Hai cặp mắt trừng trừng nhìn Poirot.
- Không biết chúng tôi có giúp được gì ông - Chúng tôi đã khai hết với Cảnh sát.
Poirot đăm chiêu quan sát hai thanh niên ngồi trước mặt. Bộ điệu của họ rõ là tỏ mình hơn người, không còn trẻ con nữa. Nicholas mười tám tuổi, Desmond mười sáu.
- Tôi được một người bạn giới thiệu đến đây để thu thập thêm một vài tin tức bổ sung, không phải về diễn biến tối liên hoan ở nhà bà Drake, mà là về công việc chuẩn bị từ chiều. Hai anh đều có mặt?
- Phải.
- Tôi đã hỏi các bà phục vụ và lại có ưu tiên được dự các cuộc họp bàn của Cảnh sát trong quá trình điều tra, đã nghe báo cáo của thầy thuốc pháp y, đã gặp một cô giáo, một hiệu trưởng và mẹ của nạn nhân; tôi cũng nghe vài lời bàn tán trong làng... à mà, ở địa phương ta có một bà phù thủy?
Hai chàng trai phá lên cười :
- Ông định nói bà Goodbody? Có, bà ấy có đến dự, đóng vai phù thủy.
Poirot nói tiếp :
- Giờ tôi muốn nghe lớp trẻ, vốn có mắt tinh, tai thính. Tôi rất muốn biết các cậu nghĩ gì về thảm kịch này.
Hai cậu con trai đã bắc thang, treo các quả bí, mắc bóng điện chạy suốt tường nhà, một cậu thì hí hoáy in các tấm ảnh có ấn tượng cho các cô gái đang mơ đến chàng hoàng tử đẹp trai. Họ cũng là hai kẻ tình nghi mà thanh tra Raglan luôn để mắt.
Poirot chú ý quan sát vẻ ngoài của hai cậu. Nicholas đẹp trai, để râu lún phún, tóc dài chờm xuống cổ. Cái cách cậu ta mặc bộ đồ màu sẫm, trông buồn tẻ, làm ta hiểu đó là cách ăn mặc thường lệ, không phải nhằm chia buồn với gia đình Reynolds. Cậu bạn thì mặc bộ đồ tươi hơn, vet-tông nhung hồng, quần màu hoa cà. Cả hai hẳn phải tốn tiền mới mua được những quần áo ấy, cửa hàng trong làng làm gì có bán.
- Hai cậu cho tôi biết hôm ấy các cậu làm những việc gì?
- Chủ yếu lo ánh sáng, treo các quả bí.
- Được biết các cậu còn tạo được nhiều ảnh đẹp, được các cô gái rất thích.
Desmond lục túi lấy ra mấy tấm ảnh chân dung đưa cho Poirot :
- Đây là những mẫu ảnh thể hiện các ông chồng tương lai của họ.
Poirot chú ý xem các bức ảnh đã cố tình sửa chữa, tô lại thành những bộ mặt râu ria, tóc dày, trông lạ lẫm hoặc ngộ nghĩnh.
- Bà Drake cho là ảnh rất hợp. Chúng tôi chiếu ánh sánh để làm cho bọn con gái thấy những chân dung ấy phản ánh vào mặt gương họ cầm.
- Các cậu có nhớ những ai cũng đến chuẩn bị, trang trí?
- Xem nào, ngoài bà Drake, có bà Butler, một cô giáo, rồi cô Whittaker, Flatterbut, em gái hay vợ của ông chơi đàn ống, cô phụ tá của bác sĩ Ferguson, cô Lee và bọn con gái.
- Hãy nói về bọn con gái.
- Trước hết, có hai chị em Reynolds, tức là Joyce và cô chị là Ann, một đứa khụng khịnh luôn tự phụ là sẽ đỗ nhất lớp. Còn thằng út Léopold, chuyên gnhe trộm và hớt lẻo. Rồi... Béatrice Ardley và Cathie Grant, con bé ngu như lừ. Cuối cùng, có hai bà phục vụ, và bà văn sĩ đã mời ông đến đây.
- Không có người đàn ông nào?
- Ông phó giám mục có ở đó một lát. Có lẽ tất cả có vậy.
- Nghe nói các cậu có nghe thấy Joyce nói về một vụ án mạng mà em chứng kiến?
- Tôi không thấy. Nó nói thế thật ư?
Cậu kia nói xen vào :
- Nghe người ta kể thôi. Riêng tôi, chắc không có mặt lúc con bé nói. Nó nói ở đâu?
- Trong phòng khách.
- Phần lớn thời gian, chúng tôi nghiên cứu hiệu quả ánh sáng trong phòng sẽ chơi trò gương thần. Rất ít ở ngoài phòng khách. Nick, cậu có ở đấy lúc con bé Joyce nói không?
- Tiếc là không. Nghe có vẻ ly kỳ đấy!
- Tại sao? - Desmond hỏi.
- Chứ gì, như vậy chứng tỏ nó có tai tiên tri. Nói án mạng và vài giờ sau, chính mình bị giết. Như thế không ly kỳ à?
Hercule Poirot hỏi tiếp :
- Suốt buổi tối, các cậu không có cảm giác về chuyện gì bất thường?
- Không.
- Cậu có ý kiến riêng nào không?
Câu hỏi dành cho Nicholas, cậu này hỏi lại :
- Về lai lịch kẻ nào đã thủ tiêu Joyce?
- Hờ... phải.
Desmond cướp lời :
- Tôi, thì tôi nhằm vào Whittaker.
- Cô giáo toán?
- Một bà gái già, đúng nghĩa. Đích thị là một kẻ bị tình dục ám ảnh. Mà phải nói luôn: nhà trường toàn do phụ nữ dạy là không tốt. Nick, cậu có nhớ cái cô giáo bị bóp cổ chết cách đây một hai năm? Hình như cô này cũng phóng túng lắm.
- Không có gì lạ. Cô ta sống chung một căn hộ với Nora Amlrose, cô này có bạn trai, thế là hai người mâu thuẫn kịch liệt. Người ta còn đồn là cô ta có con, vì cô ta biến đi đâu hai kỳ tam cá nguyệt. Có điều là ở xứ này cũng hay có chuyện đồn thổi lung tung.
- Nói lại về Whittaker, cô ấy ở trong phòng khách suốt. Nghe Joyce nói, cô ấy có thể nảy ra ý đồ gì chăng?
Cả hai quay về phía Poirot, mắt sáng lên như hai con chó đã ngoạm được con chim bị bắn hạ về cho chủ.
- Nếu như vậy - Desmond đế thêm - Cô Emlyn phải biết. Chuyện gì trong trường, cô ấy chả biết. Trừ khi cô ấy thấy phải bảo vệ cấp trên của mình.
- Nếu cô ấy ngờ ngợ là Whittaker nổi cơn điên như thế, nhất định cô phải bảo học trò tránh xa. Cậu nghĩ sao?
Hai cậu con trai hể hả nhìn Poirot.
- Quả thật - Nhà thám tử thú nhận - ý kiến của các cậu phải làm tôi suy nghĩ.
Poirot nhìn thật kỹ bà Goodbody, và công nhận bà mà đóng vai phù thủy thật hợp. Dĩ nhiên, bà có một trái tim vàng, điều đó không làm vẻ bề ngoài của bà thay đổi.
Nghe xong câu hỏi của nhà thám tử, bà vui vẻ đáp :
- Phải, tôi ở nhà bà Drake hôm lễ hội quả bí. Khi cần có phù thủy, bao giờ bà con cũng gọi tôi. Tối đó, tôi phải niệm những câu thần chú trong trò soi gương thần, làm sao cho không khí linh thiên để hai anh con trai Nicholas và Desmond tung ảnh ra. Tôi còn cho bà Drake mượn quả bóng phù thủy tôi mua được ở một hội chợ từ thiện. Nó treo ở kia kìa, trên lò sưởi. Đẹp không?
- Vậy bà có thể nhìn vào quả bóng này và trông thấy ai đã giết cô bé Joyce?
- Ông nhầm. Bóng này không nhìn thấy được, phải một quả bóng bằng pha lê kia. Nếu tôi nói ông biết, theo tôi, ai giết Joyce, ông sẽ không tin, bảo như thế là trái tự nhiên. Xin nói để ông rõ là dân làng này không tồi. Phần lớn là những người chất phác, nhưng ở đâu thì cũng có những đứa con của quỷ dữ, sinh ra và được giáo dưỡng để phục vụ mưu đồ xấu xa của quỷ. Ông không còn ít tuổi và thừa biết là trên đời này còn lắm chuyện thối tha.
- Than ôi, tôi biết quá đi chứ. Nếu quả thật Joyce đã trông thấy một vụ án mạng...
- Ai bảo thế?
- Chính em ấy nói.
- Và ông cũng tin? Con bé chúa hay nói dối - Bà chăm chăm nhìn Poirot, dò hỏi - Ông nghĩ khác?
- Không, thật là không. Quá nhiều người đã nói như bà, khiến tôi không thể nghi ngờ.
- Mỗi nhà mỗi cảnh, lắm chuyện lắm, gia đình Reynolds chẳng hạn. Ông Reynolds làm nghề môi giới bất động sản. Tham vọng ông ta chỉ có hạn, sống tầm tầm thế thôi. Bà Reynolds thì hơi một tí thì rối lên. Còn lũ con, chẳng đứa nào giống bố hay giống mẹ. Ann, là con bé rất thông minh, năm nay chắc chắn sẽ thi đạt kết quả tốt. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu nó học lên đại học và một ngày kia sẽ trở thành giáo sự Joyce không thông minh bằng chị và em trai, nó cố gắng để tỏ ra mình không kém ai, luôn làm ra bộ mình biết nhiều chuyện, thậm chí bịa ra chuyện để thu hút sự chú ý của mọi người.
- Còn đứa em út?
- Ồ, nó mới chín hay mười tuổi, nhưng tôi cho là thằng này sẽ có cá tính. Nó rất khéo tay và có lắm sáng kiến. Nó còn tiến xa. Nhưng không vì thế mà không dè chừng nó. Thằng này hay nghe trộm, hay chơi nhả với bạn. Không biết nó lấy đâu ra tiền túi. Bố mẹ nó đâu có dư dật mà cho nó lắm thế. Có thể nó bán những bí mật nghe được lấy tiền chăng.
Bà hổn hển dừng một lát, rồi kết luận :
- Đó, có lẽ tôi chẳng nói được gì thêm.
- Ngược lại, bà đã giúp tôi nhiều. Còn cái cô người ở biến đi mất tích, bà có biết cô ấy đi đâu?
- Theo tôi, nó chẳng đi đâu xa. Ding dong dell, passy’s in the well [1]. Tôi vẫn nghĩ như thế đấy.
- Xin lỗi bà, tôi có thể gặp bà một lát?
Oliver đang đứng dưới hiên nhà bà bạn để chờ Poirot, quay về người phụ nữ lạ mặt đứng gần, tay ghì chặt đôi tất tay trắng muốt. Bà ta trạc bốn mươi, ăn mặc giản dị, nhưng trau chuốt.
- Bà cần gì?
- Rất tiếc đã làm phiền, song tôi nghĩ... nghĩ...
Oliver không vội dồn người lạ, mặc dù cô rất muốn biết bà này cần gì.
- Thưa bà, có phải bà là người viết sách, sách về những vụ án?
- Phải. Truyện trinh thám.
Sự tò mò của Oliver càng lên tới đỉnh điểm.
- Tôi đến gặp bà, vì nghĩ rằng bà là người có thể cho tôi những lời khuyên.
Đoán chừng bà khách cần nhiều thời gian để trò chuyện, Oliver mời bà ngồi. Bà khách vẫn vần vò đôi tất tay, nói :
- Một chuyện xảy ra đã lâu, nhưng hồi đó tôi không để ý. Nhưng rồi, đến một ngày nào đó, tôi ngẫm nghĩ lại và thấy cần phải xin ý kiến của người am hiểu. Lại liên hệ với việc mới xảy ra gần đây, càng phân vân, thấy có lẽ nói hết sự thật ra thì hơn...
- Bà định nói về em bé Joyce?
- Vâng. Cái chết thê thảm của cháu chứng tỏ có những người ta không thể tin cậy được, có phải không? Và với thời gian, ta mới hiểu rằng một số sự việc mà lúc đầu ta chấp nhận một cách bình thường, thực ra không giống như ta nghĩ. Bà hiểu tôi chứ ạ?
- Ờ... ờ. Mà tôi chưa được biết quý danh?
- Leaman. Bà Leaman. Từ khi chồng tôi chết cách đây năm năm, tôi thường đi làm, giúp việc các gia đình. Tôi đã đi ở cho bà Llewellyn - Smythe, chủ cũ của nhà Quarry House. Bà có biết bà ấy không?
- Không. Tôi đến Woodleig Common lần này là lần đầu.
- Nếu vậy, chắc bà không biết chuyện xảy ra hồi trước và những lời đồn của thiên hạ?
- Tôi có được nghe kể một số.
- Tôi không hiểu gì về pháp luật, tôi rất sợ nó. Tôi không tin các ông công chứng, họ làm rối tung rối mù mọi thứ. Tôi cũng không dám gặp Cảnh sát. Một vụ việc liên quan đến di chúc có thuộc thẩm quyền của Cảnh sát?
- Có thể, nhưng điều đó còn tùy.
- Chắc bà có biết người ta nói gì hồi ấy về một bản bổ... bổ...
- Bổ sung?
- Phải. Bà Llewellyn - Smythe đã thảo cái bản bổ... bổ sung ấy, để toàn bộ tài sản cho con bé người nước ngoài đã hầu hạ bà. Quyết định đó làm mọi người ngạc nhiên. Bà ấy có gia đình hẳn hoi, chính vì muốn ở gần người thân nên mới đến ở làng này. Bà đặc biệt yêu người cháu, tức là ông Drake, trao của cải cho người lạ thì làm gì mọi người không sửng sốt. Lũ công chứng liền tung ra tin đồn rằng không phải chính tay bà Llewellyn - Smythe viết bản bổ sung, mà là con bé người ở kia, dọa truy tố ra tòa.
- Phải. Và họ tuyên bố bản bổ sung là vô giá trị. Bà biết gì thêm?
- Thựa ra, tôi không định làm điều gì xấu - Bà Leaman chống chế, giọng thảm hại.
Oliver hiểu ra. Hẳn là bà Leaman đã nấp sau cửa, nghe trộm.
- Tôi không nói lại với ai - Bà nói tiếp - vì ngay lúc bấy giờ, tôi có biết gì rõ ràng đâu. Tôi chỉ nghĩ là có chuyện gì đấy, tôi không đoán được. Tôi đã làm việc với bà Llewellyn - Smythe khá lâu, nên tò mò muốn biết. Cũng là chuyện bình thường, có phải không?
- Tất nhiên. - Oliver chưa hiểu ra làm sao, nên khuyến khích.
- Nếu nghĩ là tôi đã hành động sai, thì sau này tôi sẽ nói, nhưng lúc chuyện đó bắt đầu, tôi nghĩ là nên giữ miệng thì tốt hơn.
- Bà muốn nói về bản bổ sung di chúc của bà Llewellyn - Smythe?
- Phải, tôi xin nói rõ. Một hôm, bà Llewellyn thấy trong người không được khỏe, liền cho gọi chúng tôi đến, gồm tôi và cậu Jim, cái cậu giúp việc làm vườn ấy. Chúng tôi vào phòng và thấy bà chủ ngồi trước bàn đầy những giấy tờ. Bà quay lại cô hầu người nước ngoài - chúng tôi gọi là cô Olga - và nói đại ý như sau: “Bây giờ cháu hãy đi ra, vì cháu không được có mặt ở giai đoạn này”. Cô Olga liền đi ra, sau đó bà Llewellyn - Smythe bảo chúng tôi lại gần và nói: “Đây là di chúc của ta”, vừa nói vừa chỉ một tờ giấy mà bà đã lấy giấy thấm che mất phầ trên. “Ta sẽ viết vài dòng trước mặt các người, sau đó các người hãy ký vào đây để xác nhận chính ta đã viết và đã ký”. Và bà bắt đầu viết bằng bút chấm vào lọ mực, bà ấy không chịu viết bút máy. Viết hai ba dòng gì đó, bà ấy ký, rồi bảo tôi: “Bây giờ bà Leaman, bà hãy ghi tên và địa chỉ vào đây”. Tôi làm theo, rồi đến lượt Jim. Bà Llewellyn - Smythe tỏ vẻ hài lòng, tuyên bố: “Các người đã nhìn thấy ta viết và ký, ở đây lại có chữ ký xác nhận của các người, thế là hợp pháp. Thế là xong, rất cảm ơn”. Lúc chúng tôi đi ra, tôi để ý đến một điều. Chả là trong khi đóng cửa bị trục trặc, tôi ngó nhìn nhanh vào trong phòng, thực ra chẳng định nhìn gì. Bà hiểu không?
- Hiểu.
- Một cử chỉ vô thức. Bà Llewellyn - Smythe vừa đứng lên khỏi ghế. Bà đi rất khó khăn, tới giá sách, lấy ra một quyển, đặt tờ giấy - đã bỏ vào phong bì - vào đó rồi để sách vào chỗ cũ. Tôi nhớ là quyển sách có gáy rất dày. Tôi đi ra và quên ngay chuyện ấy. Nhưng sau khi bà chủ mất, bọn công chứng nói là bản bổ sung bị giả mạo, tôi mới nghĩ ra là... là...
Thấy bà lúng túng im bặt, Oliver ướm :
- Thế bà không có ý định tìm hiểu...
- Vâng, có, có, xin thú thật, tôi tò mò muốn biết tờ giấy ấy viết gì. Nói cho cùng thì cũng phải biết mình ký vào giấy gì chứ. Đó là lẽ tự nhiên, có phải không?
- Phải, đó là lẽ tự nhiên.
- Cho nên hôm sau, nhân lúc bà Llewellyn - Smythe đi Medchester vắng và tôi vào dọn phòng, tôi đã đến chỗ quyển sách. Một cuốn sách cổ xưa từ thời nữ hoàng Victoria, nhan đề: Enquire Within upon Everything [1].
- Bà đã tìm thấy tờ giấy và đọc hết nội dung?
- Vâng, thưa bà. Tôi đã đọc. Đó là một văn bản làm đúng pháp lý. Ở trang cuối, tôi nhận ra mấy dòng bà Llewellyn - Smythe viết trước mặt chúng tôi, mà chúng tôi đã đặt bút ký hôm trước. Chữ viết rõ ràng, dù bà ấy có thói quen kéo dài các mẫu tự rất nhọn.
- Và giấy ấy viết gì?
- Quả thật, tôi không nhớ từng chữ, chỉ biết là nó nói đến bản bổ sung thay đổi hẳn các ý định trước đó vì bà trao toàn bộ tài sản cho Olga... Seminoff, để cảm ơn vì công lao đã hầu hạ tận tụy. Tiếp theo là chữ ký của bà, của tôi và của Jim. Đọc xong, tôi bỏ lại vào phong bì, đặt đúng vào trang cũ của quyển sách rồi trả lên giá. Tôi thật bất ngờ vì điều đã đọc: con bé xa lạ ấy mà lại thừa kế toàn bộ tài sản của bà Llewellyn - Smythe! Bản thân tôi chẳng ưa gì Olga, nó hay lên mặt với các gia nhân khác trong khi đối với chủ lại rất quỵ lụy. Nó đang toan tính lợi ích cá nhân mà. Lạ nhất là tại sao bà ấy không để lại gì cho người máu mủ trong nhà. Nhưng ngay sau đó tôi quên hết, cho đến ngày mọi thứ tóe loe. Khi bà chủ chết, bản bổ sung được mở ra trước công chứng, nhà chức trách tuyên bố văn bản không thể do bà Llewellyn - Smythe viết, có người nào đã bắt chước chữ ký và chữ viết của bà.
- Thì bà đã làm gì.
- Không làm gì, vì thế lâu nay tôi cứ băn khoăn. Thoạt đầu tôi nghĩ các công chứng viên nói thế chỉ vì không ưa Olga, giống như nhiều người khác. Tôi không hiểu luật, nên cho rằng đến khi bà Drake nói rõ Olga không thuộc họ hàng thân thích, thì tiền sẽ trở về với người thừa kế trực tiếp, thực ra như vậy cũng đúng thôi. Và đúng là như thế thật, vụ việc không đưa ra tòa. Tài sản thuộc về Drake, còn Olga thì trốn biệt, chắc là về nước gốc gác của cô ấy, như thế càng chứng tỏ cô ta đã từng có mưu mô bất chính nào đó để buộc bà Llewellyn - Smythe truyền lại tài sản.
- Những chuyện này xảy ra từ hồi nào?
- Xem nào... bà Llewellyn - Smythe mất cách đây gần hai năm.
- Và chiều hướng xoay chuyển của vấn đề không làm bà day dứt?
- Không. Lúc đó tôi tin rằng Olga đã có hành động xấu xa gì đó, và rồi mọi việc lại đâu vào đấy, tôi cho là mình có nói gì cũng chẳng thay đổi được.
- Vậy cái gì đã khiến bà thay đổi ý kiến?
- Đó là cái tội ác kinh tởm vừa mới xảy ra. Nghe nói Joyce tuyên bố đã chứng kiến một vụ giết người, tôi chợt nghĩ hay là con bé đã thấy Olga giết bà chủ để mau hưởng thừa kế. Olga biến mất sau khi bị các công chứng và Cảnh sát thẩm vấn, chứng tỏ nó chột dạ vì lương tâm không trong sáng.
- Bà đã thực sự trông thấy bà Llewellyn - Smythe viết và ký cái văn bản mà sau đó chính bà và Jim cũng ký?
- Thật.
- Như vậy thì văn bản không phải giả mạo.
- Tôi đã nói sự thật, và nếu Jim có đây, hẳn cũng sẽ nói thế. Nhưng hắn đã đi khỏi đây từ năm ngoái, sang Australia, và tôi không biết địa chỉ.
- Bây giờ bà muốn gì ở tôi?
- Tôi muốn bà hỏi xem tôi có nên nói tất cả với nhà chức trách hay không. Chưa bao giờ có ai hỏi tôi về bản di chúc cả.
- Họ bà là Leaman. Còn tên?
- Harriet.
- Harriet Leaman, tốt. Còn Jim, họ là gì?
- Để nguyên, tôi nhớ đã... Jim Jenkins. Phải rồi, Jim Jenkins. Tôi rất biết ơn nếu bà giúp tôi chút gì, vì lúc này tôi rất lo. Vụ án mạng vừa qua có vẻ là Joyce bắt gặp Olga giết bà Llewellyn - Smythe...
- Có thể là bà sẽ phải nhắc lại tất cả chuyện này trước mặt người công chứng đại diện của bà Llewellyn - Smythe.
- Vâng, tôi tin cậy bà.
- Tôi sẽ cố hết sức để họ khỏi gây phiền phức cho bà.
Oliver bỗng nhìn chăm chăm vào một bóng người vừa xuất hiện ở đầu đường. Bà Leaman đứng lên, xỏ găng tay, ấp úng vài câu xin lỗi rồi ra về.
Poirot đã lên tới nơi. Oliver hỏi :
- Ông sao thế? Có vẻ không vui?
- Chân tôi đi đau quá.
- Tại đôi giày da véc-ni của ông đấy. Mời ông ngồi và nói xem đã thu lượm được những gì. Sau đó, tôi xin kể đôi điều sẽ làm ông rất ngạc nhiên!
Poirot ngồi xuống, duỗi chân, thở phào :
- A! Đã khá hơn rồi...
- Xin cho phép khuyên ông một điều, là về nông thôn, không nên đi giày vécni. Khổ một cái là ông cứ thích đàng hoàng cơ. Ông quan tâm đến bộ quần áo bên ngoài hơn là sự thuận tiện. Với tôi, thuận tiện là trên hết. Qúa năm mươi rồi, thì chỉ điều đó là đáng kể.
- Này cô, chưa chắc tôi đã tán thành ý kiến cô đâu.
- Như vậy là sai, vì càng có tuổi ông sẽ càng khổ vì chuyện đó.
- Thôi nào, hãy trở về với câu chuyện của chúng ta. Cô luôn luôn bảo tôi phải làm gì, nhưng mỗi việc ngày nay đều có quá khứ của nó. Một quá khứ vẫn xen vào hiện tại, nhưng đã có từ hôm qua, hoặc tháng trước, năm trước. Cách đây một năm, hoặc hai, hoặc ba, một tội ác đã diễn ra, một em bé đã nhìn thấy, và vì thế em đã phải chết cách đây bốn ngày. Phải thế không?
- Đúng, nhưng... có thể ta đã đi lạc hướng khi coi đó là một tội ác có chủ định, trong khi thực ra chỉ là hàng động của một kẻ điên loạn.
- Nếu cô nghĩ thế thì chắc cô đã chả đến tìm tôi.
- Vâng, có thể. Dù sao tôi vẫn cứ ngờ ngợ. Đến nay ông đã đạt những gì rồi?
- Thu thập các chi tiết. Những chi tiết, đến một lúc nào đó, sẽ khớp lại với nhau theo ngày tháng chúng xảy ra. Tôi cũng biết được là ở đây không ai tin vào những lời Joyce Reynolds nói.
- Rằng em đã chứng kiến một vụ án mạng? Nhưng chính tai tôi nghe thấy mà!
- Đành thế, nhưng vì không ai tin là em nói thật, thì ta buộc phải chấp nhận là em chẳng chứng kiến việc gì tương tự.
- Tôi có cảm tưởng là đáng lẽ tiến lên, ông đang thụt lùi.
- Không, tôi chắc mọi sự sẽ ổn. Chẳng hạn cái chuyện giả mạo giấy tờ. Có một cô gái người nước ngoài đã tranh thủ cảm tình của một bà già giàu có để được hưởng thừa kế. Cô gái này có thật làm giả di chúc và bản bổ sung hay không, hay là một người nào khác làm hộ cô ta?
- Nhưng là ai?
- Trong làng còn có một anh chàng đã từng ra tòa vì tội giả mạo giấy tờ, song được xử nhẹ vì mới là lần đầu.
- Tôi có biết hắn không?
- Không. Hắn đã chết.
- Ồ! Lâu chưa?
- Gần hai năm. Thấy chưa, tôi có linh cảm là những sự kiện có vẻ riêng rẽ lại có liên quan với nhau.
- Một gợi ý cần được ghi nhận. Tuy nhiên tôi chưa hiểu...
- Tôi cũng vậy, lúc này chưa hiểu, nhưng tin rồi ghép ngày tháng lại sẽ rõ. Trong cùng một thời gian, những người mà ta quan tâm đang ở đâu, làm gì. Mọi người đều nghĩ là Olga đã thảo bản bổ sung, và về điểm này hẳn là có lý. Bản bổ sung làm lợi cho cô ta mà? Nhưng, xem nào, xem nào...
- Xem cái gì?
- Cô sắp về London, hay còn định ở lại?
- Ngày kia tôi về. Tôi còn công việc, không thể vắng lâu.
- Cô này, nhà cô có chỗ để mời khách?
- Về nguyên tắc, không. Tôi rất ghét phải thay đổi nếp sống vì những người quen vớ vẩn. Với bạn thân, thì khác. Người nào tôi ưa bao giờ cũng được đón tiếp thịnh tình.
- Nếu cần, cô có thể nhận hai người khách, được không?
- Có thể. Ai vậy?
- Cô có hiểu rõ bà bạn của cô, bà Butler?
- Không rõ lắm. Chúng tôi quen nhau trong một chuyến du lịch. Tôi thấy Judith Butler có một tính cách hay hay, dễ mến. Vậy là ông muốn tôi mời Judith và Miranda về nhà?
- Chưa vội. Để tôi chờ xem một số ý kiến của tôi có căn cứ không đã.
- Một số ý kiến của ông? Bây giờ, ông hãy nghe. Tôi có tin mới đây.
- Thế thì tuyệt quá.
- Chưa nên mừng vội. Cái này chắc sẽ làm các ý kiến của ông đảo lộn. Nếu tôi nói cái chuyện giả mạo mà ông vừa nói đi nói lại ấy, nói cho cùng là không phải giả mạo, ông nghĩ sao?
- Thế là thế nào?
- Bà Llewellyn - Smythe đã tự thảo một bản bổ sung vào di chúc, nhưng toàn bộ tài sản cho con bé đi ở, bà ấy đã ký trước mặt hai người làm chứng, hai người này sau đó cũng hạ bút ký vào cuối bản bổ sung.
- Bà... Leaman, đúng tên như thế? - Poirot hỏi lại và hý hoáy ghi chép cái tên Oliver vừa nói.
- Harriet Leaman. Người làm chứng thứ hai là Jim Jenkins, đã di cư sang Australia. Olga Seminoff chắc đã về nước. Như vậy trong vụ này, có vẻ nhiều người đã ra đi.
- Theo cô, ta có thể tin cậy lời chứng của bà Leaman tới mức nào?
- Tôi nghĩ không lẽ bà ấy bịa chuyện làm gì. Tôi tin là bà ấy đã ký vào tờ giấy, sau đó tò mò muốn biết giấy ấy viết gì, và tranh thủ cơ hội đầu tiên để lục lọi, chuyện ấy dễ hiểu.
- Bà ấy trình độ ra sao mà biết đọc biết viết?
- Biết chứ! Tuy nhiên tôi công nhận chữ viết của bàn tay người đau khớp thì đọc không dễ dàng. Hay là về sau này, khi nghe những lời bàn tán về bản bổ sung, bà ấy mới tưởng tượng là đã đọc một văn bản di chúc.
- Nhưng đúng là đã có một văn bản giả mạo...
- Sao ông biết?
- Từ miệng một ông công chứng.
- Có thể ông ta lầm?
- Giới công chứng rất kỹ tính về vấn đề này. Họ còn đưa cho các chuyên viên giám định và chuẩn bị thủ tục đưa ra tòa xử.
- Nếu vậy, có thể hình dung chuyện gì đã xảy ra?
- Thật ư? Vậy đã xảy ra chuyện gì?
- Hôm sau hoặc vài ngày sau khi thảo bản bổ sung, bà Llewellyn - Smythe có thể lại cãi lộn với cô hầu, hoặc là bà lại hòa giải được với hai vợ chồng người cháu, nên đã quyết định hủy bỏ bản bổ sung.
- Rồi sao nữa?
- Rồi... hừ, bà ta chết, và cô người hầu vội vàng sản xuất một bản bổ sung giống như cũ, bằng cách cô bắt chước chữ viết của chủ và chữ ký người làm chứng; nhưng chữ ký của bà Leaman và Jim, cô ta có thể biết được do nhìn thẻ bảo hiểm của họ. Nhưng việc này không qua mắt được các ông công chứng...
- Cô cho tôi gọi điện thoại được chứ?
- Vâng, điện thoại của bà Judith, ông cứ việc dùng.
- Bà ấy đi đâu nhỉ?
- Đi làm đầu. Miranda đi chơi. Điện thoại ở trong phòng khách gần cửa.
Poirot đi vào, vắng mặt vài phút. Khi ông trở ra, Oliver hỏi :
- Ông gọi điện thoại cho ai vậy?
- Cho ông Fullerton, công chứng viên. Và bây giờ đến lượt tôi báo cho cô tin mới. Bản bổ sung, cái bản đưa cho công chứng xem và bị phủ nhận giá trị ấy, không có chữ ký của bà Leaman, mà là của bà Mary Doherty, gia nhân, mới mất gần đây. Cũng có chữ ký của Jim Jenkins, đã di cư sang Australia, như bà Leaman nói.
- Vậy đúng là có một bản bổ sung giả... và hình như cũng có cả một bản bổ sung thật. Rắc rối quá!
- Rất rắc rối.
- Hay là bản bổ sung ban đầu vẫn còn ở Quarry House, để trong cuốn sách Enquire Within upon Everthing?
- Theo tôi biết, sau khi bà Llewellyn - Smythe chết, tất cả đã được phát mại, trừ vài đồ đạc và tranh ảnh gia đình.
- Ông Poirot, vậy là cái bà Leaman lúc nãy đã nói bậy?
- Có thể lắm.
- Có ai đã yêu cầu bà ta đến để nói láo?
- Điều đó cũng có thể.
- Có ai đã trả tiền, thuê bà ta đến để nói láo?
- Khá lắm, khá lắm. Cô cứ tiếp tục.
- Tôi hình dung bà Llewellyn - Smythe, giống như nhiều đàn bà giàu có, có cái tật hay thảo đi thảo lại di chúc, liên tục thay đổi tên những người thừa hưởng. Vợ chồng ông Drake vốn đã sung túc rồi, phải được hưởng phần tài sản lớn nhất, nhưng nếu ta căn cứ vào lời bà Leaman, không biết bà Llewellyn đã bao giờ tỏ ý hậu đãi một vài người khác nữa như đã hậu đãi Olga không. Tôi rất muốn tìm hiểu kỹ hơn cái cô Olga này...
- Tôi cũng vậy.
- À thế còn cái cô giáo?
- Cô giáo nào?
- Cái cô bị bóp cổ mà cô Whittaker nói với ông ấy. Tôi không ưa cô lắm. Thông minh đấy, nhưng khó chịu. Nếu có người nói là cô ta đã nhúng tay vào một vụ án mạng, tôi sẽ không ngạc nhiên.
- Chả nhẽ cô cho rằng cô Whittaker có thể bóp cổ một đồng nghiệp?
- Thì cũng phải tính đến hết mọi khả năng chứ?