình trên một hòn đảo hoang vắng mà bữa sáng có sữa tươi, bữa ăn thường ngày có bánh mỳ, bánh bột gạo tẻ, thịt dê, trứng rùa, bơ và pho-mát; tráng miệng thì có các thứ hoa quả, nhất là nho tươi, nho khô, thiết tưởng cũng thịnh soạn không kém ở những khách sạn bình thường tại các thành phố. Dạo này, mỗi lần đi ra ngoài, tôi diện một bộ quần áo bằng da rất kỳ lạ. Giá có người nào trông thấy tôi, nếu không kinh sợ thì cũng bò ra mà cười! Tôi xin tả vài nét hình thù của ông "chúa đảo" khi đi chu du trong địa hạt của mình: Tôi đội một cái mũ bằng da dê cao lêu đêu trông thật không ra cái hình thù gì. Tôi buộc vào sau mũ nửa tấm da dê nữa chùm kín gáy và cổ để che mưa nắng; mưa nắng ở miền này thì thật khủng khiếp! Tôi lại mặc một cái áo chẽn cũng cắt bằng da dê, tà áo chấm ngang đầu gối. Quần ngắn thì rộng thùng thình, may bằng một tấm da lông một con dê xồm; lông dê dài lê thê, buông thõng xuống đến gần mắt cá, thành ra quần đùi mà cũng không khác gì quần dài. Thắt lưng của tôi cũng làm bằng ra lông; đáng lẽ mang đoản kiếm và mã tấu thì tôi giắt một cái cưa và một cái búa ở hai bên hông. Một sợi dây da vòng qua cổ sang phía tay trái, đeo lủng lẳng hai cái túi hình dáng lạ lùng: một túi đựng thuốc súng, một túi đựng đạn ghém. Sau lưng, tôi cőng một cái gùi, vai mang súng và trên đầu là cái dù xoè ra, bao che tất cả thân mình. Mặt tôi rám nắng, đen sạm lại, tuy chưa đến nỗi như cột nhà cháy; râu tuy thỉnh thoảng có cạo, nhưng vẫn đâm ra như chổi xể. Trên mép, theo ý thích riêng, tôi lại để một cặp ria theo kiểu người Thổ-nhĩ-kỳ vừa dài vừa rậm khác thường, tô đậm thêm nét cổ quái vào diện mạo của tôi. Lần đầu tiên thấy tôi trong lệ bộ ấy, con chó có vẻ kinh ngạc và khiếp sợ. Nó nghi nghi hoặc hoặc, chạy nép vào một góc nhà đứng nhìn ra, có ý dò xem cái con vật quái dị kia là bạn hay là thù. Thấy điệu bộ nó như thế, tôi bật cười, lên tiếng gọi. Nhận đúng tiếng chủ, nó chạy ra ngay, ngửi ngửi vào bộ quần áo da dê, sủa lên mấy tiếng rồi mới yên tâm chạy theo sau. Bây giờ nó cũng đã già rồi nên thường cứ lẽo đẽo theo tôi chứ không chạy tung tăng như trước nữa. Nhưng tôi biết chắc rằng nếu có nguy biến, nó cũng vẫn hăng hái liều mình bảo vệ tôi. Mỗi lần đi ra như thế mất chừng năm sáu ngày. Tôi men theo bờ biển, đi thẳng tới chỗ chiếc xuồng. Nhiều lần thấy gió lặng sóng yên, mặt biển im lìm êm ả, những luồng nước đổi hướng chạy ra ngoài xa, tôi đã định đưa chiếc xuồng trở về gần nhà. Nhưng tai nạn khủng khiếp hôm trước lại đến ám ảnh tôi. Cuối cùng tôi chọn một cách khác chắc chắn hơn nhưng đòi hỏi nhiều công sức hơn, đó là đóng thêm một chiếc xuồng nữa và sẽ để nó ở bên này. Thế là tôi có hai chiếc xuồng, mỗi cái ở một phía đảo. Một hôm, không xa chỗ để chiếc xuồng cũ bao nhiêu, đúng lúc thủy triều lên cao nhất, tôi bắt gặp trên bãi cát dấu chân người rất rõ ràng! Chưa bao giờ tôi kinh hoảng đến như thế này: tôi đứng sững lại như bị sét đánh, hoặc thấy ma quỉ hiện hình. Tôi nín thở, im lặng lắng nghe; tôi nhìn quanh nhìn quẩn, nhưng tuyệt nhiên không nghe và thấy gì khác cả! Tôi trèo lên đồi cao để nhìn ra xa hơn. Tôi lại trở xuống rồi đi thẳng ra biển; nhưng tôi vẫn chẳng thấy gì khác hơn. Không có vết tích gì của con người, ngoài những dấu chân lúc nãy tôi đã gặp. Tôi quay lại chỗ cũ, tưởng rằng lúc nãy mình hoa mắt, trông gà hóa cuốc cho nên mới kinh hoàng đến thế. Nhưng tôi vẫn thấy rõ ràng những dấu vết ấy, rành rành dấu vết bàn chân, có đủ ngón, có gót hẳn hoi và tất cả những đặc điểm chứng tỏ đó là bàn chân người.
Suốt đêm tôi không chợp mắt được: càng cố xua đuổi cái hình ảnh đã làm cho tôi kinh hoảng thì sự sợ hãi lại càng tăng lên. Nhiều ý nghĩ ghê rợn ám ảnh và làm cho tôi rối loạn tinh thần. Mặc dầu giờ đây tôi ở rất xa chỗ xảy ra câu chuyện bất ngờ, trí tưởng tượng của tôi vẫn loanh quanh luẩn quẩn ở đó, nặng trĩu những lo và sợ. Người nào đã để lại những dấu vết đó? Còn ai khác hơn là những thổ dân ở đất liền đã bơi xuồng trên biển rồi bị gió ngược hoặc bị những luồng nước chảy xiết đưa tới đảo này. Có lẽ họ cũng chẳng muốn ở lại lâu trên bờ biển vắng tanh này và tất nhiên tôi cũng chẳng mong gì có họ ở đó. Ruột rối bời bời nhưng tôi vẫn lấy làm may mắn vì đã không phải chạm trán với họ và họ lại chưa thấy chiếc xuồng của tôi. Nếu thấy chiếc xuồng, họ sẽ đoán trên đảo có người; nhất định sẽ đi tìm và sẽ kiếm ra tôi. Cũng có lúc tôi tưởng như chiếc xuồng của tôi bị lộ. ý nghĩ đó làm tôi lo lắng khổ sở. Tôi sợ họ sẽ trở lại đây rất đông.
Như vậy cho dầu tôi có trốn thoát được, họ cũng tìm ra chỗ ở của tôi, phá hoại thóc lúa, bắt mất bầy dê và hãm tôi vào chỗ chết đói. Tôi cứ suy đi tính lại, sợ quẩn lo quanh như thế, chẳng biết xoay xở ra sao. Thế rồi một hôm tôi lại tự an ủi và cho rằng mình đã hốt hoảng, hoa mắt trông nhầm cho nên mới sợ hãi đến thế.
Những vết chân ấy chỉ có thể là vết chân của tôi. Chính những dấu vết của tôi đã làm cho tôi kinh khiếp. Rất có thể -tôi tự nhủ -lúc trên xuồng bước xuống bờ biển, mình cũng đi về một phía như lúc trở lại xuồng. Mình đã giống như những người điên cứ bịa ra hết chuyện ma này đến chuyện quỷ khác, cuối cùng lại bị những câu chuyện bịa đó làm cho mất vía hơn là những người nghe mình kể chuyện. Thế là tôi lại bình tĩnh. Hàng ngày tôi lại ra ngoài để đi đây đi đó như trước. Mới ở nhà có ba ngày đêm mà tôi đã bị thiếu thốn rồi: trong nhà chỉ còn có vài cái bánh khô và một ít nước ngọt. Tôi nghĩ ngay đến đàn dê cái, vú đang căng sữa cần phải vắt. Tôi thường say sưa làm công việc ấy vào buổi chiều. Tôi ra thật đúng lúc; những con vật đáng thương ấy đang vật vă vì cương sữa, nhiều con đã phát ốm và một số con đã bị tắc sữa rồi. Càng ngày tôi càng mạnh dạn hơn và tôi càng yên trí rằng mình vừa trải qua một cơn mê hoảng dữ dội. Tuy nhiên tôi cũng chưa thật tin hẳn thế, tôi còn muốn thực sự đến tận nơi đo rő ràng kích thước cái dấu vết đã gây ra cơn mê hoảng. Ra đến nơi, tôi thấy rõ ngay mình không thể nào từ trên xuồng bước xuống được chỗ đó. Hơn nữa, sau khi ướm thử, tôi thấy rő ràng cái vết chân ấy to hơn bàn chân tôi. Thế là tôi lại phấp phỏng lo sợ. Tôi rùng mình như lên cơn sốt rét. Tôi trở về nhà yên trí rằng đã có người đặt chân lên bãi biển, hoặc là hòn đảo có người ở. Đằng nào tôi cũng có thể gặp nguy cơ bị đánh bất thình lình, khó mà đề phòng trước được. Thế là tôi bắt đầu hối tiếc việc đào cái hang xuyên qua núi mở một lối ra vào ở vách đá phía ngoài bức lũy đá. Để cứu văn tình thế đó, tôi quyết định làm thêm một bức lũy đá mới, đúng vào chỗ trước đây mười hai năm tôi đã trồng hai dãy cây. Những dãy cây này vốn trồng dày cho nên bây giờ chỉ cần chôn thêm một ít cọc gỗ chen vào giữa mỗi khoảng cây là hoàn thành một bức lũy đá hết sức chắc chắn. Như vậy là tôi có hai bức lũy đá che chở: bức ngoài bằng những cọc gỗ, những dây tam cố đã cũ và tất cả những gì có thể làm cho nó vững chắc thêm. Tôi lại đổ thêm đất và giẫm đi giẫm lại cho đất nén xuống thật chắc mà vẫn cao đến trên mười bộ. Tôi lại trổ ra năm cái ngách khá rộng có thể thò tay qua. Trong mỗi ngách, tôi đặt súng hỏa mai như kiểu bố trí đại bác ở những ụ súng sao cho nội trong hai phút đồng hồ tôi có thể bắn liên tiếp ở tất cả năm lỗ châu mai đó. Tôi đã phải hao công tốn sức bao nhiêu tháng trời để đắp lũy đá và tôi không dám nghỉ ngơi một phút trước khi công việc hoàn thành. Làm xong bức lũy đá, tôi ương thêm một khoảng đất rộng ở mé ngoài rất nhiều cành cây non, mau bén rễ, lớn nhanh, gỗ thì cứng. Có lẽ trong một năm trời tôi đã cắm xuống đó đến hai vạn cành như thế. Giữa lùm cây và bức lũy đá lại chừa một khoảng trống khá rộng để tôi có thể ra đó xem xét tình hình đối phương đồng thời không phải lo ngại những cạm bẫy bất ngờ của họ.
Hai năm sau, đám cây trở thành một cái lùm dày đặc và sáu năm nữa thì trước chỗ tôi ở đã có một cánh rừng vừa rậm vừa cao không ai vào nổi. Vậy thì còn ai dám nghĩ rằng phía sau rừng lại có nhà cửa và người ở. Mặc dầu dồn hết tâm trí vào công việc đó, tôi vẫn không sao nhãng những việc khác. Tôi chú ý đặc biệt tới đàn dê. Chẳng những chúng đã bắt đầu trở thành một nguồn lương thực quan trọng của tôi mà rồi đây còn giúp tôi tiết kiệm được thuốc đạn và sức khoẻ, đỡ mất công đi bắn dê rừng. Suy nghĩ kỹ càng, so sánh hơn thiệt chán chê, tôi thấy có hai cách có thể bảo vệ được bầy dê. Cách thứ nhất là đào thêm một cái hang dưới đất và cứ tối đến thì dồn chúng vào đó. Cách thứ hai là tìm những chỗ kín đáo hơn hết, làm thêm vài ba cái chuồng nhỏ cách xa nhau, trong mỗi chuồng có thể thả chừng sáu bảy con dê con. Như vậy nếu xảy ra chuyện không may cho bầy dê thì tôi vẫn còn có ít nhiều "vốn liếng" để gây lại một đàn khác trong trời gian ngắn không đến nỗi khó khăn lắm. Mặc dầu mất công và khó nhọc, tôi thấy cách thứ hai thích hợp hơn. Để làm những chuồng dê ấy, tôi đi lùng khắp trên đảo và tìm được một chỗ kín đáo, thật vừa ý. Đó là một khoảng đất trảng nắng và bằng phẳng ở chính giữa những đám rừng rậm mà trước kia tôi xuýt bị lạc trong khi đi từ phía đông hòn đảo về. Nó có đủ điều kiện để trở thành một cái trại chăn nuôi thiên nhiên đã dựng sẵn không đòi hỏi tôi phải lao lực như khi làm những bức lũy đá. Tôi không bỏ lỡ cơ hội và triệt để lợi dụng những thuận lợi thiên nhiên, chưa đầy một tháng trời, bầy dê khá thuần của tôi đã được yên ổn trong trại chăn nuôi mới.
Sau khi đã cất đặt kín đáo một phần nguồn lương thực sống của tôi như thế, tôi lại đi khắp hòn đảo tìm một chỗ khác có thể nuôi giấu thêm một số dê nữa. Một hôm, đi quá ra mỏm đất phía tây hòn đảo, xa hơn tất cả mọi lần trước, tôi đứng trên một chỗ cao nhìn ra biển và thấy hình như có một chiếc xuồng ở ngoài xa. Dạo trước tôi cũng có lấy được trên tàu mấy chiếc kính viễn vọng nhưng không may hôm nay lại không mang theo nên không thể nhận rõ vật ngoài xa là cái gì, mặc dầu tôi đã căng mắt lên mà nhìn đến mỏi. Vì vậy, tôi cứ nửa tin nửa ngờ không biết có phải là một chiếc xuồng hay không. Từ đó tôi rút kinh nghiệm là lúc nào đi ra ngoài cũng phải mang theo kính viễn vọng. Từ trên đồi xuống, tôi đặt chân vào một chốn xa lạ. Đến đây, tôi mới biết trên hòn đảo thật không hiếm dấu vết loài người; sở dĩ tôi còn ù ù cạc cạc chỉ vì tôi đã bị giạt vào phía bờ biển khó ghé. Thực ra thì thường vẫn có những chiếc xuồng ở đất liền tới đảo này tìm chỗ đậu khi bất ngờ đi quá xa ra biển khơi. Hơn nữa, sau mỗi trận giao chiến giữa các bộ lạc thổ dân, những kẻ thắng trận thường dẫn tù binh đến bờ biển này hành hình. Trên bờ phía tây nam hòn đảo, dấu vết một cuộc hành hình vừa qua bên một đống lửa chưa tàn hẳn đã cho tôi biết sự thực đó và làm cho tôi rùng mình sởn gáy. Khi đã đi xa cái pháp trường tạm thời ấy, tôi đứng sững ngay lại như một người bi sét đánh chết đứng, chua xót nghĩ tới số phận mình. Sau khi định thần, tôi mừng thầm đã được sống xa cảnh ấy mấy lâu nay.
Tôi sống ở đây mười tám năm ròng không gặp một con người. Tôi hy vọng có thể sống yên ổn như thế trong một thời gian dài nữa, chỉ có đừng có lộ tông tích, điều này tôi chẳng muốn tí nào, trừ phi gặp những người tốt. Khi đã bình tĩnh nhìn vào hoàn cảnh mình, tôi lại thấy cuộc sống cũng khá dễ chịu, hơn hẳn nhiều kẻ khác. Tôi không còn sợ bóng sợ gió nữa; bây giờ thì ngày đêm chỉ chăm chú nghĩ cách nắm lấy thế chủ động khi phải đối phó với những người thổ dân đó hoặc để tìm cách cứu tù nhân của họ đem về ở với mình. Tôi phải bỏ mất khá nhiều ngày mới tìm được một chỗ tốt mà ẩn nấp. Tôi cũng đã nhiều phen lần mò đến chỗ họ hành hình tù binh cho nên dần dần con mắt cũng quen với cái cảnh rùng rợn ấy. Cuối cùng, tôi tìm được trên sườn núi một chỗ rất thuận tiện để vững dạ đứng chờ và rình khi thuyền của họ đến. Trong khi họ ghé lên bờ thì từ chỗ nấp tôi có thể len lỏi vào trong khoảng rừng rậm rạp nhất. ở đó tôi đã tìm được một cây to và rỗng để chui hẳn vào. Đứng kín trong một hốc cây, tôi có thể theo dõi được tất cả những hành động của họ và tha hồ ngắm đích. Như vậy, ít nhất tôi cũng hạ được ba bốn người một lúc ngay từ phát súng đầu tiên.
Tôi nhất quyết thi hành cho được kế hoạch tác chiến đó. Tôi chuẩn bị sẵn sàng hai khẩu hỏa mai và khẩu súng săn. Súng hỏa mai thì nạp đạn sẵn sắt vụn và đạn súng ngắn, súng săn thì dùng đạn ghém lớn nhất, còn súng ngắn thì nạp đạn chì. Trong chỗ nấp, lại có sẵn thuốc đạn dự trữ cho hai loạt đạn bắn nữa; như vậy tôi có thể sẵn sàng chiến đấu nếu cần. Sáng nào tôi cũng trèo lên đồi, cách "lâu đài" của tôi chừng già một dặm đường. Nhưng ròng rã hai tháng trời canh gác, tôi chẳng thấy gì khác và qua kính viễn vọng cũng không phát hiện ra được một chiếc thuyền nào ở trong bờ, hoặc ngoài khơi. Suốt thời gian ấy, tôi cứ bồn chồn trong dạ. Lúc nào tôi cũng cứ hùng hùng hổ hổ sẵn sàng giáng một đòn thật mạnh vào đầu những người thổ dân ấy, diệt vài ba chục mạng như chơi để trừng phạt họ về những cuộc hành hình tàn nhẫn của họ. Tôi lại cũng bất bình trước những cuộc hành hình tàn nhẫn ấy và lúc nào tôi cũng nơm nớp lo bất ngờ phải chạm trán với họ. Kể ra bất bình như thế chưa hẳn đúng lý, sự thực thì họ làm những việc tàn nhẫn ấy chẳng qua vì tuân theo một phong tục hủ bại đã ăn sâu thành cội rễ trong nếp sống, khiến họ coi việc đó là bình thường. Cuối cùng, chờ mãi không thấy gì, tôi thôi không theo dõi và dần dần tôi đã có được những nhận định đúng đắn về việc làm của tôi: "Tôi có quyền gì? Sao tôi lại có thể tự cho mình là quan tòa để xét xử những con người đã hàng bao nhiêu thế kỷ nay vẫn cứ yên trí là có quyền tiêu diệt và hành hình lẫn nhau? Mặt khác tôi chuốc lấy vạ như thế, liệu một mình có thể đủ mưu trí và sức lực chống lại hàng chục, có khi là hàng trăm đối thủ có khí giới đầy đủ, dù chỉ mới là cung tên và lao nhọn, khi họ nổi xung lên không? Đã bao giờ họ động chạm đến bản thân tôi đâu!
Vậy thì tôi chỉ nên đối phó khi nào thấy cần thiết phải tự vệ chống lại sự tấn công của họ". Những ý nghĩ đó đã làm cho tôi nguôi dần. Tôi cũng không chuẩn bị nữa, nhất quyết chỉ ra tay khi những người thổ dân kia tỏ ra ác ý đối với tôi. Tôi sống như thế suốt một năm trời, cố ý không nghĩ đến việc tiêu diệt những người thổ dân đó. Tôi cũng chẳng cần lên núi dò xét xem họ có chèo xuồng đến ghé lên bờ nữa hay không. Tôi cứ sợ mình không trấn tĩnh nổi và nhân một cơn tức giận bất thần bốc lên, có thể vô ý thức mà tàn sát họ nhân một dịp có nhiều thuận lợi. Tôi lấy chiếc xuồng ra nơi cất giấu, đem đi xa về bờ biển phía đông và lại giấu nó vào một cái hốc đá rất kín đáo dưới núi. Những dòng nước xiết sẽ ngăn không cho thuyền của họ ghé vào đó. Từ đó tôi sống cô quạnh hơn bao giờ hết. Tôi chỉ ra bên ngoài khi bắt buộc phải ra làm những việc cần thiết hàng ngày như vắt sữa dê, chăm sóc đàn gia súc nuôi kín đáo trong rừng sâu. Đàn gia súc này ở hẳn phía bên kia đảo nên hoàn toàn không bị lộ. Xem ra thì những người thổ dân hung bạo đó không hề có ý định bỏ hẳn bờ biển này. Rõ ràng họ đã đến đây nhiều lần, trước những ngày tôi bố trí mọi việc phòng thủ, tự vệ. Mỗi lúc nghĩ đến họ, tôi lại thấy hú vía! Hồi trước, khi mới đặt chân lên đảo, trần như nhộng, tay không có khí giới ngoài một khẩu súng độc nhất với một ít đạn ghém cỡ nhỏ , nếu tôi gặp họ thì biết tính sao? Hồi đó, tôi đi thăm dò khắp nơi trên đảo. Các bạn thử nghĩ xem tôi sẽ kinh khiếp như thế nào nếu, đáng lẽ chỉ gặp một dấu chân, tôi lại đụng đầu với một tốp chừng vài chục người thổ dân? Nhất định họ sẽ đuổi theo và chắc chắn là tóm được tôi ngay. Tôi rùng mình nghĩ rằng gặp trường hợp ấy thì đến phải bó tay chịu chết.
Phần vì lo sợ, phần vì hay nghĩ đến những tai họa có thể xảy ra, suốt một thời gian khá lâu, cuộc sống của tôi có vẻ cô quạnh và tôi thấy mất hẳn cái thú muốn sống cho thoải mái dễ chịu . Tôi chỉ nghĩ đến sống nhiều hơn là" vui sống ". Tôi không còn lo lắng đóng vài cái đinh vào chỗ này, hoặc gõ miếng ván chỗ kia cho nhà cửa thêm chắc chắn, vì tôi sợ có tiếng động bay ra ngoài. Tôi lại càng ít nghĩ đến chuyện bắn một phát súng. Mỗi lúc bất đắc dĩ phải nhóm lửa thì tôi lại phấp phỏng không yên, sợ khói bay lên có thể làm cho người ở rất xa cũng biết nơi đây có người. Chính vì thế, tôi cháển hẳn vào trong rừng tất cả những gì cần phải đun nấu, sau nhiều chuyến đi đi về về, tôi tình cờ gặp được một cái hầm thiên nhiên rất rộng, tôi vui sướng vô kể. Tôi tin chắc rằng không bao giờ một thổ dân nào có thể thấy được cửa ra vào, mà dù có thấy cũng không đủ cam đảm vào trong đó. Như thế chắc hẳn rất ít người dám liều lĩnh, trừ trường hợp như tôi đang rất cần một chỗ ẩn nYu yên ổn. Cửa hang khuất kín sau một tảng đá lớn và cũng là tình cờ mà tôi phát hiện được trong khi chặt một số cành lớn để đốt lấy than. Tôi đương định dùng than nướng bánh và đem nấu thức ăn để khỏi lộ vì khói. Vừa thấy cái cửa hang sau mấy bụi rậm um tùm, tôi tò mò chui vào trong xem sao. Hang cũng đủ cao và rộng nên tôi có thể đứng thẳng lên. Nhưng chưa gì tôi đã đâm nhào chạy trở ra nhanh hơn lúc đi vào, bởi vì khi chăm chú nhìn vào trong hang tối, tôi bỗng thấy hai con mắt sáng như hai ngôi sao, không biết là mắt người hay mắt quỉ. Một lúc sau, trấn tĩnh lại, tôi vớ một thanh củi cháy dở và mạnh dạn trở vào. Nhưng vừa được vài ba bước, tôi lại sợ đến dựng tóc gáy lên. Tôi nghe một tiếng thở dài, tiếp đó là một vài tiếng lắp bắp không rõ, rồi lại một tiếng thở dài khủng khiếp nữa. Mồ hôi toát ra lạnh ngắt khắp người; nếu tôi đội mũ thì tóc có thể dựng đứng lên mà hất mũ rơi xuống đất mất. Tuy nhiên tôi vẫn cố hết sức bình tĩnh và cứ mạnh dạn bước vào. Té ra đó là một con dê cụ rất lớn, đương nằm trên mặt đất chờ chết... Tôi lại gần nó, thử đẩy một tí xem có thể tống cổ nó ra khỏi hang được hay không. Nó cố gắng chuyển mình để đứng lên nhưng không sao dậy nổi. Tôi cũng không bận lòng đến nó nữa. Cứ để nó nằm đó, nó còn sống ngày nào cũng được việc ngày ấy; những ai muốn liều lĩnh chui vào trong hang này sẽ được một mẻ khiếp vía như tôi vừa rồi thôi. Yên bụng, tôi đưa mắt nhìn khắp xung quanh. Hang phía ngoài khá hẹp và không ra hình thù gì; ở đó chưa có bàn tay người đụng chạm đến. Mé trong có một lối nhỏ, tôi phải chui qua mới vào được phía sau và gặp một cái động tốt nhất trần gian, mặc dầu rất tối. Nền đất bằng phẳng và khô ráo, phủ một lớp cát nhỏ mịn; không có một dấu vết độc trùng rắn rết, không có một mùi hôi thối bốc lên, không có một dấu hiệu ẩm ướt. Điều bất tiện độc nhất là lối vào khó khăn nhưng chính vì thế mà cái động càng kín đáo, yên ổn. Tôi rất hài lòng và quyết định chuyển lại đây tất cả những gì cần cất giấu chắc chắn, nhất là thuốc đạn và khí giới dự trữ. Hôm sau, con dê cụ chết ngay lối vào hang. Tôi đào đất chôn nó tại chỗ, đỡ mất công lôi nó ra ngoài. Bấy giờ là tháng chạp, đúng vào mùa gặt; suốt ngày tôi phải ở ngoài đồng lúa để gặt hái. Một buổi sớm, trước khi mặt trời mọc, vừa ra khỏi nhà, tôi ngạc nhiên thấy đằng xa trên bờ biển có ánh lửa, cách xa đến chừng nửa dặm đường. Lần này ánh lửa lại không ở về phía lâu nay những người thổ dân vẫn ghé. Tôi rất lo ngại vì thấy nó lập lòe ở hướng lâu đài của tôi. Sợ bị tấn công bất ngờ, tôi vội vã chạy trở về hang đá. Nhưng ở đó tôi cũng thấy không thể yên ổn được. Nhìn thấy lúa đang gặt dở, những người thổ dân đó biết ngay trên đảo có người, họ sẽ sục sạo khắp nơi để tìm cho được tôi mới thôi. Trong cơn lo sợ, tôi trở về nhà ngay, kéo thang lên và chuẩn bị cuộc chiến đấu tự vệ. Tôi nạp đạn vào tất cả súng ngắn, súng hỏa mai đã để sẵn ở những lỗ châu mai trong chiến lũy đá, cương quyết chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Trong tình trạng báo động đó, tôi đợi kẻ địch luôn trong hai tiếng đồng hồ, rất nóng ruột không hiểu ngoài kia đã xảy ra những chuyện gì. Chẳng có ai giúp cho việc trinh sát nên tôi cứ phải đứng đó, chịu đựng măi một sự chờ đợi thấp thỏm. Bứt rứt quá, không chịu nổi nữa, tôi nối hai cái thang lại, đánh liều trèo lên trên mỏm núi cao đằng sau. Tới nơi, tôi nằm rạp xuống đất, dùng kính viễn vọng xem xét tình hình. Trước hết, tôi nhận rõ chín người thổ dân đương ngồi xúm quanh một đống lửa nhỏ. Họ đi hai chiếc xuồng tới và họ đã kéo xuồng lên bờ. Lúc bấy giờ nước triều đang lên. Có lẽ họ đang chờ nước rút để quay ra biển mà trở về, cho nên tôi cũng yên tâm. Tôi nhận ra rằng họ đều theo thủy triều mà đến đây rồi lại trở về. Như vậy, tôi có thể ung dung qua lại khắp nơi trên đảo trong lúc nước triều xuống, miễn là đừng có lộ mặt ra trên băi biển. Biết được như thế, tôi tiếp tục gặt hái yên tâm hơn.
Sự việc xảy ra đúng như tôi đoán trước. Thủy triều vừa rút xuống ở bãi biển phía tây thì họ đã nhảy cả xuống xuồng, rồi trèo thuyền đi thật nhanh. Họ vừa đi khỏi, tôi khoác luôn hai khẩu súng săn lên vai, giắt hai khẩu súng ngắn vào thắt lưng và đeo thanh mã tấu vào bên sườn rồi tất tả ra khỏi chỗ ẩn. Tôi chạy vội đến ngọn đồi mà lần đầu tiên tôi thấy vết tích những cuộc hành hình của họ. Tới đó, tôi lại thấy về phía ấy cũng có ba chiếc thuyền khác đương chèo nhanh ra biển khơi như mấy chiếc kia để trở về đất liền. Có lẽ những buổi ghé thăm đảo như thế càng ngày càng thưa vì đã ngoài mười lăm tháng trời, tôi mới lại thấy bóng dáng họ. Tuy vậy, suốt thời gian đó, tôi cứ phải sống trong một tình trạng đầy lo lắng, không tìm ra cách gì thoát khỏi. Ban ngày cứ nơm nớp lo sợ bị tấn công bất ngờ; ban đêm thì cứ nằm mê những cảnh kinh hoàng , khắc khoải thâu canh chẳng đêm nào ngủ ngon giấc. Lâu dần rồi tôi cũng khuây khỏa và trở lại nếp sống bình thường. Cuộc sống đã được yên tĩnh hơn nhưng tôi vẫn không quên đề phòng cẩn mật. Tôi ít đi ra ngoài hơn trước và chỉ đi về phía không có vết tích những người thổ dân để đỡ phải mang theo nhiều khí giới phòng thân. Tôi lại sống hai năm liền cũng tạm gọi là thoải mái mặc dầu tâm trí vẫn loay hoay với muôn vàn ước mơ tìm cách thoát ra khỏi đảo. Nếu có được chiếc thuyền dạo trước đã dùng để trốn thoát tên cướp bể ở hải cảng Xa-lê thì tôi quyết đánh liều vượt biển một phen.
Những ý nghĩ đó càng ngày càng ám ảnh và làm cho tôi mất ăn mất ngủ suốt cả một thời gian. Tôi không còn đủ sức để kiềm chế lòng mong ước một cuộc hành trình như thế nữa. oeớc muốn đó ngày càng mãnh liệt làm cho tôi đành chịu bó tay không thể nghĩ sang chuyện khác được nữa. Nhiều đêm, suốt hai ba tiếng đồng hồ, ước mong đó đã chiếm lấy tâm trí tôi, lôi cuốn tôi một cách dữ dội, làm cho tôi cháy ruột cháy gan như khi lên cơn sốt. Nhưng thường sau khi tinh thần căng thẳng tột độ như thế, tôi thấy mệt mỏi nên lại nằm xuống ngủ thiếp đi. Muốn thực hiện ước muốn đó, tốt nhất là phải tóm cho được một vài thổ dân; nếu được một tù binh biết trả ơn cứu sống thì rất tốt. Nhưng tôi thấy ngay cái khó khăn ghê gớm là muốn thế thì chưa biết chừng tôi sẽ phải bắt buộc tiêu diệt cả một đoàn người. Quả là một hành động phiêu lưu có thể thất bại dễ dàng. Tuy nhiên, nhất định tôi phải tìm cách tự giải thoát dù phải làm đổ nhiều máu. Tôi đã nhiều lần suy đi tính lại, ruột rối bời bời. Tôi đã cân nhắc kỹ lưỡng "nên" và "không nên", giữa "ước mong" và "lòng nhân đạo" không biết bao nhiêu lần mà kể. Cuối cùng, tôi quyết định dùng hết cách để bắt sống cho được một người thổ dân mặc dầu phải trả giá rất đắt. Một buổi sáng, tôi thấy trên bãi biển có tới sáu chiếc xuồng. Những người thổ dân đã lên bờ và đi quá tầm mắt tôi nhìn. Tôi đã biết rõ thường thường cứ mỗi xuồng chở năm hay sáu người, như thế thì lần này số người bên đó đã đảo lộn mọi sự sắp đặt của tôi. Một mình tôi đơn thương độc mă, đối chọi thế nào với hàng ba bốn chục người! Tuy vậy, sau một phút ngần ngừ, tôi vẫn chuẩn bị tất cả cho cuộc chiến đấu. Tôi lắng nghe động tĩnh rồi đặt hai khẩu súng trường dưới chân thang, trèo lên đứng trên cao, đầu không nhô ra khỏi mỏm đất. Qua kính viễn vọng tôi nhìn thấy có đến ba chục người là ít. Họ đã nhóm lửa lên để chuẩn bị hành hình tù binh. Họ đương nhảy múa chung quanh đống lửa với nhiều động tác và nhiều điệu bộ lạ lùng, theo như phong tục của họ. Tôi soát lại một lần nữa kế hoạch chiến đấu của mình, trong lòng phân vân chưa dám tin chắc ở kết quả. Một lát sau, tôi thấy ba người trong bọn họ lại gần một chiếc xuồng kéo ra hai người tù binh để chuẩn bị hành hình. Người tù binh thứ nhất đã ra khỏi xuồng, nhưng người thứ hai hình như còn dùng dằng chưa chịu ra. Tức thì anh ta bị một đòn rất mạnh giáng vào đầu, ngã nhào xuống. Ba tên đao phủ nhảy xổ lại đè cứng lấy người khốn nạn đó, giết tươi ngay trước mắt người tù binh kia đương chờ đến lượt mình! Người tù binh thứ nhất thấy mình đã được thả lỏng một chút; bản năng gợi cho anh một tia há vọng có thể trốn thoát. Anh ta chạy nhanh vùn vụt, hướng thẳng về phía tôi đứng, men theo phía bờ biển dẫn đến nhà tôi ở. Trên bờ biển, giữa người tù sổng và "lâu đài" của tôi có một cái vịnh nhỏ ăn sâu vào đất liền. Tới đó, nhất định anh ta sẽ dừng lại nếu không đánh liều bơi vượt qua.
Nhưng tới đó, anh ta không hề tỏ vẻ bối rối, cứ nhảy ào xuống nước và chỉ bơi ba chục sải là sang bờ bên này, rồi lại chạy vùn vụt như trước. Khi ba người kia đuổi theo đến đó thì chỉ có hai người nhảy xuống bơi theo, còn gã thứ ba dừng lại một chút trên bờ rồi quay trở lại. Thật là một điều may mắn không nhỏ cho người tù sổng. Tôi lại để ý thấy hai người kia bơi cũng kém và phải mất gấp đôi thì giờ người chạy trước mới tới được bờ bên này. Tôi nhận thấy ngay rằng đây là dịp may hiếm có đem lại cho tôi một người bạn đồng thời một kẻ giúp việc. Tôi thấy phấn chấn tinh thần hẳn lên và tin chắc vào thắng lợi của mình. Không bỏ lỡ dịp tốt, tôi lao ngay xuống chân núi để lấy mấy khẩu súng rồi vụt trèo trở lên núi cũng hăng hái không kém. Tôi tiến thẳng ra bờ biển và chỉ một lát sau đã nhảy xổ ra chặn đường, cắt ngang giữa người tù sổng và những người đuổi bắt anh ta, đồng thời cũng tìm cách làm cho anh ta nghe tiếng tôi mà dừng lại. Tôi lại giơ tay vẫy vẫy để ra hiệu cho anh ta. Nhưng hình như mới đầu anh ta cũng sợ tôi không kém gì sợ những người đang đuổi theo sau. Lúc đó tôi thong thả bước về phía những người này rồi bất thần nhảy tới gần người chạy trước, giáng cho một báng súng thật mạnh vào đầu. Tôi không muốn bắn vì sợ tiếng súng vang đi xa, những người ở đằng kia có thể nghe thấy. Thực ra xa như thế thì cũng khó mà nghe rõ được. Vả lại những người thổ dân đó có nghe thấy tiếng súng thì họ cũng chẳng hiểu được cái tiếng lạ lùng ấy là cái gì.
Tuy nhiên, cẩn thận một chút vẫn yên lòng hơn. Trông thấy bạn mình ngã xuống, người chạy sau có vẻ sợ hãi và đứng dừng ngay lại. Tôi tiếp tục đi thẳng về phía hắn ta. Nhưng khi lại gần, tôi thấy hắn giương cung lên và sửa soạn mắc tên vào. Thấy thế tôi phải đề phòng và bắn cho hắn một phát chết ngay tại chỗ. Thấy lửa phụt ra và nghe tiếng súng nổ, người tù sổng đứng sững vì quá kinh khiếp. Nhìn vẻ mặt khiếp sợ của anh, tôi nhận thấy anh lại có ý muốn chạy trốn thật nhanh hơn nữa chứ không muốn đến gần tôi, mặc dầu thấy rő ràng cả hai kẻ thù của mình đã ngã. Tôi lại vẫy anh, tỏ ý bảo anh lại gần. Anh ta bước vài bước rồi đứng dừng lại và cứ làm đi làm lại cái đó mãi một lúc lâu. Có lẽ anh ta ngỡ rằng mình lại bị cầm tù một lần nữa và cũng sẽ bị giết như hai kẻ thù kia. Tôi lại vẫy một lần thứ ba với tất cả thái độ thân mật để làm cho anh yên lòng. Anh ta cố gắng bước tới và cứ mươi mười hai bước thì lại quì xuống như để tỏ lòng cảm ơn tôi. Trong lúc đó, tôi cố gắng mỉm cười với anh ta một cách hết sức trìu mến. Cuối cùng, khi đã đến gần sát tôi, anh ta đứng dừng lại, quì xuống hôn đất rồi nắm lấy bàn chân tôi, có lẽ để tỏ ý hết sức cảm ơn tôi đã cứu anh ta thoát chết và hứa một lòng trung thành với tôi, xin theo hầu hạ tôi suốt đời. Tôi dịu dàng nắm lấy tay anh, đỡ anh đứng dậy, vuốt ve âu yếm, làm cho anh vững lòng lên hơn. Vẻ cảm động, anh bỗng thốt lên mấy tiếng tỏ ý vui mừng hết sức. Vừa được nghe mấy tiếng nói của anh, mặc dầu chẳng hiểu được anh nói gì, tôi sung sướng và cảm động quá, run người lên. Đó là tiếng nói đầu tiên của loài người mà sau hai mươi lăm năm trời lưu lạc tôi mới lại được nghe. Sao mà nó êm đềm, ấm cúng và chứa chan tình cảm đến thế! Tôi lại được nghe một con người nói và sẽ được nói chuyện với một con người!
Hạnh phúc đến với tôi đột ngột thế ư? Mỗi tiếng nói ấy, tuy chưa rő nghĩa, đều là tự đáy lòng của một con người thốt ra, một con người thật sự như tôi, một đồng loại của tôi, khác hẳn những tiếng nói như cái máy của con vẹt hàng ngày vẫn gọi rõ tên tôi, đã hai mươi lăm năm nay chỉ biết lắp đi lắp lại có một vài câu không thay đổi! Tôi mừng rỡ quá, ôm lấy anh bạn mới và nói luôn một thôi một hồi, mặc dầu anh không hiểu được tôi nói gì, cũng như tôi không hiểu lời anh. Nhưng anh cũng nhìn tôi bằng một cặp mắt trìu mến, có vẻ thông cảm với nỗi vui mừng của tôi; anh lại nói tiếp mấy tiếng, líu lo như tiếng chim, ngọt ngào và êm ấm quá chừng! Nhưng bây giờ chưa phải là lúc tha hồ tận hưởng niềm vui sướng tuyệt vời ấy. Nguy hiểm đương quanh quẩn bên chúng tôi. Sự việc chưa phải đã kết thúc. Người thổ dân bị tôi đánh một báng súng vào đầu chỉ mới ngất đi chứ chưa chết. Hắn đương cố gắng vùng đứng hẳn dậy. Nhìn thấy thế, người bạn mới của tôi im lặng, trên nét mặt lộ vẻ kinh sợ. Thấy tôi ra bộ nhắm bắn tên kia, anh ta ra hiệu ngăn lại và muốn mượn thanh mã tấu. Tôi rút ra đưa ngay cho anh. Vừa cầm thanh mã tấu trong tay, anh nhảy xổ ngay lại vung lên chém chết kẻ thù. Sau thắng lợi đó, anh trở lại chỗ tôi, vừa đi vừa nhảy vừa cười rất lớn tiếng như để mừng chiến công của mình. Tới nơi, anh đưa ngay thanh mă tấu trả lại cho tôi sau khi đã chùi sạch máu. Anh ta ra hiệu cho tôi biết cần phải chôn hai cái xác chết, sợ rằng những người thổ dân khác bắt gặp thì sẽ kiếm cách tìm ra chúng tôi.
Tôi đồng ý và chỉ trong nháy mắt, anh đã đào hố trong bãi cát và chôn xong mấy cái xác ấy. Xong xuôi, tôi dẫn anh ta đi, không phải cùng về "lâu đài" của tôi mà về cái hang mới, ở sâu vào phía trong đảo.
Anh chàng là một thanh niên cao lớn, chững chạc, khoảng hai mươi lăm tuổi, người rắn rỏi, chân tay béo lẳn, nhanh nhẹn và có sức lực. Dáng điệu hùng dũng không có vẻ nanh ác; nhất là khi anh cười, ta có thể thấy ở anh những nét dịu hiền và sắc sảo riêng. Tóc anh không xoắn, đen và dài, trán to và cao vượt lên, đôi mắt sáng đầy nhiệt tình. Nước da bánh mật chứ không đen, không giống cái màu rám nắng của những người ở Bra-din và ở Viếc-gi-ni. Mặt thì tròn với một cái mũi rất đẹp, miệng khá xinh, đôi môi mỏng, hai hàm răng đều và trắng như ngà. Chợp mắt được chừng nửa giờ đồng hồ, anh ta tỉnh dậy và ra khỏi động đá để đi tìm tôi, bởi vì trong lúc anh ngủ thì tôi đi vắt sữa dê ở trại chăn nuôi gần đó. Anh ta chạy lại gần tôi, làm đủ thứ cử chỉ và dấu hiệu để tỏ lòng biết ơn rất chân thành và để nguyện suốt đời sẽ trung thành với tôi. Tôi cố gắng hiểu được một số dấu hiệu đó và tôi cũng tìm hết cách làm cho anh hiểu rằng tôi rất vui mừng được gặp anh. Một lát sau, chúng tôi thử nói chuyện với nhau. Trước hết tôi bảo anh lấy tên là "Thứ sáu" để ghi nhớ ngày gặp gỡ. Tôi lại bày cho anh biết gọi tôi là "ông chủ", biết trả lời "có" và "không" cho đúng lúc. Sau đó, tôi đưa cho anh một bình sữa. Tôi uống sữa trước và nhúng bánh vào sữa mà ăn; anh ta bắt chước tôi và ra hiệu tỏ ý là ăn như thế cũng ngon. Tôi lại dẫn anh trèo lên núi để xem kẻ thù của anh đã rút chưa. Qua kính viễn vọng chúng tôi không thấy một bóng người hoặc xuồng nào nữa. Quả là họ đã lên xuồng trở về cả rồi. Chưa thật thỏa mãn, và nhất là bây giờ, tôi đã mạnh dạn hơn nên cũng muốn biết rõ hơn, tôi cùng Thứ sáu đi tới chốn pháp trường đó. Thứ sáu cầm thanh mă tấu, vai đeo cung tên. Tôi đưa thêm cho anh một khẩu súng hỏa mai, còn tôi mang hai khẩu; cứ thế chúng tôi lên đường. Tới nơi, tôi lại được chứng kiến những dấu vết của một cuộc hành hình tàn bạo làm cho tôi rùng mình sởn gáy.
Nhưng Thứ sáu thì hình như vẫn có vẻ dửng dưng. Anh ta dùng dấu hiệu để nói cho tôi biết rằng kẻ thù của anh đem đến đây bốn tù binh để tế những người chết trận; họ đã giết chết ba người, và đến anh là người thứ tư. Vừa mới có một trận đánh nhau dữ dội giữa họ và bộ lạc của anh. Hai bên đều bắt được rất nhiều quân lính của nhau và bên nào cũng có một số tù binh phải chịu số phận không may như thế. Chôn cất xong những xác chết, chúng tôi trở về "lâu đài", tôi lo việc sắm quần áo mới cho Thứ sáu. Trước hết tôi đưa cho anh một cái quần đùi bằng vải to sợi, tìm thấy trong một cái hòm của thủy thủ mới giạt vào, chữa lại một tí thì cũng vừa khéo với anh. Tôi lại nhường cho anh một cái áo cánh bằng da dê đã may sẵn cũng tươm. Tôi lại trổ tài may cắt nửa mùa ra mà khâu thêm cho anh một cái mũ bằng da thỏ rừng, trông cũng tàm tạm được. Thứ sáu tỏ vẻ vui thích thấy mình cũng oai vệ gần bằng ông chủ, mặc dầu mới đầu cũng hơi có vẻ lúng túng trong bộ quần áo chưa mặc quen. Cái quần đùi hơi chật làm anh vướng víu, hai ống tay áo da đã làm xây xát cả vai và bên dưới nách anh. Thế là phải nới rộng ra để anh mặc áo quần mới cho dễ chịu hơn và quen dần.
Ngày hôm sau, tôi ngồi suy tính xem nên để cho người giúp việc mới này ở vào nơi nào, vừa tiện cho anh mà tôi cũng đỡ phải lo ngại nếu muôn một anh còn có chút ác ý nào đối với tôi. Tôi thấy tốt nhất là dựng cho anh ta một cái lều vào quãng giữa hai chỗ ở của tôi. Cẩn thận hơn, tôi còn tìm cách ngăn không để cho anh tự tiện lại chỗ lâu đài của tôi và tối nào tôi cũng đem cất hết khí giới vào trong nhà. May mắn sao tất cả những điều lo lắng đó đều thừa! Chưa bao giờ tôi có được một người giúp việc thật thà và giàu tình cảm như Thứ sáu! Anh ta cứ quấn quít lấy tôi, trìu mến như con với cha. Anh không lố lăng, không bướng bỉnh, không hề nóng giận và luôn luôn tỏ ra rằng bất cứ trường hợp nào, anh cũng có thể há sinh tính mạng để cứu tôi khỏi cơn nguy biến. Chỉ một thời gian ngắn mà anh đã nhiều lần tỏ cho tôi biết rõ như thế cho nên tôi không còn lòng dạ nào nghi ngờ lòng tốt của anh được. Những mánh khóe giữ miếng của tôi đối với anh ta quả là vô ích. Tôi tự đặt cho mình một nhiệm vụ quan trọng là dạy cho anh hiểu và biết nói tiếng Anh. Thứ sáu quả là người học trò tốt nhất thế giới. Anh tỏ vẻ vô cùng vui sướng khi nghe hiểu tiếng tôi nói hoặc đã tìm được cách làm cho tôi nghe hiểu anh. Anh cũng đã truyền cảm sang tôi tất cả nỗi vui sướng ấy, thành ra mỗi lúc nói chuyện với nhau, hai chúng tôi thật là êm đẹp và tôi tưởng có thể sống như thế suốt đời ở đây miễn là những người thổ dân hung bạo kia đừng có đến quấy nhiễu tôi nữa. Tôi hỏi Thứ sáu rất nhiều về địa phương, dân cư, biển, bờ biển ở đó và xung quanh. Anh trả lời cho tôi rất rõ ràng tất cả những điều anh biết mà anh có thể nói lên được. Nhưng tôi hỏi đi hỏi lại nhiều lần về những thổ dân ở quanh đó mà anh ta vẫn không trả lời được cho tôi ngoài vẻn vẹn hai tiếng "Ca-ríp" mà tôi đoán là những người ở đảo Ca-ra-íp. Theo bản đồ thì những hòn đảo này ở về bờ biển châu Mỹ, chạy dài từ cửa sông s-rê-nốc-cơ cho tới xứ Guy-an và Thánh Mác-tơ.
Anh còn cho biết thêm rằng ở rất xa, xa lắm, về phía sau mặt trăng (ý nói phía mặt trăng lặn, như thế là phía tây xứ anh ở) cũng có những người da trắng và rậm râu như tôi, và những người ấy đã giết "đông nhiều người" (đó là cách nói riêng của anh). ý chừng anh muốn nói tới những thực dân người Tây-ban-nha khét tiếng hung ác đã gây ra một mối thâm thù truyền kiếp trong nhân dân vùng đó đối với người da trắng. Tôi lại hỏi ý kiến anh xem có thể làm thế nào đến được chỗ những người da trắng đó bằng hai chiếc xuồng. Sau đó, tôi mới vỡ lẽ ra rằng anh muốn nói là một chiếc xuồng to gấp đôi chiếc xuồng thường của những người thổ dân. Buổi nói chuyện này làm cho tôi phấn khởi biết bao! Nó tăng thêm cho tôi há vọng một ngày không xa sẽ có thể ra khỏi hòn đảo. Trong việc này, tôi rất có thể trông mong nhiều ở sự giúp đỡ của người giúp việc mới rất trung thành này. Tâm hồn tôi khoan khoái lạ lùng; từ ngày gặp Thứ sáu, tôi đã sống một cuộc đời chứa chan hạnh phúc luôn ba năm trời trên đảo. Từ khi hai chúng tôi có thể nói chuyện với nhau được, tôi kể cho anh nghe cuộc đời chìm nổi của tôi. Tôi giảng cho anh hiểu cái "phép lạ" của súng đạn, và bày cho anh cách bắn. Tôi đưa cho anh dùng một con dao mà anh hằng ao ước. Tôi lại làm cho anh một cái thắt lưng có cái bao dao đeo lủng lẳng.
Nhưng Thứ sáu lại dùng để đeo một cái búa, vì trên thực tế búa có nhiều công dụng hơn. Thỉnh thoảng, tôi vẽ bản đồ và nói cho anh hiểu về thế giới, về châu âu và nhất là về nước Anh, tổ quốc của tôi. Tôi cũng không quên chỉ trên bản đồ vị trí hòn đảo này và xứ anh ở. Anh tỏ vẻ ngạc nhiên sao tôi chưa đi đến đó bao giờ mà lại vẽ được như thế. Tôi còn dẫn anh đi xem chiếc xuồng đã trôi giạt lên đây sau khi tôi thoát khỏi cơn bão. Bây giờ nó chỉ còn là một cái xác trơ trọi mục nát nằm trên cát. Vừa nhìn thấy chiếc xuồng, anh có vẻ suy nghĩ, nét mặt ngạc nhiên, không hé môi nói một tiếng. Tôi hỏi anh vì sao lại có vẻ trầm ngâm như thế thì anh trả lời: "Tôi đã thấy chiếc xuồng như thế này ở quê hương tôi". Anh lại làm một số cử chỉ khác để giải thích cho rõ thêm. Tôi phải suy nghĩ một lúc lâu mới hiểu được anh định nói gì. Nhận xét kỹ hơn nữa, tôi mới đoán ra rằng anh muốn nói cho tôi biết có một chiếc xuồng giống như thế bị băo đánh trôi giạt lên bờ biển ở quê hương anh. Tôi kết luận có lẽ có một chiếc tàu nào đó của người âu đã bị bão đắm ở phía bờ biển ấy và gió đã giật tung chiếc xuồng rồi thổi giạt vào bãi cát. Tôi bèn bảo anh tả lại chiếc xuồng. Anh tả lại cũng khá đúng và nói tiếp: "Chúng tôi đã cứu những người da trắng khỏi chết đuối". Tôi hỏi lại anh xem có còn người da trắng nào trong xuồng không? Anh trả lời: "Có, xuồng đầy những người da trắng". Vừa đếm trên đầu ngón tay, anh nói cho tôi biết có đến mười bảy người trên xuồng; hiện nay họ đều ở lại quê hương anh.
Câu chuyện trên đây của anh đã khiến tôi suy nghĩ nhiều. Sau một thời gian khá lâu, một hôm chúng tôi trèo lên trên đỉnh ngọn đồi ở phía đông. Đứng ở đó, như tôi đã có dịp nói đến, nếu trời trong sáng thì có thể thấy bờ đất liền bên kia. Nhìn kỹ về phía ấy. Thứ sáu có vẻ hí hửng lắm, reo lên và nhảy nhót tung tăng. Tôi ngạc nhiên hỏi anh duyên cớ. Anh gào thật to lên:
-Sung sướng quá! Vui thích quá! Kia kìa, quê hương tôi! Đó là đồng bào tôi. Niềm vui sướng hiện lên rõ rệt trên vẻ mặt anh ta. Trong đôi mắt sáng ngời của anh như bừng lên một ước muốn rất mãnh liệt là sẽ được trở về quê hương với đồng bào. Vừa thoáng thấy vẻ mặt của anh, tôi lại có chút không an tâm. Tôi tin chắc rằng nếu có dịp tốt thể nào anh cũng quên hết những điều đã học được ở đây, quên cả trách nhiệm của anh đối với tôi mà bỏ tôi để sang bờ biển phía bên kia, nơi chôn rau cắt rốn. Kể ra thì cũng rất chính đáng: vào địa vị anh thì tôi cũng không ngại gì mà không bỏ đi. Nhưng tôi chỉ sợ khi gặp bà con họ hàng, vui câu chuyện, anh sẽ kể lại cho họ nghe hết mọi điều về tôi, về cảnh sống đơn độc, về "phép lạ" của súng đạn mà bây giờ không còn lạ đối với anh nữa. Đến nước ấy thì liệu tôi có còn được yên thân nữa không? Nhưng quả tôi đã ngờ oan cho con người trung thực ấy. Về sau tôi lấy làm ân hận và hổ thẹn với lương tâm vô cùng. Tuy nhiên, trong suốt mấy tuần lễ phấp phỏng như thế, tôi có vẻ giữ gìn và ít tỏ thái độ âu yếm đối với anh. ấy thế nhưng chính hồi đó, anh chàng thổ dân trung thành ấy lại tỏ ra đã có một tâm hồn rất cao thượng.
Một hôm khác, tôi lại cùng anh đi chơi trên ngọn đồi nhìn ra ngoài khơi. Hôm đó trời âm u nên không thể trông thấy dải đất liền ở phương xa. Tôi hỏi anh có muốn trở về quê hương, sống với đồng bào của anh không? Anh trả lời:
-Có chứ! Tôi rất sung sướng được gặp đồng bào tôi. Tôi hỏi thêm:
-Này! Về thì anh sẽ làm gì? Anh lại đánh nhau, giết nhau như trước phải không? Nghe câu hỏi đó, anh có vẻ buồn và lắc đầu trả lời:
-Không đâu! Không đâu! Thứ sáu sẽ nói với họ ăn ở với nhau cho tốt, ăn bánh bột mì và thịt thú vật nấu chín, uống sữa dê, sữa bò, không chém giết nhau nữa. Tôi hỏi lại:
-Nhưng nếu họ không nghe mà giết anh đi thì sao! Anh trả lời rất tin tưởng:
-Không đâu! Họ không giết tôi đâu! Đồng bào tôi cũng rất thích biết nghe những điều đó.
Từ đó, tôi không còn e ngại gì nữa, quyết liều vượt biển một phen, tìm cách gặp những người da trắng kia. Theo tôi đoán thì họ có thể là người Tây-ban-nha hoặc Bồ-đào-nha. Có được một số đông bạn đường như thế, chắc chắn thể nào tôi cũng trở về được quê hương. Dĩ nhiên tôi không thể há vọng gặp được sự may mắn như thế trên hòn đảo trơ trọi này cách xa đất liền đến ngoài bốn chục dặm đường. Còn trông chờ ở sự giúp đỡ của những bộ lạc thổ dân thì cũng chẳng có há vọng gì! Thứ sáu chả đã nói với tôi là họ đối xử rất tốt với những người da trắng kia đó ư? Nhưng họ có giúp được những người đó trở về quê hương đâu! Quyết chí như vậy, tôi chuẩn bị kế hoạch vượt biển và giao việc cho Thứ sáu. Tôi dẫn anh sang phía bên kia hòn đảo và chỉ cho anh xem cái xuồng của tôi. Chúng tôi chèo xuồng xuống nước, đẩy nó ra biển rồi cùng trèo lên. Thứ sáu điều khiển xuồng rất nhanh nhẹn và khoẻ khoắn; xuồng đi vùn vụt, có thể nhanh gấp đôi khi tôi điều khiển. Tôi bảo anh:
-Này Thứ sáu! Bây giờ chúng ta có thể đi về quê hương anh được không? Anh ta tỏ vẻ lo ngại vì xuồng nhỏ quá không thể vượt biển được.
Tôi bèn giới thiệu cho anh chiếc xuồng lớn làm dạo trước, phơi nắng gió trong hai mươi ba năm trường, bây giờ đã nứt ngang nẻ dọc, gỗ mục gần hết. Theo ý anh thì cái xuồng này đủ sức lớn để vượt biển với tất cả lương thực cần phải đem theo. Tôi bèn bảo anh là bây giờ cũng phải cố công làm cho được một cái xuồng lớn như thế để giúp cho anh trở về quê hương. Nghe tôi nói, anh cúi đầu có vẻ vô cùng buồn bã, không trả lời một tiếng. Tôi ngạc nhiên hỏi anh vì sao lại nín thinh như vậy, anh buồn rầu trả lời:
-Tại sao ông chủ lại giận Thứ sáu? Tôi đã làm gì để mất lòng ông chủ? Tôi trả lời cho anh hiểu rằng anh đã nhầm chứ tôi có giận anh tí nào đâu?
-Không giận!
-anh trả lời ngay và nhắc đi nhắc lại hai tiếng đó.
-Không giận! Thế thì sao ông chủ lại bảo Thứ sáu trở về quê hương?
-Sao?
-tôi hỏi lại
-Thế không phải là anh đã nói với tôi rằng anh ước mong được trở về quê hương hay sao?
-Đúng thế!
-anh đáp lại
-Nhưng mà tôi muốn cả hai chúng ta cùng đi cơ mà! Thứ sáu không muốn chỉ một mình Thứ sáu trở về mà không có ông chủ cùng đến. Tôi mới vỡ lẽ ra và thấy rõ ràng là Thứ sáu không hề nghĩ đến vượt biển trở về quê hương một mình nếu không có tôi cùng đi. Tôi bèn hỏi anh xem cùng đi như thế thì có lợi gì? Anh hăng hái đáp lại ngay, rất chân thực:
-ông chủ tốt lắm. Đến quê hương tôi, ông chủ sẽ làm được nhiều điều tốt cho đồng bào tôi. ông chủ sẽ bày cho đồng bào tôi biết thương yêu nhau.
-Than ôi! Thứ sáu ơi!
-tôi buồn rầu trả lời anh
-Anh chẳng hiểu gì về lời anh nói cả! Tôi chỉ là một người dốt nát không hơn không kém!
-Không đâu! Không đâu!
-anh vội vã đáp lại.
-ông chủ tốt lắm, giỏi lắm. ông chủ đã bày bảo cho tôi biết nhiều điều tốt. ông chủ cũng sẽ bày bảo cho đồng bào tôi như thế. Cũng là anh em cả đấy mà! Tin chắc ở lòng chân thành của anh, tôi càng làm ra vẻ cương quyết để cho anh một mình trở về quê hương và quả nhiên như thế lại càng làm cho anh buồn bực vô chừng. Anh cầm ngay cái búa thường ngày vẫn mang theo bên mình mà đưa cho tôi:
-Đây, búa đây! ông chủ giết Thứ sáu đi chứ đừng bắt Thứ sáu về quê hương một mình như thế.
Mắt anh đẫm nước mắt, vẻ mặt anh xem ra rất xúc động. Tôi lại càng thấm thía và tin tưởng vào tình cảm keo sơn của anh đối với tôi. Tôi vội an ủi anh và hứa ngay với anh rằng sẽ không bao giờ bảo anh về quê hương một mình nếu tự anh chưa muốn về. Tôi nhận thấy sở dĩ anh bạn tôi nhất thiết muốn tôi cùng về quê hương là vì anh có một mối tình nồng thắm với đồng bào. Anh tin rằng nếu được tôi hướng dẫn bày bảo, đồng bào anh sẽ được sống một cuộc đời sung sướng. Còn tôi, tôi lại nghiêng về một khía khác. Lúc này, tôi chỉ muốn tìm gặp những người da trắng bị phiêu giạt lên đó để cùng nhau mưu tính đường về quê hương là chính. Không cân nhắc suy nghĩ gì nhiều nữa, tôi lo tìm ngay một thân cây khá lớn để đục một chiếc xuồng thích hợp với cuộc vượt biển mà chúng tôi hằng mơ ước.
Trong đảo không hiếm cây to, nhưng tôi muốn tìm được một cây ở gần bờ biển hơn hết để sau khi làm xong, có thể đưa xuồng xuống nước không đến nỗi chật vật quá. Thứ sáu tìm ngay được một cây to, không rő là thứ gỗ gì nhưng theo anh thì dùng làm xuồng rất tốt. Anh định đốt lửa để khoét bên trong, nhưng tôi bày cho anh cách dùng con nêm bằng sắt mà đục cho nhanh và anh đã tỏ ra rất khéo tay đục đẽo. Sau một tháng trời làm việc không kể ngày đêm, anh đã rất thông thạo "nghề" và chúng tôi đã làm xong cốt xuồng. Chiếc xuồng có vẻ đẹp và rất tốt, nhất là sau khi chúng tôi dùng búa đẽo bên ngoài vỏ cho ra dáng một chiếc tàu nhỏ. Nhưng nào đã xong được đâu! Chúng tôi còn phải bỏ ra nửa tháng trời nữa để đưa nó xuống nước bằng cách lót mấy khúc gỗ tròn bên dưới mà đẩy dần cho nó tuột đi từng tí một. Tôi rất đỗi ngạc nhiên thấy Thứ sáu điều khiển chiếc xuồng, lái đi, quay lại rất lành nghề, mặc dù xuồng rất lớn. Trong khi anh sửa nốt chiếc xuồng và tập dượt điều khiển thì tôi nhận trách nhiệm làm một cánh buồm. Tôi nhớ còn có khá nhiều những miếng vải cũ, nhưng bỏ lăn bỏ lóc trong suốt hai mươi sáu năm trời có lẽ cũng đã mục nát cả rồi. May sao tôi vẫn chọn được hai miếng còn khá bền. Sau bao phen tê tay mỏi mắt vì phải may vá nhiều mà lại không có kim, tôi cũng khâu xong một lá buồm tam giác tạm coi được. Đó là loại buồm tôi quen điều khiển hơn hết. Tôi lại mất luôn hai tháng trời nữa mới dựng xong cột buồm và treo buồm lên, đồng thời cũng xem xét, sửa chữa và làm nốt những thứ vặt vãnh khác trên xuồng. Tôi thêm vào cho cánh buồm lớn một lưới dây nhỏ và một lá buồm phụ phía trước để giữ cho xuồng đi vững, phòng khi bị nước triều cuốn đi mạnh quá. Cuối cùng, tôi lắp một bánh lái vào sau xuồng. Tôi vẫn chỉ là một anh thợ mộc khá tồi, nhưng vì được biết quá rõ ích lợi và sự cần thiết của bánh lái cho nên tôi hết sức để tâm vào việc đó và cuối cùng đã hoàn thành. Chỉ riêng cái bánh lái này cũng bắt tôi hao công tốn sức bằng làm tất cả chiếc xuồng và mọi thứ phụ tùng khác. Thế là tôi bắt đầu bước vào năm thứ hai mươi bảy của cuộc đời đày ải trên hòn đảo hoang vu này, mặc dầu đúng ra thì không thể gọi ba năm gần đây là đày ải được. Suốt ba năm ấy, tôi rất vui sướng vì có người giúp việc trung thành bên cạnh. Hàng năm tôi vẫn kỷ niệm ngày tôi đặt chân lên đảo với tất cả những nghi thức như trước kia đã kể lại với các bạn đọc. Năm nay lại còn quan trọng hơn những năm trước vì nó đem lại cho tôi thêm niềm há vọng mới là sẽ thoát khỏi hòn đảo này. Tôi tin chắc rằng chỉ nội trong năm nay há vọng ấy sẽ trở thành sự thật. Tuy nhiên tôi vẫn không một phút sao lãng công việc thường ngày. Tôi vẫn cày đất như mọi năm, trồng trọt, phơi nho, làm thêm hàng rào. Nói tóm lại, chúng tôi cứ cặm cụi và vui vẻ làm việc như là suốt đời sẽ ở trên đảo.
Mùa mưa đã tới. Chúng tôi lại phải ở lỳ trong nhà nhiều hơn những mùa khác. Chúng tôi đã chuẩn bị mọi thứ để giữ gìn cho chiếc xuồng mới được yên ổn. Chúng tôi ròng nó vào trong cái vịnh nhỏ và, nhân lúc thủy triều lên cao , kéo nó ra bãi cát. Thứ sáu đã đào cho nó một cái bể chứa nhỏ vừa đủ sâu để khi cần thì có thể dẫn nước vào cho xuồng nổi lên. Và khi thủy triều lên, chúng tôi tìm cách ngăn hẳn không cho nước biển lọt được vào trong cái bể ấy nữa. Chúng tôi ghép rất nhiều cành cây lại với nhau thành nhiều lớp, kín đáo và chắc chắn hơn cả mái rạ để che cho xuồng khỏi bị dãi nắng dầm mưa. Như vậy, chúng tôi có thể yên tâm chờ đến tháng mười một hay tháng chạp, tiết trời thuận lợi để vượt biển. Mùa khô ráo bắt đầu trở lại, há vọng vượt biển của chúng tôi lại càng gần ngày thực hiện. Ngày đêm chúng tôi bận tíu tít, nhất là phải lo lắng thu thập lương thực cần thiết cho cuộc đi phiêu lưu, dự định trong vòng nửa tháng nữa. Một buổi sáng, trong khi đang lo thu dọn, tôi bảo Thứ sáu chạy ra ngoài bờ biển tìm vài con rùa về làm thịt ăn. Cũng như tôi, Thứ sáu rất thích ăn món này, ăn trứng hoặc ăn thịt. Dạo này, con chó của tôi đã chết vì già quá rồi, nên Thứ sáu thiếu một tay giúp việc săn rùa đắc lực. Tuy thế, thường anh vẫn tỏ ra "may mắn" hơn tôi. Nhưng vừa ra khỏi nhà được độ dăm phút, anh đã ba chân bốn cẳng chạy trở về, nhảy vút qua bức lũy đá như bay mà vào, chân không kịp bén đất. Không chờ tôi hỏi, anh kêu lên ngay:
-ông chủ, ông chủ ơi! Khổ quá! Nguy quá!
-Thứ sáu! Cái gì thế?
-tôi hỏi lại.
-Cái gì thế?
-ồ, kia kìa, ngoài kia kìa,
-anh ta trả lời vội vã
-có ba chiếc xuồng, ba chiếc xuồng của kẻ thù! Tôi tìm hết cách làm cho anh ta yên lòng, nhưng anh vẫn không bớt vẻ hốt hoảng. Anh sợ những người thổ dân kia đến đây bắt anh để giết. Tôi an ủi và khuyến khích anh:
-Thứ sáu, hãy can đảm lên chứ! Tai nạn lớn đó cũng đe dọa tôi như anh chứ có khác gì! Nếu họ bắt được chúng ta thì chắc là họ chẳng tha gì tôi cũng như chẳng tha gì anh. Có phải không, anh bạn thân mến? Vậy thì nhất định chúng ta phải liều một phen sống mái với họ. Anh bạn của tôi ơi! Anh còn biết đánh nhau chứ?
-Tôi bắn được!
-anh đáp lại đã có vẻ vững tâm hơn.
-Nhưng mà họ đông quá, nhiều quá.
-Cái đó không đáng ngại!
-tôi bảo anh ta.
-Súng của chúng ta sẽ làm cho những người không bị bắn cũng phải khiếp sợ bỏ trốn. Chúng ta sẽ sẵn sàng đương đầu với mọi nguy hiểm để cứu giúp nhau. Bây giờ thì tôi chỉ huy trận đánh, anh hết sức nghe theo lời tôi và làm đúng như tôi chỉ dẫn. Đó là kỷ luật ra trận đấy nhá!
-Vâng!
-Anh đáp lại rắn rỏi.
-Tôi sẵn sàng chết nếu cần phải chết.
-Chúng ta sẽ không chết đâu, Thứ sáu ạ! Tôi khuyến khích anh ta và, để tăng thêm dũng khí, chúng tôi uống mỗi người một hớp rượu mạnh. Sau đó, tôi chia khí giới với anh. Mỗi người chúng tôi giắt một khẩu súng ngắn vào thắt lưng và đeo lên vai ba khẩu súng dài, rồi cùng nhau lên đường chiến đấu. Ngoài khí giới, tôi còn mang theo một bầu rượu mạnh và đưa cho Thứ sáu một túi đầy thuốc súng và đạn. Mệnh lệnh duy nhất mà anh phải tuân theo sự chỉ huy của tôi là phải bám riết lấy tôi, không có một lời nói, một hành động nào tự động trước khi làm chủ chiến trường.
Tôi dùng kính viễn vọng tìm được một con đường nhỏ để vòng qua bên kia cái vịnh. Tới đó, chúng tôi đi xuyên vào rừng đến một chỗ có thể ngắm bắn vào kẻ địch vừa tầm đạn trước khi họ tìm ra chúng tôi. Tôi đi trong rừng rất thận trọng và rất lặng lẽ; Thứ sáu theo sát gót. Chúng tôi cứ tiến dần lên cho tới lúc chỉ còn cách họ một lùm cây nhỏ. Nhìn thấy một cây rất cao, tôi khẽ gọi Thứ sáu và bảo anh ta tìm cách đi sâu về phía đó rồi trèo lên cây mà dò xét tình hình địch. Anh đi ngay và phút chốc đã quay trở lại báo cho tôi biết rằng đứng ở đó có thể thấy quân địch rất rõ ràng. Họ đương ngồi quanh đống lửa, hành hình một tù binh. Cách đó chừng mươi bước còn có một người tù nữa bị trói nằm trên cát và có lẽ cũng sắp sửa chịu một số phận như người kia. Người này không phải là đồng bào của anh mà lại giống như những người rậm râu đã thoát nạn đắm tàu và đã ghé xuồng vào quê hương anh. Những tin tức đó và nhất là những đặc điểm về người tù rậm râu làm cho tôi lại nóng cả gan ruột. Tôi tự mình tiến lại phía cái cây cao và thấy rõ ràng một người nằm dài trên bãi cát, tay chân đều bị trói chặt. Nhìn áo quần người ấy, tôi biết đó là một người châu âu. Tôi nhìn quanh và thấy một cây to khác mọc giữa một bụi rậm nhỏ gần chỗ những người thổ dân tụ họp hơn. Nếu tôi lại được đó mà không bị lộ thì chỉ còn cách họ chừng nửa tầm đạn. Nắm vững tình hình, tôi lại bình tĩnh hơn; tôi luồn rất nhẹ nhàng sau những bụi rậm để đi tới chỗ cây lớn. Tới nơi, vừa gặp một mô đất nhỏ, tôi bèn nấp sau đó xem xét tình hình địch cho kỹ hơn. Tình thế quả đã khẩn cấp lắm rồi: mười chín kẻ chiến thắng đang ngồi sát nhau dưới đất và cử hai tên trong bọn lại cởi trói người tù rậm râu để đem lại nơi hành hình. Trong lúc hai tên này lúi húi cởi dây buộc chân người tù, tôi vội quay lại bảo Thứ sáu:
-Nào, Thứ sáu! Anh hãy chú ý nghe theo tôi. Chúng ta chuẩn bị chiến đấu.
Thấy tôi làm gì thì anh làm theo nấy, nhất thiết đừng có sai một lá nào đấy nhé! Anh hứa sẽ làm theo đúng như lời tôi dặn. Tôi bèn đặt xuống đất một khẩu súng hỏa mai và một khẩu súng săn; Thứ sáu làm theo đúng răm rắp. Tôi lấy khẩu súng hỏa mai thứ hai và nhằm thẳng vào đám người thổ dân. Thứ sáu cũng làm như thế. Tôi hỏi anh:
-Sẵn sàng chưa?
-Xong!
-anh trả lời và ngay lúc đó chúng tôi cùng kéo cò một lượt.
Lần đầu tiên bắn súng vào kẻ thù, Thứ sáu đã tỏ ra ngắm giỏi hơn hẳn tôi. Phát súng của anh đã bắn ngã hai tên địch và làm ba tên khác bị thương; còn tôi thì chỉ bắn ngã một và làm bị thương hai tên. Tả làm sao nổi nỗi kinh hoảng của đám thổ dân bị đánh bất ngờ! Những người chưa bị ngă đều vội vă nhổm dậy, lúng túng không biết phải chạy đường nào cho thoát một tai nạn từ đâu giáng xuống không rő. Trong lúc đó, Thứ sáu luôn luôn chăm chú nhìn tôi để theo dői và rập theo hành động của tôi. Sau khi thấy rõ kết quả của đợt súng đầu tiên, tôi hạ khẩu súng hỏa mai xuống, cầm khẩu súng săn lên, và người giúp việc của tôi cũng làm theo đúng như thế. Anh cũng nhắm theo kẻ địch như tôi. Tôi lại hỏi:
-Sẵn sàng chưa? Anh trả lời là đã sẵn sàng thì tôi lại bảo anh:
-Thế thì nổ súng ngay đi thôi!
Chúng tôi lại bắn theo vào cái đám người đang sợ hãi chạy tán loạn. Súng của chúng tôi chỉ nạp đạn ghém cỡ nhỏ dùng cho súng ngắn, nên chỉ hạ được có hai tên, nhưng lại làm bị thương khá nhiều tên khác. Bọn này chạy tan tác khắp nơi, máu me đầy mình. Sau đó có ba tên ngã xuống vì bị thương nặng. Chúng tôi đặt khẩu súng hết đạn xuống đất, lấy khẩu hỏa mai thứ nhì lên. Tôi nhảy vụt ra khỏi chỗ nấp, Thứ sáu bám sát theo sau. Vừa lộ mặt ra, tôi thét lên một tiếng long trời, Thứ sáu cũng thét lên một tiếng còn ghê rợn hơn nữa. Dù trên vai mang khí giới đã nặng, tôi cố chạy thật nhanh lại gần người tù binh khốn khổ đương nằm đờ trên cát. Hai tên đao phủ đã bỏ mặc người đó ngay sau những tiếng súng thứ nhất. Chúng khiếp đảm chạy ra bờ biển, nhảy lên một cái xuồng, có ba tên khác theo sát gót. Bọn kia cũng ùa nhau chạy ra phía bờ biển; chúng tôi hoàn toàn làm chủ trận địa. Thứ sáu hăng máu, không chờ tôi ra lệnh nữa, cứ xông vào đuổi theo quân thù đang nhớn nhác chạy dài. Anh bắn nốt một phát súng trúng thêm mấy tên địch nữa; nhưng vì bị thương nhẹ nên chúng lại đứng dậy chạy ngay. Liếc nhìn anh, tôi nghĩ bọn kia tất phải tưởng anh là tướng nhà trời xuống trừng phạt họ. Trong khi người giúp việc của tôi say sưa tiêu diệt địch như thế, tôi rút dao ra cắt đứt dây trói cho người tù binh. Tôi đỡ người đó ngồi dậy và hỏi bằng tiếng Bồ-đào-nha xem ông ta là ai. Nhưng ông ta đã yếu quá, hầu như không còn đủ sức đứng dậy và nói được. Tôi bèn đưa bầu rượu mạnh và ra hiệu bảo ông ta uống. ông ta nghe theo. Tôi lại đưa cho ông ta một miếng bánh và ông ta cũng ăn ngay lúc đó. Sau khi lại sức được một chút, ông ta nói cho tôi biết mình là người Tây-ban-nha và vô cùng cảm ơn tôi đã cứu sống ông. Tôi tập hợp tất cả vốn liếng ngôn ngữ Tây-ban-nha của tôi lại để có thể bập bẹ nói chuyện với người bạn mới:
-Xi-nho! chúng ta sẽ nói chuyện nhiều vào lúc khác. Bây giờ thì phải chiến đấu đă. Nếu ông còn chút sức khỏe nào thì hãy cầm lấy khẩu súng ngắn và thanh gươm này rồi hết sức dùng cho thật được việc. ông ta cầm lấy khí giới, vẻ hàm ơn lộ trên nét mặt. Hình như khí giới đã đem lại cho ông tất cả sức khỏe. ông ta nhảy xổ ngay vào đám kẻ thù và chỉ trở tay một cái, ông đã xỉa đến hai nhát gươm. Thật ra thì bọn họ cũng chẳng chống đỡ gì cả. Những người thổ dân không may đó đã quá khiếp đảm vì những tiếng súng của chúng tôi đến nỗi không dám chống cự lại nữa. Tôi vẫn giữ bên mình khẩu súng săn cuối cùng, không bắn vội, để khỏi bị lúng túng lúc bất ngờ. Tất cả khí giới của tôi chỉ còn lại có thế vì tôi đã đưa khẩu súng ngắn và thanh gươm cho người bạn Tây-ban-nha rồi. Tôi gọi Thứ sáu bảo trở về chỗ chúng tôi đã bắn loạt súng đầu tiên đem lại đây những súng đã hết đạn. Anh ta chạy thật nhanh đi lấy ngay. Trong khi tôi nạp lại súng, một cuộc chiến đấu thật ác liệt đã xảy ra giữa người Tây-ban-nha và một người thổ dân vừa mới nhảy xổ vào ông ta với một thanh kiếm gỗ trong tay. Có lẽ anh này biết đó là người tù binh cũ chứ không phải "thiên tướng" nên vững lòng đánh lại. Mặc dầu còn yếu, người Tây-ban-nha vẫn tỏ ra can đảm và hăng hái phi thường. ông ta đương đầu với người thổ dân một lúc lâu và đã hai lần chém kẻ địch bị thương ở đầu. Nhưng người thổ dân đã ôm chặt được ông ta mà quật ngã xuống và tìm hết cách để cướp lấy thanh gươm. Trong cơn nguy biến đó, người Tây-ban-nha không chút hoảng hốt. ông thận trọng buông thanh gươm xuống, rút ngay khẩu súng ngắn ra bắn chết kẻ thù.
Nhưng hạ được kẻ thù thì ông ta cũng kiệt sức, phải ngồi phịch xuống đất nghỉ. Ngay lúc đó, Thứ sáu nảy ra một ý kiến mà từ đầu tôi không nghĩ tới. Nếu để những người thổ dân trốn thoát thì rất có thể họ sẽ kéo đông người đến trả thù và tất nhiên tính mạng chúng tôi chỉ còn treo trên sợi tóc. Tôi thấy cũng có lý. Thứ sáu bàn nên lấy một chiếc xuồng của họ mà chèo đuổi theo, bắn thủng xuồng cho họ chết chìm. Tôi nghe theo anh ta và nhảy ngay vào cái xuồng gần nhất rồi gọi Thứ sáu cùng đi. Nhưng tôi rất kinh ngạc thấy còn một người thứ ba nằm trong xuồng cũng bị trói gô như người Tây-ban-nha kia, và gần như chết ngất đi vì sợ. ông ta bị trói chặt quá không thể nhấc đầu lên được và coi chừng không thở ra hơi nữa, có vẻ sắp chết. Tôi vội cắt đứt những dây trói chằng chịt đã làm cho ông ta nhức nhối quá mức. Tôi cố sức đỡ ông ta dậy nhưng ông ta không còn đủ sức đứng lên và nói ra tiếng nữa. ông ta chỉ kêu lên những tiếng chói tai và thật não ruột, có lẽ vì sợ người ta cởi trói cho mình để đem đi hành hình chăng! Thứ sáu bước chân vào xuồng; tôi bảo anh ta an ủi người bị nạn yên tâm vì đã được thoát nạn. Tôi lại đưa cho người ấy uống một hớp rượu mạnh. Nhờ sức rượu, kết hợp với tin mừng được cứu sống bất ngờ, người bị nạn tỉnh ngay lại và có thể gắng gượng đứng dậy được. Sau vài phút đồng hồ nhìn kỹ và nghe người ấy nói, bỗng nhiên Thứ sáu ôm chầm lấy ông ta mà hôn hít. Thật là một cảnh cảm động, có thể làm ứa nước mắt những người sắt đá nhất. Anh ta khóc, cười, nhảy múa chung quanh người kia rồi lại nắm hai tay lại với nhau mà vặn, đập tay vào mặt, rồi lại nhảy, lại múa nữa, và cuối cùng là những hành động có vẻ thiếu tự chủ, như dại như điên.
Trong một lúc lâu, mặc dầu tôi rất ngạc nhiên, anh vẫn không thể bình tĩnh để bày tỏ cho tôi biết rõ nguyên do những cử chỉ kỳ quặc đó. Nhưng về sau, trấn tĩnh được một chút, anh vui mừng nói cho tôi biết đó là bố đẻ của anh. Tôi rất xúc động trước cảnh đó. Nhìn thấy chính bố mình được cứu thoát khỏi bàn tay độc ác của kẻ thù, Thứ sáu mừng mừng tủi tủi. Anh đã làm những cử chỉ lạ lùng nhưng đầy tình thân ái. Anh bước vào trong xuồng rồi ra ngoài xuồng, rồi lại trở vào trong xuồng. Anh lại ngồi ngay bên cạnh bố anh, anh ôm lấy đầu bố mà áp vào ngực mình đến nửa giờ đồng hồ liền để truyền hơi ấm cho bố; anh nắm lấy chân, lấy tay ông lão đương cứng đờ ra vì bị trói chặt quá và loay hoay tìm hết cách để xoa nắn cho dịu lại. Đoán được ý muốn ấy, tôi đưa cho anh bầu rượu mạnh để xoa bóp cho ông lăo. Quả nhiên ông già thổ dân thấy dễ chịu hơn rõ ràng.
Những người thổ dân đã đi rất xa; chúng tôi không nhìn thấy chiếc xuồng chở họ đâu nữa cả. Chúng tôi cũng không phải lo ngại lâu bởi vì chỉ hai giờ đồng hồ sau, lúc đó có lẽ họ chưa đi được một phần tư quăng đường, ngoài khơi bỗng có một cơn gió mùa tây bắc nổi lên dữ dội và kéo dài tới suốt đêm. Bị trái gió trong phong ba, xuồng lại chở nặng, chắc chắn họ không thể nào về tới bờ bên kia được. Chúng ta hãy trở lại chuyện của Thứ sáu. Anh ta cứ rối rít bên cạnh bố đến nỗi tôi không nỡ lòng gọi anh lại nữa. Một lúc sau khá lâu, xét thấy cũng tạm đủ cho anh tỏ nỗi hân hoan của mình rồi, tôi mới lên tiếng gọi. Anh chàng vừa chạy lại phía tôi vừa nhảy chân sáo, vừa cười vừa tỏ ra vui mừng vô độ. Tôi hỏi anh đã đưa bánh cho ông cụ ăn chưa? Anh trả lời có vẻ hối hận:
-Chưa! Tôi thật là đồ tồi!
Tôi ăn hết mất cả bánh rồi có còn gì đâu nữa mà đưa! Tôi lấy ở trong túi ra cho anh một cái bánh bột mì nướng và bảo anh uống lấy một hớp rượu mạnh. Anh không nhấp một tí nào mà đem tất cả lại cho bố anh. Tôi lại đưa thêm cho anh một vốc nho khô để đem lại cho ông lăo một thể. Một lát sau, anh nhảy ra khỏi xuồng và chạy vụt về phía nhà tôi ở, thoáng một cái đã mất hút bóng. Mặc cho tôi gọi ầm lên, anh vẫn làm ngơ như không nghe thấy gì và cứ cắm cổ chạy. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc anh đã trở lại, chạy thong thả hơn vì đang vướng vật gì cầm trong tay không rõ. Thì ra anh về lấy ra một bình nước và mấy miếng bánh. Anh đưa bình nước cho tôi uống mấy hớp rồi xách lại cho bố. Uống nước xong, ông lão tỉnh hẳn dậy. Sở dĩ nước lã làm cho ông khoan khoái và khỏe khoắn lên như thế, hơn hẳn cả rượu mạnh lúc nãy, chỉ vì ông lão đã khát nước ráo cả họng. ông già uống xong, tôi bèn bảo Thứ sáu mang bình nước và một cái bánh lại cho người Tây-ban-nha đương nằm dài trên cỏ dưới bóng cây và tỏ ra suy nhược quá đỗi. ông ta cũng gắng gượng ngồi dậy ăn uống. Tôi lại gần và đưa cho ông một vốc nho khô. ông ta nhìn chúng tôi tỏ vẻ trìu mến và cảm kích muôn phần. Vừa rồi ông đã chiến đấu rất hùng dũng, nhưng vì mất sức nhiều quá nên bây giờ không thể đứng vững được. ông gắng gượng đứng dậy hai ba phen không nổi, vì chân bị trói chặt lâu quá nên sưng vù lên, nhức nhối lạ thường. Tôi bảo Thứ sáu lấy rượu mạnh xoa bóp cho ông ta, cũng như vừa rồi anh đã xoa bóp cho bố. Trong lúc đó tôi đi xem lại chiến trường và chôn cất mấy cái xác chết. Thứ sáu săn sóc người Tây-ban-nha rất tận tình, nhưng thỉnh thoảng vẫn ngoảnh mặt nhìn về phía bố anh để xem ông già có còn ở đó và có còn ngồi y nguyên như trước nữa không. Một lần không nhìn thấy ông già đâu cả, anh vội đứng phắt dậy, chạy như bay lại phía đó. Nhưng vừa nhảy vào trong xuồng, anh vui vẻ thấy không xảy ra việc gì đáng lo cả; bố anh chỉ nằm xuống để nghỉ một chút thôi. Khi Thứ sáu quay trở lại, tôi nhờ anh đỡ người Tây-ban-nha đứng dậy và dìu ông ta ra xuồng để chở về nhà, có đủ điều kiện chăm nom săn sóc hơn. Anh ta không chờ người Tây-ban-nha nhỏm dậy nữa.
Vốn rất khỏe và cũng rất nhanh nhẹn, anh cõng ngay ông ta lên vai, đi một mạch tới xuồng và đặt ông ngồi xuống sát cạnh bố anh. Xong xuôi, anh trèo ra ngoài đẩy chiếc xuồng xuống nước rồi mặc dầu ngược chiều gió anh đẩy chiếc xuồng chạy men theo bờ nhanh hơn tôi đi trên bộ. Đưa xuồng vào trong vịnh xong, anh chạy như bay trở lại lấy nốt chiếc xuồng thứ nhì, đem về tới nơi cũng vừa kịp lúc tôi đi bộ về và chở tôi qua vịnh. Anh định giúp hai người kia ra khỏi xuồng nhưng cả hai đều suy nhược quá không bước nổi một bước, khiến anh lúng túng không biết xoay xở ra sao. Tôi thấy vậy bèn suy nghĩ tìm cách giải quyết khó khăn đó. Tôi bảo Thứ sáu hăy ngồi nghỉ một chút, còn tôi thì bắt tay làm một cái cáng. Chúng tôi đặt cả hai người lên trên cáng và khiêng về tận bức lũy đá bên ngoài. Nhưng tới đây, chúng tôi lại càng lúng túng hơn. Tôi không muốn phá lũy đá bất cứ chỗ nào nhưng chúng tôi cũng không nghĩ ra được cách gì để đưa hai người ấy vượt qua lũy đá được. Chỉ còn một cách là để cho họ nghỉ tạm ngoài này. Tức thì chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ chúng tôi dựng lên một nếp lều nhỏ che bằng cành lá và vải cũ, giữa bức lũy đá và lùm cây tôi đã trồng gần đó. Tôi lấy mấy bó rạ đánh thành hai cái nệm thật êm đem lót trong lều; trên nệm lại trải một cái chăn để nằm và có thêm một cái chăn khác để đắp.
Thế là hòn đảo vắng vẻ của tôi đã tăng thêm dân số; tôi đã có đông thêm tay chân thân tín. Cũng có lúc cao hứng, tôi lấy làm thích thú nghĩ rằng ở đây mình có thể tự coi là một vị chúa tể nhỏ, tất cả hòn đảo này là giang sơn của mình không ai có thể chối cãi được! Những người bạn của tôi thật là tốt nhất đời, họ mến phục và tin cậy tôi vô cùng. Dù sao thì tôi cũng đã cứu sống họ và chắc chắn họ sẽ không ngần ngại há sinh tính mạng để cứu tôi khi cần thiết. Thu xếp xong nơi ăn chốn ở cho những người mới, tôi nghĩ ngay đến việc lấy lại sức khỏe cho họ bằng một bữa ăn thịnh soạn. Tôi bảo Thứ sáu ra trại chăn nuôi bắt về một con dê non chừng một năm. Chúng tôi mổ thịt dê, chặt nhỏ đem nấu xáo và hầm. Tôi có thể cam đoan với các bạn rằng hai người khách quí đã được thết đăi một món thịt hầm đặc biệt và một món cháo rất ngon nấu bằng thịt dê với lúa mạch và gạo tẻ. Tôi bưng tất cả vào lều và dọn ra, bốn người ngồi chén tạc chén thù. Bữa cơm vui vẻ quá đi mất! Chúng tôi cố gắng tiếp đăi khách thật ân cần và tìm cách khuyến khích họ ăn uống cho thỏa thuê. Tôi nhờ Thứ sáu phiên dịch hộ, không những với bố và cả với ông bạn Tây-ban- nha nữa, ông này nói tiếng thổ dân thành thạo vô cùng.
Tôi thấy đã đến lúc có thể tâm sự với những người bạn mới này. Trước tiên, tôi nói chuyện với bố Thứ sáu. Tôi hỏi ông già có ý kiến gì về những người thổ dân đã trốn thoát cuộc chiến đấu vừa rồi không? Liệu họ có thể trở lại đây với một lực lượng khá đông để áp đảo chúng ta không? Theo ý ông ta thì họ không có há vọng thoát khỏi cơn dông tố và chắc là đã chết đuối hết. Hoặc giả họ có bị bão cuốn về phía nam, ghé được vào một bờ biển nào đó thì cũng bị kẻ địch bắt giết đi thôi. Ví thử họ có may mắn về tới xứ sở được thì ông lão cho rằng họ cũng đã mất mật vì cách tấn công bất ngờ của chúng tôi và choáng voáng vì ánh lửa và tiếng súng nổ. Chắc chắn họ sẽ kể lại cho đồng bào nghe là những người đi đã bị sấm sét đánh chết và hai kẻ địch đã xuất hiện bất ngờ chắc là thần thánh trên trời hiện xuống để tiêu diệt họ. ông lão rất tin vào sự phỏng đoán đó. ông đã nghe bọn chạy chốn nói với nhau không hiểu tại sao người ta lại thổi ra sét, nói ra sấm và giết chết được kẻ khác ở thật xa, chẳng cần giơ tay lên chút nào. Có lẽ đúng như thế vì từ đó chúng tôi không thấy một chiếc xuồng nào ghé vào đảo. Tôi tin lời ông lão và cũng khuây dần nỗi lo âu. Tôi tiếp tục nói chuyện với ông lão về dự kiến cuộc vượt biển sang đất liền. ông bố Thứ sáu cam đoan rằng đồng bào của ông sẽ đón tiếp tôi rất tử tế vì họ rất quí mến ông lão. Nhưng sau một buổi nói chuyện rất cặn kẽ với người Tây-ban-nha, tôi lại tạm hoãn cuộc hành trình đó. ông ta kể cho tôi biết rằng ông còn mười sáu bạn đồng hành, người Tây-ban-nha và Bồ-đào-nha, bị đắm tàu. Họ phải trải qua nhiều gian truân trước khi giạt vào bờ biển, thoát nạn, lên bờ và hiện còn ở trên đất liền. Thực ra ở đó thì họ sống cũng rất yên ổn với những bộ lạc thổ dân chung quanh, nhưng đời sống rất khổ cực, thiếu thốn quá chừng, phải cố gắng làm mới không đến nỗi bị chết đói. Tôi hỏi ông ta rất cặn kẽ mọi chi tiết về chuyến đi của họ. Nhờ thế tôi biết được rằng họ là hành khách trên một chiếc tàu Tây-ban-nha. Tàu đi từ sông Ri-ô đờ la Pơ-la-ta đến La-ha-van, chở da, lông thú và bạc nén, rồi ở lại để nhận tất cả những hàng hóa châu âu có thể mua được. Sau khi vượt muôn ngàn nguy hiểm, họ giạt lên một bờ biển, có nhiều thổ dân, luôn luôn nơm nớp sợ bị giết chết nếu bất ngờ bị bắt gặp. Họ có mang theo mấy khẩu súng nhưng thiếu thuốc đạn. Chỉ trong mấy ngày đầu còn một ít thuốc đạn thì đã dùng để săn bắn kiếm ăn hết sạch tất cả. Tôi hỏi ông ta:
-Thế rồi họ sẽ ra sao? Không bao giờ các ông nghĩ tới việc thoát ra khỏi cái chốn khổ ải ấy ư?
ông ta trả lời là đã nhiều lần mấy anh em cũng có nghĩ tới việc ấy, nhưng hiện giờ họ đang gặp hoàn cảnh không có tàu bè, thiếu dụng cụ vật liệu để đóng một chiếc tàu khác, không có lương ăn. Bao nhiêu ý định của họ đều tan ra mây khói và họ càng ngày càng tuyệt vọng. Tôi bèn hỏi ông xem nếu bây giờ chúng tôi tìm cách đưa họ về đây cùng sống với mấy anh em thì thái độ của họ sẽ thế nào? Họ có vui lòng đem hết công hết sức ra làm lụng như mọi người ở đây không?
-Tuy nhiên,- tôi nói thêm,- cũng xin thú thật với ông rằng tôi vẫn cứ dè chừng một sự tráo trở nào đó về phía họ. Lòng biết ơn đâu có phải là một đức tốt quen thuộc của con người! Có mấy khi người ta lại đối xử tương xứng với chính những việc người khác làm cho mình! Thường chỉ là xứng với những lợi lộc mà người ta há vọng rút ra được từ những công việc đó thôi!
-Và quả là một cái gì quá ư tàn nhẫn cho tôi,
-tôi nói tiếp,- nếu, đáng ra được đối xử xứng đáng là người đã tổ chức giải thoát cho họ, tôi lại bị họ tóm lấy cổ, dẫn về tận Tây-ban-nha. Bất cứ một người Anh nào, do bất kỳ một tai họa nào mà có mặt ở đó, đều phải sẵn sàng nhận một số phận đau khổ nhất.
-Nếu gạt bỏ được điều e ngại đó,- tôi lại nói thêm nữa,- tôi nghĩ rằng ý định của tôi sẽ được thực hiện không có gì khó khăn.
-Nếu các bạn của ông đến đây tất cả thì chúng ta sẽ thừa sức đóng một chiếc thuyền khá lớn để cùng nhau vượt biển. Nếu đi về phía nam thì ghé vào nước Bra-din, nếu đi lên phía bắc thì ghé vào những hòn đảo thuộc Tây-ban-nha. Ghé vào đâu, chúng ta cũng sẽ thoát khỏi cảnh khổ cực hiện tại, miễn là mỗi người đều tin tưởng vào sự xếp đặt của tôi. Sau khi lắng nghe kỹ lời tôi, ông bạn Tây-ban-nha lại nói thêm rất chân thành rằng những người đó đã cảm thấy quá sâu sắc tất cả nỗi đau khổ của họ trong hoàn cảnh hiện nay. Chắc chắn họ sẽ hoàn toàn tin tưởng và nghe theo người đã đem hết tâm sức để cứu họ thoát khỏi cảnh đói và tất nhiên họ không hề mảy may có ý định phản bội ân nhân. ông nói tiếp với một giọng vui vẻ:
-Hoặc giả họ không muốn về nước mà thích ở lại đây lập nghiệp thì còn gì tốt hơn! ông sẽ chia cho họ đất đai để làm ăn sinh sống. Họ đều là những người lương thiện và đương lâm vào một tình cảnh cơ cực không thể tưởng tượng được, thiếu khí giới và áo quần, không có gì nuôi thân ngoài những sự giúp đỡ-cũng rất nghèo nàn-của những thổ dân tốt bụng. Họ không còn một tia há vọng nào trở về Tổ quốc nữa. Bây giờ nếu được thoát khỏi cảnh đó thì bảo gì mà họ không theo!
-Nếu ông đồng ý,
-ông lại tiếp,
-tôi xin cùng đi với ông già thổ dân đến gặp họ. Tôi sẽ nói ý định nhân đạo của ông và tôi lại trở về nói cho ông biết ý định của họ. Tôi sẽ không giao ước gì với họ nếu họ chưa hứa với tôi một lòng thực hiện giao ước hết sức trang nghiêm.
Tôi muốn thuyết phục họ vui lòng thừa nhận ông là chỉ huy của họ. Họ phải kính cẩn tuyên thệ và thành tâm theo ông đến bất cứ một xứ sở văn minh nào mà ông đưa họ đến. Họ sẽ tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh của ông cho đến lúc tất cả chúng ta đều đến nơi đó. Tôi lại còn đưa về cho ông một bản cam đoan về tất cả những điều ấy, viết trên giấy và có chữ ký của tất cả những người ấy. Để cho tôi có thể tin ở ông ta hơn, ông ta xin được chính tự mình tuyên thệ với tôi trước khi lên đường. ông ta nguyền không bao giờ xa rời tôi nếu không được lệnh của tôi, sẽ bảo vệ tôi đến giọt máu cuối cùng nếu đồng bào của ông lại hèn nhát đến mức phản bội những điều đã giao ước. Biết được tình hình như thế, tôi lại càng nóng lòng chuẩn bị mọi thứ để cứu giúp những con người đáng thương ấy. Chúng tôi cử ông bạn Tây-ban-nha cùng đi với ông lăo thổ dân sang liên lạc trước với họ. Nhưng khi mọi việc chuẩn bị đã xong xuôi chỉ còn chờ ngày lên đường thì chính ông bạn Tây-ban-nha lại vạch cho tôi thấy một khó khăn mới. Qua ý kiến đó, tôi càng thấy rõ ông là người từng trải và rất chân thành. Tôi lại thêm tin cậy, quí mến ông và theo ngay lời khuyên của ông mà hoãn cuộc hành trình lại độ năm sáu tháng nữa. Đầu đuôi câu chuyện là như thế này: ông ta đã ở trên đảo này với chúng tôi một thời gian, tôi đã chỉ cho ông thấy tất cả số lương thực thu góp được nhờ sự cần cù lao động và sáng kiến của chúng tôi từ trước tới nay. ông ta thấy ngay tất cả số thóc lúa đó dẫu có thể đầy đủ hoặc có phần dư đật cho tôi và Thứ sáu thì cũng khó có thể nuôi đủ cái gia đình mới của tôi nếu không tiết kiệm hết sức. Thế thì nói chi đến chuyện cung cấp cho những người bạn ông ta, đến những mười sáu miệng ăn nữa! Mà nào đã hết đâu! Chúng tôi lại còn cần một số lương thực dự trữ lớn, chuẩn bị cho cuộc hành trình sau này tới một xứ sở nào đó để tìm đường về Tổ quốc. ông góp ý là nên khai phá nhiều đất hoang nữa, gieo tất cả số thóc còn thừa và chờ mùa gặt hái xong sẽ đi đón những người bạn ông ta thì hơn.
-ông ạ,
-ông ta nói thêm
-nạn đói rất có thể đẩy họ đến chỗ nổi loạn vì nó sẽ làm cho họ cảm thấy rằng chúng ta đã đưa họ ra khỏi một cảnh khổ này để rơi vào một cảnh cơ cực khác. Từ nay, chúng tôi đã trở thành một lực lượng mạnh rồi, không còn sợ gì những người thổ dân nữa, trừ phi họ kéo đến thật đông. Chúng tôi đường hoàng đi dạo khắp trên đảo, không chút lo sợ. Lúc nào chúng tôi cũng nghĩ đến việc thoát ra khỏi hòn đảo cho nên luôn luôn tìm mọi cách thực hiện việc đó. Ngoài những việc thường ngày không thể thiếu, tôi chú ý đánh dấu nhiều cây to rất tốt để đóng thuyền sửa soạn vượt biển. Hai bố con Thứ sáu nhận nhiệm vụ ngả những cây đó xuống và ông bạn Tây-ban-nha được phân công giám sát. Phương pháp làm ván như xưa nay của tôi ở đây là ngả một cây gỗ xuống chặt cành và ngọn rồi đẽo hai bên cho tới khi thành một tấm ván dày vừa ý muốn. Theo cách ấy thì phải lao động vất vả và phí gỗ lắm, nhưng không có cưa lớn để xẻ gỗ thì cũng chẳng có cách nào khác nữa. Hai bố con Thứ sáu đã làm được mười hai tấm ván gỗ sồi rất tốt, rộng chừng hai bộ, dài ba mươi lăm bộ và dày từ hai đến bốn tấc. Các bạn cũng thấy ngay được họ đã mất bao nhiêu công sức vào đó.
Đồng thời chúng tôi lo lắng thêm đàn gia súc. Khi thì tôi đi săn với Thứ sáu, khi thì Thứ sáu đi cùng với ông bạn Tây-ban-nha. Mỗi lần bắn chết một con dê mẹ, bao giờ chúng tôi cũng cố gắng bắt sống cho được dê con. Kết quả là chúng tôi thêm được hai mươi tám con nữa vào đàn dê nuôi ở trại. Mùa nho chín cũng đã đến; chúng tôi hái và đem phơi rất nhiều những chùm nho chín mọng, đựng đầy sáu chục chiếc thùng. Cùng với bánh bột mì, nho khô giữ một địa vị quan trọng trong số lương thực của chúng tôi; tôi có thể cam đoan với các bạn rằng nho của chúng tôi là một thức ăn ngon và bổ tuyệt trần. Năm nay, chúng tôi được mùa lúa. Chúng tôi đã đem gieo hai mươi hai thùng lúa giống và gặt về được hai trăm hai mươi thùng lúa mạch; lúa tẻ cũng được mùa không kém. Như vậy, cho tới mùa gặt sau, chúng tôi có dồi dào lương ăn cho mình và cho những người bạn sẽ đến. Ví thử chúng tôi vượt biển ngay sau khi những người bạn đồng hành ấy tới như đã dự định thì cũng thừa lương thực ăn đường, bất kỳ sẽ ghé vào bờ biển nào trên đất châu Mỹ. Phơi thóc xong, chúng tôi đi kiếm cành miên liễu đan bốn cái vựa thật lớn để cất đặt cho cẩn thận. ông bạn Tây-ban-nha thật là khéo tay đan lát; ông cứ chê tôi không biết dùng cách này mà làm hàng rào và che lá. Nhưng bây giờ việc đó chẳng cần thiết nữa, ông chỉ nói ra cho vui thôi! Mọi thứ chuẩn bị xong xuôi, tôi đồng ý để ông bạn Tây-ban-nha vượt biển sang bên kia thu xếp với những người bạn của ông ta. Tôi viết một bức lệnh, cấm ông ta không được đem về bất cứ một người nào nếu chưa bắt buộc người đó phải trịnh trọng tuyên thệ trước ông và ông già thổ dân rằng không bao giờ gây bất cứ một điều phiền muộn nhỏ cho ông chủ đảo là người đã có lòng tốt tìm mọi cách cứu sống họ. Họ lại phải bảo vệ người đó không điều kiện, chống mọi sự mưu hại, họ phải tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh của người đó, đi tới bất cứ nơi nào mà người đó đưa họ đi. Tôi lại cũng ra lệnh cho ông bạn Tây-ban-nha phải đưa về cho tôi một bản giao ước đúng quá cách, viết trên giấy, tất cả những người có mặt đều ký tên vào đó. Tôi cũng không nghĩ rằng cứ suy hoàn cảnh hiện tại của họ thì họ làm gì có bút có giấy mà viết! Hai người dùng một chiếc xuồng của thổ dân để vượt biển. Tôi đưa cho mỗi người một khẩu súng hỏa mai và chừng tám mồi thuốc đạn, không quên căn dặn họ hết sức dè dặt và tiết kiệm, chỉ nên dùng trong những trường hợp rất cấp bách thôi. Đây là bước đầu chuẩn bị cuộc vượt biển trở về Tổ quốc thân yêu sau hơn hai mươi bảy năm tôi bị giam hăm trên hòn đảo hoang này. Bởi thế, tôi không bỏ sót một chân tơ kẽ tóc. Chúng tôi chuyển xuống xuồng một số bánh và nho khô đủ cho hai người dùng trong một thời gian dài và lại còn đủ cho mười sáu người kia ăn trong tám ngày nữa. Chúng tôi qui định với nhau một dấu hiệu riêng để khi họ trở về thì nêu lên xuồng cho anh em trên đảo nhận thấy. Xong xuôi đâu đó, tôi chúc họ thuận buồm xuôi gió. Nhân được gió mát và thuận, họ lên đường vào dịp trăng tròn, khoảng tháng mười theo lịch của tôi. Tôi đã chờ các vị sứ giả của tôi trong tám ngày trời. Bất ngờ xảy ra một biến cố, có lẽ không bao giờ lại có thể xảy ra một câu chuyện tương tự được. Một buổi sáng sớm, tôi đương ngủ say, bỗng Thứ sáu chạy vội lại bên giường gọi ầm lên: " ông chủ. ông chủ! Dậy đi! Họ đã về kia rồi, họ đã về kia rồi!". Để nhận cho rő, tôi xách kính viễn vọng và vùng chạy theo Thứ sáu. Nhưng không ra thẳng bờ biển, tôi xách thang ra trèo lên núi, nấp sau tảng đá để xem xét cho rő ràng mà không bị lộ nếu lỡ gặp phải những kẻ có ý định không tốt. Vừa đặt chân lên trên mỏm núi, qua kính viễn vọng tôi thấy ngay một chiếc tàu buồm thả neo cách chúng tôi chừng hai dặm rưỡi về phía tây nam và một chiếc xuồng từ tàu đang tiến vào bờ. Nhận xét hình dáng tàu và xuồng, tôi đoán là một chiếc tàu của người Anh. Tôi không thể nói hết được những cảm xúc lộn xộn mơ hồ mà hình ảnh chiếc tàu đã gợi lên trong trí tôi. Mặc dầu rất sung sướng được thấy một chiếc tàu với những thủy thủ chắc chắn là đồng bào mình, tôi vẫn như cảm thấy có cái gì khác thường không rõ nguyên do tự đâu nhưng làm cho tôi phải thận trọng suy nghĩ. Tôi dõi theo, thấy chiếc xuồng đã tới gần bờ và hình như đương tìm bến để ghé cho thuận tiện. Không tìm thấy cái vịnh nhỏ ở gần nhà tôi, những người trên xuồng bèn đẩy chiếc xuồng lên trên bãi cát, cách chỗ chúng tôi đứng chừng một phần tư dặm đường.
Thấy thế, tôi rất mừng. Nếu họ tìm thấy cái vịnh nhỏ mà đổ bộ ngay trước cửa nhà tôi thì cũng rất phiền. Họ sẽ có thể đuổi tôi ra khỏi nhà, cướp bóc hết của cải. Khi họ lên bờ, tôi nhận ra những người Anh, trừ một vài người có lẽ là người Hà-lan. Sự thật thì không đúng như thế. Tất cả có mười một người, nhưng trong đó lại có ba người không mang khí giới và hình như bị trói chặt. Dăm người vừa trong xuồng nhảy lên bờ đã lôi ba người kia như những người tù và đối xử với những người này rất tàn nhẫn. Trong ba người này, một người biểu lộ sự chán nản của mình một cách rõ ràng và có vẻ kỳ quặc, còn hai người kia thỉnh thoảng lại giơ tay lên trời tuy cũng có vẻ buồn nhưng không để lộ ra ngoài mấy.
Tôi đương còn nghi nghi hoặc hoặc chưa hiểu được quang cảnh đó là thế nào thì Thứ sáu đã dùng cái thứ tiếng Anh lơ lớ của anh để hỏi tôi:
-Này ông chủ! Đấy ông xem, người Anh cũng đem xử tù binh như đồng bào của tôi chứ có khác gì đâu!
-Không đâu! Thứ sáu ạ,
-tôi trả lời
-có lẽ họ đem những người đó lên thả ở đây đó thôi!
Theo dõi đám người ấy một lúc, tôi lại nghĩ là những người tù kia có thể bị thảm sát. Có lúc tôi thấy rõ một tên trong bọn đó vung một thanh gươm lớn đánh vào một người tù khốn nạn và tôi đã tưởng là người tù bị đánh đến phải ngă gục xuống đất. Tôi rất phẫn nộ: Có thể thế được chăng? Trong hoàn cảnh rối ren này, tôi lại tiếc người bạn Tây-ban-nha và ông lão thổ dân không có ở đây. Thấy rõ ràng bọn kia không có súng. Tôi nảy ra ý nghĩ táo bạo là tìm cách bắt sống chúng ngay trước mũi súng của mình mà không bị lộ. Có như thế mới cứu được những người tù kia thoát khỏi bàn tay độc ác của chúng. Nhưng sự trời run rủi, tôi lại đi tới kết quả mong muốn bằng một cách khác. Trong khi những tên thủy thủ ngỗ ngược kia lần mò trong đảo như muốn dò xét xứ sở của chúng tôi thì ba người tù được tự do đi lại mặc ý. Nhưng họ không còn lòng dạ đi đâu nữa. Họ chỉ ngồi bệt xuống đất, có vẻ lo lắng và thất vọng. Nhìn họ, tôi lại nhớ tới nỗi thất vọng của tôi hồi mới đặt chân lên bờ biển này, nghĩ rằng mình sẽ bỏ mạng ở đây: đưa mắt nhìn quanh những nơm nớp sợ gặp thú dữ, lo lắng vì không tìm ra nơi ẩn nYu, buồn nản vì không có lương ăn. Biết trông cậy vào đâu! Biết chờ ai cứu vớt! Cũng như tôi, họ thật là tuyệt vọng. Nước thủy triều lên tới mức cao nhất vừa đúng khi bọn gian ác đặt chân lên bờ. Chúng hoạnh họe mấy người tù chán chê rồi kéo nhau đi la cà khắp chốn, mặc cho nước thủy triều rút xuống thấp để chiếc xuồng nằm trơ trên bờ cát khô. Chúng có để lại hai tên trông xuồng; nhưng hai tên này đã uống quá nhiều rượu mạnh và nằm ngủ như chết. Về sau, một tên tỉnh dậy trước và thấy chiếc xuồng bị lún sâu xuống cát. Hắn ta thấy một mình không thể kéo xuồng lên được bèn gọi ầm bọn kia lại giúp. Nhưng ngay cả bọn chúng cũng không tài nào lôi xuồng lên được vì xuồng đã nặng quá chừng mà bờ biển lại thuần một thứ cát khô di động. Trước khó khăn ấy, đúng như những người thủy thủ thực thụ, nghĩa là những người vô tâm nhất thế giới, chúng bỏ mặc xuồng nằm trơ đó, rồi lại đi sục sạo khắp đảo. Tôi nghe một tên trong bọn gọi một tên khác, áng chừng để tên này quay trở lại. Tên này trả lời: "Thôi đi! Mày cứ để kệ nó nằm yên đó có được không? Cơn thủy triều sau sẽ nâng nó lên mặt nước chứ lo gì!" Giọng nói ấy làm cho tôi tin chắc đó là những đồng bào của tôi. Bên trong bức lũy đá quanh lâu đài, chúng tôi chuẩn bị để chiến đấu. Nhưng lần này chúng tôi phải hết sức thận trọng, cầm chắc sẽ phải đương đầu với những kẻ địch không giống như lần trước. Thứ sáu quả là một "lực lượng phòng thủ" rất lợi hại; anh bắn giỏi lạ lùng. Tôi đưa cho anh ba khẩu hỏa mai, còn tôi mang hai khẩu súng săn. Dạng mạo Thứ sáu có vẻ hùng dũng hơn ngày thường.
Còn tôi thì ai nhìn thấy mặt cũng đã kinh khiếp rồi: trên đầu đội cái mũ kỳ quái bằng da dê, bên sườn lủng lẳng một thanh kiếm tuốt trần lại thêm hai khẩu súng ngắn ngạo nghễ giắt ở thắt lưng và hai khẩu súng săn lích kích trên vai nữa. Tôi đã nhất quyết không ra tay trước khi trời tối. Nhưng vào khoảng thời hai giờ chiều, đúng vào lúc trời nóng nực hơn hết, tôi nhận thấy bọn kia đi cả vào rừng, có lẽ để nghỉ ngơi đôi chút. Còn những người tù tuy không có vẻ buồn ngủ nhưng cũng nằm dài dưới bóng một cây cao râm mát ngay gần chúng tôi và khuất hẳn bọn kia. Không bỏ lỡ dịp may, tôi quyết định lại gần mấy người này, ra mặt cho họ thấy và hỏi họ cho biết rõ đầu đuôi câu chuyện. Tôi bèn tiến ngay về phía họ. Thứ sáu đi theo sau xa xa, cũng trang bị khí giới ghê gớm không kém, nhưng không có vẻ ma quái như tôi. Khi lại được gần họ mà vẫn chưa bị lộ, tôi dùng tiếng Tây-ban-nha để hỏi:
-Các ông là ai? Họ không trả lời và định bỏ chạy; nhưng tôi lại nói ngay bằng tiếng Anh:
-Các ông hãy yên lòng! Có thể là các ông gặp một người bạn tốt đến giúp mà các ông không ngờ tới! -Người bạn đó chỉ có thể từ trên trời bay xuống thôi!
-một người trong bọn họ trang nghiêm trả lời tôi.
-Bởi vì tai họa của chúng tôi thật vượt xa mọi khả năng giúp đỡ của người trần.
-Thưa ông, ta hãy cứ coi như mọi sự giúp đỡ cũng có thể tùy trời!
-tôi nói lại với ông ta.
-Nhưng chẳng hay ông có thể nói cho người lạ được biết cách nào đó để cứu giúp các ông không? Hình như các ông đương gặp một tai họa lớn thì phải! Tôi đã được thấy các ông bị đưa lên bờ này; và khi các ông nói chuyện với những tên hung ác dẫn các ông lên đây, chính mắt tôi thấy một tên rút gươm ra có vẻ muốn giết hại các ông. Con người khốn khổ đó, nước mắt chan hoà, tỏ vẻ ngạc nhiên trả lời tôi, giọng run run: "Tôi đương nói chuyện với một người trần hay một vị thần đây?"
-Thưa ông, ông hãy yên lòng về điều này!
-Tôi trả lời.- Nếu quả là một vị thần từ trên trời bay xuống để cứu giúp các ông thì hẳn là phải uy phong lẫm liệt, quần áo lộng lẫy, khí giới khác thường! Tôi đây đúng là một người trần, mà lại là một người nước Anh, và sẵn sàng giúp đỡ các ông. Tôi chỉ có một người giúp việc, chúng tôi có khí giới và thuốc đạn. Xin ông cứ nói thẳng cho biết chúng tôi có thể giúp được gì cho các ông và kể rõ cho biết cặn kẽ đầu đuôi về tai họa đã giáng xuống các ông.
-Than ôi! Thưa ông,
-ông ta trả lời
-câu chuyện thì quá dài, khó mà kể tỉ mỉ cho ông nghe trong khi quân thù đương ở ngay sát nách. Tôi chỉ xin nói qua để các ông biết tôi là thuyền trưởng chiếc tàu đương thả neo ngoài xa kia.
Một số thủy thủ đã nổi lên chống lại tôi; chỉ một chút nữa là chúng giết chết tôi rồi. Nhưng sống như thế này cũng chẳng khác gì bị tội chết: chúng định đem bỏ tôi và ông bạn đây lên hòn đảo vắng này. Đây là viên thuyền phó và một ông khách trên tàu. Chúng tôi chắc chắn thế nào cũng chết mòn trên hòn đảo này sau một thời gian ngắn, ngỡ rằng ở đây chỉ là một nơi hoang vu không có người ở! Thật là hạnh phúc được gặp các ông. Nhưng làm thế nào để thoát khỏi nguy nan bây giờ?
-Vậy thì,
-tôi hỏi ông,
-hiện bây giờ lũ côn đồ khốn kiếp ấy ở đâu?
-Chúng nó nằm nghỉ kia kìa!
-ông trả lời và chỉ tay vào một lùm cây rất rậm rạp.- Tôi rất sợ chúng nghe thấy chúng ta nói chuyện với nhau như thế này; nhất định chúng sẽ giết tất cả chúng ta, không sót một ai. Tôi hỏi xem bọn côn đồ kia có súng hay không thì được biết là chúng chỉ đem theo hai khẩu nhưng lại để một khẩu trong xuồng.
-Được, cứ để đấy tôi liệu.
-Tôi trả lời.
-Chúng nó đương ngủ say như chết! Tiêu diệt chúng lúc này không có gì dễ dàng hơn, trừ phi các ông còn muốn bắt tù chúng nó! ông ta bèn nói cho biết trong số đó có hai tên đầu sỏ, không có há vọng gì cải tạo được; nếu hạ được hai tên này thì, theo ý ông, đám kia sẽ dễ dàng qui thuận. ông ta nói thêm rằng vì cũng khá xa nên ông không thể chỉ rõ hai tên đó cho tôi thấy được; về phần ông, ông sẵn sàng tuân theo mọi mệnh lệnh của tôi.
-Vậy thì,
-tôi nói,
-chúng ta hãy nhanh nhanh rút khỏi nơi này, kẻo bọn kia ngủ dậy bắt gặp thì cũng phiền đấy! Bây giờ xin mời các ông hãy theo chúng tôi đến một chỗ yên ổn hơn để bàn tính kỹ việc của ta! Sau khi đã ngồi yên chỗ và kín đáo trong rừng, tôi lại nói với họ: "Xin các ông chú ý điều này: Tôi rất muốn liều tất cả để cứu các ông, nhưng để đền đáp lại, các ông phải nhận lời với tôi hai điều kiện sau đây...".
ông ta cắt ngay lời tôi để quả quyết rằng nếu được trở lại tự do và giành lại chiếc tàu thì sự tự do của chính ông và chiếc tàu của ông sẽ hoàn toàn dùng để tỏ lòng biết ơn đối với tôi. Hoặc giả tôi chỉ giúp ông trở lại được tự do mà thôi thì ông cũng quyết một lòng sống chết bên tôi ở bất cứ nơi nào mà tôi đưa ông tới. Cả hai người kia cũng nhất trí và hứa với tôi như vậy. Tôi lại nói tiếp:
-Xin các ông chú ý đến những điều kiện này. Chỉ có hai thôi: Một là, trong khi các ông còn đương có mặt trên hòn đảo này với tôi, các ông phải từ bỏ tất cả mọi quyền hành. Nếu được tôi giao súng ống thì các ông phải sẵn sàng trả lại ngay khi tôi thấy cần phải thu lại. Các ông hoàn toàn chịu sự điều khiển của tôi, không bao giờ được gây cho tôi bất cứ một điều khó khăn nào dù là rất nhỏ. Hai là, nếu chúng ta lấy lại được chiếc tàu thì ông phải đưa tôi cùng người giúp việc của tôi về đến nước Anh, không đòi hỏi công xá gì hết. ông ta rất thành khẩn hứa với tôi xin nhận những điều kiện đó. Quả không có một tấm lòng biết ơn nào có thể biểu lộ chân thành hơn. Tôi đưa cho mấy người bạn mới ba khẩu hóa mai cùng với thuốc đạn và tôi hỏi viên thuyền trưởng có mưu mẹo gì hay để điều khiển cuộc chiến đấu này không? ông ta trả lời xin hoàn toàn nhờ tôi chỉ huy và xin triệt để tuân theo mệnh lệnh của tôi. Tôi bảo ông:
-Việc này cũng khá gay go đấy! Nếu ông muốn, chúng ta có thể nổ súng vào quân địch trong khi chúng đương nằm ngủ. Những tên nào may phúc thoát khỏi đợt súng đầu tiên mà muốn qui hàng thì sẽ được tha. Viên thuyền trưởng tỏ ý không muốn giết chết quân địch nếu còn có thể trừng phạt chúng bằng cách khác. ông nói thêm:
-Nhưng đối với hai tên đầu sỏ tôi đã nói vừa rồi thì phải thẳng tay trừng trị. Chính chúng ở trong bọn chủ mưu cuộc khởi loạn này. Nếu để chúng chạy thoát thì chúng ta sẽ lâm vào một tình thế gay go vô cùng. Thể nào chúng cũng dẫn tất cả thủy thủ trên tàu đến đây tiêu diệt chúng ta không còn một mống!
-Đã đành như thế!
-tôi trả lời.- Tôi nghĩ rằng ông cứ chú ý tới ý kiến đầu tiên của tôi; mọi hành động tự vệ khi cần thiết đều chính đáng. Tuy nhiên, thấy ông vẫn có ý ngần ngại không muốn làm đổ máu nhiều, tôi bảo ông hãy cứ tiến lên trước với hai người bạn mà tùy cơ ứng biến, chúng tôi sẽ sẵn sàng tiếp ứng. Trong khi chúng tôi bàn tán với nhau, có hai tên đứng dậy đi ra chỗ khác. Tôi hỏi viên thuyền trưởng có phải đó là hai tên chủ mưu không? ông ta trả lời không phải. Tôi bèn bảo:
-Được lắm, ta để cho chúng thoát! Cũng may cho chúng bỗng nhiên lại thức giấc dậy để được khoan hồng. Còn những tên kia, nếu chúng lọt khỏi tay ông thì hoàn toàn tại ông đấy nhá!
Viên thuyền trưởng phấn khởi cùng hai người bạn tiến về phía bọn khởi loạn, một khẩu hỏa mai trên tay và một khẩu súng ngắn ở thắt lưng. Hai người bạn của ông đi trước một vài bước đã vô ý gây một tiếng động làm cho một tên địch thức giấc. Tên này vừa kêu ầm lên để gọi đồng lőa dậy thì hai người kia liền nổ súng. Viên thuyền trưởng vẫn bình tĩnh, nhắm thật đúng mấy tên cầm đầu và bắn chết ngay một tên tại trận. Còn tên kia, mặc dầu bị thương nặng vẫn cố đứng vùng dậy kêu cứu ầm lên. Viên thuyền trưởng tiến lại gần, bảo hắn rằng bây giờ thì đã quá muộn để kêu cứu rồi và kết liễu đời hắn bằng một phát đạn rất chính xác. Thắng lợi coi như đã về hẳn phía chúng tôi. Quân địch chỉ còn có ba tên mà một đứa đã bị thương nhẹ. Vừa thấy tôi đến tiếp viện cho viên thuyền trưởng, chúng tự thấy mình không đủ sức chống cự bèn xin hàng. Viên thuyền trưởng bằng lòng khoan hồng cho chúng với điều kiện là chúng phải biết hối cải và hết sức giúp ông chiếm lại được chiếc tàu để đưa về Gia-ma-ích-cơ, nơi họ đã ra đi lần trước. ông cũng nói thêm sở dĩ chúng được khoan hồng là vì ông biết chúng không phải là người xấu; bây giờ được dịp lập công chuộc tội, chúng nên nắm lấy dịp tốt này. Bọn chúng cam đoan rằng thuyền trưởng có thể hoàn toàn tin ở sự hối hận và lòng trung thành của chúng. Chúng mừng rỡ không thể tả khi nghe viên thuyền trưởng tuyên bố tha chết cho chúng. Thật là hợp ý tôi; nhưng tôi cũng bàn với viên thuyền trưởng hãy cứ tạm thời trói và giam chúng lại trong khi còn ở trên đảo. Mọi việc đều êm thấm quá sự mong ước của chúng tôi. Thứ sáu và viên thuyền phó đưa chiếc xuồng vào một chỗ chắc chắn rồi lấy hết cả bơi chèo và buồm cất đi. Vừa lúc đó, hai tên thủy thủ kia nghe thấy tiếng súng đã quay trở lại. Thấy viên thuyền trưởng đã là kẻ chiến thắng, chúng qui hàng ngay và bằng lòng tạm thời chịu trói giam như bọn kia.
Tôi bàn với viên thuyền trưởng bây giờ cần phải tìm cách chiếm lại chiếc tàu. ông ta nghe theo ngay nhưng đồng thời cũng thú thật rằng chưa nghĩ ra kế gì cả. ông cho tôi biết hiện giờ trên tàu hãy còn hai mươi sáu tên nữa; tên chỉ huy hung bạo nhất vẫn ở lại trên đó. Nhất định chúng sẽ liều lĩnh chống lại đến cùng, yên trí rằng dù có đầu hàng thì khi về tới nước Anh, chúng vẫn bị đem ra tòa xét xử và bị treo cổ vì đã khởi loạn chiếm tàu. Còn cách nào tấn công vào cái bọn liều mạng ấy với một nhúm người như thế này? Lý lẽ đó của ông hoàn toàn đúng và thế là đành bó tay mà nhìn, trừ phi từ bây giờ cho đến khi chúng nhổ neo, chúng tôi có thể dử chúng vào một cái cạm bẫy nào đó mà tiêu diệt. Tôi tin chắc rằng thấy đồng lõa mất hút thể nào bọn trên tàu cũng ngạc nhiên và đem nốt chiếc xuồng thứ hai vào bờ xem xét tình hình. Nếu bọn này đông và đầy đủ khí giới thì khó mà chống cự được. Tôi bàn với ông thuyền trưởng trước hết phải đánh đắm ngay chiếc xuồng của chúng ở đây để chúng không thể đưa về tàu chở thêm người vào được. ông ta tán thành ngay. Chúng tôi tìm trong xuồng còn gì thì lấy ra hết. Kết quả được hai chai rượu mạnh, một ít bánh khô, một gói đầy thuốc súng, một tảng đường nặng chừng sáu cân bọc trong một miếng vải to. Tất cả những thứ đó làm cho tôi thích thú vô cùng, nhất là rượu mạnh và đường mà tôi đã gần quên mất cả mùi vị. Sau khi đem hết những thứ ấy lên bờ, chúng tôi đục một lỗ hổng khá lớn ở đáy xuồng. Như vậy, nếu chúng có muốn đổ bộ lên bờ khá đông để hòng áp đảo chúng tôi thì chiếc xuồng này cũng không giúp ích được gì cho chúng. Thực ra mà nói, tôi cũng ít mơ tưởng đến việc giành lại chiếc tàu. Tôi chỉ mong nếu chúng bỏ đi mà để cái xuồng này lại thì chúng tôi sẽ trám kín lỗ hổng và sửa chữa cho tử tế để vượt biển sang gặp những người bạn Tây-ban-nha mà không giờ phút nào tôi lãng quên. Lúc này mà có họ ở đây thì chúng tôi chứa chan há vọng chiếm lại chiếc tàu và sau đó cầm chắc trong tay sẽ được trở về Tổ quốc. Chẳng những đã đục vào đáy xuồng một lỗ hổng khá lớn để không thể trám lại dễ dàng, chúng tôi còn cố hết sức đẩy xuồng vào sâu trong bờ để dẫu nước triều có lên cao cũng không thể tràn tới mà cuốn nó đi được. Đương hì hà hì hục đẩy xuồng, chúng tôi nghe thấy một tiếng đại bác, đồng thời thấy trên tàu ra dấu hiệu thường lệ để gọi xuồng trở về.
Nhưng mặc cho chúng hết hơi ra dấu hiệu và bắn thêm mấy phát súng nữa, chiếc xuồng vẫn ỳ ra đó, bướng bỉnh cưỡng lại lệnh như thường. Ngay lúc đó, qua kính viễn vọng, chúng tôi thấy bọn trên tàu hạ chiếc xuồng thứ nhì xuống biển rồi chèo thật nhanh vào bờ. Khi chúng tới vừa đúng tầm ngắm, chúng tôi đếm được rő ràng mười đứa và đứa nào cũng mang súng. Bị nước thủy triều cuốn đi, chúng bắt buộc phải men theo bờ biển để có thể ghé vào đúng chỗ chiếc xuồng trước. Nhờ thế, chúng tôi đã theo dõi phân biệt được nét mặt chúng rõ ràng một lúc khá lâu. Viên thuyền trưởng không bỏ lỡ dịp để nhận xét chúng thật tường tận và nhận ra trong bọn ấy có mấy tay thanh niên rất tốt, chắc chắn bị bọn kia dùng sức mạnh ép buộc nên miễn cưỡng phải theo chúng. Nhưng bọn kia và tên hạ sĩ đương chỉ huy chiếc xuồng thì đúng là những tên gian ác nhất trong bọn chúng. Bọn này chắc chắn không bao giờ chịu trở về con đường lương thiện. Viên thuyền trưởng có ý lo lực lượng chúng mạnh hơn, sẽ gây nhiều khó khăn cho chúng tôi. Tôi mỉm cười nói với ông rằng những con người sống trong hoàn cảnh chúng ta thì phải cứng bóng vía, không nên sợ sệt. Tôi nói tiếp:
-Nếu ta sợ chúng thì việc chúng tôi cứu sống các ông còn có ý nghĩa gì nữa! Ta cứ mạnh dạn lên xem nào! Tôi nghĩ trong tất cả cái việc lôi thôi này chỉ có mỗi một điều khó nghĩ. ông ta vội hỏi:
-Điều gì?
-Trong cái nhúm người kia lại còn lọt vào mấy người lương thiện cần phải lưu ý tha thứ cho họ.
Nếu tất cả đều là quân bất lương thì thật vô phúc cho chúng đã bỏ chiếc tàu mà dẫn xác đến đây, nộp mạng. ông cứ tin ở tôi. Nếu ông muốn thì tất cả bọn kia sẽ nằm gọn lỏn trong tay chúng ta và số phận chúng sẽ do ta định đoạt. Giọng nói cương quyết và thái độ lạc quan của tôi làm cho ông cũng mạnh dạn lây và rất sốt sắng giúp tôi chuẩn bị cuộc chiến đấu. Vừa thoáng thấy chiếc xuồng bắt đầu tiến về phía chúng tôi, chúng tôi tách bọn tù ra và đem giam vào những chỗ chắc chắn. Trong bọn tù, có hai tên chưa được viên thuyền trưởng tin bằng những người kia. Tôi bèn bảo Thứ sáu và người bạn viên thuyền trưởng đem giam chúng vào trong cái động đá mới tìm thấy. Như vậy, chẳng ai có thể thấy mặt hoặc nghe tiếng chúng được. Dẫu có tự cởi trói được thì chúng cũng không thể nào tìm ra đường trốn qua rừng rậm. Tôi để cho chúng một ít lương ăn và giao hẹn nếu chúng biết phục tùng mà ngồi yên ở đó thì chỉ vài hôm nữa sẽ được tự do; nhược bằng chúng trở quẻ muốn tìm cách trốn thì nhất định không được khoan hồng. Chúng hứa sẽ kiên tâm chịu đựng sự giam cầm và tỏ vẻ biết ơn tôi đã để lại cho chúng lương thực. Thứ sáu đem đến cho chúng mấy ngọn nến, chúng cảm ơn rối rít và cứ tưởng thể nào Thứ sáu cũng đứng gác ngoài cửa động. Những người tù khác thì may mắn hơn. Họ được viên thuyền trưởng bảo lĩnh nên được ở lại với chúng tôi. Họ mừng rỡ vô cùng và hứa xin hết sức trung thành, dù chết cũng không nề. Thế là lực lượng chúng tôi gồm tám người có đầy đủ khí giới. Thừa sức trị nổi bọn bất lương. Vả lại trong bọn ấy còn có ba bốn người lương thiện thì sức chống cự của chúng sẽ bị giảm sút không ít. Tới chỗ chiếc xuồng thứ nhất, bọn bất lương đẩy chiếc xuồng thứ nhì lên bờ cát. Tất cả bọn đều ra khỏi xuồng, kéo hẳn xuồng lên bờ. Tôi mừng hết sức bởi vì nếu chúng neo xuồng xa bờ một chút và cắt một vài tên canh gác thì chúng tôi khó lòng chiếm được. Chúng ngạc nhiên thấy chiếc kia đã bị thủng ở đáy và mất hết chèo buồm. Một lát sau, chúng cùng kêu váng lên hai ba tiếng thật lớn để gọi bọn lên trước. Không thấy tăm hơi bọn kia, chúng bèn đứng quây thành một vòng tròn và bắn chỉ thiên đều một loạt, tiếng nổ vang lên khắp cánh rừng. Nhưng nào được ích gì! Bọn tù trong động đá không thể nghe thấy tiếng súng, còn những người đã về với chúng tôi thì không dại gì mà trả lời chúng. Vẫn không thấy động tĩnh, chúng có vẻ xớn xác và ngạc nhiên vô cùng. Hình như chúng quyết định trở về tàu báo tin chiếc xuồng trước đã bị đánh đắm, bè lũ chúng chắc là đã tiêu mạng cả rồi. Chúng tôi thấy chúng hò nhau đẩy xuồng ra biển và trèo lên tất cả.
Nhưng vừa ra khỏi bờ, chúng lại quay trở vào, có lẽ đã nghĩ ra được một cách gì khác để tìm bọn mất tích. Chúng để lại ba tên coi xuồng còn bao nhiêu đều trở lên bờ đi tìm đồng lõa. Cách bố trí ấy của chúng gây trở ngại lớn cho chúng tôi. Nếu chiếc xuồng mà thoát khỏi tay chúng tôi thì dù có tóm được cả bảy tên trên bờ cũng chẳng nên công chuyện gì! Bọn canh xuồng thấy động tất nhiên sẽ nhảy lên xuồng chạy trốn về tàu; đến nước ấy nhất định chiếc tàu sẽ giương buồm đi thẳng và thế là chúng tôi sẽ mất hết há vọng cướp lại chiếc tàu. Oái oăm hơn nữa là bọn này lại chuyển chiếc xuồng ra ngoài xa và bỏ neo cách bờ một quãng. Cơ sự này thì bao nhiêu điều mưu tính trước đều đổ nhào cả. Chúng tôi đành chờ xem tình thế xoay chuyển ra sao để liệu bề tính kế. Bảy tên lên bộ đi sát nhau thành hàng chữ nhất như dàn trận mà tiến về phía trái núi bên nhà tôi. Nhờ thế, chúng tôi thấy chúng rất rõ ràng mà chúng không thể thấy chúng tôi được. Chúng tôi rất mong chúng lại gần hơn nữa để nổ súng vào chúng dễ dàng, hoặc là chúng đi ra xa hơn để chúng tôi ra khỏi chỗ nấp mà không bị lộ.
Lên tới đỉnh núi, ở đó có thể nhìn bao quát được một phần lớn cánh rừng và những thung lũng trong đảo, nhất là về phía đông bắc là phía thấp hơn hết, chúng lại gọi ầm lên cho đến lạc cả giọng. Hình như chúng không dám liều lĩnh đi sâu vào nữa, sợ gặp nguy hiểm; chúng lại ngồi xuống bàn cãi lung tung. Nếu lúc đó chúng thấy mệt mà có "sáng kiến" muốn nằm ngủ thì tốt quá! Nhưng quả là chúng đã lo sợ đến nỗi không còn đầu óc nào nghĩ đến nằm ngủ nữa, mặc dầu chúng chưa biết mảy may gì về tai họa đương đe dọa chúng. Theo dői cử chỉ và thái độ của chúng, viên thuyền trưởng đoán già rằng chúng sẽ nổ một loạt súng thứ hai nữa để làm hiệu cho đồng lõa. ông bèn bàn mưu là sau khi chúng bắn xong chưa kịp nạp đạn, tất cả chúng ta sẽ nhảy xổ tới dùng vũ lực bắt chúng phải qui hàng, như thế thì sẽ không phải đổ một giọt máu nào. Mẹo ấy quả thật hay nhưng phải làm cho thật đúng lúc, gọn và nhanh. Muốn vậy, phải tiến lại thật gần để chúng không kịp trở tay được.
Nhưng mưu thần ấy cũng tan ra mây khói vì không gặp được cơ hội. Chúng tôi cứ nhìn nhau một hồi lâu, chẳng biết tính liệu ra sao! Cuối cùng, theo ý tôi, phải chờ trời tối vậy. Nếu đến tối mà chúng chưa trở về tàu thì sẽ kiếm cách chặn đường chúng ra bờ biển rồi liệu kế trà trộn với chúng cùng lên xuồng mà bắt buộc chúng phải trở vào bờ. Như thế kể cũng phiêu lưu thật nhưng cũng không có cách gì khác. Chúng bàn cãi một hồi lâu trên đỉnh núi rồi đứng cả dậy kéo nhau ra phía bờ biển. Thôi thế là hỏng bét cả rồi! Có lẽ chúng đã hình dung một cách khủng khiếp những tai nạn đương chờ chúng ở hòn đảo hoang vắng này! Bởi thế cho nên chúng mới trở về tàu, tiếp tục cuộc hành trình, bỏ mặc bọn đồng lõa đã biệt tăm biệt tích. Thấy chúng quay trở ra tàu đột ngột như thế, viên thuyền trưởng như cháy cả ruột gan. Để đối phó với tình thế gay go đó, tôi bèn nghĩ ra một mưu bắt chúng phải quay trở lại chỗ cũ và quả nhiên chúng tôi đạt được kết quả mong muốn. Tôi phân công viên thuyền phó và Thứ sáu làm nhiệm vụ dử địch. Hai người sẽ qua bên kia cái vịnh nhỏ ở phía tây, tới chỗ hồi trước tôi đã cứu Thứ sáu khỏi bọn thù địch. Tới một ngọn đồi nào đó, họ sẽ hú ầm lên và đứng lại cho đến lúc biết chắc là những quân kia đã nghe tiếng họ.
Nghe bọn kia trả lời thì họ lại hú lên một tiếng nữa rồi tiếp tục đi thành một đường vòng cho kín đáo. Tới mỗi ngọn đồi, họ lại hú lên như thế để dử quân địch đi sâu dần vào trong rừng. Cuối cùng, họ sẽ theo một con đường riêng trở về chỗ chúng tôi nấp. Bọn kẻ cướp mới bước chân vào xuồng thì những tiếng hú thứ nhất vang tới. Vừa nghe thấy, chúng nhảy bổ ra, chạy vội lên mé bờ biển phía tây tức là theo hướng tiếng kêu. Bị cái vịnh nhỏ chắn lại, chúng không thể qua bên kia được vì nước triều đang lên to lắm. Thế là chúng phải đem chiếc xuồng lại để vượt qua vịnh, đúng như tôi đã dự tính, trước khi đưa chúng vào bẫy. Qua được bên kia, chúng đem giấu xuồng vào một chỗ kín ở sâu trong vịnh rồi kéo nhau đi, chỉ để lại hai tên trông xuồng. Bọn này đem xuồng buộc vào một cây to gần đó. Thật là quá hợp ý muốn của tôi. Trong khi Thứ sáu và viên thuyền phó tiếp tục nhiệm vụ, chúng tôi đi vòng sang bên kia vịnh rồi bất ngờ đánh úp bọn gác xuồng. Một tên nằm trong xuồng, còn một tên nằm dài trên bãi cát, nửa ngủ nửa thức. Chúng tôi ập tới thì tên này thức dậy; hắn đương ngơ ngác thì viên thuyền trưởng đi trước đã nhảy xổ lại giáng cho một báng súng, hắn ngã lăn quay bất tỉnh. Tiếp đó, ông lên tiếng gọi tên trong xuồng và bảo nó phải qui hàng nếu muốn toàn mạng. Tên này cũng chẳng phải nghĩ ngợi lâu la gì.
Vốn cũng là một trong mấy người lương thiện miễn cưỡng theo bọn bất lương, anh ta qui thuận ngay và tình nguyện đi theo giúp chúng tôi hết sức. Trong lúc đó thì Thứ sáu và viên thuyền phó chơi trò ú tim khéo đến nỗi cứ vừa gọi vừa trả lời, họ đã dử bọn côn đồ từ ngọn đồi này qua ngọn đồi khác, làm cho chúng mệt lử và lúng túng chẳng biết đường nào mà lần. Họ chỉ buông tha chúng sau khi đã lừa chúng vào khá sâu trong rừng, không còn có thể mò trở ra xuồng trước khi trời tối mịt. Khi hai người về tới chỗ hẹn thì cũng đã mệt nhoài ra cả rồi. Nhưng họ vẫn còn rộng rãi thì giờ nghỉ ngơi vì chúng tôi quyết định chờ đêm đến mới tấn công vào bọn địch để dễ bề chiếm phần thắng. Bọn kia trở về đến gần chỗ để xuồng sau Thứ sáu mấy tiếng đồng hồ. Chúng tôi nghe rő ràng những tên đi trước giục bọn đi sau rảo bước. Nhưng bọn đi sau trả lời là chúng đang mệt gần chết, không nhấc nổi chân lên nữa. Nắm được tình hình địch như thế, chúng tôi lại càng vững lòng cầm chắc phần thắng trong tay. Chúng tỏ vẻ kinh hoàng quá sức khi thấy nước triều đã rút, chiếc xuồng nằm trơ trên bãi cát không người trông coi. Chúng gọi nhau í ới, nghe thật thảm hại. Chúng than thở với nhau rằng chúng đã vô phúc đặt chân lên một hòn đảo kỳ quái: nếu trên đảo có người thì chúng sẽ bị giết hết không còn một mống hoặc nếu có ma quỉ thì chắc chắn cả bọn sẽ bị nhai sống nuốt tươi. Chúng lại kêu ầm lên và gọi tụi đồng lõa từng tên một, nhưng chẳng có một ai trả lời. Trong lúc tranh tối tranh sáng, chúng tôi thấy chúng chạy ngược chạy xuôi, xớn xơ xớn xác, hai tay vặn nhau tỏ vẻ tuyệt vọng. Có lúc chúng chạy vào trong xuồng để nghỉ một chút cho đỡ sợ; nhưng rồi chúng lại nhảy ra khỏi xuồng, chạy tán loạn trên bãi cát chẳng hiểu đi đâu. Chúng loanh quanh như thế khá lâu và hốt hoảng hết sức. Các bạn của tôi đều muốn nhảy xổ ra đánh chúng cùng một lúc.
Nhưng tôi lại muốn thu hoàn toàn thắng lợi mà chỉ phải đổ rất ít máu. Tôi bèn cương quyết chờ, hi vọng chúng sẽ phân tán. Để ngăn không cho chúng trốn thoát, tôi tìm cách thu hẹp vòng vây lại dần. Tôi bảo Thứ sáu và viên thuyền trưởng trườn về phía chúng, càng gần càng tốt, nhưng đừng để bị lộ. Hai người vừa tiến được một đoạn thì tên hạ sĩ trên tàu tình cờ quay lại và đi về phía họ cùng với hai tên nữa. Chính tên hạ sĩ này là một trong những tên cầm đầu nhưng bây giờ, trong cơn nguy khốn, nó lại tỏ ra hèn nhát và tuyệt vọng hơn hết. Có lẽ nó định bỏ bọn kia mà đi trốn chăng! Nhưng quả là nó đã hết phúc. Viên thuyền trưởng rất mực căm thù tên khốn kiếp ấy. ông cố hết sức nén giận để bình tĩnh chờ nó lại gần mà hạ thủ cho chắc tay. May sao ông đã trấn tĩnh được và chỉ mấy phút sau, ông đã nhảy vùng ngay dậy cùng Thứ sáu và nổ súng luôn. Tên hạ sĩ bị bắn chết ngay; một tên khác trúng đạn bị thương ngã xuống, hai giờ sau thì cũng chết, còn tên thứ ba bỏ chạy trốn mất. Nghe tiếng súng, tôi chỉ huy "đại quân" xông lên. "Đại quân" của tôi gồm tám người: Tôi là tổng tư lệnh, Thứ sáu là phó tư lệnh, binh sĩ gồm có viên thuyền trưởng, hai người bạn của ông, ba người tù đã được tha và được cấp súng ống.
Đêm tối như mực, bên địch không thể nào biết được quân số của chúng tôi. Không bỏ lỡ cơ hội, tôi bảo anh thủy thủ gác xuồng vừa mới đầu hàng lúc chiều hãy lên tiếng gọi bọn chúng từng tên một và hỏi chúng có muốn qui thuận hay không? Quả là diệu kế; kể ra thì cũng dễ hiểu. Anh ta bèn gọi thật to:
-Này, Tô-mát Xmít! Tô-mát Xmít! Anh chàng tên là Tô-mát Xmít trả lời ngay sau khi nhận ra tiếng ai đã gọi mình:
-Anh đấy ư? Rốp-xơn? Rốp-xơn trả lời:
-Đúng đấy! Đúng đấy! Anh Tô-mát ơi! Còn đợi gì nữa? Hãy mau hạ khí giới xuống mà qui hàng ngay đi! Nếu không thì ngay giờ phút này các anh sẽ được đi theo ông vải không kịp trối trăng nữa! Xmít hỏi lại:
-Chúng tôi phải qui thuận ai? Họ ở đâu? Rốp-xơn trả lời, chắc chắn:
-Họ ở đây chứ ở đâu? ông thuyền trưởng với năm chục binh sĩ đã đi sục tìm các anh trong hai giờ đồng hồ rồi. Tên hạ sĩ hèn mạt đã bỏ mạng. U-uán Phờ-rây bị thương nặng, còn tôi thì là tù binh. Nếu các anh không chịu hàng thì khó mà toàn mạng. Xmít hỏi lại, có vẻ hoang mang:
-Nếu chúng tôi hạ khí giới xin hàng thì có được khoan hồng không? Rốp-xơn trả lời, có vẻ ngần ngừ:
-Để tôi phải hỏi ý kiến của thuyền trưởng đă! Viên thuyền trưởng bèn đích thân lên tiếng nói với Xmít:
-Các anh nghe rõ tiếng tôi nói đấy chứ? Nếu các anh qui hàng thì đều được tha tội chết, trừ át-kinh.
Vừa nghe thấy thế, tên át-kinh kêu rống lên:
-Trời ơi! ông thuyền trưởng ơi! Xin ông tha thứ cho tôi với! Nào tôi có làm gì tệ hơn những kẻ khác đâu! Họ cũng phạm tội như tôi cả đấy chứ! Thằng át-kinh nói dối! Chính nó, chính cái thằng át-kinh ấy, đã không tiếc tay làm nhục viên thuyền trưởng. Nó đã trói ông lại và chửi mắng ông thậm tệ.
Viên thuyền trưởng bảo nó rằng ông không hứa hẹn gì với nó cả, ông chưa thể có ý kiến gì khác về việc này, ông còn phải trông đợi ở lòng nhân đạo của vị chúa đảo. Chính ông ta dùng cái danh vị oai vệ ấy để tâng bốc tôi lên đấy; nhưng sau đấy, không ngờ cái hư vị ấy lại được việc vô cùng. Thế là tất cả bọn chúng đều hạ khí giới đầu hàng và xin tha chết. Tôi ra lệnh cho Rốp-xơn và hai người nữa tiến lên trói chúng lại. Sau đó, "đại quân" của chúng tôi, lúc năy nói phao lên là năm mươi người kỳ thực chỉ có vẻn vẹn tám người, tiến ra tước khí giới và bắt sống chúng cùng với chiếc xuồng đã mắc cạn. Riêng về phần tôi, vị chúa đảo, tôi phải đứng tách ra một nơi với một người tùy tòng, không ra mặt vì lý do cơ mật nhà nước. Bây giờ viên thuyền trưởng được toàn quyền nói chuyện với tất cả bọn tù binh. ông nghiêm khắc trách mắng chúng về tội bội phản. ông bảo cho chúng biết là tội ác của chúng có thể đưa đến cho chúng nhiều thảm họa và kết cục là cái giá treo cổ. Chúng lại càng tỏ vẻ hối hận vô cùng và một lần nữa chúng khúm núm xin được tha tội chết. Viên thuyền trưởng trả lời cho chúng biết chúng không phải là tù binh của ông mà là của vị chúa đảo. ông bảo chúng:
-Các anh tưởng đã thả chúng tôi lên một hòn đảo hoang vắng nhưng không ngờ hòn đảo này lại có người ở, hơn nữa lại có một vị chúa đảo người nước Anh. Vị chúa đảo có toàn quyền đem treo cổ tất cả các anh.
Nhưng để tỏ lượng khoan hồng, ngài sẽ cho giải các anh về nước Anh giao cho tòa án xét xử. Riêng với át-kinh thì tôi được lệnh bảo hắn hãy sẵn sàng chờ chết; sáng sớm mai hắn sẽ bị treo cổ. Câu chuyện bịa đặt như thế đã có kết quả không ngờ, át-kinh quỳ gục xuống cầu khẩn viên thuyền trưởng xin hộ với vị chúa đảo tha chết cho hắn và muốn bắt hắn làm gì hắn cũng xin tuân theo. Bọn kia thì cứ thề sống thề chết với ông ta là sẽ cố gắng hết sức chuộc tội để khỏi bị giải về nước Anh... Giờ thoát thân ra khỏi hòn đảo đã đến; tôi thấy phải nhân cơ hội mà nắm lấy tốp thủy thủ này làm lực lượng giúp chúng tôi chiếm lại chiếc tàu. Để đưa chúng vào tròng, tôi bèn đi ra xa, tránh không cho chúng biết vị chúa đảo là người thế nào, rồi ra lệnh triệu viên thuyền trưởng. Thế là có ngay một người đứng cách tôi dăm bước lên tiếng gọi:
-ông thuyền trưởng! Chúa đảo cho triệu ông! Viên thuyền trưởng vội vã trả lời:
-Vâng, nhờ ông bẩm hộ với ngài rằng tôi sẽ xin lại hầu ngay lập tức. Màn kịch đóng khéo quá! Quả nhiên bọn chúng mắc mưu và mười phần tin rằng vị chúa đảo đương ngự gần đây với năm chục binh sĩ hộ vệ. Gặp viên thuyền trưởng, tôi nói sơ lược cho ông biết ý định của tôi muốn chiếm lại chiếc tàu. ông phấn khởi tán thành và bàn tính ngày hôm sau sẽ khởi sự. Muốn tiến hành công việc cho chắc chắn hơn, tôi bèn phân tán bọn tù. át-kinh cùng hai tên nặng tội nhất trong bọn thì bị giam vào trong động đá, còn những tên khác được đem về trại, xung quang đã có bức lũy đá vây kín. Lũ này đã bị trói chặt và cũng thật lòng trông chờ ở lượng khoan hồng nên chắc chẳng bao giờ chúng dám nghĩ đến chuyện bỏ trốn. Hôm sau, viên thuyền trưởng đến tìm gặp mấy tên này để xem có thể dùng được chúng vào kế hoạch chiếm lại chiếc tàu không? ông ta khiển trách không tiếc lời những hành động bỉ ổi của chúng và nhắc tới số phận hẩm hiu đương chờ chúng. ông nhắc lại thêm để chúng biết rằng tuy được vị chúa đảo khoan hồng nhưng nếu bị giải về nước Anh thì cũng khó thoát được cái giá treo cổ. Sau đó, ông ta nói thêm:
-Tuy nhiên, nếu các anh hứa sẽ hết lòng hết dạ giúp tôi trong một việc rất chính đáng là chiếm lại chiếc tàu thì vị chúa đảo sẽ bảo đảm cho các anh thoát tội chết. Điều kiện đó quả đã có ảnh hưởng lớn đến bọn tù tội kia. Chúng đồng thanh hết lời hứa hẹn sẽ vì ông mà đổ đến giọt máu cuối cùng, sẽ theo ông đi suốt chân trời góc biển, sẽ không bao giờ dám phản bội ông, sẽ coi ông như bậc cha mẹ để tạ ơn cứu sống. ông ta bèn bảo chúng:
-Vậy thì được! Tôi sẽ vì các anh mà lên trình bày với vị chúa đảo những lời hứa hẹn của các anh. Tôi cũng sẽ cố hết sức kêu nài vị chúa đảo rủ lòng thương mà khoan thứ cho các anh. ông ta quay trở lại nói cho tôi biết kết quả câu chuyện và tỏ ý cũng có thể tin được ở lòng thành khẩn của chúng. Tuy nhiên, để đề phòng mọi sự bất trắc có thể xảy ra, tôi bàn với ông hãy nói cho chúng biết rằng ông sẽ chọn năm tên đi theo giúp ông chiếm lại chiếc tàu lập công chuộc tội. Vị chúa đảo sẽ giữ lại hai tên kia cùng với ba tên tù đương giam ở lâu đài để làm con tin, bọn này sẽ tức khắc bị treo cổ nếu đồng lõa của chúng có ý phản bội. Mệnh lệnh đó quả là nghiêm khắc, chứng tỏ vị chúa đảo không thích nói suông. Năm tên được chọn đi đều vui mừng nhận điều kiện đó; mấy tên bị tạm thời giữ lại cũng không tỏ ý phàn nàn. Viên thuyền trưởng lại khuyến khích chúng tìm con đường ngay thẳng mà đi nên chúng lại càng vững dạ. Lực lượng chúng tôi lúc đó như sau:
1. ông thuyền trưởng, viên thuyền phó và người hành khách cùng đi.
2. Hai tên bị bắt trong cuộc xô xát đầu tiên. Được ông thuyền trưởng bảo lĩnh, tôi đã cho chúng được tự do và giao súng.
3. Hai tên khác cũng bị bắt và bị trói giam trong trại của tôi nhưng theo yêu cầu của ông thuyền trưởng tôi cũng vừa mới thả cho tự do.
4. Năm tên tù vừa được thả sau cùng. Tính rõ như vậy thì có mười hai người tất cả, không kể năm tên làm con tin.
Đó là tất cả lực lượng mà viên thuyền trưởng có thể dùng để tìm cách chiếm lại chiếc tàu. Về phần tôi và Thứ sáu thì chúng tôi không thể rời đảo, hiện nay còn giữ lại bảy tên tù binh. Chúng tôi phải giam giữ chúng cách xa nhau và phải cho chúng ăn uống. Năm tên con tin trong động đá thì tôi thấy tốt nhất là cứ trói gô chúng lại đó; ngày hai bữa, Thứ sáu đem cơm nước cho chúng ăn uống. Còn hai tên kia, tôi sai chúng bưng thức ăn uống tới một nơi nào đó giao cho Thứ sáu. Tôi cùng đi với viên thuyền trưởng đến gặp bọn này. ông ta giới thiệu cho chúng biết tôi là người được vị chúa đảo cử đến để xem xét thái độ chúng.
Nhất thiết chúng không được đi đâu nếu không được tôi cho phép; trái lệnh sẽ bị bắt giam và bị cùm. Tôi đã đóng vai trò nay rất khéo và làm tăng uy tín của chúa đảo lên nhiều lắm. Phân công xong xuôi, viên thuyền trưởng cho hạ thủy hai chiếc xuồng và chuẩn bị mọi thứ cần thiết. ông giao cho người bạn của ông điều khiển một chiếc xuồng với một toán bốn người. ông ta cùng viên thuyền phó thân hành chỉ huy chiếc xuồng kia cùng bốn người còn lại. Đạo quân của ông sẽ là lực lượng chính đánh vào phía trước, còn toán quân kia sẽ vòng qua phía kia đánh bất ngờ, hai bên sẽ phối hợp thật chặt chẽ. Vào khoảng nửa đêm, tư lệnh thuyền trưởng cho xuất quân. Tới gần chiếc tàu, viên thuyền trưởng bảo Rốp-xơn gọi những tên trên tàu và nói cho chúng biết là đã đưa được chiếc xuồng thứ nhất cùng anh em trên đó trở về, sở dĩ chậm trễ là vì phải tìm họ lâu quá. Rốp-xơn kể con cà con kê cốt để lôi cuốn bọn trên tàu vào câu chuyện đó cho tới khi chiếc xuồng tới sát cạnh tàu. Viên thuyền trưởng cùng viên thuyền phó trèo lên tàu trước nhất và dùng báng súng quật ngã ngay hai tên địch, đúng là hai tên khá lợi hại trong bọn chủ mưu. Quân địch không kịp trở tay nên chỉ một loáng, toán quân của viên thuyền trưởng đã chiếm được tất cả sàn tàu. Họ đóng hết những cửa sàn lại để chặn không cho bọn ở dưới khoang trèo lên ứng cứu. Vừa lúc đó, toán quân ở xuồng thứ nhì cũng lên được phía mũi tàu, quét sạch sàn trước, kiểm soát cửa tàu thông với buồng gã đầu bếp và cầm tù luôn trong đó ba tên địch.
Sau khi làm chủ toàn bộ tầng trên, viên thuyền trưởng giao cho viên thuyền phó đem theo ba người xuống phá cửa buồng tên tổng chỉ huy bọn khởi loạn. Thấy biến, tên này vùng dậy, chộp luôn lấy súng, cùng với ba tên thủy thủ khác sửa soạn kháng cự. Viên thuyền phó lấy một thanh sắt phá được cửa buồng của chúng rồi cả mấy người cùng ập vào. Bọn địch bắn vào họ làm viên thuyền phó bị gãy cánh tay và hai người khác bị thương nhẹ. Mặc dầu bị thương, viên thuyền phó vẫn kịp thời dùng súng ngắn bắn vỡ sọ tên chỉ huy địch; viên đạn xuyên vào miệng hắn rồi xuyên ra sau tai. Thấy chỉ huy của chúng đã nằm chết thẳng cẳng, bọn kia đành phải xin hàng. Cuộc chiến đấu chấm dứt và viên thuyền trưởng giành lại được chiếc tàu không bị thiệt hại gì thêm nữa. ông ta cho bắn bảy phát đại bác để báo tin thắng trận về đảo; đó là dấu hiệu chúng tôi đã dặn nhau từ trước. Tôi đứng trên bờ chờ đợi từ khi hai chiếc xuồng ra đi cho đến lúc bấy giờ là hai giờ sáng. Các bạn cũng đoán được là nghe mấy tiếng súng ấy, tôi hả hê biết chừng nào! Tôi trở về nằm vật ra giường đánh một giấc thật ngon lành sau một ngày và gần một đêm tinh thần và thể chất mệt nhọc hết sức. Một tiếng đại bác thức tôi tỉnh dậy. Vừa mở mắt, tôi đã nghe tiếng gọi tên tôi với danh vị "chúa đảo". Tôi nhận ra ngay tiếng viên thuyền trưởng đương đứng chờ tôi trên đỉnh núi sau nhà. Tôi vừa trèo lên thì ông ta đã âu yếm ôm lấy tôi và chỉ tay ra phía chiếc tàu, ông nói:
-Bạn thân mến và ân nhân của tôi ơi! Chiếc tàu của ông đã về đấy! Nó thuộc quyền ông cũng như tất cả anh em chúng tôi và đồng thời tất cả tài sản của chúng tôi đều do ông định đoạt.
Tôi quay nhìn ra biển khơi và thấy rõ ràng chiếc tàu bỏ neo cách bờ chừng một phần tư dặm đường. Sau khi chiếm lại được tàu, viên thuyền trưởng đã cho kéo buồm lên và nhân được gió ông đưa chiếc tàu vào tận cửa vịnh gần chỗ tôi ở. Vừa dịp nước thủy triều lên, ông đi xuống và ghé ngay trước ngõ nhà tôi. Nhất định phen này tôi thoát khỏi hòn đảo. Cuộc sống ở đây dù càng ngày càng được nâng cao lên bao nhiêu nữa cũng không thể làm giảm mơ ước được trở về Tổ quốc thân yêu, gặp mặt gia đình sau gần ba mươi năm xa cách. Điều kiện thuận lợi lắm rồi! Một chiếc tàu rất tốt sẵn sàng chở tôi đến bất cứ nơi nào tôi muốn. Hạnh phúc đến thật bất ngờ; tôi vui mừng quá đỗi, đứng lặng đi một lúc không nói ra lời. Nếu không có viên thuyền trưởng đương ôm lấy tôi thì có lẽ tôi đã ngã ngất đi được. Thấy vậy, viên thuyền trưởng đưa cho tôi một cốc nước ngọt mà ông đã đem theo sẵn. Uống nước ngọt xong, tôi ngồi phịch xuống đất và tỉnh lại dần. Nhưng cũng phải một lúc lâu sau tôi mới nói chuyện với ông ta được. Viên thuyền trưởng cũng sung sướng không kém gì tôi, nhưng ông ta vẫn giữ được bình tĩnh. ông thân mật nói hết chuyện này đến chuyện khác, luôn luôn tỏ lòng biết ơn tôi, dần dần làm cho tôi tỉnh được cơn mê hoảng vì sung sướng.
Tôi khóc nức nở một lúc rồi mới nói lên thành tiếng. Bây giờ lại đến lượt tôi ôm lấy ông, coi ông là người đến giải thoát cho mình. Tôi nói với ông là số mệnh cả hai chúng tôi hình như đã gắn bó với nhau từ bao giờ và như thế quả là may mắn cho tôi hết sức. Tôi đã chịu đựng biết bao nhiêu gian lao khổ ải trên hòn đảo hoang vắng này. Với một lòng tin tưởng không bờ bến vào ngày được giải thoát, tôi đã vượt qua tất cả những gian lao khổ ải ấy, và ngày nay quả nhiên tôi sắp được thoát khỏi nơi giam cầm để trở về Tổ quốc thân yêu. Thấy tôi đã trở lại bình thường, viên thuyền trưởng cho đưa quà lên biếu tôi. Quà biếu gồm rất nhiều thứ quí giá và rất hợp với ý tôi: nào rượu các loại, thịt, đường, rồi nào bột, thuốc lá...; nhưng đúng lúc nhất và tôi thích nhất là mấy bộ áo quần rất tốt và đầy đủ cả giày, mũ, bao tay, bít tất, xứng đáng với một vị chúa đảo. Bây giờ chúng tôi phải lo giải quyết cho bọn tù. Tất nhiên chúng tôi không thể cho chúng cùng xuống tàu được, nhưng cũng phải thu xếp cho chúng một đời sống chắc chắn. Tôi bảo Thứ sáu đem hai tên con tin vừa mới được trả lại tự do và năm tên bị trói giam ở hang đá về trại, giữ chúng lại đó để chờ tôi đến. Tôi cùng đi với viên thuyền trưởng đến gặp chúng. Lần này, thì đích danh chúa đảo là tôi. Một tên thay mặt cả bọn trình bày với chúng tôi rằng bọn chúng chẳng dám kêu nài gì cả, nhưng viên thuyền trưởng đã hứa sẽ tha chết cho chúng nên bây giờ chúng xin được khoan thứ. Tôi bảo cho chúng biết bây giờ tôi chẳng biết lấy gì mà ra ơn cho chúng bởi vì tôi đã nhận lệnh từ giã đảo này cùng với thuộc hạ lên tàu trở về nước Anh. Về phía viên thuyền trưởng thì ông ta chỉ biết trói chúng lại giải về nước Anh giao cho tòa án xét xử và tất nhiên chúng không sao thoát khỏi giá treo cổ. Như vậy theo ý tôi thì không có cách nào hơn là chúng phải ở lại đảo này mà sinh sống. Sau này, nếu chúng tỏ ra biết thực lòng hối cải và tự gây dựng lấy một cuộc sống cần cù và lương thiện ở đây thì sẽ có há vọng được tha thứ. Chúng cảm ơn tôi rối rít và nhận ngay điều kiện tôi vừa đưa ra. Chúng tỏ ý thà rằng được ở lại đây còn hơn là chạy theo số phận đương chờ chúng ở nước Anh. Nhưng viên thuyền trưởng giả vờ không đồng ý và cứ khăng khăng một mực không dám tán thành cách giải quyết đó. Tôi bèn làm bộ không bằng lòng và nói thẳng với ông ta rằng chúng là tù của tôi chứ không phải của ông ta. Tôi đã hứa sẽ tha chết cho chúng thì tôi có bổn phận phải giữ lời hứa với chúng; mọi việc xảy ra sau này với tòa án bên nước Anh thì tôi sẽ chịu trách nhiệm. Nếu ông vẫn còn muốn kỳ kèo lôi thôi thì tôi sẽ thả chúng ra như trước, rồi mời ông cứ việc đuổi theo mà bắt chúng lại nếu ông muốn.
Nói thế và tôi làm ngay. Tôi ra lệnh cởi trói cho chúng rồi bảo chúng đi ngay vào rừng. Tôi hứa sẽ để lại cho chúng súng ống, thuốc đạn và những lời chỉ dẫn cần thiết để giúp chúng có thể sống được tương đối đầy đủ ngay từ lúc đầu nếu chúng làm theo những lời chỉ dẫn đó. Tôi không lo ngại cho đời sống của chúng, vì như các bạn đã biết, trên đảo này chúng tôi đã chuẩn bị chu đáo một cuộc sống lâu dài và có tổ chức. Tuy vậy, tôi cũng sẽ cố gắng để lại thêm cho chúng thật đầy đủ lương thực và đồ dùng. Tôi ngỏ ý với viên thuyền trưởng là tôi còn muốn ở lại trên đảo tối hôm đó nữa để chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho cuộc hành trình. Tôi yêu cầu ông ta cứ trở về tàu sắp xếp mọi việc đâu vào đó, sáng hôm sau sẽ cho một chiếc xuồng nhỏ vào bờ đón tôi và Thứ sáu. Sau khi từ giã viên thuyền trưởng, tôi cho gọi bọn tù lại nhà tôi ở và nghiêm trang nói chuyện với chúng về tình cảnh của chúng. Tôi khen chúng đã khôn ngoan biết chọn con đường sống và hứa sẽ đối xử rất tốt với chúng trước khi ra đi. Biết chắc chắn là chúng sẽ nhất quyết ở lại
-mà thực ra không còn con đường nào khác
-tôi bèn bày bảo cho chúng hiểu rõ tất cả chi tiết về đảo này, cách trồng thóc lúa, cách phơi nho, cách làm bánh...
Nói tóm lại, tôi hướng dẫn cho chúng tất cả những điều có thể giúp chúng sống khá thoải mái và đầy đủ. Tôi giao lại cho chúng tất cả khí giới của tôi gồm một số súng hỏa mai, ba khẩu súng săn và ba thanh gươm. Tôi vốn tiết kiệm nên vẫn còn dành được hơn một thùng thuốc súng, bây giờ cũng để lại cả cho chúng. Tôi bày cho chúng cách chăn nuôi đàn dê, cách vỗ cho dê béo, cách vắt sữa và làm bơ với pho-mát. Sau hết, tôi còn hứa với chúng sẽ điều đình với viên thuyền trưởng để lại thêm cho chúng một số thuốc súng kha khá và một ít hạt giống các thứ rau để trồng; trong hoàn cảnh như chúng mà được những hạt giống rau như thế thì phải biết là quí. Tôi lại cho chúng luôn cả một bì đầy hạt đậu mà viên thuyền trưởng vừa mới biếu tôi, nếu chúng biết chăm nom trồng trịa cẩn thận thì sẽ hái được nhiều hạt vô kể. Cuối cùng, tôi còn hẹn với chúng nếu có điều kiện thì sẽ kiếm một chiếc tàu sang đây tìm chúng. ( Việc này về sau tôi cũng thực hiện được. Nhưng vì đã gây dựng cơ nghiệp ở đây nên chẳng ai xin về nước). Tôi cũng không quên nói cho chúng biết câu chuyện những người bạn Tây-ban-nha, ít lâu nữa họ cũng sẽ đến đây sinh sống. Tôi giao cho chúng một bức thư gửi cho họ và dặn đi dặn lại chúng phải ăn ở rất tốt với những người này. Tôi giới thiệu với chúng là ông bạn Tây-ban-nha của tôi, trước kia đã ở đây, sẽ thay tôi cai quản đảo này. Khí giới, đồ dùng, lương thực sẽ giao lại cho ông ấy đầy đủ và sẽ do ông phân phối sau, theo như tôi đã dặn trong thư. Đặc biệt, thái độ của chúng đối với ông sẽ có ảnh hưởng lớn đến việc xét tha thứ cho chúng sau này. Chúng nhất nhất vâng lời ông. Thực ra, đối với tôi, để các bạn Tây-ban-nha ở lại đây là một việc bất đắc dĩ. Tôi đã bàn đi bàn lại nhiều với ông thuyền trưởng nhưng hiện tình trên tàu sau cuộc khởi loạn không thể cho phép ông lưu lại đây lâu nữa. ông ta hứa với tôi trong những chuyến đi sau này, nếu thuận đường sẽ tìm cách ghé vào đây liên lạc với họ. đoạn kết Ngày hôm sau, tôi từ giã bọn tù ở lại và lên xuồng ra tàu. Nhưng suốt hai hôm liền bị trái gió, chúng tôi chưa kéo buồm lên được. Trước khi nhổ neo, trên tàu cho một chiếc xuồng vào bờ đem theo lương thực đã hứa để lại cho những kẻ "bị đày". Thêm vào đó, theo yêu cầu của tôi, còn có cả những hòm quần áo và đồ dùng riêng của chúng nữa. Chúng rất cảm ơn khi nhận được những thứ đó. Chiếc xuồng quay trở lại. Tàu nhổ neo, kéo buồm lên đường.
Từ giã đảo, tôi đem theo làm kỷ niệm một chiếc mũ lớn bằng da dê, chiếc dù và con vẹt của tôi. Tôi cũng không quên những số tiền trước kia đã lấy được trên tàu đắm. Cái đống tiền ấy đã bị bỏ quên và vùi lấp đi bao lâu nay, bây giờ han gỉ cả, phải đánh sạch sẽ lại mới tiêu dùng được. Tôi rời bỏ hòn đảo, lên đường về Tổ quốc cùng Thứ sáu trung thành của tôi vào ngày 18 tháng 12 năm 1686, theo lịch trên tàu, sau hai mươi tám năm hai tháng và mười chín ngày lưu lạc trên đảo vắng. Ngày giải thoát khỏi cuộc đời cô đơn cũng lại đúng là hôm kỷ niệm ngày tôi thoát khỏi Xa-lê trên chiếc thuyền cướp được của tên cướp biển Thổ-nhĩ-kỳ. Cuộc hành trình lần này thật là thuận buồm xuôi gió. Tôi đặt chân lên nước Anh, Tổ quốc thân yêu của tôi vào ngày 11 tháng 6 năm 1687, sau khi xa đất nước ba mươi lăm năm trời.