Tào Tháo đời Tam Quốc (220-264) có xây một cái đài bên sông Chương Hà tỉnh Hà Nam, đặt tên là Đồng Tước. Đài này cực kỳ tráng lệ. Tháo sai người trang hoàng tô điểm rất lộng lẫy, rồi tuyển gái đẹp khắp vùng đem chứa vào trong.
Tào Tháo có đứa con nhỏ tên Tào Thực, tự Tử Kiến có tài hạ bút thành văn. Khi xây xong đài Đồng Tước, Tháo sai con làm bài phú "Đồng Tước đài" để ca tụng công nghiệp của Tào. Bài phú rất đặc sắc:
Bản dịch của Tử Vi Lang:
Noi đức sáng thánh quân rực rỡ
Lên lầu đài hớn hở lòng xuân.
Xem công Thái Thú chăn dân,
Đức cao vời đã thấm nhuần nơi nơi.
Dựng lên giữa lừng trời xanh ngắt,
Đài nguy nga bát ngát không trung.
Mỹ quan nào kém non Bồng,
Gác cao, tây vực nhìn thông nẻo đoài.
Dòng Chương Thủy chảy dài trong suốt
Tưới nhuần vườn cây tốt quả tươi...
Hai bên tả hữu hai đài:
Ngọc Long, Kim Phượng sáng ngời ánh dương.
Bắc hai cầu tây đông nối lại
Như cầu vồng sáng chói không gian.
Ngồi cao nhìn xuống cõi trần,
Đế đô mây ráng xoay vần nổi trôi...
Mừng rỡ thấy anh tài qui tụ,
Ứng mộng hùng chuyện cũ Văn Vương.
Gió xuân đầm ấm đưa hương,
Muôn chim đua hót du dương hài hòa.
Cao đẹp tựa trời mây muôn thủa,
Phúc nhà may chất chứa dài lâu.
Khắp cùng vũ trụ nhiệm mầu,
Đề cao nhân hóa, kính chầu thượng kinh.
Noi Tề, Tấn nghĩ mình hưng thịnh,
Phò thánh minh cùng sánh công laọ
Xinh tươi bền vững biết bao!
Ơn sâu nước ngấm, đức cao xa đồn.
Phò tá đấng Chí Tôn gìn giữ
Xây thái bình thịnh trị bốn phương.
Phép trời khuôn đất đo lường.
Ánh trăng cùng với ánh dương điều hòa.
Tôn quý ấy truyền xa mãi mãi,
Thọ vô cùng, thọ với chúa Xuân!
Ngự long kỳ buổi an nhàn,
Hoặc khi vội vã, xe loan trở về.
Ơn giáo hóa tràn trề bốn biển
Vui mầng thay vật kiện dân khang!
Đài nầy đứng mãi hiên ngang,
Điểm tô kim cổ, son vàng thắm tươi..."
Nguyên văn:
Tòng minh hậu dĩ hì du hề,
Đăng tầng đài, dĩ ngu tình.
Kiến Thái Thủ chi quảng khai hề.
Quan thánh đức chi sở dinh
Kiến cao môn chi tha nga hề,
Phù song Khuyết hồ Thái thanh.
Lập trung thiên chi hoa quan hề,
Liên phi các hồ Tây vực.
Lâm Chương Thủy chi trường lưu hề,
Vọng viên quả chi tư vinh.
Lập song đài ư tả hữu hề,
Hữu Ngọc Long dữ Kim Phượng
Liên nhị kiều vu đông tây hề,
Nhược trường không chi đế đống.
Phủ hoàng đô chi hoành lệ hề,
Khám vân hà chi phù động.
Hán quần tài chi lai tụy hề.
Hiệp phi hùng chi cát mộng.
Ngưỡng xuân phong chi hòa mục hề.
Thính bách điểu chi bi minh.
Vân thiên tuyên kỳ ký lập hề,
Gia nguyện đắc hồ song sinh.
Dương nhân hóa vu vũ trụ hề,
Tận túc cung vu thượng kinh.
Duy hoàn, văn chi duy thịnh hề,
Khởi túc phương hồ thánh minh.
Hưu hỹ! mỹ hỹ!
Huệ trạch viễn dương.
Dực tá ngã hoàng gia hề.
Ninh bỉ tứ phương.
Đồng thiên địa chi qui lượng hề.
Tề nhật nguyệt chi huy quang.
Vĩnh quý tôn nhi vô cực hề.
Đẳng quân thọ ư đông hoàng.
Ngự long kỳ dĩ ngao du hề
Hồi loan giá nhi chu chương.
Tư hóa cập hồ tứ hải hề,
Gia vật phụ nhi dân khang.
Nguyện tư đài chi vĩnh cô hề,
Lạc chung cổ nhi vị hương!
Bài phú "Đồng Tước đài" được truyền tụng. Tào Thực đáng là đệ nhất thi nhân trong hai đời Tần, Hán và đã mở đường cho lối thơ diễm lệ đời Lục Triều.
Trong một dịp du thuyền trên sông Trường Giang, rượu ngà say, Tháo cao hứng nói:
- Ta năm nay đã 54 tuổi. Nếu chiếm xong Giang Nam, ta cũng được chút vui mừng riêng. Số là trước kia ta có quen thân cụ Kiều công, được biết cụ có 2 cô con gái, đều là trang quốc sắc thiên hương. Không ngờ về sau Tôn Sách và Chu Du cưới mất! Nay ta đã xây đài Đồng Tước trên sông Chương, nếu hạ được Giang Nam, ta sẽ đem hai nàng họ Kiều về đấy ở, để vui thú năm tháng về già. Thế là ta mãn nguyện!
Để khích Chu Du là đô đốc Đông Ngô đánh Tào Tháo, Khổng Minh sửa đổi câu thứ 7 của bài phú "Đồng Tước đài" của Tào Thực. Nguyên văn là:
Liên nhị kiều vu đông tây hề,
Nhược trường không chi đế đống.
Nghĩa là:
Bắc hai cầu tây đông nối lại
Như cầu vồng sáng chói không gian.
Đó là nói: hai bên đài Đồng Tước còn có hai đài phụ là Ngọc Long, Kim Phượng, và có hai cái cầu bắc nối vào đài giữa như hai cầu vồng trên lưng trời. Tào Thực dùng hai chữ "đế đống" (hay "chuế đống") là có ý so sánh đài Đồng Tước với cung A Phòng nhà Tần. Trong bài "A Phòng Cung Phú" của Đỗ Mục đời nhà Đường, có câu: "Trường kiều ngọa ba, vị vân hà long? Phức đạo hành không: bất tễ hà hồng?" (Cầu dài vắt ngang sông: chưa có mây sao có rồng? Hai đường bắc trên không: không phải mưa tạnh, sao có cầu vồng?)
Nhưng Khổng Minh lại đổi ra:
Lãm nhị Kiều ư đông nam hề,
Lạc triêu tịch chi dữ cộng.
Nghĩa là:
Tìm hai Kiều nam phương về sống,
Vui cùng nhau giấc mộng hồi xuân ...
Khổng Minh đem chữ "kiều" (cầu) đổi ra chữ "Kiều" (nàng họ Kiều), đổi chữ "Tây" ra chữ "Nam", đổi chữ "liên" ra chữ "lãm"; còn câu sau thì đổi hoàn toàn khác hẳn, để cố ý trỏ vào hai nàng Kiều.
Đem chữ "kiều" đổi ra chữ "Kiều", Khổng Minh chủ ý lừa và chọc tức Chu Dụ
Sau Đông Ngô liên minh cùng Tây Thục, nhờ Khổng Minh cầu đông phong, nên Chu Du dùng hỏa công đốt phá binh Tào tại trận Xích Bích. Tháo thua to, mộng chiếm đất Giang Nam để đoạt lấy hai nàng Kiều đẹp hoàn toàn tan vỡ.
Thi sĩ Đỗ Mục cũng có bài "Xích Bích Hoài Cổ" rằng:
Kích gãy, cát chìm, sắt chửa tiêu,
Rửa mài, nhận thấy dấu tiền triều.
Gió đông chẳng giúp chàng Chu thắng,
Đồng Tước đài xuân nhốt hai Kiều.
Nguyên văn:
Chiết kích trầm sa, thiết vị tiêu
Tự tương ma tẩy nhận tiền triều.
Đông phong bất dữ Chu lang tiện,
Đồng tước xuân thâm tỏa nhị Kiều.
Trong "Đoạn Trường Tân Thanh" của Nguyễn Du có câu: "Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều là do điển tích đó.
Đời nhà Tấn (265-419) ở đất Thần Châu có nàng Tô Huệ tự Nhược Lan. Nàng, dung nhan kiều mị, tài đức song toàn, văn chương xuất chúng. Khi Tô được 20 tuổi cha mẹ đính gả cho hàn sĩ Đậu Thao, người cùng quê. Vợ chồng ăn ở đầm ấm. Nàng Tô rất mực chiều chồng, đảm đương tất cả mọi việc gia đình để cho Đậu Thao có đủ thì giờ theo đuổi trau dồi nghiên bút. Người ở quanh vùng đều cho là hạnh phúc và hết sức ngợi khen nàng.
Sau Đậu Thao đỗ đạt làm quan, may mắn được nhâm chức tại Thần Châu, không phải đi đâu xa cả. Gia đình đã đầm ấm hạnh phúc lại càng đầm ấm hạnh phúc hơn.
Nhưng rồi vì công vụ cần thiết, vua truyền Đậu Thao ra trấn đất Lưu Sa. Vì nơi gian lao hiểm trở nên Đậu Thao đành phải để vợ ở nhà.
Thời gian qua ...
Ba năm chờ đợi, nàng Tô ngày càng sức vóc mỏi mòn, dung nhan tiều tụy. Đêm đêm, bên ngọn đèn khuya, nàng ngồi âm thầm đối bóng, tủi phận hờn duyên, lo ngại thân chồng mà giọt châu tầm tã. Lòng đau dằng dặc, nỗi nhớ triền miên nên hồn thơ dâng trào lên ngọc bút làm thành 10 bài tứ tuyệt. Nàng lại lấy gấm vuông độ chừng một thước, dùng chỉ ngũ sắc thêu 10 bài tứ tuyệt lên trên theo hình trôn ốc, từ ngoài xoáy tròn vào trung tâm bức gấm.
Nàng thêu khéo, chữ nay, nên bức gấm trông cực kỳ tuyệt mỹ. Xong nàng tự tay dâng lên nhà vua. Thấy lạ, vua truyền cho quần thần đọc, nhưng cả triều không ai đọc được. Vua đành gọi nàng:
Đứng giữa triều, Tô cất tiếng ngâm với một giọng não nùng bi thảm:
Quân thừa hoàng chiếu an biêu thú,
Tống quân tống biệt hà kiều lộ.
Hàm bi yểm lụy tặng quân ngôn
Mạc vong ân tình tiện trường khứ.
Hà Kỳ nhất khứ âm tín đoạn,
Ý thiếp bình vi xuân bất noãn.
Quỳnh dao giai hạ bích đài không.
San hô trướng lý hồng trần mãn.
Thử thời đạo biệt mỗi kinh hồn,
Tương tâm hà thác cánh phùng quân.
Nhất tâm nguyện tác thương hải nguyệt
Nhất tâm nguyện tác lãnh đầu vân.
Lãnh vân tuế tuế phùng phu diện,
Hải nguyệt niên niên chiếu đắc biên.
Phi lai phi khứ đáo quân bàng
Thiên lý vạn lý giao tương kiến.
Thiều thiều lộ viễn quan san cách,
Hận quân tái ngoại trường vi khách.
Khứ thời tống biệt lư diệp hoàng
Thùy kính kỷ kinh mai hoa bạch.
Bách hoa tán loạn phùng xuân tảo,
Xuân ý thôi nhân hướng thùy đạo.
Thùy dương mãn địa vị quân phan,
Lạc hoa mãn địa vô nhân tảo.
Đình tiền xuân tảo chính phân phương,
Bảo đắc tần tranh hướng họa đường.
Vị quân đàn đắc Giang Nam khúc,
Phó ký tình thâm đáo sóc phương.
Sóc phương thiều đệ san hà việt.
Vạn lý âm thư trường đoạn tuyệt.
Ngân trang chẩm thượng lệ chiêm y,
Kim lũ la thường hoa giai liệt.
Tam xuân hồng nhạn đệ giang thanh,
Thử thị ly nhân đoạn trường tình,
Tranh huyền vị đoạn trường tiên đoạn,
Oán kết tiên thành khúc vị thành.
Quân kim ức thiếp trọng như san,
Thiếp diệt tư quân bất tạm nhàn.
Chức tương nhấn bản hiến Thiên Tử,
Nguyện phóng nhi phu cấp bảo hoàn.
Bài này có nhiều người dịch. Dưới đây là bản dịch của Hoàng Quang:
Chàng vâng chiếu ra yên cõi ngoại,
Thiếp đưa chàng tới lối cầu sông.
Ngậm sầu gạt lệ nhắn lòng,
Chớ tham chốn khác mà vong tình này.
Trông tin tức tới nay thăm thẳm,
Để buồng hương chẳng ấm hơi xuân.
Từ ngày đôi ngả cách phân,
Màn dần bụi bám, thềm dần rêu phong.
Tưởng ly biệt nỗi lòng kinh sợ,
Thiếp với chàng bao thuở gặp nhau.
Nguyện làm trăng giữa biển sâu,
Nguyện làm mây phủ trên đầu non cao.
Trăng giữa biển năm nào cũng thấy,
Mây đầu non đường mấy cũng thông.
Bay qua bay lại bên chồng,
Dầu ngàn muôn dặm xa trông như gần.
Quan san ấy mấy lần trở cách,
Hiềm nỗi chàng làm khách rất lâu.
Chàng đi mới ố bông lau,
Mà nay mấy độ trắng màu hoa mai.
Hoa trăm thức xuân vui hớn hở,
Xuân giục người than thở với ai.
Dương kia đủ những tơ dài,
Hoa kia rã cánh không người quét cho.
Sân xuân sớm thơm tho trăm thức,
Chốn họa đường lực bận đàn tranh.
Giang Nam năm khúc rành rành,
Mượn đầu năm mong gởi tình sóc phương.
Sóc phương ấy đôi đường diệu vợi,
Âm thư này nhắn gởi khôn thông,
Gối riêng nước mắt tuôn dòng,
Xiêm thêu áo vẽ lâu cùng mục tan.
Ba xuân tới tiếng nhàn nhắn gởi,
Xuân giục người bối rối như tơ.
Năm dây còn đón sờ sờ;
Buồn đà đứt ruột, gảy chưa rồi đàn.
Chàng thương thiếp còn hơn núi nặng,
Thiếp nhớ chàng tình chẳng kém thua.
Dệt đem bức gấm dâng vua,
Xét lòng dạ thiếp tha cho chồng về.
Ngâm xong, nàng Tô nước mắt đầm đìa. Nhà vua quá cảm động không dám nhìn nàng, vội hạ chiếu cho Đậu Thao về ngay.
Mười bài thơ ấy được truyền tụng với bức gấm thêu, ai cũng nước nở khen cho Tô là một bực kỳ tài. Trước họ gọi bức gấm thơ ấy là "Toàn Loa Đồ" (Bức đồ hình tròn trôn ốc), sau lại cho tên không xứng với giá trị của tác phẩm nên đổi là "Hồi Văn Cách" (Bài văn có tác dụng làm cho người đi biên thú được trở về), nhưng cũng vẫn chưa thấy thỏa đáng. Cuối cùng, họ lại đổi và thêm tên tác giả là "Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn".
Thông cảm mối tình sâu đậm của nàng Tô, cổ nhạc Việt Nam có người đã dựa theo bài "Chức Cẩm Hồi Văn" mà sáng tác một bài hát điệu Nam Ai, cũng nhan đề là "Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn". Lời lẽ lưu loát, ý tình nồng nàn, nhưng không biết tác giả là ai. Bài như thế này:
Khi vâng chiếu chỉ ra đề cờ,
Từ chàng đi, thiếp bặt tin đợi chờ.
Hồng nhạn kêu thu sông Hớn bơ vơ.
Áo não nùng khiến dạ ngẩn ngơ.
Trách bấy ông Tơ gieo chi mối sầu như tóc tơ.
Nghĩ mấy lời từ hồi ban sơ.
Nhớ những khi thiếp nguyện trăm năm tam tùng thờ.
Chàng mần răng ý lẳng lơ.
Chân đi thăm thẳm, mắt ngóng luống nhớ cách núi ải, biết chừ trao thơ
Má phấn duyên phai lạt, hồng nhan trông đợi chờ
Trướng lý để bụi trần nhơ.
Kìa cờ ai, nghe tiếng trống vẫn bóng xa xa
Hay là chiếu triệu chồng ta.
Chốn giang biên, chàng ôi có hay chăng là
Để lụy tương tư này như chút phận Hằng Nga.
Đêm đông quạnh quẽ, tiếng quyên hòa
Gìn lòng son nỡ để cho trăng già
Luông tuồng bao nỡ vắng bặt nhạn tin qua.
Hay là ong bướm đã say đắm mê hoa,
Chim ô thước qua sông Ngân thường,
Nỡ nào để cho loan phụng Sâm Thương.
Chẳng biết no nao cá nước hội một trường,
Kẻo nặng nề hai chữ uyên ương
Ong bướm dẫu say mên hoa hường,
Cũng đoái tưởng chút nghĩa tào khương.
Chim bao nài bay qua cho tỏ tường.
Để trông đợi tháng ngày thương.
Trông tin chàng, đêm nằm mơ màng,
Tỉnh giấc hòe trằn trọc thở than.
Năm canh sầu riêng cho bạn vàng,
Phận làm trai hiếu nghĩa trung cang.
Bệ ngọc trên báu kiếm sắc phán.
Chốn giang biên ra khử trừ đảng gian.
Nước noan xa cách muôn dặm, da người bọc mình chàng.
Tuyết sương lạnh nơi chốn Đồng quan
Chàng trừ mô ra giai đấi khởi ngụy bang,
Cho rồi, đặng trở về Trường An.
Kẻo để tương tư này mày xanh sầu võ vàng.
Soi đài gương luống thẹn hồng nhan.
Châu rơi lã chã lệ tuông đôi hàng,
Hiềm vì ai xui duyên nợ lỡ làng.
Ngàn trùng xa cách như khách ở ngoại bang.
Bao nỡ bỏ cái nghĩa Ngưu lang,
Thuở ra đi lau lá vàng.
Bây chừ đã trắng mai rỡ ràng.
Cung quế xơ rơ bóng nguyệt đã tàn.
Ơn kia chưa trả oán nọ liền mang.
Nghe tiếng dế năm canh mơ màng,
Ngỡ tạc ngựa chàng đã hồi bang.
Bởi duyên cớ nào bạc đen lòng phụ phàng.
Để gió thảm mưa sầu khan.
Chẳng biết no nao yên gót trở về
Trên ngai vàng bạc thẻ bêu kia.
Răng rứa bạn niềm tây nhớ nghĩa, nhớ nghĩa
Mây bay khói tỏa in cờ rìa,
Trống trường thành giục điểm canh khuya.
Bâng khuâng nhớ chàng như nhạn chít lìa.
Thiếp lạy ông Trời: chớ có phân chia.
Từ chàng ra chốn cung đao,
Thiếp trông tin chàng tựa cá trông sao.
Ôm gối phụng chờ trông áo não, áo não ...
Sao quên lời núi hẹn sông giao.
Ai đi lấp thảm cho khuây má đào
Tương tư này rằng thấu cung cao.
Ơn trên tha về đặng tỏ nỗi âm hao.
Hiệp một nhà mới phỉ ước ao. (1)
(1) Vì không tìm được bản chính, chỉ nghe người ca truyền mà sưu tập lại, hẳn có ít chỗ chưa được ổn đáng. Vậy xin cáo lỗi cùng tác giả và bạn đọc; và mong được bổ chính cho. Nhân đây xin cảm tạ lòng tốt của ông Ngô Văn Lương (ở Bạc Liêu), người đã giúp một phần cho tài liệu này.
Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của Nguyễn Du, đoạn thuật cảnh nàng Kiều sa vào lầu xanh, mụ Tú Bà thong dong dặn dò Kiều cách tiếp đãi khách làng chơi, có những câu:
Nghề chơi cũng lắm công phu
Làng chơi ta phải biết cho đủ điều
và:
... ai cũng như ai,
Người ta ai mất tiền hoài đến đây?
Ở trong còn lắm điều hay,
Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung.
Này con thuộc lấy nằm lòng,
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề.
"Vành ngoài" là bề ngoài, cách đối đãi bề ngoài với khách.
"Bảy chữ" là bảy việc ghi bằng bảy chữ để dễ nhớ. Bảy việc này là bảy việc làm ở ngoài để khách say mê:
1. Khấp là khóc lóc để làm cho khách thương.
2. Tiễn là cắt tóc, thề nguyền để làm cho khách tin.
3. Thích là thích tên khách vào cánh tay mình để khách yêu thương.
4. Thiêu là đốt hương thề nguyền với khách.
5. Giá là hẹn hò với khách.
6. Tẩu là giả rủ khách đi trốn.
7. Tử làm ra bộ liều chết để khách thương yêu, tin cẩn.
"Tám nghề" là tám cách ân ái với khách:
1. Tiếp người bé nhỏ thì dùng cách kích cô thôi hoa.
2. Tiếp người to mập thì dùng cách kim liên song tỏa.
3. Tiếp người nóng tính thì dùng cách đại xiển kỳ cổ.
4. Tiếp người chậm chạp thì dùng cách mạn đả khinh khao.
5. Tiếp người mới vỡ lòng thì dùng cách khẩn thuyên tam trật.
6. Tiếp người thạo đời thì dùng cách tả trì hữu trì.
7. Tiếp người si tình thì dùng cách tỏa tâm truy hồn.
8. Tiếp người lạnh lùng thì dùng cách nhiếp thần nhiệm tỏa.
Đây là những bí quyết nhà nghề của những ả lão luyện ở lầu xanh để làm khách làng chơi say mê, khó mà cắt nghĩa rõ rệt được.
Nhà Tần (306-209 trước D.L.), đời vua Tần Thủy Hoàng (221-209 trước D.L.) có người con gái họ Hứa tên Mạnh Khương. Chồng của nàng họ Phạm tên Thực, người ở miền Quan Trung nước Sở. Vốn con nhà danh giáo, từ nhỏ đã hấp thụ đạo đức, thư hương theo tinh thần gia phiệt.
Mạnh Khương kết hôn được ít lâu thì nhằm lúc vua Tần mưu tính một công cuộc kiến trúc vĩ đại. Nguyên sau khi thôn tính xong sáu nước: Yên, Triệu, Hàn, Ngụy, Tề, Sở, Thủy Hoàng muốn bảo vệ ngai vàng và phòng ngừa cuộc xâm lăng của bọn Hung Nô ở miền Bắc, mới truyền xây Vạn Lý Trường Thành để làm biên giới từ Lũng Tây ở mạn tây đến Liêu Đông ở mạn đông. Thành cao từ 15 đến 30 thước, chân rộng 25 thước, dài 3600 cây số. Cứ từng quãng lại có cửa ải đồ sộ.
Thủy Hoàng đặt công trình lớn lao ấy dưới quyền chỉ huy của đại tướng Mông Điềm và dưới sự kiểm soát của Thái Tử Phò Tô. Nhà vua truyền huy động đến 30 vạn nông dân để xây trường thành, lại dùng đến 50 vạn người bắt làm binh phòng giữ miền Lĩnh Nam. Ngoài ra hơn 70 vạn người bị cung hình (bị cắt sinh thực khí) chia đi làm cung A Phòng, hoặc xây lăng ở Ly Sơn.
Vua truyền huy động đến hàng triệu thanh niên từ 18 đến 45 tuổi đi sưu dịch. Những người này không biết bao giờ mới trở về hay không chắc có ngày trở về nữa. Vì thế, trong nhân dân, vợ khóc chồng, mẹ khóc con vô cùng thảm não.
Chồng nàng Mạnh Khương phải tuân lịnh nhà vua. Cha chồng đã mất để lại mẹ chồng, Mạnh Khương phải thay thế chồng phụng dưỡng mẹ và dưỡng dục con thơ. Nhà ngày suy sụp, nàng phải giã gạo, quay tơ để mưu sinh. Đối với mẹ chồng, nàng vẫn làm tròn nhiệm vụ của một người dâu thảo.
Phần nỗi già, phần thương nhớ con, bà mẹ phát bịnh nặng rồi qua đời. Mạnh Khương phải lo cư tang báo hiếu. Đằng đẵng mấy năm trường trông đợi chồng nhưng bặt vô âm tín. Nghe được tin đồn ở miền bắc, vì tuyết sương lạnh lẽo, vì công việc quá khó nhọc nên có nhiều người ốm chết, Mạnh Khương thương chồng nên nhất định đến tận ải quan, mong tìm chồng để an ủi, giúp đỡ, san xẻ gánh nặng. Nàng gởi con cho người thân rồi ra đi.
Nàng theo đường vạn lý. Từ miền hộ Động Đình nước Sở lên phía bắc đến kinh đô Hàm Dương. Nàng lại nghe đồn: bọn người sưu dịch đã lên vùng tây bắc, nên lại đi từ miền sông Hán Thủy đến dãy núi Tần Lĩnh về hướng tây, đoạn theo dòng sông Tất Xuyên mà đi thẳng lên phía bắc. Trải qua bao cảnh nắng mưa, sương gió, tuyết, nhưng nàng vẫn không nản lòng. Đến sông Hắc Thủy và bến Mã Lan, bị bùn lầy quá nhiều làm chậm bước tiến. Nàng lại men theo mé trường thành, thẳng về hướng đông. Hỏi han từng người, nhưng nàng vẫn thất vọng, vì chẳng ai biết được tin chồng của nàng.
Cuối cùng, Mạnh Khương đến một bãi sa mạc ở miền đông. Giữa lúc ấy, bỗng mây đen vần vũ phủ nhuộm u ám cả bầu trời. Gió bắc thổi giật giọng từng cơn vô cùng lạnh lẽo. Ngựa từ đâu lại cất tiếng hí vang những giọng thảm thê bi đát. Trước mặt nàng lại bày ra một đống xương trắng ngổn ngang, ghê rợn.
Trước cảnh tượng, nàng hỏi: "Có lẽ chồng ta đã thác mất rồi mà thác ở đây chăng?" Và, nàng lại, nghĩ thêm: "Có lẽ phần anh linh của chồng báo điềm lạ cho nàng". Nàng bèn khấn vái vong linh của chồng và cầu Hoàng Thiên phò hộ: nếu chồng nàng thác rồi thì xin cho một biểu hiệu để biết. Đoạn, nàng cắn móng tay, nhỏ máu vào những đống xương.
Từ đống xương này cho đến đống xương khác, mãi đến khi nàng nhỏ một giọt máu vào chiếc đầu lâu nọ, thì chiếc đầu lâu lại thấm máu và đỏ rực lên. Nàng hiểu ngay đấy là dấu hiệu Trời cho biết đây là hài cốt của chồng. Nàng liền ôm chầm lấy ngay bộ xương, khóc lóc thê thảm suốt cả ba ngày đêm.
Câu chuyện này thấu đến tai thái tử Phò Tô, con trưởng của Tần Thủy Hoàng và đại tướng Mông Điềm, lúc bấy giờ đương đóng đại bản doanh tại đất Lư Long, một ải quan trong tỉnh Hà Bắc ngày nay. Rồi cả hai cấp tốc sai người đánh xe đến Trác Lộc, chỗ của nàng Mạnh Khương đương khóc. Thái tử Phò Tô gọi nàng hỏi chuyện và tìm hiểu căn do nỗi oan ức của nàng. Nàng bây giờ đã kiệt sức, phều phào thưa:
- Vì chồng tôi đã chết nơi biên thùy, tôi cũng xin chết theo để được cùng nhau họp mặt ở suối vàng!
Nói xong, nàng nghẹn ngào, hấp hối, ngã quỵ rồi tắt thở. Đồng thời một dãy tường mới xây sụp đổ theo!
Nghe chuyện bi thảm và xem cảnh hãi hùng, hai người nao nao cảm động. Cả đến tướng sĩ và dân phu đều thương xót mà rưng rưng nước mắt.
Thái tử Phò Tô hạ lịnh hành lễ mai táng. Lễ truy tặng phẩm hàm Tả Tướng quân cho Phạm Thực và truy phong tước hiệu Trinh Phu Nhân cho Mạnh Khương. Phò Tô truyền chôn hai cỗ săng vào một cánh cửa Sơ Hải quan chừng 8 dặm, cách ven Bột Hải chừng một dặm (dặm: 576m).
Thấy việc hiển linh lạ lùng, người ta lập gần nơi nầy một miếu đá gọi là "Khương Nữ Tử". Đời sau, tại Cổ Bắc khẩu, tỉnh Hà Bắc và ở Lộ An, tỉnh Sơn Tây, người ta cũng có dựng miếu đặt cùng một tên ấy. Vì sùng mộ nhân đức của nàng, những bá tính xa gần thường đến chiêm bái.
Đời nhà Tây Hán (206-25), nhà Đông Hán (25 trước D.L.-220 sau D.L.), nhà Ngụy (220-265), mộ nàng Mạnh Khương được triều đình lập cho nhiều bia đá. Sang đời nhà Minh (1368-1644), miếu của nàng được trùng tu vẻ vang.
Tư Mã Tương Như, tự Tràng Khanh, người ở Thành Đô đời nhà Hán. Người rất đa tài, văn hay, đàn giỏi.
Khi lìa quê lên Tràng An để lập công danh, đến con sông đầu làng, Tương Như viết trên cầu một câu: "Bất thừa cao xa tứ mã, bất phục quá thử kiều" (Không ngồi xe cao bốn ngựa, không qua lại cầu này nữa).
Nhưng vốn con người phóng lãng hào hoa rất mực nên mua được một chức quan nhỏ, làm trong ít lâu, chán, cáo bịnh, qua chơi nước Lương, rồi trở về nước Thục. Đến đâu, Tương Như cũng dùng bút mực và cây đàn để giao thiệp bằng hữu.
Trong khi đến đất Lâm Cùng, Tương Như vốn sẵn quen với Vương Cát là quan lệnh ở huyện, nên đến chơi. Cát lại mời Tương Như cùng đi dự tiệc ở nhà Trạc Vương Tôn, vốn viên ngoại trong huyện. Nghe tiếng Tương Như đàn hay nên quan huyện cùng Trác Vương Tôn yêu cầu đánh cho một bài.
Họ Trác vốn có một người con gái rất đẹp tên Văn Quân, còn nhỏ tuổi mà sớm góa chồng, lại thích nghe đàn. Tương Như được biết, định ghẹo nàng, nên vừa gảy đàn vừa hát khúc "Phượng cầu hoàng (Chim phượng trống tìm chim phượng mái).
Chim phượng, chim phượng về cố hương,
Ngao du bốn bể tìm chim hoàng
Thời chưa gặp chừ, luống lỡ làng.
Hôm nay bước đến chốn thênh thang.
Có cô gái đẹp ở đài trang,
Nhà gần người xa não tâm tràng.
Ước gì giao kết đôi uyên ương,
Bay liệng cùng nhau thỏa mọi đường.
Nguyên văn:
Phượng hề, phượng hề quy cố hương,
Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng,
Thời vị ngộ hề vô sở tương,
Hà ngộ kim tịch đăng tư đường.
Hữu diệm thục nữ tại khuê phường,
Thất nhĩ nhân hà sầu ngã trường.
Hà duyên giao cảnh vi uyên ương
Tương hiệt cương hề cộng cao tường.
Trác Văn Quân nghe được tiếng đàn, lấy làm say mê, đương đêm bỏ nhà đi theo chàng. Trác ông tức giận, quyết định từ con.
Đôi trai gái đó mở một quán nấu rượu. Vợ chồng cùng cặm cụi làm.
Sau Hán Vũ Đế đọc bài "Tử hư phú" của Tương Như, khen tài mới vời vào triều, ban chức tước. Lại sai chàng cầm cờ tiết, thay nhà vua về Ba Thục chiêu an bọn phụ lão tùng phục nhà Hán. Lần này thỏa chí bình sinh, Tương Như áo gấm vinh quy được người đón rước long trọng. Nhưng làm quan ít lâu, lại chán, cáo bịnh lui về quê.
Trong "Bích Câu kỳ ngộ" có câu:
Cầu hoàng tay lựa nên vần,
Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào.
Và, trong "Đoạn trường tân thanh" của Nguyễn Du cũng có câu:
Khúc đâu Tư Mã phượng cầu,
Nghe ra như oán, như sầu phải chăng!