Hôm khánh thành chín cái đỉnh trước Thế Miếu, vua Minh Mạng nói với hoàng tử thứ mười là Miên Thẩm rằng:
- Chín chữ Hán ghi trên chín cái đỉnh này là miêu hiệu của chín vị vua. Cái đỉnh chữ Cao để ngay gian giữa, còn tám cái kia (tức Nhơn, Chương Anh, Nghị, Thuần, Duyên, Dụ, Huyền) để tả hữu tám gian. Vị vua nào ở ngôi mà băng (chết), nhà nước thờ vào một gian (trong Thế Miếu), ngày ấy đời của vua mới được hoàn toàn kết liễu.
Miên Thẩm thưa rằng:
- Tâu, còn làm tôi hy sinh với vua với nước, con thấy bên Tàu, có họa hình vào Kỳ - lân - các; sao Việt Nam chỉ làm miếu để thờ vua?
Minh Mạng giảng giải với con:
- Nhà nước ta không họa hình, chỉ tạm tên những người có công, nhà nước vẫn có bài vị để tại tả hữu tùng tự:
Miên Thẩm lại thưa:
- Tâu, nhân dân bách tính ngoài dân cũng hy sinh cho vua, cho nước thì thế nào? Nhà nước nên lập đài kỷ công để cho còn sự tích.
Minh Mạng lại giải thích:
- Sự tích đã biên vào liệt truyện, dầu là một người đàn bà có tiết hạnh, nhà nước cũng không quên tên, huống hồ là những người đã vì vua, vì nước mà quyên sinh thì nhà nước thờ vào Trung nghĩa tử hoặc cho bảng vàng để nêu tên trong cả xứ.
Miên Thẩm vẫn không vui:
- Tâu như thế vẫn còn chưa thỏa!
- Con còn muốn chi nữa kia?
- Tâu, nhà nước còn nên nuôi cả quả phụ, cô nhi của những người này nữa kia.
- Lấy của ở đâu cho đủ?
- Tâu, lấy của nước của dân:
Vua Minh Mạng cười:
- Ta tưởng lấy của con kia, còn như lấy của nước của dân, thì quả phụ cô nhi vẫn có khẩu phần, những làng có công điền, đã có quân cấp cho các hạng ấy!
Nhân ngày khánh thành Cữu Đỉnh, phủ Thừa Thiên dâng lúa thổ sản của làng An Cựu, vua Minh Mạng cắn một hột rồi khen:
- Nhờ trời lúa đã chắc lại ngọt!
Vua ban cho các quan mỗi người một hạt. Ai cũng chép miệng lựa lời khen cho vừa ý vua. Có người khúm núm tâu:
- Nhờ ơn Hoàng đế năm nay được mùa hơn cả mấy năm!
Miên Thẩm lúc ấy mới mười bảy tuổi tính tình cương trực đã biết ghét bọn nịnh thần, cho nên ông dám tâu những điều là cho niềm vui của vua cha tiêu tan:
- Tâu. Người ta nói năm nay được mùa, mà ngoài dân chúng con thấy có người không áo, có kẻ không cơm? Hay là họ không có khẩu phần chăng?
Vua Minh Mạng châu mày không them nhìn lại Tùng Thiện (lúc đó còn là một hoàng tử chưa xuất phủ) vùa cười gằn,bảo:
- "Mày tưởng có ruộng đất là có cơm áo hay sao? Cơm áo là ở nơi hai tay, có phải ở đâu ruộng đất?
Lời quở mắng ấy của Minh Mạng đã ảnh hưởng nhiều đến Tùng Thiện, dù chỉ là cách nói áp đảo của ông vua cha. Sau khi xuất phủ, Tùng Thiện đến là nhà bên bờ sông Lợi Nông. Bản thân ông đã rất trọng nghề nông. Thơ Tùng Thiện mấy ngàn bài đều chan chứa tình yêu đồng ruộng và nỗi thông cảm sâu sắc với số phận khổ ải của nhân dân lao động.
Quận chúa A Mô (hay tiếng nói và sắc đẹp của đàn bà)
Để sống yên ở phương Nam, Nguyễn Phúc Nguyên (tức chúa Sải) đã tích cực đắp thành lũy, trang bị vũ khí mới cho quân đội để khi cần thì có thể đương đầu với quân Trịnh ở phía bắc. Một trong những trở ngangười, khó vượt qua của chúa Nguyễn là vấn đề mua sắt, đồng, diêm tiêu để đúc súng. Chúa Sải nhờ bọn thương gia Hoà Lan, Bồ Đào Nha, Tàu, Nhật... nhưng bọn này không thật lòng nên chúa không yên tâm. Cuối cùng chúa đã biết phát huy truyền thống của phụ nữ Việt Nam, gả một người con gái cho thương gia Nhật tên là Araki Sôtarô (Hoàng mộc tôn Thái lang). Thương gia này vừa làm chủ một cửa hàng lớn ở Hội An vừa có tàu viễn dương đi mua bán với hải ngoại. Từ đó bà Quận chúa xứ Đàng Trong ngày đêm tỉ tê với chồng. Araki Sôtarô không thể từ chối được người đẹp nên ông đã thoa? mãn mọi yêu cầu của chúa Sải. Chúa Sải cần gì thì tàu của Araki đi Aùo Môn, Quảng Đông và Trường Kỳ chở về ngay. Nhờ thế mà quân đội của chúa Nguyễn được trang bị rất đầy đủ, mọi cuộc tấn công của quân Trịnh ở phía bắc vào đều bị chặn đứng.
Theo nhà Đông phương học Đuy Mu Chi ê (Pháp) thì bà quận chúa xứ Đàng Trong này tên là Amô. Trong một chuyến về thăm quê chồng, quận chúa bị giữ lại ở Nhật bởi nghiệm lệnh của Mạc phủ Đức xuyên cấm những người Nhật đi thông thương hải ngoại. Vì thế mà đôi vợ chồng Việt Nhật này không trở lại được đất Thuận Quảng. Năm 1845 bà mất ở Trường Kỳ và mai táng tại chùa Dainonji. Con cháu của bà còn giữ một cái gương soi của bà đem ở nước Nam qua, bề ngang tấm gương đo được ba tấc rưỡi, bề cao ngót bốn tấc, chung quanh chạm trỗ và mạ vàng y như của người Tây phương.
Vua Thiệu Trị (1841-1847) thăng hà, để di chiếu truyền ngôi cho con trưởng là Hồng Bảo. Nhưng triều đình do Trương Đăng Quế cầm đầu, thấy Hồng Bảo ham chơi cờ bạc nên không tôn mà lập em là Hồng Nhậm(con bà Từ Dũ) lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Tự Đức.
Bất bằng vì sự phế lập trái di chiếu ấy, Hồng Bảo tụ nghĩa cùng một số quan lại, hoàng thân có mâu thuẫn với Tự Đức lập mưu đảo chánh. Chẳng may trong nội bộ có người chưa chi đã rắp tâm làm phản vào tố giác với Tự Đức. Hồng Bảo bị hạ ngục và kết án tử hình(1854). Để chứng tỏ mình là một ông vua có lòng nhân, nặng tình cốt nhục, Tự Đức tha chết cho anh và Hồng Bảo chỉ bị giam. Nhưng một ngày nọ người ta khám phá thấy Hồng Bảo chết thắt cổ ở trong ngục (1854). Dư luận đương thời cho rằng đó là một cái chết rất khả nghi, họ thông tin Hồng Bảo có thể tự sát mà chết vì lệnh ám sát của Tự Đức. Điều đó làm cho Tự Đức ăn ngủ không yên.
Một hôm trong một buổi dạ yến ở Đại Nội, đang nhai vua Tự Đức bổng nhăn mặt đau đớn. Quan khách lấy làm lạ quay về phía nhà vua. Để đỡ thẹn vua ra ngay một cái đề thơ "Răng cắn lưỡi".
Trong hàng các quan dợ tiệc có ông Nguyễn Hàm Ninh (1808-1867) người Quảng Bình ứng khẩu đọc ngay bốn câu thơ sau đây:
"Sinh ngã chi sơ, nhữ vị sinh,
Nhữ sinh chi hậu, ngã vi huynh.
Bất tư cộng hưởng chân cam vị,
Hà nhẫn tương vong cốt nhục tình?"
Nghĩa là:
"Thuở bác sinh ra chú chữa sinh,
Từ sinh ra chú bác làm anh.
Ngọt bùi chẳng dể cung chia sẻ,
Cốt nhục đang tâm nghiến đứt tình?".
Nghe qua vua vỗ tay khen hay, nhưng nghĩ một lúc, ông chau mày mà phán rằng:
- "Văn chương của khanh thật lưu loát. Trẩm thưởng mỗi câu một lạng vàng. Song ý thơ sâu sắc và bí ẩn, Trẩm phạt mỗi chữ một roi".
Sở dĩ phải phạt Hàm Ninh vì vua nghĩ rằng tác giả mượn bốn câu thơ trên để ám chỉ việc nhà vua đã đang tâm sát hại anh mình là Hồng Bảo, giống như răng cắn lưỡi.
Năm 1812, Lê Duy Thanh (con trai Lê Qúy Đôn) tìm được một cuộc đất tốt để xây lăng cho Hoàng hậu Hiếu Khương. Khi khai huyệt, thấy xuất hiện đất ngũ sắc được coi là một điềm lành. Đình thần ai cũng trầm trồ chúc mừng vua, chỉ có Nguyễn Văn Thành đứng im lặng. Gia Long hỏi:
- Vì sao nhà ngươi lại im lặng?
Thành đáp:
- Việc nay không có gì lạ lắm. Trong huyệt mẹ tôi cũng có đất ngũ sắc mà màu còn tươi thắm hơn!
Gia Long hơi ngượng, mặt đanh lại. Thành không hiểu điều đó lại nói tiếp: - Tại Châu Ê có một chỗ đất rất tốt.
Phạm Văn Nhơn và các quan khác hỏi:
- Tại sao biết thế mà không tâu lên.
Thành đáp:
- Cuộc đất thì tốt nhưng không nên táng vào đó e bị sét đánh!
Gia Long lộ vẽ buồn, Hoàng Tử Đảm (sau này là vua Minh Mạng) mới lên tiếng rằng:
Chỉ có mộ Tây Sơn mới bị sét đánh vì đó là quân triều nguỵ còn như nay là đời thánh minh được trời thương. Trước mặt đấng quân thượng sao ông lại dám thốt ra những lời nói ấy?
(Hoàng Tử muốn nhắc đến mộ của Nguyễn Nhạc đã bị sét đánh ở Bình Định), Thành biết mình lỡ lời nên lui gót.
Bốn năm sau Thành bị tội. Nguyên do một phần cũng vì câu chuyện cũ này.
Thuở xưa phụ nữ Việt Nam từ Bắc xuống Nam đều mặc váy. Đến ngày nay chiếc váy đó chỉ còn rải rác ở một số vùng quê đồng bằng sông Hồng và vùng Thanh Nghệ. Chiếc áo dài đã trở thành biểu tượng của phụ nữ Việt Nam. Thế thì nó đã có tự bao giờ?
Như lịch sử còn ghi, cuộc Trịnh, Nguyễn phân tranh kéo dài gần hai trăm năm. Ở miền Bắc vua Lê chúa Trịnh trị vì. Ở miền Nam các chúa Nguyễn miệng vẫn nói thần phục nhà Lê song thực chất họ đã lấy Phú Xuân làm thủ phủ của Đàng Trong để cũng cố địa vị cho sự nghiệp "vạn đại dung thân". Năm 1744, trong dân gian miền Nam bỗng lưu truyền một câu sấm (có lẽ từ miền Bắc truyền vào):
"Bát đại thời hoàn trung đô".
Công nghĩa là "tám đời phải trở lại Trung đô" (tức là trở lại Kinh đô Thăng Long). Câu sấm ấy là cho Nguyễn Phúc Khoát giật mình, Nếu kể từ chúa Tiên (tức Nguyễn Hoàng) truyền đến đời Khoát thì đúng tám đời. Khoát lo lắng: "Gần hai trăm năm đánh nhau với quân Trịnh, chịu đựng biết bao nhiêu gian khổ ác liệt để mở mang bờ cỏi xuống tận Cà Mau mà giờ này phải trở lại Trung đô nạp mình cho quân Trịnh quar là một đại hoạ!". Suốt nhiều ngày đêm Khoát ăn không ngon ngủ không yên. Cuối cùng ông đã triệu quần thần lại bàn phương cách thoát nạn. Khoác nói giọng buồn rầu:
- "Các tiên chúa đã đổ máu xương gây dựng cho chúa tôi ta một cơ nghiệp vinh quang như thế này, bây giờ trời bắt ta phải trở lại Trung đô thần phục bọn Trịnh, phải chăng chúa tôi ta không những sẽ đắc tội với các tiên Chúa mà còn tự hủy diệt mình...Các người có kế sách chi tiến lên để cứu nạn không?"
Triều thần của Nguyễn Phúc Khoát khẩn khoản xin Chúa được nghiên cứu một thời gian. Độ nữa tháng sau họ đến trình bày với Chúa rằng:
- "Muôn tâu Chúa thượng, muốn khỏi "hoàn" Trung đô, Chúa phải xưng vương và dựng một tân đô".
Phúc Khoác nói:
- "Ta cũng đã suy nghĩ điều đó nhưng từ lâu ông cha ta tuy chưa xưng Vương nhưng đã làm Chúa tể đất trời Nam và đất Phú Xuân đã là Kinh đô Đàng Trong!"
- "Nhưng chưa chính thức!" - Một quan đại phu đáp,
Phúc Khoát vẫn phân vân:
- "Việc làm lễ để chính thức chẳng khó khăn gì. Song dù có chính thức đi nữa cũng không cải được mệnh trời!""
Quan đại phu đáp:
- "Muốn thực sự có một vương quốc mới để đổi mạng trời thì phải thay đổi lễ nhạc, thay đổi văn hoá!"
Phúc Khoát hỏi:
- "Việc quan trọng nhất phải thay đổi văn hóa là cái gì?"
- "Muôn tâu chúa thượng - quan đại phu đáp - là thay đổi trang phục!"
Phúc Khoát gật đầu mừng rỡ:
- "Thế thì ta giao cho nhà ngươi thực hiện việc đó!"
Từ đó Phúc Khoát lên ngôi với niên hiệu là Võ Vương, lấy Phú Xuân làm Đô thành. Trong triều đổi lễ nhạc, ngoài dân gian thay đổi phong tục.
Để phân biệt với phụ nữ miền Bắc mặc váy, phụ nữ miền Nam phải mặc quần có đáy (hai ống) giống như đàn ông. Chủ trương của Võ Vương đã gây ra một cuộc "khủng hoảng" về trang phục ở Phú Xuân. Quần chúng phụ nữ không tán thành và đã tỏ ý phản đối quyết liệt:
"Không đi thì chợ không đông,
Đi thì phải mượn quần chồng sao đang."
Phản đối nhưng không thay đổi được "ýVương", từ đó phụ nữ miền Nam phải mặc quần hai ống. Với con mắt phong kiến, Võ Vương thấy phụ nữ mặc quần hai ống trông "khêu gợi" quá, ông bèn giao cho triều thần nghiên cứu tham khảo cái áo dài của người Chàm (giống như áo dài phụ nữ Việt Nam ngày nay, nhưng không xẻ nách) và áo dài của phụ nữ Thượng Hải (xẻ đến đầu gối) để "chế" ra cái áo dài của phụ nữ Việt Nam. Chiếc áo dài đầu tiên giống như áo dài người Chàm và có xẻ nách. Cũng như văn hóa Việt Nam phát triển ở Huế. Chiếc áo dài của phụ nữ Việt Nam có đủ cả hai yếu tố của phương Bắc và phương Nam.
Vua chúa ngày xưa vì quyền lợi giai cấp và huyết thống, họ đã có những chủ trương phản truyền thống, phản dân tộc và đã bị quần chúng đấu tranh loại bỏ. "Quần hai ống" và "áo dài" của phụ nữ Việt Nam tuy xuất phát cùng ở trong mục đích ấy, nhưng may thay, nó đã thừa kế được cái đẹp của phụ nữ phương bắc cũng như phương Nam, phù hợp với dáng người Việt Nam, nên nó đã được chấp nhận và trở nên một tài sản văn hóa của người phụ nữ Việt Nam.
Dưới con mắt của thế giới hễ thấy phụ nữ mặc áo dài, dù đứng trên diễn đàn nào, không cần giới thiệu, họ cũng đều biết đó là phụ nữ Việt Nam.