Quyển 5: Khai Hoa Thập Trượng Ngẫu Như Thuyền
Chương 192:Liên tử liên tâm (Hạt sen và tâm sen)
Tác giả: Nguyệt Quan
Nguồn: Sưu tầm
Nếu liên minh, thì trở thành bằng hữu. Dương Hạo ba lần vào Bách Hoa Ổ, cuối cùng đã có tư cách ở lại Bách Hoa Ổ ăn cơm. Chủ nhân là Vĩnh An Tiết soái Chiết Ngự Huân, người tiếp khách chỉ có em ruột của hắn Tiết độ Lưu Hậu Chiết Ngự Khanh và chuyển vận sứ Nhâm Khanh Thư, chỉ có bốn người với những món ăn sơn hào hải vị.
Đang lúc bốn người uống rượu nói chuyện phiếm, tự nhiên muốn tán gẫu đến việc nhà cho thêm phần sinh động, nhưng chủ đề vẫn là Lô Lĩnh Châu liên minh với Phủ Châu và chuyện Lô Lĩnh lập quân đội. Nhâm Khanh Thư là Vĩnh An quân chuyển vận sứ, cai quản lương thảo quân nhu, Chiết Ngự Khanh là Vĩnh An quân Lưu hậu, cai quản công việc hậu cần, có hai người đó ở đây, lại có thêm một vị Tiết soái, bốn người nói chuyện vô cùng vui vẻ, hợp tác với nhau, trợ giúp lẫn nhau.
Xong bữa tiệc rượu, Chiết Ngự Huân tươi cười tiễn hắn đến sau nhà, Chiết Ngự Khanh và Nhâm Khanh Thư cùng đưa hắn ra Bách Hoa Ổ, Dương Hạo lần nữa cảm ơn, hai vị tướng quân lúc này mới dừng bước, đợi hắn lên xe ngựa đánh về đầu cầu, lúc này mới nhìn nhau cười quay vào trong ổ.
Dương Hạo lần này đến, cuối cùng cũng đã chiếm được cảm tình của Chiết phủ, trong lòng vui sướng vô cùng, mặc dù uống với ba vị tướng quân nhiều mất mấy chén nhưng tinh thần hắn không hề say. Hắn vịn một bên cửa sổ. Đón gió thu mát, nhìn nước sông Hoàng Hà cuồn cuộn, đang nhìn chăm chú, bên cạnh có một xe ngựa khác đi đến, che mất tầm mắt của hắn.
Ngồi trên xe là một ông cụ già đánh xe, bên cạnh lại là một thiếu nữ, quần áo xanh, nhìn dáng người nhỏ nhắn, chắc chắn là Chiết Tử Du. Dương Hạo mừng thầm, lập tức gọi: “Tử Du, Tử Du. Dừng xe”.
Thiếu nữ đó vô cùng ngạc nhiên quay đầu lại, vừa nhìn thấy hắn, không khỏi vui mừng. Dương Hạo bảo xe ngựa dừng lại, vén màn kiệu rồi nhảy xuống, cười nói: “Ta vừa vào Bách Hoa Ổ, liền được người dẫn đi gặp Tiết soái, nhìn khắp nơi cũng không gặp nàng. Nàng đang đi đâu vậy?”
Chiết Tử Du thản nhiên nói: “Chỗ chàng đi là địa bàn Chiết Phủ, ta đến không tiện. Ta còn không hiểu tại sao chàng đến cơ, đây là xe thức ăn Chiết gia đi chợ chọn mua, ta ở trong ổ đợi phát bực, liền đi theo vị đại thúc này ra ngoài thư giãn chút”.
Ông cụ liền quay ra cười với Dương Hạo.
Dương Hạo nhìn xung quanh liền nói: “Lại đây, lên xe của ta”.
“Chiết Tử Du thấy mình chỉ mặc bộ áo xanh bằng vải thô, lại nhìn Dương Hạo ăn mặc chỉnh tề như vậy, ngập ngừng nói:
“Giữa ban ngày, quần áo này của ta... sợ là đi với chàng không tiện”.
Dương Hạo không hề để ý, cười nói:
“Có gì là không tiện cơ chứ, khuyết điểm không che lấp được ưu điểm, bộ quần áo xanh của ngươi làm sao, ngươi vẫn là ngươi, lại đây”.
Dương Hạo đưa tay ra, Chiết Tử Du lấy làm vui mừng, đặt tay vào tay hắn rồi nhảy nhẹ xuống xe, Dương Hạo đỡ nàng nhảy xuống, rồi chắp tay cười nói với lão đánh xe:
“Đa tạ đại thúc. Ta đưa Chiết cô nương đi dạo một phen, rồi sẽ đưa nàng về, đại thúc nếu về sớm, làm phiền đại thúc nói với cửu thúc Chiết cô nương một tiếng”.
“Được, được, lão hiểu”.
Lão phu xe gật đầu mỉm cười, nhìn Dương Hạo xoay người lên xe. Liền vung roi ngựa, đánh xe đi thẳng.
“Chúng ta ra Bách Hà viện ngồi chút đi, phong cảnh nơi đây rất thanh nhã, ta đã từng đi qua đó, không gian yên tĩnh đó ta rất thích, song vẫn chưa có cơ hội đi vào du ngoạn một phen, nàng xem chúng ta đến đó được không?”
Mùi thơm trên người cô nương tỏa ra, Dương Hạo ngửi và nhìn nàng chưng cầu ý kiến, Chiết Tử Du mỉm cười nói:
“Chang` bảo đi đâu thì đi đó đi, dù sao ta chỉ là đi ra ngoài dạo chút, ta vốn không xác định là đi đâu”.
Dương Hạo không nhịn được cười nói:
“Ta đây sẽ đem nàng quay về Lô Lĩnh Châu làm áp trại phu nhân, nàng cũng không có ý kiến gì sao?”
Chiết Tử Du dịu dàng nhìn Dương Hạo, ôn tồn nói:
“Giữa ban ngày lại nói những lời vô vị đó. Đại sự của Lô Lĩnh Châu còn đang bộn bề, mà lại có thể đi nhà ta cầu hôn được sao?”
“Ừ!”
Dương Hạo gật đầu, xấu hổ cười nói:
“Là ta luống cuống quá rồi, tự làm hại mình, không bình tĩnh bằng nàng. Tử Du, nàng tuy là con gái, nhưng ý chí khí khái lại lấy được lòng người, có thể quen nàng là phúc lớn của Dương Hạo ta”.
Nói đến đây, Dương Hạo trong lòng đau xót, Lão nương chỉ là một người đàn bà bình thường, nhưng bà ấy là một bà mẹ vĩ đại. Tuy Đông Nhi hiền lành, lương thiện, nhưng người ta luôn ghét bỏ thân phận đã từng xuất giá của nàng, nếu nàng mở lòng mình một chút, hiểu sự đời như Tử Du, nhất định sẽ tốt hơn nhiều.
Nhưng, bản thân giờ là nhất phủ chi tôn, điều đó nghĩ còn chưa dám nghĩ đến. Lão nương giờ lại âm dương xa cách, chưa từng hưởng phúc với hắn được ngày nào. Còn có Đông Nhi, Đông Nhi ơi...
Tiếng lòng Dương Hạo run lên, ánh mắt hơi ướt át. Hắn vội quay đầu đi chỗ khác, không muốn để cho Chiết Tử Du nhìn thấy thần sắc khác thường của mình. Sau một lúc lâu, tay hắn từ từ nắm chặt tay lại, Dương Hạo quay đầu lại, chỉ thấy một đôi mắt trong suốt lẳng lặng nhìn hắn, không nói lời nào, không hỏi gì, chỉ lẳng lặng nhìn hắn như vậy, giống như đã hiểu được hết nỗi thống khổ của hắn.
Nghe tiếng cuồn cuộn ngoài cửa xe, Dương Hạo nghĩ đó là thủy triều, bánh xe lộc cộc, hơi xóc, đã đến đầu cầu. Dương Hạo hít một hơi, nói nhỏ:
“Tử Du, nàng có muốn nghe chuyện trước đây của ta không?”
Chiết Tử Du dịu dàng gật đầu, hiền dịu nói:
“Ừm, chàng nói, ta nghe”.
Dương Hạo kể rất tường tận, hắn đã từng nói cho đám người Phạm Lão Tứ, Lưu Thế Hiên nghe qua, giờ chính mồm hắn lại kể, hơn nữa lại rất tường tận, càng thêm động lòng người, Chiết Tử Du nghe lệ rơi xuống, bỗng nhiên nhào vào lòng hắn, áp mặt vào ngực hắn. Nhẹ nhàng nói:
“Hạo ca ca, ta không ngờ, chàng lại chịu nhiều oan ức như vậy, khổ như vậy...”
Dương Hạo vuốt nhẹ mái tóc nàng vỗ về nói:
“Ta khổ, nhưng ông trời đã đền bù cho ta quá nhiều”.
Hắn đột nhiên nhớ ra điều gì đó, dừng lại một lúc, chần chừ nói: “Nhưng, ta lại làm tủi thân nàng...”
Chiết Tử Du ngẩng mặt lên, ngạc nhiên hỏi: “Làm tủi thân ta chuyện gì?”
Dương Hạo nghiêm nghị nói: “Đông Nhi đối với ta nghĩa nặng tình thâm. Nàng vì ta mà chết, cái ta duy nhất có thể cho nàng, nay chỉ có một lời thề ngày xưa ở Kê Quan Sơn, Dương Hạo sẽ không làm trái. Đông Nhi và ta chưa nên nghĩa vợ chồng, nhưng thực sự đã là vợ chồng, Dương Hạo nợ nàng ấy một từ đường, sửa lại gia phả, nàng ấy vẫn là vợ của ta.
Từ xưa tới nay, nối dõi tông đường đều là do đàn ông, đời sau cũng lấy họ của đàn ông. Cho nên hệ thống gia tộc gia phả đều lấy đàn ông làm căn cứ, đàn bà phải nhập vào gia phả nhà chồng. Cho dù người này đã qua đời, làm như chính thê, cũng phải ghi vào gia phả nhà chồng. Nếu chưa gả, thì sẽ không được ghi vào gia phả nhà chồng, như vậy tự nhiên sẽ mất đi dấu vết.
Tuy nói đây chỉ là vấn đề về danh phận, không ảnh hưởng đến lợi ích tái giá thê tử, song cũng coi là xã hội hiện đại, hoàng hoa đại khuê nữ cũng không đồng ý tái giá, huống hồ lúc này. Dương Hạo lường trước Chiết Tử Du nghe xong sẽ không đồng ý.
Vốn là nhất phủ chi tôn, ngay cả tái giá, lấy một tiểu thư khuê các cũng khó, huống hồ Chiết Tử Du trong mắt hắn cũng chỉ là họ hàng xa với Chiết gia, là một người phụ nữ cực kỳ bình thường, chẳng qua nếu tái giá với cô nương rộng lượng này, lòng hắn cũng có chút khúc mắc, Dương Hạo không muốn cô ấy bị thiệt thòi, tâm sinh oán ưu, những lời này vẫn cần phải nói rõ.
Chiết Tử Du trong lòng quả nhiên có chút không vui, nhưng La Đông Nhi vì Dương Hạo mà hi sinh tính mạng, nàng nghe xong cũng động lòng, hết sức cảm phục. Còn nữa...nàng nhớ tới một câu nói của mình nói với Đường Diễm Diễm: Con gái lần đầu được người đàn ông chú ý đến, có lẽ là bộ ngực, nhưng khi lọt vào con mắt của người đàn ông đó, nó lại là tính tình phẩm đức và cử chỉ của cô ấy. Lẽ nào khi đến lượt mình, cũng tầm thường như những người phụ nữ khác sao, muốn xem đời người phụ nữ chua chát đến thế nào.
Huống hồ, Đông Nhi là ở góa, lại là phụ nữ bình thường, thân phận hèn mọn. Ngày trước khó khăn, hắn không đề cập thì ai biết Đông Nhi đối với hắn tình sâu nghĩa nặng như vậy? Nhưng người đàn bà đó hắn nhớ mãi không quên, đến nay vẫn còn nhớ tới. Thật là một người đàn ông có tình có nghĩa. Ta muốn lấy hắn, không phải vì cái này đó chứ? Nếu hắn phát đạt phú quý, quên đi Đông Nhi, không nghĩ đến nữa, không nhớ đến nữa, hắn lúc đó, ta có còn thích nữa không?
Nghĩ đến đây, Chiết Tử Du liền ngồi thẳng người, gật đầu nghiêm túc nói:
“Hạo ca ca, chàng nhớ Đông Nhi tỷ tỷ như vậy, ở dưới suối vàng, tỷ ấy cũng sẽ rất vui. Tử Du không phải ghen ghét gì, Đông Nhi tỷ tỷ hiền lành phúc hậu, nên là thê tử của chàng, ghi vào trong gia phả Dương Thị. Tử Du thực lòng kính nể Đông Nhi tỷ tỷ, tình nguyện nhận tỷ ấy làm đại tỷ.
“Tử Du…Dương Hạo rất cảm kích”. Hắn nắm chặt lấy tay nàng, không nói nên lời.
Chiết Tử Du nhìn hắn, rồi đột nhiên cười, nói:
“Chàng có phải cảm thấy ta đặc biệt thông tình đạt lý nên lòng chàng tràn đầy vui mừng không nói nên lời hay không?”
“Ừ, đúng vậy, đúng vậy”. Dương Hạo vội gật đầu.
Chiết Tử Du làm cái mặt xấu trêu hắn, xấu hổ cười nói:
“Vậy chàng về sau yêu thương người ta một chút là được rồi”.
Dương Hạo thấy nàng với bộ dáng đáng yêu như vậy, trong lòng cũng lấy làm vui.
Bích Hà Viện thực là một hậu viện của một miếu đạo quán của đạo sĩ. Người xuất gia Đời Tống đều có ý nghĩ kinh tế. Nơi đây không hương khói nghi ngút như Phổ Tế Quảng Nguyên. Quan chủ tìm con đường phát tài khác, thế là hậu viện mở cửa, người ta mở mấy quán trà, quán cơm.
Trong Bích Hà Viện nước chảy qua chiếc cầu nhỏ, hoa sen nở rộ trên mặt nước. Phong cảnh tao nhã vô cùng, nhưng khẩu vị của dân chúng khu vực tây bắc tương đối nặng, không ngoạn được phong cảnh tao nhã này, cho nên khách đến không nhiều, vô cùng yên tĩnh.
Dương Hạo và Chiết Tử Du đi đến Bích Hà Viện, tìm một chỗ yên tĩnh ngồi xuống. Đây là một thạch đình, ghế rất thấp, ánh mặt trời chiếu xiên vào chân của họ, lan can đá thấp, dưới lan can là mặt nước xanh biếc, lá sen tươi tốt, hoa sen héo một nửa, chỉ còn lại những đài sen nặng trịch.
Chiết Tử Du nhẹ nhàng ngồi xuống phía đối diện, thư thái thanh cao, trong sự đoan trang ẩn vẻ quyến rũ khôn cùng. Giờ Dương Hạo và nàng đã ngầm kết xe duyên trọn đời. Không băn khoăn gì, thấy Chiết cô nương ngồi xuống, eo thon da trắng, vô cùng gợi cảm, càng nhìn càng yêu, thực muốn nuốt nàng theo nước miếng vào bụng.
Ánh mắt ấy nhìn cô nương khiến mặt cô ấy ửng đỏ. Nếu tiểu nhị không kịp thời xuất hiện, thì sẽ không tránh được sự hờn dỗi của cô nương, cũng may là như vậy, nàng mở to mắt nhìn Dương Hạo. Ánh mắt như oán trách, lại không dấu được ý vui mừng, ai bảo không nguyện thưởng thức người ta.
Hai người ăn chút đồ ăn sáng, uống trà.
Dương Hạo kể về dự định của mình cho nàng nghe. Chiết Tử Du chăm chú lắng nghe, vừa gắp đồ ăn, rót trà cho hắn, vừa lắng nghe hắn kể.
“Nói như vậy, Hạo ca ca muốn nhanh chóng trở về?”
“Ừ, một tờ khế ước không ràng buộc nổi tài chí của một Tiết soái, lợi ích cộng đồng mới là nền tảng sự hợp tác của chúng ta có thể thực hiện. Ở lại đây cùng với Tiết soái trao đổi tường tận, lúc thực hiện cũng khó tránh khỏi thiếu sót. Ta nghĩ lại một lần nữa gặp Tiết soái, xác định chi tiết chủ yếu, rồi lập tức trở về Lô Lĩnh Châu. Còn về điều lệ cụ thể hợp tác, có thể từ từ hoàn thiện”.
“Hả, chàng luôn đến đi vội vàng, thực sự là cần vội như vậy sao?
Dương Hạo thở dài: “Lý Kế Quân phẫn nộ, rốt cuộc có đưa đến nhiều bất lợi cho Lô Lĩnh Châu hay không, giờ khó mà lường trước. Con người ta, sinh ra trong hèn mọn. Kỳ thực không có chí lớn, thích ứng với mọi hoàn cảnh, nhưng bị ép buộc, không thể không phản kháng lại. Giờ con người ta dựa vào muôn dân, bình thường nghĩ đến đó trong lòng rất nặng nề, nhưng chờ đợi thần phật bốn bề xung quanh, lòng dạ ta…”
Dương Hạo bị xúc động quá, hạ chén trà xuống nói:
“Giờ làm việc, mỗi bước đi đều có rất nhiều sự ràng buộc, khiến cho ta lo trước lo sau, không được thong dong. Ta thường bị tỉnh giấc, sau đó thì rất khó ngủ lại, sợ nhất khi nhắm mắt lại mơ thấy Lô Lĩnh Châu bị cướp mất, mấy vạn dân chúng sinh tử lưỡng nan, đều hướng đến ta mà cách giải quyết. Quan Gia muốn một châu độc lập, duy trì cục diện tây bắc bây giờ, ba thế lực lo lắng Lô Lĩnh Châu mạnh lên, sẽ ảnh hưởng tới quyền lợi ích của chúng, Dương Hạo đặt mình trong hoàn cảnh đó, ở nơi trời cao hoàng đế ở xa này, không thể không dựa vào thế lực mạnh mẽ của chúng, nhưng khi bọn chúng đến gần rồi, lại sợ bên Quan Gia…
Địa vị được như hôm nay thực không dễ mà có được, khi chưa ngồi ở vị trí này, thì ta chưa bao giờ nghĩ mình lại có ngày có vị trí này, tuy là nghìn trùng vạn khổ, lại làm sao có thể cam tâm có một ngày xuống dốc không phanh đây? Đại nghĩa dân chúng, tiền đồ của mọi người, thực làm khó Dương Hạo này, quan này như lâm vực sâu, như dẫm lớp băng mỏng. Lòng ta đây…”
“Hạo ca ca…”
Chiết Tử Du mắt rưng rưng, nhìn Dương Hạo một lúc lâu, rồi đột nhiên eo thon cúi người xuống ngắt lấy một đài sen. Ngón tay thon dài nhỏ nhắn nhẹ nhàng tách hạt sen ra. Hạt sen được tách lớp vỏ lộ ra màu trắng trong, nàng bóc từng hạt từng hạt ra. Chiết Tử Du lại ngắt lấy một lá sen, để hạt sen đã bóc sạch sẽ lên trên lá sen.
Hạt sen trắng như tuyết, lá sen xanh biếc giống như hạt mưa rớt lên quả chuối tây. Làm cho người ta si mê. Chiết Tử Du lại rót đầy một cốc trà cho Dương Hạo, lấy một que tăm, cẩn thận chọc vào tâm sen màu xanh, tâm sen rơi vào chén nước trà.
Dương Hạo chăm chú nhìn động tác của nàng, cái nàng lấy ra là tâm sen hay là tâm của người con gái đây?
Chiết Tử Du đưa lá sen đến trước mặt Dương Hạo, dịu dàng cười nói:
“Nếm thử đi, ngọt lắm”.
“Ừm”.
Dương Hạo trả lời, cầm lấy một hạt sen, nhẹ bỏ vào trong miệng, hạt sen mang theo mùi thơm nhàn nhạt.
Chiết Tử Du cười nói:
“Từ khi bén rễ đến khi hoa tàn kết quả, sen chưa bao giờ cảm thấy tự ti khi sống ở nước bùn, nó cố gắng thẳng thân mình, không đâm cành mà tách nước mọc lên, lộ lá sen xanh biếc, hoa sen thiêng liêng vươn ra giữa đời. Cái mà hoa sen bao bọc lấy chính là tinh hoa mà nó hút mưa gió, tắm rửa trong sương mai kết thành, cái tinh hoa này chính là hạt sen của nó. Hạt sen có vị ngọt, tâm sen có vị đắng, nhưng không phải đắng ngắt. Đắng và ngọt, vốn là anh em, chàng bỏ ra bao nhiêu công sức, cái chàng được nhận lại thậm chí còn vượt qua sự lường trước của chàng”.
Chiết Tử Du bưng chén trà kia lên, mỉm cười nói:
“Tâm sen tuy rằng có vị khổ, nhưng lại là thứ rất tốt có thể hạ chân hỏa, ngâm ở trong cốc trà tâm sen mà thưởng thức, trong vị đắng có vị ngọt, sẽ khiến ngươi bình tĩnh hòa nhã hơn, những tâm sự tích tụ cũng vì thế mà tiêu tan trong miệng”.
Dương Hạo nhìn Tử Du nói:
“Tử Du, có thể gặp được nàng, thật là phúc lớn của ta, có nàng bên ta rồi, giống như hạt sen ngọt vậy, tâm tư tích tụ trong lòng Dương Hạo cũng không cảm thấy đau khổ u phiền nữa”.
Chiết Tử Du cười, định mở miệng nói chuyện thì nghe thấy một tiếng hét lớn:
“Xe dừng ở đây, người còn có thể đi đâu nữa? Tên họ Dương kia, ngươi ra đây cho ta, đấu một phen 300 hiệp với thiếu gia ta”.
Dương Hạo và Chiết Tử Du cùng ngẩng đầu nhìn lại, chỉ thấy một tên công tử say khướt xông vào, khuôn mặt tuấn tú đỏ ửng, tên tiểu nhị chặn đường bị hắn đẩy ra. “A...a...a” “Rầm” một tiếng. Hắn loạng choạng ngã xuống rồi đứng dậy, nhìn thẳng vào Dương Hạo, trừng mắt hỏi: “Ngươi, Dương Hạo?”
Chiết Tử Du kinh ngạc nói: “Tần Dật Vân”
Dương Hạo ngạc nhiên đứng lên: “Lý Tiểu Long, tìm ta có chuyện gì vậy?”
Tần Dật Vân tay cầm côn hai khúc chỉ thẳng vào Dương Hạo, quát to:
“Cưỡng hiếp Diễm Diễm nhà ta, là tiểu tử ngươi? Đánh!”
Dứt lời, lảo đảo đi đến, tay cầm côn hai khúc múa loạn lên. Dương Hạo sợ hãi, cuống lên. Nhìn hai bên, không có binh khí nào bên cạnh, rồi Tần Dật Vân lảo đảo đi đến, quay ngoắt người lại. Côn kêu “U” một tiếng rồi được thu về, chạm luôn vào trán của hắn.
Dương Hạo nhìn thẳng, hai mắt đăm đăm của Tần Dật Vân, một tia máu chảy từ trên trán của hắn chảy xuống, hắn gật gù khen:
“Quả...quả nhiên là công phu không tồi, nhưng ta lại là địch thủ của ngươi, bái...bái phục”.
Dứt lời, thân loạng choạng “Ùm” một tiếng chém xuống hồ sen...
Đã có 11 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Thinhbobo
Quyển 5: Khai Hoa Thập Trượng Ngẫu Như Thuyền
Chương 193:Phong vân tái khởi
Tác giả: Nguyệt Quan
Nguồn: Sưu tầm
Đường Diễm Diễm ngồi ở ngoài hành lang, ôm lấy cái bát ngọc ở trong lòng, lắc lắc, háo hức nói:
“Tiếp, nói tiếp đi, sau đó thì thế nào?”
Ngồi cạnh bên cạnh nàng là Đường Uy, giữa hai người có một cái ghế nằm, một lão thái thái tóc trắng xóa, phủ một thảm lông lạc đà trên hông, đang ngủ gà ngủ gật.
Đường Diễm Diễm lúc này đang chế son, như hộ giàu giống Đường gia, là nơi sản xuất son nổi tiếng, đàn bà của phủ thích dùng son tự mình chế. Son này đều là dùng hoa có trong từng mùa như hoa đào, hoa tử, hoa hồng lam, hoa hồng, hoa tường vi, hoa lựu... Vo sạch, chưng với hoa lộ mà thành, một khi dùng, chẳng những tươi đẹp lạ thường, mà còn có vị ngọt.
Son như vậy là sản phẩm tinh khiết từ thiên nhiên, có thể ăn được, Giả Bảo Ngọc thích ăn son trên miệng người khác đó thôi, chính là vì nó là được làm thành từ các loại hoa. Nếu như đổi với những loại sản phẩm hóa trang cao cấp hiện nay có chì thì nó có một yếu tố kích thích sinh dục cao, hắn dám ăn, không trúng độc mà chết, thì cũng trở thành tên ái nam ái nữ.
Đường Uy xua tay nói:
“Thế còn sau đó thì sao. Kiếm pháp của Dương Hạo ngươi cũng đã gặp, võ công vốn không thấp hơn Dật Vân ngươi, Dật Vân lại uống quá nhiều đầu óc quay cuồng, làm sao mà là đối thủ của hắn được. Theo tiểu nhị kia nói, kỳ thực hai người không đấu nổi hai chiêu, hắn lúc đó mới vừa từ trong nước trèo lên, định vịn vào lan can đá mà lên, thì thấy Dật Vân vung một nhát, Dương Hạo nghiêng người né được, hắn liền gõ vào mình, sau đó giật giật té xuống nước hồ, còn rơi trúng vào tên tiểu nhị đó. Tên tiểu nhị còn may mắn né được, nếu không thì, sẽ bị hắn dìm chết. Đấy...uống vào không biết trời đất đâu với đâu...”
Đường Diễm Diễm lại giã một lúc, cúi đầu xuống nghĩ, mở cờ thầm hỏi: “Việc này...đã ầm ĩ khắp Phủ cốc, mọi người đều biết rồi hả?”
“Đúng vậy”.
Đường Diễm Diễm đắc chí nói: “Ha ha, cuối cùng cũng có người tranh giành với ta, ta làm người cũng không thất bại như thế phải không?”
Đường Tam Nhi trợn mắt không để ý đến nàng.
Đường Diễm Diễm lại hỏi:
“Thế Dương Hạo đâu? Giờ đang làm gì?”
Đường Uy cười đau khổ nói:
“Còn có thể làm cái gì nữa, hôm trước vì ngươi và Chiết Nhị cô nương đã ầm ĩ dư luận rồi, giờ lại cùng Dật Vân tranh chấp, thế lực Tần gia gì không biết? Hơn nữa lại còn thân mật với Chiết Phủ, ta nghĩ...Dương Hạo có lẽ cũng không muốn gây hận thù với Tần gia, lo lắng làm loạn không thể dàn xếp lại, cho nên sau khi rời khỏi Bích Hà Viện thì trở về trạm dịch. Sáng sớm hôm nay lại đến Bách Hoa Ổ một chuyến, sau đó vội vàng trở về Lô Lĩnh Châu rồi”.
Đường Diễm Diễm vui mừng khôn xiết, cười ngây ngô vài tiếng rồi nói:
“Ha ha, ha ha, biết hắn sống không yên ổn là ta vui rồi”.
Đường Uy lại nhìn khinh khỉnh một cái, đối với muội muội ngốc này, hắn hết cách, hắn thở dài một tiếng rồi nói: “Muội Nhi à, Ca cần đi Phủ Khai Phong một chuyến, ngươi đi không? Ca đưa ngươi đi giải sầu.
Đường Diễm Diễm mừng khấp khởi, nhảy dựng lên nói: “Tha không đi, ta muốn đi Lô Lĩnh Châu”.
Đường Uy giật mình nói: “Ngươi đi Lô Lĩnh Châu làm gì?”
Đường Diễm Diễm đắc ý nói: “Việc buôn bán mà, ta đi Lô Lĩnh Châu làm ăn buôn bán, xem Dương Hạo hắn có dám cản ta tiến vào không? Hừ hừ, nghĩ đến bộ dạng đắc ý của Chiết Tử Du ta phát bực, việc này nếu không xử lý được, ta còn là Đường Diễm Diễm sao?”
Rồi nàng cúi đầu, thất thanh kêu lên: “Ai... vinh dự được nghe ngươi nói chuyện rồi, cánh hoa của ta đã được giã xong, giờ phải đi lọc mới được...”. Nói xong ôm bát ngọc chạy nhanh vào phòng.
Đường Uy vuốt sống mũi lẩm bẩm: “Nha đầu này...không có trái tim gì cả...”
Lão thái thái nằm một bên ghế ngủ gà ngủ gật, bỗng nhiên mở mắt ra, liếc mắt một cái nói: “Đứa cháu gái ngoan của ta tính tình vui vẻ, không để bụng chuyện này, cho dù tính nết thế nào, khóc một trận là lại bình thường thôi”.
Đường Uy cười đau khổ nói: “Bà nội…”
Lão thái thái hừ một tiếng nói: “Ngươi nói xem, cô nương như vậy có điểm gì là không tốt nào? Nếu như khuê nữ người ta nghe một ca khúc não lòng có thể khóc, nhìn hoa rơi cũng tiếc thương, nhìn mưa rơi cũng thấy thương cảm, cả ngày u sầu, khóc lóc rên rỉ, lẽ nào ngươi chịu được? Hừ!”
Đường gia lão thái quân là một người đàn bà của Miêu gia, hồi trẻ có tính cách hoạt bát vui vẻ, tính cách của Đường Diễm Diễm giống như bà nội. Hơn nữa đàn ông Đường gia rất nhiều, đàn bà thì ít, đến mức hai đời mới sinh một khuê nữ. Các trưởng bối Đường gia tự nhiên mà coi cháu gái thành của báu trong tay, ngay cả khi nàng có gì không phải, bọn họ nhìn cũng thấy đáng yêu, thấy thích thú.
Đường Uy bị bà nội giáo huấn cho một trận, thấy bà định nói tiếp, vội nhảy người lên nói:
“Ai zô, cháu chợt nghĩ ra còn có một chuyện khẩn cấp chưa giải quyết xong. Bà nội à, người nghỉ ngơi nhé, cháu phải nhanh chóng về giải quyết đây”. Đường Uy tìm cớ, liền chạy một mạch ra ngoài.
Đường Diễm Diễm sau khi giao việc cho thị nữ làm, thì đi ra khỏi phòng, thấy Đường Uy đa chuồn mất bóng dáng, giậm chân hậm hực nói:
“Tên kia, người ta còn có cái cần hỏi về hắn đây, lại chuồn mất rồi”.
Lão thái thái nhìn Đường Diễm Diễm cười, đưa tay ra nói:
“Cháu gái ngoan, đến đây với bà”.
“Hắn…”
Vừa nhắc tới Dương Hạo, hai con mắt của Đường Diễm Diễm sáng lên, hào hứng nói:
“Tên kia…nói thế nào ạ, hắn í à, rất vô lại, rất háo sắc, rất hạ lưu, vầng…hơn nữa rất vô liêm sỉ… chẳng có điểm nào giống một quân tử phẩm đức cả”.
“Hả?” Lão thái thái mở to mắt nhìn cháu gái yêu của mình.
Đường Diễm Diễm vẫn chưa phát hiện ra, vừa mừng vừa xấu hổ nói:
“Nhưng con người hắn ấy, lại trí tuệ đại dũng, đại nhân đại nghĩa, giỏi hơn so với có đạo đức quân tử, mọi người đều khâm phục hắn”.
Nàng tủm tỉm cười, dịu dàng nói:
“Hơn nữa, nếu nói là hắn không học vấn, không giỏi võ thì chưa hẳn vì có lúc hắn nói ra rất nhiều đạo lý khiến người ta tỉnh ngộ, ta bình thường cũng không ngờ đến. Nếu nói hắn học vấn cao siêu, thì cử chỉ lời nói lại không có dáng vẻ của kẻ đọc sách thánh hiền.
Trước kia, ta luôn cảm thấy hắn là một tên thư sinh trói gà không chặt, ai biết được đột nhiên hắn học được công phu cao cường đến thế, hơn nữa lại có kiếm pháp vô cùng đẹp, bà nội à, loại kiếm pháp này thực sự rất lợi hại, ngay cả tên Lý Kế Quân cũng phải chịu thua dưới kiếm pháp của hắn. Cái tên này, không làm thì thôi, một khi đã nhúng tay vào thì người ta nhất định sẽ không ngờ tới…”
“Cháu gái ngoan của ta, ngươi không cần kể nhiều như vậy, xem ra ngươi thực sự thích người ta rồi, hồi bà nội ngươi còn trẻ, cũng giống ngươi giờ vậy. Ừ, con mắt cháu gái ngoan của ta thật không tồi, ngươi nếu đã thích hắn thì phải giữ lấy một chỗ trong lòng hắn nhé”.
Đường Diễm Diễm tiu nghỉu nói:
“Nhưng…tên đó giờ đã thích Chiết Tử Du rồi. Lúc đầu là ta thích hắn trước, bà nói xem ta có điểm nào không xứng với hắn. Ngoài…ngoài hơi nóng tính một chút, nhất định là vậy, cho nên hắn bị ta dọa mà sợ chết khiếp, nhưng đó là trước kia mà?”
Nàng gục đầu xuống nói nhỏ: “Hơn nữa, ta nói chuyện với hắn thích lớn tiếng, đó cũng không có gì là ghê gớm mà. Giờ đỡ hơn một chút, hối hận đã muộn rồi…
Bà nội ơi bà nội, bà đừng nhìn khi ta nói chuyện trước mặt các ca ca luôn tỏ ra ghê gớm, kỳ thực…kỳ thực trong lòng ta yếu mềm vô cùng, nếu như hắn thích người bên cạnh, ta còn có thể tranh giành được, nhưng Chiết Tử Du…dù sao cũng là con gái Chiết gia…
Giờ ta không tranh giành trước mặt cô ta được rồi, nghĩ đến mà hận sôi lòng, nuốt không trôi nỗi giận này, nhưng ta…ta phải làm sao đây, người ta vốn không thích ta, ta lại năm lần bảy lượt đi tìm người ta, cái mặt này…không còn mặt mũi nào nữa, tất cả mọi người trong Phủ Cốc chắc chắn sẽ chê cười ta. Ta…ta…”
Đường Diễm Diễm mếu máo, nước mắt rơi xuống trong suốt.
Lão thái thái hừ một tiếng, lông mày nhướn lên, nói rất khí khái:
“Xấu hổ? Giờ lùi lại, cái gì cũng không làm, lúc đó mới là xấu hổ liên lụy đến nhà bà ngoại ngươi. Thế lực Chiết gia lớn mạnh, không sai, nhưng Đường gia chúng ta cũng không đến mức đến hắn mà cũng phải nhường. Đường gia ta phú quý hơn các vương hầu, cũng có một vị trí nhất định với cuộc sống của Chiết gia.
Ta không tin, Chiết Ngự Huân hắn vì tư tình của tiểu nữ đó mà trở mặt với Đường gia chúng ta. Hơn nữa, nếu như đến người mình thích mà không dám đi giành lại, thì làm người còn có vị gì. Cháu ngoan của ta, theo đuổi cho ta, nhắm trúng quyết không buông, theo cô ta đến cùng!”
“Vâng!” Đường Diễm Diễm gật đầu mạnh một cái.
Lão thái thái ngồi dậy, uy phong lẫm liệt nói:
“Nữ nhi theo đuổi nam nhi, chỉ cách có một sợi vải mỏng, bà nội không tin với bộ dáng người người yêu thích của cháu ngoại ta, mà không làm mê hoặc được tên tiểu tử kia. Ông nội ngươi thì sao, lúc đầu là thiếu chủ của Đường gia, thân phận cao quý. Còn bà nội ngươi thì sao, nói đến thân phận thì sao xứng với ông ấy được. Nhưng ta thích ông ấy, luôn theo đuổi ông ấy, từ Miêu trại theo đuổi đến Đường gia, cuối cùng thì đã gả cho ông ấy rồi đó thôi. Nếu không thì làm sao mà sinh ra một ổ tiểu vương bát đản được”.
Lão thái thái vỗ đùi nói:
“Ồ, đúng rồi! Thái lão nhi của ngươi là thầy mo của Miêu trại ta mà. Năm đó, khi ta rời Miêu trại, thái lão lão ngươi còn đưa ta một cái bình, cái bình đó là thái lão lão đã cúng pháp thuật vào. Thái lão lão ngươi nói, lấy chiếc bình đó đổ rượu vào rồi cho đàn ông uống, sau đó đập vỡ đi, người đàn ông đó chắc chắn sẽ theo ngươi đến chết”.
Đường Diễm Diễm vội lau nước mắt, mở to hai mắt nói:
“Thật ư? Ông nội vì thế mà thích bà nội?”
Lão thái thái than thở nói:
“Ai biết là có phải vì nó hay không, nhưng…ta sau này đã thành bà nội ngươi đấy thôi”.
Đường Diễm Diễm vội hỏi:
“Vật này cần dùng đến một đôi không?”
Lão thái thái nói:
“Không cần, lúc đầu ta rời khỏi Miêu trại, trèo đèo lội suối, ta cũng sợ làm vỡ mất nó, cho nên xin hai cái”.
Đường Diễm Diễm sáng mắt lên, nói:
“Bà nội, bà nội, cái bình còn lại ở đâu?”
Lão thái thái vỗ vỗ vào trán, than:
“Đã bao nhiêu năm nay rồi, lúc đầu giữ lại làm vật kỷ niệm, khi ông nội còn sống, vẫn còn nguyên vẹn, chúng vẫn còn một đôi, giờ để đâu nhỉ, để ta nghĩ xem…”
Lão thái thái đứng lên, run rẩy đi vào trong phòng, Đường Diễm Diễm theo sát phía sau, tim đập thình thịch. Hai bà cháu đi vào trong phòng ông nội. Những đồ đạc năm xưa trong phòng lộn xộn, ngổn ngang, như bị kẻ trộm bới móc vậy, cuối cùng ở gầm tủ bát có một cái tráp, mở ra, bên trong có một mảnh vải nhung bọc lấy hai chiếc bình, màu trắng, họa tiết là hoa lan thanh nhã. Vải nhung đã chuyển sang màu cũ kỹ, cái tráp cũng không biết được bao nhiêu năm nữa.
Đường Diễm Diễm nhìn ngắm, xem xét hai chiếc bình, vội hỏi:
“Bà nội, cái nào là cái mới?”
“Đừng nóng vội, để ta xem xem, cẩn thận xem xem”.
Lão thái thái toan khom lưng, nheo mắt nhìn một lúc lâu, xem độ nặng nhẹ của từng cái, mặt nở nụ cười nói:
“Là bình này, đúng vậy, chính là bình này”.
Đường Diễm Diễm giật lấy bảo bối ôm vào trong lòng, hạnh phúc cười ngốc nghếch…nhưng cười như vậy vẫn lộ ra sự nham hiểm…
Xe của Dương Hạo từ trong bụi lau sậy chui ra, người theo ra là một thân cỏ lau, đến Dương Hạo ngồi trong xe cũng không phải ngoại lệ. Hắn chui khỏi xe, đứng ở càng xe phủi phủi hoa cỏ lau, lén nhìn đường, may mắn nói:
“Giờ đến Lô Hà Lĩnh, xem ra Tần Dật Vân sẽ không đuổi đến nữa. Ôi! Đường Diễm Diễm này, nhiều rắc rối quá, vô duyên vô cớ trêu chọc ta”.
Bích Túc vui sướng cười:
“Đại nhân, xem ra giờ chúng ta đã đặt quan hệ với Chiết gia rồi ấy nhỉ…hihi, ngươi là nhất phủ chi tôn, không dám đấu với hắn, ngươi sợ hắn sao?”
Dương Hạo trừng mắt liếc một cái nói:
“Ta không phải là sợ hắn, nhưng hà tất vô duyên vô cớ gây thù oán với Tần gia làm gì?”
Bích Túc cho là không đúng nói:
“Các trưởng bối của Tần gia không thông tình lý như vậy sao?”
Dương Hạo nói: “Trưởng bối Tần gia ngược lại sẽ không vì việc này mà sinh oán với ta. Tần Dật Vân đang nổi nóng, nếu làm tổn thương hắn, như vậy từ không thù oán mà sinh oán, tình cảm qua lại của Tần gia và Chiết gia có bao nhiêu năm rồi? Hơn nữa việc mà Tần gia làm là buôn bán quân mã, Chiết tiết soái rất nể trọng Tần gia. Tần công tử không phải là một người không biết đạo lý, ngẫm lại, hắn cũng biết kiềm chế một chút. Chúng ta hà tất phải tạo cái thù này làm gì?”
Chữ “Thù” của Dương Hạo còn chưa nói dứt, thì nghe thấy một âm thanh “Đốc” vang lên, mắt nhìn về phía có âm thanh đó phát ra, một cây tên thô sơ bay đến, khiến cho Dương Hạo dựng tóc gáy, trợn tròn mắt.
“Ôi, mũi tên này bắn lên trên đầu ta rồi…
Rồi nghe thấy một giọng nói hét lớn quát:
“Các ngươi là hạng người gì vậy hả, lén lén lút lút, lại đây cho ta, tay giơ lên đầu, đi theo thứ tự lại đây. Những tên trên cái xe kia, xuống ngay cho ta, mau!”
Mũi tên bắn lên trên trời, phát ra âm thanh vút một cái. Dương Hạo giơ tay lên phía trước thì thấy một thiếu nữ mặc áo choàng da dê, lưng dắt một thanh bội đao, tay cầm cây cung, cảnh giác nhìn hắn, dây cung vẫn còn rung.
Hai má của cô gái này ngăm đen, mày rậm mắt to. Xem ra còn khỏe mạnh hơn cả những chàng trai. Theo tiếng quát của nàng, trong bụi cỏ lau chui ra vài tên cầm cung và bụi đao, cách ăn mặc của người thảo nguyên đều giống với nàng.
Dương Hạo thấy vậy trong lòng bất an lo lắng:
“Thôi xong, Lý Kế Quân nhanh như vậy, Lô Hà Lĩnh đã bị chiếm đóng rồi sao?”
Hắn hồn bay phác lạc hỏi: “Cô nương, ngươi là ai?”
Cô nương đó dùng tay gạt mũi một cái, trừng đôi mắt đen nói: “Ta là Điềm Tửu, sao hả?”
“Điềm Tửu?”
Dương Hạo nghe cái tên này có vẻ quen quen, rồi tự nhiên nghĩ tới lời của Lý Quang Sầm trêu hắn, liền mừng rỡ nói:
“Ngươi chính là Điềm Tửu, con gái của Mộc Ân?”
Con mắt hoài nghi của cô nương đó nhìn hắn, ngạc nhiên nói:
“Ngươi quen cha ta, ngươi là ai?”
Dương Hạo vội gật đầu rồi nói:
“Quen, quen, ta chính là Lô Lĩnh Châu tri phủ Dương Hạo, cô nương ngươi đã nghe qua tên của ta chưa?”
“Ngươi là thiếu…ồ, ngươi là Dương Hạo?”
Cô nương ấy tay nắm chặt đao, nhìn Dương Hạo từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, vẻ mặt do dự không tin, đúng lúc này, trong cỏ lau lại phát ra một tiếng vang, lại có vài người chui ra, phía trước có một người đội khăn xanh trùm đầu, trên vai đều là hoa lau trắng như tuyết, Dương Hạo không nói chuyện nữa, Mục Vũ bên cạnh đã phấn khởi kêu lên:
“Tỷ tỷ!”
Người đi đến chính là Mục Thanh Tuyền, liếc mắt nhìn thấy phía trước có mấy người này, Mục Thanh Hoàn giật mình, vội hô:
“Điềm Tửu, mau bảo bọn nó bỏ tên xuống. Vị này chính là tri phủ của châu này Dương Hạo đại nhân”.
Mục Thanh Tuyền giải thích một lúc, Điềm Tửu liền thè lưỡi, ngại ngùng cười nói:
“Hóa ra ngươi thực là Dương Hạo đại nhân, ha ha ha…, mũi tên lúc nãy của ta không làm ngươi sợ đó chứ?”
Dương Hạo lau mồ hôi lạnh trên trán, cười nói:
“Không làm ta sợ, chẳng qua cách bắn tên của cô nương rất cao cường, ta thực sự là rất khâm phục”.
Điềm Tửu nhét tên vào sau lưng, nghe hắn khen ngợi, lấy làm đắc ý.
Dương Hạo lại quay sang Mục Thanh Tuyền nói:
“Đi thôi, chúng ta về. Kha phu nhân, khi ta rời khỏi Lô Hà Lĩnh, chúng ta dường như chưa bố trí canh phòng ở một nơi xa như này, giờ sao lại nghiêm ngặt như vậy, còn bắn tên nghênh đón người nữa, nếu là là thương khách, khó tránh khỏi bị làm cho sợ hãi”.
Điềm Tửu theo sau, nghe nói những lời này bèn nói:
“Dương Hạo đại nhân, nếu ngươi không phải lén lén lút lút chui ra từ trong bụi cỏ lau kia ra, ta cũng sẽ không bắn mũi tên đó”.
Dương Hạo ngây người ra, nhìn Mục Thanh Tuyền ở bên cạnh, mỹ nhân chân dài này bước dài một bước thì bỏ xa những người đi phía sau, hai hàng lông mày của nàng hơi động đậy, thở dài một tiếng nói:
“Dương đại nhân, ngươi có lẽ không biết, mấy ngày ngươi đi, Lô Hà Lĩnh chúng ta đã mấy lần bị tập kích”.
Dương Hạo giật mình, lắp bắp nói: “Sao lại như vậy được, bọn địch là những người nào?”
Đã có 12 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Thinhbobo
Quyển 5: Khai Hoa Thập Trượng Ngẫu Như Thuyền
Chương 194:Ăn miếng trả miếng
Tác giả: Nguyệt Quan
Nguồn: Sưu tầm
Dương Hạo nghe Mục Thanh Tuyền nói mấy câu, không chịu nổi nữa, hắn lập tức ra chỗ xe, đi thẳng đến tri phủ nha môn, lại lệnh cho Bích Túc, Mục Vũ chia nhau đi tìm các quan, hẹn đến gặp mặt ở tri phủ nha môn. Dương Hạo ngồi xe đến tri phủ nha môn, phủi sạch quần áo, thay quan bào, đi thẳng đến đại đường. Nhóm người phụ tá tri phủ là Phạm Tư Kỳ và Bôi Bằng Vũ lúc này cũng đã nghe được tin mà đến.
Dương Hạo thấy các quan chưa đến, liền hỏi phụ tá tri phủ: “Nghe nói họ hàng của Mộc đoàn luyện sứ tìm nơi nương tựa trên thảo nguyên? Dân số khoảng bao nhiêu, giờ bố trí ra sao?”
Bôi Bằng Vũ vội nói: “Đúng vậy đại nhân, họ hàng của Mộc đoàn luyện sứ đã nghe tin mà đến nương tựa, ước tính có khoảng 1322 lều, 5446 người, trong đó phụ nữ, trẻ em và người già đã bố trí ở sau cốc, đào hầm trú ẩn, xây dựng lều lán cho bọn họ ở, tộc người đó mang theo rất nhiều trâu dê ngựa, để tiện cho chăn thả, người già chăn thả ở ngoài bãi cỏ cách cốc hơn mười dặm, xây dựng lều trại chăn thả ở đó”.
Lô Lĩnh cốc nói là một cốc, đó là vì ngoài phía trước có lối ra, thì xung quanh đều là dãy núi bao quanh. Sơn cốc này uốn lượn theo từng khúc, thế núi kéo dài về phía sau, nó không phải là một con đường thẳng tắp. Chỗ rộng nhất trong sơn cốc là mười lăm, mười sáu dặm, chỗ hẹp nhất chỉ có năm sáu dặm, qua tri phủ nha môn của Dương Hạo, đi về phía hậu viện, còn có một khoảng không rộng lớn, phải đi ra gần hai mươi dặm, mặt đất mới từ từ bị bó hẹp, mất đi dãy núi trùng điệp.
Theo sự bố trí của Dương Hạo, sau khi mấy vạn dân đăng khí chải vuốt sợi, theo khu hành chính ở trong thôn mà phân biệt hoạch định khu rồi bố trí, từng thôn trang và chợ nhỏ trong sơn cốc được mở ra vô số, kéo dài về phía sau. Không gian mở ra khi vừa mới vào cốc là chi phủ nha môn, bên trái bên phải của tri phủ nha môn dựa vào núi, xây nhà ở cho các quan cấp dưới. Hai bên phía trước cốc, một bên kinh doanh và chỗ ăn chơi như nhà trọ bình dân, hiệu buôn, quán rượu. Tòa nhà hầm gần hai bên cửa cốc được đào thông với nhau, là hầm binh ẩn nấp.
Sự bố trí của Bôi Bằng Vũ, theo tập quán sinh sống của tộc người Lý Quang Sầm, đều đưa đàn bà trẻ em người già vào trong cốc làm công thương, hoặc làm nghề nông, sự sắp xếp đó là hợp lý. Dương Hạo gật đầu nói:
“Bố trí như vậy là rất tốt, cho dù là Khiết Đan hay là các tộc người khác, có nhiều tộc người rất phức tạp, theo tập quán của dân chúng mà đưa ra các điều lệ quản lý khác nhau, ví dụ như xây Nam viện, Bắc viện để phân biệt người Hán và người Khiết Đan. Ở với nhau một thời gian thì chắc chắn sẽ xảy ra xung đột, việc này…mất khá nhiều thời gian”.
Bôi Bằng Vũ vâng vâng dạ dạ, Dương Hạo lại bỏ một khoảng thời gian để tìm hiểu thêm tình hình dân chúng từ phía bọn họ. Những quan văn võ như Trình Đức Huyền, Lý Quang Sầm, Kha Trấn Ác đều đã lần lượt đến, Dương Hạo ngồi vào vị trí của mình, sau đó mời bọn họ ngồi xuống, rồi mới hỏi tình hình gần đây có sự xung đột với các bộ lạc khác.
Hóa ra, những ngày Dương Hạo không có mặt, việc làm ăn buôn bán của dân chúng Lô Lĩnh Châu và Đảng Hạng Thất Thị rất tấp nập. Phần nhiều dân chúng tạm thời chưa có công ăn việc làm đã cùng nhau vào núi săn thú, hái quả dại, để bán hoặc phơi phóng cất giữ, những động vật mà săn bắt được ướp muối cẩn thận rồi cất, dùng lông thú làm áo lông chuẩn bị cho mùa đông gía lạnh. Cách săn bắt này có tác dụng rất tốt, dân chúng có việc làm, nỗi lo âu trước đây của dân chúng giờ cũng đã mất.
Nhưng một khi thợ săn bọn họ đi xa thì sẽ chạm mặt với các bộ lạc người Khương. Bộ lạc này không lớn, vào khoảng mấy trăm người. Có vài người Khương của bộ lạc sau khi chạm mặt với họ, biết được sự tồn tại của người Hán Lô Hà Lĩnh, liền đem da lông thú vật mà mình săn được đến Lô Hà Lĩnh bán, vì thương nhân qua lại Lô Hà Lĩnh rất nhiều, nên da thú vật của họ đều được bán với giá rất cao, rồi đi mua muối, trà, vải vóc về nhà, họ rất vui vì điều này, sau khi tin này được truyền ra xa, thì có thêm người Khương từ nơi xa đến buôn bán với bọn họ.
Nhưng bộ lạc người Khương không phải tất cả đều là người tốt, họ biết buôn bán, người ở bộ lạc còn tàn ác dã man, có lúc chúng ép mua ép bán, không khỏi phát sinh tranh chấp với Lô Hà Lĩnh. Đồng thời, những thương nhân người Hán này cũng khôn, biết làm giả những thứ đem bán rồi mang bán cho họ, xung đột hai bên ngày càng căng thẳng.
Người Khương bị thiệt, trở về tập trung tộc người gây rối, ban đầu chỉ là đánh nhau của họ hàng, bạn bè, sau thì trở thành chiến tranh của toàn bộ lạc. Trình Đức Huyền vốn còn mang những chuyện này làm thành tranh cãi của toàn dân, muốn để cho triều đình xử lý, nhưng người Khương nào biết Vương pháp là gì, ban đầu là chúng tìm đến gây sự, sau thì trở thành đánh giữa đường cho hả giận, cướp bóc những thương nhân giàu có.
Nhân mã được tập hợp lại ngày càng nhiều, bọn chúng gào thét núi rừng, làm cường đạo, coi Lô Hà Lĩnh là miếng mồi ngon mà xâu xé. Hai vị đoàn luyện sứ Lý Quang Sầm và Kha Trấn Ác vội tổ chức phòng thủ, đánh vài trận với chúng, xung đột hai bên ngày càng khốc liệt, trở thành trận chiến giữa người Hán Lô Hà Lĩnh và người Khương.
Để phòng bọn chúng bất ngờ tấn công dân chúng Lô Hà Lĩnh, cướp đoạt hàng hóa, nên Kha đoàn luyện mới lệnh cho trạm canh gác tứ phía, nhưng những dân tráng canh gác này không phải là đối thủ của người Khương, dân chúng Lô Lĩnh Châu bị thiệt thòi lớn. May mà lúc này mấy nghìn tộc người của Lý Quang Sầm đã từ thảo nguyên trở về, bộ tộc bất luận là già trẻ trai gái, có vũ khí hay không, Mộc Ân chọn ra trai tráng trong đó thêm vào bát dân đoàn, lúc này sức chiến đấu mới mạnh lên.
Dương Hạo nghe xong, hai mày nhíu lại, quay sang nói với Lý Quang Sầm:
“Mộc lão, những tên người Khương này là tộc người của Đảng Hạng Thị nào?”
Lúc đó hắn mới nghĩ ra, hắn có mối quan hệ mật thiết với Đảng Hạng Thất Thị, là cộng chúa của Thất Thị, lẽ nào trói buộc không nổi những tên người Khương này.
Lý Quang Sầm nhìn hắn liền hiểu được bụng dạ hắn đang nghĩ gì, liền nói:
“Phủ đài đại nhân, người Khương có rất nhiều nhánh bộ lạc không lệ thuộc, cái gọi là Đảng Hạng Bát Thị, chỉ là Bát Thị lớn nhất của khu Hoành Sơn. Bộ lớn nhất chính là Dã Ly Thị, nhưng còn có rất nhiều bộ lạc khác, có lớn có nhỏ, rải rác ở khu Hoành Sơn, đông thì có khoảng ba năm trăm chiếc lều tộc người, nhỏ thì chỉ có mấy chục lều tộc người, tổng số là 1340000 lều. Chúng vừa săn bắt, vừa học được cách trồng trọt của người Hán, có một bộ lạc thiện chiến như bộ lạc người Khương và Dã Ly Thị, hơn nữa còn am hiểu tác chiến vùng núi, không bị Hạ Châu và Lân phủ quản lý”.
Dương Hạo vuốt mũi, ngạc nhiên nói:
“Người Khương có hàng vạn lều, ít nhất thì cũng có sáu bảy vạn người, đông như vậy giữa trời đất mênh mông, ba thế lực không để ý đến sao?”
Khi Trình Đức Huyền từ Phách Châu hướng Bắc Hán đã cẩn thận nghiên cứu về tình hình địa lý, trình độ hiểu biết của người tây bắc, tình hình ở đây cũng có hiểu một chút, thấy Dương Hạo không hiểu, bèn nói:
“Phủ đài đại nhân, người Khương phân tán ở khu núi non Hoành Sơn, vốn không dễ quản lý, vả lại dân chúng dũng mãnh, cho nên cho dù là Hạ Châu hay Phủ Châu đều lấy việc trấn an bọn chúng là chính”.
Dương Hạo hơi nheo mắt lại, trầm giọng nói:
“Cái gì gọi là trấn an?”
Trình Đức Huyền mỉm cười, từ từ nói:
“Cái gọi là trấn an, chính là chức quan mà người Khương Hoành Sơn này nắm giữ, cho bổng lộc, không nộp thuế, chỉ mong bọn chúng không đến gây chuyện là tốt lắm rồi. Người Khương Hoành Sơn dã tính khó lường, cư dân hỗn tạp hơn người Hán. Nếu chúng mà hướng Hạ Châu thì sẽ ảnh hưởng luôn đến Lân Châu, khó cai quản lũ người này”.
Hắn không biết đảng người của Mộc Ân là người Khương, cho nên không kiêng dè gì mà bình xét, thấy Dương Hạo chăm chú nghe, liền uống một hớp trà, chậm rãi nói:
“Người Tống ta và người Khương kia có thói quen khác nhau. Khác ở chỗ về địa lý, có khai hóa hay không, nhưng điểm thực dụng nhất là thủ lĩnh của các bộ lạc có phải là người Tống hay không. Có tuân thủ theo người Tống là thục hộ. Nhưng thục hộ này luôn không đổi, khi thần phục Tống thành thục phiên, một ngày nào đó làm phản, thì lại thành bọn mọi rợ.
Việc chiêu dụ với những tên người Khương không thuộc phe nào này, hai phủ Lân Châu đã lấy nhiều lần dụ dỗ sinh hộ thành thục hộ, mà thục hộ Hạ Châu lại biến thành sinh hộ. Thời gian trôi đi, người Khương Hoành Sơn đã hiểu được những lợi ích sâu sa mà chúng có được, trở nên giảo hoạt, thay đổi chóng mặt, từ ba thành bốn, từ có thành không, ngày càng kiêu ngạo”.
Đám người Lý Quang Sầm, Mộc Ân nghe xong mặt xạm lại, cảm thấy như tộc người mình bị sỉ nhục vậy, Dương Hạo im lặng một lúc lâu, liền quay sang Kha Trấn Ác nói:
“Kha đoàn luyện, chiến trận mấy ngày qua, thương vong thế nào?”
Kha Trấn Ác vội đứng dậy nói:
“Phủ đài đại nhân, mấy ngày đầu chỉ là tư oán mà đánh nhau giữa người Khương và thương nhân Lô Lĩnh Châu ta, tử vong mất vài dân, có hơn chục người bị thương, nhưng sau đó người Khương lại tiếp tục trả thù, nhiều ngày đánh úp, dân chúng Lô Lĩnh Châu ta thương vong không dưới trăm người, đoàn luyện dân tráng đã giảm đi hơn hai mươi người, hơn nữa…”
Dương Hạo luôn coi dân Lô Lĩnh như người thân của mình, sau khi nghe được bị thương vong mấy trăm dân thì vô cùng phẫn nộ, thấy hắn chần chừ không nói tiếp, hai hàng lông mày của Dương Hạo nhướn lên, gằn giọng hỏi:
“Hơn nữa làm sao?”
Kha Trấn Ác bị hắn lườm, hơi run, vội nói:
“Dân chúng Lô Lĩnh Châu ta bị thương thì cũng không nói làm gì, nhưng chúng còn đánh úp thương nhân qua lại, cướp bóc tài sản, giết họ. Hai ngày trước…hai ngày trước thương nhân họ Hoàng mang theo gia quyến đến Lô Lĩnh Châu ta, kết quả là trên đường bị bọn Khương Hoàng Sơn sát hại, hàng hóa đều bị chúng cướp sạch,… thương nhân họ Hoàng kia đã bị chúng xé xác một cách rất tàn khốc, chân tay mỗi cái một nơi, ta phải tìm mấy dặm mới lấy lại về. Cái đó trở thành nỗi hoảng sợ cho các thương nhân, hai ngày nay đường đi yên ắng, thương nhân không dám đến nữa”.
Dương Hạo nắm chặt tay, hai mắt dần đỏ ngầu lên, Kha Trấn Ác nhìn hắn từ ánh mắt hiền lành trở nên dữ tợn, hơi sợ. Không dám nhìn thẳng hắn, Dương Hạo yên lặng một lúc lâu, cười nhạt một tiếng rồi nói:
“Được, được lắm. Dân chúng Lô Lĩnh Châu ta bị đánh thương giờ thế nào rồi?”
Kha Trấn Ác còn chưa trả lời, ngoài nha môn có tiếng kêu khóc thảm thiết, Dương Hạo giật mình, vội đi ra cửa, đám người Trình Đức Huyền, Lý Quang Sầm cũng nhìn theo phía cửa nha môn, rồi đi theo ra. Dương Hạo đi ra ngoài cửa, thấy đông nghìn nghịt toàn người là người. Có rất nhiều dân chúng cùng hô to: “Dương đại nhân trở về rồi. Dương đại nhân giúp cho bọn tiểu dân này…
Cửa phủ vừa được mở ra, Dương Hạo liền bước ra ngoài, dân chúng liền quỳ rạp xuống đất, đầu cúi rạp xuống đất, có người nói: “Đại nhân, đại nhân, đất của ta khai hoang, nhà gỗ mà ta dựng đều bị bọn Hoành Sơn phá rồi, cầu xin đại nhân phân xử cho”.
Một cụ già tóc trắng xóa đi lại quỳ xuống dưới chân Dương Hạo, ôm lấy chân hắn khóc không lên tiếng nói: “Đại nhân, đại nhân, cháu của tiểu nhân chỉ mới sáu tuổi, nó không bị chết trong tay người Khiết Đan, không bị chết ở nơi đất cằn sỏi đá, giờ ở đây lại bị bọn Hoành Sơn dã man đến giết, bọn chúng, bọn chúng giết cháu ta, đại nhân”.
Cụ già ấy chưa nói dứt lời, thì phun ra một ngụm máu tươi, rồi ngất lịm đi.
Dân chúng mỗi người một câu, tuy không rõ từng lời nói, nhưng nghe thì thấy rất đau thương. Dương Hạo ở trong nha môn chỉ nghe thấy các quan nói chỉ biết dân chúng bị thương mấy trăm người, ai biết được tình hình lại thê thảm như vậy. Hai mắt Dương Hạo đỏ ngầu, nước mắt rưng rưng.
Dương Hạo giơ hai tay lên, dân chúng thôi không nói nữa, chỉ có những tiếng khóc.
“Các vị, chuyện của các vị, bản phủ đã biết hết thảy rồi”.
Dương Hạo dừng lại một chút, lấy lại bình tĩnh, nén xúc động, lại nói:
“Bản phủ vừa mới trở về. Đã bàn bạc việc này với các quan, các vị yên tâm trở về đi, người thân của các vị, cũng chính là người thân của ta, việc này, bản phủ nhất định sẽ giải quyết công bằng cho mọi người”.
Dân chúng xưa nay đều tin tưởng Dương Hạo, giờ hắn hứa hẹn như vậy, thì cảm thấy yên tâm hẳn. Dương Hạo đứng chắp tay về phía dân chúng cáo từ.
Dương Hạo trở lại đại đường, tay đập vào án thư, tức giận quát: “Lô Lĩnh ta tuy không có quân lực cường mạnh, nhưng tường thành cao, còn không thể tự bảo vệ mình sao? Dân tráng tuy huấn luyện chưa lâu, nhưng khi qua lại buôn bán với Đảng Hạng Thất Thị, cũng đã có đánh trận giả. Huống hồ…tộc người Mộc lão có mấy nghìn dân chăn nuôi. Mỗi người canh một trạm, sao lại không thể thủ được Lô Lĩnh Châu?”
Các quan đều cúi đầu xuống, sau một lúc lâu, Lý Quang Sầm mới nói: “Phủ đài đại nhân, người Khương Hoành Sơn giỏi cưỡi ngựa bắn cung, giỏi mai phục tập kích. Tường bao của chúng ta không chống lại được, chủ yếu là tăng cường phòng ngự bên ngoài cốc, bọn Khương thường đánh úp sau rặng núi.
Hai ngày nay, vợ chồng Kha đoàn luyện sứ đã tăng cường phòng ngự sau cốc và trên núi cốc, đã làm được rất nhiều bẫy để phòng ngự. Khi bọn Khương đến đánh úp sẽ bị mắc bẫy, thế là chuyển đến xoay quanh ngoài cốc, bắt đầu tấn công đánh úp thương nhân vào cốc. Bọn họ không đông, nhiều thì khoảng mấy trăm người, ít thì khoảng ba năm chục người, nấp ở trong bụi cỏ lau rất khó phát hiện. Hơn nữa vì là ít người, chỉ cần mang theo chút lương khô thì có thể ẩn úp khá lâu, thực khó mà phòng ngự được”.
Dương Hạo thở dài, đang ngồi thì đứng lên. Tất cả quan phụ tá đều quan sát sắc mặt của hắn, chuyện này chẳng lẽ lại bó tay sao, vô lý thật, nếu không giải quyết được mâu thuẫn của dân bản xứ thì sẽ tạo thành xung đột lớn hơn nữa.
Người Khương Hoành Sơn không phụ thuộc vào bất kì một thế lực nào, hơn nữa ngay cả thể chế xã hội cũng không có, giữa các bộ lạc không có bất kì mối quan hệ phụ thuộc nào, cho nên muốn lập quan hệ về chính trị, kinh tế hay là văn hóa với chúng đều không dễ dàng. Muốn tìm thủ lĩnh người Khương cùng ngồi xuống mà nói chuyện cũng không biết tìm người nào.
Nhưng tuy là không có người lãnh đạo nhưng bọn người Khương này lại có cùng mối thù oán, thêm vào sự hỗn độn phức tạp của ba thế lực, nó hình thành nên bản tính kiêu ngạo, tự dương tự đắc của chúng, giờ quen thói cướp bóc rồi, sao có thể từ bỏ thói đó được.
Về địa lý ở đây, không ai có thể thuộc hơn dân bản xứ, cho dù là Hạ Châu, Phách Châu hay là Lân Châu khu vực này đều có đóng quân vây quanh, một khi phát hiện ra có chiến sự, bọn chúng sẽ không tiếc tiền mà hối lộ cho bọn người Khương Hoành Sơn này.
Người Khương Hoành Sơn ngoài dũng mãnh thiện chiến, như vậy sẽ khiến cho người khác sợ làm đối thủ của chúng, nguyên nhân chủ yếu là giữa các vòng vây đóng quân đều được liên lạc với nhau, truyền tin, vận chuyển lương thảo, đều không thể không phối hợp với dân bản xứ, nếu không một khi bọn chúng đánh, cản trở mọi đường, thì không có cách nào đánh lại được.
Dương Hạo đảm nhiệm chức vụ Lô Lĩnh tri phủ. Lô Lĩnh Châu có thể đứng vững được không. Tuy rằng rất khó khăn, nhưng dân chúng không phải ai cũng biết điều này, sự khó khăn này chỉ có mấy người mới có thể thấy được. Xung đột với người Khương Hoành Sơn đối với dân chúng mà nói, là vết thương đau điếng người. Nếu không thể che chở cho bách tính môn dân, cho bọn họ tin tưởng, thì bách tính môn dân sẽ khó mà ở lại Lô Lĩnh Châu, tản mác đi chỗ khác, thậm chí nhập bọn vào với bọn cường đạo.
Đặc biệt là người Khương Hoành Sơn sau khi ra tay với thương nhân, phía người Khương Đảng Hạng sẽ không lo lắng các thứ vận chuyển đến đây, vì bọn chúng không những là cùng tộc với người Khương Hoành Sơn mà còn có đội ngũ vũ lực mạnh hơn chúng. Nhưng thương nhân của Trung Nguyên đến lại không có được sự bảo vệ của đội ngũ vũ lực này, thương nhân của Lô Lĩnh Châu không hề chuẩn bị vệ sĩ.
Nếu như việc này không được giải quyết thích đáng, hơn nữa là giải quyết dứt khoát thì sợ rằng dù lợi nhuận lớn, các thương nhân sẽ không mạo hiểm đến buôn bán với Lô Lĩnh Châu, vì buôn bán trong thiên hạ ở đâu cũng có thể làm, hà tất phải mạo hiểm đến đây, kế hoạch phát triển công thương của Dương Hạo, thành lập đặc khu sẽ không thể nào mà thực hiện được.
Dương Hạo suy nghĩ một lúc lâu, sau đó ánh mắt chậm rãi nhìn xung quanh, gọi:
“Mộc đoàn luyện”.
Lý Quang Sầm là nghĩa phụ của hắn, nhưng mối quan hệ này lại bao hàm cả thân phận cộng chúa của Đảng Hạng Thất Thị. Nhưng trên đại đường vẫn xưng hô theo cấp quan. Dương Hạo vừa gọi, Lý Quang Sầm lập tức đứng dậy chắp tay nói:
“Phủ đài đại nhân”.
Dương Hạo hỏi:
“Nếu Lô Lĩnh Châu ta là địch thủ của người Khương Hoành Sơn, ngươi xem ta có thể chiếm ưu thế thắng mấy phần?”
Lý Quang Sầm nhìn chằm chằm án thư mà mắt Dương Hạo đang nhìn. Hắn không biết Dương Hạo đang nghĩ gì, liền nói:
“Đại nhân, Lô Lĩnh Châu không tự bảo vệ mình được, còn nói gì đến xuất chinh. Song tộc dân của thuộc hạ từ thảo nguyên Thổ Phiên đến đây có mấy ngàn người, mỗi người đều giỏi cưỡi ngựa bắn cung, hơn nữa lại có nhiều trâu dê ngựa, cũng có thể lấy dùng. Người Khương Hoành Sơn tuy có gần mấy vạn người, nhưng lại hay làm theo ý mình, phân bè phân phái, tộc lớn nhất cũng không có đến một ngàn lều, như vậy, nếu ta xuất binh, trừ phi người Khương liên minh với nhau, đề cử thủ lĩnh trở thành một đại quân, còn nếu không thì tuyệt đối không phải là đối thủ của ta”.
Ánh mắt Dương Hạo sáng lên, lại gọi:
“Kha đoàn luyện”.
Kha Trấn Ác đi đến, chắp tay thi lễ nói:
“Đại nhân”.
Dương Hạo nói:
“Người Khương Hoành Sơn quen tác chiến vùng núi, mà Mục Kha trại ngươi vốn được xây dựng ở dãy núi phía trên, cũng tác chiến vùng núi. Bản phủ hỏi ngươi, nếu như người Khương Hoành Sơn đánh úp ở chỗ núi non cây cỏ um tùm, ngươi không thể ngăn cản bọn chúng xâm chiếm vào Lô Lĩnh Châu ta, để chúng hành hạ môn dân của ta đến chết sao?”
Kha Trấn Ác chắp tay trước ngực thi lễ nói:
“Khởi bẩm Phủ đài đại nhân, hạ quan chỉ mang theo hơn mười tráng đinh ở Mục Kha trại, mà thời gian huấn luyện dân tráng ngắn ngủi, không thể chống trả được bọn người Khương Hoành Sơn. Nếu như chỉ là ngăn chặn bọn chúng xâm nhập vào Lô Lĩnh Châu ta, địch tấn công còn ta thủ thế, chúng ta sẽ chiếm địa lợi. Nếu chúng ta cài đặt một số bẫy trong bụi cỏ rậm rạp ấy, thì hạ quan bảo đảm có thể sẽ ngăn được bọn chúng ở ngoài cốc”.
“Tốt, rất tốt”.
Dương Hạo chậm rãi ngẩng đầu lên, mặt nở nụ cười nói:
“Lúc nãy nghe những điều mà Mộc lão nói, người Khương Đảng Hạng đến tập kích, ta khó mà phòng bị được. Bản quan muốn biết việc ngày ngày chỉ có trông kẻ trộm, làm sao canh phòng mãi như vậy được. Một khi như vậy, ta không thể canh phòng, vậy ta đi tấn công lại bọn chúng, ý chư vị thế nào?”
Các quan viên nhìn nhau, Trình Đức Huyền chần chừ nói:
“Dạ vậy ý đại nhân thế nào ạ?”
Hai hàm răng của Dương Hạo nghiến chặt lại với nhau, cười nói:
“Kha đoàn luyện phụ trách phòng thủ, làm vòng vây bảo vệ lấy Lô Lĩnh cốc. Không để cho bọn trộm cắp đột nhập. Mộc đoàn luyện phụ trách tấn công, chủ động tìm kiếm và làm khó các thôn trại người Khương Hoành Sơn.
Giờ là lúc thu hoạch vụ mùa, sống dựa vào nông canh, lấy sạch hoa màu, không để lại chút lương thực nào cho bọn chúng; Chúng sống dựa vào săn bắt thì ta cho phóng hỏa đốt rừng cây, xua đuổi hết thảy muông thú chạy xa ngàn dặm; Chúng sống dựa vào chăn thả thì ta cướp đoạt lấy trâu dê ngựa, ta xem bọn chúng sống thế nào qua mùa đông băng giá này”.
Những lời mà Dương Hạo vừa nói ra, hai người một là Trình Đức Huyền, người kia là Phạm Tư Kỳ lấy làm ngạc nhiên, đồng thanh nói: “Phủ đài đại nhân, tuyệt đối không thể vậy được”.
Dương Hạo không biểu hiện gì, hơi nhắm mắt lại, quay sang Trình Đức Huyền hỏi:
“Trình đại nhân có cao kiến gì?”
Trình Đức Huyền hôm nay thấy biểu hiện lạ lùng của hắn khác xa so với mọi ngày, hiểu được giờ hắn đang tức giận đến mức nào, lúc đang nóng giận như vậy mà đi trả thù sợ rằng sẽ xảy ra hậu quả không lường trước được, nên hắn kiên trì nói:
“Đại nhân, người Khương Hoành Sơn tuy không biết tính toán, nhưng rất thiện chiến khi thân chinh, người Khương ở tản mác khu vực Hoành Sơn, một khi chọc giận bọn chúng, hậu quả sẽ không lường nổi. Việc xung đột với người Khương Hoành Sơn, lúc này chúng ta cần trấn an lại”.
Tay Dương Hạo chống vào án thư, cười gằn nói:
“Hả, ngươi nói lại cho ta nghe, thế nào là trấn an?”
Trình Đức Huyền lấy lại bình tĩnh nói:
“Các quan có thể phái người gặp mặt với thủ lĩnh người Khương Hoành Sơn, mấy bộ lạc người Khương gần với Lô Lĩnh Châu ta, không những buôn bán sòng phẳng với chúng ta, mà còn có nhà di rời đến gần cốc ta, những người này chính là người chuyển tin tức tốt nhất. Chúng ta có thể nhờ vả bọn họ, giúp cho hai bên ta và thủ lĩnh người Khương hiểu nhau một chút, theo lệ cũ của Lân Châu và Phách Châu, nên đưa tiền tài vải vóc, gạo và muối tặng cho bộ lạc người Khương để làm dịu đi sự căng thẳng trong mối quan hệ này.
Triều đình để trấn an người Khương, thì luôn phong thưởng cho các bộ người Khương. Đại thủ lĩnh quản lý hàng trăm lều trại thì được ban cho chức quân chủ, quản lý dưới trăm lều trại thì nhận được chức chỉ huy sứ, cho nên chúng ta có thể có lý do mà qua lại với họ. Lần xung đột này, hai bên đều có người chết, không nên truy cứu lại làm gì, kế nhân nhượng trấn an là tốt nhất. Làm dịu đi cơn giận của người Khương…”
Trình Đức Huyền do dự một lát rồi nói:
“Hạ quan thân là một quan sát phán quan, quản luật pháp của Lô Lĩnh Châu. Dân Bắc Hán mà chúng ta dời đến đây có người tốt có kẻ xấu. Người vi phạm luật pháp cũng có, giờ đang có bảy tên bị giam giữ hình phạt. Để làm giảm cơn giận của người Khương, chúng ta có thể đem bảy tên tù này gán tội đầu sỏ giết người Khương, xử phạt ngay trước mặt người Khương, đổi lại ta có cái lợi, giải quyết ổn thỏa chuyện này, giúp Lô Lĩnh Châu yên bình trở lại. Không biết ý đại nhân thế nào?”
Dương Hạo không đưa ra ý kiến gì, quay sang Phạm Tư Kỳ hỏi:
“Phạm tiên sinh có cao kiến gì không?”
Phạm Tư Kỳ lần đầu nói chuyện trước mặt các quan như vậy, ngập ngừng một lát, mặt đỏ ửng lên nói:
“Đệ tử cho rằng, bọn man di mọi rợ không biết gì cả, chỉ hung hãn như vậy. Những nhân vật có tiếng từ trước đến nay, có tấn công lại đâu. Khơi binh kháng lại như vậy, không thể chặn được thủ đoạn tàn khốc này.
Con người khi sinh ra đều có một sự cảm thông, thiện và ác. Những vương giả, người nhân nghĩa dựa vào vương đạo mà dạy cách nông canh, giáo hóa, thu nạp mẹ góa con côi, giúp đỡ khi bần cùng khó khăn, bày tỏ sự nhân nghĩa, lấy vương đạo mà trị, độ hóa man di, lâu dài thì sẽ thành huynh đệ với nhau. Cái gọi là người vô địch, đệ tử có ngu kiến này, đại nhân thấy sao?”
“Ha ha, quả nhiên là ngu kiến!”
Dương Hạo không khách khí, đưa ra lời nhận xét như vậy, làm Phạm Tư Kỳ đỏ mặt.
Dương Hạo kiên nhẫn sự phẫn nộ một lúc lâu giờ lại bùng phát, vỗ án thư quát:
“Kiến của thư sinh! Kiến của phụ nhân! người Khương Hoành Sơn có cái dũng của người Khương, trí tuệ của người Hán, sống giữa các thế lực lâu như vậy, đã hình thành nên cái không có hạnh, kiêu ngạo dã man, không biết vương pháp, ngươi càng nhường nhịn thì chúng lại càng kiêu ngạo, nếu ngươi coi trọng chữ Nhân thì giống như lột da hổ vậy, người Khương Hoành Sơn nghĩ Lô Lĩnh Châu ta yếu đuối, như vậy sẽ càng coi thường chúng ta, từ nay về sau khó mà có cuộc sống yên ổn”.
Dương Hạo nói những lời này rất rụt rè, nhớ đến Phạm Tư Kỳ, chủ ý của Trình Đức Huyền không thể hiểu nổi, lời nói của Phạm Tư Kỳ như tát nước vào mặt hắn, làm cho Trình Đức Huyền đỏ bừng mặt, vô cùng phẫn nộ.
“Lui ra, bản quan đã quyết, các vị cứ thế mà làm, lập tức chuẩn bị đi, việc này không được chậm trễ, sáng sớm ngày mai, bắt đầu phản công, cho bọn chúng một bài học suốt đời không quên! Bãi triều!”
Các quan vâng lệnh, lần lượt lui ra. Dương Hạo lại nói: “Mộc đoàn luyện ở lại”. Dương Hạo đứng lên nói một câu: “Nghĩa phụ!”
Dương Hạo tiến lên trầm giọng nói: “Nghĩa phụ, trong số người Khương Hoành Sơn, thế lực mạnh nhất chính là Dã Ly Thị, tuy nói là người Khương sống không lệ thuộc lẫn nhau, nhưng giữa các bộ lạc lớn một chút thì vẫn thường xuyên trao đổi tin tức. Người nhanh chóng phái người liên lạc với Tô Lạc đại nhân, để Dã Ly Thị lộ diện, tránh cho bọn chúng liên hệ với nhau.
Lý Quang Sầm nhướn mày, hỏi:
“Hạo Nhi, thật sự muốn đánh sao?”
Dương Hạo gật đầu một cách nặng nề nói:
“Chẳng những muốn đánh mà còn muốn đánh cho chúng chết hết đi, đánh cho chúng tan xác, đánh cho bọn chúng sợ đến mức mười năm sau nghĩ đến Lô Lĩnh Châu ta mà kinh hồn bạt vía”.
Lý Quang Sầm lo lắng nói:
“Tập quán của người Khương là, có thù có báo…”
Dương Hạo ngắt lời hắn:
“Nghĩa phụ, nếu ta từ thuở nhỏ sinh ra ở vùng thảo nguyên Hạ Châu, tuy không phải người Khương, song cũng theo tập quán của chúng. Thuở nhỏ nhìn mãi mà thành quen, lời nói và việc làm đều tự hình thành cái bản năng của mình, nhưng không phải tất cả người Khương đều giữ lại bản năng này.
Người Khương Hoành Sơn sống ở hai bên núi Hoành Sơn, sống cùng với Hồi Hất, Thổ Phiên và người Hán, có trồng cây, có săn bắt, có du mục, phong tục vốn đã thay đổi. Hơn nữa các thế lực vì để lôi kéo bọn chúng, mà luôn cho bọn chúng những lợi ích, khiến cho bọn chúng trở nên bất chấp đạo lý. Bọn chúng tuy vẫn duy trì sự dũng mãnh của mình, nhưng về những tập quán trước đây thì người Khương trên thảo nguyên đã không còn nữa. Người như chúng đã trở nên ác, chúng bắt nạt kẻ yếu, nên sẽ không vì một tập quán cổ hủ mà nói chuyện đạo lý đâu.
Chúng ta ở Lô Lĩnh Châu, nếu muốn ổn định lòng dân, thì cần phải làm cho bọn địch biết sợ là gì. Bảo vệ thì chắc chắn là cần rồi, nhưng không phải bây giờ. Hai phủ Lân Châu có thế lực hùng mạnh, cho nên khi bọn chúng dựa vào ân, bộ tộc này tự biết là mình không thể chiếm được mà bỏ qua, mới bằng lòng chịu cách trấn an.
Còn chúng ta có cái gì mà đi trấn an? Giờ tình hình thế này, một khi dàn xếp ổn thỏa, để chúng càng thêm coi thường ta thì sẽ vẫn bắt nạt ta. Nếu như dàn xếp ổn thỏa như vậy, dân chúng Lô Hà Lĩnh ta bị coi là gì? Những thương nhân có thù mà không thể trả, sự an toàn không được bảo đảm, ai còn dám đến đây nữa?
Phải hung hăng, mạnh mẽ mà giáo huấn bọn chúng một bài học, làm cho chúng hiểu được chúng ta lợi hại thế nào, đó mới chính là cái gọi là Vương đạo. Giờ chúng ta có Dã Ly Thị, lôi kéo một bộ lạc lớn Dã Ly Thị, thì chúng sẽ không hợp lực với nhau được, thì sức mạnh của chúng sẽ giảm đi đáng kể, ta đánh cho chúng biết đau, phải sợ ta, thì từ nay về sau chúng mới không dám quấy nhiễu chúng ta nữa, khi đó dân chúng và thương nhân Lô Lĩnh Châu mới tin tưởng chúng ta”.
Giữa các bộ tộc người Khương thường xuyên chém giết nhau, ví dụ như giữa Đảng Hạng Thất Thị và Hạ Châu Thác Bạt Thị, những năm gần đây không ngừng chém giết, thua thì thôi, chưa từng có cảnh có thù thì trả. Vì người Khương rất nóng tính, chuyện có thù thì phải trả cho nên dân bị ảnh hưởng, hơn nữa lại còn hung hãn hơn, mọi người đều cảm thấy không thể gây nên thù hận với chúng.
Một lý do nữa, là thủ đoạn trả thù của Dương Hạo quá độc ác, cho nên Lý Quang Sầm lo lắng lần trả thù này sẽ dốc toàn lực để mà được ăn cả ngã về không, giờ nghe Dương Hạo phân tích như vậy, Lý Quang Sầm gật đầu lia lịa, hắn không ngờ Dương Hạo tới đây không lâu mà lại hiểu rõ người Khương đến vậy, lòng lấy làm cảm phục và tin tưởng vô cùng.
Tiễn Lý Quang Sầm xong, Dương Hạo trở về đại đường rồi ngồi xuống nghĩ, đại đường im ắng không một tiếng động, hắn ngồi ở một cái chiếu màu đỏ, tập trung suy nghĩ. Thực ra tình hình của người Khương, hắn chỉ biết sơ sơ một phần nào đó thôi. Mà những kiến thức hắn có được chưa chắc đã giống với tình hình bây giờ.
Những kinh nghiệm của hắn cho thấy, có một cái gọi là hung hãn, là cái mà khiến cho người ta không dám bắt nạt, là cái mà bọn vô lại lấy cái đạo của người quân tử để tự trói buộc chính mình, sau đó lại qua lại với mình. Chúng tạo mối quan hệ với mình xong, thì cũng chỉ là trả công, nhưng một khi có cơ hội, những cái xa hoa hào nhoáng của mình sẽ bị bọn vô lại đập vỡ ngay lập tức, tiền bạc lúc ấy không còn giá trị gì nữa.
Có một câu nói nổi tiếng thế này: “Chúng ta đối với phái phản động và hành vi phản động của giai cấp phản động thì tuyệt đối không được nói đến nhân chính”. Dương Hạo thiết nghĩ, mình trước tiên phải đánh cho hắn sợ, sau hắn mới ngoan ngoãn ngồi xuống nghe mình giảng đạo lý, bởi vì loại ti tiện vô lại vốn rất ương ngạnh.
Để xây dựng được một Lô Lĩnh Châu, thì nhất thiết phải có một lực lượng quân sự vững mạnh, lợi nhuận mà buôn bán mang lại là rất lớn, đòi hỏi có một lực lượng quân sự hùng mạnh để bảo vệ, và thế lực mà hắn có thể dựa vào chính là Phủ Châu gần hắn nhất.
Nghĩ đến đây, Dương Hạo thở dài: “Nhưng nhận binh giáp, vũ khí của Phủ Châu, hơn nữa còn nhờ họ huấn luyện, cái này…không thể tránh được dấu vết đánh Phủ Châu. Mình xuất thân từ một tên thuộc hạ của Trình Thế Hùng nên đã bị Quan Gia đề phòng. Giờ hắn và Phủ Châu Chiết Thị qua lại với nhau, Triệu Quan Gia biết tin, sẽ thế nào đây? Bên cạnh còn có Trình Đức Huyền nữa, việc này vốn không thể che mắt nổi phủ Khai Phong.
“Dứt khoát cố gắng đứng sang bên Chiết Ngự Huân, tranh thủ cơ hội trở thành thế lực thứ tư?”
Dương Hạo lắc đầu, không tin đứng trước một Triệu Khuông Dận có tài thao lược quân sự, một chính trị gia, quân sự gia trải qua nhiều năm thao luyện, bản thân mình có thể thay đổi lịch sử sao, thay đổi kết cục của tây bắc sao? Ba thế lực tây bắc, chỉ có một thế lực kháng cự thành công kế sách của Đại Tống, lập nên một nước riêng, tạo thành thế chân vạc với Đại Tống và Khiết Đan, đó chính là Đại Hạ. Lô Lĩnh Châu là một nơi chập hẹp, nhỏ bé, không thể thực hiện chiến lược đánh thọc sâu, lại không có một nguồn binh sĩ, nguồn tài nguyên nào, cho dù đưa Gia Cát Khổng Minh đến cũng không biết xoay sở thế nào với tình hình này.
Dương Hạo lắc đầu cười gượng:
“Từ xưa đến nay, Tiết trấn một phương, trong phủ, e là không có ai giống mình. Việc này khó đây vì phải giải quyết một cách thích đáng nhất, cho thương nhân có lòng tin, để buôn bán của khu vực Lô Lĩnh Châu hưng thịnh trở lại”.
Dương Hạo đau đầu suy nghĩ, Dương Tấn Thành ở đâu chạy đến vui mừng nói:
“Phủ đài đại nhân, phủ đài đại nhân, lại có một đội thương nhân đến đây rồi, hơn nữa, ước chừng có khoảng hơn hai mươi xe ngựa. Đề tên là của Lý Ngọc Xương viên ngoại.
“Sao, bọn họ an toàn đến châu này rồi sao? Mau, mau, bản phủ đích thân đi đón họ”.
Dương Hạo nghe vậy xong vui mừng quá đỗi, giờ Lô Lĩnh Châu bị người Khương làm loạn, các thương nhân đều sợ hãi mà không đến nữa, giờ có đoàn thương nhân đông như vậy đến, nếu như bảo đảm cho bọn họ qua lại giao dịch an toàn thì sẽ lấy được lại lòng tin của các thương nhân khác.
Dương Hạo sửa sang lại quần áo, đi ra khỏi phủ đón đoàn thương nhân. Đi ra đến ngoài phủ, thúc ngựa đi về hướng tây, đến nơi có đoàn thương nhân đang đứng ở hầm trú ẩn. Có rất nhiều người đang khuân vác đồ đạc xuống, nào thì giường tơ vàng gỗ lim, bồn cầu hoa văn tinh tế, bàn ghế dài, giá để áo mũ, bình phong chim yến… Có đến bảy tám tên tiểu nha hoàn đang chạy đi chạy lại đôn đốc:
“Nhẹ tay thôi, nhẹ tay thôi, cẩn thận chút…”
Dương Hạo thấy vậy, ngạc nhiên hỏi luôn:
“Tấn Thành, ngươi không nói sai đó chứ…đây chính là đại thương nhân hả? Sao ta nhìn lại là một khuê nữ của một gia đình nhỉ?”
Last edited by Thinhbobo; 18-03-2011 at 09:17 PM.
Đã có 12 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Thinhbobo
Quyển 5: Khai Hoa Thập Trượng Ngẫu Như Thuyền
Chương 195:Chín nông một sâu
Tác giả: Nguyệt Quan
Nguồn: Sưu tầm
Hoa Thức có một cái tên người Hán gọi là Lý Nhạc Lâm, nghe rất nho nhã. Còn về tại sao lại tên là Lý Nhạc Lâm thì hắn cũng không thể hiểu được, hắn chỉ biết là Hạ Châu Thác Bạt Thị năm đó được Đại Đường thưởng cho họ Lý, Thác Bạt Thị lấy làm hãnh diện lắm cho nên đã lấy luôn họ Lý. Còn về tên, là do một người đọc sách Hán gia đặt tên cho hắn, hắn chọn ra cái tên nghe hay nhất làm tên của mình. Khi hắn đến Lân Châu bán những thứ mà hắn đi săn bắt được thì dùng cái tên này.
Nhưng tộc người của hắn vẫn có thói quen gọi hắn là Hoa Thức, mỗi khi người ta gọi hắn là Hoa Thức, hắn sẽ buồn vô cùng, cứ như người Hán chiếm mất cái gì đó của hắn, mà hắn lại muốn giành lại. Nhưng mấy ngày nay mấy lần bị người ta gọi cái tên này, hắn lại lấy làm vui. Vì những người gọi cái tên này của hắn giờ đã do hắn thống soái, hắn là một thợ săn giỏi, hắn đã trở thành người đứng đầu của một tiểu đội hơn mười người.
Mấy ngày trước hắn cũng là một thành viên trong nhóm cướp của cải của tên họ Hoàng. Hắn cướp được sáu tấm lụa, còn cướp được người đàn bà của tên thương nhân đó. Hắn trước đây bán những thứ hắn săn bắt được trên rừng rồi đổi lấy các thứ đồ dùng khác của người Hán, hắn thường nhìn thấy những miếng vải lụa đẹp vô cùng, hẳn là vật quý giá lắm đây, hắn thèm thuồng muốn dùng miếng vải ấy may bộ quần áo thật đẹp.
Nhưng giờ không phải mơ ước nữa, hắn cũng đã có vải đẹp rồi, lần đầu tiên khi bàn tay chai sạn của hắn sờ vào miếng vải, hắn không ngờ mảnh vải để mặc lên người ấy lại mềm mịn đến vậy, hắn cứ tưởng chỉ có quần áo thần tiên mới được như thế.
Còn người đàn bà người Hán kia nữa, làn da mới mịn màng làm sao, mịn như lụa vậy, hắn chưa từng có cảm giác này với những người đàn bà bên cạnh hắn, hắn chưa từng nhìn thấy làn da của người đàn bà nào mềm mịn đến vậy, tiếc là, người đàn bà đó đã chết, thi thể đã lạnh ngắt, nếu như người đàn bà đó còn sống, nếu như người đàn bà đó cười với hắn, vòng bàn tay trắng nõn qua cổ hắn…
Hoa Thức thấy bứt rứt trong người, liếm môi thèm thuồng. Hắn quyết định, nửa đêm nay sẽ vào cốc, nhất định phải bắt vài người đàn bà Hán còn sống về phục vụ hắn, hắn tin rằng đến đại nhân bộ tộc này có đến bảy tám vợ cũng phải ngưỡng mộ hắn, tiểu bộ lạc của hắn sống dựa vào săn bắt, gian nan vất vả là thế, đàn bà trong tộc cũng giống như đàn ông, cũng phải săn bắt để kiếm cái ăn, nào có được cơ thể đẹp mịn màng trơn tru như đàn bà người Hán.
Hắn là một tên thợ săn giỏi, những người hắn mang theo đều là những người có tài săn bắt, có thể trèo đèo lội suối không quản khó khăn, sợ gì khi vác một người đàn bà trên vai, đêm nay nhất định không được tay không trở về, nhất định phải cướp được vài người đàn bà về, hơn nữa còn phải cướp được những thiếu nữ người Hán có tài và ngoan ngoãn.
Trên núi là những cây tùng cao lớn, cao bằng đầu gối người là những bụi cỏ dại, dưới chân là những lá thông rụng đã nhiều năm, bóng đêm yên tĩnh, vầng trăng treo lơ lửng trên những ngọn cây, theo bước của bọn chúng, tiếng đập cánh bay của chim chóc trong màn đêm.
Tiến lại càng gần cốc hơn, một mũi tên bắn vụng về bay xoẹt qua. Hoa Thức lấy làm vui mừng, hắn cẩn thận dặn dò đám người đi cùng, nhưng hắn vừa nghiêng đầu thì cảm thấy má hắn đột nhiên lạnh ngắt.
Tên thợ săn theo sát phía sau, ánh mắt của Hoa Thức vô cùng nhanh nhạy, hắn phát hiện ra mũi tên bắn lén xuyên sâu vào bên sườn phải của người thợ săn đó, đuôi tên cách cơ thể hắn không đến nửa thước, không khỏi kinh sợ kêu lên một tiếng: “Tản ra mau, có mai phục”.
Những tên đi theo hắn đều là những cao thủ săn bắn, tốp người lập tức tản ra, một tên thợ săn trên mặt đất lăn hai vòng, rồi đứng dậy, nhanh như bay ôm lấy thân cây thông thô ráp, nhưng rồi tên đó ưỡn người ra, kêu thê thảm, nhanh chóng chạy đến phía trước, rồi mới ngã xuống, lại có một mũi tên nữa bắn lén, bắn trúng vào lưng hắn.
Trong một khoảng thời gian ngắn, tên được bắn ào ào, có sáu tên trúng tên ngã xuống, trong đó có một tên vẫn còn sống, nằm ngửa mặt lên trời giãy giụa. Hoa Thức nằm sấp bên cạnh một cái xác chết, dùng cái xác chết ấy làm vật che chắn, tự rút cung tên của mình ra, giương cung tìm chính xác nơi bắn cung lén, nhưng nào có nhìn thấy bóng dáng của quân địch.
“Đối thủ cũng là tay cung giỏi”. Mồ hôi chảy ròng ròng xuống khuôn mặt của Hoa Thức, có thể bắn trúng đối thủ dưới ánh trăng mờ ảo như vậy, hơn nữa lại còn bắn trúng sáu tên, chắc chắn tên này rất cao thủ.
Hai bên yên lặng một thời gian dài, không bên nào có nhúc nhích. Hai bên đều kiên nhẫn theo dõi hành động của đối phương, gặp những cái bẫy săn, tên thợ săn nào cũng phải có tính nhẫn nại.
Những tên săn bắt người Khương không chịu nổi cái loại hình tra tấn vô hình này, hắn gào lên một tiếng, một mũi tên được bắn ra, mũi tên bắn trúng vào người khoảng một thước, tên này nhảy dựng lên rồi ngã xuống, rên rỉ vài tiếng rồi bặt im.
“Tất cả không được động đậy”.
Hoa Thức hét lớn, rồi cuộn mình lăn một vòng nấp sau một cái cây, quả nhiên hắn vừa kêu lên một tiếng thì một mũi tên bay tới, cắm trúng vào cái thi thể đang nằm kia.
“Rút, rút mau”. Hoa Thức run giọng nói, rồi chuồn nhanh khỏi cái cây đang nấp, bên cạnh lại vang lên hai tiếng kêu thảm thiết, hắn và hai tên đồng bọn bị mũi tên bắn đuổi theo.
“Ách!” Hoa Thức đột nhiên thấy người mình run lên rồi dừng bước, cung từ từ rơi xuống mặt đất, tay hắn run run sờ vào lưng, hắn sờ phải một thanh đao, thanh đao ấy nhỏ như lá liễu, hắn sờ hẳn vào thanh đao đó, thấy mềm nhũn như lụa.
Người hắn cứng đơ lại, chậm rãi xoay người, trên phía đất trống, xuất hiện một dáng người thon thả, cao gầy, người đó chậm rãi tiến đến, bước đi nhẹ như mèo. Ánh trăng lờ mờ chiếu toàn cơ thể của cô ta, đó là một người đàn bà, mặc bộ quần áo vừa khít với người, tôn lên những đường cong rõ ràng trên cơ thể, ánh mắt sáng ngời lên trong ánh trăng nhìn chằm chằm vào hắn.
Đây là một người đàn bà, theo hắn nghĩ thì chắc chắn làn da của nàng cũng mềm mại như tấm lụa, nếu như bắt được nàng trở về sưởi ấm chiếc giường của hắn thì…, nhưng, hắn giờ vĩnh viễn không còn cơ hội đó nữa rồi. lại có một người đàn ông xuất hiện, bước đi của hắn rất nhanh, hắn vung tay lên sáng loáng, đó là một thanh hoành đao.
Đầu của Hoa Thức bay cao lên, máu ở bụng phọt ra một thước cao.
***
Mục Thanh Tuyền tiếc nuối nói: “Chạy mất một tên rồi”.
Chính tay Kha Trấn Ác không chớp mắt đâm một tên giống như làm thịt một con gà, rồi hắn lau lưỡi đao và dưới đế giày, khẽ mỉm cười nói: “Để chạy mất, chưa để bọn chúng nếm mùi sợ là gì, chạy mất một tên, sẽ có càng nhiều tên biết ta mai phục, để tránh bất lợi cho trận chiến này, người đâu, kéo tất cả các thi thể kia ra chỗ khác, làm bẫy khác…”
Trên núi là chỗ trú ẩn của bộ lạc nhỏ người Khương. Nghề nông mà bọn chúng học được của người Hán, nên bên cạnh có một cách đồng để trồng trọt, vì có thu nhập từ cánh đồng đó, nên tộc người của chúng không cần phải sống ở nơi có gần nguồn nước như các bộ lạc khác, chẳng bao giờ phải di chuyển đi đâu, cứ an cư mà sống.
Vì bộ lạc nhỏ ấy sống định cư, cho nên ở đó cũng xuất hiện thảo nguyên và chỗ tụ họp của bộ lạc. Mỗi tháng một lần, các bộ lạc dù xa dù gần đều tập trung lại, mang trâu dê, da lông, thảo mộc đi đổi lấy những thứ như muối, lá chè, vải vóc, nồi niêu của người Hán.
Mộc Tây Thần Mộc Na ngồi trước cửa, nhìn cái bao nặng trịch nhuốm máu nằm trên đất, bà ta cười đau khổ, khóe mắt hắn đã có vết chân chim. Mộc Tây Thần Mộc Na là một cái tên rất đẹp, rất lãng mạn. Khi bà ta còn trẻ, cũng là một người phụ nữ nổi tiếng trong tộc này, cho nên đã được gả cho một người đàn ông thông minh.
Người đàn ông của bà ta trước cũng là một kỵ sĩ trong tộc, hơn nữa lại vô cùng thông minh, về tri thức thì không hề kém cỏi người Hán. Bọn chúng đã nhận được những món hàng viện trợ của quan phủ người Hán. Sau khi chúng biết trồng trọt thì đã định cư lại, người đàn ông của bà ta đã nhanh chóng phát hiện ra một cơ hội kiếm lời lớn, đó là bán rượu.
Tộc người bọn chúng đều thích uống rượu, có nhiều tên coi rượu như tính mạng mình, khi ma rượu học được cách trồng trọt, kiếm được lương thực, thì bọn chúng không chần chừ mang luôn đống lương thực mới ấy nấu thành rượu, uống vài ngày, chỗ lương thực đó hết thì lại đợi đến hai ba tháng sau khi lương thực vẫn chưa chín, chúng bèn đi mượn tiền sống qua ngày, cuối cùng thì vẫn là cuộc sống săn bắt, chăn thả. Nếu như chúng ngẫu nhiên săn được những sản vật quý dùng để chế thuốc, thì cũng chẳng biết nó là sản vật quý, nên khi mang đến cho người Hán, thì vẫn chỉ đổi được một vò rượu, rồi vui sướng trở về
Người đàn ông tinh tế của bà ta đã phát hiện ra điều này, vì thế mua một số lượng rượu lớn từ người Hán rồi bán cho tộc người của mình. Vì rượu của người Hán ngon hơn nhiều so với rượu tự nấu của chúng, nên gia đình bà ta buôn bán rất vào cầu, chỉ có bán rượu thôi mà ai cũng giàu có. Hơn nữa một vài tên nghèo, gia đình còn không bán rượu cho, những tên này thậm chí còn gán nợ, làm thuê cho gia đình bà ta để có rượu uống. Một cân rượu đổi lấy tám ngày công, nó đã tạo cơ hội được uống rượu cho những cái mạng nghèo.
Hơn hai mươi năm kinh doanh rượu, nhà của bà ta đã trở thành nhà giàu có của bộ tộc, có vô số người hầu, xây phòng lớn, có vô số đất đai và đàn dê. Nhưng, dần dần, vì nơi này cách đất người Hán không xa, người trong tộc cũng biết là những vật liệu quý mà bán cho nhà Mộc Tây Thần Mộc Na khi bán sang cho người Hán được giá thế nào, nên đã không bán thảo mộc, lông da cho nhà bà ta đổi rượu nữa, vì thế mà mấy năm nay tiền thu được nhờ bán rượu bị giảm mạnh.
Nhưng trời không tuyệt đường sống của người, lúc này lại có người Hán tới Lô Lĩnh Châu, hơn nữa, những tên Hán này lại vô cùng yếu đuối. Tộc người bọn chúng không giống như Phủ Châu sinh sống tập trung, có quân đội bảo vệ, có bức tường cao to che chở và đám dân tráng dũng mãnh, bọn chúng chỉ nhăm nhăm vào những sơ hở trong sơn cốc, hết lần này qua lần khác sang cướp bóc và giết hại. Chúng nghe nói có một bộ lạc nào đó chỉ đi cướp bóc của cải của người Hán mà giàu có, chồng của bà thấy bùi tai, mang theo người hầu trong nhà tổ chức thành đội quân năm sáu mươi người hành nghề cướp bóc.
Cái bọc lớn này, chính là cái mà chồng bà ta mang về, giờ chồng bà ta lại lên đường. Dù tóc đã hoa râm, nhưng chồng bà ta vẫn rất anh hùng, Mộc Tây Thần Mộc Na cảm thấy rất hài lòng về người đàn ông của mình.
Cái bọc lớn này, bà ta không muốn để người khác động vào, bà ngồi và nhìn nó, bên trong là bảo bối gì đây, mở bọc đó ra, những đứa trẻ trong nhà đều xúm lại xem, vừa nhìn thấy một bộ trang phục đẹp đẽ sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời, đến bọn trẻ cũng phải há hốc mồm vì kinh ngạc.
Bên trong là các loại trang sức, vũ khí, son phấn, vòng tay xanh biếc, vòng tai bằng trân châu, một chiếc nhẫn rất to vẫn còn vết máu dính ở đó, nên thừa biết đó là những thứ cướp được.
Mộc Tây Thần Mộc Na vui mừng khôn xiết, lấy chiếc vòng tai nhuốm máu xuyên vào lỗ tai, sau đó lại cầm lấy chiếc nhẫn đá ngọc lau lau vào cái bao, rồi đeo vào tay mình, dưới ánh sáng mặt trời, mọi thứ trở nên lấp lánh, bà ta vui mừng nhoẻn miệng cười.
Thật là đẹp, đây là thứ gì vậy, thủ lĩnh thật tuyệt vời”. Một đứa trẻ nói.
“Đi, đừng có làm loạn ở đây nữa!” Bà ta phất tay ra lệnh cho đứa trẻ kia, quát: “Tên tiểu tử kia, về nhà ngươi đi, xem xem cha ngươi khi nào đi cướp về”.
Đứa trẻ kia lẩm bẩm nói: “Quát tháo gì chứ, cha ta yếu, đã bị trúng một mũi tên của bọn Hán, đang dưỡng thương, chẳng đi cướp được cái gì cả. Nhưng hai năm nữa, ta cũng có thể cưỡi ngựa bắn tên rồi, đến lúc đó, cái ta đi cướp được còn nhiều hơn của nhà các ngươi gấp bội”.
Mộc Tây Thần Mộc Na cười nói: “Đúng, ngươi có thể, có thể mà, giờ cút xa ra cho ta, đừng có trộm các thứ của ta”.
“La la”. Mộc Tây Thần Mộc Na cầm lấy một chiếc vòng tay bằng ngọc lên ngắm nghía thì nghe thấy có tiếng vó ngựa vọng đến, âm thanh nghe được, chí ít cũng phải đến bảy tám mươi chiến mã, bà ta nheo mắt lại nhìn về phía xa, tay vớ chiếc áo cỏ khoác vào ra cửa thôn xem.
“Người đàn ông của bà ta đi chưa được bao lâu, sao lại trở về nhanh như vậy. Nhưng nếu là chàng, trong thôn ngoài gia đình ta ra, những đội khác đều đã đi khỏi, ở đâu có một đội ngũ đông đảo như vậy?”
Vó ngựa ngày càng gần thôn, kỵ sĩ trên ngựa đều ăn mặc như người thảo nguyên, áo da, cung nỏ, thanh đao. Mộc Tây Thần Mộc Na chậm rãi đứng lên, nghi ngờ: “Chẳng lẽ đây là bộ lạc nào đó của thảo nguyên đến chăng? Đến đúng lúc lắm, đúng lúc ta đang muốn bán những thứ kia cho chúng. Nhưng…lẽ ra phải nửa tháng nữa mới đến chứ nhỉ, sao lại đến sớm thế này?”
Chữ viết trên cờ của kỵ binh người Khương là một chữ “Dương”. Nhưng, Mộc Tây Thần Mộc Na không biết chữ, không biết chữ viết trên cờ kia là chữ gì.
“Vèo”. Một mũi tên bay đến, nàng chỉ nhìn thấy một cây cung được giơ lên bắn về phía nàng, nàng bị trúng mũi tên đó, mũi tên xuyên qua cổ họng, rồi nó đâm sâu vào, tên sắc đến nỗi khi bắn không có giọt máu nào chảy ra rơi xuống đất, những mũi tên tiếp theo lại được bắn đến, bắn trúng vào một đứa trẻ, đứa trẻ ngã xuống đất.
Những người khác kinh sợ chạy hoảng loạn, tiếng thét chói tai, tiếng tên bay vù vù, Mộc Tây Thần Mộc Na lảo đảo bế đứa cháu một tuổi chạy vào cửa nhà rồi đóng cửa lại, “Phập” một tiếng, mũi tên cắm sâu vào ván gỗ.
“Có kẻ giết người, giết người, có cướp…”. Tiếng kêu hoảng sợ phát ra trong thôn, Mộc Ân thúc ngựa phi đến trước cửa nhà Mộc Tây Thần Mộc Na, tiếng ngựa hí vang, hắn liếc nhìn cái bọc được mở, rồi vung tay lên, gằn giọng nói: “Dương Hạo đại nhân có lệnh, lấy máu phải trả bằng máu, theo quy định, những thứ cướp được đều thuộc về cá nhân, nếu ai có thể thì bắt bọn người hầu về nhà hầu hạ, giờ xông vào thôn cho ta!”
Trong thôn nháo nhác, có vài tên đi ra, trong đó có không ít đàn bà và trẻ con, đàn bà giương cung, bọn trẻ cũng giương cung lên, không hề sợ bọn địch.
Mộc Ân nhíu mày, tay tóm lấy năm mũi tên. “Phập, phập…” Năm mũi tên được bắn ra, cách sáu bảy mươi bước, lực bắn tên không mạnh, song, mũi tên bắn ngã năm người. Sau khi năm mũi tên được bắn, Mộc Ân lại đưa tay ra sau lưng lấy tên. Khi đó Điềm Tửu liền quát mạnh, hai chân thúc ngựa phi ra ngoài, làm động tác dọa dẫm sẽ giết người.
Mộc Ân cười bất đắc dĩ, hắn cũng thu cung rút đao, quát một tiếng rồi đuổi theo.
***
Thiết Thập Trại là một trại của người Khương chủ yếu sống về nghề nông, lúc này, Hoa Thức đang chán nản ở trong trại. Tay hắn bỏ thõng xuống, liếc nhìn chiếc bao đầy trang sức, cho thấy hắn bị thương rất nặng.
Đây là chiến lợi phẩm thu được của một đôi vợ chồng người Hán ở vùng đất ngoài Lô Lĩnh Châu, bị đoàn luyện dân tráng người Hán đánh cho trọng thương, hắn không còn sức lực mà đi cướp của nữa, đành ảo não trở về thôn trại, không ai chăm sóc, như vậy hắn còn là anh hùng nỗi gì.
Hoa Thức rất buồn chán, nếu như lúc ấy hắn không phải muốn cướp người đàn bà đó, mà vung đao chém, rồi cướp của xong bỏ chạy, thì sẽ không có ngày hôm nay. Nhưng hắn vẫn còn may, bảy tên đi cùng hắn, nhưng chỉ có một mình hắn sống sót trở về. Nhưng vai hắn đã bị mũi tên cắm rất sâu, hắn không biết cánh tay hắn về sau có bị tàn phế hay không, hăn vốn là một tên giỏi trồng trọt, nếu như sau này không trồng trọt được nữa…ôi, hắn không dám nghĩ đến nữa.
Hắn là một người Hán, một người Hán ở rể người Khương. Nhà của hắn hơn hai mươi năm trước vì liên tục bị chiến tranh Trung Nguyên mà dọn đến đây. Thực ra người Hán tránh chiến tranh mà trốn đến đây không ít, hắn biết, hắn cướp bóc sẽ phải chết dưới mũi đao của người Hán, nhưng hắn không hề áy náy gì chuyện này. Người ở thời đại này, sống ở thời loạn này, quan niệm quốc gia, quan niệm dân tộc, sớm đã bị bỏ qua, quan niệm bầy đàn mới được coi trọng, để duy trì sự sống, chung lợi ích với quần thể, dù nó có là tộc nào, đó chính là quan niệm của chúng, nhà chúng, là cái mà chúng cần bảo vệ.
Người Bắc khi đến Trung Nguyên đánh chiếm, những kỵ binh hung hãn, chúng giết người Hán Trung Nguyên, tạo nên mối thù sâu đậm, không hề kém so với tộc người Khiết Đan. Người Trung Nguyên giết người Hán không cùng trận doanh, không ra tay với những người chung sống với mình. Tổ tiên Cnh pc là Chiết Lan Vương của tộc Bạn Bán,nhưng chúng lại tấn công Thác Bạt Thị hc, thậm chí còn giở mọi thủ đoạn tồi tệ. Cái gọi là công nghĩa, vốn xuất phát từ lợi ích của một quần thể của mình.
Hắn không vì chuyện giết người Hán mà cảm thấy bứt rứt, hắn giờ đang lo lắng là của cải không cướp được, mà lại có khả năng trở thành tàn phế, đứa con lại còn nhỏ, sau này sao có thể nuôi vợ và nuôi con đây.
Lòng hắn trở nên rối rắm, hắn ngây người. Thôn trại quen thuộc của hắn giờ không thấy nữa, xung quanh chỉ là khói lửa, hắn liếc nhìn về ngôi nhà của hắn, căn nhà được làm vô cùng rắn chắc đã đổ sụp xuống.
“Nương tử của ta, con của ta…”
Hoa Thức không ngẩng được đầu lên, khi hắn mải đi cướp bóc, không ngờ nhà hắn cũng bị cướp. Hắn giỏi trồng trọt, nhà cô nương mà hắn ở rể là một cô nương xinh đẹp, con của hắn mới ba tuổi, hắn muốn hưởng thụ cuộc sống ấy, bọn chúng là ai, rốt cuộc là ai? Bọn cướp này từ đâu đến?
Hắn ngây người nhìn về phía trước, rồi nhìn đến đồng ruộng phù nhiêu ngoài thôn, có rất nhiều chiến mã và xe ngựa đỗ, có nhiều người đang thu hoạch hoa màu, còn có rất nhiều phụ nữ và trẻ con trong thôn đang đứng trên bờ ruộng, có vài tên đàn ông cầm đao đang coi chừng bọn họ.
Mắt Hoa Thức đột nhiên sáng lên: Nàngvà đứa nhỏ của hắn vẫn chưa chết, họ đang đứng lẫn trong nhóm người đó.
Hoa Thức bất chấp tất cả, liều lĩnh chạy lại, nhưng chỉ chạy vài bước không xa, thì đã có hai tên kỵ binh phi đến. Hoa Thức thở hổn hển đứng lại, ngẩng đầu nhìn, trên ngựa là một người đàn ông, tóc ngắn, giống như hòa thượng Lạt Ma trên thảo nguyên Thổ Phiên, Hoa Thức thậm chí còn hoài nghi người này là gái giả thành trai, nếu người này thực sự là nữ nhi, thì cô nương này còn xinh đẹp hơn cả mụ đàn bà mà hắn bị một đao, nếu như có thể bắt về, nhất định có thể bán với giá rất cao.
Bích Túc ngồi yên trên chiến mã, nhìn chằm chằm vào hắn, cười hi hi nói:
“Ở đây còn có một con cá lọt lưới này, ồ… cơ thể còn cường tráng nữa chứ, bắt về cho nó trồng trọt xem sao?”
Bích Túc vừa nói xong thì Mộc Khôi quất ngựa đi đến, một cơn gió thổi mạnh qua, vung trường đao, lưỡi đao sáng loáng, Hoa Thức còn chưa kịp kêu thì đã bị trường đao chém cho hai nhát, đầu của hắn đập xuống đất, như vọng lại tiếng khóc trong đám người bên kia, đó là tiếng kêu thất thanh của một phụ nữ có chồng, sau đó mặt mày hắn xây xẩm tối đen lại.
“Tên này đã bị thương, bắt hắn trở về có ích gì”.
Mộc Khôi lạnh lùng nói, rồi thúc ngựa lên sườn núi, bụi mù trắng xóa, không nhìn thấy bóng dáng hắn nữa, lúc này Bích Túc cười đau khổ, thúc ngựa đi theo.
Trước tình cảnh đó, mỗi người trong bộ lạc đều ngây người ra, từ trước đến nay chỉ có bọn chúng có thể cướp của người Hán, ai cũng phải sợ bọn chúng, phải phong quan, ban cho chúng rượu ngon…giờ bọn người Hán đến trả thù chúng, thậm chí còn hung ác hơn cả bọn chúng.
Bọn chúng buồn chán, tức giận. Có rất nhiều người đến báo thù, kết quả là lại bị đám người của Mộc Ân không quá nghìn người đến sát hại, bọn chúng cuối cùng cũng đã biết sợ, mang theo gia quyến, không thể trốn thoát.
***
“Tướng quân”.
Đường Diễm Diễm thúc ngựa phi đến, “Bụp” một tiếng nện vào đầu Dương Hạo.
Dương Hạo quay người lại, nói:
“Đại tỷ, chúng ta phải đi đường của ngựa, không được đi lên cánh đồng”.
“Ồ, ta quên mất”.
Đường Diễm Diễm lè lưỡi, vội vàng đi vào đường cho ngựa đi.
Hơn hai mươi chiếc xe ngựa đi theo, kéo một đống của cải. Đường Diễm Diễm tự hào vì mình là con gái Đường gia. Đường Diễm Diễm tháo tất cả vật dụng cá nhân, trong hiệu buôn của Lý Ngọc Xương có mấy gian giành cho vị tiểu thư này và gia quyến, bọn nha hoàn ở, hiệu buôn của Đường gia chính thức khai trương tại Lô Lĩnh Châu.
Dương Hạo tự biết tại sao nàng lại sinh sự, có một thế lực lớn như vậy ở Lô Lĩnh Châu và một tiểu thư xinh đẹp theo đuổi, đó thực sự là niềm vinh hạnh lớn của người đàn ông. Dương Hạo cũng chỉ là một người đàn ông bình thường, sao lại không có cảm giác lâng lâng được.
Nhưng tâm lý này không phải là cái dễ có được. có lẽ nó được hun đúc chín mười năm ở cái thế giới này, hắn dần dần cảm thấy ba thê bảy thiếp là lẽ tự nhiên, nhưng giờ thì không làm thế được. Hắn cũng chưa từng có suy nghĩ này, nhưng chuyện này tự nhiên đến với hắn, đó lại là hai việc, hắn được Chiết Tử Du yêu mến, mà thân phận Đường Diễm Diễm lại không thể làm thiếp, hắn không muốn dính đến chuyện phiền toái này nữa.
Nhưng lần này Đường Diễm Diễm đến, lại còn nói là đến vì chuyện buôn bán, không có ý gì với hắn, Dương Hạo không thể nói gì, hơn nữa hắn giờ thực sự cần tầm ảnh hưởng của thương nhân, mà Đường gia là một thương gia lớn khu vực tây bắc, cho nên Đường Diễm Diễm đương nhiên sẽ trở thành khách quý của Dương tri phủ. Còn về Dương tri phủ có muốn hưởng thụ niềm vui này không thì không ai hay biết.
Mấy ngày liên tiếp, khi hắn không đi gặp Đường Diễm Diễm, Đường Diễm Diễm liền tới tìm hắn, nói là có chuyện buôn bán muốn bàn bạc, hắn trước kia không nhận ra, tính tình Đường đại tiểu thư tính tình nóng nảy, nhưng khi làm buôn bán thì rất rạch ròi, thực là bị ảnh hưởng bởi gia đình thương nhân.
Chỉ nói chuyện buôn bán mà thôi, bởi vậy mà hai người ngồi đánh cờ, uống trà. Hai người ngồi đợi Lý Ngọc Xương, Dương Hạo chỉnh lại quần áo xong xuôi, vẫn chưa thấy bóng dáng Lý Ngọc Xương đâu, chỉ có mỗi Đường Diễm Diễm.
Hai người chơi cờ, cờ bắt đầu có từ thời chiến quốc, trải qua quá trình phát triển, nó đã trở thành một trò chơi phổ thông, cờ thời bấy giờ cũng giống như cơ hiện nay, cũng có ba mươi hai quân, mỗi bên đều có tốt, tượng, mã, pháo, xe, sĩ, tướng.
Dương Hạo nói những quy tắc chơi cờ mà mình biết cho Đường Diễm Diễm nghe, Đường Diễm Diễm nói quy tắc chơi cờ ở các nơi khác nhau, vì cách chơi giống cách chơi của các trò khác nên Đường Diễm Diễm rất nhanh đã biết cách chơi, nhưng thỉnh thoảng vẫn nhớ sai các quy tắc.
Nàng cầm lấy một quân mã, rồi liếc nhìn Dương Hạo, nói nhỏ:
“Ngươi xuất binh đến bộ lạc người Khương Hoành Sơn đã hơn mười ngày, những ngày này thu thập được rất nhiều tù binh, lương thực, dê ngựa…”
Dương Hạo nhìn bàn cờ, khẽ mỉm cười nói:
“Không chỉ có như vậy đâu, còn có bảy tám tiểu bộ lạc nữa, hơn một ngàn người Khương sợ quân uy của Lô Lĩnh ta, chủ động đến đầu hàng đó”.
Đường Diễm Diễm mở to mắt, nói:
“Chàng không nói quá đó chứ?”
Dương Hạo mỉm cười, nhìn thẳng vào mắt nàng nói:
“Đường cô nương thay đổi từ bao giờ vậy, nói vòng vo thế, muốn nói gì thì cứ nói ra đi”.
Đường Diễm Diễm do dự một lát, hạ giọng nói:
“Đã…chết rất nhiều người rồi, triều đình người Hán chúng ta từ trước đến nay đều đối xử tốt với lũ man di này, làm gì với chúng đều có chữ Nhân. Còn chưa có ai ra tay mạnh với chúng như vậy, chàng…cũng nên thu quân lại
“Sao lại phải thu quân?”
Dương Hạo hỏi ngược lại, ý hắn muốn xem Đường Diễm Diễm sẽ trả lời như thế nào, không thấy nàng nói gì, liền nói:
“Đầu voi đuôi chuột, chẳng có lợi gì cả, ta mà không cho chúng một bài học nhớ đời, thì chúng sẽ coi Lô Lĩnh Châu ta là một miếng mồi ngon mà nhảy vào xâu xé cướp bóc. Giờ nếu bỏ dở không tấn công nữa, sẽ dẫn đến cái họa vô cùng, sau sẽ xảy ra rất nhiều tranh chấp, khi ấy không biết còn có bao nhiêu dân chúng Lô Lĩnh Châu phải chịu khổ. Ta muốn làm Đại Nhân lắm, nhưng giờ chỉ có thể là Tiểu Nhân mà thôi. Có lúc chữ Nhân ấy cũng phải biết tàn nhẫn.
Hắn lại nói tiếp:
“Hơn nữa, trên đời này không có công bằng và chính nghĩa tuyệt đối, mỗi người đều phải đứng về phía lợi ích của chính bản thân mình mà làm việc. Ta là Lô Lĩnh tri phủ, không phải là tri phủ của Hoành Sơn”.
Đường Diễm Diễm cúi đầu xuống nói:
“Nhưng chàng tấn công quá hung hãn rồi, nói thực, nếu như không phải chính chàng nói, thì ta cũng không tin những việc đó là do chàng hạ lệnh, chàng bình thường hiền lành là thế, giờ lại…thậm chí đến Chiết đại tướng quân cũng không như vậy”.
Dương Hạo không có biểu hiện gì nói:
“Ta chỉ có hai bàn tay trắng, ta không phải thần phật, mọi chuyện ta làm có đúng có sai, nhưng những việc ta làm đều muốn tốt cho dân chúng”.
Đường Diễm Diễm chần chừ rồi nói:
“Nhưng, giờ chàng đã đánh bọn chúng rồi, có người đến hàng, có kẻ chạy trốn, giờ Lô Lĩnh Châu đã có binh mã trấn thủ, như vậy, còn sợ gì chúng đến quấy nhiễu nữa”.
Dương Hạo nhìn nàng một cách khó hiểu, hỏi:
“Có kẻ nào đó đến tìm nàng nói vậy, phải không?”
Đường Diễm Diễm vội nói:
“Đâu có, là ta tự nghĩ vậy”.
Dương Hạo lắc đầu:
“Không thể, nàng không thể vô duyên vô cớ mà đi quan tâm tới chuyện này, là kẻ nào đến tìm nàng, Trình Đức Huyền?”
“Không phải”.
“Là kẻ nào?”
“Thực sự là không có…”
Đường Diễm Diễm lắp bắp nói, Dương Hạo nhìn nàng chằm chằm, nàng liền cúi đầu xuống, nói:
“Ta không phản đối, ta là con gái, lẽ ra không được quan tâm đến chuyện này. Nhưng…Trình Đức Huyền, Phạm Tư Kỳ, những người đọc sách thánh hiền đều cho rằng cách làm của chàng quá tàn nhẫn.
Nếu chàng đắc tội với người có học, lan truyền việc này ra ngoài sẽ làm ảnh hưởng đến thanh danh và tiền đồ của chàng. Các vị như Lâm Bằng Vũ, Lô Vũ Hiên, Tịch Sơ Vân, Tấu Giang lo lắng chuyện này đến tai phủ Khai Phong sẽ có ngự sử đến buộc tội chàng, ảnh hưởng đến con đường làm quan của chàng. Các vị ấy khuyên chàng không nghe, vì thấy ta thân với chàng, cho nên…cho nên…”
Dương Hạo hơi nhíu mày, rồi nở nụ cười:
“Ha ha, bọn họ có ý tốt, nàng cũng có ý tốt, chẳng qua, ý tốt chưa chắc đã làm được việc. Nếu giờ ta thu binh, chẳng phải là rụt lại mà cố thủ sao, bọn chúng thấy vậy sẽ lại đến quấy rầy chúng ta”.
“Cái này, Mộc lão tiên sinh nói với bọn chúng là được mà, song giờ người Khương Hoành Sơn đã bị thương nặng, vài bộ tộc đã sợ chết khiếp, dù có hung hãn đến mấy cũng không dám đến tấn công Lô Lĩnh Châu nữa đâu”.
Dương Hạo nhìn nàng một cách khó hiểu hỏi:
“Cố thủ Lô Lĩnh Châu? Cứ coi như người Khương Hoành Sơn không tấn công Lô Lĩnh Châu nữa, chúng ta lẽ nào không được trả lại cái đã mất sao? Bãi cỏ, súc vật, đất vườn khai khẩn ngoài cốc, tất cả mọi thứ đều mất hết rồi, còn những thương nhân qua lại với Lô Lĩnh Châu nữa, bọn họ cũng không thể đến Lô Lĩnh Châu nữa, lẽ nào dân chúng châu này phải chịu cảnh khổ sở mà sống sao?”
Dương Hạo ném mạnh quân cờ, giận dữ đứng dậy, sắc mặt trở nên tái mét, tức giận nói:
“Nếu không phải lo lắng đến bọn địch thì không nói làm gì, ngược lại nếu chúng không biết kiêng nể ta, thì chúng ta làm sao mà thần phục chúng được? Chúng không biết sợ, thì sao có thể ngừng tấn công được? Nếu bọn chúng ngày đêm không ngừng đến quấy rầy như trước, chúng không ngừng đến tấn công Lô Lĩnh Châu, thế Lô Lĩnh Châu ta còn có thể tồn tại sao? Ta không thể hiểu nổi, những người đọc sách rốt cuộc là nghĩ cái gì nữa, rõ ràng là biết đội quân của chúng ta hiện giờ mạnh hơn chúng, tại sao lại phải quay về cố thủ Lô Lĩnh Châu, hơn nữa lại còn cố nhường nhịn bọn chúng?”
Đường Diễm Diễm thấy hắn giận dữ như vậy, sợ hãi nói:
“Chàng…chàng không cần phải tức giận như vậy…”
Dương Hạo vung tay lên nói:
“Ta không giận nàng”.
Hắn lắc đầu, yên lặng một lúc lâu rồi nói:
“Thôi, quên đi, suy nghĩ của ta, có ai hiểu cho ta đâu? Chỉ có giáo huấn cho bọn họ bài học, bọn họ mới hiểu được là họ sai ở chỗ nào. Nhưng, ta là thủ lĩnh của Lô Lĩnh Châu này, ta không thể để cho Lô Lĩnh Châu ta bị thiệt thòi, không thể để cho họ bị giáo huấn, bị giáo huấn…chỉ có khi dân chúng mất đi tính mạng thì họ mới hiểu được điều này. Kệ họ đi, ta làm việc mà ta cho là đúng là được rồi”.
Đường Diễm Diễm ngạc nhiên nhìn hắn một lúc lâu, cười nói:
“Thực ra ta…ta cảm thấy những điều chàng nói là rất đúng”.
Dương Hạo cũng phì cười, lắc đầu nói:
“Thực ra ta…ta cảm thấy nàng vốn không có ý đó…”
Mặt Đường Diễm Diễm ửng hồng, nàng cúi đầu xuống, di di mũi chân trên đất, không dám ngẩng đầu lên.
Dương Hạo cười nói:
“Chẳng qua, trận chiến này sẽ không kéo dài đâu, sẽ kết thúc trong hôm nay thôi”.
Dương Hạo vui mừng nói, quên mất Đường đại cô nương là một thương nhân. Hắn định kết thúc trận chiến ngay hôm nay, hắn nói cho Đường Diễm Diễm vì không sợ chuyện này sẽ bị lộ ra ngoài, hắn ngồi xuống, nói:
“Lại đây, nàng xem”.
Đường Diễm Diễm ngồi ở ghế đối diện hắn, Dương Hạo nói với Đường Diễm Diễm dự định của hắn:
“Giờ là ta tấn công, địch phòng thủ. Chúng chỉ có thể thủ mà không thể trốn thoát đi đâu, giờ ta đã có tộc người Mộc lão tương trợ, hơn nữa bản phủ có thể điều động một lượng nhân mã lớn, tập hợp lại có thể thành ba nghìn kỵ binh tinh nhuệ, nhưng ta chỉ xuất một nghìn người sang tấn công bộ lạc người Khương, cho dù đối thủ là bộ lạc lớn đi nữa, mỗi khi tấn công một điểm nào đó, ta đều xây tường bao quanh lương thảo lấy được và lương thảo tiếp viện, rồi lại quay sang tiếp tục tấn công điểm khác.
Nhưng quân ta giờ mới chỉ tấn công Hoành Sơn, dọa cho chúng sợ hãi, mỗi lần tấn công, điểm xa nhất là cách Lô Lĩnh Châu ta không quá trăm dặm, hơn mười ngày như vậy, mỗi lần đều là đánh nông, chưa từng đánh sâu lần nào. Đội quân của ta giờ ngày càng thành thục.
Cùng là đối thủ giống người Khương Hoành Sơn của Lô Lĩnh Châu ta là Đông Dương Thị, tộc lều hơn bảy trăm chiếc, có tường bao quanh, cách đây hai trăm dặm. Giờ tường bao quanh đó là chỗ ẩn nấp chạy trốn của bọn người Khương, Đông Dương Thị cũng rất hung hãn, tập hợp các bộ lạc, lại một lần nữa đến xâm chiếm.
“Kế chín nông một sâu mà ta đánh người Khương, ta chỉ xuất một ngàn binh, lúc này ta không tạo thuận lợi, ba nghìn kỵ binh tinh nhuệ xuất ra hết, đánh thẳng vào hang hổ, tóm thủ lĩnh, nàng nói xem có thể tấn công cùng một lúc được không?
Dương Hạo đắc ý ngẩng đầu nhìn Đường Diễm Diễm, giật mình, chỉ trong chốc lát mà mặt Đường Diễm Diễm đỏ ửng như gấc, chẳng những mặt đỏ mà ngay cả cổ cũng đỏ ửng lên.
Tay Dương Hạo run lên, rồi giật mình hoàn hồn, hắn thầm nuốt nước miếng, lấy lại tinh thần, nghĩ:
“Cái…cái…cửu thiển nhất thâm (chín nông một sâu)…ở cổ đại…có phải là một câu thành ngữ không?”
Mặt Đường Diễm Diễm đỏ ửng như hoa đào, tim đập thình thịch, tai nóng bừng, trong lòng thầm nghĩ: “Cửu thiển nhất thâm, hữu tam tả tam, bãi nhược đình hành, tiến nhược cức bộ…Hóa ra cái tên này đã đọc “Tố nữ kinh”. Hắn nói sai, hay là…hay là thay đổi cách nói mà lừa ta?”
Last edited by Thinhbobo; 18-03-2011 at 09:20 PM.
Đã có 11 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Thinhbobo
Quyển 5: Khai Hoa Thập Trượng Ngẫu Như Thuyền
Chương 196:Rượu mạnh đã đến, mỹ nhân ở đâu
Tác giả: Nguyệt Quan
Nguồn: Sưu tầm
Trước mắt là một Đường đại tiểu thư e lệ, kiều diễm, hàm răng trắng, môi đỏ mọng, mắt long lanh như nước mùa thu. Dương Hạo không khỏi si mê.
Mấy ngày nay Đường Diễm Diễm đem theo quân đến Lô Lĩnh Châu, lúc hắn còn đang ngây người ra, thì Bích Túc chạy vào, lớn tiếng kêu:
“Phủ đài đại nhân, binh sĩ của Mộc Ân bao vây Đông Dương Trại, bọn chúng sắp bị chém đầu rồi”.
“Cái gì?”
Dương Hạo hoan hỉ, đứng hẳn dậy nói:
“Được, haha, có thể ngay lập tức tập trung lực lượng đánh rồi. Mau, mau đi chuẩn bị vài thứ lễ vật cho ta, chúng ta phải nhanh chóng lên đường đi Đông Dương Trại”.
Dương Hạo như trút được gánh nặng, quay sang Đường Diễm Diễm nói:
“Đường cô nương, Dương mỗ phải đi xem tình hình quân sự, bàn cờ này…”
Đường Diễm Diễm đang cầm con tượng chuẩn bị đánh, nghe thấy những lời này của Dương Hạo, vội nói:
“Công sự quan trọng hơn, mời đại nhân”.
Dương Hạo chắp tay cáo biệt, vội đi theo Bích Túc ra ngoài, đi đến cửa thì quay đầu nhìn lại, thấy Đường Diễm Diễm đang cười với hắn, lồng ngực hắn tim đập thình thịch, hắn tiếp tục đi, không quay đầu lại nữa.
Sau khi hắn rời đi, Đường Diễm Diễm quay người lại đến bên giường, sờ trong đệm lấy ra một chiếc bình, ôm vào ngực và nghĩ: “Trận này đánh xong. Được. Đợi chàng quay về, ta sẽ đập vớ bình này…Chiết Tử Du…ha ha”.
Đang vui mừng, đột nhiên nhớ tới cảnh nam nữ, nàng nhớ đến cuốn “Tố nữ kinh”, quyển sách này nói về tình cảm trai gái, nghĩ đến sắp có chuyện tốt xảy ra, Đường Diễm Diễm mơ màng như đang trong giấc mộng, chân như đang dẫm lên mây vậy.
***
Đông Dương Trại là nơi dừng chân của Đông Dương Thị người Khương Hoành Sơn, nó rộng khoảng mười dặm, tộc trại có tám trăm chiếc, không được coi là lớn so với bộ lạc người Khương Hoành Sơn, nhưng thế lực lại rất mạnh, không thể coi khinh. Trong trận chiến giữa các bộ lạc, Đông Dương Thị vẫn ít chịu thiệt nhất, không ai dám đưa đại quân đánh trực tiếp Đông Dương Thị để tiêu diệt bộ lạc có một đội quân dũng mãnh có hơn một nghìn người, trong mấy trăm bộ lạc người Khương Hoành Sơn dù lớn dù nhỏ, cũng chỉ có Dã Ly Thị mới chịu nổi sự mất mát như vậy.
Đông Dương Thị ngoài có tám trăm lều ra, ở đây còn có vô số dân tị nạn từ các nơi chạy đến, có nhiều dũng sĩ trong đó, dễ dàng nhặt ra khoảng nghìn dũng sĩ. Với tình hình như vậy, thủ lĩnh của Đông Dương Thị Nhật Mạch Đan Tăng vô cùng vui mừng. Tộc người chạy đến đây, bộ lạc và lều trại không còn nữa, từ nay về sau, chúng chỉ có thể phụ thuộc vào Đông Dương Thị. Đông Dương Trại vì vậy mà xây tường lớn bao quanh, với vị trí nước dâng thì thuyền dâng. Của cải ở nơi đây còn hơn Lô Lĩnh Châu đến hàng trăm lần.
Nhưng, niềm vui của hắn chỉ được vài ngày, sáng nay, khi hắn vừa dậy ngủ thì nhận được một tin: Đông Dương Thị bị vây. Nhật Mạch Đan Tăng nghi ngờ chạy lên tường bao quan sát, mới phát hiện ra có người Hán vây Đông Dương Thị, là đội quân người Hán của Lô Lĩnh Châu. Thủ lĩnh Nhật Mạch Đan Tăng vô cùng phẫn nộ, lập tức sai người thổi kèn, triệu tập võ sĩ, ra khỏi thành quyết chiến với địch. Hắn tuyệt đối không cho phép người khác tới xâm phạm lãnh thổ của hắn, hơn một ngàn kỵ binh người Hán dám xâm phạm, từ thuở nhỏ sống trên lưng ngựa đã hun đúc cho hắn tính dũng mãnh của các dũng sĩ người Khương.
Nhưng sau trận chiến, hắn mới giật mình phát hiện ra, nghìn kỵ binh đến từ Lô Lĩnh Châu, cưỡi ngựa bắn cung hơn hẳn bọn chúng, bọn chúng sống ở khu vực hỗn tạp người Hán, du canh du cư, cưỡi ngựa bắn cung tuy không thành thạo lắm, trình độ bắn cung cưỡi ngựa không bằng các bộ lạc trên thảo nguyên, song chắc chắn dũng mãnh thiện chiến hơn một nghìn kỵ sĩ trên thảo nguyên.
Cũng cần phải biết rằng, Lý Quang Sầm mấy năm lưu lạc trên thảo nguyên, mang theo mấy chục người hầu, dần dần đã phát triển mạnh lên. Giữa các bộ lạc người Khương trên thảo nguyên Hạ Châu lúc đó tuy cũng xảy ra chiến tranh, nhưng địa bàn rộng như vậy lại tương đối ổn định, giữa các bộ lạc rất ít xảy ra cuộc chiến một sống một còn, chỉ có cướp đoạt đồng cỏ và nguồn nước với người Thổ Phiên, cả đời chúng không phải sống mãi trên lưng ngựa, mà chỉ chiến đấu trên lưng ngựa, trong môi trường ác liệt ấy, chúng không những không bị tiêu diệt, mà ngược lại dần lớn mạnh, có tộc người nào dũng mãnh hơn chúng?
Nhưng vì cuộc sống như vậy quá gian khổ, tộc người cả ngày đều sống trong trong cảnh chiến tranh, mà tộc dân lại không ngừng lớn mạnh, dần dần bộ lạc lớn Thổ Phiên đã thức tỉnh. Lý Quang Sầm biết rằng những ngày như vậy không đáng tồn tại nữa, mà tộc lại thiếu đi một thủ lĩnh trí dũng cầm đầu, mới nghĩ trăm phương nghìn kế, nhất định phải tìm con đường ra cho tộc người này, cho chúng có một cuộc sống ổn định.
Sức chiến đấu của kỵ sĩ người Hán mạnh hơn kỵ sĩ của Đông Dương Thị, nhưng dù cho như vậy, thì Đông Dương Trại vẫn chiếm lợi thế, dũng sĩ có gấp đôi quân địch, Nhật Mạch Đan Tăng dốc toàn lực lượng, đánh tan toàn bộ quân địch. Không ngờ, hai nghìn kỵ binh tinh nhuệ lao ra, quân Hán lại rút lui, lúc đang thừa dịp thắng thì lại có hai nhánh kỵ binh đánh úp hai bên.
Nếu như Nhật Mạch Đan Tăng không nhanh chóng phát hiện, lập tức bảo vệ cho thủ lĩnh phía sau thì đến hắn, một thủ lĩnh của tộc người này cũng phải bỏ mạng trong trận mưa kỵ binh của hai nhánh quân đó. Hai nghìn đấu với ba nghìn, sức chiến đấu của từng binh sĩ lại hơn hẳn so với bọn chúng, hơn nữa xét về sự chuẩn bị, trận này làm sao có thể đánh được nữa? Lượng kỵ sĩ rút được về Đông Dương Thị không đến bảy trăm tên.
Trận chiến tàn khốc ấy, đã đánh sập đi dũng khí của Đông Dương Trại, những người mất con, mất chồng, mất người thân kêu la khóc lóc thảm thiết, khắp nơi đều là tiếng khóc, sự kiêu căng của Nhật Mạch Đan Tăng lại một lần nữa nhắm thẳng vào bọn địch, nhưng tận đáy lòng hắn lại cảm thấy sợ hãi.
Hắn phái gần trăm người thân xuất quân, thừa lúc đêm tối phá vây trốn ra ngoài, đến hai bộ lạc lớn kề gần xin chi viện, giá phải trả là hai đồng cỏ màu mỡ của Đông Dương Thị. Đồng cỏ màu mỡ này vốn là của Đông Dương Thị, hắn thực sự không nỡ làm vậy, nhưng người Hán lần này không tha cho hắn, mà hắn lại không thể chống đỡ nổi nữa, nếu không xin được quân Hạ Châu chi viện, Đông Dương Thị sẽ bị người ta diệt tận gốc, sau mươi mười năm nữa, sẽ chẳng còn ai nhớ đến ở đây đây đã từng có Đông Dương Trại và người Đông Dương Thị.
Trát Tây đã về, gần trăm dũng sĩ ra ra vào vào, giờ số còn sống trở về chỉ còn có năm người. Con trai hắn Trát Tây, một chiến sĩ Đông Dương Thị dũng mãnh đã chặt đứt một cánh tay, chột một bên mắt, cả cơ thể be bét máu lết về trại, mang đến cho hắn một tin khiến hắn tuyệt vọng vô cùng: Hai bộ lạc lớn đã yên binh bất động, thấy chết không cứu. Thậm chí Trát Tây còn tự tiện quyết định nhường cho chúng bốn mảnh đất, khi nào tiếp viện sẽ cho nốt toàn bộ đồng cỏ của Đông Dương Thị, nhưng bọn chúng vẫn bặt vô âm tín.
Nhật Mạch Đan Tăng ngồi trên ghế đần người ra, nghe tiếng chém giết bên ngoài tường bao, hắn không biết phải giải quyết tình cảnh này như thế nào. Quân đội người Hán đang chế tạo ra những loại công cụ tấn công tường bao. Đông Dương Trại không có thành lũy kiên cố như người Hán, không cần những công cụ quá lớn và những chiếc thang leo thì cũng có thể tiến vào trại, đêm nay, hắn còn thủ được, ngày mai thì sao? Giờ già trẻ trai gái đều được lệnh xông ra trận rồi.
“Cha à, con ở trong bộ lạc Tề Phong Thị, nhìn thấy có người mang tin của Dã Ly Thị đến rồi, không phải là Dã Ly Thị đến phá rối đó chứ? Mà cũng chỉ có Dã Ly Thị mới có thể uy hiếp hai bộ lạc kia viện trợ cho chúng ta”. Trát Tây chăm chú nhìn về phía xa, nói với Nhật Mạch Đan Tăng.
Nhật Mạch Đan Tăng nhìn đứa con, Trát Tây lại gằn giọng nói: “Dã Ly Thị? Tộc người của chúng ta làm gì có thù oán gì với Dã Ly Thị, chúng tại sao lại giúp người Hán? Nếu Dã Ly Thị ra tay với chúng ta, hà tất phải mượn gió bẻ măng?”
Sau một lúc trầm tư, Nhật Mạch Đan Tăng ngẩng đầu lên, buồn bã nói:
“Chúng ta…hiến trại xin hàng…”
“Gì cơ ạ?”
Trát Tây giận tím mặt:
“Cha à, chúng ta không thể đầu hàng, một khi xin hàng rồi, từ nay về sau chúng ta sao có thể ngẩng mặt lên với người Hán được nữa? Các bộ lạc Hoành Sơn sẽ coi thường chúng ta, chúng ta không thể đầu hàng, thề chết cũng không xin hàng!”
Nhật Mạch Đan Tăng Tăng không ngờ là đứa con trai của mình lại không biết suy nghĩ như vậy, hắn chua sót nói:
“Nếu như không hàng, sẽ làm cho chúng giết tận gốc Đông Dương Thị ta. Con à, tình thế bức bách như này, sát nhập vào bộ lạc khác”.
Lúc đó, Trát Khả Đặc Nhĩ tiến lên phía trước nói: “Đan Tăng đại nhân, ta có ý thế này…”
“Hả?”
Nhật Mạch Đan Tăng quay sang nheo mắt nhìn Trát Khả Đặc Nhĩ. Trát Khả Đặc Nhĩ nói rành rọt từng từ một:
“Chúng ta…giả hàng!”
***
Bích Túc cười nhạt nói:
“Này đại nhân Đặc Nhĩ, Dương Hạo đại nhân chúng ta thực sự cũng không muốn xung đột vũ trang với các bộ lạc người Khương làm gì, không giấu gì ngươi, giờ đã có vài bộ lạc người Khương đầu hàng đại nhân chúng ta, đại nhân chúng ta đãi ngộ rất tốt và bình đẳng với chúng. Ngươi dẫn người ra đầu hàng, mà còn giúp chúng ta đánh lừa mở tường vây, đây là một công lớn, một khi được chuyện, chúng ta nhất định sẽ tiến cử ngươi với triều đình, triều đình sẽ cho các ngươi đặc ân, dù sao thì cũng sẽ cho ngươi một chức quan chỉ huy sứ, đến lúc đó, tại hạ gặp ngươi, cũng phải cúi đầu mà gọi đại nhân đó chứ”.
“Không dám, không dám, Bích đại nhân quá khách khí rồi”.
Trát Khả Đặc Nhĩ cười nói:
“Dưới thiên binh thiên uy, Trát Khả Đặc Nhĩ chỉ mong có thể bảo toàn tộc người của mình, chức quan thì thực là không dám nghĩ đến”.
Hắn lo lắng quay đầu lại nhìn, nghi ngờ nói:
“Bích Túc đại nhân, giờ đã muộn rồi, ta mang các ngươi đi đánh trại, trong bóng đêm, các ngươi chẳng phải thừa dịp mà mai phục tấn công trại sao? Chỗ ta chọn cách cửa tây rất gần, bên cạnh lại toàn là rừng cây, dễ mai phục vô cùng, mà các ngươi muốn ta đưa đến đó kiểu gì?”
Bích Túc cười nói:
“Cái này ngươi không hiểu sao? Thực ra ta cũng không hiểu, đại nhân chúng ta nói, vào rạng sáng mới là lúc mọi người buồn ngủ nhất, đợi lúc trời sắp sáng thì đi đánh trại, lúc đó chúng ta càng dễ dàng đoạt được Đông Dương Trại. Các ngươi cứ ở trong cốc nghỉ ngơi đi, Mộc Ân đại nhân chúng ta chuẩn bị rất nhiều rượu thịt cho các ngươi rồi, các ngươi cứ ăn no, đợi đến khi trời sắp sáng chúng ta sẽ hành động”.
“Được, được, Mộc tướng quân thật cao minh, thực sự là thật cao minh…”
Trát Khả Đặc Nhĩ quay đầu lại nhìn hơn hai trăm tên, thầm lo lắng, trong rừng ngoài tây môn, có rất nhiều cung tên mai phục, đợi hắn dẫn người Hán đi đánh trại, lúc đó sẽ đột nhiên ra tay, dựa vào tài bắn cung của chúng, tuyệt đối sẽ thắng, sẽ giết chết hơn nửa lũ người Hán chưa vào trại. Đến lúc đó đóng cửa trại vào, bắn tên giết chết lũ người Hán tấn công trại, lúc đó tình thế địch ta sẽ xoay chuyển, ai bảo Mộc tướng quân ngu xuẩn kia tự cho mình là thông minh, nào thì đợi rạng sáng tấn công, xem ra đợi lát nữa tìm được cơ hội, phái người chạy về báo tin mới được.
Trát Khả Đặc Nhĩ đang nghĩ ngợi, Bích Túc đột nhiên ôm bụng cười nói:
“Ôi chà, ta hơi mót, các ngươi đợi lát, ta sang bên kia đi đại tiện một lúc”.
“Vâng, Bích Túc đại nhân xin cứ tự nhiên”.
Trát Khả Đặc Nhĩ mừng rỡ, vội đồng ý, chờ Bích Túc chui vào bụi cỏ, hắn lập tức gọi một tên đến, vội vàng dặn dò:
“Ngươi mau nấp vào trong bụi cỏ đi, lát nữa chúng ta đi trước, ngươi lẻn về, nói với Đan Tăng đại nhân là người Hán vào rạng sáng sẽ đi tấn công thành, bảo hắn bảo vệ cẩn thận”.
“Vâng”.
Tên đó thi lễ, rồi nhanh như mèo trốn vào trong bụi cỏ, Trát Khả Đặc Nhĩ cười quay đầu sang nhìn vào bụi cỏ mà Bích Túc đang ngồi xổm. Đợi một lát, hắn bỗng hét ầm ĩ lên:
“Bích Túc đại nhân, Bích Túc đại nhân”.
Bích Túc ngồi chồm hỗm vẫn không nhúc nhích, Trát Khả Đặc Nhĩ mặt tái mét, bước qua đó, đến gần thì hắn không khỏi ngạc nhiên, quần áo vẫn còn đó, trùm vào cây cỏ cao bằng nửa người, nhưng không thấy bóng dáng Bích Túc đâu nữa.
“Không xong rồi, mau tản ra, chuẩn bị lùi lại”.
Trát Khả Đặc Nhĩ hô hét ra lệnh, tộc dân nghe vậy nháo nhác chạy loạn lên, lúc này sau sườn núi có mấy chục tên xuất hiện, đôi mắt hung dữ nhìn bọn chúng, rồi cầm cung bắn tên rào rào.
Tình thế nguy cấp, bên phải, phía trước, phía sau đều có vô số tên người Hán cầm cung nhảy từ trong bụi cỏ ra, bao vây dày đặc bọn chúng.
Trát Khả Đặc Nhĩ giận dữ, một tên đàn ông râu quai nón cầm thanh đao bầu xuất hiện ở cửa cốc, hét lớn:
“Lũ chó chết, dám giả hàng hả, giết không tha!”
Trát Khả Đặc Nhĩ nhận ra người đàn ông to lớn đoàn luyện sứ Mộc Khôi, vội kêu lên:
“Tướng quân chờ đã, ta thực sự thành tâm thành ý đầu hàng Dương Hạo đại nhân, tướng quân không thể giết chúng ta được”.
Mộc Khôi ngửa mặt lên trời quát to:
“Trát Khả Đặc Nhĩ, ngươi nghĩ rằng chúng ta đều là người Hán sao, mặc quần áo vậy chỉ là để che mắt bọn người qua đường mà dễ hành động thôi. Ha ha ha…trò mèo của ngươi, che mắt được người ngoài, chứ sao che mắt nổi ta?”
Rồi hắn giơ đao lên, quát to:
“Người Khương ta đều ký hiệp ước liên minh, ai cũng thật thà với Bạch thạch đại thần, ngươi đến hàng, vì sao lại không dám nhắc đến Bạch thạch đại thần vậy? Bộ lạc người Khương ta, trong nhà không có đao, nhưng nhà nhà có cung tên, còn các ngươi người người đeo đao bên sườn khi lâm trận, cung tên thì có là bao? Ngươi đến đầu hàng, đêm tối xông vào thành, ai cũng không thể chăm chút chu toàn cho người bên cạnh, nhưng người ngươi mang đến đều là những tên trai tráng, không có một ai là người nhà ngươi cả, hơn nữa cũng không thấy đám người đó lo lắng gì”.
“Ta…”
Trát Khả Đặc Nhĩ chưa nói được lời nào, Mộc Khôi đã quát to:
“Giết!”
Những mũi tên được bắn ra, cách mười hai mươi trượng, tiếng bắn tên vèo vèo, ngực trái của Trát Khả Đặc Nhĩ bị trúng một tên, Trát Khả Đặc Nhĩ ngã sấp xuống, mặt đập thẳng vào đất, bên tai chỉ nghe thấy tiếng tên bắn không ngừng, bội đao đeo bên người không có cách nào rút ra mà ném về phía bọn địch, tất cả đều lần lượt ngã xuống.
Sau một lát, không còn một tên nào còn đứng được nữa, tất cả đều nằm rạp xuống đất, các tay cung tiễn ngừng bắn, vác cánh cung trên vai, lệnh cho người đi dò xét, còn thấy tên nào còn hơi thở thì giết cho bằng chết, bọn chúng tiến đến phía trước, đi dò xét từng tên một, thấy tên nào còn thoi thóp hơi thở thì cho một nhát, hoặc đâm vào cổ họng, hoặc đâm vào ngực như giết gà, đến khi không còn tiếng thở nào nữa, không gian yên ắng trở lại mới thôi, Bích Túc ngồi vắt vẻo trên cây thấy cảnh tượng đó mà mặt cũng biến sắc.
Mộc Khôi lại cao giọng hét:
“Để lại một đội quân thu dọn chiến trường, những người khác thì theo ta tiến đánh Đông Dương Trại tây môn, mai phục người ngựa của Đông Dương Thị, không cho chúng trốn ra ngoài…”
Mấy trăm bộ lạc hùng mạnh của Đông Dương Thị đã bị tiêu diệt, khi Dương Hạo đến nơi, tất cả đã bị Mộc Ân giết chết, những bãi đất đẫm máu, xác người chết la liệt.
Mộc Ân trước mặt con gái mình là một người cha hiền lành, nhưng khi đứng trước tộc người của mình là một vị trưởng bối dũng mãnh; Đứng trước Dương Hạo Lý Quang Sầm là một người hầu trung thành, nhưng đứng trước quân địch lại là một tên sát nhân, trái tim của hắn như làm bằng sắt vậy. Những lần bỏ mạng hụt trên thảo nguyên đã tôi luyện cho hắn tính cách đặc biệt này, mỗi chiến sĩ trong bộ lạc dường như đều giống hắn, giống một con sói, đối với đồng bọn thì có tình có nghĩa, đối với quân địch thì có thể giở bất cứ thủ đoạn tồi tệ nào.
Lúc chúng phục tùng nghe lệnh, can tâm tình nguyện trung thành với “Lang vương” Dương Hạo, nhưng trong con mắt lại lộ vẻ không bằng lòng. Dương Hạo có thể bày mưu nghĩ kế đưa ra những phán đoán đúng đắn, cũng có thể phân rạch ròi Đại nhân và Tiểu nhân trước mặt Đường Diễm Diễm, nhưng hắn cuối cùng cũng vẫn thiếu sự tôi luyện trên chiến trường, khi hắn đối mặt với hiện trường này, hắn không thể không bị tình cảm chi phối.
Nhưng hắn không nói gì cả, những điều mà Mộc Ân làm mới đúng với những nguyên tắc tồn tại trên thảo nguyên: Ngươi muốn thắng được quân địch, ngươi cần thích ứng được với những hình phạt mà khi thất bại ngươi sẽ phải chịu. Nếu như Dương Hạo là kẻ thất bại, hắn sẽ không được phân thiệt hơn với quân địch trên chiến trường, nên hắn chỉ có thể làm theo nguyên tắc này, thích ứng với nó, không được nói chuyện nhân nghĩa với bọn sói dốt nát.
Tất cả công cụ, vũ khí, của cải mà Nhật Mạch Đan Tăng Đông Dương Trại tập trung trong phòng đều đã được dọn sạch sẽ, tất cả đã bị san bằng. Đông Dương Trại đã biến thành những mảnh phế liệu, hắn muốn cho tất cả những ai đi qua đều phải nhớ chuyện gì đã xảy ra ở đây, nếu mạo phạm đến Lô Lĩnh Châu thì sẽ phải chịu hình phạt như thế này.
Dương Hạo đi ra từ nhà lớn của Nhật Mạch Đan Tăng Đông Dương Trại, nói với Mộc Ân đi sau:
“Bảo Mộc Khôi áp giải đàn bà và trẻ em về trước, ngươi và Bích Túc ở lại đây, đưa ta đi gặp Tề Phong Thị, Ma Cô Thị, lần này tấn công bộ lạc Đông Dương Thị, bọn họ án binh bất động, không giúp viện trợ, tuy nói là Dã Ly Thị ra mặt uy hiếp, song cũng coi là Lô Lĩnh Châu ta nhận một phần ơn huệ của họ. Công của Mộc Ân cũng lớn, công của Mộc Khôi cũng lớn, song khi nhắc đến chiến thắng này, nó không chỉ là công của chúng ta mà còn có công của bọn họ nữa. Công của hai bộ lạc này không nhỏ, ta sẽ mang lễ vật sang biếu, mời bọn họ cùng với các bộ lạc người Khương Hoành Sơn đến tập hợp bộ lạc Dã Ly Thị, bắt chước chuyện liên minh Đảng Hạng Thất Thị, tạo mối quan hệ tốt với họ.
Thấy Mộc Ân ngạc nhiên, Dương Hạo cười nói:
“Ha ha, đương nhiên là rất đông rồi, các bộ lạc xa gần kéo dài hết núi Hoành Sơn là không thể lập cộng chúa, ta phải thống nhất lợi ích, xóa đi sự tàn bạo của họ, ít nhất cũng phải đứng về phía chúng ta. Giờ chỉ cần bọn họ không gây phiền phức với ta thì coi như chúng ta đạt được mục đích rồi”.
Nói đến đây, hắn đột nhiên dừng bước, nhìn về phía một vài tên bị các binh sĩ trông coi, những người này có nam có nữ, có già có trẻ, là tộc người Đông Dương Thị mà lúc nãy hắn nhìn thấy trong trại, những người này quần áo tả tơi, da xanh xao, giống như một đám dân tị nạn. Điều mà Dương Hạo cảm thấy kì lạ là những thanh niên trong Đông Dương Trại đều đã phải đền tội, vậy mà những tên ở đây phần lớn lại là thanh niên.
Thấy hắn nhìn chăm chú về phía đó, Mộc Ân giải thích:
“Đại nhân, những tên này không phải là tộc người của Đông Dương Thị, bọn chúng thuộc những bộ lạc khác, sau những trận chiến thì bị Đông Dương Thị bắt về làm tù binh, làm nô lệ cho Đông Dương Thị, làm việc rất cực khổ.
“Hả?”
Dương Hạo chớp mắt, dặn dò:
“Bảo người rút lui, không cần đối xử với bọn chúng như nô lệ đâu, tộc người Đông Dương Thị đã bị các ngươi bắt được, chi bằng theo quy tắc của các ngươi mà cho bọn chúng làm dân thường, cho chúng dời đến Lô Lĩnh Châu ta, làm dân của ta, Lô Lĩnh Châu sẽ sắp xếp ổn thỏa cuộc sống cho bọn chúng”.
Ánh mắt khó hiểu của Mộc Ân nhìn Dương Hạo, nhưng vẫn chấp hành mệnh lệnh của hắn, xua tay cho các sĩ tốt lui ra, lớn tiếng truyền lại mệnh lệnh mà Dương Hạo vừa nói, các nô lệ nghe xong vừa mừng vừa sợ, sau một lúc rối loạn liền quỳ xuống bái Dương Hạo, mồm lẩm bẩm nói gì đó, Dương Hạo qua lại với người Khương nhiều, tuy nghe không hiểu bọn chúng nói gì, nhưng cũng vẫn biết có ý là cảm ơn, ca ngợi hắn.
Có một tên cao ráo quỳ xuống ngay chân hắn, tên này phải cao hơn người ta hai cái đầu, Dương Hạo đặc biệt chú ý đến hắn, hắn rất khôi ngô, hai bên tóc mai hơi nâu nâu, da ngăm đen.
Tên này cũng giống như các tên khác quỳ xuống cảm ơn, thỉnh thoảng lại vụng trộm liếc nhìn Dương Hạo, khi bắt gặp ánh mắt của Dương Hạo nhìn hắn, hắn hoảng sợ, cúi gằm mặt xuống, không dám ngẩng đầu lên nữa. Dương Hạo mỉm cười nói:
“Các ngươi không cần cảm ơn ta. Thiên hạ này là của Đại Tống, các ngươi cho dù là người Hán hay người Khương, đều là con dân của Đại Tống. Xảo trá, ngoan cố như Đông Dương Thị, bản quan mới đưa ra hình phạt nghiêm khắc như vậy. Chỉ cần các ngươi theo nề theo nếp, tuân thủ vương pháp, bản quan tuyệt đối không làm khó các ngươi. Đứng cả lên đi”.
Dương Hạo vỗ tay, an ủi:
“Các ngươi không cần câu thức, Đông Dương Trại sẽ không còn tồn tại nữa, bản quan muốn đưa các ngươi đến Lô Lĩnh Châu, tới đó, các ngươi sẽ không là nô lệ nữa, cho dù chăn thả, săn bắt, đánh cá hoặc làm việc gì đó kiếm kế sinh nhai, bản quan nhất định sẽ sắp xếp thỏa đáng cho các ngươi”.
Tay những tên này đều là vết chai sạn, vết chai ấy rất cứng, dày hơn da thịt rất nhiều, không biết bình thường làm những việc gì, nghe Dương Hạo nói vậy, bọn chúng chỉ gật đầu, tỏ vẻ đồng ý, Dương Hạo cười với bọn chúng rồi qoay người đi.
“Đại nhân, lũ tù binh ấy, làm nô lệ là được rồi, đại nhân không nên đối xử với chúng khách khí như vậy”.
Đi được một quãng, Mộc Ân mới nói với Dương Hạo.
“Bọn chúng đều là người Khương Hoành Sơn, Lô Lĩnh Châu muốn có chỗ đứng ở đây, thì phải kết giao được với người ở đây. Bản phủ qua lại với các bộ lạc chính là mục đích này. Chỉ có kết giao, thân thiết với dân chúng thì mới có được sức mạnh, thông qua những người này, sẽ có cầu nối với muôn dân”.
Mộc Ân nghĩ một lúc, ngộ ra điều gì đó rồi nói:
“Đại nhân nói vậy là…”
Đúng lúc này, Điềm Tửu chạy từ đâu đến, hét lớn:
“Cha, ta tìm được một giống dưa, mang về trồng, mùa hè sang năm sẽ có quả ăn”.
Dương Hạo nhìn vào tay nàng thấy hạt giống dưa hấu, nghĩ đến khi ở Đinh gia, mọi loại dưa đều có, nhưng xem ra dưa hấu đến giờ vẫn chưa được thịnh hành ở Trung Nguyên. Số phận! Thật là kỳ diệu, nếu ta không đến thế giới này nhìn thấy giống dưa hấu này, hôm nay sẽ thành thế nào nhỉ? Ở Trung Nguyên chỉ cần trồng giống dưa này, bán qua ngày mà sống.
Dương Hạo nghĩ thầm rồi tự cười, Mộc Ân lại không xem giống dưa đó, lườm Điềm Tửu:
“Không biết lớn biết nhỏ gì cả, đại nhân ngay trước mặt mà không biết chào”.
Điềm Tửu lè lưỡi, nhìn trái nhìn phải không thấy ai, liền thi lễ:
“Điềm Tửu bái kiến thiếu chủ”.
Mộc Ân thấy thái độ đó của nàng, lắc đầu hỏi: “Bắt được những tên bỏ trốn chưa?”
Điềm Tửu lắc đầu nói:
“Chưa ạ, chúng con không thuộc địa bàn nơi đây, chúng chạy lung tung trong rừng, giờ vẫn không thấy bóng dáng đâu, chúng con chỉ bắt được một tên bị thương, chạy mất hơn hai mươi tên, trong đó có Trát Tây con của Nhật Mạch Đan Tăng, nhưng hắn đã chặt đứt một cánh tay, chột một bên mắt, hắn sẽ chẳng sống được lâu đâu”.
Dương Hạo nghe vậy vội hỏi:
“Sao, cá lọt lưới hả?”
Mộc Ân nói:
“Vâng, Trát Tây vì bị thương, lúc ấy chỉ mai phục bên ngoài và phía trước trại, mà hắn lại nghỉ ngơi ở phía sau trại. Khi chúng ta tấn công trại, hắn biết không thể làm gì được, liền cùng một vài tên chạy trốn”.
Điềm Tửu cướp lời nói:
“Nhưng chỉ có mười hai mươi tên chạy trốn thôi, không quan trọng”.
Mộc Ân ngắt lời nói:
“Diệt cỏ phải diệt tận gốc. Xưa cha ngươi chạy đến địa bàn người Thổ Phiên, giờ đã có ba nghìn kỵ binh tinh nhuệ đó thôi, không thể nói là không quan trọng được”.
Dương Hạo gật đầu, chậm rãi nói:
“Tiếp tục truy tìm chúng, nhất là…phải xem xem có bộ lạc nào dung chứa bọn chúng không…”
Ánh mắt Mộc Ân sáng lên, trầm giọng nói:
“Đại nhân yên tâm, thuộc hạ hiểu”.
Người của hai bộ lạc Tề Phong Thị, Ma Cô Thị vô cùng khách khí với tri phủ người Hán Dương Hạo, là hai bộ lạc lớn của Hoành Sơn, dù chúng không lệ thuộc vào Dã Ly Thị, nhưng mối quan hệ giữa chúng vẫn rất mật thiết.
Dã Ly Thị phái người mang tin, cảnh cáo bọn chúng không được đếm xỉa đến, tuyệt đối không được nhúng tay vào cuộc chiến giữa Lô Lĩnh Châu và bọn cướp bóc Lô Lĩnh Châu, thì bọn chúng cảm thấy rất lạ. Bình thường tộc người chúng nhìn thấy bộ lạc khác bị xâm chiếm thì cũng phải ra tay viện trợ, nhưng lại bị thủ lĩnh của hai bộ tộc ngăn lại.
Quả nhiên không sai, người Hán từ trước đến nay chưa từng có phản ứng gì, chưa từng có sự phản kích trả thù nào, giờ phản kích lại, khiến người ta ngạc nhiên, kết cục của Đông Dương Thị, đến bọn chúng nhìn cũng cảm thấy ghê sợ. Giờ thấy Dương Hạo cười ha ha, tóm lại khi tri phủ Lô Lĩnh vui vẻ, hai thủ lĩnh cũng phải cảm thấy kính nể hắn.
Cái được tôn trọng trên thảo nguyên chính là thực lực, Dã Ly Thị có tầm ảnh hưởng rất lớn với họ, ngăn cản chúng hành động, lại không thể để chúng kính nể một người, sự kính nể này chỉ có thể xuất phát từ những hành vi mà người này thực hiện. Dương Hạo giờ đã có cái này.
Lời mời của Dương Hạo, bọn họ vui vẻ đáp ứng. Nếu địa điểm mời là Lô Lĩnh Châu, thì họ hơi lo lắng, nhưng nếu như họp ở bộ tộc Dã Ly Thị Hoành Sơn thì vấn đề an toàn không phải lo lắng. Hai người đồng ý đi dự, hơn nữa còn thông báo cho các thủ lĩnh của bộ tộc khác cùng có thái độ hợp tác.
Dương Hạo đến đây chính là để mời hai vị thủ lĩnh này, thông qua họ, sẽ liên hệ được với càng nhiều thủ lĩnh, bày tỏ được thiện chí của mình. Không có chiến tranh không mục đích, cuộc chiến này phục vụ mục đích chính trị, mục đích kinh tế, trận chiến này bản thân đã đạt được kết quả mà mình mong muốn, hơn nữa có một lượng dân cư, của cải dồi dào, giờ lợi dụng kết quả này, từng bước mở rộng ảnh hưởng đến càng nhiều lợi ích chính trị và lợi ích kinh tế. Nay đạt được mục đích rồi, Dương Hạo liền từ biệt hai vị thủ lĩnh, mang theo Bích Túc, Mộc Ân và gần nghìn thị vệ trở về Lô Lĩnh Châu.
Trên đường trở về, cờ chữ Dương tung bay trong gió, dù những tên không biết chữ thì cũng nhận ra được cờ “Dương”, con đường biên giới với Lô Lĩnh Châu yên bình làm sao, phía trước phải quẹo qua một ngọn núi, thì đến cửa Lô Lĩnh Châu.
Bên trái là cây cỏ và núi nham thạch, bên phải là thảo nguyên rộng mênh mông, tầm mắt phía trước có hạn, con đường bên núi kéo dài về bên trái, mới có thể thấy con đường phía trước. Người đi dưới chân núi phải đi vòng vèo. Các thị vệ đi trước dẫn đường đã đến chỗ ngoặt, ghìm ngựa lại nhìn. Lúc này, trên vách núi có vài tên đứng dậy, giương cung bắn tới tấp vào dòng người phía dưới.
Dương Hạo chạy vội, lấy lại bình tĩnh, nhìn trái nhìn phải, có vài tên đã bị hắn phát hiện, xung quanh hắn đều là những kỵ sĩ đang bảo vệ hắn. Những tên này nép vào vách núi, chỉ dám liếc mắt nhìn, dò xét vị trí mà hắn đứng, rồi thấp thỏm đứng lên bắn nhưng bắn không chuẩn, chỉ có hai mũi tên được bắn tới thì lại bị Dương Hạo dùng kiếm cản được.
“Bảo vệ đại nhân!”
Vài tên thị vệ chạy đến phía trước Dương Hạo, giơ mấy lá chắn lên che chở cho Dương Hạo, đội ngũ nhất thời loạn lên. Trên núi có một tên, miệng hắn ngậm một thanh đao, một tay men theo vách núi nhảy xuống dưới khiêu chiến, có sáu bảy hòn đá rơi xuống theo, vết thương ở cơ thể hắn được băng sơ sài, hắn ngậm đao nhảy xuống chỗ Dương Hạo. Tên này cụt một tay, chột một mắt, chính là tên đào tẩu Trát Tây.
Những tên khác cũng nhảy từ trên núi xuống, dũng mãnh không sợ chết lao về phía Dương Hạo. “Za” Dương Hạo đẩy mạnh tấm chắn, nhảy xuống ngựa, cầm kiếm tiến đến tên Trát Tây. Kiếm thuật là kiếm thuật, giờ không cần đẹp mà chỉ cần giết được địch, kiếm thuật mà bản thân tôi luyện được chỉ được nâng cao khi tham gia vào trận chiến.
Cánh tay còn lại của Trát Tây cầm đao đánh về phía hai tên thị vệ, thế như hổ vồ, đao được vung lên chém đứt hai chân ngựa, chiến mã hí vang, hắn chạy nhanh đánh về phía Dương Hạo.
Mộc Ân thấy gặp thích khách, không nghĩ ngợi gì giương cung ngắm bắn, hàng loạt mũi tên bay ra khỏi cung của hắn, tiếng tên xé gió bay vù vù về phía địch. Những tên thích khách còn chưa nhảy xuống đất thì đã bị tên bắn trúng, có sáu bảy tên bị bắn chết trên vách núi, những tên nhảy xuống không đến mười tên, rồi bị lẫn trong biển người.
Dương Hạo khẽ quát một tiếng, kiếm được rút ra, kiếm giơ lên “Keng” chạm vào đao của Trát Tây, nhằm hướng cổ họng hắn mà đâm. Lúc này có một tên thích khách khác nhảy tới gần, Dương Hạo đổi thế kiếm, chỉ nghe thấy “Phụp” một tiếng, mũi kiếm đã đâm vào tim của tên thích khách, lúc đó, đao của Bích Túc cũng đâm vào bụng tên thích khách đó.
Trát Tây nhận một kiếm của Dương Hạo liền lùi lại, lảo đảo vài bước, hai mắt đỏ ngầu, đánh như điên tới, trong chớp mắt hắn đã bị chiến sĩ dũng mãnh bên cạnh Dương Hạo cho một đao, đâm hai nhát, tấn công không có chút lực nào, người hắn đẫm máu, mắt nhìn Dương Hạo hằn học.
Dương Hạo đổi thế kiếm như bay, nghiêng người xuất kiếm, nhanh chóng đâm một nhát vào ngực Trát Tây, Trát Tây không hề đỡ kiếm, ngược lại hắn còn vọt tới, bất chấp liều mạng chết cũng không để cho Dương Hạo đâm đến chết, Dương Hạo giật mình, không đoán được hắn lại có cách đánh này. Dương Hạo lập tức lui về phía sau, lúc này Trát Tây cũng lui lại phía sau.
Chết chắc rồi mà vẫn còn lui lại phía sau được sao? Dương Hạo vung kiếm lên phía trước ngực, nhìn chằm chằm vào tên thích khách, lại nhìn thấy trong đám người có hai móc câu xuất hiện, móc vào hai đùi của Trát Tây kéo lại.
Có năm sáu tên đứng bảo vệ Trát Tây, Dương Hạo nhướn mũi, lắc đầu:
“Lũ người này đứng trước ta ngoan hiền như cừu, nhưng khi thấy có người chết, thì động tác nhanh nhạy hẳn lên.
Những tên còn xót lại của Đông Dương Thị đã bị các chiến sĩ dũng mãnh bao vây, như bảy tám con sư tử xâu xé một con linh dương. Sau khi giết xong bọn chúng, Mộc Ân vội vàng chạy tới trước mặt Dương Hạo, vội nói:
“Hạ quan đáng trách, đã làm đại nhân sợ hãi”.
“Không sao, như này ta cảm thấy hài lòng lắm rồi”.
Dương Hạo cười, hắn không sợ đám người này đánh úp mà chỉ sợ bọn chúng chạy mất. Nếu chúng được ăn cả ngã về không, thì không có gì phải sợ hãi cả. Đông Dương Thị đến tận đây, cuối cùng cũng bị hắn xóa sạch dấu vết.
Dân chúng trong cốc và những thương nhân còn lại trong cốc không dám ra ngoài đến lúc thấy tri phủ đại nhân trở về. Phản kích của quân đội Lô Lĩnh Châu làm cho bọn họ cảm thấy hãnh diện, nếu như nói những dân chúng này ủng hộ Dương Hạo, vốn chỉ là ân tình đối với hắn, giờ mới là quyết một lòng vì hắn vì hắn là người luôn tình nguyện hy sinh tính mạng mình. Trong mắt họ, Dương Hạo không chỉ là quan phụ mẫu, mà còn là một người trụ cột chính của đại gia đình bọn họ, họ tin tưởng và không nghi ngờ Dương Hạo bất kỳ vấn đề gì, vì Dương Hạo làm mọi điều đều muốn tốt cho họ.
Đội quân của Dương Hạo xuất hiện ở cửa cốc, đám người hoan hô rền vang, Dương Hạo dặn dò với đội quân:
“Chuyện bị tập kích không được để lộ”. Rồi mỉm cười nói: “Đi thôi, dân chúng đang chào đón ta và các ngươi, được dân chúng ủng hộ ta cảm kích vô cùng, mỗi chiến sĩ được tạo nên bởi máu tươi và tính danh, các chiến sĩ hãy giữ vững tinh thần này, nhận sự chào đón của bách tính môn dân”.
“Đại nhân, phủ đài đại nhân!”
Lý Ngọc Xương chặn trước ngựa, hơi xấu hổ nói:
“Ta thay mặt toàn thể thương nhân mời rượu đại nhân để tỏ lòng cảm ơn, dùng cốc thì tầm thường, dùng bát thì không được…vậy ta dùng chiếc bình này đừng rượu. Tuy chiếc bình này không lớn lắm, chí ít cũng có thể chứa được năm lạng rượu, Dương đại nhân uống xong rồi mới vào cốc có được không?”
Rượu này thực sự rất ngon, nó vốn là rượu mà Lý Ngọc Xương để lại chút ít uống, vừa nhìn thấy Đường Diễm Diễm đứng cạnh vại rượu, dặn dò Lý Ngọc Xương bảo hắn uống càng nhiều càng tốt, Lý Ngọc Xương không hiểu ra làm sao, nhưng cũng đành đồng ý.
“Đại nhân vì bảo vệ sự bình yên của Lô Lĩnh Châu, bảo vệ sự an nguy của dân chúng, tự mình xuất chinh, diệt trừ bọn trộm cướp, càng vất vả thì công lao càng lớn, ta nhận trách nhiệm mà dân chúng và các thương nhân giao cho là mời rượu đại nhân bày tỏ sự cảm ơn”.
Lý Ngọc Xương vung tay lên, dân chúng và các thương nhân cùng hò vang, đưa từng bát rượu ngon ra mời các chiến sĩ, còn Lý Ngọc Xương mời rượu Dương Hạo bằng chiếc bình ngọc.
Dương Hạo vội nhảy xuống ngựa, hai tay nhận lấy bình rượu, trong lòng sinh nghi:
“Quái, người khác dùng bát, sao lại cho ta cái bình này? Chẳng lẽ là để phân biệt với đám binh sĩ?”
Trong đám người, khuôn mặt nhỏ nhắn của Đường Diễm Diễm ửng đỏ, hai mắt sáng lên nhìn hắn cầm bình rượu, thầm hét: “Uống! Uống! Uống!”
“Các vị tướng sĩ, tính mạng dân chúng Lô Lĩnh Châu ta đều nhờ có các tướng sĩ mà được bảo toàn, đã báo được cái thù cho môn dân, nay các tướng sĩ trở về, mời rượu ngon, nói chuyện biểu thị lòng biết ơn, mời mọi người, cạn!”
Đàn ông đất bắc có mấy ai không biết uống rượu? Huống chi nói đến Dương Hạo và đám thị vệ đều từ Trung Nguyên đến, càng coi rượu như tính mạng mình.
Lý Ngọc Xương lấy ra rượu ngon năm xưa, chỉ cần ngửi mùi rượu thôi đã làm người ta tiết nước miếng, vừa nhìn thấy Lý Ngọc Xương uống cạn bát rượu, các tướng sĩ cùng hưởng ứng uống. Dân chúng vỗ tay hoan nghênh, bọn họ vui mừng khôn xiết, bát rượu ngon, lòng càng ngọt.
Nhưng Dương Hạo lại cảm thấy khó xử, sao lại là bình rượu, hắn chau mày nhìn “Bát rượu”, dân chúng đang tha thiết nhìn hắn uống, không thể chối từ, hắn giơ bình lên, uống từng ngụm.
Chỉ uống được nửa bình thì dừng lại không uống nổi nữa, cũng may đây là cái bình, không sợ người ta nhìn thấy là chưa uống hết, Dương Hạo ngửa đầu, làm bộ dáng uống cạn rượu, sau đó đưa bình rượu cho Lý Ngọc Xương, cười nói: “Đa tạ Lý viên ngoại, đa tạ bà con. Bảo đảm sự an nguy của dân là trách nhiệm của ll đoàn luyện ta, mọi người thực sự quá khách khí, giờ ta và các tướng sĩ đã trở về rồi, cũng muốn nghỉ ngơi chút, mọi người cũng có nhiều việc phải làm, mau trở về đi!”
Dương Hạo chắp tay nói lời cảm ơn với dân chúng, rồi quay sang nháy mắt với đoàn luyện phó sứ Lý Quang Sầm, hai người nhảy lên ngựa, lại một lần nữa chắp tay bái kiến bách tính môn dân, rồi thúc ngựa đi.
Lý Ngọc Xương đứng ở ven đường, vui mừng nhìn các quân sĩ vào cốc, Đường Diễm Diễm lòng tràn ngập niềm vui đứng cạnh hắn, chộp lấy chiếc bình.
Lý Ngọc Xương ngẩn người ra, thấy nàng, ngạc nhiên nói: “Diễm Diễm, cháu làm gì vây?”
Đường Diễm Diễm vô cùng vui sướng, làm mặt quỷ với hắn rồi cười nói:
“Cậu à, cậu làm việc của cậu đi, cứ kệ cháu, lát nữa cháu về”.
Dứt lời nàng lẩn vào đám người, không biết là đi đâu. Lý Ngọc Xương lắc đầu cười, đứa cháu gái này của hắn như con ngựa hoang vậy, từ nhỏ đã học được các thói xấu của các trưởng bối Đường gia, hắn hết cách đối phó với đứa cháu ngang ngược này.
Đường Diễm Diễm cầm chiếc bình, chạy đến chỗ không có người, trốn vào phía sau của khối nham thạch, giơ bình lên lắc lắc, nghe thấy trong bình vẫn có tiếng nước, Đường Diễm Diễm tiu nghỉu nói:
“Không uống hết rồi…”
Nàng nghiêng đầu nghĩ ngợi gì đó, rồi lại nở nụ cười nói:
“Bà nội chỉ nói chiếc bình này để khấn thầy cúng, làm phép, chỉ cần dùng nó uống rượu là được, mà còn chưa nói uống nhiều hay ít, hì hì…cho dù uống một ngụm cũng có tác dụng rồi”.
Nàng nuốt nước bọt, nhìn vào chiếc bình, rồi rót rượu còn lại trong bình xuống đất, sau đó trợn mắt, ném chiếc bình về phía tảng đá. “Keng” một âm thanh vang lên, chiếc bình bắn nẩy lên cao, Đường Diễm Diễm há hốc mồm, tròn mắt nhìn chiếc bình…
Đã có 13 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Thinhbobo