Ghi chú đến thành viên
Ðề tài đã khoá
 
Ðiều Chỉnh
  #6  
Old 06-05-2008, 03:03 PM
than_long_vn's Avatar
than_long_vn than_long_vn is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 429
Thời gian online: 3 tuần 2 ngày 13 giờ
Xu: 0
Thanks: 2
Thanked 0 Times in 0 Posts
Hồi 11

Cốc Trung Thi Diệu Kế
Thần Lựu Khiếp Thần Quang

Gần cuối tháng năm, Nhương Thư và Thúy Sơn có mặt ở Lạc Dương, hội ngộ cùng bọn Võ Ưu Cái!
Các chưởng môn bạch đạo có mặt đầy đủ song người thân của Nhương Thư lại vắng mặt mất ba. Vô Ưuu Cái buồn rầu nói:
- Sau khi hiền đệ đi đuợc vài ngày thì võ lâm Mạnh Thuờng Quân Điền Đông Giám đến Lạc Dương bắt ba cô con gái về Tế Nam! Lão nhắc đến hiền đệ mang sính lễ đến cuới hỏi đàng hoàng!
Nhương Thư mỉm cười:
- Điền trang chủ hành động đúng lễ, vì sao Hầu lão đại ca không vui?
Vô Ưu Cái thở dài:
- Sự tình chảng hề đơn giản như thế. Mới đây, lão phu nhận đuợc tin rằng Điền Đông Giám đã liên minh với Hải Long Giáo, thành lập Sơn Hải Bang, gồm hai bang chủ là họ Điền và Nguyên Giáo Chủ Hải Long Giáo Kỵ Ba Thần Quân Thành Vô Chiến! Trinh sát bổn bang còn nghe phong thanh rằng Điền Đông Giám được đứng ngang hàng với họ Thành là nhờ gia tài cự cạn và gả cả ba ái nữ cho Thần Quân. Các cô gái này không chịu nên đã bị hạ gục!
Thúy Sơn kinh hãi rú khẽ, thương cho ba kẻ chung thuyền, Nhương Thư thì biến sắc, nghiêm giọng:
- Sau trận này tiểu đệ sẽ đi ngay Tế Nam!
Và chàng hỏi sang chuyện võ lâm. Bất Trí Thư Sinh hắng giọng bảo:
- Hồi tháng trước, chất độc Tiêu Thường Vụ đã phát tác và mấy ngàn nạn nhân ấy đã đuợc thông báo đến đây quy phục Thần Quang Giáo. Tuy nhiên, chúng ta đã kịp thời phân giác giải dược. Phá tan âm mưu của Độc Biển Thước. Do lo ngại tài dụng độc của Tả Nho Quan nên lão phu đã phải thay đổi kế hoạch, ngăn cản quần hào đến tham dự lễ khai đàn của Thần Quang Giáo. Giờ đây, chỉ còn những người có võ công cao cường đại diện cho phái Bạch Đạo đến Hắc Ưng Cốc theo thiếp mời! Cùng lắm thì chúng ta sẽ phá vây thoát ra!
Nhương Thư khen phải, kể lại chuyến đi của mình! Cử tọa đều thất sắc khi biết đuợc dã tâm của Âm Sơn Lão Tổ.
Khánh Hỷ Đại Sư, phương trượng Thiếu Lâm tự cảm khái nói:
- Chẳng bao giờ võ lâm phải đương đầu với nhiều tai họa đến thế! Trung Nguyên có Độc Biển Thước, phía đông thì Kỵ Ba Thần Quân vào lục địa, giờ thêm Âm Sơn Lão Tổ từ hướng Tây Bắc xuống, tình hình nguy ngập khôn lường.
Vô Ưu Cái cười nhạt:
- Đại sư lo lắng làm gì, xưa nay tà bất thắng chính! Ba lão ma đầu kia vì danh lợi mà hành động, tất sẽ tương sát, tiêu diệt lẫn nhau thôi! Chỉ cần chúng ta khéo léo một chút là xong!
Dạ Quân Tử Quách Tàn Bôi ngứa miệng:
- Chẳng hay kế sách của Hầu lão ca thế nào, sao không nói thử cho mọi người yên tâm?
Họ Quách nhờ thân phận bái huynh của Nhương Thư mà đuợc ngồi ngang hàng với các chưởng môn, lòng vô cùng khoan khoái, vinh dự, luôn miệng gọi Võ Ưu Cái là anh cho thỏa tấm lòng!
Hầu bang chủ gật gù:
-Diệu kế thì đã có, song thành công hay không hoàn toàn trông vào tài trí của Quách Lão đệ đấy!
Dạ Quân Tử hồ hởi đáp:
- Thực thế sao? Vậy thì tiểu đệ xin xả thân thi hành mệnh lệnh của lão ca!
Phổ Chứng Thiền Sư, chưởng môn phái Nga My vốn ở Tứ Xuyên nên biết rất rõ tài các và bản chất của lão trộm già họ Quách, liền thắc mắc khi thấy lão đuợc giao trọng trách. Ông tủm tỉm nói đùa:
- Thiện tai! Thiện tai! Quách thí chủ cơ trí tuyệt luân, đã chịu vì đại nghĩa mà ra tay thì quả là phúc cho võ lâm!
Dạ Quân Tử biết đối phương bỡn cợt mình, song vẫn thản nhiên cười khanh khách:
- Đa tạ thiền sư đã tán thưởng! Cây cong còn có chỗ dùng, lão phu tuy bất tài nhưng nếu đuợc sử dụng đúng chỗ thì cũng chẳng đến nỗi tồi!
Vô Ưu Cái gạt đi, nói ngay vào đề:
- Thôi đừng tung hứng nưa, Quách lão đệ hãy lắng nghe diệu kế. Sau lễ khai đàn của Thần Quang Giáo, ngươi sẽ đi lên vùng Tây Bắc, tìm cách gia nhập Âm Sơn Giáo, trở thành người tin cẩn của Âm Sơn Lão Tổ. Ngươi sẽ kích động lòng hiếu danh của Lương Dã Toàn, biến lão ta thành cứu tinh của võ lâm, tự nguyện đứng ra tiêu diệt Độc Biển Thước và Kỵ Ba Thần Quân!
Vào hang cọp tiềm phục là một việc vô cùng khó khăn nguy hiểm, nên Dạ Quân Tử chột dạ:
- Không phải lão phu sợ chết, mà chỉ e thân phận không đủ để mua chuộc lòng tin của Lão Tổ! Ai chẳng biết Dạ Quân Tử chỉ là một tên trộm đất Tứ Xuyên?
Bất Trí Thư Sinh mỉm cười, đỡ lời Vô Ưu Cái:
- Quách lão đệ yên tâm! Ông sẽ đến với Âm Sơn Giáo bằng thân phận cao cả của một bậc nhân sĩ Trung Nguyên! Trời sinh người này và túc hạ có dung mạo, dáng vóc rất giống nhau, y chính là Trung Nguyên Cao Sĩ Phương Tử Kiến bảo chủ Cô Độc Bảo đất Khai Phong!
Cả nhà ồ lên kinh ngạc còn Quách Tàn Bôi thì nhăn như khỉ:
- Lão phu chỉ có chút mẹo vặt, chẳng hề tinh thông binh thư, trận đồ sao đóng vai Trung Nguyên Cao Sĩ đuợc?
Bất Trí Thư Sinh khoát tay trấn an:
- Việc ấy không đáng ngại vì lão phu sẽ cho đệ tử là Nghiên Tái Thuần theo phò tá túc hạ. Thuần nhi thông minh tuyệt thế, đã tiếp thu được tám thành sở học của lão phu!
Dạ Quân Tử há hốc miệng:
- Cao huynh định nói đến gã tiểu tử đầu to, mắt hiếng, vừa đến đây sáu hôm trước đấy sao? Mặt gã trông đần bỏ mẹ, đâu có nét gì gọi là nhân kiệt?
Vô Ưu Cái cười hả hả:
- Ngươi lầm rồi đấy! Nếu Thuần nhi ngu ngốc thì đâu thể trở thành học trò cưng của Bất Trí Thư Sinh. Tướng mạo y tuy thô thiển xấu xí nhưng cơ trí thuộc hàng thượng thặng đấy!
Nhương Thư hiếu kỳ nói:
- Té ra Cao lão ca thu đuợc truyền nhân đắc ý, sao không gọi y lên cho tiểu đệ diện kiến?
Bất Trí Thư Sinh tủm tỉm cười, rút chiếc chuông đồng rung nhẹ, lát sau, một gã thư sinh tuổi hai mươi ba xuất hiện. Quả đúng như lời mô tả của Dạ Quân Tử, Nghiên Tái Thuần có chiếc đầu khá to, ngất ngưỡng trên cần cổ gầy gò trông rất hoạt kê. Trán gã dô ra, điểm cặp chân mày thưa thớt, lấm tấm mụn đỏ lại thêm những nét đẹp như mũi thấp, miệng rộng môi mỏng, răng thưa, cho nên họ Nghiên còn xấu xí hơn cả sư phụ là Cao Trường Toản!
Tái Thuần bị tật liếng mắt khi nhìn ai, đâu phải nghiêng sang một bên, chẳng hay ho chút nào cả! Trong bộ trường bào bằng vài xanh thô bạc phếch, họ Nghiên là hiện thân của kẻ sinh ra dưới một ngôi sao xấu, bị tạo hóa ruồng bỏ!
Tuy nhiên, Nghiên Tái Thuần lại có nụ cười rất quyến rũ, khiến Nhương Thư phải ngạc nhiên. Khi gã cười, dường như tất cả những vẻ xấu xí trên mặt đều bị mờ đi.
Tái Thuần vòng tay kính cẩn chào cả bàn, rồi hỏi Bất Trí Thư Sinh:
- Ân sư gọi đồ nhi về việc gì?
Cao Trường Toản vui vẻ chỉ Nhương Thư và Thúy Sơn:
- Con hãy bái kiến Tần sư thúc và Bạch sư thúc!
Trong nghề võ, em của sư phụ luôn đuợc gọi bằng sư thúc, bất kể nam hay nữ. Thúy Sơn đã thoát khỏi mặc cảm khuyết tật nên quyết định không giả trai nữa, trông nàng kiều diễm tuyệt vời.
Tái Thuần tươi cười vái dài:
- Tiểu điệt Nghiên Tái Thuần xin ra mắt nhị vị sư thúc!
Nhương Thư đầy dạ từ bi, thấy Tái Thuần chịu nhiều thiệt thòi, có ý định bồi đắp cho gã. Chàng thân mật vẫy:
- Ngươi lại đây ngồi chung với ta!
Tái Thuần thản nhiên tuân mệnh, ngồi xuống ghế trống mé tả họ Tần, chăm chú lắng nghe các trưởng bối dặn dò. Khi biết mình phải tháp tùng Dạ Quân Tứ đi Âm Sơn làm nội gián, Tái Thuần cười đáp:
- Sao sư phụ không chọn Độc Biển Thước Tả Nho Quan làm đối tượng mà lại bắt đồ nhi phải lặn lội đến Tây Bắc?
Cao lão nghiêm giọng:
- Bên cạnh họ Tả có mặt Ngọa Long Tú sĩ, chút kế mọn này làm sao qua mắt lão ta đuợc?
Nhương Thư lên tiếng:
- Còn Kỵ Ba Thần Quân thì sao? Nếu cài đuợc người vào Điền gia trang chúng ta sẽ cứu bọn Uyển Xuân ra thuận lợi hơn!
Bất Trí thư sinh lắc đầu:
- Không đuợc! Thành Võ Chiến tinh thông Nhiếp Tâm Thuật, dễ dàng bắt kẻ khác thổ lộ ruột gan! Do vậy trong ba đại ma đầu, chỉ có mình Âm Sơn Lão Tổ là khờ khạo, dễ kích động nhất!
Quách Tàn Bôi thầm chán ngán sứ mệnh sắp tới, song ngoài mặt vẫn không để lộ, giả đò đi sâu vào chi tiết!
- Kế hoạch đưa Âm Sơn Lão Tổ và ngàn thủ hạ về hùng cứ Cô Độc Bảo sẽ đòi hỏi một ngân sách rất lớn, chúng ta lấy đâu ra gạo mà nuôi họ?
Vô Ưu Cái tủm tim ứng tiếng:
- Ngươi chớ lo việc ấy! trước khi bị cha bắt về Tế Nam, ba con bé họ Điền đã lén đưa cho lão phu số vàng mười lăm vạn lượng, nhờ giao cho Tần hiền đệ! Nếu y chịu bỏ ra một phần ba cũng đủ vốn thì hành diệu kế!
Nhương Thư nghe nhắc đến ái thê, lòng vô cùng đau đớn, rầu rĩ nói:
- Hầu lão ca cứ giữ lấy mà lo cho đại sự võ lâm! Tiểu đệ cần vàng làm gì!
Khánh Hỉ đại sư, trụ trì chua Thiếu Lâm Tự hắng giọng:
- A di đà phật! Tuy Tần thí chủ có dạ Bồ Tát, nhưng đây là việc chung, chẳng thể để mình thí chủ gánh vác. Sau khi diệt xong tai kiếp, các phái võ lâm sẽ hoàn lại mọi khoản cho Tần gia!
Nhương Thư định từ chối thì bị Thúy Sơn lén véo vào hông ngăn cản. Và nàng nói lãng sang chuyện khác:
- Tiểu... muội thắc mắc một điều là vì sao Độc Biển Thước biết rõ chúng ta nắm giữ Bạt Sơn Thần Lựu mà vẫn gióng trống tổ chức lễ khai đàn?
Chưởng môn phái Hoa Sơn là Ngọc Tâm Tử tán thành ngay:
- Bần đạo cũng cùng một ý với Bạch thí chủ! Tả Nho Quan đã giả vờ như chưa bao giờ đến tấn công Hoa Sơn, gởi thiếp mời bần đạo dự lễ!
Thông Thiện Chân Nhân, chưởng môn phái Võ Đang, cũng tư lự!
- Ngọa Long Tú Sĩ cơ trí sâu sắc hơn người, e rằng đã bày sẳn độc kế ở Hắc Ưng Cốc! Đối phương phải có điều sở cậy mới dám xem thường hỏa khí của chúng ta!
Vô Ưu Cái trầm ngâm:
- Lão phu đã cùng Cao hiền đệ suy nghĩ nát óc mà vẫn không giải thích đuợc. Do vậy, chỉ còn cách ngăn cản quần hùng đến dự để khỏi rơi vào mẻ lưới lớn của đối phương!
Nhương Thư tình cờ phát hiện Nghiên Tái Thuần thoáng mỉm cười, liền hỏi:
- Phải chăng sư điệt có cao kiến về việc này? Nếu đúng thế thì cứ phát biểu, đừng ngại gì cả!
Họ Nghiên từ tốn đáp:
- Cảm tạ sư thúc đã chiếu cố, tiểu điệt xin đuợc nói ra thiển kiến của mình!
Gã hắng giọng rồi chậm rãi tiếp lời:
- Tần Sư thúc chính là cột trụ võ lâm, nếu đối phương khống chế đuợc người thì các phái Bạch Đạo tuyệt đối không dám loạn động. Vì thế, tiểu điệt phỏng đoán rằng Độc Biển Thước đang cầm giữ một con tin rất quan trọng khả dĩ khiến Tần sư thúc không dám sử dụng Bạt Sơn Thần Lựu!
Bất Trí Thư Sinh kinh hãi run giọng:
- Phải chăng Thuần nhi muốn hỏi đến ba vị tiểu thư nhà họ Điền?
Nghiên Tái Thuần gầt đầu, nói với giọng chắc nịch:
- Bẫm phải! Xưa nay chính tà lưỡng lập, bọn ác ma luôn sẳn sàng liên kết để diệt trừ chúng ta, sau đó, mới tính đến chuyện tương sát để giành ngôi bá chủ!
Cả nhà chết điếng trước sự thực nát lòng mà họ Nghiên đã nói ra. Lập luận của gã vô cùng hữu lý, và đã làm sáng tỏ mọi việc!
Phổ Chứng thiền sư, phương trượng Vạn Niên Tự núi Nga My, cất lời tán dương Tái Thuần:
- Nghiên tiểu thí chủ quả là bậc anh tài xuất chúng, luận việc như thần, khiến lão nạp vô cùng bái phục. Năm xưa, Hải Long Giáo từng cho Lã Tập Hiền mượn bảo giáp Hắc Giao Bì để đấu với Tần thí chủ, thì giờ đây có liên thủ cũng là điều khả dĩ!
Bất Trí Thư Sinh gật gù:
- Thuần nhi giỏi lắm! Lão phu rất hài lòng khi thấy trò giỏi hơn thầy!
Tái Thuần đỏ mặt, định nói vài câu khiêm tốn thì bị Thiết Kình Ngư cướp lời. Tào Ưng cằn nhằn:
- Đừng dông dài nữa! Nếu Nghiên tiểu tử có thực tài thì mau đua kế sách giải cứu tù nhân xem nào?
Tào Ưng rất yêu mến ba ả họ Điền nên vô cùng nóng ruột! Nghiên Tái Thuần nghiêng nghiên cái đầu to tướng, nhìn vào mặt họ Tào, lúng túng đáp:
- Việc hệ trọng này thì tiểu điệt không dám lạm bàn, xin Tào Sư thúc hãy hỏi gia sư! Trứng chẳng thể nào khôn hơn vịt đuợc!
Câu nói khiêm tốn, đắc sách này đã khiến sư phụ gã là Bất Trí Thư Sinh hài lòng. Trò hơn thầy là điều đáng mừng, song trong tâm tư người thầy chẳng trách đuợc chút tổn thương, chua xót!
Đây cũng là một trong những lý do khiến nhiều công phu võ học của Trung Hoa bị mai một. Trừ phi cha dạy con, kỳ dư ai cũng giấu lại một chiêu tối lợi hại để đề phòng học trò phản bội, và cũng để củng cố vị trí của bậc sư phụ. Họ chỉ truyền lại khi sắp qua đời, nên đôi lúc quá muộn vì những cái chết bất ngờ.
Cao Trương Toản cũng là kẻ khôn ngoan, biết lễ, quay sang hỏi các chưởng môn chứ không nói ngay mưu kế của mình.
- Xin chư vị chỉ giáo!
Thông Thiên Chân Nhân, chưởng môn phái Võ Đang lên tiếng:
- Bần đạo tuy bất tài nhưng cũng xin trình bày chút thiển ý! Nay đối phương âm thầm nắm giữ con tin để uy hiếp Tần công tử cùng các phái Bạch Đạo, quyết buông một mẻ lưới mà tóm gọn võ lâm, song lại không ngờ chúng ta đã đoán ra độc kế! Do vậy, bần đạo chủ trương tiên hạ thủ vi cường, đột nhập Hắc Ưng Cốc trước ngày lễ khai đàn để giải thoát ba vị nữ thí chủ họ Điền, xuất kỳ bất ý, công kỳ võ bị, hy vọng chúng ta sẽ thành công!
Hoàng Nghi Tuyệt ít khí mở miệng, giờ đây khẳng khái tán thành:
- Đạo trưởng dạy chí phải! Chúng ta chỉ còn cách ấy mà thôi! Tại hạ sẽ cùng Tần công tử xâm nhập Hắc Ưng Cốc!
Thúy Sơn phụng phịu xen vào:
- Cả tiểu muội nữa! Hai người làm sao cõng đuợc ba?
Vô Ưu Cái khoát tay:
- Đừng tranh giành nữa! Hắc Ưng Cốc bốn bề là vách đá dựng đứng, cửa ra thì hẹp, giờ đây lại đầy dẫy thủ hạ của Tứ Phạn Thiên Cung và Huyết Tâm Giáo, các ngươi có vào đuợc cũng không chắc cứu nổi người! Đấy là chưa kể đến võ công của Độc Biển Thước và Kỵ Ba Thần Quân! Một trong hai lão ấy mà đứng chặn cửa cốc thì ba ngươi cũng trở thành tù nhân!
Cử tọa nghe hữu lý, buồn bã thở dài. Nhương Thư nói với giọng thê lương:
- Chẳng lẽ chúng ta phải bó tay?
Vô Ưu Cái trợn mắt:
- Làm gì có việc ấy? Lão phu đã sẳn diệu kế rồi!
Đầu tháng sáu, các trấn gần chân núi Mộc Sơn cực kỳ nào nhiệt vì sự hiện diện của hàng trăm khách giang hồ. Tuy Cái Bang đã phân phát thuốc giải độc, cảnh báo đám nạn nhân năm ngoái tránh xa Hắc Ưng Cốc, song vẫn có một số ở lại vì hiếu kỳ và cũng vì thù hận. Bọn hảo hán ngang ngạnh này tức tối vì trúng kế Độc Biển Thước, chịu đau đớn suốt mấy tháng trời. Muốn khuynh đảo võ lâm, Độc Biển Thước chẳng thể chỉ dựa vào vài trăm tay kiếm của Tứ Phạn Thiên Cung và Huyết Tâm Giáo. Vì thế lão đã âm thầm thu phục rất nhiều cao thủ ở vùng phụ cận Thái Hàng Sơn, thuộc ba phủ Sơn Tây, Hà Bắc, Hà Nam! Với võ công và tài phóng độc kỳ tuyệt, Tả Nho Quan chẳng mất nhiều thời gian để khống chế đối tượng.
Giờ đây, những tay bá chủ, thổ nào, địa phương ấy đang lũ lượt kéo đến Mộc Sơn để dự lễ khai giáo, tất nhiên không quên mang theo vàng ngọc để tỏ lòng quy phục.
Đám hàng thần này đuợc đặc ân vào thẳng Hắc Ưng Cốc nghỉ ngơi, không phải trọ bên ngoài.
Trưa mùng bảy, một trong số những thượng khách bất đắc dĩ ấy xuất hiện ở cửa Hắc Ưng Cốc. Cánh rừng trận pháp trước cốc đã đuợc khai phá thành một con đường rộng hai mươi bước chân cho dễ đi lại.
Đoàn khách này gồm sáu người, y phục sang trọng nhưng chẳng hề đẹp mắt vì họ đều là những người tàn tật, chột mắt, cụt tay, cụt chân, mất mũi, mất hai lỗ tai...!
Thủ lĩnh của họ là một lão nhân ngũ tuần độc nhãn, dung mạo tuấn tú, lạnh lùng, râu ba chòm đen nhánh. Con mắt còn lại của lão sáng rực như sao, luôn làm chột dạ những kẻ yếu bóng vía.
Lão ta không thèm lên tiếng, chỉ búng một mảnh bái thiếp về phía ba người đang ngồi sau chiếc bàn gỗ ở mé hữu cửa cốc. Một trong ba người phụ trách lễ tân này chính là Hắc Lang Bành Đạo Nha, kẻ từng giữ chức Tổng Quản Chính khí trang. Họ Bành huơ tay chụp lấy, không mở xem đã cười ha hả, vòng tay thi lễ:
- Bổn Cốc vinh hanh đuợc đón tiếp ngọc giá của Tàn Khuyết Môn! Tả Giáo chủ vẫn thấp thỏm mong chờ Chu môn chủ mãi! Xin mời nhập Cốc!
Thì ra, lão già chột mắt này chính là Môn chủ Tàn Khuyết Môn ở đất Giới Hưu phủ Sơn Tây, tên gọi Chu Tuế Nguyệt!
Vì sao Độc Biển Thước lại phải khổ công thu phục một bang hội toàn những người tàn phế làm gì? Xin thưa rằng bởi vì họ sở hữu mấy chục mỏ than trên đất Sơn Tây!
Chu Tuế Nguyệt vốn xuất thân con nhà thế gia vọng tộc, đất phong của tổ tiên rộng đến hàng ngàn dặm vuông, lại chứa đầy than đá nên rất giàu có.
Họ Chu mang bản chất anh hùng hiếu võ, hai mươi tuổi đã rời nhà hành hiệp, đến lúc bị cường địch đâm mù một mắt mới chịu về quê chăm sóc cơ nghiệp tổ truyền.
Cao nguyên Sơn Tây là một mỏ than vĩ đại nhất Trung Hoa. Số công nhân sống bằng nghề mỏ đông đến hàng trăm vạn. Riêng các mỏ của Chu Tuế Nguyệt ở Giới Hưu cũng có nữa vạn người!
Công nhân mỏ than thường mắc phải một thứ bệnh hiểm nghèo là phổi nhiễm bụi than. Chu Tuế Nguyệt thất thế liền đem tâm pháp nội công ra truyền cho họ để giảm thiểu tác hại của bệnh nghề nghiệp. Thế là có khá nhiều người đòi học luôn cả quyền cước, kiếm thuật. Tóm lại, hiện nay dưới trướng Chu Tuế Nguyệt có cả ngàn võ sĩ chứ chẳng chơi!
Tuy nhiên, do cảm khái thân phận, Chu Tuế Nguyệt lại đặc biệt ưu ái cho những kẻ tàn tật do những tai nạn dưới mỏ. Ông nuôi dưỡng, dạy dỗ họ tận tình, và quy tụ trong một tổ chức võ lâm có tên là Tàn Khuyết Môn. Đồng thời, ông cũng tiếp nhận luôn những cao thủ võ lâm khác, quý hồ họ bị tàn tật!
Dù trên danh nghĩa, số môn nhân chỉ độ hơn trăm, song khi cần thì Chu Tuế Nguyệt lại có thể huy động cả ngàn công nhân mỏ của mình! Giới Hưu cách Thái Hàng Sơn không xa, tất nhiên Thần Quang Giáo chẳng thể bỏ qua việc thu phục một thế lực hùng mạnh là Tàn Khuyết Môn. Do vậy, tháng trước, Độc Biển Thước đã đích thân đến Giới Hưu hạ độc vợ con và mẹ già của Chu Tuế Nguyệt để khống chế!
Tuy biết họ Chu chỉ miễn cưỡng hàng phục, song Tả Nho Quan rất coi trọng đối tác này. Gia tài khổng lồ của Chu Tuế Nguyệt là nhân tố sống còn, quyết định thành bại cho sự nghiệp Thần Quang Giáo. Ngay Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương cũng phải nhờ vào hầu bao của bọn đại phú đất Giang Nam mới đánh đuổi đuợc quân Mông Cổ đuợc cơ mà?
Vì thế, giờ đây dù thấy thái độ lạnh nhạt, trịch thượng của Chu Tuế Nguyệt, Hắc Lang vẫn không dám thất lễ. Bành Đạo Nha vội quát một ả tỳ nữ phía sau hướng dẫn khách nhập cuộc.
Có lẽ vì thiếu ngân sách nên các công trình trong Cốc đều bằng gỗ, lá, tuy trang nhã nhưng cũng là cơ ngơi của kẻ nghèo. Riêng tòa nhà ở chính giữa đước xây dựng kiên cố bằng gạch đá, mái lợp ngói đỏ, gồm đến hai tầng.
Đoàn đại biều Tàn Khuyết Môn đuợc đưa tới khu mộc xá, chiếm lấy ba căn. Lát sau, có người đến mời Chu Tuế Nguyệt lên đại sảnh hội kiến Tả Giáo Chủ, tức Độc Biển Thước!
Chu Tuế Nguyệt đang ở chung phòng với gã thủ hạ mất hai vành tai. Gã này có dung mạo trông rất dữ tợn, bởi đôi lông mày xếch và rậm rạp, cùng chiếc mũi ưng cong khoằm. Dường như để che dấu khuyết điểm nên gã đã nuôi bộ râu quai nón um tùm, xanh tốt và lại còn xỏa tóc nữa!
Dẫu thế, rất nhiều người biết rằng Tiêu Trung Kiếm Ngụy Vô Cương là một kẻ thiếu đôi vành tai! Phải chăng họ Ngụy bị ai chặt đứt mà do trời sinh như thế.
Tiêu Trung Kiếm thành danh ở Lưu vực Sông Phần, phủ Sơn Tây, từ năm mười chín tuổi. Bốn năm trước, lúc tròn ba chục, gã đến Giới Hưu xin gia nhập Tàn Khuyết Môn, đuợc Chu Tuế Nguyệt nhận làm nghĩa đệ, phong cho chức vụ Tổng Hộ Pháp.
Hôm nay, khi đi vào hang cọp, Chu Tuế Nguyệt đã mang theo tiêu Trung Kiếm. Hai người vừa bước vào sảnh thì đuợc chủ nhân bước ra đón chào. Với thái độ trang trọng, vui vẻ và ân cần.
Ngoài Độc Biển Thước Tả Nho Quan còn có vài nhân vật nữa như Ngọa Long Tú Sĩ, Tân Cung Chủ Tứ Phạn Thiên Cung Âu Dương Lãng, Hắc Lang Bành Đạo Nha, và đặc biệt nhất là ba nữ lang võ phục đen rất xinh đẹp, lúc nào cũng theo sát Tả Nho Quan như hình với bóng.
Họ Tả tươi cười vài chào Chu Tuế Nguyệt, giới thiệu phe mình rồi mời khách vào bàn tiệc. Độc Biển Thước đã nghe nói về Tiêu Trung Kiếm nên không lấy làm lạ khi thấy gã tháp tùng Chu Môn Chủ.
Ngụy Vô Cương quả là một nam tử hán có cái tâm sắt thép, chẳng hề nhìn đến ba nữ lang Hắc y kia, dù nhan sắc của bọn tiểu thư nhà họ Điền đất Tế Nam vốn lừng danh thiên hạ! Giờ đây, tuy đôi mắt họ dại đi, cử động máy móc tựa người trong mộng, nhưng dung mạo vẫn như tiên nga giáng thế.
Vậy là Mã Lan, Bạch Cúc, Uyển Xuân đã bị trúng tà pháp, luôn quanh quẩn cạnh Độc Biển Thước, vai lại mang bảo kiếm như sẳn sàng bảo vệ chủ nhân. Phương pháp này hữu hiệu hơn là đem ba nàng nhốt vào ngục đá.
Chủ khách an tọa, Chu Tuế Nguyệt cười mát:
- Tả Giáo Chủ quả là nhân vật phong lưu, biết hưởng thụ, nên lúc nào cũng có nữ nhân bên mình!
Độc Biển Thước đắc ý đáp:
- Chu lão đệ không biết đấy thôi. Ba con bé này chính là bùa hộ mệnh của lão phu đấy! Đây cũng là cơ sở để lão đệ thêm tin tưởng vào sự thành công của lão phu!
Chu Tuế Nguyệt cười nhạt:
- Giáo chủ có quá lời chăng? Ba nữ nhân này lẽ nào lại có thể khắc chế Bạt Sơn Thần Lựu của phe Bạch Đạo?
Tả Nho Quan vuốt râu cười khanh khách:
- Linh hồn của bọn chính phái là Tần Nhương Thư, đệ tử Phật Đăng Thượng Nhân, Bạt Sơn Thần Lựu cũng trong tay họ Tần. Nay lão phu thu phục ba ái thê của gã, liệu Nhương Thư còn dám kháng cự nữa hay không?
Chu Tuế Nguyệt khẽ giật mình sửng sốt, dơ ngón cái khen ngợi:
- Té ra là thế! Tài thao lược của Tả Giáo Chủ khiến Chu mỗ phải đê đầu bái phục và yên tâm hợp tác!
Lão dừng lời rồi nói tiếp:
- Nhưng còn Sơn Hải Bang ở đất Sơn Đông thì sao? Bản lãnh và thế lực của Kỵ Ba Thần Quân đâu phải tầm thường?
Độc Biển Thước xua tay:
- Chu lão đệ cứ an lòng, Kỵ Ba Thần Quân đã cùng bổn giáo liên minh thề chia đôi thiên hạ. Ba ả họ Điền này cũng là do Thần Quân cho mượn đấy!
Gương mặt cương nghị của Chu Tuế Nguyệt tươi tỉnh hẳn, lão vòng tay nói:
- Thế thì lão phu nguyện một lòng một dạ hợp tác với Tả Giáo Chủ, chẳng còn lo sợ nữa! Trước mắt, lão phu xin dâng ba vạn lượng vàng, nửa tháng sau sẽ cho người mang đến thêm năm vạn nữa. Chỉ mong Giáo chủ chớ quên lời hứa phúc họa cùng hưởng và ban thuốc giải độc cho gia mẫu cùng thê tử của Chu mỗ!
Dứt lời, Chu Tuế Nguyệt lấy ra một xấp ngân phiếu, đặt trước mặt Tả Nho Quan!
Độc Biển Thước khoan khoái cười ha hả:
- Chu lão đệ bất tất phải nhọc nhằn! Nửa tháng nữa lão phu sẽ đích thân đến Giới Hưu nhận vàng, nhân tiện giải độc cho quý quyến!
Chu Tuế Nguyệt bị đối phương nắm đằng cán mà vẫn mỉm cười:
- Tả Giáo chủ đề phòng vô ích! Chu mỗ đã quyết tâm làm bá chủ đất Sơn Tây tất sẽ không tiếc của và không phản bội! Nếu sai lời, Chu mỗ nguyện chết dưới búa của Lôi Thần.
Tả Nho Quan thấy đối phương dám thề độc, mừng rỡ đáp:
- Chu Lão đệ đã có lòng thành như thế khiến lão phu rất cảm động, và cũng xin thề với Lôi Thần rằng sẽ không quên công lao của lão đệ!
Hai người cùng đứng lên, xiết tay nhau để ký kết liên minh, ngửa cổ cười vang! Độc Biển Thước rất vui vì có đuợc một kẻ giầu nứt đố đổ vách làm hậu thuẩn! Tuy nắm giữ mẹ và vợ con Chu Tuế Nguyệt song lão vẫn thấp thỏm vì sợ họ Chu tìm được Thần Y giúp đỡ. Cao nhân tắc hữu cao nhân trị. Tả Nho Quan thừa hiểu thuốc độc của mình chẳng phải tuyệt đối không có giải dược. Muốn khống chế người khác, lão đã phải dùng thuốc độc mạn tính, phát tác chậm, do vậy, đủ thời gian cho một danh y nghiên cứu. Chỉ có thứ độc làm người ta chết tức khắc mới không có thuốc giải! Nay Chu Tuế Nguyệt cũng có tham vọng riêng, cam tâm thần phục, khiến Tả Nho Quan nhẹ cả lòng!
Vài món nhậu mới đã đuợc bưng lên, chủ khách vui vẻ mời nhau, khi ngà say, Chu Tuế Nguyệt tủm tỉm hỏi:
- Tả Giáo Chủ tuổi hạc đã cao, mà đêm đêm ôm ấp một lúc ba nữ nhân, tiểu đệ lấy làm lo ngại đấy!
Tả Nho Quan cười khanh khách:
- Lão phu làm gì có đuợc phúc phận ấy! Họ là báu vật của Kỵ Ba Thần Quân nên lão phu dù có thèm khát cũng đành phải cố nhịn! Tối đến là phải nhốt chúng vào phòng kế bên đấy! Tiệc tàn, Môn chủ Tàn Khuyết Môn và Tiêu Trung Kiếm ngất ngưỡng trở về tiểu xá, lăn ra ngủ vùi, tiếng ngáy vang như sấm. Đến chiều ả tỳ nữ túc trực tiểu xá lên vào tin cho Giáo Chủ được rõ. Độc Biển Thước hài lòng bảo Ngọa Long Tú Sĩ:
- Lỗ Quân sư quá đa nghi đấy thôi, họ Chu vì danh lợi tất phải thực tâm hợp tác!
Lỗ Đăng Hân nhăn vầng trán rộng:
- Giáo chủ dạy chí phải! Lão phu vì chút linh cảm xấu nên đã lo xa!
Tả Nho Quan nhếch mép cười nham hiểm:
- Thực ra, lão phu còn lo xa hơn quân sư nên đã âm thầm hạ độc hai người ấy rồi!
Đã giữa canh ba mà Hắc Ưng Cốc vẫn nhộn nhịp như ban ngày. Chuẩn bị cỗ bàn cho cuộc đại lễ sáng mai. Tiếng dao thớt rộn ràng, tiếng heo, gà, vịt vang lên inh ỏi, người qua lại tấp nập.
Cửa Cốc được phòng thủ cực kỳ nghiêm mật, dẫu một con chuột cũng chẳng thể lọt qua. Song trong cốc thì lại chỉ có vài toán tuần tra lấy lệ.
Thứ nhất là trong cốc toàn người nhà, thứ hai là bốn bề vách đá cao vời vợi chẳng sợ kẻ thù xâm nhập.
Tuy nhiên, chung quanh chính sảnh là một vòng đai võ sĩ dầy đặc, đứng im như tượng gỗ, để canh gác cho cuộc họp của Giáo Chủ và các cao thủ đầu não.
Môn chủ Tàn Khuyết Môn cung đuợc mời dự. Ngồi một hồi, lão đứng lên xin phép ra sau tiểu tiện. Tất nhiên chẳng ai nghi ngờ gì cả, Độc Biển Thước liền sai tỳ nữ dắt thượng khách đi.
Nào ngờ, khi vừa khuất sau bức bình phong cuối sảnh, Chu Tuế Nguyệt đột ngột vươn tay điểm huyệt ả nữ tỳ. Rồi họ Chu lấy ba vật lạ, nhắm phương vị cẩn thận, quăng về phía chiếc bàn lớn giửa sảnh.
Ba tiếng nổ kinh hoàng phát ra gần như một lượt, xé nát và hất văng cơ thể của những kẻ chậm chạp, đồng thời còn làm cho tòa đại sảnh rung chuyển mạnh, tường sập, ngói rơi.
Tuy nhiên, vẫn có ba kẻ thoát chết, đó là Độc Biển Thước, Ngọa Long Tú Sĩ và Cung chủ Tứ Phạn Thiên Cung Âu Dương Lăng.
Theo nghi lễ của người Trung Hoa, ghế chủ vị nằm ở góc Đông Nam của bàn. Tả Nho Quan ngồi ở đấy và hai người kia bên cạnh. Họ lại có võ công siêu phàm, cơ trí tuyệt luân nên phản ứng vô cùng thần tốc, vừa nghe tiếng Bạt Sơn Thần Lựu chạm nền gạch là tung mình nhẩy ngược về phía cửa đại sảnh.
Song sức công phá khủng khiếp của hỏa khí đã làm họ bị trọng thương, máu miệng trào ra như suối. Ba người văng ra thềm trước, lồm cồm gượng đứng lên, càng thêm kinh hoàng khi nghe những tiếng nổ vang trời ngoài cửa cốc, cùng với tiếng reo hò như sấm của hàng ngàn kẻ địch.
Với uy lực của Bạt Sơn Thần Lựu, phòng tuyến ở giữa cốc mau chóng bị đánh thủng và phe đối phương kéo vào như thác lũ, đuốc thông sáng rực trời đêm.
Độc Biển Thước biết thế đã cùng, dậm chân than trời rồi đỡ hai người kia đào tẩu về phía sau. Lão có trăm năm công lực nên thương thế nhẹ hơn đồng đảng. Không có ai ngăn chặn nên bọn họ êm thắm chui vào một động ở sau vách núi. Lối ra vào này chỉ một mình Độc Biển Thước biết mà thôi.
Lúc đầu, đệ tử Thần Quan Giáo chống cự quyết liệt, song mãi không thấy thủ lĩnh xuất hiện chỉ huy nên chẳng còn dũng khí nữa. Lại thêm những tiếng nổ long trời của hỏa khí khiến tinh thần bọn chúng thêm sa sút.
Muốn thoát ra cũng không đuợc vì cửa cốc chật hẹp đã bị trấn giữ bởi những cao thủ cực kỳ lợi hại.
Quần hùng đã được chuẩn bị kỹ lưỡng, ai nấy đều che mũi miệng bằng khăn bọc độc khí, nên chất độc Vô Hình của hai trăm kiếm thủ Tứ Phạn Thiên Cung bị vô hiệu hóa. Tiếng reo hò ồn ào của trận đại loạn chiến vĩ đại cũng làm cho Ma Âm của Huyết Tâm Kiếm Pháp mất tác dụng.
Lực lượng quần hùng võ lâm đông gấp bội nên hoàn toàn chiếm ưu thế, sát hại đuợc rất nhiều kẻ địch.
Đúng là cảnh máu chảy thành sông, tiếng rên la khiến lòng kẻ từ bi phải não ruột, Khánh Hỷ Đại Sư liền vận thần công Sư Tử Hống gọi hàng.
Thế là, trừ bọn ác ôn của hai tổ chức Thiên Cung và Huyết Tâm Giáo, kỳ dư đều buông vũ khí quy phục.
Trận huyết chiến đuợc thu nhỏ lại và những kẻ ngoan cố tiếp tục ngã. Thực ra, dẫu họ có đầu hàng cũng không tránh đuợc sự trừng phạt của nha môn, Tứ Phạn Thiên Cung và Huyết Tâm giáo đứng đầu trong danh sách truy nã của triều đình!
Trong phe quần hùng, lợi hại nhất chính là Tiêu Trung Kiếm Ngụy Vô Cương. Gã hung thần này đã rút thanh kiếm bản nhỏ trong thân tiêu ra, gieo rắc cái chết nhanh chóng lên hàng ngũ địch.
Kiếm pháp của Ngụy Vô Cương đã đạt đến cảnh giới thượng thừa, nhanh như thiểm điện và ảo diệu vô song. Ngay cả lão Đệ Tứ Hộ Cung Chân Khanh Cung không qua nổi hai mươi chiêu.
Tuy nhiên, trước khi chết lão cũng đạt đuợc một kết quả khiêm tốn là nhận ra lai lịch đối phương. Lão kinh hãi quát vang:
- Phật Đăng Kiếm Pháp!
Lão từng đấu với Tần Nhương Thư ở Điền gia trang năm trước nên dễ dàng phát hiện cố nhân! Dù Tiêu Trung Kiếm không có vành tai, nhưng gã lại chính là Tần Nhương Thư, vì chỉ mình chàng sở đắc Phật Đăng Kiếm Pháp! Chàng phải mượn thân phận Tiêu Trung Kiếm, giấu hai vành tai nổi tiếng của mình mà vào hang cọp cứu ái thê.
Nhương Thư mỉm cười lạnh lẽo, rung kiếm đâm thủng ngực đối phương chẳng nể nang chút tình quen biết cũ.
Giết xong Đệ Tứ Hộ Cung Chân Khanh, Nhương Thư lại đi tìm mục tiêu khác, như muốn tranh công với Hoàng Nghi Tuyệt, Bạch Thúy Sơn vậy.
Đến sáng thì cuộc chiến kết thúc, và lúc này bọn Vô Ưu Cái mới biết Độc Biển Thước cùng hai thủ hạ đắc lực đã thoát chết. Hầu Mộ Thiên rầu rĩ than thở:
- Trời không giúp ta nên mới để lão ác ma thoát khỏi mẻ lưới kín đáo này! Tả Nho Quang còn sống tất cả sẽ trả thù các phái bằng mọi giá!
Bất Trí Thư Sinh cũng ngao ngán:
- Đúng là số trời! Ba trái Bạt Sơn Thần Lựu nổ tung khoảng không gian chật hẹp của đại sảnh mà chẳng giết được lão ta!
Tàn Khuyết Môn Chủ dở mảnh da che mắt trái, vuốt mặt biến thành Dạ Tử Quách Tàn Bôi, rồi nghiêm giọng:
- Chắc chắn họ đào tẩu về Tứ Phạn Thiên Cung ở Càn Sơn, chúng ta đuổi theo ngay biết đâu sẽ bắt kịp!
Nhương Thư bàn thêm:
- Nhân lúc Độc Biển Thước và Âu Dương Lăng đang thọ thương, tại hạ sẽ xâm nhập Thiên Cung để diệt trừ họ!
Kế hoạch táo bạo này rất có cơ sở vì chàng không sợ độc và thừa sức phá vây để thoát đi. Song dẫu sao, một mình vào hang cọp cũng là liều linh, Phổ Chứng Thiền Sư ái ngại can ngăn:
- Tuy Tần thí chủ thần công tuyệt thế nhưng lão nạp vẫn chẳng yên lòng! Hay là chờ đến tháng bẩy hãy hội quân tiến đánh Càn Sơn, lúc ấy Mông Hãn Hoa tàn úa, không tỏa ra độc khí!
Các danh y của phe Bạch Đạo đã tìm ra đuợc thời điểm quý giá ấy, sau nhiều năm miệt mài nghiên cứu.
Nhương Thư cười buồn:
- Chỉ sợ lúc ấy Tả Nho Quan đã bình phục, chẳng ai giết nổi nữa.
Mọi người công nhận chàng có lý song Vô Ưu Cái gạt đi:
- Khoan hãy tính đến việc ấy. Trước mắt phải cứu tỉnh ba con nha đầu họ Điền cái đã!

Hồi 12

Càn Sơn Biển Thước Nạm Thêm Thọ
Vong Ngã Vong Dung Hữu Nhất Nhân

Người Trung Hoa làm lịch dựa theo chu kỳ vận hành của mặt trăng, chia một tháng thành ba tuần: Thượng, trung, hạ. Nghĩa là mỗi tuần có đến chín hoặc mười ngày.
Đầu trung tuần tháng sáu, bọn Vô Ưu Cái về đến Lạc Dương. Ba nữ nhân họ Điền, nạn nhân của phép Nhiếp Hồn Thuật, được đưa đến cơ sở mật của phe bạch đạo.
Đấy chỉ là một dược đường nhỏ trên phố Tam Tạng, thưa khách vì vị đại phu họ Tạ kia bất tài, chữa đâu chết đó.
Thực ra, Tạ Y Chuyên chính là bậc thần y đất Triều Châu, phía Bắc tỉnh Phúc Kiến. Ông nghe theo lời thỉnh cầu của Vô Ưu Cái nên về Lạc Dương sinh sống, chủ trì việc nghiên cứu các loại thuốc độc của phe hắc đạo, trong đó có Mông Hãn Hoa và Vô Hình Chi Độc của Tứ Phạn Thiên Cung!
Tạ đại phu vốn có tài diệu thủ hồi xuân, nhưng Cái Bang lại tung tin đồn nhảm để bảo toàn bí mật cho cơ sở. Rốt cuộc, bách tính quanh vùng chỉ đến mua thuốc chứ không dám để Tạ lang băm chẩn mạch kê toa.
Dưới trướng Tạ Y Chuyên còn có bẩy tám vị lương y già nữa. Họ được nuôi dưỡng suốt đời, vừa nghiên cứu y thuật, vừa hưởng cảnh thanh nhàn trong tòa gia trang rộng rãi, u nhã ở phía sau An Dân Đường.
Tạ gia trang nhiều phòng ốc nên Hoàng Nghi Tuyệt, Thúy Sơn và Bất Trí Thư Sinh cũng đến đấy ở luôn.
Hoàng Nghi Tuyệt đã vể Lưu Sơn, còn Dạ Quân Tử và Nghiên Tái Thuần đã đi Thiểm Tây, thực hiện kế hoạch xâm nhập hàng ngũ Âm Sơn Giáo. Thiết Kình Ngư Tào Ưng cùng Lô Châu Ngũ Tặc thì đóng đô tại tổng đà Cái Bang.
Ba cô gái họ Điền bị phong tỏa chân khí và huyệt đạo tứ chi để Thiều Chân Thần Y chẩn bệnh. Họ không hề nhận ra người thân, ngơ ngác nhìn với ánh mắt sợ hãi, cứ như lọt vào tay kẻ cướp vậy.
Tạ Thần Y thăm mạch, cắm thử vày cây kim lên đầu Mã Lan. Không thấy hiệu quả, ông gượng cười nói với Nhương Thư:
- Nhiếp Tâm Thuật của Kỵ Ba thần quân xuất xứ từ Thiên Trúc, thuộc loại tà pháp bí truyền, chẳng thể giải trừ ngay được mà cần có thời gian. Lão phu chỉ dám hứa thành công sau ba tháng, mong công tử lượng thứ cho.
Nhương Thư từng được nghe sư phụ nói về sự lợi hại của tà thuật này nên điềm đạm đáp:
- Tại hạ cũng hiểu được điều ấy, chẳng dám thúc bách, mong Tạ lão ca cứ từ tốn mà chữa trị.
Hai ngày sau, Nhương Thư dặn dò Thúy Sơn:
- Nàng hãy ở lại đây săn sóc bệnh nhân, ta phải đi ngay Tứ Phạn Thiên Cung tiêu diệt Độc Biển Thước. Nếu để lão bình phục thì sau này sẽ không còn cơ hội nữa.
Thúy Sơn tái mặt song không dám ngăn cản, chỉ thỏ thẻ:
- Mong đại ca bảo trọng, đừng để bốn chị em tiểu muội phải đau khổ suốt đời.
Nhương Thư cảm động gật đầu, xách trường kiếm và tay nải nhỏ rời Tạ gia trang lúc trời còn mờ tối. Chàng không cho Bất Trí Thư Sinh biết, sợ lão sẽ ngăn cản. Vì vậy, sáng ra Cao lão dậm chân kêu trời, tất tả chạy sang tổng đà Cái Bang báo với Vô Ưu Cái.
Hầu Mộ Thiên mỉm cười:
- Lão phu đã tiên đoán rằng Nhương Thư sẽ hành động như thế. Tuy y hơi ngốc nhưng cốt cách anh hùng, chẳng biết sợ là gì, tất sẽ noi gương Phật Đăng Thượng Nhân mà dấn thân vào chốn long đàm hổ huyệt. Thực ra, Nhương Thư đi là đúng vì đây là thời cơ tốt nhất. Vả lại, nội bộ tà ma ở Càn Sơn đang lủng củng, có thể đi đến cuộc tương sát giữa Âu Dương Lãng và Độc Biển Thước. Nhương Thư đi chuyến này không chừng sẽ phá tan được cả ổ quỷ đấy.
Bất Trí Thư Sinh cười mát:
- Tiểu đệ lấy làm lạ khi thấy lão ca chẳng hề lo lắng cho Nhương Thư?
Hầu Mộ Thiên nghiêm sắc mặt:
- Nào phải lão phu vô tình, song y đã kế nghiệp Phật Đăng Thượng Nhân là chấp thuận gác ngoài sanh tử, để lo cho đại cục võ lâm, ngay bản thân lão phu cũng lao tâm khổ trí suốt ba chục năm nay, nào có được an nhàn một khắc nào đâu?
Cao trường Toản nghe lời chính khí vội vái dài, chậm rãi nói:
- Tiểu đệ vì tình riêng với Nhương Thư mà quên cả đại cục, quả là đáng hổ thẹn. Tuy nhiên, gần đây thần sắc Tần hiền đệ u ám, ấn đường phủ mây đen, e rằng sẽ gặp nạn.
Vô Ưu Cái tái mặt, trầm ngâm một lúc rồi nghiến răng hỏi lại:
- Chuyện đã lỡ, lão phu muốn biết liệu y có sống mà trở về hay không thôi?
Cao Trường Toản bấm tay tính toán, tư lự hồi lâu mới đáp:
- Tuyệt xứ phùng sinh! Y chẳng thể chết được.
Vô Ưu Cái gật gù:
- Y còn sống là đủ rồi! Lão đệ hãy về Tạ gia trang để ta họp hội đổng trưởng lão.
Cao Trường Toản đi rồi, Vô Ưu Cái ngồi lặng người, suy nghĩ rất lung.
Nhắc lại, Nhương Thư rời Lạc Dương lên hướng Bắc. Chàng hóa trang thành Tiêu Trung Kiếm Ngụy Vô Cương nên chẳng sợ hào kiệt võ công nhận ra.
Tàn Khuyết Môn chủ Chu Tuế Nguyệt là bái đệ của Vô Ưu Cái nên đã vui lòng hợp tác để giáng cho Độc Biển Thước một đòn chí tử.
Ngay sau người thân bị Tả Nho Quan hạ độc, Chu môn chủ đã thông báo cho Hầu Mộ Thiên biết. Hầu bang chủ đã cử Tạ Thần Y đi ngay Giới Hưu đối chứng lập phương giải độc, nhưng lại dặn Chu Tuế Nguyệt cứ giả vờ như vẫn còn bị khống chế. Ông định đưa họ Chu vào làm nội gián trong Thần Quang Giáo, nào ngờ, ba chị em họ Điền bị bắt nên phải sử dụng ngay vũ khí bí mật này!
Thanh kiếm bản nhỏ, vỏ là đoạn tiêu sắt, chính thị vũ khí tùy thân của Ngụy Vô Cương chứ chẳng phải đồ giả. Họ Ngụy đã khẳng khái tặng luôn cho Nhương Thư xử dụng.
Vai trò của Tàn Khuyết Môn trong cuộc chiến ở Hắc Ưng Cốc không được nhiều người biết đến, ngoài bọn Độc Biển Thước và các chưởng môn bạch đạo. Do vậy, Nhương Thư có thể bình yên thoát khỏi những lời tán tụng của thiên hạ. Bọn hào khách gặp chàng cũng chỉ vẫy tay chào qua loa vì chút tình cùng nhau chiến đấu mà thôi. Họ không biết Tiêu Trung Kiếm là Tần Nhương Thư.
Giờ đây, thanh danh của Nhương Thư vang dội khắp nơi vì đã phá hủy được Thần Quang Giáo. Thực ra, công đầu thuộc về bang chủ Cái Bang Hầu Mộ Thiên, những tiếng nổ long trời của Bạt Sơn Thần Lựu đã khiến người ta chỉ nhớ đến Tần Nhương Thư. Không có Thần Lực của chàng thì kế hoạch kia chẳng thể thành công.
Từ đầu tháng đến nay, đâu đâu cũng xôn xao kể cho nghe về chiến thắng Hắc Ưng Cốc. Hàng ngàn hảo hán có mặt đêm ấy đã không quên vỗ ngực kể lể, nhân tiện khoe rằng mình đã tham gia.
Trưa mười hai, Nhương Thư sang đất bờ Bắc Hoàng Hà, một mình dong ruổi dưới ánh nắng gay gắt và những trận mưa hạ tầm tã như trút nước.
Hành trang của chàng là tay nải nhỏ chứa y phục, sáu trái Bạt Sơn Thần Lựu và hình bóng của ái thê. Không phải chỉ ba đôi mắt lạc thần, si dại mà có cả dáng vóc yêu kiều của người quá cố là Bạch Ngọc Tiên Tử Lâm Đại Ngọc.
Chiều xuống, khói lam từ bếp của những nếp nhà tranh đơn sơ bên bia rừng bốc lên, quyện với sương lạnh, hờ hững, bãng lãng trên tàn cây, nhắc nhở đến một cuộc sống gia đình êm đềm mà chàng chưa bao giờ được hưởng.
Sau mười mấy năm nương nhờ cửa phật, tu hành trai giới, chàng lại lao ngay vào cuộc sống giang hồ sóng gió và tanh máu, chẳng một ngày yên ả. Nhương Thư thở dài, chua chát thầm nghĩ:
"Tứ Đại Giai Không, vạn vật vô thường, sao ta lại phải bôn ba lận đận làm gì nhỉ? Kẻ nào gieo nhân ác, sẽ gặt quả xấu, ta có quyền gì mà đem báo ứng đến cho họ? Phật Tổ Như Lai nào có dạy đệ tử dĩ sát chỉ sát?"
Nhương Thư bỗng xấu hổ khi nhớ đến ân sư. Suốt đời hành hiệp, tạo phúc cho bách tính, ông chưa hề giết một ai cả. Chính bởi chàng bất tài nên mới phạm giới sát, máu nhuộm đỏ đôi bàn tay từng Thanh Đăng Cổ Phật.
Tiếng chuông chùa từ đâu vọng lại làm Nhương Thư rùng mình vì hối hận, đau đớn kêu lên:
- Ân sư! Đồ nhi đã sai rồi!
Trong tâm trạng hoang mang, Nhương Thư quên cả việc bóng chiều ngã dần để nhường chỗ cho đêm tối. Chàng lỏng dây cương, lững thững phi nước kiệu, mặc cho tiếng chim về tổ hối thúc trên cao. Nhương Thư trân trối nhìn đỉnh Càn Sơn phía xa, đang che khuất vầng dương để những đường nét được viền một dải ánh hồng rực rỡ. Chàng phân vân chẳng biết có nên đến đây nữa hay không, vì sáu trái Bạt Sơn Thần Lựu sẽ rút ngắn chu kỳ hạn quả của hàng trăm thủ hạ Tứ Phạn Thiên Cung.
Được vài dặm, Nhương Thư gương mặt vì tiếng sột soạt ở bìa rừng mé hữu. Chàng quay sang nhìn và phát hiện một con đường mỏn nhỏ, dẫn đến ngôi chùa cổ đang thấp thoáng không xa, có lẽ tiếng chuông lúc nãy xuất phát từ đây?
Ăn năn vì sát nghiệp nặng nề, Nhương Thư khao khát được quỳ trước phật đường mà sám hối. Chàng mừng rỡ rẽ vào phật đường.
Nhương Thư buồn rầu nhìn ngôi cổ tự hoang phế, tiêu điều, đầy cỏ dại. Lòng tự hỏi vì sao nơi hoằng dương đạo pháp, giáo hóa chúng sinh lại đến nỗi này?
Và tiếng hổ gầm đâu đó đã giải đáp thắc mắc của Nhương Thư. Chính bầy ác thú đã xua đuổi tăng lữ ra khỏi chùa.
Chàng bâng khuâng xuống ngựa bước vào đại điện, nhận ra các pho tượng phật đều đã biến mất. Bảng gỗ mục nát nằm lây lất trước hiên vẫn còn lờ mờ ba chữ Đồng Phật Tự, nghĩa là trước đây chùa này thờ phật đúc bằng đồng. Phải chăng bọn trộm cướp đã khiêng cả tượng đi bán rồi?
Nhương Thư vén áo đảnh lễ tòa sen trống không rồi bẻ nhành cây quét dọn mạng nhện và bụi bặm. Với khinh công xuất chúng và kình lực của đôi tay mạnh mẽ, chàng bay lượn khắp nơi, múa tít nhánh cây đầy lá, tạo nên những trận cuồng phong thổi bay bụi đất ra ngoài.
Nhương Thư nghĩ một lúc, trăng lên rồi cặm cụi nhổ sạch cỏ dại, bụi rậm trên mảnh sân gạch quanh chùa.
Chàng say mê làm đến nửa đêm mới xong, hài lòng nhẩy xuống mảnh ao sau chùa tắm gội. Đã quen tịnh cốc, Nhương Thư có thể nhịn đói vài ngày, huống hồ một bữa tối nay. Chàng ung dung gom cành khô nhóm lửa trước sân và ngồi cạnh đấy ngắm vẩn trăng mười bốn khá tròn trịa, như chiếc đĩa ngọc đang ban phát ánh sáng nhạt nhòa để vỗ về giấc ngủ của cây rừng.
Tiếng côn trùng mùa hạ rỉ rả chung quanh chợt nhác chàng nhớ đến tiếng chuông ban chiều. Trong chùa không có chuông, vậy âm thanh kia từ đâu vọng lại? Là người học võ, tai mắt vô cùng minh mẫn, chàng có thể xác định tiếng chuông xuất phát từ khu vực này, chẳng thể xa hơn được.
Nhương Thư chợt chấn động vì một linh cảm kỳ lạ, liền niệm phật rồi tọa thiền. Trong cảnh giới tĩnh lặng, trước mắt chàng hiện ra cảnh một nhà sư vặm vỡ đang vác từng thân cây to lớn về cho đám thợ mộc đẽo gọt. Bắp thịt ông nổi lên cuồn cuộn dưới lớp tăng bào, biểu hiện một sức mạnh kinh hồn.
Sau đó đến cảnh ngôi chùa được hoàn thành, ngày sóc, ngày vọng nghi ngút khói hương, đông đúc tín đồ đến nghe thuyết pháp. Nghe xong, gương mặt họ đầy vẻ từ bi, vui vẻ trở về khu làng ở phía Tây chùa. Ngày thường, nhà sư dạy chữ và đạo nghĩa cho lũ trẻ.
Thời gian trôi đi, vị hòa thượng kia đã già, đang quỳ trước phật đường, nghiêm trang khấn vái:
- Nay bọn ác thú từ phương xa đột nhiên đến lộng hành quanh chùa, xua đuổi bách tính khiến việc hoằng dương phật pháp bị gián đoạn, đồng thời đành phạm giới để tiêu diệt chúng. Dẫu kiếp này đệ tử không thành phật cũng giúp cho hàng ngàn người thấm nhuần giáp pháp, nuôi dưỡng thiện căn.
Khấn xong, ông xách thiền trượng đi vào rừng đánh nhau với bọn mãnh hổ. Nhà sư giết được vài con nhưng không may vấp rể cây ngã xuống và bị ác thú vồ. Chúng xâu xé thân hình của lão hòa thượng với vẻ thỏa mãn khôn cùng.
Cảnh cuối là xóm làng phía Tây kia. Giờ đây, tiếng cãi cọ, chửi bới vang lên hàng ngày, vẻ mặt ai cũng đầy nét hung ác, tham lam. Họ không đi chùa, đi học nữa vì sợ cọp và cũng vì chẳng có sư trụ trì. Thay vào đó, họ đến sòng bài, kỹ viện và quán nhậu. Phong hóa, đạo đức suy đồi nên có cả những cảnh con giết cha, vợ giết chồng.
Nhương Thư giật mình mở mắt, bàng hoàng suy nghĩ. Lát sau, chàng nghiêm trang, kiên quyết phát nguyện:
- Kiếp này đệ tử nguyện tận lực giáng ma vệ đạo để chúng sinh được yên lành dưới bóng từ bi của phật pháp, dẫu phải đọa A Tỳ cũng cam tâm.
Nhương Thư thanh thản nằm xuống đi vào giấc ngủ. Sáng hôm sau, chàng lên đường, thầm nhủ sẽ trở lại trùng tu chùa, tiêu diệt đàn mãnh hổ và tìm vài nhà sư đến Đồng Phật Tự chấn hưng phật pháp, dạy dỗ trẻ thơ.
Con đường đến Càn Sơn chìm trong những cánh rừng bạt ngàn cạnh bờ Bắc Hoàng Hà, thỉnh thoảng mới có một làng nhỏ. Khi chỉ còn cách sào huyệt đối phương chục dặm, Nhương Thư xóa bỏ lớp hóa trang, búi tóc lên và kéo sụp nón tre rộng vành xuống. Dung mạo thực của chàng chẳng đến nỗi dọa khiếp lão chủ nhân của một quán trọ nhỏ dọc đường.
Đường vắng, khách thưa nên lão chủ nhân, kiêm chưởng quỷ, kiêm tiểu nhị của An Bình lữ điếm vô cùng mừng rỡ, cúi rạp người chào đón.
Đêm nay trăng đã tròn xoe, rực rỡ trên cao, soi rõ bước chân của khách dạ hành. Nhương Thư rời quán trọ, trổ khinh công lướt nhanh về hướng núi Càn Sơn. Chàng đã nhiều lần được nghe Vô Ưu Cái miêu tả sào huyệt Tứ Phạn Thiên Cung nên chẳng hề bỡ ngỡ.
Cuối canh hai, Nhương Thư đã có mặt ở chân núi, êm thắm vượt qua cánh rừng nồng nàn mùi hương độc hại của Mông Hãn Hoa. Dưới ánh trăng bàng bạc, tòa nhà đá ba tầng đồ sộ kia kiêu hãnh vươn cao những góc ngói cong vút, chạm trổ hình đầu rồng. Chung quanh thạch cung là hàng trăm tiểu xá, tiểu việc xinh đẹp, tường gạch, mái ngói khang trang.
Nhương Thư không biết Độc Biển Thước ngủ ở đâu nên tìm đến nhà bếp để hỏi thăm. Nội gián của Cái Bang chính là đầu bếp của Tứ Phạn Thiên Cung, tên gọi Đồ Tắc Thông.
Họ Đồ đã gởi tin về Lạc Dương báo rằng thương thế của Độc Biển Thước rất nặng và dường như Kim Mẫu Trác Phụng Hoan đang muốn nhân cơ hội này sát hại Tả Nho Quan, giành lại cơ nghiệp Thiên Cung. Tuy bà bị Phật Đăng Thượng Nhân phế bỏ võ công, song dưới trướng vẫn còn mấy lão Hộ Cung Chân Khanh võ nghệ cao cường và rất trung thành.
Nhương Thư phát hiện những toán mai phục ở quanh thạch cung và khu hậu viện, nhưng cho rằng họ phòng thủ là phải đạo.
Sau nhiều lần dụng kỳ trân như Thủy Xà Giác Huyết, Hồng Vĩ Hắc Dâm Ngư, nhãn quang Nhương Thư cực kỳ tinh tường, luôn nhìn thấy đối phương trước. Nhờ vậy, chàng dễ dàng vượt qua những chốt gác, đến được nhà bếp ở cạnh vườn hoa phía sau.
Lạ thay, ở nơi không quan trọng này cũng có phục binh, cứ như chúng đoán được rằng chàng sẽ đến tìm Đồ Tắc Thông vậy? Nhương Thư lo lắng cho an nguy họ Đồ, ẩn mình phía sau phòng tuyến mai phục mà suy nghĩ.
Chàng vận công nghe ngóng, nhờ gió Nam mà loáng thoáng nghe được tiếng đối thoại trong bếp. Giọng nói quen thuộc ấy chính là của Tả Nho Quan:
- Này Đổ lão đệ! Ngươi đã gởi tin giả về Lạc Dương, sao không thấy tiểu tử họ Tần đến?
Người kia bật cười, nói hơi lớn:
- Tả giáo chủ nóng ruột làm gì, nếu Nhương Thư trúng kế khởi hành thì Vô Ưu Cái sẽ phải báo tin cho tại hạ biết để phối hợp hành động. Mấy đêm nay, giáo chủ bắt bọn thuộc hạ phải thức trắng thật uổng công. Vô Ưu Cái tuyệt đối tin tưởng tại hạ, tất sẽ bảo Nhương Thư đến tìm.
Nhương Thư không ngờ Đồ Tắc Thông lại phản bội Cái Bang, lòng vô cùng đau đớn và chán ngán cho tình đời. Chàng đã thầm mừng vì đã lén ra đi chứ không bàn với Vô Ưu Cái, nên Hầu bang chủ chẳng kịp báo tin cho họ Đồ biết. Chim câu không thể bay đến Càn Sơn gây sự nghi ngờ, người đưa thư đã chậm hơn chàng một bước.
Đồ Tắc Thông nói tiếp:
- Giáo chủ cứ để anh em nghỉ ngơi đêm nay cho lại sức, sáng mai tại hạ xuống trấn mua thực phẩm thế nào cũng nhận được tin.
Độc Biển Thước nghe có lý, bước ra bảo bọn kiếm sĩ Thiên Cung:
- Các ngươi hãy truyền lệnh giải tán, nhưng nhớ khi ngủ phải để vũ khí bên cạnh.
Bọn này đang ngáp ngắn ngáp dài, mừng rỡ đứng lên, ra ngoài truyền đạt lệnh xả hơi của thủ lĩnh.
Tả Nho Quan lại quay vào bếp nói chuyện với Đồ Tắc Thông. Nhương Thư mừng rỡ chờ toán mai phục đi khuất mới áp sát khung cửa sổ của tường bếp.
Nhận ra Tả Nho Quan và Đồ Tắc Thông đang đối ẩm ở góc Đông Nam. Nhương Thư móc hai trái Bạt Sơn Thần Lựu, bấm chốt rồi ném thật mạnh. Hỏa khí chạm vào tường gạch cứng tất sẽ phát nổ lớn hơn.
Song Tả Nho Quan phản ứng cực kỳ thần tốc và xảo quyệt vì nghe tiếng động quen thuộc đã túm lấy Đồ Tắc Thông làm mộc che thân. Bay ngược về hướng Tây. Tuy nhiên, sức ép kinh hồn của Thần Lực đã làm dập phổi ác ma, đẩy lão văng đến tận bức tường bếp.
Tả Nho quan buông xác Đồ Tắc Thông, cố gượng đứng lên đào tẩu nhưng trái Thần Lực thứ ba đã bay đến xé nát cơ thể của lão và đánh sập luôn nửa gian bếp còn lại.
Nhương Thư không dám vào vì tường bếp đang sập từng mảng, ngói rơi như mưa, đành phí thêm hỏa khí để kết liễu đời ác tặc.
Biết đã thành công, Nhương Thư lao vút về phía trước, chạy như bay trên những mái ngói, để tránh việc giết người.
Chiêng báo động vang trời, đèn đuốc sáng rực, át cả ánh trăng rằm. Âu Dương Lăng đích thân chỉ huy cuộc truy bắt thích khách, nhưng bọn thủ hạ chỉ hô hoán chứ không dám đến gần Nhương Thư. Uy lực của Bạt sơn Thần Lựu đã khiến họ thất kinh hồn vía.
Nhương Thư đã đến tòa thạch cung ba tầng, ném một lúc hai trái Thần Lực làm cho công trình rung chuyển dữ dội rồi bốc cháy.
Thấy cơ ngơi tổ truyền bị phá hủy, Âu Dương Lăng điên tiết huy động bọn Hộ Cung Chân Khanh bao vây Nhương Thư, mặt khác hô hào thủ hạ chữa cháy.
Chàng trai họ Tần vẫn còn hỏa khí, nắm chặt trong tay tả rồi múa kiếm phá vây. Nhương Thư chỉ cần dơ cao ống đồng đáng sợ ấy lên đe dọa là đối phương dạt cả ra, không dám liều mạng chặn đường nữa. Vạn cỗ tử vi nan, dẫu là con sâu cái kiến cũng ham sống, huống gồ là con người?
Chẳng mấy chốc, Nhương Thư đã vào được cánh rừng, thoát đi an toàn. Âu Dương Lăng uất ức mắng chưởi:
- Tần Nhương Thư! Ta thề sẽ phân thây mi thành ngàn mảnh nhỏ.
Nhương Thư mỉm cười thầm nghĩ:
"Nay Độc Biển Thước đã chết, trước sau gì ngươi cũng bỏ mạng vì chất độc trong người thôi."
Chính vì lý do này mà chàng chẳng cần phải đích thân tiêu diệt cung chủ Tứ Phạn Thiên Cung. Nhương Thư còn hy vọng sau cái chết của Âu Dương Lăng, Thiên Cung sẽ tan rã và võ lâm bớt đi một mối họa.
Chạy đã khá lâu mà không ra khỏi được khu rừng. Nhương Thư suy nghĩ và hiểu rằng mình đã vô tình lạc dần về hướng Tây Bắc Càn Sơn, nơi mà rừng phủ che trùng điệp, chẳng hể có đường đi.
Vần trăng rằm đã bị mây đen che phủ, chuẩn bị đổ mưa, không gian dưới tán rừng tối đen như mực, chẳng thể nhân định phương hướng được. Nhương Thư đành tìm chỗ nghĩ ngơi và trú mưa, chờ ánh dương quang ló dạng rồi sẽ tính.
Chung quanh toàn những cây tùng suông đuột, Nhương Thư chạy tiếp để kiếm cái cây nào có chạng ba. Sấm sét nổi lên đùng đùng, ánh chớp liên tục lóe sáng khiến không gian nhập nhoạng nên Nhương Thư đã không nhận rõ địa hình trước mặt. Khi chàng phát hiện bước chân bị hụt hẫng thì đã quá muộn.
Mặt đất cứ như đột nhiên bị nứt ra, Nhương Thư rơi xuống một khe sâu hun hút và đen tối. Chàng kinh hãi than thầm, chỉ còn cách dồn hết chân khí xuống song cước, còn hay tay dang rộng, cố nắm lấy bất cứ vật gì.
Nhưng khác với lần trước, Nhương Thư rơi quá xa cách bờ vực nên không chạm phải cây cối, cứ thế gieo thẳng xuống đáy vực. May thay, chàng hạ thân xuống đúng vùng trũng nhất, đang đầy ắp nước của những cơn mưa vừa rồi. Do sức căng mặt nước, xương chân Nhương Thư gẩy răng rắc, song phủ tạng chẳng thương tổn gì. Chàng mừng rỡ cố trồi lên, dùng tay bơi về về một hướng. Đến được bờ của vũng nước, lần mò kiểm tra cơ thể.
Nhương Thư thở phào vì thấy chỉ có xương đùi bị gẫy, chắp tay cảm tạ Phật Tổ Như Lai rồi nằm xuống nghĩ ngơi. Chàng đã sửa cho hai đoạn xương gẫy trở về chỗ cũ, nhưng phải bất động khá lâu mới bình phục được.
Gần trưa, Nhương Thư thức giấc, chàng nhẹ nhàng ngồi lên quan sát địa thế vực thẳm, tự nhủ rằng khe núi dài thườn thượt này chắc chắn phải có lối ra. Bề rộng của vực rất lớn, cây cối um tùm nên chẳng thiếu dưỡng khí. Chỉ cần tìm được thực phẩm cầm cự đến lúc xương chân liền lại là chàng có thể trở lên mặt đất.
Thú nhỏ ở dưới khe khá nhiều, Nhương Thư dùng sỏi trổ tài phóng ám khí mà săn thịt. Nửa tháng sau, chàng có thể tỳ vào hai đoạn gỗ mà đi lại thám sát địa hình. Té ra vực thẳm này chỉ có thể thoát ra bằng cách trèo qua vách. Độ cao hai chục trượng của đoạn vách phía Nam chẳng làm khó được Nhương Thư nếu chàng lành lặn. Song với đôi chân yếu ớt hiện nay, chàng đành phải bó tay, kiên nhẫn đợi chờ.
Thời gian cứ thế chậm chạp trôi qua, rồi cũng đến rẳm tháng bẩy. Đêm ấy, Nhương Thư nghe được những tiếng nổ ì ầm từ hướng Càn Sơn vọng lại.
Vậy là người thân của chàng vì lo lắng mà cẩu viện đến quan quân Hà Nam, mang đại pháo mở đường tiến vào Thiên Cung. Ở thời điểm giữa tháng bẩy hàng năm, Mông Hãn Hoa héo tàn, rơi rụng và không có độc tố.
Nhương Thư đoán đúng, sự thất tung của chàng đã khiến Vô Ưu Cái phát điên lên, tụ hội quần hùng phối hợp với quan quân mà báo phục.
Ông đích thân đi điều tra, phát hiện Nhương Thư từng trọ ở An Bình lữ điếm, gởi ngựa và hành ký rồi rời nơi ấy đêm mười bốn tháng sáu.
Trinh sát Cái Bang ở Sơn Trấn phía Nam núi Càn cũng xác nhận việc Thiên Cung có tiếng nổ và phát hỏa giữa đêm mười bốn. Hôm sau, người của Thiên Cung xuống trấn mua hai cỗ quan tài, không biết dành cho ai? Việc khó hiểu nhất là sự bặt tăm của Đồ Tắc Thông, kẻ làm nội gián cho Cái Bang. Dường như lão đã chết vì Thiên Cung có đầu bếp mới. Đường chính dẩn vào Thiên Cung xuyên rừng theo hướng Bắc Nam, chỉ rộng mười bốn bước chân và được phòng thủ nghiêm mật. Bọn Vô Ưu Cái tiến vào bằng lối này, nhờ đại pháo mà mau chóng đè bẹp sự kháng cự của đối phương.
Biết thế đã cùng, Âu Dương Lăng quyết định bỏ của chạy lấy người, mặc cho sào huyệt bị san phẳng.
Thiết Kình Ngư may mắn bắt được một gã thủ hạ Thiên Cung, đem ra tra khảo. Gã quắc đôi mắt hổ nghiến răng đe dọa:
- Nếu ngươi không thành thực khai báo thì lão gia thề sẽ bẻ gẫy từng đốt xương của ngươi đấy.
Vẻ hung ác của ánh mắt đổ lửa đã khiến gã tù binh run bần bật, thề thốt rằng sẽ chẳng nói láo nửa lời. Nghe hỏi, gã liền kể lại cuộc chiến đêm mười bốn tháng sáu, khẳng định Tần Nhương Thư dùng hỏa khí giết xong Độc Biển Thước và Đồ Tắc Thông, thoát đi an toàn.
Vô Ưu Cái ngơ ngác:
- Lạ thực! Thế thì y đi đâu mà không trở về Lạc Dương?
Bất Trí Thư Sinh cau mày hỏi gã tù binh:
-Thế lúc thoát ra, Tần Nhương Thư đi theo hướng nào?
Gã kia đáp ngay:
- Dạ bẩm hướng Nam.
Thực ra gã không hề biết nhưng vẫn sốt sắng trả lời để khỏi ăn đòn. Nhương Thư càng nhiều hy vọng sống sót thì mạng gã may ra mới vẹn toàn. Trong lòng, gã cũng đoán rằng tên tiểu tử họ Tần kia không thấy đường nên rơi xuống vực thẳm trong khu rừng rậm phía Tây Bắc. Nhưng gã dại gì mà khai để mang họa vào thân.
Phương trượng chù Thiếu Lâm, Khánh Hỉ đại sư cũng có mặt rtrong cuộc chinh phạt này. Ông hiền hòa bảo:
- Tần thí chủ phúc tướng sâu dầy, chẳng thể yểu mạng được. Dẫu có gặp tai ương cũng sẽ vượt qua, chư vị bất tất phải quá lo lắng như thế.
Ông nói vậy thì thấy Bạch Thúy Sơn nhỏ lệ khóc như mưa. Nàng không khóc thành tiếng nhưng sắc diện cực kỳ thống khổ khiến ai cũng phải mủi lòng. Thúy Sơn đã mang theo một dải khăn tang, chỉ cần xác định được rằng Nhương Thư về suối vàng là nàng sẽ tự sát đuổi theo ngay.
Nay thực hư chưa rõ, Thúy Sơn tuy tràn trề hy vọng nhưng nỗi khổ đau chẳng hề giảm sút. Bất giác nàng đau đớn gọi vang:
- Nhương Thư! Chàng ở đâu?
Hoàng Nghi Tuyệt nghe tin Nhương Thư thất tung đã vội đến Lạc Dương để cùng tham gia chiến dịch càn quét Thiên Cung. Gã là kẻ có tính tình cô độc, chỉ xem mình Nhương Thư là bằng hữu sinh tử chi giao, cho nên, cái chết của chàng là nỗi mất mát lớn lao nhất đời, chẳng thua gì lúc Đao Đế thăng thiên.
Song gã là nam nhi nên không bi lụy như đàn bà, bình tâm suy nghĩ và buột miệng nói:
- Nhương Thư còn một trái Bạt Sơn Thần Lựu, dẫu gặp bất cứ cao thủ nào cũng không đáng sợ.
Mọi người tán thành, yên tâm rút quân, sau khi phá hủy tất cả những công trình lớn nhỏ của Thiên Cung. Tội cho tòa thạch cung, đang sửa chữa dở dang thì lại bị đại pháo bắn sập.
Hoàng Nghi Tuyệt đã không ngờ rằng Bạt Sơn Thần Lựu cũng có lúc vô dụng. Sáng hôm ấy, khi nghe tiếng đại pháo ngưng nổ, Nhương Thư biết phe nhà đã thành công, liền ném trái Thần Lực để gây sự chú ý của người thân.
Chàng vận toàn lực tung mạnh hỏa khí lên miệng vực, nhưng chân gẫy chưa lành, không thể xuống tấn, chỉ tựa vào đoạn cây ở vách trái nên lực đạo không đủ. Thần Lực chỉ bay đến gần mép vực thì rơi xuống, còn cách mặt đất bốn trượng, chạm phải tảng đá lồi và phát nổ.
Tất nhiên tiếng nổ kia chỉ làm điếc tai Nhương Thư chứ không đi xa được. Vả lại, khe sâu này cách Càn Sơn đến mười mấy dặm rừng dầy đặc. Chàng cố vớt vát bằng cách vận công hú vang.
Lạ thay, có tiếng người phúc đáp ngay lập tức:
- Tiểu tử kia, ngươi là ai mà dám đến đây quấy nhiễu lão phu? Chỉ chút nữa là ta tẩu hỏa nhập ma rồi.
Lời chửi mắng kia xuất phát từ một động khẩu trên vách cách vực trước mặt Nhương Thư, cách đấy chừng ba trượng, khá gần với chỗ mà Bạt Sơn Thần Lựu phát hỏa.
Trước đây, động khẩu này bị dây leo che phủ chằng chịt nên Nhương Thư không thể ngờ rằng có người cư trú. Chắc ông ta là bậc kỳ nhân tuyệt thế.
Trong cảnh tuyệt vọng mà gặp người thì còn niềm vui nào bằng. Nhương Thư hoan hỉ vái dài:
- Bẩm tiền bối! Vãn bối bị rơi xuống vực không sao lên được nên đành phải dùng hỏa khí để cầu cứu. Mong tiền bối tha thứ cho tội quấy nhiễu chốn thanh tu.
Người kia giận dữ nhảy xuống, hạ thân êm ái như lá mạ trên mặt cỏ. Ông ta nhảy đông đổng chửi tiếp:
- Ngươi mù hay sao mà dám gọi ta là tiền bối? Bộ trông ta già lắm hay sao?
Nhương Thư sửng sốt, ngơ ngác khi thấy đối phương chỉ cao đến ngực mình, mặt mũi xinh đẹp, da dẻ trắng trẻo mịn màng như đứa trẻ mười ba. Tuy nhiên, gương mặt tiên đồng kia hơi quái dị vì có đến hai cặp lông này chữ nhất đen nhánh. Cặp thứ nhất nằm ở vị trí bình thường, còn cặp thứ hai kéo từ mi tâm đến góc trán.
Ký ức tuyệt luân của Nhương Thư phản ứng rát nhanh. Chàng thảng thốt kêu lên:
- Ải Thần Quân!
Ân sư chàng thưòng kể về nhân vật độc đáo này. Ông ta tên gọi Tần Nhật Phủ, bằng tuổi Phật Đăng Thượng Nhân, nghĩa là năm nay đã chín mươi hai. Họ Tần tính tình quái dị, hiếu thắng, hiếu sát, nhưng chỉ giết bọn ác nhân. Ông từng thách đấu với bốn người trong Vũ Nội Tứ Thần, bị đả bại nên phẫn chí thoái xuất giang hồ đã hơn ba chục năm. Bỏ đi đâu chẳng rõ.
Ải Thần Quân không ngờ là gã tiểu tử kia lại nhận ngay ra mình, liền hiếu kỳ hỏi:
- Ngươi là đồ đệ của ai mà lại biết lão phu?
Nhương Thư kính cẩn đáp:
- Bẩm tiền bối! Vãn bối tên gọi Tần Nhương Thư, học trò của Phật Đăng Thượng Nhân núi Ngũ Đài Sơn.
Mối hận năm xưa trỗi dậy, Ải Thần Quân nhẩy loi choi, chửi bới xối xả:
- Té ra lão trọc Đinh Doãn! Năm xưa cũng vì lão ấy mà Ải Thần Quân ta phải phẫn chí rời bỏ Trung Nguyên, lưu lạc nơi đất khách quê người. Ta chỉ xin lão đổi Tứ Thần thành Ngũ Thần để Tần mỗ có chân, thế mà lão hẹp hòi chẳng chịu. Thật là đồ hòa thượng đáng ghét.
Nhương Thư mỉm cười:
- Tiên sư có kể lại yêu cầu của tiền bối. Song việc ấy là do sự phong tặng của đồng đạo võ lâm, tiên sư nào có quyền gì?
Ải Thần Quân kinh hãi:
- Cái gì mà tiên sư? Chẳng lẽ lão trọc họ Đinh đã chết rồi?
Nhương Thư lặng lẽ gật đầu, Thần Nhật Phủ hấp tấp hỏi thêm:
- Thế còn ba lão quỷ kia thì sao?
Nhương Thư đáp:
- Đao Đế và Địch Thánh cũng đã tọa hóa, chỉ còn mình Hồng Diện Tôn Giả tại thế, song ông ta quyết chí tu hành, chẳng màng đến sự đời nữa.
Ải Thần Quân thất vọng nói lẩm bẩm:
- Thế là công toi lão phu khổ luyện mấy chục năm, giờ còn ai để rửa hận nữa?
Lão tần ngần suy nghĩ một lúc, mắt dán vào mặt Nhương Thư, đôi mắt đẹp chợt lóe lên những tia tinh quái. Và Ải Thần Quân bỗng hỏi:
- Tiểu tử kia! Ngươi có đồng ý bái lão phu làm sư phụ hay không?
Nhương Thư giật mình ấp úng:
- Bẩm tiền bối! Thư này đã có thầy, đâu thể đầu nhập cửa khác được.
Ải Thần Quân cười khanh khách:
- Ngươi không muốn cũng không được.
Và ông bất thần ập đến, song trảo dương ra, xạ liền tám đạo chỉ kình xé gió.
Cách Không Chỉ Giáp đã thất truyền cả trăm năm nay, nào ngờ Ải Thần Quân lại luyện thành. Nhương Thư đi lại còn khó khăn nên không tài nào tránh nổi, bị trúng ba chỉ, thân hình tê tái, bất động.
Ải Thần Quân đắc ý bước đến sờ nắn gân cốt và thăm dò công lực Nhương Thư. Ông tấm tắc khen:
- Mới từng tuổi này mà đã có đến gần năm mươi năm chân khí thì quả là hãn thế! Gân cốt y thuộc hàng thượng thặng, mặt mũi phúc hậu, xứng đáng làm hóa thân cho lão phu.
Nhương Thư không hiểu, ngơ ngác hỏi lại:
- Tiền bối định làm gì Tần mỗ?
Ải Thần Quân cười ha hả, hoa tay múa chân, sôi nổi giải thích:
- Trời sinh lão phu anh tuấn hơn người nhưng cơ thể thấp bé, chịu nhiều thiệt thòi. Nay ngươi cũng họ Tần, khiến lão phu nghĩ ra một kế hoạch vô cùng tuyệt diệu. Lão phu lưu lạc sang Ba Tư học được Di Hồn Đại Pháp nên sẽ biến ngươi thành một Tần Nhật Phủ hiên ngang anh tuấn, dương danh thiên hạ.
Lão dừng lại rồi hớn hở nói như tự nhủ:
- Hay thực! Lúc ấy nữ nhân trong võ lâm sẽ say mê như điếu đổ, bu lại như ruồi, tha hồ cho ta lựa chọn.
Bỗng lão đổi sắc giọng, chửi đổng:
- Mả mẹ nó! Năm xưa, bọn đàn bà con gái chê lão phu lùn, chỉ đứng đến vú họ, nên không thèm để ý.
Nhương Thư nhân hậu có thừa, rất thông cảm với tâm trạng của người khiếm khuyết. Chàng không giận mà dịu giọng giải bày:
- Vãn bối cũng có chút danh tiếng, dung mạo ai cũng biết, làm sao giả làm tiền bối được?
Ải Thần Quân mỉm cười ranh mãnh:
- Ngươi lầm rồi! Tài dao kéo của lão phu vốn đứng đầu thiên hạ, đã ra tay thì không thể chê được! Lúc ấy, ngay vợ ngươi cũng chẳng nhận ra chồng mình được.
Nhương Thư bắt đầu lo sợ, bối rối trước âm mưu quái đản của đối phương. Chợt chàng nhận ra mình bị đôi mắt của Ải Thần Quân thu hút, chưa kịp quay đi thì đã mê muội.
Ải Thần Quân hài lòng vác Nhương Thư nhẩy lên động khấu. Mang một người mà bay cao đến ba trượng thì thật đáng khâm phục. Xem ra bản lãnh Ải Thần Quân còn cao hơn cả Phật Đăng Thượng Nhân rồi.
Trong suốt nửa năm trời, Ải Thần Quân dùng Di Hồn Đại Pháp để truyền tuyệt học cho Nhương Thư. Chỉ có cách này mới rút ngắn được thời gian. Ông thôi miên chàng, đọc thầm khẩu quyết và giảng giải động tác.
Kỳ diệu thay, Nhương Thư học thuộc rất dễ dàng, tinh thông như chính bản thân Thần Quân vậy. Chàng bị khống chế tâm thức nên rất hiền lành, ngoan ngoãn, gọi Thần Quân là cha vì lão muốn thế.
Lúc đầu chỉ là chút trò đùa ngông cuồng, song dần dà Tần Nhật Phủ cảm động trước lòng hiếu thuận của Nhương Thư và yêu chàng như con ruột. Tuy nhiên, lão vẫn không từ bỏ kế hoạch oái oăm của mình, tiến hành giải phẩu, sửa đỗi gương mặt của Nhương Thư. Từng nét một, Tần Nhật Phủ thứ hai ra đời.
Ải Thần Quân sang Ba Tư về, đến ranh giới giữa A Phú Hãn và Trung Hoa thì gặp dãy Tứ Trụ Phong. Trong lúc săn thịt, đuổi theo một con thỏ, họ Tần đã lạc vào nơi Sấu Tiên tọa hóa, học được Huyền Không Kiếm Pháp và Lục Mạch Thần Chỉ.
Pho chỉ pháp này vốn xuất xứ từ Lục Mạch Thẩn Chỉ của giòng họ Đoàn nước Đại Lý. Sau khi Đại Lý bị quân Mông Cổ tiêu diệt thì tuyệt học thất truyền. Sấu Tiên Vương Hàn Lâm vốn là người Vân Nam, may mắn nhặt được tàn thư, khổ công nghiên cứu, bổ khuyết nên phục hồi được Lục Mạch Thần Chỉ.
Nhưng mãi đến khi ông ẩn cư thì mới thành công, do vậy trong võ lâm không ai biết việc này.
Ải Thần Quân truyền thụ khinh công, kiếm pháp và cả chỉ pháp cho Nhương Thư.
Đến rằm tháng giêng năm sau, thấy con nuôi đã học hết nghề của mình, Thần Nhật Phủ liền đưa chàng lên mặt đất.
Đoạn ký ức dưới vực thẳm lại bị xóa đi, trừ võ công. Giờ đây, Nhương Thư chỉ nhớ được rằng mình là Tần Nhật Phủ, người đất Trường Trị, đất Sơn Tây, hai mươi bốn tuổi, mồ côi cha mẹ từ nhỏ.
Chàng thức giấc trong một quán trọ cạnh An Dương vài chục dặm. Nhương Thư thản nhiên thanh toán tiền trọ, lên ngựa tiến vể hước Bắc. Chàng cũng không hề thắc mắc khi thấy trong bọc có vạn lượng vàng ngân phiếu và rất nhiều châu báu.
Ba tháng sau, thanh danh của Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách Tần Nhật Phủ đả vang lừng đất Hà Bắc. Chàng ta có võ nghệ siêu phàm, tính tình hiệp nghĩa và ăn xài rộng rãi như vương tôn công tử.
Cặm lông mày kép của họ Tần chẳng hề làm giảm sút vẻ đẹp thiên thần, ngược lại còn tạo cho chàng vẻ đặc biệt, siêu nhân.
Trên đường từ An Dương đến Bắc Kinh, Tần Nhật Phủ liên tiếp phá tan mấy chục ổ cướp, tiêu diệt mười tám cao thủ hắc đạo thành danh, và đem tài sản của nạn nhân phân phát cho dân nghèo.
Cái danh hiệu Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách lại đúng là của Tần Nhật Phủ thời trai trẻ. Sau này, lão giết người nhiều quá, chọc ghẹo thiên hạ cũng không ít, nên bị gọi là Ải Thần Quân.
Mấy tháng nay, Cái Bang đã tung toàn lực truy tìm tung tích Nhương Thư, vì thế, phân đà Hà Bắc lập tức thông báo cho Vô Ưu Cái biết mọi chi tiết về ngôi sao mới tỏa sáng là Tần Nhật Phủ.
Tại sao vậy? Bởi vì Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách có đôi tai phật giống hệt Nhương Thư. Hai là giọng nói Tần Nhật Phủ cũng chẳng hề khác.
Người thân của Nhương Thư đang mỏi mòn trong hy vọng mơ hồ, liền bá víu lấy tin này như chiếc phao giữa biển khơi.
Đại cục võ lâm đang hồi rối ren nên các chưởng môn bạch đạo ở cả Thiếu Lâm Tự để trù hoạch kế sách. Nhận được thư mời của Vô Ưu Cái, họ mau chóng có mặt ở Lạc Dương.
Hầu bang chủ kể rõ cho bốn vị khách quý nghe về hiện tượng Ải Thần Quân tái sinh rồi hỏi:
- Trong bốn vi ai là người năm xưa có dịp tiếp xúc với Ải Thần Quân nhiều nhất, xin cho biết cao kiến về tính cách của lão ta.
Thông Thiện Chân Nhân, chưởng môn phái Võ Đang, vuốt râu đáp:
- Tần lão thí chủ vốn là bằng hữu của tiên sư, từng ghé chơi Ngọc Nữ Phong nhiều lần, nên bần đạo có biết đôi chút.
Ông chậm rãi hớp trà rồi nói tiếp:
- Ải Thần Quân tính tình cổ quái, thích làm chuyện ngông cuồng nhưng không phải là người xấu. Lão thí chủ ấy từng ăn được một trái Vô Thu Quả nên mãi mãi giữ được tuổi xuân. Có lẽ Thần Quân còn sống, nổi tính trẻ con nên đào tạo ra một hóa thân để chọc phá thiên hạ.
Bất Trí Thư Sinh thở dài:
- Lập luận của đạo trưởng rất chí lý, nhưng kẻ ấy là Nhương Thư thì rất khó xảy ra, trừ phi Ải Thần Quân tinh thông cả nghề cải sửa dung mạo lẫn phép Nhiếp Hồn.
Phổ Chứng Thiền Sư lên tiếng:
- Đúng thế! Nhưng theo lão nạp được biết thì Ải Thần Quân không hề luyện hai công phu ấy.
Vô Ưu Cái cười mát:
- Ba mươi năm đủ để một nhân vật tài hoa như Tần Nhật Phủ luyện thành vài môn tuyệt học. Lão phu tin chắc rằng Nhương Thư hiền đệ đã xui xẻo lọt vào tay lão ta và trở thành công cụ để thực hiện kế hoạch hóa thân.
Thấy cử tọa lộ vẻ nghi ngờ, Vô Ưu Cái buồn rầu bảo:
- Lão phu cũng chỉ đoán mò thế thôi, phải giáp mặt và tiếp cận Tần Nhật Phủ thì mới biết hư thực.
Thúy Sơn nóng nẩy nói:
- Tiểu muội phải đi Bắc Kinh mới được.
Bất Trí Thư Sinh hưởng ứng:
- Lão phu sẽ đi với Bạch hiền muội. Nếu Tần Nhật Phủ đúng là Nhương Thư thì không thể thoát khỏi cặp mắt của lão phu.
Vô Ưu Cái gật đầu dặn dò:
- Lão đệ cứ đi. Dẫu Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách không phải là Nhương Thư cũng phải đưa gã về đây bằng mọi giá. Nếu để Kỵ Ba Thần Quân lôi kéo được một đại cao thủ kiệt xuất như gã thì chúng ta nguy mất.
Phổ Chứng thiền sư, chưởng môn phái Nga My tán dương:
- Thiện tai! Thiện tai! Hầu lão thí chủ quả là người tâm mưu viễn lực, lúc nào cũng nghĩ đến đại cục võ lâm trước.
Được khen, Vô Ưu Cái hơi ngượng, liền trợn mắt nói:
- Hòa thượng ngươi đừng học thói vuốt mông ngực khiến lão phu hổ thẹn. Nếu lão phu có thực tài thì đâu đến nỗi bị Âm Sơn Lão Tổ nắm gáy? Không hiểu sao lão ta lại phát hiện Trung Nguyên Cao Sĩ Phương Tử Kiến là người của chúng ta và đang thực hiện kế Tá Đao Sát Nhân. Thế nên Lương Dã Toàn cứ nằm lì ở Cô Độc Bảo hưởng thụ, chẳng thèm khởi binh chinh phạt Kỵ Ba Thần Quân, mặc cho Sơn Hải Giáo bành trướng khắp Sơn Đông, Giang Tô và lăm le uy hiếp Cưu Sơn. Hôm qua, Lão Tổ đã gửi thư đến đòi năm vạn lượng vàng và chức Minh Chủ võ lâm, có thế lão mới chịu đánh nhau với Sơn Hải Giáo.
Cử tọa nghe xong tin này kinh hãi ồ lên. Khánh Hỉ đại sư bối rối hơn:
- Chúng ta có thể đặc cách trao tặng danh vị quyền Minh Chủ võ lâm cho Lão Tổ, nhưng như thế thì khác nào giao trứng cho ác?
Các vị chưởng môn còn lại trong hội đồng võ lâm đều cùng một ý ấy. Bất Trí Thư Sinh cau mày tư lự:
- Lạ thực! Mưu kế này được tiến hành rất tinh vi, chu đáo, làm sao có thể bại lộ được? Chẳng lẽ một kẻ quê mùa, thô mảng như Âm Sơn Lão Tổ lại thông minh hơn Quách Tàn Bôi và Nghiên Tái Thuần?
Vô Ưu Cái mỉm cười thê lương:
- Có điều gì khó hiểu đâu? Trong hai người ấy có kẻ đã phản bội lại võ lâm Trung Nguyên, khiến chúng ta lâm cảnh rước hổ vào nhà.
Cả bàn tái mặt nhìn nhau, riêng Cao Trường Toản run giọng:
- Tiểu đệ nuôi dưỡng Thuần nhi đã lâu, tin chắc rằng y không phải là kẻ đốn mạt.
Thúy Sơn cười lạnh:
- Tiểu muội thì lại tuyệt đối tin tưởng Quách đại ca. Lão vốn là người có bản chất anh hùng, lại cảm kích tấm lòng tri ngộ của Nhương Thư, dẫu chết cũng không lỗi đạo. Khi đồng hành với chúng ta, Quách Tàn Bôi được cả võ lâm kính trọng, sao lại đánh mất vinh dự ấy? Lão đã già rồi, còn cần gì tài lợi hay tuyệt học nữa? Ngược lại, Nghiên Tái Thuần có nhiều điều để ham muốn.
Nàng phân tích rất rạch ròi, hữu lý, khiến Bất Trí Thư Sinh hiểu ra vấn đề. Lão toát mồ hôi lẩm bẩm:
- Thuần nhi! Ngươi đã hại lão phu rồi.
Trong cảm giác nhục nhã vô cùng, uất khí công tâm khiến Cao Trường Toản hộc máu gục xuống bàn.
Phổ Chứng thiền sư ngồi bên cạnh vội truyền chân khí cứu Bất Trí Thư Sinh hồi tỉnh. Họ Cao buồn bã vái Vô Ưu Cái, nói với giọng nghẹn ngào:
- Hầu đại ca, tiểu đệ bất tài nên đã phụ lòng tin tưởng của đại ca và võ lâm. Tiểu đệ sẽ đi ngay Khai Phong bắt gã đệ tử phản phúc kia.
Hầu Mộ Thiên cười nhạt:
- Cha sinh con, trời sinh tính, ngươi chẳng có lỗi gì cả. Thực ra, ngươi có đến Cô Độc Bảo cũng chỉ uổng công mà thôi. Khi lòng người đã tráo trở thì tình nghĩa sư đồ chẳng đáng một xu. Chi bằng ngươi đem tài trí bày thần mưu diệu kế mà trừng trị phản đồ chẳng hơn hay sao? Hay là ngươi đã dốc túi truyền hết nghề nên giờ phải bó tay?
Câu khích tướng của Hầu bang chủ khiến Bất Trí Thư Sinh tỉnh táo lại. Họ Cao gượng cười:
- Hầu đại ca quả có tài miệng lưỡi. Tiểu đệ xin tuân mệnh.
Gã cau mày suy nghĩ một lúc rồi trình bày kế sách:
- Xét ra, việc Nghiên Tái Thuần phản bội chỉ là chuyện nhỏ. Trước mắt chúng ta phải làm cho Âm Sơn Lão Tổ và Kỵ Ba Thần Quân tương tranh cái đã. Thiển ý của lão phu là thế này...!
Nghe xong, cả nhà gật gù khen ngợi.


Hồi 13

Tứ Mi Tái Xuất Nhan Như Ngọc
Chân Giả Nan Phân Nhân Nghi Mang

Sáng hôm sau, tức ngày mười sáu tháng tư, Bạch Thúy Sơn và Bất Trí Thư Sinh lên đường đi Bắc Kinh. Lô Châu Ngũ Tặc được tháp tùng, lòng vui mừng như tết.
Ba chị em nhà họ Điền vẫn chưa thoát khỏi tà pháp của Kỵ Ba Thần Quân nhưng đã khá hơn nhiều. Họ không còn dáo dác tìm kiếm vị sư phụ giả là Độc Biển Thước nữa, mà quay sang gọi tên Nhương Thư.
Giờ chúng ta đi trước bọn Thúy Sơn để xem chàng trai họ Tần đang làm gì?
Cũng như mọi ngày, Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách rời Kinh Đô đệ nhất lữ điếm, đến Vạn Hương Lâu dùng bữa trưa.
Các nữ nhân thành Bắc Kinh đều biết thói quen ấy nên đã sớm có mặt, chiếm những vị trí tốt nhất, gần nhất với bàn riêng của Tần Nhật Phủ.
Những nàng tiểu thư khuê các đoan trang, thùy mị thì chỉ dám nép sau chiếc quạt lụa ngắm trộm dung mạo của bậc anh hùng tài mạo, nhưng đám nữ hào kiệt thì mặt dầy hơn, ngang nhiên liếc mắt đưa tình hoặc sà xuống ghế cùng họ Tần đối ẩm.
Ả nào nhanh chân hơn thì sẽ chiếm được một trong bẩy ghế của chiếc bàn bát tiên. Đã ngồi rồi thì họ không bao giờ dám đứng lên, dẫu cho bàng quang nặng trĩu nước tiểu, cơ hồ sắp vỡ tung. Họ mà rời ghế thì lập tức mất chỗ ngay.
Mật ít ruồi nhiều, các nàng chỉ muốn giết sạch những kẻ cạnh tranh song lại không dám để Tần công tử xem mình là kẻ đố kỵ hẹp hòi. Bởi thế, ngoài mặt họ vẫn nói cười vui vẻ.
Vị trí hạnh phúc nhất là ở hai bên Tần Nhật Phủ. Được vài chén, họ có thể giả say quàng vai hay lả lơi dựa vào người chàng ta.
Các bộ võ phục mỗi ngày một mỏng hơn, để ánh mắt Tần Nhật Phủ được thưởng thức trọn vẹn những gò bồng đảo mơn mởn gọi mời. Tuy nhiên, sợ chàng cho rằng mình phóng đãng, các nàng luôn khép chặt áo choàng, chỉ mở ra khi ngồi với Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách.
Rốt cuộc, một kiểu thời trang mới ra đời, đó là võ phục may bằng the mỏng, đi chung với áo choàng.
Đây quả là một cuộc cải cách lớn trong lịch sử y phục vì trước đây các kiểu xiêm y mới đều xuất xứ từ kỹ viện.
Hồi đầu tháng, suýt nữa đã xảy ra cảnh đầu rơi máu đổ giữa các nàng nữ hiệp si tình. May thay, một ả khôn ngoan đã thuyết phục được cả bọn đồng ý với một lịch chia phiên, mỗi bữa bẩy người.
Thế là, cứ đến đầu giờ Ngọ và đầu giờ Dậu, có bẩy nàng nữ kiệt, vai mang kiếm báu, đến ngồi chờ sẵn để chờ thần tượng. Họ cũng thay nhau trả tiền cả bữa ấy.
Tại sao các ngươi lại say mê Tần Nhật Phủ một cách điên cuồng như thế? Bởi vì, ngoài vẻ anh tuấn phi phàm, võ nghệ tuyệt luân. Họ Tần còn có nụ cười quyến rũ và ánh mắt đầy mị lực. Các nàng vừa chạm phải ánh mắt ấy là sẵn sàng dâng hiến cả cuộc đời.
Thế còn thái độ của bọn vương tôn công tử đất Đế Đô thì sao? Tất nhiên họ ghét cay ghét đắng Tần Nhật Phủ, kẻ đã cướp mất tất cả những cô nương xinh đẹp nhất thành.
Nhưng họ chỉ rủa thầm tổ tông mười tám đời họ Tần chứ không dám đụng đến. Thứ nhất là vì võ công Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách rất cao siêu. Hồi giữa tháng ba, chàng ta giết chết một đại cao thủ hắc đạo là Diêm vương Đao Phạm Phi Luân một cách dễ dàng.
Lão cường đạo độc hành họ Phạm mò vào nhà Lâm Tài Chủ, cách Kinh Đô đệ nhất lữ điếm hơn dặm, bị Tần Nhật Phủ đứng trên lan can trông thấy.
Chàng ta tìm đến nơi, đúng lúc Diêm Vương Đao đang uy hiếp khổ chủ để tra chỗ giấu của.
Mà Lâm Tài chủ lại là bào huynh của quan Tả Đô Ngự Sử, cầm đầu Đô Sát Viện. Do vậy, khi Tần Nhật Phủ trở thành ân nhân của Lâm gia trang rồi, không còn ai dám xúc phạm chàng nữa.
Tóm lại, giờ đây Tần Nhật Phủ có đủ danh vọng, quyền thế, tiền bạc và nữ sắc. Nhưng liệu chàng có hạnh phúc hay không và cư xử như thế nào?
Khổng Phu Tử nói "Nhân chi sơ, tánh bản thiện". Còn Như Lai thì bảo rẳng: "Trong mỗi chúng sinh đều tiềm tàng phật tính. Hai cái tính đó là một, chỉ có thể bị mờ lấp chứ không mất đỉ."
Ải Thần Quân dùng phép Di Hồn Đại Pháp xóa đi ký ức quá khứ, nhồi nhét những ý niệm mới về một Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách anh hùng, hào hoa, lịch lãm, song đã không hoàn toàn thành công.
Tu hành suốt mười bẩy năm, phật tính trong Nhương Thư rất sáng, nhưng đã bị cái chết thảm thương của mẫu thân che phủ. Nay ký ức ấy mất đi, phật tính có thể bộc lộ và tăng tiến. Rốt cuộc, Nhương Thư cứ như một vị thiền sư vào chốn sa đọa để phổ độ chúng sinh vậy!
Ải Thần Quân dạy chàng hiếu sát, song Nhương Thư thường chỉ chặt tay hoặc phế võ công đối thủ. Lão muốn chàng vơ tóm hết những nữ nhân trong thiên hạ để hưởng thụ thì chàng chỉ cười hiền, không xua đuổi nhưng cũng không chiếm đoạt.
Trong số những nàng nữ hiệp say đắm Nhương Thư, có bẩy tám ả sớm góa bụa, hoặt thích bày tỏ lòng mình một cách cụ thể bằng thân xác. Thế là họ trèo qua cửa sổ phòng Nhương Thư nơi khách điếm, múa điệu Nghê Thường rồi dâng hiến.
Họ áp sát tấm thân khiêu gợi, mỡ màng của mình vào người chàng mời mọc, thế mà Nhương Thư chẳng hề động tình, ôm họ ngủ một mạch đến sáng.
Các nàng yêu nữ kia vô cùng thất vọng song càng bội phần thán phục và yêu mến. Họ không hiểu vì sao Tần Nhật Phủ lại từ chối ái ân, dù trường thương dựng đứng như cột bườm kiêu hãnh?
Đôi lúc chàng cũng vuốt ve những đường cong trên cơ thể họ, song chỉ thế mà thôi.
Có một kẻ đã chứng kiến tất cả, tiếc cho chàng và nổi tam bành, chửi rủa hết lời. Người ấy chính là Ải Thần Quân.
Lão ta đã đi theo, dùng tài hóa trang thần diệu và khinh công xuất chúng để quanh quẩn bên hóa thân mà quan sát. Lão muốn được chứng kiến mọi vinh quang, sung sướng của Nhương Thư để tự an ủi mình.
Thấy chàng không thực hiện đúng ý mình, lão tức lộn ruột, tìm chỗ vắng mà tuôn ra những lời mắng nhiếc:
- Con bà nó! Tiểu tử này ngu ngốc hết chỗ nói, ả nào cũng thơm như múi mít mà lại bỏ qua! Giá như vào tay lão phu thì...
Thần Quân chợt bật cười:
- Ta thì cũng hơn gì! Ba mươi năm học đạo, lửa dục tắt lịm, chỉ còn lại chút trò nghịch ngợm thế thôi. Cái lão trọc Phật Đăng thật khéo dạy học trò, tuổi Nhương Thư còn trẻ mà định lực cao như núi.
Và lão tự an ủi:
- Thế cũng tạm được. Nếu Nhương Thư hăng hái truyền giống cho hàng trăm ả thì con rơi nhà họ Tần rải rác khắp Bắc Kinh, tội ấy lão phu chẳng dám gánh.
Đã có chủ ý, Ải Thần Quân hài lòng quay lại với công việc làm khán giả, đồng thời bảo vệ diễn viên, bởi vì lão thực tâm yêu mến Nhương Thư. Những tiếng gọi cha kia đã đánh thức bản năng từ phụ của Thần Quân. Ông đã phát nguyện giới sát để được thành tiên, song nếu cần thì cũng sẵng sàng xuất thủ vì con nuôi.
Lúc này, Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách đã dùng xong bữa, thản nhiên để các nữ nhân thanh toán tiền cơm, song lại dịu dàng nói:
- Ta xin tặng các nàng vài hạt ngọc trai để làm bông đeo tai.
Họ hạnh phúc ồ lên khi thấy những viên ngọc trai tròn trịa, gần như tuyệt đối, lớn bằng hạt nhãn.
Một vị cô nương xúc động nói đùa:
- Công tử đừng quá rộng rãi với chị em bọn thiếp, coi chừng sạt nghiệp đấy.
Tần Nhật Phủ mỉm cười:
- Vạn sự vô thường, của cải chẳng khác gì phù vân, ta giữ làm gì?
Ải Thần Quân đang ngồi ở bàn gần đấy, trong thân phận một lão phú hộ áo gấm, râu đen. Nghe được câu nói của Nhương Thư, tức đến méo mặt:
- Mẹ kiếp! Tiểu quỷ này ngồi với gái đẹp hơ hớ mà lại mở miệng giảng đạo, thật tức chết đi được! Châu báu do lão phu khổ cực mang từ Ba Tư về mà gã cho chẳng tiếc tay.
Ông lại bật cười vì sự mâu thuẫn của mình:
- Ta lẩn thẩn thực! Chính ta muốn y trở thành kẻ Đại Phương, rộng rãi như bậc vương tôn kia mà?
Bẩy ả kia chẳng hề thấm thía ý nghĩa cao siêu của lời thuyết giáo, hí hửng đo với nhau xem ngọc của ai đẹp hơn.
Gần trăm nàng khác ngồi ở bàn chung quanh, xôn xao hẳn lên vì ganh tỵ nhưng chẳng lẽ mở miệng xin? Họ càng điên tiết khi thấy Tả Phù, Hữu Bật của Tần Nhật Phủ lả lơi kéo ghế ngồi sát lại, cọ xát gò nhũ phong vào khuỷu tay chàng, nói cười rúch rích.
Họ Tần chẳng động tâm song ai đó đã ngứa mắt lên tiếng:
- Té ra Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách chỉ là một gã trai lơ, suốt ngày nép váy nữ nhân!
Người phát ngôn có lẽ vừa lên đến, còn đứng ở cầu thang. Ông ta mặc áo gấm xanh, có thân hình cao lớn, mặt đỏ như son, râu ba chòm bạc trắng, tóc cũng chẳng còn cọng nào đen.
Thanh danh của Hồng Diện Tôn Giả Hoàng Huy Do oai trấn Hà Bắc, nên bọn nữ hiệp vội đứng lên bái kiến, kẻ gọi sư bá, người xưng sư tổ, hoặc lão tiền bối, tùy theo quan hệ sư môn.
Tần Nhật Phủ không giận vì bị chê trách, vẫn kính cẩn bái:
- Vãn bối Tần Nhật Phủ xin ra mắt tiền bối!
Hồng Diện Tôn Giả đã đến nơi, chăm chú quan sát dung mạo của chàng trai trẻ. Ông đã biết tin rể quý thất tung, lòng đau như cắt nhưng cố tĩnh tâm tu hành, không đi Lạc Dương hỏi han.
Song khi thấy tiếng tăm của Tần Nhật Phủ đến tai, ông chợt có linh cảm kỳ lạ, liền rời núi Thúy Sơn đi Bắc Kinh điều tra. Trong thiên hạ, người mang tướng phật nhĩ không hiếm, song chẳng phải ai ở dưới tuổi ba mươi mà dễ có được công lực và bản lãnh kiếm thuật như Nhương Thư.
Nay đối diện Tần Nhật Phủ, thấy chàng tỏ vẻ không quen biết, Tôn Giả rất phân vân. Tuy nhiên, giọng nói quen thuộc kia thì không thể lầm được.
Phép Di Hồn không thể xóa đi những tính cách thuộc về bản năng như thói quen ăn uống, cách mỉm cười... Bởi thế, Nhương Thư vẫn còn giữ lại được vài nét cũ như thích trà hơn rượu chẳng hạn.
Đôi nhãn quang sắc bén như dao cạo của Tôn Giả đã xác định đối phương không mang mặt nạ và cũng chẳng tô vẻ bằng thuốc dịch dung, song muốn chắc thì phải kiểm tra võ công, Phật Đăng Kiếm Pháp chẳng lạ với ông.
Thái độ lặng lẽ, nặng nề của Hồng Diện Tôn Giả đã khiến thực khách trên tầng hai này của tửu lâu thầm lo lắng cho Tần Nhật Phủ. Đấy là bọn nữ nhân, còn các chàng trai thì mở cờ trong bụng. Họ muốn Ngọc Diện Kiếm Khách phải nhục bại dưới tay bậc đại kỳ nhân.
Tần Nhật Phủ thản nhiên chịu đựng ánh mắt soi mói của Hồng Diện Tôn Giả, kính cẩn nói:
- Thỉnh tiền bối an tọa.
Bẩy nàng kia cũng lăng xăng kéo ghế mời mọc, nhưng Hoàng lão lắc đầu:
- Lão phu đến đây là để kiếm chứng xem võ công của Tần tiểu tử ngươi có đúng như lời đồn đãi hay không?
Tần Nhật Phủ điềm đạm đáp:
- Tuy mới xuất đạo song tại hạ cũng biết tiền bối là bậc đức cao vọng trọng trong võ lâm nên không dám mạo phạm. Tại hạ mang gươm hành hiệp là để trừ gian diệt bạo, chứ chẳng hề tranh danh đoạt lợi.
Chàng nói rất hợp đạo lý nên Tôn Giả không bắt bẻ được, bèn xoay qua kế khích tướng:
- Hay là ngươi sợ?
Nhật Phủ xử sự đúng mực thiền sư, vui vẻ gật đầu:
- Dạ bẩm phải.
Đám công tử thế gia ồ lên cười chế giễu song chẳng làm cho họ Tần biến sắc.
Hồng Diện Tôn Giả chưa chịu bó tay:
- Ngươi không đánh cũng không được vì lão phu đang thay mặt lớp võ lâm tiền bối mà trừng phạt ngươi về cái tội mạo danh. Mười mấy năm trước, trên giang hồ có một bậc kỳ nhân đã xuất đạo với danh hiệu Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách, và cũng có tên là Tần Nhật Phủ, sau này đổi thành Ải Thần Quân. Nếu ngươi là bậc hậu duệ của lão ta thì cũng không được dùng tên của tổ phụ, bằng mạo nhận thì càng đáng tội.
Nhương Thư không hề biết việc này, ngơ ngác hỏi:
- Lẽ nào lại có sự trùng hợp như thế? Vãn bối quê đất Trường Trị, tỉnh Sơn Tây, cha là Long Kiếm Tần Sinh, quá vãng sớm nên không rõ cội nguồn.
Hồng Diện Tôn Giả giật mình:
- Quái lạ thật! Ải Thần Quân cũng người Trường Trị, con của Long Kiếm!
Ải Thần Quân sợ lão quỷ già kia hỏi mãi tất sẽ hiểu rõ ngọn ngành, liền cuống quýt truyền âm bảo Nhương Thư:
- Con hãy đánh cho lão ta một trận, song không được giết hay đả thương đấy nhé.
Thủ pháp Di Hồn của Ải Thần Quân đã đến mức tuyệt đỉnh, chỉ cần dùng âm thanh cũng có tác dụng. Vì thế, Nhương Thư tuân mệnh ngay, bất ngờ nói:
- Thôi được! Tại hạ đồng ý giao đấu, nếu thua sẽ từ bỏ danh hiệu Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách!
Nói xong, chàng xách kiếm tung mình hỏi lan can, rơi xuống vườn hoa. Chàng mặc võ phục toàn trắng, áo choàng vàng nhạt, tư thế hạ thân đẹp như thiên thần giáng hạ.
Hồng Diện Tôn Giả bối rối:
- Quỷ quái thực! Sao y đang hòa hoãn lại đổi thái độ quyết liệt nhanh như thế nhỉ? Phải chăng y sợ nói nhiều sẽ lộ? Nhưng ánh mắt y rất thành thực cơ mà?
Trong tâm trạng hoài nghi, Hoàng Tôn Giả nhẩy xuống vườn, đứng đối diện với Tần Nhật Phủ. Họ Tần cung kính ôm kiếm chào theo thế Đồng Tử Bái Quan âm rồi xuất thủ.
Hồng Diện Tôn Giả chẳng hể khách sáo, dồn công lực vào đôi ray áo lụa, quét những đòn như búa bổ, quyết bắt đối thủ thi triển hết sở học.
Sau khi bại dưới tay Phật Đăng Thượng Nhân, Tôn Giả tự hiểu rằng trong nghề đánh kiếm, mình suốt đời chẳng bằng được Thượng Nhân. Ông dồn hết sức khổ luyện công phu Thiết Tu Thần Quyền đặc dị, đạt đến mức đại thành.
Đôi ống tay áo dài thượt của Tôn Giả chứa đầy âm kình, có thể đả thương người và đoạt lấy vũ khí. Cùng phối hợp với phép đánh Thiết Tu, song quyền của Hoàng lão cũng biến hóa và cương mãnh tuyệt luân. Có quyền tất có cước, những cú đá của Tôn Giả cũng biến hóa và nặng nghìn cân.
Hoàng lão lại sở hữu đến bẩy mươi năm chân khí, hơn hẳn Tần Nhật Phủ nên ngay chiêu đầu đã chiếm thượng phong.
Họ Tần nghe thân kiếm chấn động mạnh khi chạm vào tay áo đối phương, lòng thầm kinh hãi, vội dở phép khoái kiếm ra đòn như bảo táp mưa sa.
Đối với người kiếm sĩ, kiếm thuật chính là bản năng thứ hai. Họ luyện đi, luyện lại trong suốt nhiều năm ròng, chiêu thức, đường gươm in sâu vào tiềm thức, không chỉ là ký ức nữa.
Do ảnh hưởng của phép Di Hồn, Nhương Thư hầu như đã quên hết Phật Đăng Kiếm Pháp và nhớ rất rõ Huyền Không Kiếm Pháp của Sấu Tiên. Nhưng hôm nay, gặp phải đại kình địch là Hồng Diện Tôn Giả, pho kiếm mới luyện mấy tháng kia dường như không đủ. Khi thi thố hết tám mươi mốt chiêu gốc mà vẫn bị áp đảo, Nhương Thư xử dụng yếu quyết chữ Tùy, từ căn bản biến hóa thành ngàn chiêu thức.
Chính trong lúc này, tiềm thức manh nha phát lộ, sở học bao năm từng giọt nhỏ ra, hòa với vốn liếng mới thành một loại kiếm pháp tuyệt diệu, hòa hợp giữa Phật và Đạo.
Sấu Tiên vốn là một đạo sĩ theo học thuyết Lão Trang, còn Phật Đăng Thượng Nhân là cao tăng cửa phật.
Phật Đăng Kiếm Pháp chỉ đóng góp phần kiếm ý nên kiếm ảnh không mang hình ngọn lửa, khiến người ngoài chẳng nhận ra, trừ Ải Thần Quân.
Lão ngơ ngác nhìn con nuôi múa kiếm, gãi đẩu lẩm bẩm:
- Hay thực! Thì ra tiểu tử này vẫn chưa quên nghề cũ, phối hợp với nghề của ta thành một thứ kiếm pháp có một không hai.
Quả đúng như vậy, càng đánh lâu Nhương Thư càng đạt đến mức thâm huyền, trường kiếm trên tay tuy chỉ một mà trông như bẩy, hư thực khôn lường, mỗi nhát điểm đều nhắm vào đúng sơ hở trong lưới quyền của đối phương.
Hồng Diện Tôn Giả không có ý làm hại chàng trai trẻ, song vì chút hiếu thắng của con nhà võ, cũng dồn hết sức già mà chiến đấu.
Song tụ của Hoàng lão bay lượn như Thần Long, quét ra những đạo kình lực thôi sơn, vù vù xé không gian và thổi tung những chiếc lá khô trên mặt cỏ hoa viên.
Thực khách chia làm hai phe mà cổ vũ cho gà nhà. Giọng ồm ồm là của đám nam nhân ủng hộ Tôn Giả, giọng trong trẻo, thánh thót thuộc về đám thiếu nữ si tình.
Hồng Diện Tôn Giả, sau ngàn chiêu, đã mơ hồ nhận ra kiếm ý của Phật Đăng Kiếm Pháp, lòng càng bán tính bán nghi. Ông tự nhủ:
- Muốn biết giả chân, chỉ còn cách dụ Tần Nhật Phủ về Lạc Dương. Sơn nhi là người đầu ấp tay gối tất sẽ phân biệt được.
Nghĩ thế nên ông quạt mạnh một đòn, đẩy lùi đối thủ rồi nói:
- Khoan đã! Lão phu muốn đặt cược!
Tần Nhật Phủ đình thủ, hòa nhã đáp:
- Xin tiền bối cứ dạy.
Hoàng lão cười nhạt:
- Chẳng cần đánh nhiều cho mệt xác. Lão phu chỉ dùng ba chiêu cũng đủ khiến ngươi phải rơi kiếm. Lúc ấy, phiền ngươi đi theo lão phu đến Lạc Dương một chuyến.
Tần Nhật Phủ không hiểu mục đích của Tôn Giả nên phân vân bất quyết. Ải Thần Quân thì nghĩ rằng:
- Xem ra, lão quỷ già họ Hoàng đã sinh nghi, muốn đưa Nhương Thư về cho con gái kiểm tra. Thế cũng hay, lão phu sẽ đi theo hí lộng cho các ngươi điên đầu. Vả lại, đã đến lúc để Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách trổ thần oai đánh Đông dẹp Bắc, lưu danh muôn thuở, ở đây mãi với đám gái tơ kia cũng chán.
Thần Quân đã dùng Di Hồn Đại Pháp moi sạch quá khứ của Nhương Thư nên biết rõ cuộc đời chàng. Còn cục diện võ lâm thì lão nghe ngóng mấy tháng nay cũng hiểu khá nhiều.
Đã quyết định như vậy nên Ải Thần Quân truyền âm:
- Con cứ đáp rằng dù thắng hay bại cũng vẫn theo lão đi Lạc Dương.
Nhương Thư thoáng rùng mình, may mà hoàng lão không nhận thấy. Chàng ôn tồn đáp:
- Vãn bối xin tuân mệnh lãnh giáo thêm ba chiêu, dù kết quả thế nào cũng xin theo tiền bối đi Lạc Dương. Vãn bối từ lâu đã mến mộ phong cảnh cố đô của nhà Thương.
Hồng Diện Tôn Giả sửng sốt nghĩ:
- Quỷ thực! Sao gã lại dễ dãi đến thế nhỉ?
Ông gượng cười:
- Té ra lão phu bất chiến tự nhiên thành! Nhưng đã lỡ nói ra thì cũng phái đánh! Ngươi cẩn thận đấy.
Dứt lời, lão ập đến, song tụ hóa thành đám mây xanh bao trùm lấy đối phương. Đây chính là chiêu Thiên Trụ Hóa Vân, tuyệt kỹ thủ mạng của Tôn Giả. Chẳng phải thứ mây mềm mại vẫn lơ lửng trên trời, mà là cơn bão mạnh liệt có thể nghiền nát bao người.
Chiêu thức võ học nào cũng có sơ hở, song mầu sắc và sự mềm mại uyển chuyển của đôi dảy tay áo đã che kín chỗ nhược, khiến đối thủ chẳng thể nhìn ra.
Nhương Thư dù thông minh tuyệt thế, kiếm thuật siêu phàm cũng nhất thời rơi vào cảnh lúng túng trước chiêu thức kỳ ảo này. Chính Ải Thần Quân cũng hoang mang, lo sợ cho nghĩa tử.
Muốn đối phó, Nhương Thư chỉ còn cách liều mạng hoặc né tránh. Song chàng đã nhận lời tiếp chiêu nên không thể thi triển Cửu Huyền Thân Pháp bỏ chạy. Trong lúc cửu tử nhất sinh ấy, tiềm thức Nhương Thư bỗng hé mở. Chàng từng đối mặt với những chiêu chưởng khủng khiếp của Độc Biển Thước nên kinh nghiệm chẳng thiếu, và sự hiểm nguy trước mắt đã đánh thức bản năng sinh tồn.
Nhương Thư bất giác phản ứng một cách máy móc, đề khí bay vút lên cao, rồi chúc đầu xuống, thân kiếm rung động hàng ngàn lần, kiếm ảnh xòa rộng như chiếc ô, mũi kiếm điểm nhanh tợ mưa rào.
Đây vốn là chiêu Ngọa Thanh Giáng Vũ (Ngọc Hoàng làm mưa) trong Huyền Không Kiếm Pháp, song không phải chiêu ngự kiếm trong khoảng cách gần. Chẳng qua Nhương Thư được chân truyền của Phật Đăng Thượng Nhân nên mới nắm được yếu quyết Bất Nhị, chẳng xa, chẳng gần.
Ngay Sấu Tiên sống lại mà chứng kiến cảnh này cũng phải phục lăn. Điều ấy chứng tỏ sở đắc kiếm đạo của Phật Đăng Thượng Nhân chẳng kém cổ nhân. Bởi ông là đệ tử phật môn, kiếm pháp thiếu phần sát khí, chịu kém Sấu Tiên thế thôi.
Tiết diện càng nhỏ thì áp xuất càng mạnh, kình lực tập trung ở mũi kiếm nhọn đã đâm thủng được lực đạo tản mác trên diện rộng của tay áo, phát ra những âm thanh xoèn xoẹt như xé lục.
Hồng Diện Tôn Giả không muốn đồng quy ư tận với kẻ có thể là rể của mình, đành phải đảo bộ rời xa vị trí cũ, bỏ dở chiêu thức.
Khách quan chiến reo hò, hoan hô Tần Nhật Phủ khiến Hồng Diện Tôn Giả hơi bẽ mặt.
Ải Thần Quân yêu mến Nhương Thư nên quên đi mối hận với Hồng Diện Tôn Giả, nếu không đã xúi chàng thi thố Lục Mạch Thần Chỉ.
Thấy đánh mãi không chừng có máu đổ, Thần Quân liền truyền âm:
- Phủ nhi hãy nhận bại và đi theo Hồng Diện Tôn Giả.
Nhương Thư ngoan ngoãn vâng lời, tra kiếm vào vỏ, vòng tay nói:
- Vãn bối tự lượng không tiếp nổi hai chiêu nữa, xin tiền bối tha cho.
Hoàng Huy Do chưng hửng, song cũng thừa cơ vớt vát thể diện:
- Tốt lắm! Ngươi quả là kẻ thức thời! Hãy mau về khách điếm thu xếp hành lý.
Các nàng nhao nhao bàn tán nhưng không dám mở miệng phản đối, ả nào rảnh rang thì cấp tốc về nhà, xách tay nải đi theo người trong mộng. Tổng cộng chỉ có sáu nàng nữ hiệp đất kinh đô may mắn được tháp tùng.
Đoàn người rầm rộ rời Bắc Kinh trong ánh mắt luyến tiếc, sầu khổ của không ít hoàng hoa khuê nữ.
Hồng Diện ngao ngán trước cảnh phong lưu, lăng nhăng quá mức của Tần Nhật Phủ liền mỉa mai:
- Ngươi lập chí dương danh thiên hạ, gẩy dựng sự nghiệp anh hùng mà lúc nào cũng cặp kè xử nữ thì làm sao thành công được?
Tần Nhật Phủ đáp đúng như ý Ải Thần Quân:
- Trai anh hùng năm thê bẩy thiếp, cổ kim điều thế, có gì phải sợ, vả lại, họ quyết chí đi theo, làm sao vãn bối xua đuổi được?
Tôn Giả cười nhạt:
- Thê thiếp thì chẳng đáng nói. Còn ngươi dùng vẻ anh tuấn mê hoặc rồi chiếm đoạt, sao đáng gọi là hiệp khách?
Sáu nàng kia liền phản ứng ngay, một ả tủm tỉm nói:
- Lão tiền bối sai rồi! Tần công tử đây là bậc chính nhân, định lực như núi Thái, chưa hể động tâm trước sắc dục.
Hoàng lão ngơ ngác:
- Thực thế sao? Lão phu theo dõi mấy đêm liền, thấy các ngươi nhẩy qua cửa sổ vào ngủ với gã mà?
Bọn mỹ nữ thẹn đỏ mặt, có kẻ phổi bò mở miệng than:
- Có được nước mẹ gì! Chàng ta cứ trơ như gỗ, chỉ ngắm nhìn và ôm lấy mà ngũ ngon lành.
Tôn Giả kinh hãi:
- Chẳng lẽ y bị liệt?
Ả nữ hiệp ít học kia bực bội:
- Chàng ta mà bị liệt thì còn đỡ tức. Y dương buồm lên mà chẳng làm gì, cứ như mèo chê chuột hôi vậy.
Cách ví von ngộ nghinh đã khiến Tôn Giả không nín được cười. Ông vỗ vai Nhật Phủ khen:
- Khá thực! Không ngờ ngươi lại có định lực thâm hậu như vậy!
Mối nghi hoặc lớn lên, ông tò mò hỏi:
- Nhưng tại sao ngươi lại giới sắc như một nhà sư vậy?
Nhật Phủ cũng không hiểu tại sao, bâng khuâng nói:
- Có lẽ vãn bối ngại câu Tiền Dâm Hậu Thú.
Sáu nàng mừng rỡ lên tiếng:
- Thì công tử cứ cưới quách bọn thiếp đi.
Nhật Phủ chỉ cười mà không nói năng gì cả.
Trên đường đi, Tôn Giả sóng ngựa cạnh họ Tần, giả đò đem giáo nghĩa nhà phật cùng kinh điển Đại Thừa ra bàn luận, lão thất vọng khi chàng chẳng biết gì cả.
Chữ nghĩa, ý niệm thuộc về ký ức nên đã bị xóa đi, song việc tuân thủ ngũ giới lại là hành vi được thực hiện qua nhiều năm, trở thành bản ngã, chính vì thế, Nhương Thư dẫu động tình cũng không sa đọa.
Tóm lại, giờ đây trong chàng hiện diện đến hai nhân cách, một nhà sư và một chàng hiệp khách phong lưu.
Chiều hôm ấy họ đã rời xa Bắc Kinh trăm dặm, ghé trấn Lũy Sơn nghĩ ngơi ở Tùng Hoa Lữ Điếm.
Ải Thần Quân thì trọ trong quán đối diện, trù tính kế hoạch chọc ghẹo thiên hạ.
Sống cô đơn suốt mấy chục năm dài, Thần Quân đã có thói quen độc thoại:
- Không ngờ sáu ả quỷ cái kia lại mặt dầy mày dạn bám theo Nhương Thư. Tư chất chúng đều tầm thường, không xứng làm dâu của lão già này. Có lẽ phải tách họ ra mới được. Hơn nữa, lão quỷ họ Hoàng tâm cơ sắc bén, gần gũi Nhương Thư lâu ngày e sẽ khám phá ra. Vỡ tuồng ngắn quá thì mất hay.
Tuổi Ải Thần Quân đã hơn chín chục nhưng thân xác chẳng già nên tâm hồn cũng rất trẻ con, đầy ắp những ý nghĩ tinh quái. Vả lại, ông tu đạo Lão Trang, xem trọng tính cách thiện chân, hồn nhiên, càng đắc ý với lời trong Đạo Đức kinh: Năng Anh Nhi Hồ! (Trở thành trẻ thơ)
Ông suy nghĩ thêm một lúc, hớn hở vỗ đùi:
- Tuyệt diệu thực! Có thế mà ta nghĩ mãi mới ra.
Đêm hôm ấy, Thần Quân âm thầm tìm đến phòng của Nhương Thư. Do có mặt của Hồng Diện Tôn Giả nên sáu nàng kia không dám dở trò ong bướm, trèo trường vượt cửa.
Với bản lãnh hiện tại của Ải Thần Quân thì Nhương Thư chẳng thể nào phát hiện được. Lão già trẻ con kia thi triển Di Hồn Đại Pháp xong liền chuồn thẳng. Sáng ra, Hồng Diện Tôn Giả và sáu nàng kia phát hiện Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách đã biến mất.
Hoàng lão giận dử chửi rủa um sùm:
- Tiểu quỷ này tâm địa phức tạp, hành dộng bất thường khiến lão phu không sao hiểu nổi. Con bà nó! Lần sau lão phu phải gông cổ y mà dắt đi cho chắc ăn!
Sáu ả hiệp nữ đất Bắc Kinh sụt sùi khóc như cha chết, thu xếp tay nải lủi thủi trở về cố quận.
Hồng Diện Tôn Giả quyết định xuôi Nam, trước là thăm Thúy Sơn, sau cùng bọn Vô Ưu Cái nghiên cứu hiện tượng Tần Nhật Phủ.
Ông không biết rằng mình đã đi trước Nhương Thư, vì lúc này chàng đang có mặt ở một nếp nhà tranh ngoài cửa Bắc trấn.
Chàng đã mua xe ngựa, xuống vịn cổng rào báo danh:
- Tại hạ là Tần Nhật Phủ từ đất Trường Trị đến xin bái kiến.
Liếp tre mở rộng, một nàng thôn nữ áo xanh xuất hiện, e thẹn nghiêng mình chào khách. Y phục nàng hơi lụng thụng, cứ y như đi mượn vậy!Nàng ta bước ra mở cộng, dáng đi ngượng ngập, chẳng lấy gì làm yểu điệu hay thướt tha.
Nàng thỏ thẻ:
- Tiểu muội Tần Thế Lan xin ra mắt biểu huynh! Mời biểu huynh vào tệ xá dùng trà.
Thế Lan có dung mạo dễ nhìn, da rám nắng vì việc đồng áng, bàn tay cũng ngắn và thô. Còn giọng nói thì trong trẻo, song đôi lúc hơi the thé.
Thấy nàng bước đi hơi khó khăn, Nhương Thư cau mày hỏi:
- Chân của biểu muội bị sao vậy?
Thế Lan không quay lại nên chàng không nhận ra đôi tròng trắng kia đảo liên đảo lộn. Nàng vui vẻ giải thích:
- Hôm qua, tiểu muội vấp ngã nên chân hơi đau, chỉ vài ngày sau là hết thôi.
Thế Lan mời khách ngồi xuống chiếc đôn gỗ xấu xí, cạnh chiếc bàn mộc thô sơ, rồi rót trà.
Nhương Thư đảo mắt quan sát những vật dụng rẻ tiền, nghèo nàn trong nhà, lòng dâng lên niềm thương xót. Chàng nhấp hớp trà rồi nghiêm nghị nói:
- Lan muội! Thân phụ ta từ trần đã chín năm. Trước khi mất người có nói việc hôn ước giữa ta với nàng. Nay nàng cũng mồ côi không nơi nương tựa, hãy đi với ta, sang năm về Trường Trị làm lễ thành hôn.
Thế Lan ngượng ngùng cúi mặt:
- Tiểu muội xấu xí thế này làm sao sánh duyên cùng bậc tài mạo như biểu ca. Thôi thì biểu ca cứ xem như việc chỉ phúc vi hôn ngày xưa là chuyện đùa vậy.
Nhương Thư nghe giọng nghẹn ngào vô cùng bất nhẫn, khẳng khái nói:
- Nàng chẳng hề xấu xí và ta đã quyết làm theo di mệnh của phụ thân. Nguyện suốt đời yêu thương nàng.
Thế Lan thở dài, nhìn chàng bằng ánh mắt u ẩn:
- Biểu ca đã có lòng thương, tiểu muội chẳng dám không tuân mệnh. Xin chờ tiểu muội thu xếp hành lý.
Nàng vào trong, lát sao trở ra với tay nải nhỏ, nhìn cỗ xe độc mã, nàng tủm tỉm cười:
- Sao biểu ca biết tiểu muội đau chân mà đem xe đến rước?
Nhương Thư ngẩn người, chẳng biết đáp thế nào. Chàng đánh xe quay lại trấn Lũng Sơn mua sắm y phục mới cho vị hôn thê. Chàng càng thương cảm khi thấy Thế Lan vì nghèo khổ quê mùa mà không biết bới tóc và tai chẳng có lỗ để đeo bông.
Nhương Thư tiếp tục đi về hướng Nam vì nơi ấy đang xảy ra cuộc chiến quyết liệt giữa hai phe chính tà. Tất nhiên ý định này là do Ải Thần Quân mớm cho chàng.
Dọc đường thiên lý, Nhương Thư ân cần trò chuyện với Thế Lan để nàng vơi đi mặc cảm. Chàng không nhận ra việc giọng nói kia càng ngày càng dễ nghe và dáng đi của Thế Lan cũng vững vàng hơn.
Y phục đẹp và son phấn đã làm Thế Lan thêm mặn mà. Lúc đến thành Bảo Định, nàng đã vào tiệm bán nữ trang để nhờ xỏ lỗ tai và mua thêm vài cặp bông.
Tình cảm ngày càng đâm chồi nẩy lộc trong tim Nhương Thư. Song không phải vì nhan sắc mà vì tính tình hoạt bát vui vẻ và đầu óc thông tuệ, tinh minh của nàng.
Một hôm chàng bảo:
- Ta tuy giỏi võ nhưnh cơ trí mộc mạc, không bằng một nửa của nàng. Hay là ta truyền lại võ công để vợ chồng sánh vai hành hiệp?
Thế Lan phì cười:
- Tiểu muội luyện tuyệt học họ Tần từ thuở lên bốn, chắc gì biểu ca tinh thông hơn được? Tiểu muội chỉ kém phần công lực mà thôi.
Nhương Thư mừng rỡ:
- Thế thì hay lắm!
Từ ấy, hai người say sưa bàn luận về Huyền Khôn Kiếm Pháp, và Nhương Thư phải đê đầu bái phục vì Thế Lan đã đạt đến mức uyên thâm nhất, dạy lại cho chàng.
Trong sinh hoạt, hai người cũng rất tương đắc. Phương Bắc lạnh lẽo nên Thế Lan uống rượu rất khá, hơn cả Nhương Thư. Chàng vốn thích trà nhưng chiều ý ái thê, thường cùng nàng đối ẩm.
Có lần ghé quán trọ dọc đường, chỉ còn một phòng nên Nhương Thư đề nghị ngủ chung. Thế Lan biến sắc nghiêm giọng:
- Tiểu muội tuy quê mùa nhưng cũng biết lễ nghĩa, chẳng dám phá hoại gia phong họ Tần. Trước khi thành hôn, chúng ta không thể quá gần gũi được.
Nhương Thư vô cùng khâm phục tiết hạnh của Thế Lan, lủi thủi ôm chăn ra xe ngủ.
Ở đây, Thế Lan thở phào che miệng cười hăng hắc:
- Phải nghiêm khắc như thế mới được, nếu không có ngày y đè lão phu ra thì nguy to.
Vậy là đã rõ ngay gian, Thế Lan chính thị là lão già tinh quái Ải Thần Quân. Tần Nhật Phủ muốn được kề cận Nhương Thư cho vui nên đã nghĩ ra trò giả gái và dùng tà pháp khiến chàng tưởng mình có hôn ước với cô em họ.
Thần Quân vốn khéo tay nên mới học được nghề giải phẩu của Ba Tư, bởi thế, việc đẽo gọt một đôi chân giả bằng gỗ chẳng khó gì. Chỉ khó ở chỗ làm quen với thứ đồ giả cứng ngắc ấy mà thực hiện những bước đi yều điệu của nữ nhân. Ngay giọng nói và cách nói cũng không phải dễ học ngay được, phải có thời gian.
Trong nghề dịch dung, khó khăn nhất là biến thành người khác phái. Do cấu tạo cơ thể hoàn toàn khác biệt to nhỏ, cao thấp chẳng đồng. Nếu gặp kẻ tai vểnh, lộ hầu hoặc hàm răng khểnh thì bố ai mà giả nổi?
Thế cho nên, khi tác giả đọc sử võ lâm xứ Đại Lý, đến đoạn con rơi của Đoàn Chính Thuần là A Châu cô nương, bị Kiều Phong giết oan, liền đấm ngực kêu trời, tức như bị bò đá:
- Thật hoang đường, hai gã này mù dở nên mới để A Châu qua mặt.
Chuyết thê đang nấu bếp, nghe vậy liền cười hì hì:
- Bản chất của sử võ lâm là phi lý hoang đường. Tướng công giận làm gì cho mệt xác! Hơn nữa, thiếp thấy những điều tướng công chép lại còn tệ hơn thế!
Tác giả hổ thẹn cười xòa:
- Lão phu chỉ noi gương tiền bối, góp nhặt dông dài để kiếm cơm qua ngày thôi mà bà!
Đầu trung tuần tháng năm, cỗ xe độc mã của Nhương Thư đi vào Thạch gia trang, ghé một tửu lâu dùng bữa.
Tiếng đôi bàn chân gỗ gõ trên bậc cầu thang nghe hơi lạ, nhưng chẳng ai để ý đến. Cùng lắm thì người ngoài cũng chỉ tưởng nữ lang trường bào lam kia đi loại giày vải đế gỗ.
Riêng Ải Thần Quân thì áy náy, quyết sửa lại sao cho hoàn bị hơn. Có lẽ phải tạo khớp di động ở cổ chân mới được.
Hai người chọn một bàn gần lan can hướng Nam để hứng chút gió Nam. Người có danh như cây có bóng, khi Tần Nhật Phủ gỡ chiếc nón rộng vành ra, để lộ đôi lông mày kép có một không hai, gã tiểu nhị thảng thốt rú lên:
- Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách!
Gã cũng biết hành động của mình là thất lễ, liền khom lưng vái dài, miệng cười toe toét:
- Mong đại hiệp lượng thứ cho tiểu nhân. Từ ngày người chặt tay Hổ Đầu Đao Trịnh Bách Liên, phá tan Hổ Đầu Bang, các hiệu buôn trong thành không còn phải è cổ nộp thuế bảo kê nên ai cũng xem đại hiệp là ân nhân!
Thế là thực khách trên lầu xôn xao hẳn lên, và chỉ lát sau cả thành biết việc Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách giá lâm.
Các tài chủ vội vã gom góp lễ vật, cử đại diện dâng tặng cho đại ân nhân.
Tần Nhật Phủ cau mày ái ngại nhưng Tần Thế Lan mặt hoa rạng rỡ, tiếp nhận tất cả. Nàng còn khéo léo dương danh chồng:
- Năm nay Thiểm Tây gặp đại họa, bách tính lâm cảnh khốn cùng, chuyết phu lòng đau như cắt, quyết cứu tế nạn dân, vì thế tiện thiếp mới dám nhận sự đóng góp của chư vị.
Thế là Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách lại được thêm cái tiếng nhân nghĩa ngút trời, người người ca tụng.
Khách rút rồi, Nhật Phủ nói:
- Có thực là Thiểm Tây đang hạn hán chăng?
Nàng nheo mắt cười mỉm chi:
- Tiểu muội xem thiên văn biết chắc đất Thiểm không một giọt mưa.
Nhật Phủ hiền như bụt nên tin ngay, tư lự bảo:
- Nếu thế thì ta sẽ bán hết châu báu, đem đến Trường An giao cho Tri Phủ Thiểm Tây mua lương thực chẩn tế tai dân.
Thế Lan cười hơi méo:
- Triều cương lỏng lẻo, tham quan đầy dẫy, biểu ca làm thế chỉ e bách tính chẳng được miếng nào. Hay là chúng ta cứ đến Lạc Dương kêu gọi thêm lòng hảo tâm rồi đi Thiểm Tây đích thân phát chẩn.
Nhật Phủ nghe có lý, hớn hở tán thành, vì từ Hoa Bắc đi Trường An phải vược cao nguyên Sơn Tây, đường xá gập ghềnh bất tiện, còn từ Lạc Dương thì quan đạo rộng thênh thang.
Do sự tiếp kiến cái tài chủ nên bữa ăn của họ kéo dài, vừa xong lại phải hầu chuyện với chủ nhân tửu lâu. Trong lúc ấy, có thêm tám người khách nữa lên đền, chính là bọn Bạch Thúy Sơn. Họ mới tới nên không ngờ mục tiêu của mình đang hiện diện nơi đây.
Thạch gia trang gần như nằm giữa Lạc Dương và Bắc Kinh nên hai phe chạm mặt nhau chốn này.
Đi cùng Thúy Sơn có Bất Trí Thư Sinh, Thiết Kình Ngư và năm gã Lô Châu Ngũ Tặc.
Thúy Sơn toàn thân bạch y, khăn cột đầu cũng một màu tang tóc, tuy Cao lão luôn khẳng định Nhương Thư còn sống song lòng nàng đã chết tự bao giờ. Gương mặt hoa kiều diễm kia giờ đây héo úa, xanh xao, ánh mắt đầy vẻ muộn phiền.
Nhờ được phương thần hiệu của Bất Trí Thư Sinh mà ngực nàng đã phát triển hơn xưa, gần như một phụ nữ bình thường. Song điều này chỉ gây thêm nỗi xót xa trong lòng người góa phụ. Nàng thường xoa ngực mình mà chua xót, tự hỏi cái đẹp này phỏng có ích gì khi tình lữ chẳng còn.
Tây Thi đau bụng nhăn mặt mà vẫn đẹp, do vậy, dung nhan ảo não của Thúy Sơn cũng khiến lòng người mê mệt. Bọn thực khách len lén liếc nàng chứ không dám nhìn thẳng vì sợ vẻ mặt cô hồn của Thiết Kình Ngư Tào Ưng và Ngũ Tặc.
Bởi mãi ngắm nàng nên tiếng chuyện trò chuyện vắng đi, chỉ còn lại cuộc đàm đạo ở góc hướng Nam, của chủ quán và Tần Nhật Phủ. Bất Trí Thư Sinh nghe được, đứng lên nhìn, phát hiện một chàng công tử có một đôi lông mày kép.
Ông mừng rỡ bảo Thúy Sơn:
- Bạch hiền muội! Thật là may cho chúng ta, Tần Nhật Phủ đang có mặt nơi này.
Thúy Sơn giật mình, mắt lóe sáng những tia hy vọng. Song chẳng lẽ đường đột đến nhìn mặt đối phương nên vẫn ngần ngừ.
Thiết Kình Ngư nóng nẩy nói:
- Để ta.
Gã đứng lên, chậm rãi bước đến bàn của họ Tần, vòng tay nói:
- Tại hạ là Thiết Kình Ngư Tào Ưng hân hạnh được diện kiến Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách! Từ lâu thanh danh của đại hiệp như sấm rền bên tai Tào mỗ.
Vừa nói, gã vừa dán mắt vào mặt đối phương, mong tìm ra những nét thân quen. Tiếc thay, trên vành tai trái kia chẳng hề có nốt son nhỏ nào và ánh mắt họ Tần cũng dững dưng lạ lẫm.
Tần Nhật Phủ thủ lễ:
- Tại hạ mới xuất đạo, hiệp tích chẳng bao nhiêu, không dám nhận tiếng đại hiệp. Mời Tào huynh an tọa.
Và chàng giới thiệu vợ mình:
- Đây là Tần Thế Lan biểu muội, vị hôn thê của tại hạ.
Người lùn, dù nối thêm chân thi khi ngồi vẫn để lộ sự thiếu thước tấc của thân trên. Do vậy Ải Thần Quân thường lén đặt tay nải xuống mặt ghế rồi ngồi lên.
Có tật giật mình, lão không dám đứng dậy, chỉ gật đầu chào Tào Ưng. Thái độ này khá ngạo mạn khiến họ Tào phật ý.
Lão chủ nhân tửu lâu xin phép rút lui để Tần Nhật Phủ tiếp khách. Họ Tần hơi nhột nhạt trước ánh mắt soi mói của Tào Ưng, liền hỏi:
- Chẳng hay Tào túc hạ có điều cho muốn dạy bảo Tần mỗ?
Tào Ưng đã có chủ ý:
- Bọn tại hạ thừa lệnh hội đồng võ lâm ngược Bắc tìm Tần đại hiệp để thương lượng đại sự giang hồ. Để tại hạ mời người có thẩm quyền là Bất Trí Thư Sinh Cao Trường Toản sang cùng Tần đại hiệp bàn bạc.
Gã đứng lên vẫy, Cao lão và Thúy Sơn rời bàn đi đến.
Cũng như Tào Ưng, hai người này dương mắt nhìn, cứ như muốn lột da mặt Tần Nhật Phủ ra vậy.
Ải Thần Quân đắc ý thầm:
- Lão phu đã ra tay thì làm sao các ngươi khám phá nổi chân tướng. À! Con dâu của ta cũng xinh đẹp đấy chứ?
Lão làm chủ ký yức ny nên biết rõ Nhương Thư nên biết rõ Bạch Thúy Sơn, xem nàng là dâu của mình.
Chào hỏi xong, Cao Trường Toản đi vào việc chính, trình bày đại cục võ lâm hiện nay, mời mọc Tần Nhật Phủ về Lạc Dương tham gia sự nghiệp giáng ma.
Xứng danh nhân hiệp, Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách trầm ngâm đáp:
- Việc giáng ma vệ đạo là bổn phận của người học võ, song tại hạ còn phải đi Thiểm Tây chẩn tế tai dân đang lâm cảnh đại hạn, xong việc mới có thể chuyên tâm lo việc võ lâm được.
Bất Trí Thư Sinh kinh ngạc:
- Việc hạn hán ở vùng cao nguyên Hoàng Thổ chỉ bắt đầu vào cuối tháng này, lão phu nhờ xem thiên tượng mà đoán ra, sao Tần thiếu hiệp cũng biết?
Nhương Thư thật thà đáp:
- Tại hạ nào có tài cán gì mà tiên đoán được thiên tai, việc này do chuyết thê chỉ giáo đấy thôi.
Ải Thần Quân chột dạ than thầm:
- Kẻ đại trí cũng có lúc sơ xuất. Thế nào lão họ Cao này cũng nghi ngờ lão phu.
Quả thực vậy, Bất Trí Thư Sinh nhìn Thế Lan bằng ánh mắt sắc như dao, hờ hững nói:
- Té ra phu nhân đây là bậc kỳ nữ tài hoa quán thế, tinh thông cả thuật thiên văn, lão phu xin đê đầu bái phục.
Ải Thần Quân nghe nhột nhạt khắp người, ngượng ngùng cúi đầu giả đò thẹn thùng.
Cao lão bỗng nói tiếp:
- Chẳng hay nàng quê quán ở đâu, hậu duệ của bạc cao nhân nào? Thú thực là dung mạo của nàng, lão phu trông có nét quen quen.
Ải Thần Quân bấm bụng đáp bừa:
- Tiện thiếp là biểu muội của Tần tướng công, cũng quê đất Trường Trị Sơn Tây, song đã dời nhà về trấn Lũng Sơn, phía Nam thành Bắc Kinh, hồi hai mươi năm trước. Còn dung mạo thì tiện thiếp chẳng giống Tần tướng công là gì?
Đúng là lão đang dùng mặt thật, còn Nhương Thư là hóa thân, có không ít nét tương đồng.
Tuy nghi ngờ nhưng Cao Trường Toản chẳng thể đoán ra ẩn tình vì đôi lông mày kép đã chuyển vị trí rất là tinh xảo, không một chút sẹo mờ. Đây là y thuật độc môn của xứ Ba Tư nên người Trung Hoa có nằm mơ cũng không nghĩ đến.
Nhưng Ải Thần Quân chợt lo lắng hơn khi thấy Nhương Thư bắt đầu bị cặp mắt huyền sâu thẳm của Bạch Thúy Sơn thu hút. Lão liền kiếm cớ hoãn binh:
- Trời đã chiều, bọn tiện thiếp xin phép về khách điếm nghỉ ngơi, hẹn gặp chư vị sáng mai, cũng tại nơi này. Lúc ấy, Tần đại ca sẽ có lời phúc đáp.
Bị đuổi khéo, phe Thúy Sơn đành phải cáo từ, trở về bàn mình. Ở đây, vợ chồng Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách cũng gọi tiểu nhị tính tiền. Tất nhiên lão chủ quán xua tay từ chối rối rít, lại còn ân cần mời khách cứ việc giá lâm.
Bất Trí Thư Sinh nhìn theo dáng đi của Tần Thế Lan, song không phát hiện được quái sự. Thực ra, Ải Thần Quân đang toát mồ hôi dồn sức cho từng bước đi, cố qua mắt đối phương.
Hai người lên xe ngựa, đi thêm một đoạn để vào trọ trong Hà Gia đại lữ điếm.
Thế Lan ngồi trong phòng mình suy nghĩ:
- Nếu cứ đế Thư nhi giữ mãi tính cách trung hậu, nhân nghĩa thì trước sau gì cũng lộ. Ta phải biến y thành kẻ cao ngạo, khó gần gũi thì mới mong kéo dài được vỡ diễn này.
Đêm ấy, Ải Thần Quân thi triển Di Hồn Đại Pháp đến mức chót, cố in sâu vào tâm trí Nhương Thư những nét nhân cách mới.
Khéo quá hóa vụng, sáng hôm sau, Thế Lan sang gõ cửa phòng Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách thì nhận được ánh mắt lạnh lùng, tàn nhẫn và một câu nói rất khó nghe:
- Này Tần biểu muội! Nhan sắc như nàng e không xứng làm vợ ta, hãy nhận lấy ngàn lượng vàng rồi trở lại Lũy Sơn lấy chồng khác cho xong.
Ải Thần Quân tức điên người, song không thể bỏ đi, liền năn nỉ ỉ ôi:
- Tiểu muội biết mình xấu xí, không xứng với biểu ca, nhưng hôn ước đã định, chẳng thể lấy ai khác, chỉ mong biểu ca khai ân nhận tiểu muội làm tỳ thiếp hay tôi tớ cũng được.
May mà Tần Nhật Phủ cũng còn giữ được bản chất anh hùng nên không quá tàn nhẫn, chấp nhận sự xuống nước của vị hôn thê. Gã gật gù bảo:
- Thế cũng được! Nàng mau bưng nước cho ta rửa mặt.
Ải Thần Quân vội tuân lệnh lui ra, vừa giận vừa tứcccười:
- Con bà nó! Đúng là gậy ông đập lưng ông, khiến lão phu phải biến thành nô tỳ.
Vệ sinh, ăn sáng xong, hai người y ước tìm đến Hoa Bắc đệ nhất tửu lâu để gặp bọn Bất Trí Thư Sinh.
Cao lão giật mình trước thần sắc khác lạ cũa Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách! Từ một bậc nhân hiệp khiêm cung, lễ độ, họ Tần trở thành một tên công tử mục hạ vô nhân, ánh mắt lạnh tanh và kiêu căng.
Gã chẳng thèm đáp lễ khi được chào, rồi thản nhiên ngồi xuống ghế, còn Tần Thế Lan khép nép đứng sau lưng chứ chẳng dám an tọa.
Cao Trường Toản thận trọng hỏi:
- Chẳng hay Tần thuộc hạ đã quyết định thế nào?
Tần Nhật Phủ nhếch mép cười ngạo nghễ:
- Tại hạ đồng ý! Nhưng sau khi tại hạ tiêu diệt xong Kỵ Ba Thần Quân và Âm Sơn Lão Tổ, hy vọng hội đồng võ lâm sẽ trao cho chức minh chủ!
Thái độ háo danh vụ lợi này đã làm cho Thúy Sơn biến sắc vì kinh ngạc. Bất Trí Thư Sinh tâm cơ mẫn tiệp, giỏi nghể tùy cơ ứng biến, liền cười khanh khách:
- Lúc ấy thì còn ai xứng với ngôi minh chủ hơn thiếu hiệp nữa?
Cái khôn thì không thể dạy bằng tà pháp được. Do vậy, Tần Nhật Phủ không hề phát hiện điểm lắt léo trong câu nói của đối phương. Cao lão chỉ tán dương chứ không hề hứa hẹn gì.
Tần Nhật Phủ hài lòng đáp:
- Hay lắm! Chúng ta khởi hành ngay thôi.
Bọn Thúy Sơn phải nuốt vội bữa điểm tâm để lên đường.
Cỗ xe của Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách đi trước và xà ích là Thế Lan.
Tám người bọn Thúy Sơn cỡi ngựa theo sau, cách một quãng vừa đủ để bàn bạc.
Tào Ưng hậm hực nói:
- Mẹ kiếp! Gã này thay đổi nhanh như lật bàn tay, chẳng biết đâu mà lần. Nhìn gương mặt gã sáng nay, ta chỉ muốn chém cho một nhát.
Thúy Sơn lên tiếng:
- Lạ thực! Sao y lại hờ hững với cả vị hôn thê như vậy?
Gã thứ năm trong Lô Châu Ngũ Tặc là Đồng Ngũ, hí hững xen vào:
- Thuộc hạ cho rằng đêm qua Tần Nhật Phủ không được ả kia hầu hạ chu đáo nên sáng nay mới gắt như mắm vậy. Đàn ông ai cũng thế thôi. Ả Thế Lan biết lỗi mình nên khép nép như rắn mùng năm, đâu còn oai vệ nữa.
Bạch Thúy Sơn đang rầu rĩ, thất vọng, liền bực bội nạt:
- Ngươi chỉ được cái nói càn, có im đi không?
Phía trước, Ải Thần Quân nai lưng đánh xe, tức tối nghỉ thầm:
- Ta đã quá nặng tay nên phải lãnh hậu quả, Gã khó ưa thế này thì còn gì là anh hùng hảo hán nữa?
Bởi vậy, ngay đêm ấy, lão tiến hành sửa chữa lỗi lầm, vã mồ hôi kiểm tra kỹ lưỡng từng chút một. Nhờ vậy, sáng ra sắc mặt của Nhương Thư đẽ dễ thương hơn, không còn vênh váo như trước nữa. Chàng chủ động chào hỏi với ánh mắt ấm áp khiến bọn Thúy Sơn sửng sốt.
Đổng Ngũ khoan khoái kết luận:
- Chư vị thấy tại hạ có lý hay chưa! Đêm qua Tần Nhật Phủ mây mưa đắc ý nên sáng nay tươi tắn, thân thiện, khác hẳn hôm qua. Y háo sắc thành tật, đêm nào không ái ân là không vui. Xem kia, Nhật Phủ đang ân cần mời vợ y lên xe, không bắt làm xà ích nữa. Còn mặt ả Thế Lan thì phởn phơ, hồng hào, cứ như đóa hoa sau trận mưa xuân vậy.
Thúy Sơn ngao ngán than:
- Ai bảo lòng nữ nhân như biển khôn dò? Cái gã Tần Nhật Phủ này mới đúng là khó hiểu.
Sau đúng năm ngày đường, đoàn người còn cách An Dương hơn trăm dặm. Khi ghé phạn điếm dùng cơm trưa xong, họ lại lên đường, được nửa canh giờ thì đến trấn Hưng Yên.
Tên khất cái đang ngồi dưới gốc cây đầu trấn vội chạy đến chặn đường, hối hả bẩm báo:
- Cao lão tiền bối! Hồng Diện Tôn Giả bị bọn Sơn Hải Bang vây hãm trên đồi Long Bối đã hai ngày nay.
Thúy Sơn biến sắc cướp lời:
- Phe đối phương có cao thủ nào mà lợi hại mà vây được phụ thân ta?
Gã hóa tử nhăn nhó:
- Bẩm phu nhân, đệ tử không rõ, chỉ biết Sơn Hải Bang đông độ hai chục, do Ngọa Long Tú Sĩ và bốn lão già tóc bạc thống lãnh. Họ ghé trấn ăn uống, bàn bạc việc thượng kinh tìm gã Tứ Mi, Tam Nhãn gì đó. Nào ngờ Tôn Giả cũng có mặt trong quán, đứng lên chửi mắng. Hai phe đánh nhau, Tôn Giả kém thế phải bỏ chạy lên đồi Long Bối tử thủ.
Bất Trí Thư Sinh hỏi lại:
- Thế bốn lão già tóc trắng kia xử dụng vũ khí gì?
Gã hóa tử đáp:
- Dạ bẩm: Họ cầm cần câu bằng thép.
Cao lão thảng thốt kêu lên:
- Đài Loan Tứ Ngư Ông! Hèn gì Hồng Diện Tôn Giả không địch lại họ.
Thúy Sơn bẽ mặt càu nhàu:
- Lai lịch bốn lão quỷ ấy thế nào? Tiểu muội có nghe nói đến bao giờ đâu?
Bất Trí Thư Sinh giải thích:
- Họ là huynh đệ đồng môn, tuổi tác đều trên bẩy mươi, hùng cứ đảo Đài Loan, hai chục năm chưa vào Trung Thổ nên hiền muội không biết đấy thôi. Năm xưa, tứ Ngư Ông vào đất liền dương danh, mượn cớ so tài võ học, lần lượt đả thương mấy chục đại cao thủ Trung Nguyên, từ Phúc Kiến đến Hà Nam. Sau đó họ khiêu chiến với Thiếu Lâm Tự, tỷ võ suốt ba ngày, cuối cùng bị các trưởng lão đả thương mới chịu về biển Đông.
Cứu nhân như cứu lửa, Cao Trường Toản vừa phi ngựa vừa kể chứ chẳng phải đứng một chỗ mà cà kê. Nói xong, lão hơi chột dạ trước võ công Tứ Ngư Ông, quay lại nhìn thì thấy cỗ xe của vợ chồng Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách lẽo đẽo phía sau, bèn an tâm một chút.
Đồi Long Bối nằm ở phía Đông trấn, cách độ vài dặm, nên chỉ hơn khác sau, đoàn người đã đến nơi.
Chẳng hiểu ai là người đã đặt cái tên "Lưng Rồng" cho ngọn đồi đầy những quái thạch to lớn này? Đá tảng nằm san sát, cao thấp chẳng đều, các khe mọc đầy cỏ cao hơn đầu người, tạo nên một địa hình tử thủ rất lý tưởng. Chính nhờ thế mà Hồng Diện Tôn Giả lúc ẩn lúc hiện cầm cự với đối phương từ trưa hôm qua đến giờ. Ông đánh không lại nhưng chẳng thèm bỏ chạy, lợi dụng địa thế mà bỡn cợt Đài Loan Tứ Lão.
Thỉnh thoảng Tôn Giả ló ra tập kích vài đòn rồi biến mất trong bụi rậm khiến đối phương tức điên lên được.
Đến nơi, Thúy Sơn cao giọng gọi:
- Sư phụ! Có đồ nhi đến tiếp ứng đây.
Hoàng lão mừng rỡ xuất hiện, đứng trên tảng đá cao nhất cười ha hả:
- Hay lắm! Có các ngươi hợp lực, lão phu sẽ vặt lông bốn lão ngư phủ mạt hạng của đảo Đài Loan.
Tứ Ngư Ông giận dữ gầm vang, lao vút đến vây chặt Tôn Giả, bốn chiếc cần câu thép dài nửa trượng vun vút xé không gian, chiêu thức vừa hiểm độc vừa mãnh liệt phi thường.
Cần câu là vũ khí độc môn, phép đánh rất quái dị, pha trọn, giữa cương tiên, nhuyễn tiên và câu liêm, vì đầu cần có một đoạn dây tơ bện dài ba gang, mang móc câu cực kỳ sắc nhọn.
Thân cần câu lớn bằng ngón tay cái, thực chất là một bó sợi thép nên rất dẽo, uốn lượn linh hoạt và nó chính thị khắc tinh của công phu Thiết Tụ Thần Quyền. Tay áo lụa của Hồng Diện Tôn Giả không sợ đao kiếm nhưng lại bị bốn lưỡi câu nhọn hoắc xé rách tơi tả, mất cả uy lực.
Tuy nhiên, với công phu quyền cước cao siêu, Hoàng lão chẳng dễ gì thảm bại ngay.
Thúy Sơn lập tức tung mình lướt đến nhập cuộc, vung kiếm tấn công hậu tâm một lão Ngư Ông.
Tất nhiên, lão ta quay lại đối phó, đáng cho náng xất bất xang bang. Thúy Sơn buồn rầu vì sự thất tung bí ẩn của Nhương Thư nên bỏ bê việc luyện công, luyện kiếm, bản lãnh sút kém hơn trước một bậc. Nay gặp tay cao thủ lão thành, sử dụng vũ khí đặc dị, bảo sao nàng không thất thế? Thúy Sơn cắn răng múa tít bảo kiếm, thủ nhiều hơn công.
Dưới này, bọn Bất Trí Thư Sinh đã xông vào đáng với Ngọa Long Tú sĩ và mười lăm gã đao thủ Sơn Hải Bang. Bọn này đều là hải tặc thiện chiến chốn biển Đông, được chân truyền pho Kỵ Ba Đao Pháp nên bản lãnh cực kỳ lợi hại. Chúng lại đông hơn nên chiếm ưu thế, khiến Lô Châu Ngũ Tặc la oai oái vì tức giận.
Chỉ mình Thiết Kình Ngư Tào Ưng là kha khá, một mình chống đỡ ba tên mà vẫn không lúng túng. Nhờ Nhương Thư tận tình chỉ điểm nên Tào Ưng đã đạt đến tinh túy của kiếm pháp Vương Ốc Sơn, sắp bước vào cảnh giới kiếm đạo.
Nhương Thư khờ khạo sự đời nhưng thiên bẩm võ học vô cùng sáng láng. Chàng dựa trên cơ sở Phật Đăng Kiếm Pháp mà bổ khuyết, nâng cao Vương Ốc Kiếm Pháp lên một bậc, khiến trình độ kiếm thuật Tào Ưng tăng tiến phi thường.
Khác với Thúy Sơn, gã tiếc thương Nhương Thư bằng cách khổ luyện để sau này trút hận lên đầu Âu Dương Lăng! Gã cung chủ sạt nghiệp này đã chạy đến Thiểm Tây hợp sức cùng Báo Ứng Hội, củng cố thực lực chờ ngày tái xuất. Hiện nay, Âu Dương Lăng là người duy nhất học được Thần Quang Chưởng Pháp. Nếu gã có thêm vài chục năm công lực thì sẽ lợi hại chẳng thua gì Độc Biển Thước.
Giờ không có mặt Âu Dương Lăng, Tào Ưng đổ cơn giận giữ lên đầu bọn thủ hạ Sơn Hải Bang, sau khi thăm dò vài chục chiêu, liền ra tay đả thương một tên.
Nhương Thư được xem là tay khoái kiếm của võ lâm đương đại. Tào Ưng noi gương ấy mà rèn luyện, đường kiếm cũng nhanh như gió. Gã nghiến răng tả xung hữu đột, kiếm ảnh dệt lưới sao công phá những màn đao quang lạnh lẽo, khí thế hừng hực khiến phe đối phương phải khiếp sợ.
Phần Bất Trí Thư Sinh thì đọ kiếm với Ngọa Long Tú sĩ, hai lão này giỏi văn hơn võ, vừa đánh vừa so tài miệng lưỡi. Cao Trường Toản nói:
- Này Lỗ Tú Sĩ! Ông đã chậm chân hơn lão phu một bước rồi. Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách đã được lão phu thỉnh về làm tướng tiên phong để giáng ma. Không chừng lát nữa chính ông sẽ phải chết dưới tay Tần Nhật Phủ!
Ngọa Long Tú sĩ Lỗ Đăng Hân bối rối, chém liền bốn kiếm rối cười nhạt:
- Tốt lắm! Không thu phục được thì tiêu diệt! Lát nữa Đài Loan tứ Ngư Ông sẽ có việc để làm.
Lỗ Tú Sĩ chợt biến sắc vì những tiếng gào ghê rợn của thủ hạ liên tiếp vang lên. Lão liếc về phía ấy, phát hiện một chàng kiếm sĩ áo đen đang phóng tay chém giết bang chúng Sơn Hải Bang, liền đoán đấy là Tần Nhật Phủ. Họ Tần di chuyển bằng một bộ pháp kỳ lạ, thân hình chập chờn như chia làm mấy bóng vậy. Và thanh trường kiếm trên tay gã loang loáng ánh dương quang, kiếm ảnh nối nhau thành những dải lụa bạc, bay chập chờn trong không gián, đáp xuống đâu là có người ngã quỵ.
Người chết thì an phận nên im ắng, nhưng kẻ thọ thương thì ồn ào kêu rên thảm thiết. Nạn nhân của Tần Nhật Phủ kẻ thì không toàn mạng, kẻ chỉ mất đi cánh tay cầm đao, hoăc bị đâm thủng huyệt Khí Hải, vì vậy, họ la hét ỏm tỏi!
Với trình độ kiếm thuật siêu phàm và thân pháp ảo diệu tuyệt luân, họ Tần mau chóng loại hết mười mấy gã hải tặc ra khỏi vòng chiến và ra khỏi giang hồ. Chúng không còn có khả năng hành ác nữa. Nhưng Tào Ưng và Lô Châu Ngũ Tặc lại không thành toàn cho lòng nhân đạo của Nhật Phủ, giết sạch những kẻ bị thương kia.
Rồi họ nhẩy vào khu loạn thạch tiếp ứng cho thầy trò Thúy Sơn.
Phần Tần Nhật Phủ lao thẳng về phía Ngọa Long Tú sĩ, ánh mắt rực rỡ vẻ uy nghiêm, sắc mặt lạnh lẻo tựa sương đêm.
Bất Trí Thư Sinh mỉm cười:
- Lão phu hứa sẽ mai táng Lỗ túc hạ chu đáo! Xin vĩnh biệt!
Lão chém mạnh vài kiếm, lui lại nhường Ngọa Long Tú sĩ cho Tần Nhật Phủ.
Đứng trước tử thần, Lỗ Đăng Hân nghe lạnh gáy, cố đem cơ trí giảo hoạt ra tìm sinh lộ. Lão bất ngờ quăng kiếm xuống đất, chắp tay sau lưng chờ đợi.
Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách đến nơi, ngỡ ngàng nhìn lão già mặc trường bào thư sinh lam nhạt, đầu đội nón Khổng Minh, mặt sáng như trăng rằm, tay không vũ khí. Họ Tần cau mày hỏi Bất Trí Thư Sinh:
- Lão ta là ai vậy,
Cao lão cười nhạt:
- Ngọa Long Tú sĩ Lỗ Đăng Hân, đương kim quân sư của Sơn Hải Bang. Trước đây lão từng là quân sư cho Chính Khí Bang, rồi đến Tứ Phạn Thiên Cung, Thần Quang Giáo. Tóm lại, Lỗ Đăng Hân chuyên nghề thầy dùi cho các tổ chức tà ma.
Lổ Tú Sĩ ung dung nói:
- Lão phu tay không tấc sắt, nếu Tần thiếu hiệp chẳng sợ hậu thế chê cười thì cứ giết. Hân này chỉ giỏi văn tất không phải là địch thủ của Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách!
Lão khôn khéo mang cái danh anh hùng ra trói tay gã kiếm sĩ trẻ kia. Tuổi thanh niên mà tài cao thì thường kiêu ngạo, không chịu mang tiếng giết người dưới ngựa, tất sẽ mắc mưu.
Bất Trí Thư Sinh cũng lo ngay ngáy, sợ Nhật Phủ tha cho Tú Sĩ. Không ngờ, Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách lạnh lùng nói:
- Túc hạ tài cao học rộng, dám ví mình với Gia Cát Lượng, mà lại đem tài ba ấy phục vụ tà ma, gây hại cho công lực còn nhiều hơn một cao thủ. Tuy nhiên, tại hạ chẳng giết làm gì chỉ cắt lưỡi và chặt hai bàn tay mà thôi.
Ngọa Long Tú sĩ nghe đối phương tuyên án, cố gỡ gạc:
- Làm thế còn tàn nhẫn hơn là giết chết! Thiếu hiệp không sợ mang tiếng bất nhân sao?
Nhật Phủ dựng ngược đôi lông mày kép quái dị, mắt ngời ngời chính khí, chậm rãi nói:
- Ta thà mang tiếng tàn nhẫn chứ không thể lưu lại đại họa cho võ lâm.
Dứt lời, Nhật Phủ lướt đến kiếm quang lồng lộng, phong tỏa mọi đường tiến thoái của nạn nhân. Lỗ Tú Sĩ khiếp đảm, thét đến lạc giọng:
- Khoan đã! Lão phu có điều muốn nói!
Kiếm quang tắt lịm, Tần Nhật Phủ dừng tay và bảo kiếm đã tra vào vỏ. Trình độ kiếm thuật siêu phàm ấy đã khiến Lỗ Đăng Hân nảy ra chủ ý.
Lão vòng tay vái và nói với giọng thê lương:
- Lão phu lâu nay như ngựa ký trong nhà gã đánh xe, như bảo kiếm lẫn lộn với đồng nát, có tài mà chẳng đất dụng vỏ, nên lòng đau đáu không yên. Khi được Lã Tập Hiền mời ra khỏi liều tranh, lão phu vô cùng mừng rỡ vì tưởng đã gặp minh chúa, thỏa chí bình sinh. Nào ngờ họ Lã lại là tay đại gian hùng khiến lão phu sa chân vào ma đạo, không sao thoát ra được nữa. Chút tâm sự xin được giải bày để thiếu hiệp được rõ, khai ân mở cho lão phu một cơ hợi hồi đầu hướng thiện, mang sức tàn phù trì chính nghĩa. Lão phu xin đem thanh danh Tổ Sư là Thiên Cơ Chân Nhân ra bảo chứng.
Nhật Phủ nghe xong quay sang hỏi Bất Trí Thư Sinh:
- Ý Cao lão thế nào?
Cao Trường Toản vuốt râu trầm ngâm làm Lỗ Đăng Hân chột dạ. Thói thường, kẻ có tài thường đố kỵ nhau, võ lâm thương ví hai lão là Khổng Minh và Phượng Sồ, kình địch ngang sức. Nay chắc gì Bất Trí Thư Sinh chịu để Ngọa Long Tú sĩ về với phe bạch đạo mà làm lu mờ vị trí của mình?
Nhưng Cao Trường Toản lại là bậc quân tử hiếm có, lượng rộng nhì Đônh Hải. Ông nghiêm giọng đáp:
- Lỗ Tú Sĩ là bậc tài hoa quán thế, hơn hẵn lão phu. Nếu lão ta thực tâm hướng thiện thì đấy là phúc của võ lâm. Tần thiếu hiệp hãy vì đại cục giang hồ mà thu nạp Ngọa Long Tú sĩ.
Lỗ Đăng Hân cảm kích đến nghẹn ngào, vái Cao Trường Toản thật sâu:
- Lòng dạ của túc hạ sáng hơn nhật nguyệt, Hân tôi chỉ là con đom đóm mà thôi.
Lão lại vái Tần Nhật Phủ:
- Chim khôn lực cành mà đậu, lão phu nguyện suốt đời xả thân phù tá công tử, dẫu thác cũng không đổi dạ.
Tần Nhật Phủ chỉnh sắc:
- Tại hạ chẳng hề nuôi mộng trang bá đồ vương, tiên sinh cứ đem tài ra phục vụ võ lâm là đủ.
Lỗ Tú Sĩ vội đáp:
- Công tử dạy chí phải! Lão phu xin tuân mệnh!
Lúc này, Đài Loan Tứ Ngư Ông thấy nguy đã phá vây bỏ chạy, bọn Hồng Diện Tôn Giả kéo xuống, ngỡ ngàng khi thấy Ngọa Long Tú sĩ đang vui vẻ chuyện trò với Bất Trí Thư Sinh.
Nghe Cao lão kể lại nguồn cơn, mọi người mừng rỡ chào hỏi Lỗ Tú Sĩ rất chân thành. Hoàng Tôn Giả cười ha hả:
- Này Lỗ hiền điệt! Cái tội trợ trụ vi ác đáng ra phải đánh đòn đấy. Nể mặt sư phụ ngươi, lão phu chỉ phạt mười vò rượu mà thôi.
Bỗng lão quay sang nạt Tần Nhật Phủ:
- Tiểu tử hôi hám kia! Vì sao ngươi lại bỏ trốn, không tiếp tục đồng hành với lão phu nữa?
Họ Tần còn đang ngơ ngác thì cô ả Thế Lan xen vào:
- Bẩm tiền bối! Chuyết phu còn phải đi đón tiện nữ nên không thể tháp tùng tiền bối được.
Tôn Giả há hốc miệng nhìn nữ lang da rám nắng, tóc bới vụng về kia rồi lẩm bẩm:
- Ngươi là vợ của y đấy sao?
Gần cuối tháng năm, đoàn người về tới Tổng Đàn Cái Bang ở Lạc Dương. Cả Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách lẫn Ngọa Long Tú Sĩ đều được các chưởng môn đón tiếp rất trọng vọng. Một người là cao thủ kiệt xuất, còn người kia nổi tiếng đa mưu túc trí, bảo sao hội đồng võ lâm không mừng?
Họ chỉ thất vọng về việc không sao xác định được Tần Nhật Phủ có phải là Nhương Thư hay không?
Trưa hôm sau, Vô Ưu Cái triệu tập cuộc họp nội bộ, bàn bạc việc giáng ma. Ông rầu rĩ thông báo:
- Lão phu đã nhận được tin của Dạ Quân Từ, xác định rõ sự phản bội của Nghiên Tái Thuần. Gã tiểu quỷ ấy đã bái Âm Sơn Song Ma làm sư phụ, nhờ giỏi nghề nịnh nọt nên được Lương Dã Toàn yêu mến. Truyền thụ tâm pháp và ban cho ba hạt Thiên Niên Tuyết Sâm. Cộng với công phu Thái Bổ, công lực Tái Thuần tăng tiến rất nhanh, vượt ngoài lẽ thường tình.
Lão chợt dừng lời rồi nhìn vào mặt Tần Nhật Phủ, buông từng tiếng nặng nề.
- Hiện nay, Quách Tàn bôi đã bị giam vào mật lao, do không chịu quy phục Âm Sơn Giáo.
Nhưng Tần Nhật Phủ vẫn thản nhiên, chẳng hề biểu lộ chút cảm xúc nào, bởi không biết Dạ Quân Tử là ai?
Thúy Sơn buồn bã sa lệ:
- Tội nghiệp cho Quách đại ca.
Bất Trí Thư Sinh cố nén nhục nhã, cắn răng hỏi lại:
- Hầu đại ca! Còn kế Bạch Duật Tương Trì của tiểu đệ có kết quả gì không?
Vô Ưu Cái cười nhạt:
- Thư thách đấu giả danh Kỵ Ba Thần Quân đã gởi đến Cô Độc Bảo, song chính Nghiên Tái Thuần đã ngăn cản Âm Sơn Lão Tổ đi phó ước.
Cao lão uất ức than:
- Lão phu chỉ có cách chết để tạ tội với võ lâm mà thôi.
Ngọa Long Tú Sĩ ngồi kế bên, vỗ vai thư sinh rồi tủm tỉm nói:
- Cao hiền đệ yên tâm! Ta sẽ giúp cho kế ấy thành công mỹ mãn.
Rồi Lỗ Tú Sĩ vòng tay nói với cử tọa:
- Bẩm chư vị chưởng môn, việc lão phu hồi đầu hướng thiện vẫn còn là bí mật. Do vậy, khi lão phu xuất hiện với cương vị quân sư Sơn Hải Bang thì Lão Tổ sẽ tin ngay. Song theo thiển ý của lão phu, gởi thư khiêu chiến không bằng chọc cho Lương Dã Toàn tức điên lên, kéo quân tiến đánh Sơn Hải Bang.
Cả nhà ồ lên thán phục. Nhưng Tú Sĩ không nói tiếp mà cười bảo Bất Trí Thư Sinh:
- Lão phu xin đặt mình dưới sự bày binh bố trận của Cao hiền đệ.
Đây là cử chỉ tốt đẹp, đền đáp lại tấm lòng quân tử của Bất Trí Thư Sinh. Lão không rộng lượng thì Lỗ Tú Sĩ đã bị Tần Nhật Phủ chặt tay cắt lưỡi rồi.
Cao Trường Toản cảm độngn hắng giọng bàn:
- Quả thực là sự hiện diện của Lỗ Tú Sĩ là một lợi thế cho chúng ta thi hành kế Di Họa Giang Đông. Lỗ lão ca sẽ thống lãnh một toán cao thủ, giả làm người của Sơn Hải Bang, bắt cóc cháu nội bảo bối của Âm Sơn Lão Tổ, tất sẽ khiến lão nổi điên khởi binh đánh Tế Nam để cứu về. Chúng ta biết mật đạo ra vào Cô Độc Bảo nên hành sự không thể thất bại được.
Mọi người đều khen hay nhưng Vô Ưu Cái lại xua tay:
- Kế ấy chưa đủ! Song tạm gác lại để lão phu hỏi chuyện hai vị khách quý cái đã.
Hầu Mộ Thiên tuy không nổi danh mưu mẹo song lại là kẻ đại trí tuệ, một tay chèo chống võ lâm. Cẩn trọng nhưng quyết sách rất đúng đắn. Chính Bất Trí Thư Sinh cũng phải khâm phục họ Hầu sát đát.
Hầu bang chủ nghiêm giọng hỏi Tần Nhật Phủ:
- Lão phu nghe Cao lão đệ rằng Tần thiếu hiệp muốn làm minh chủ võ lâm?
Họ Tần hờ hững đáp:
- Tại hạ đã đổi ý! Làm cũng tốt mà không làm cũng chẳng sao. Thực ra, tại hạ chẳng đủ tài thao lược để lo cho đại cục võ lâm.
Vô Ưu Cái cố nén kinh ngạc hỏi tiếp:
- Vậy thiếu hiệp có nguyện xả thân vì chính nghĩa hay không, dù chẳng được lợi lộc gì?
Tần Nhật Phủ gật đầu:
- Tại hạ sẵng sàng, song không tin lại có người giết được mình.
Khẩu khí cao ngạo ấy đã khiến toàn trường chán ghét. Nhưng họ Tần lại thản nhiên nói thêm:
- Tại hạ chạy nhanh lắm.
Ác cảm biến mất ngay, các chưởng môn mỉm cười thích thú, nhìn nhau gật gù.
Thông Thiên đạo trưởng vui vẻ hỏi:
- Tần thí chủ xuất thân từ cửa nào mà lại thuộc lòng câu Tiên Bảo Kỳ Thân như thế?
Nhật Phủ đáp gọn lỏn:
- Gia học!
Hồng Diện Tôn Giả cười khà khà thú nhận:
- Chư vị biết không, y đã từng thủ hòa với lão phu đấy!
Đúng lúc này, một gã khất cái bước vào, tất tả đi về phía Vô Ưu Cái như muốn báo một tin quan trọng.
Do không có tiệc tùng nên người dự họp ngồi thành hình móng ngựa, trước mặt có kỷ trà nhỏ. Vô Ưu Cái là Vô Ưu Cái nên ngồi ở vị trí đỉnh của móng ngựa, quay mặt ra cửa sảnh. Hai bên tả hữu của lão dành cho tân khách là chưởng môn hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang.
Gã khất cái kia bước đến trước mặt Vô Ưu Cái, cách chừng nửa trượng vòng tay nói:
- Cung bẩm bang chủ! Có thư từ Sơn Đông gởi về.
Nói xong, gã thọc tay vào ngực áo để lấy, nhưng không phải là thư mà chính là một ống đồng dài độ gang tay. Trong chớp mắt, các chưởng môn nhận ra ngay vũ khí trấn sơn của Đường Gia Tứ Xuyên. Họ kinh hãi thét lên trong tuyệt vọng vì khoảng cách quá gần và bởi chẳng ai có tất sắt nào trong tay cả.
Trong khoảng khắc ngàn cân treo sợi tóc ấy, chợt vang lên những âm thanh là lạ, tựa trường tiễn xé không gian. Và tên gian tặc kia rú lên thảm khốc, buông rơi hỏa khí, ôm ngực ngã quỵ.
Hồng Diện Tôn Giả cao niên nhất, kiến văn rộng rãi, sửng sốt kêu lên:
- Lục Mạch Thần Chỉ!
Vô Ưu Cái thì quay sang vòng tay nói với Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách:
- Đa tạ thiếu hiệp đã cứu mạng lão phu.
Lúc này cử tọa mới biết kẻ xuất thủ là Tần Nhật Phủ, nhìn chàng bằng cặp mắt ngưỡng mộ.
Khánh Hỉ đại sư, phương trượng Thiếu Lâm chắp tay:
- A di đà phật! Lão nạp cũng là người chịu ơn Tần thí chủ! Phạm vi sát thương của Hỏa Châm Đồng rất rộng, cả lão nạp và Thông Thiên đại huynh đây cũng khó thoát chết.
Chưởng môn phái Võ Đang mỉm cười nói dùa:
- Tần thí chủ làm mất cơ hội thăng thiên của bần đạo rồi.
Tần Nhật Phủ gật gù:
- Vật kia lợi hại đến thế ư?
Bọn hóa tử canh gác Tổng Đàn nghe động chạy vào, nhìn thấy xác chết và hung khí, tái mặt quỳ xuống nhận tội.
Vô Ưu Cái đã kiểm tra dung mạo của tử thi, biết chắc đấy là một trong những thủ hạ thân tín của mình, liền thở dài:
- Tại sao Trương Hồng lại bội phản Cái Bang nhỉ?
Ông ra lệnh cho đám khất cái đem xác đi chôn và dọn dẹp máu me.
Chờ Hầu Mộ Thiên an tọa, Ngọa Long Tú Sĩ mới lên tiếng:
- Bẩm chư vị chưởng môn! Gã họ Trương kia đã trúng phải Nhiếp Hồn Công của Kỵ Ba Thần Quân, chẳng còn làm chủ được mình nữa. Tà thuật này lợi hại ở chỗ có thể biến bất cứ ai thành phản đồ. Xem ra Kỵ Ba Thần Quân đã khởi đầu cuộc chiến bằng cách ám sát các chưởng môn trong hội đồng võ lâm. Lão ta lại có ám khí tuyệt độc của Đường Môn, thật khó đối phó.
Ai nấy rùng mình khi nghĩ đến cảnh phải đề phòng cả những người thân nhất của mình.
Phổ Chứng thiền sư, chưởng môn phái Nga Mi, buồn rầu hỏi:
- Chẳng lẽ không có cách nào để sớm phát hiện ra những kẻ trúng tà pháp hay sao?
Lỗ Tú Sĩ cung kính đáp:
- Bẩm thiền sư, lão phu may mắn biết được bí mật của công phu này. Nhiếp Hồn Pháp xuất xứ từ Thiên Trúc, còn gọi là thuật thôi miên. Khi Kỵ Ba Thần Quân và các đệ tử chân truyền, bắt được ai liền ru họ ngủ rồi thi triển tà pháp, ra lệnh cho họ hành động. Nạn nhân được thả ra, không nhớ gì cả, thản nhiên trở về, nhưng đúng thời khắc là thi hành lệnh đã nhận. Lúc ấy, nếu chú tâm quan sát, chúng ta sẽ thấy mắt họ hơi dại đi, thường nhìn đăm đăm ít chớp. Còn như muốn phòng xa, chúng ta kiểm tra các đệ tử bằng cách bấm nhẹ vào mi tâm, nếu y nhăn mặt đau đớn thì đúng là kẻ trúng tà.
Mọi người mừng rỡ vì đã có cách đối phó, hết lời khen ngợi Tú Sĩ. Vô Ưu Cái chẳng khen chê, nghiêm giọng hỏi:
- Lỗ lão đệ có biết lập trường của Kỵ Ba Thần Quân đối với Âm Sơn Lão Tỗ hay không?
Lỗ Đăng Hân vội đáp:
- Bẩm Hầu bang chủ! Kỵ Ba Thần Quân là tay gian hùng cái thế, định liên thủ với Lương lão quỷ để khuynh đảo võ lâm, sau khi thành công mới tiêu diệt.
Vô Ưu Cái gật gù:
- Đúng vậy! Sáu ngày trước, hai lão đại ác ma ấy đã bí mật gặp nhau ở Tế Châu, thắp hương thề thốt, nguyện chia đôi thiên hạ.
Tin này như sét đánh ngang tai khiến mọi người rẩu rĩ. Bất Trí Thư Sinh thở dài:
- Bây giờ tiểu đệ đã hiểu vì sao kế Di Họa Giang Đông không dùng được. Chúng ta phải tiên hạ thủ vi cường, hội quân tấn công Cô Độc Bảo ngay mới được.
Vô Ưu Cái an ủi thư sinh:
- Thực ra kế ấy cũng không hoàn toàn vô dụng. Sự hiện diện của Ngọa Long Tú Sĩ và một toán cao thủ mặc áo Sơn Hải Bang sẽ khiến Lương Dã Toàn hoang mang, nếu chạy thoát cũng không dám đến Tế Nam hợp lực với Thần Quân.
Xế chiều, Vô Ưu Cái cho gọi riêng Bất Trí Thư Sinh và Ngọa Long Tú Sĩ đến thư phòng. Ông nghiêm giọng:
- Này Lỗ lão đệ! Ông là người đa mưu túc trí. Hãy thử giải dùm lão phu nan đề này.
Sau đó, Hầu Mộ Thiên kẻ rõ việc thất tung của Nhương Thư, cũng như mối nghi ngờ về Tần Nhật Phủ. Cao Trường Toản cũng tường trình thêm những thái độ kỳ lạ của Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách. Cao lão kết luận:
- Tính cách của Tần Nhật Phủ rất phức tạp, thay đổi bất ngờ, cứ như một cục bột nhão được người thợ nắn sao ra vậy. Và dường như người thợ kia có ý biến Tần Nhật Phủ thành một bậc anh hùng toàn mỹ, thấy sai sót là bổ khuyết ngay. Phong thái hiện nay có thể được xem là hoàn thiện: trang nghiêm nhưng không kiêu ngạo, thân ái mà ít lời, khiến chúng ta không thể dọ hỏi được gì.
Lỗ Tú Sĩ vuốt râu tư lự:
- Xem ra người thợ bánh kia chính thị Ải Thần Quân, hoặc hậu duệ của lão là Thế Lan. Song chúng ta không biết rõ mục đích của đối phương về sự hóa thân của Nhương Thư thì thật khó xác định vì Tứ Mi Kiếm Khách không có dấu vết hóa trang. Chẳng lẽ trên đời lại có kẻ đủ tài đoạt quyền tạo hóa, cắt da đắp thịt, sửa đổi mặt người hay sao? Tuy nhiên, chúng ta vẫn không thể loại trừ trường hợp ấy, sau này sẽ tìm cách đánh thuốc mê Tần Nhật Phủ để khám nghiệm thật kỹ lại. Thứ hai, chúng ta phải cho người theo dõi Tần Thế Lan, ả chính là đầu mối của sự việc.
Vô Ưu Cái gật đầu:
- Lỗ lão đệ nói chí phải, chúng ta cứ thế mà làm.
Hầu bang chủ hỏi han nội tình Sơn Hải Bang, được Ngọa Long Tú Sĩ trình bày cặn kẽ, không giấu diếm. Nghe xong, ông rùng mình:
- Không ngờ thực lực và thủ đoạn của Kỵ Ba Thần Quân lại ghê gớm đến thế. Xem ra chúng ta phải thay đổi chiến lược mới xong. Phần Lỗ lão đệ phải tuyệt đối giữ kín hành tung, không để ai biết người đã hồi đầu. Có như thế chúng ta mới mong chiếm thượng phong.
Lỗ Tú Sĩ mỉm cười:
- Tiểu đệ đã nghĩ đến điều ấy nên cân thận cải trang ngay từ lúc rời đổi Long Bối. Hơn nữa, Đài Loan Tứ Ngư Ông cứ tưởng tiểu đệ đã chết rồi.
Trong binh pháp có câu: Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng. Ngọa Long Tú Sĩ từng là quân sư Sơn Hải Bang, nắm rõ mọi bí mật về chiến lược, chiến thuật của Kỵ Ba Thần Quân. Nếu để Thần Quân biết ông ta đã về phe bạch đạo, tất lão sẽ thay đổi phương thức hành động.
Tối đến, Vô Ưu Cái thương lượng lần chót với hội đồng võ lâm, quyết định một kế sách tốt nhất, rồi mời cả nhà họp lại. Ông hỏi Tần Nhật Phủ:
- Với tuyệt học Lục Mạch Thần Chỉ, thiếu hiệp có tự tin thắng nổi một cao thủ trăm năm công lực như Âm Sơn Lão Tổ hoặc Kỵ Ba Thần Quân hay không? Nếu thiếu hiệp trả lời là có thì hội đổng võ lâm tổ chức đại hội bầu minh chủ. Lúc thượng đài, thiếu hiệp sẽ có cơ hội trừ hại cho thiên hạ.
Tần Nhật Phủ còn đang phân vân vì không rõ bản lãnh của hai người kia thế nào, thì Ải Thần Quân, tức cô vợ giả của chàng cắn câu ngay. Thứ nhất là do lòng tự tôn, cho rằng Lục Mạch Thần Chỉ và Huyền Không Kiếm Pháp đứng đầu vũ nội. Thứ hai, Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách mà lên làm minh chủ thì lão có chết cũng mãn nguyện.
Khuyết tật bẩm sinh đã trở thành nỗi ám ảnh suốt đời, khiến Ải Thần Quân không sao đắc đạo được.
Do vậy, lão thì thầm khuyến khích hóa thân:
- Biểu ca chớ đắn đo làm gì. Chỉ pháp của họ Tần nhà ta vô địch thiên hạ. Dẫu đối phương có công lực cao hơn cũng không tránh nổi. Biểu ca mà từ chối thì còn gì khí phách của bậc anh hùng nữa.
Thấy Thế Lan là gái mà hào khí can vân như vậy, Tần Nhật Phủ chẳng chịu kém, quả quyết đáp:
- Tại hạ xin tận lực, dẫu bỏ mạng cũng cố trừ hại cho võ lâm.
Vô Ưu Cái mỉm cười bí ẩn:
- Không nhất thiết phải liều mạng, thiếu hiệp chỉ cần lấy được ít máu của hai lão ấy là xem như hoàn thành nhệm vụ.
Tuy không hiểu nhưng quen thói ít lời nên Tần Nhật Phủ chẳng hỏi thêm.
Bất Trí Thư Sinh lên tiếng:
- Thực ra đây chỉ là kế hoãn binh và ly gián hai phe Âm Sơn Giáo và Sơn Hải Bang. Ngôi minh chủ sẽ khiến hai lão đại ma đầu trở mặt với nhau, tạo điều kiện cho chúng ta tiêu diệt họ. Theo qui củ võ lâm, từ ngày phát thiếp đến khi cử hành ít nhất là ba tháng. Trong thời gian này, chúng ta sẽ âm thầm hành sự, xói mòn lực lượng tà ma.
Thông Thiên Chân Nhân rất mến Nhật Phủ, có lẽ vì ơn cứu mạng, liền hòa ái dặn dò:
- Này Tần thí chủ! Cái ác như cỏ dại nối nhau xuất hiện, cho nên bậc hiệp sĩ phải giữ mình để trường kỳ tịch tà cự bí. Mong thí chủ ngày đêm khổ luyện để nắm chắc phần thắng lợi.
Vô Ưu Cái tiếp lời Chân Nhân:
- Mờ sáng, hiền khang lệ và Ngọa Long Tú Sĩ sẽ chuyển sang ở một nơi khác để bảo toàn bí mật. Chỗ ấy kín đáo, rộng rãi, rất thích hợp cho việc luyện võ.
Tần Nhật Phủ vòng tay đáp:
- Tại hạ xin tuân theo sự sắp xếp của bang chủ.
Trời chưa rõ mặt người, ba vị khách quý đã đến cơ sở mật, tức dược đường của Tạ Thần Y. Thúy Sơn cũng đi theo, tiếp tục bầu bạn với ba cô gái tội nghiệp họ Điền.
Ải Thần Quân thấy ba cô con dâu mất trí mà lòng vô cùng bất nhẫn, quyết chữa trị cho họ. Nhưng bản tính tinh nghịch đã khiến ông nẩy ra một trò đùa quái ác.
Sau khi điều tra rõ địa hình, địa vật, Ải Thần Quân tiến hành kế hoạch táo bạo và kỳ khôi của mình.
Nửa đêm mùng bốn tháng sáu, Tần Nhật Phủ đột nhiên trỗi dậy, lướt đi êm ái như bóng oan hồn, tìm đến phòng Điền Mã Lan.
Ba bệnh nhân này chiếm ba phòng nhỏ liền nhau, phòng thứ tư cùng dãy thuộc về Thúy Sơn. Hàng đêm, khi nghe tiếng ai la hét, hoặc khóc lóc tức tưởi là Thúy Sơn chạy sang vỗ về, an ủi rằng Tần Nhương Thư đi xa chưa kịp về đến.
Do vậy, cửa phòng của các bệnh nhân chỉ khép hờ chứ không cài then bên trong. Tần Nhật Phủ vào phòng dễ dàng, lên giường ôm lấy Mã Lan và thì thầm:
- Lan muội! Ta đây!
Giọng nói trầm ấm quen thuộc kia đã khiến cô gái điên vui mừng khôn xiết, muốn khóc lóc, muốn nói những lời yêu thương mà không hiểu sao lại bất lực? Nàng chỉ còn cách nồng nhiệt đáp ứng những cử chỉ vuốt ve đầy khao khát của trượng phu. Nhương Thư như người chồng xa vợ lâu ngày, không kềm hãm nổi lửa tình, say đắm gầy cuộc ái ân.
Thân hình nẩy nở của Mã Lan giờ đây gầy hơn trước nhưng tình yêu trong nàng chẳng hể suy giảm. Nàng liên tiếp rùng mình dâng hiến, nước mắt nhạt nhòa thay cho những âm thanh hoan lạc. Hết hiệp, Nhương Thư bất ngờ điểm huyệt ngủ ái thê, mặc lại y phục cho nàng rồi trở về phòng mình.
Sáng ra, Mã Lan chỉ lơ mơ nhớ lại cuộc mây mưa, vừa khóc vừa cười kể cho hai em nghe, Thúy Sơn tủm tỉm bảo:
- Lan muội nằm mơ đấy.
Những ngày sau đó, Nhương Thư bị phép Di Hồn điều khiển, thỉnh thoảng viếng thăm các nàng, ân ái rồi lại đi. Người khổ sở nhất là Ải Thần Quân, lão luôn phải đi trước dọn đường, dùng Lục Mạch Thần Chỉ điểm huyệt bất cứ ai cản trở, kể cả Thúy Sơn.
Ải Thần Quân không hề ăn được kỳ trân nhưng kiên nhẫn rèn luyện từ nhỏ, chẳng hề gián đoạn, nên hiện sở hữu đến tám mươi năm tu vi. Ông học pho Thần chỉ hai mươi nam nên thủ pháp cực kỳ chính xác, khéo léo khiến nạn nhân thiếp đi vừa đủ thời gian, lúc tỉnh lại chỉ ngỡ mình ngủ gật.
Mặt khác, Ải Thần Quân âm thầm trút dồn công lực cho chàng, sau một tháng, Nhương Thư đã có thêm mười năm chân khí. Đây là giới hạn tối đa của sự san sẻ công lực, vượt qua sẽ rất nguy hiểm.
Một chiều đầu tháng bẩy, aq bỗng nghe văng vẳng có tiếng Tạ Thần Y ngâm nga:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu!
Hai câu cuối trong bài thơ Hoàng Hạc Lâu đã khiến Ải Thần Quân chạnh lòng nhớ cố hương, quyết định về Sơn Tây tảo mộ song thân.
Song, không đẻ tâm huyết của mình bị uổng phí, Ải Thần Quân tìm cách rút lui an toàn.
Cơ hội của ông chính là những cuộc đàm đạo của Thúy Sơn và Tần Nhật Phủ. Nàng ta được lệnh dò xét họ Tần nên thường xuyên tiếp xúc hỏi han.
Trưa ngày thất tịch, mùng bẩy tháng bẩy, Tạ gia trang bày tiểu yến, có mời cả Hồng Diện Tôn Giả, Vô Ưu Cái và Bất Trí Thư Sinh. Tình cờ Thúy Sơn lại ngồi mé hữu Nhương Thư, còn Ải Thần Quân mé tả.
Sau tiệc rượu là thời điểm uống trà, Ải Thần Quân giả vờ đứng lên đi vệ sinh, lúc trở ra đứng phía sau thi triển Di Hồn Đại Pháp làm cho Nhương Thư và Thúy Sơn đồng thời quay mặt, ngã đầu về phía sau như muốn nói nhỏ điều gì đó. Kết quả là môi chàng chạm gò má nàng, cứ như tặng một nụ hôn vậy.
Cả nhà sửng sốt đến ngây người, còn Ải Thần Quân, tức Thế Lan chửi bới, khóc lóc thảm thiết, tuyên bố từ hôn, không nhận một kẻ lăng nhăng như Tần Nhật Phủ làm chồng nữa. Họ Tần hoang mang, lòng vô cùng hổ thẹn, để mặc Thế Lan cuốn gói về quê.
Phần Thúy Sơn cũng bối rối chẳng kém, run rẩy thề thốt rằng mình chẳng hề có tình ý gì với Tần Nhật Phủ, việc lúc nãy chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà thôi. Nàng định nói với Nhật Phủ điều gì đó, không ngờ gã cũng vậy.
Tần Nhật Phủ cũng ấp úng giải thích đúng như thế, nhưng giá mà có ai hỏi họ định nói điều gì thì quả thực là hai người không biết.
Hiểu rõ nhân cách, tính tình của Thúy Sơn, chẳng ai trách mắng nàng. Hơn nữa, giả như song phương phải lòng nhau thì thiếu gì chỗ để âu yếm, sao lại phải hành động sơ xuất ngay chỗ này?
Hồng Diện Tôn Giả xua tay:
- Sơn nhi dừng khóc nữa, hãy bỏ qua chuyện vớ vẫn ấy đi.
Vô Ưu Cái ái ngại hỏi Nhật Phủ:
- Sao thiếu hiệp không cố giữ Tần phu nhân lại?
Nhật Phủ thở dài:
- Hôn nhân không có tình yêu, trước sau gì cũng tan vỡ, níu kéo làm gì nữa? Nếu Thế Lan thực lòng yêu thương tại hạ tất phải hiểu và tin tưởng, đâu chửi mắng rồi bỏ đi?
Tào Ưng khoái chí vỗ đùi:
- Tần lão đệ nói hay lắm! Tài mạo như ngươi lo gì không lấy được vài cô vợ đẹp?
Tài sản của than_long_vn

  #7  
Old 06-05-2008, 03:18 PM
than_long_vn's Avatar
than_long_vn than_long_vn is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 429
Thời gian online: 3 tuần 2 ngày 13 giờ
Xu: 0
Thanks: 2
Thanked 0 Times in 0 Posts
Hồi 14

Vong Linh Quy Đáo Âm Sơn Địa
Mộc Xá Xuân Tình Thức Mộng Nhân

Hôm sau, bọn Vô Ưu Cái lại được gọi gấp sang Tạ gia trang. Triều Châu Thần Y tiếp họ với sắc diện vô cùng kỳ quái. Ông chậm rãi nói:
- Lão phu xin báo cho chư vị hai việc rất quan trọng. Thứ nhất là ba cô gái họ Ðiền đã hoàn toàn khỏi bệnh!
Vô Ưu Cái mừng rỡ:
- Tạ ơn hoàng thiên! Có thế lão phu mới không hổ thẹn với Tần hiền đệ! À! Còn tin thứ hai?
Tạ Thần Y nhăn mặt thở dài:
- Sáng nay, khi thăm mạch, lão phu phát hiện họ đều đã cấn thai!
Ðất trời đảo lộn, vũ trụ quay cuồng, cả nhà kinh hãi ồ lên, mặt tái xanh như tàu lá.
Hồng Diện Tôn Giả ngơ ngác:
- Trời đất! Chẳng lẽ là Tần Nhật Phủ?
Ngọa Long Tú Sĩ nghiêm giọng:
- Thế ba vị tiểu thư kia giải thích thế nào? Họ có nhớ được gì không?
Tạ Thần Y rầu rĩ đáp:
- Họ vui vẻ khẳng định rằng trong tháng vừa qua, Nhương Thư thường ghé về thăm họ, phu thê mặn nồng, tất phải có kết quả! Lão phu cố nói cho họ hiểu Nhương Thư đã chết sau khi giết Ðộc Biển Thước ở Tứ Phạn Thiên Cung, thì họ khóc và cho rằng chồng hiện hồn về!
Thúy Sơn cũng áy náy xác nhận:
- Quả đúng vậy, ngay từ đầu tháng sáu, ba người ấy đã luôn miệng kể về những giấc mơ tương hội với Nhương Thư.
Vô Ưu Cái trợn mắt cười nhạt:
- Lão phu không tin có ma! Cho gọi Tần Nhật Phủ lên đây! Chỉ mình gã ta mới đủ bản lãnh qua mắt Thúy Sơn và lực lượng tuần tra nghiêm ngặt ở chốn này!
Tào Ưng hăm hở:
- Ðể tại hạ đi cho!
Lát sau, Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách lên đến, gương mặt anh tuấn và đoan chính kia chẳng một nét lo âu.
Vô Ưu Cái bỗng ngần ngại, lựa lời mà nói cho khéo. Ông kể sơ sự việc rồi hỏi:
- Tần thiếu hiệp! Lão phu rất tôn trọng nhân phẩm của thiếu hiệp. Song nơi đây, chẳng phải ai cũng đủ bản lãnh để vào! Do vậy, lão phu mong thiếu hiệp cứ nói thật lòng, lão phu sẽ đứng ra tác thành cho thiếu hiệp và ba đứa em dâu góa bụa!
Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách lộ vẻ buồn rầu, nghiêm nghị đáp:
- Tại hạ từ lâu đã nghe truyền tụng về nhân cách và công trạng của Nhương Thư, lòng rất tôn kính, quyết noi theo gương ấy, lẽ nào lại dám mạo phạm đến thê thiếp của chàng ta? Hơn nữa, Tần mỗ là người hờ hững với sắc dục, cả Thế Lan là vị hôn thê mà vẫn chưa chạm đến!
Tào Ưng nói thẳng:
- Ngươi có dám thề không?
Họ Tần gật đầu:
- Phủ tôi mà có mạo phạm đến ba vị tiểu thư họ Ðiền thì xin chết thảm dưới lưỡi búa của lôi thần!
Bọn Hồng Diện Tôn Giả đều là tay cáo già lão luyện, cơ trí tinh minh, nhận ra vẻ thành thực tuyệt đối của Nhương Thư, liền nhìn nhau thở dài. Vô Ưu Cái bèn tạ lỗi với họ Tần, chàng mỉm cười lắc đầu rồi bỏ đi.
Ở đây, mấy lão hồ ly vò đầu bứt tóc, cố phân tích xem ai là hung thủ. Họ cho mời ba nạn nhân lên hỏi han. Uyển Xuân buồn bã đáp:
- Hầu đại ca không tin bọn tiểu muội sao? Phu thê đầu ấp tay gối đâu thể lầm được? Từ hơi hướng cho đến cử chỉ đều đúng Tần tướng công, nếu không bọn tiểu muội đã kháng cự rồi!
Bạch Cúc thì phản ứng mạnh, dựng ngược đôi mày liễu:
- Hầu đại ca định gán tiếng bất trinh cho bọn tiểu muội hay sao? Ðại ca không tin ma quỷ nhưng người khác thì có!
Hồng Diện Tôn Giả tức quá hỏi lại:
- Thế tại sao hồn Nhương Thư không về ân ái với Thúy Sơn?
Bạch Cúc nghe có lý nhưng vẫn đanh đá đáp:
- Có lẽ tướng công yêu bọn ta nhiều hơn!
Vô Ưu Cái hiểu rằng chẳng thà để họ nuôi ảo tưởng còn hơn đau khổ vì sự thực nên cười xòa:
- Thôi thôi! Cả ba đều khẳng định như vậy thì chắc không thể sai! Lão phu rất mừng vì Nhương Thư đã có người nối dõi!
Ba thai phụ ngoa nguẩy bỏ đi. Ở đây, Vô Ưu Cái than trời:
- Lão phu đến phát điên mất!
Bỗng Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách lên đến, vai khoác bọc hành lý. Gã nghiêm nghị nói:
- Từ nay đến đại hội võ lâm còn hơn hai tháng, tại hạ ở lại đây không tiện, xin được cáo từ. Ðúng ngày rằm tháng chín, tại hạ sẽ có mặt để thượng đài.
Giữ mãi cũng không được, Vô Ưu Cái đành để Tần Nhật Phủ ra đi, sau khi dặn chàng đúng hẹn.
Họ Tần vừa rời sảnh, Bất Trí Thư Sinh bàn ngay:
- Tần Nhật Phủ bản lãnh siêu phàm nhưng kém phần kinh nghiệm, chúng ta phải cho người theo hỗ trợ mới được! Gã mà sa chân vào ma đạo là đại họa cho võ lâm!
Ngọa Long Tú Sĩ tán thành:
- Cao hiền đệ nói chí phải! Theo ý lão phu, ta nên điều Dương Châu Thần Thâu Bạch Túc Nhiên bám theo Tần Nhật Phủ! Chỉ họ Bạch mới làm được việc này!
Dương Châu Thần Thâu vừa đến Lạc Dương được mấy ngày trước. Họ Bạch được hội đồng võ lâm triệu tập để lãnh nhiệm vụ tiềm nhập Sơn Hải Bang, nhưng sự hồi đầu của Ngọa Long Tú Sĩ đã khiến công tác ấy không cần thiết nữa.
Ngày xưa, thuyền và ngựa là phương tiện giao thông duy nhất, kỹ thuật làm cầu qua sông lớn chưa có, nên hành trình gặp nhiều trắc trở, khó xác định thời gian. Bởi thế, Tần Nhật Phủ định về Sơn Tây mà không dám, sợ trễ kỳ đại hội.
Thực ra, tâm trạng họ Tần không hề bình yên như nét mặt. Chàng ta nhận ra rằng ký ức mình có những khoảng trống mơ hồ, mờ mịt tựa chiều sương. Ðó là tuổi thơ, thời gian học võ, dung mạo người thân và phong cảnh quê nhà.
Trước đây chàng luôn bị Ải Thần Quân ở bên cạnh khống chế, chỉ chuyên tâm rèn luyện võ nghệ để chuẩn bị cho đại hội, không suy nghĩ nhiều. Song từ lúc rời Tạ gia trang, một mình một ngựa dong ruổi, chàng có thời gian để tự vấn.
Tần Nhật Phủ không có định hướng, vô tình đi về hướng Ðông, đến chiều dừng chân nơi tiểu trấn. Ðêm ấy tĩnh tọa, hành công xong, chàng tiếp tục đào bới trí nhớ, và tìm thấy một hình ảnh lạ lùng. Ðấy là ba vòi nước suối phun rất mạnh, gần đó có bia đá khắc ba chữ Báo Ðột Tuyền. Dường như chàng đã đến nơi ấy cùng ba nữ nhân nữa, song không rõ dung mạo.
Nhật Phủ ngơ ngẩn vì chưa bao giờ du ngoạn Tế Nam cả. Chàng nhắm mắt mường tượng, rùng mình nhớ đến ba người vợ góa của Nhương Thư. Ðiền gia trang quả đúng là ở rất gần suối Báo Ðột.
Phải chăng Tế Nam có vị trí rất quan trọng trong quá khứ của chàng?
Ðêm ấy, Nhật Phủ, tức Nhương Thư ngủ không yên giấc, đầu óc quay cuồng với những nghi vấn. Chàng mơ màng nhìn thấy những hình ảnh lạnh lùng. Gương mặt từ bi, nhân hậu của một nhà sư rất già, một thi thể phụ nhân lõa lồ đẫm máu, một hố sâu hun hút, đen ngòm.
Những mảnh vụn của dĩ vãng này tuy nhỏ bé nhưng lại là kết quả của Nhiên Ðăng Tâm Pháp. Chính Ải Thần Quân cũng không ngờ rằng pho nội công Phật môn kia có thể hóa giải tà pháp Di Hồn. Lão dạy chàng võ nghệ nhưng không thể thay đổi đường lối vận khí nhiều năm quen thuộc. Song việc gì cũng phải có thời gian nên hiện tại Nhương Thư chưa thể quét sạch ngay được màn u minh trong tâm thức.
Sáng ra, Nhương Thư soi bộ mặt phờ phạc vào chiếc gương đồng, lòng đầy nghi hoặc và cảm thấy xa lạ, nhất là đôi lông mày kép quái dị kia.
Ải Thần Quân đã dùng một thứ thuốc thần kỳ vẽ lên, kích thích chân lông nơi ấy phát triển, sau nửa năm trở thành chân mày. Tất nhiên, những sợi lông mày ấy mảnh hơn, nhạt màu hơn hàng dưới, và không mọc lại khi bị cạo, nếu không bôi thêm thuốc.
Chẳng phải lão lột của mình mà khâu cho Nhương Thư vì cơ thể con người sẽ đào thải những vật xa lạ.
Chúng ta hãy tạm quên Nhương Thư, quay lại Tạ gia trang ở Lạc Dương.
Tuy tin lời Tần Nhật Phủ song Vô Ưu Cái chẳng cam tâm bỏ qua việc tìm kiếm kẻ đã làm cho ba cô em dâu góa bụa của mình phưỡn bụng.
Ông âm thầm triệu tập toàn bộ toán cao thủ bảo vệ Tạ gia trang về tổng đàn để tra hỏi, tránh không để ba ả họ Ðiền biết được.
Bọn đệ tử Cái Bang tuyệt đối trung thành nên thực thà kể lại rằng trong tháng qua mình đã nhiều lần ngủ gục. Thúy Sơn cũng thú nhật rằng ngủ rất ngon.
Ngọa Long Tú Sĩ cho vẽ lại ví trí canh gác của từng người, phát hiện những kẻ ấy nối thành một đường, đi từ khu phòng của Tần Nhật Phủ đến khuê phòng của bọn Mã Lan.
Hồng Diện Tôn Giả phẫn nộ gầm lên:
- Khốn nạn thực! Chúng ta bị tiểu tử họ Tần lừa rồi! Hèn gì gã vội vã rời Lạc Dương ngay!
Chứng cứ đã rành, song Vô Ưu Cái vẫn thận trọng phân tích:
- Cứ cho rằng Tần Nhật Phủ là thủ phạm, thì gã phải giỏi thuật Nhiếp Hồn mới có thể khiến ba nàng kia tưởng mình là Nhương Thư! Vậy vì sao gã lại cứu họ thoát khỏi tà pháp của Kỵ Ba Thần Quân? Tạ Thần Y đã khẳng định rằng thuật châm cứu và thuốc thang chỉ thành công hoàn toàn sau ít nhất hai năm điều trị! Và lão phu không tin một tên dâm tặc xảo quyệt đến mức ấy lại chịu bỏ qua một giai nhân như Bạch hiền muội! Gã thừa sức khiến Thúy Sơn không nhớ được gì cả!
Lập luận vững chắc, hữu lý này khiến các lão hồ ly phải phân vân. Bất Trí Thư Sinh buột miệng than:
- Lại trời cho Tần Nhật Phủ chính là Nhương Thư! Nếu không chúng ta mặt mũi nào gặp y ở chốn suối vàng nữa!
Cao lão luôn khẳng định Nhương Thư vẫn còn sống mà giờ đây nói thế chứng tỏ lòng tin đã lung lay. Thúy Sơn bật khóc ôm mặt bỏ chạy về phòng.
Chiều hôm ấy, nàng đang ngồi gặm nhấm nối thống khổ ở vườn hoa sau tổng đà, thì Ngọa Long Tú Sĩ đi đến. Ông nghiêm giọng:
- Chỉ mình phu nhân là có thể khám phá ra chân tướng Tần Nhật Phủ! Còn bằng cách nào thì phu nhân tự hiểu! Hãy đi đi! Nếu Nhật Phủ không phải là Nhương Thư thì cứ giết gã!
Thúy Sơn thông minh tuyệt thế, biết Tú Sĩ chẳng đẩy mình vào chỗ chết, mừng rỡ nói:
- Phải chăng tiên sinh đã nắm được tám phần hy vọng?
Lỗ Ðăng Hân mỉm cười gật đầu:
- Ðúng vậy! Song hai phần bất trắc kia đáng giá cả cuộc đời phu nhân đấy!
Thúy Sơn kiên quyết đáp:
- Nếu Nhương Thư không còn thì tiểu muội cũng chẳng muốn sống làm gì nữa!
Nửa đêm, nàng khăn gói ra đi, để lại một bức thư cho sư phụ và Vô Ưu Cái.
Bọn hán tử báo cho Thúy Sơn biết hướng đi của Tần Nhật Phủ, nàng liền phi nước đại đuổi theo, bốn ngày sau bắt kịp mục tiêu ở Trịnh Châu.
Nàng vào thành lúc rạng sáng, mừng rỡ vì gặp Dương Châu Thần Thâu Bạch Túc Nhiên. Họ Bạch đi trước nàng một ngày, luôn bám theo đuôi Tần Nhật Phủ.
Gã đang ngồi gật gù ở một mái hiên bên đường, chạy ra chặn Thúy Sơn lại:
- Phu nhân đến đây làm gì? Họ Tần đang trọ trong tòa lữ điếm bên kia đường đấy!
Thúy Sơn liền kể sơ kết quả điều tra dâm tặc ở Tạ gia trang, rồi nghiêm nghị nói:
- Ngọa Long Tú Sĩ đã nghi ngờ Tần Nhật Phủ là Nhương Thư, khuyên ta hy sinh tiết hạnh để kiểm chứng. Túc hạ hãy chịu khó bám theo ta, khi cần thiết sẽ dùng ám khí tiêu diệt gã!
Dương Châu Thần Thâu tuy không phải đệ tử Ðường Môn nhưng lại có tài phóng độc tiễn rất thần diệu. Gã nhăn mặt bàn:
- Hà tất phu nhân phải đặt cả cuộc đời mình vào canh bạc này! Muốn kiểm tra hư thực thì cứ kiên nhẫn theo dõi. Hơn nữa, trừ dáng vóc và giọng nói ra, Nhật Phủ nào có điểm gì giống với công tử đâu?
Thúy Sơn chột dạ phân vân, không dám tiếp cận Tần Nhật Phủ. Ðồng ý cùng Bạch Túc Nhiên âm thầm điều tra.
Mãi đến giữa giờ Thìn, Tần Nhật Phủ mới rời lữ điếm, gương mặt phờ phạc vì mất ngủ, ánh mắt buồn rầu khó tả.
Ðúng là đêm qua chàng giật mình trở giấc lúc cuối canh tư vì một giấc mơ quái dị. Nhật Phủ nằm mộng thấy mình đang ở Tạ gia trang, ân ái với người vợ mất trí của Nhương Thư là Mã Lan. Cảnh mây mưa ấy hiện ra rất rõ ràng, có đầy đủ hơi ấm và mùi thơm từ thân thể nuột nà của người góa phụ. Nhật Phủ thoát dương, kinh hãi ngồi bật dậy, và không sao ngủ lại được. Cảm giác chân thật kia khiến chàng nghi ngờ rằng có thể chính mình là tên dâm tặc điên loạn. Chỉ có kẻ điên mới không nhớ được quá khứ, và tất nhiên sẽ không làm chủ được hành vi.
Nỗi tuyệt vọng cứ lớn dần, Nhật Phủ tự phỉ nhổ mình và không còn muốn sống nữa. Nhưng để tạ lỗi với Tần Nhương Thư, chàng sẽ liều chết giết cho được Kỵ Ba Thần Quân.
Ðã nuôi chủ ý như vậy nên Nhật Phủ phi nước đại về hướng Ðông, chiều hôm sau rẽ trái và đến Khai Phong vào quá trưa ngày mười ba.
Ðôi lông mày kép là chiêu bài lừng lẫy của Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách nên đám đệ tử Âm Sơn Giáo mau chóng phi báo về tổng đàn ở Cô Ðộc Bảo.
Dùng bữa xong, Tần Nhật Phủ đi tìm Âm Sơn Lão Tổ. Giới võ lâm Khai Phong không thiếu óc hiếu kỳ đã rầm rộ bám theo, tổng số không dưới bốn mươi.
Cô Ðộc Bảo nằm ở phía Ðông thành Khai Phong, giờ đã chính thức thuộc về Âm Sơn Giáo. Vô Ưu Cái đã đem cơ ngơi này hiến cho Âm Sơn Lão Tổ để chuộc Dạ Quân Tử Quách Tàn Bôi. Họ Quách được tha lập tức trở về Tứ Xuyên thăm mẹ già. Còn người chủ cũ của Cô Ðộc Bảo là Trung Nguyên Cao Sĩ thì đã âm thầm xuất gia từ hai năm trước, trở thành đệ tử phái Thiếu Lâm, việc này rất ít người biết.
Nhờ việc tổ chức đại hội võ lâm mà liên minh giữa Âm Sơn Giáo và Sơn Hải Bang tan rã. Âm Sơn Lão Tổ án binh bất động, để mặc lực lượng Bạch đạo đánh nhau với Kỵ Ba Thần Quân.
Nhờ tin tức của Ngọa Long Tú Sĩ mà phe chính phái đã xuất quân từ Cưu Sơn, phá hủy nhiều cơ sở mật của Sơn Hải Bang ở Huy Châu, Bắc Giang Tô khiến chúng không thể bành trướng ra ngoài phủ Sơn Ðông.
Ðệ tử các phái đều cải trang, chiến đấu dưới danh nghĩa Cưu Bang, khiến oai danh Hoàng Nghi Tuyệt và Từ Thanh Huệ nổi như cồn.
Sau khi điểm sơ cục diện võ lâm, chúng ta quay lại với Tần Nhật Phủ. Chàng ta dừng cương trước Cô Ðộc Bảo, lạnh lùng nói với mấy gã gác cổng:
- Các ngươi vào báo với Âm Sơn Lão Tổ rằng có Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách đến so tài cao thấp!
Âm Sơn Lão Tổ Lương Dã Toàn đang uống trà với Nghiên Tái Thuần, nghe báo tin liền cau mày hỏi:
- Thuần nhi! Sao gã họ Tần đến khiêu chiến với ta?
Nghiên Tái Thuần lúc lắc cái đầu to tướng:
- Lạ thực! Giả như bọn Vô Ưu Cái chiêu mộ được Tần Nhật Phủ thì cũng để dành cho đại hội võ lâm chứ sao lại đưa gã vào chỗ chết thế này? Thực là khó hiểu! Thôi được, sư phụ cứ ra đấu với họ Tần, và đặt điều kiện bắt y phải qui phục nếu thua!
Lương Dã Toàn mừng rỡ:
- Hay lắm! Nếu thu phục được Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách thì thực lực Âm Sơn Giáo sẽ mạnh lên hẳn! Nghe đồn rằng Nhật Phủ đã từng cầm hòa với Hồng Diện Tôn Giả ở Bắc Kinh!
Nghiên Tái Thuần cười xảo quyệt:
- Sư phụ hãy ăn mặc thật chỉnh tề, kéo dài thời gian. Tần Nhật Phủ còn trẻ, chờ đợi lâu tất sẽ bồn chồn, tâm loạn động, kiếm pháp lộ nhiều sơ hở!
Âm Sơn Lão Tổ hài lòng khen:
- Ngươi đúng là quân sư tốt của lão phu!
Song Nghiên Tái Thuần lại không ngờ sự xảo quyệt của mình đã gây tai họa. Số là Thúy Sơn và Dương Châu Thần Thâu cũng có mặt trong đám hào khách hiếu kỳ. Lúc đầu, họ không biết mục đích của Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách, lòng rất nghi hoặc. Khi nghe chàng lên tiếng khiêu chiến với Âm Sơn Lão Tổ thì Thúy Sơn mới tá hỏa tam tinh. Nàng bối rối hỏi Dương Châu Thần Thâu:
- Bạch túc hạ, làm sao bây giờ? Sao họ Tần lại đến đây liều mạng với Lương lão quỷ, đi ngược với kế hoạch của hội đồng võ lâm? Quân số Âm Sơn Giáo đông như kiến, Nhật Phủ chẳng thể nào thoát thân được!
Bạch Túc Nhiên gãi tai, nhăn mặt:
- Ta cũng không hiểu nổi! Nhưng trước mắt phải tìm cách giải vây cái đã!
Họ Bạch có dung mạo đoan chính, dễ mến, khiến cả thiên hạ phải lầm to. Thực ra, Bạch Túc Nhiên cực kỳ xảo trá, quỷ quyệt, thủ đoạn lại tàn nhẫn phi thường. Có điều, gã chỉ lấy trộm của bọn trọc phú, cường hào, ác bá mà thôi, cho nên được cả hai phe chính tà tôn trọng.
Dương Châu Thần Thâu nghĩ ngợi một lúc, tủm tỉm hỏi Thúy Sơn:
- Phu nhân có mang theo vàng đấy không?
Nàng góa bụa sầu muộn gật đầu:
- Ðộ bốn vạn lượng! Túc hạ cần bao nhiêu?
- Sao phu nhân lại mang theo cả một gia tài như thế? Tại hạ chỉ cần năm trăm lượng là đủ!
Thúy Sơn không trả lời, lặng lẽ móc ngân phiếu trao cho Dương Châu Thần Thâu ngàn lượng. Mắt nàng hơi ươn ướt vì thương nhớ trượng phu, số của cải này do Nhương Thư lấy được của Trác Thiên Lộc. Nàng thầm ghen với sự giàu sang của ba cô gái họ Ðiền nên đã giữ lấy để sau này có của hồi môn mà về làm dâu họ Tần.
Thúy Sơn buồn bã nói:
- Bạch túc hạ cứ cầm cả ngàn lượng, nếu thiếu tiểu muội sẽ đưa thêm!
Bạch Túc Nhiên nheo mắt đáp:
- Tần Nhật Phủ được xem như người nhà của quan Tả Ðô Ngự Sử cầm đầu Ðông Xưởng. Việc này đã được truyền tụng khắp quan trường, vì vậy, chỉ cần vài trăm lượng cũng đủ khiến tổng binh thành Khai Phong phải kéo quân đến giải vây cho họ Tần. Phu nhân hãy yên tâm chờ tin của tại hạ!
Nói xong, gã quay ngựa phóng như bay trở lại thành Khai Phong, cách Cô Ðộc Bảo chừng chục dặm.
Thúy Sơn yên lòng quay sang ngắm Tần Nhật Phủ. Nàng đã cải nam trang, mang râu rậm, đội nón vành rộng nên chẳng sợ ai nhận ra. Bạch Túc Nhiên là đạo chích, trong hành lý lúc nào cũng sẵn đạo cụ dịch dung.
Lúc này đã là đầu giờ Thân, vầng dương ngã về tây nhưng vẫn còn chói lọi, nhuộm hồng bộ võ phục trắng và gương mặt rám nắng của Tần Nhật Phủ.
Chủ nhà lần khân mãi chẳng chịu ra, khách quan chiến đều nóng ruột mà họ Tần vẫn bình thản đứng im như pho tượng, mắt hướng về ngọn núi mờ xa, phía sau lưng Cô Ðộc Bảo.
Lòng Thúy Sơn lại rộn rã niềm hy vọng vì phong thái trầm tĩnh, định lực thâm hậu kia nào có khác Nhương Thư.
Hơn khắc sau, Âm Sơn Lão Tổ và bọn đầu lĩnh Âm Sơn Giáo mới khệnh khạng xuất hiện.
Lương Dã Toàn vốn là người cao to lực lưỡng, tuy mặc đạo bào nho nhã màu nguyệt bạch, đầu đội mũ đạo sĩ, mà vẫn oai phong lẫm liệt như võ tướng. Nhờ Thiên Niên Tuyết Sâm mà râu tóc lão đen nhánh, mặt hồng hào, trông trẻ như mới năm mươi. Giờ đã là giáo chủ một giáo phái, Lương Dã Toàn mạ vàng cây côn thép cho xứng với thân phận cao cả.
Thúy Sơn giận run khi nhận ra kẻ mặc trường bào gấm đen sang trọng, đi sau lưng Âm Sơn Lão Tổ, chính là gã phản bội Nghiên Tái Thuần. Họ Nghiên cũng cầm đoản côn, nhưng đường kính nhỏ hơn côn của Lương Dã Toàn, và mạ bạc sáng loáng.
Nghiên Tái Thuần nghiêng chiếc đầu to, hấp háy đôi mắt liếng, ngắm nghía Tần Nhật Phủ rồi nói nhỏ vài câu với Lương Dã Toàn.
Lương Dã Toàn cười ha hả, vòng tay nói với khách:
- Từ lâu, lão phu vẫn thường ngưỡng mộ thanh danh của bậc anh tài trẻ tuổi đất Hà Bắc, không ngờ hôm nay lại được Tần công tử ghé thăm, quả là vinh hạnh! Lão phu vốn "ái tài như mạng", sẵn sàng mời công tử hạ cố nhận chiếc ghế phó giáo chủ Âm Sơn Giáo! Nếu công tử không chê, xin mời vào sảnh bàn bạc!
Miếng mồi vinh hoa phú quý này không thể mua chuộc được bậc anh hùng. Nhật Phủ hờ hững lắc đầu:
- Tại hạ vốn nhạt mùi danh lợi, chỉ xem trọng võ học, nên đến đây để lãnh giáo tôn giá vài chiêu. Nếu tôn giá sợ thì hãy lột chiêu bài, rút quân về Tây Hạ!
Âm Sơn Lão Tổ tính tình nóng nảy, không chịu nổi lời khiêu khích ngạo mạn kia, liền trợn mắt nạt:
- Lão phu sở hữu trăm năm công lực, lẽ nào lại sợ một gã tiểu tử chưa ráo máu đầu! Ngươi đã dám khoác lác thì chớ trách lão phu tàn nhẫn!
Nghiên Tái Thuần vội kéo áo sư phụ để nhắc nhở. Lương Dã Toàn hiểu ý lùi lại để Nghiên Tái Thuần bước lên.
Họ Nghiên vòng tay cười nói:
- Công tử có dám đánh cược với tại hạ hay không? Nghĩa là, nếu công tử bại trận thì phải trở thành người của Âm Sơn Giáo, bằng như công tử thắng thì bọn ta sẽ rút về Tây Hạ!
Nhật Phủ ở Lạc Dương cả tháng, thường được nghe nhắc đến gã phản bội xấu trai này. Nay gặp mặt, chàng vô cùng chán ghét, lạnh lùng đáp:
- Ta đồng ý nếu ngươi chịu xuất thủ! Sau ba mươi chiêu mà ngươi vẫn lành lặn thì ta sẽ qui hàng!
Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ cũng đồn xa. Bọn hào khách Khai Phong đều biết Nghiên Tái Thuần khi sư diệt tổ, phản lại võ lâm Trung Nguyên. Do vậy, họ nhao nhao xúi giục Nghiên Tái Thuần nhận lời, mong gã sẽ chết thảm dưới tay Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách. Dù chính hay tà, kẻ phản sư luôn bị người đời khinh ghét. Có kẻ mỉa mai:
- Ba mươi chiêu mà cũng không cầm cự nổi thì thật là nhục nhã cho Âm Sơn Giáo! Tướng ngươi xấu xí như ma, lại nhút nhát thì còn sống làm quái gì nữa!
Khách quan chiến phá lên cười chế nhạo sự lưỡng lự của Nghiên Tái Thuần. Song họ Nghiên gian xảo có thừa, thản nhiên cười đáp:
- Tại hạ mới học côn pháp chẳng bao lâu, không dám bêu xấu ân sư, đành phải chịu tiếng nhát gan vậy! Xin Tần công tử cứ đấu với gia sư mới xứng với thân phận một bậc anh hùng!
Tần Nhật Phủ thở dài:
- Khá khen cho ngươi giỏi chịu nhục còn hơn Hàn Tín! Thôi được, để ta giết Âm Sơn Lão Tổ xong sẽ tìm đến ngươi sau!
Câu nói lạnh lùng như băng và chắc như đinh đóng cột này đã làm cho Nghiên Tái Thuần chột dạ, không còn cười nổi nữa.
Lương Dã Toàn nghe đối phương đòi lấy mạng mình, điên tiết bước ra:
- Tiểu oa nhi ngông cuồng! Ngươi tận số rồi!
Lão chực xông đến thì nhận ra Nhật Phủ đã rút gươm dựng đứng trước ngực, phong thái uy nghi như thiên tướng. Sát khí dàn dụa không gian. Lương Dã Toàn thoáng rùng mình, thức ngộ rằng Nhật Phủ đã đạt đến trình độ thượng thừa trong kiếm đạo, chẳng phải kẻ dễ bị ăn hiếp.
Song Âm Sơn Lão Tổ chưa kịp bình tâm thì Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách đã thực hiện câu "tiên hạ thủ vi cường!". Họ Tần hóa thành đạo kiếm quang sáng bạc, bay vút đi, thân ảnh chập chờn nhưng nhanh tựa sao băng.
Ở tuổi dưới ba mươi mà luyện thành Ngự Kiếm thuật thì quả là chuyện cổ lai hi hữu. Lương Dã Toàn biến sắc, múa tít kim côn, lực đạo ngàn cân xé không gian vun vút, kín đáo và mãnh liệt phi thường.
Hai màn lưới thép chạm nhau chói tai, song phương dội ra và có tiếng Âm Sơn Lão Tổ gầm lên giận dữ. Lão đã nhờ công lực thâm hậu mà đánh bạt được chiêu Ngự Kiếm, song vẫn bị một vết thương nhỏ nơi bắp vai trái. Lòng tự tôn của một lão đại ma đầu không thể chấp nhận được sự thiệt thòi nhỏ bé ấy, Lương Dã Toàn nổi điên dồn sức vào đường côn, quyết đập nát xác gã tiểu tử khốn kiếp kia.
Cây kim côn nặng đến bốn mươi ba cân ban phát những cú đập trời giáng, khiến hổ khẩu họ Tần đau rát. Gã thầm hiểu công lực mình kém xa đối thủ, đành dở pho khinh công Cửu Huyền Thần Bộ ra đối phó.
Tuyệt học của Sấu Tiên quả thần diệu tuyệt luân, chín bóng ảnh quay cuồng quanh Lương Dã Toàn tạo nên một cảnh tượng kỳ dị, khiến bọn hào khách phục sát đất, hoan hô vang dội.
Lương Dã Toàn thầm khiếp sợ trước pho thân pháp ma quỷ kia vì nhận ra nguồn gốc. Sấu Tiên đã từng đả bại Thần Quang Chân Nhân nhờ bộ pháp Cửu Huyền.
Từ những bóng thực hư lẫn lộn ấy, Tần Nhật Phủ ập vào thọc kiếm xuyên qua lưới côn, lần lược đâm hàng chục lỗ trên cơ thể đối phương. Song luồng cương khí hộ thân dày đặc của một kẻ sở hữu đến trăm năm công lực đã ngăn cản đà tiến của mũi kiếm nên không vết nào sâu hơn cả.
Âm Sơn Lão Tổ vẫn kiên cường chiến đấu, bảo vệ chu đáo các tử huyệt, chờ đối phương mệt mỏi mà hạ thủ.
Quả thực vậy, tốc độ sao băng, hư ảo của Cửu Huyền Thân Pháp rất tiêu hao chân khí nên Tần Nhật Phủ chẳng thể thi triển lâu dài được. Do thế, tuy thương tích đầy mình song cuối cùng Lương Dã Toàn sẽ là người chiến thắng.
Bộ đạo bào bạch nguyệt bằng gấm thượng hạng đã rách như tổ ong, nhuộm hồng máu, nhưng đường côn của Lương Dã Toàn vẫn cương mãnh như bão tố.
Sau vài khắc, nguồn tu vi gần hoa giáp của Tần Nhật Phủ đã suy giảm thấy rõ. Gã chỉ còn có thể hóa thành năm bóng ảnh mà thôi.
Dù bọn hào khách trầm trò tán dương, nhưng Nhật Phủ tự biết mình sẽ chết nếu không kết liễu ngay được Lương Dã Toàn. Chàng chẳng tiếc mạng, chỉ tiếc sau trận này không còn sống đến đến Tế Nam tiêu diệt Kỵ Ba Thần Quân.
Nhật Phủ đành an phận với cục diện, quyết định một đổi một. Chàng dồn bốn thành lực đạo sang bàn tay tả đang bắt kiếm ấn rồi xông vào.
Nhật Phủ xuất chiêu Trang Tử Khóc Thê trong pho Huyền Không Kiếm Pháp, thân kiếm rung động phát ra những âm thanh ngân nga như tiếng hát thê lương. Chiêu này lấy tích Trang Chu ngồi bên xác vợ già, lúc đầu thì khóc lóc, sau lại ca hát cho đúng đạo trời.
Âm thanh thì thế, còn kiếm ảnh là màn sương gồm hàng ngàn giọt lệ long lanh. Ðạo tự nhiên là có sinh có diệt, nhưng tình nghĩa phu thê lại khơi dòng lệ thảm.
Âm Sơn Lão Tổ vẫn giữ nguyên đấu pháp cũ, phòng thủ kín đáo và tấn công bằng sức mạnh chẻ núi. Lão không hề bối rối, nghiến răng công phá màn kiếm quang mù mịt kia, mừng vì chỉ vài thế đã đánh bạt được thanh thép nguy hiểm.
Và tất nhiên lão thừa thắng xông lên vì đối phương đã lộ sơ hở chết người. Lương Dã Toàn chớp cơ hội, thọc mũi côn vào ngực họ Tần. Lão cảm nhận được xương lồng ngực của Nhật Phủ gẫy răng rắc nhưng đồng thời cũng thấy mắt phải mình đau buốt, rồi não bộ nóng rực lên như bị dùi sắt nung đỏ xiên vào.
Thân hình Tần Nhật Phủ văng ngược, lăn lông lốc trên mặt cỏ, còn Âm Sơn Lão Tổ ôm mặt rú lên như điên loạn. Lão đã bị một đạo Lục Mạch Thần Chỉ phá vỡ nhãn cầu, xuyên vào óc nên không thể không chết.
Toàn trường kinh hoàng trước tiếng thét ghê rợn và thê thảm của Âm Sơn Lão Tổ, rồi sững sờ nhìn lão ngã quị, thân thể co giật liên hồi.
Nghiên Tái Thuần sớm hoàn hồn, xông đến vung Ngân Côn hạ sát Tần Nhật Phủ. Nhưng một hán tử áo xanh đội nón rộng vành đã kịp xuất hiện cạnh họ Tần, vung kiếm đỡ đòn. Người ấy chính là Bạch Thúy Sơn.
Nghiên Tái Thuần nhờ tà pháp Thái Bổ, sau khi uống ba viên Thiên Niên Tuyết Sâm, đêm đêm giao hợp với nữ nhân để hút Âm nguyên nên công lực tăng tiến phi thường. Bọn kỹ nữ Khai Phong chỉ sau một lần phục vụ Nghiên Tái Thuần là liệt giường tám chín ngày, không dám tiếp gã nữa. Thế là họ Nghiên dùng bản lãnh võ công làm hại đám dân nữ trong vùng lân cận Khai Phong. Tóm lại, giờ đây gã sở hữu đến gần ba chục năm công lực.
Nghiên Tái Thuần lại thông minh tuyệt thế, vài tháng đã thuộc làu pho Âm Sơn Côn Pháp, chỉ kém phần kinh nghiệm lâm trận.
So ra, Nghiên Tái Thuần không hơn được một kẻ dày công luyện tập như Thúy Sơn, nhưng nàng lại không dám rời xa Nhật Phủ nên bị bó tay, bó chân lúng túng trước kẻ thù.
Thúy Sơn cắn răng chống đỡ những đường côn vũ bão của Nghiên Tái Thuần, hổ khẩu tóe máu mà vẫn phải trực diện va chạm để bảo vệ cái xác dưới chân mình. Tuy không biết chắc nhưng nàng hi vọng Nhật Phủ chưa chết.
Và nếu họ Tần chính thực là Nhương Thư thì càng có nhiều khả năng sống sót, vì cơ thể chàng nhờ tinh huyết Thủy Xà Vương mà rắn chắc phi thường. Nhương Thư từng trúng liền mấy gậy sắt của cao thủ Bát Quái Môn ở Cưu Sơn mà vẫn lành lặn. Trường Côn của đám sư huynh Từ Thanh Huệ cũng nặng chẳng kém Kim Côn của Âm Sơn Lão Tổ.
So sánh đơn giản thì như thế, song Thúy Sơn cũng biết Lương Dã Toàn có đến trăm năm công lực, đòn ra nát đá tan vàng. Nhưng dẫu sao Thúy Sơn cũng không để mất niềm hy vọng cuối cùng của đời mình.
Nàng di chuyển quanh thân xác Tần Nhật Phủ, vất vả giải phá những chiêu côn hiểm ác của Nghiên Tái Thuần, lòng thầm van trời xanh thúc giục Dương Châu Thần Thâu đem quân triều đình đến sớm, trước khi nàng kiệt sức.
Tiếng khóc la của bọn dũng sĩ Ðảng Hạ vang lên, chứng tỏ rằng Âm Sơn Lão Tổ đã thăng thiên và đám đệ tử thân tín của lão giận dữ, đánh đuổi bọn hào khách Khai Phong, rồi vây chặt đấu trường. Chờ Thúy Sơn thất cơ là xông vào bằm xác cả nàng lẫn Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách.
Nghiên Tái Thuần vững bụng chiến đấu, chỉ vài chục hiệp đã đánh văng nón tre trên đầu đối thủ. Gã đã âm thầm si mê, thèm khát bốn ả góa phụ của Nhương Thư nên nhận ra ngay Thúy Sơn. Nghiên Tái Thuần mừng rỡ cười dâm đãng:
- Té ra là Bạch phu nhân! Tạ ơn trời đã xui khiến nàng đến đây để Nghiên mỗ được thỏa lòng mong ước!
Thúy Sơn giận dữ chém liền bốn kiếm như sấm sét. Nghiên Tái Thuần vung côn đỡ đòn, phản kích lại và mỉa mai:
- Phải chăng nàng đã ngứa nghề nên trốn theo gã Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách này? Tiếc thay gã đã chết rồi, không ai chịu nổi một côn của Âm Sơn Lão Tổ vào ngực mà sống sót nổi! À mà không sao, bản lãnh phòng the của ta còn lợi hại hơn Nhật Phủ bội phần!
Dứt lời, Nghiên Tái Thuần tấn công ráo riết cố đánh văng bảo kiếm của nàng mà bắt sống.
Thúy Sơn bản chất ngoan cường, thà chết chứ không chịu nhục, đem hết sở học ra đối phó, kiếm quang cuồn cuộn sát khí, nhẫn nại duy trì cục diện để chờ viện binh.
Ðường côn của Nghiên Tái Thuần nặng như búa bổ nên hổ khẩu Thúy Sơn rách toạc, máu rỉ ướt lòng bàn tay, cơ hồ không còn cầm vững chuôi kiếm nữa.
Trong lúc hiểm nghèo ấy, bất ngờ Tần Nhật Phủ mở mắt, đưa cao bàn tay hữu và máy động ngón giữa, từ huyệt Thương Dương sau góc móng, một đạo chỉ kình bay ra, xạ thẳng vào huyệt Khí Hải của Nghiên Tái Thuần.
Họ Tần thọ trọng thương, công lực chẳng còn bao nhiêu, thủ pháp lại thiếu chuẩn xác, nên đạo chỉ phong kia lệch mục tiêu, trúng vào hạ nang của đối phương.
Nhật Phủ là bậc anh hùng, dù chán ghét họ Nghiên nhưng cũng không bao giờ nghĩ đến chuyện tấn công vào hạ thể, đưa Nghiên Tái Thuần vào cảnh tuyệt tự. Xong trời xui đất khiến nên một viên Ngọc Hành của Nghiên Tái Thuần lại lãnh đủ, bị Lục Mạch Thần Chỉ xuyên thủng.
Ðây là một bộ phận yếu ớt, nhạy cảm nhất trong cơ thể con người, dù không gây tử vọng. Nghiên Tái Thuần đau thấy ông bà ông vải, rú lên the thé, tay chân bủn rủn. Tất nhiên đường côn của gã mất lực đạo và lộ sơ hở. Thúy Sơn mừng rỡ nghiến răng thọc một kiếm vào ngực gã phản trắc ti tiện.
May cho Nghiên Tái Thuần ở chỗ gã co rúm người vì đau đớn nên chỉ bị đâm trúng vai, như thế cũng đủ khiến họ Nghiên thét lên, tung mình ra xa. Gã đang thúc thủ hạ xông đến thì Thúy Sơn đã móc Bạt Sơn Thần Lựu ném vào hàng ngũ bọn Ðảng Hạ ở hướng Ðông.
Hỏa khí nổ vang trời, thịt xương tan nát văng tứ tán, khiến đám người hủ lậu đất Tây Bắc kia kinh tâm tán đởm, bỏ chạy cả. Lúc này Thúy Sơn đã kịp cõng Tần Nhật Phủ trên lưng, lao về phía phòng tuyến bị vỡ.
Nghiên Tái Thuần tức tốc thúc giục đệ tử Âm Sơn Giáo truy sát, song Thúy Sơn đã ném ngược lại một trái Thần Lựu nữa, tăng số thương vong của kẻ thù và khiến chúng phải từ bỏ ý định đuổi theo.
Thúy Sơn thoát về hướng Ðông và biệt dạng trong cánh rừng già dọc bờ Nam sông Hoàng Hà. Nàng không dám trở lại thành Khai Phong vì nơi ấy ngập tràn kẻ địch, Âm Sơn bảo kê toàn bộ sanh ý trong thành, tay chân rải rác khắp nơi. Hơn nữa, nàng cho rằng quan quân Lạc Dương bị Âm Sơn Giáo mua chuộc nên đã không nghe theo lời mời của Dương Châu Thần Thâu đến giải vây cho Tần Nhật Phủ.
Thúy Sơn cõng họ Tần chạy miết, tay dùng bảo kiếm chặt cành mở lối. Ðược mười dặm, nàng gặp một tòa nhà gỗ lớn khang trang, tọa lạc trên bãi cỏ phẳng giữa rừng, mừng rỡ rảo bước đến gọi. Nhưng mãi chẳng thấy chủ nhân lên tiếng, Thúy Sơn liền đẩy cổng dậu gỗ mà vào.
Thấy cửa chính bị khóa chặt, biết chủ nhà đi vắng, Thúy Sơn vung kiếm phá ổ khóa.
Ðồ đạc, vật dụng trong nhà tuy không quí giá nhưng rất đầy đủ. Thúy Sơn đặt Nhật Phủ nằm xuống chiếc giường vạt tre rồi tất tả trở ra ngoài, phi thân lên một ngọn cây Du cao vút để quan sát và nghe ngóng. Biết chắc Âm Sơn Giáo không đuổi theo, nàng thở phào nhảy xuống, vào nhà chăm sóc thương thế cho nạn nhân.
Tuy thẹn thùng nhưng Thúy Sơn thức ngộ rằng đây là cơ hội hiếm có để nàng kiểm tra cơ thể Nhật Phủ. Nhương Thư có những vết sẹo, những nốt ruồi mà nàng rất quen thuộc.
Tần Nhật Phủ đang mê man bất tỉnh, máu trong phổi liên tục ứa ra khoé miệng. Thúy Sơn vội cho bệnh nhân uống mấy viên linh đan trị nội thương, rồi tranh thủ lúc ánh tà dương chưa tắt, cởi áo Nhật Phủ ra để xem xét.
Ðầu Kim Côn của Âm Sơn Lão Tổ đã gây ra một vết tím bầm sưng vù dưới vú phải của họ Tần. Thúy Sơn ấn thử, cảm giác được sự rời rạc của những lóng xương bị gãy, thở dài lo lắng. Nàng chỉ hi vọng không đoạn xương nào cắm vào phổi họ Tần.
Thúy Sơn bôi đầy cao lên thương tích rồi bắt đầu quan sát kỹ những vết sẹo trên thân trước Nhật Phủ. Khổ thay, gã có rất nhiều sẹo dọc ngang, mới chồng lên cũ, chẳng thể nào tìm ra chân tướng. Từ thắt lưng trở xuống, Nhương Thư không có dấu vết gì đặc biệt, còn dương vật thì Thúy Sơn cho rằng ai cũng giống ai. Vậy thì chỉ còn cách liều chết ân ái với Nhật Phủ mà thôi. Trong cuộc mây mưa, Nhương Thư có những thói quen mà nàng tuyệt đối chẳng thể nào lầm.
Thúy Sơn cẩn thận xăm soi gương mặt đẹp của Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách. Ðôi lông mày kép dị tướng kia hoàn toàn là thực, và da mặt chàng không hề có sẹo.
Thực ra, tài nghệ của Ải Thần Quân chẳng siêu phàm đến mức ấy, mà chính dược lực của ba loại kỳ trân trong cơ thể Nhương Thư đã làm cho những vết sẹo kia biến mất. Chàng từng bị đâm chém rất sâu mà khi lành cũng chỉ để lại dấu vết mờ mờ, huống hồ gì những đường rạch nhẹ nhàng khéo léo của Ải Thần Quân.
Y phục của Thúy Sơn dính đầy máu do Nhật Phủ ói ra, nên nàng xuống nhà tìm chỗ tắm rửa. Là nữ nhân, nàng không chịu nổi sự dơ bẩn.
Tòa mộc xá này tuy chỉ có một cửa chính song bên trong lại chia làm ba gian, phía sau có thêm nhà bếp nhỏ. Nhà bếp là từ dùng để chỉ nơi nấu nướng và vệ sinh, Thúy Sơn hài lòng vì lu sành trong nhà tắm đầy ắp nước.
Nàng tò mò lục lạo một hồi phát hiện gạo và thịt khô rất dồi dào. Còn nguồn nước là giếng sau vườn, xung quanh trồng đầy rau.
Khách giang hồ luôn cột chặt tay nải nhỏ vào lưng nên cả Thúy Sơn lẫn Nhật Phủ đều có y phục sạch để thay. Tắm gội xong, Thúy Sơn trở vào nhà trên, ngần ngại một lúc thầm khấn vái Nhương Thư rồi cởi quần dài Nhật Phủ ra. Nàng dùng khăn ướt lau người cho gã, chuẩn bị thay bộ võ phục mới.
Họ Tần vẫn mê man, người hâm hấp sốt nhưng mạch vẫn đều đặn và máu trong phổi đã thôi ứa ra. Thúy Sơn đỏ mặt nhìn cơ thể gần như trần truồng, rùng mình vì cảm giác quen thuộc. Những bắp thịt cuồn cuộn săn chắc kia nào có lạ gì với nàng. Và dường như mùi da thịt này cũng đúng là của Nhương Thư. Nhưng Thúy Sơn vẫn không thể đoan chắc, chỉ sợ mình lầm, gương mặt của Nhật Phủ quá ư là xa lạ.
Ðau đớn vì mối nghi ngờ, Thúy Sơn ứa nước mắt, cắm cúi mặc quần áo cho họ Tần. Nàng chợt bối rối khi nghĩ đến lúc bệnh nhân tiêu tiểu, chỉ biết thở dài phó mặc.
Thúy Sơn xuống bếp vo gạo, nấu cháo với thịt khô, chắt nước đổ vào miệng người bệnh. Nàng mừng rỡ vì gã nuốt ngon lành, không hề nôn ra.
Trời đã tối hẳn, may mà trong nhà sẵn hai ngọn đèn dầu mỏ. Thúy Sơn đốt cả hai, một để lại trên bàn gần giường bệnh, một cầm theo để xem xét hai gian kia.
Tần Nhật Phủ đang nằm ở phòng mé tả, có lẽ là phòng ngủ của chủ nhà. Gọi là phòng cũng không đúng vì ba gian chỉ được ngăn cách nhau bằng hai bức bình phong, mỗi bức gồm năm mảnh gỗ đen bóng, chạm trổ hoa văn cầu kỳ.
Gian giữa có một bệ thờ trên đặt tượng Tam Thanh, bát nhang, chuông, mõ. Phải chăng chủ nhân nơi đây là một đạo sĩ. Trước bệ thờ có mảnh chiếu và một chiếc bồ đoàn.
Gian mé hữu chất đầy sách trên kệ gỗ sát vách, giữa là án thư và chiếc ghế dựa. Thúy Sơn hiếu kỳ lật sách xem thử, chỉ thấy toàn là kinh sách của đạo giáo.
Nàng quay về gian giữa, thắp hương cắm vào lò rồi quì xuống khấn vái, khóc lóc. Hồng Diện Tôn Giả thờ phật, nhưng trong lúc rối ren này, Thúy Sơn sẵn sàng cầu khẩn bất cứ vị thần nào, mong sao phù hộ cho nàng đủ sáng suốt và may mắn trong cuộc thử nghiệm chết người này. Chỉ riêng việc nàng tắm rửa cho Tần Nhật Phủ cũng đủ gọi là thất tiết, không mặt mũi nào sống nữa. Chẳng lẽ nàng để gã tiểu tiện ra quần mà không làm sạch.
Lệ thầm trào tuôn cũng khiến nàng tỉnh táo hơn, càng tin vào linh cảm của mình. Vả lại, Ngọa Long Tú Sĩ đã khẳng định được tám phần sự thực, và ba nàng tiểu thư họ Ðiền cũng khăng khăng xác nhận mùi chồng.
Ðã có chủ ý, Thúy Sơn trèo lên giường nằm chung với Nhật Phủ vì không thể nằm dưới đất được. Nửa đêm nàng cho gã uống thuốc lần nữa và phát hiện đũng quần của họ Tần ướt đẫm.
Thúy Sơn tần ngần, lưỡng lự một lúc rồi cắn răng lao vào canh bạc. Nàng cởi cả quần dài lẫn quần ngắn của gã trai hư đốn kia, trống ngực đập thình thịch nhớ lại những ngày dưới vực thẳm Sáp Vân Phong. Kỷ niệm ấy mãi mãi khắc sâu trong lòng nên không thể lầm được. Nhưng nàng chỉ biết có một nam nhân duy nhất, lấy cơ sở nào để so sánh.
Sau ba ngày mê man, cơ thể Nhật Phủ đã hồi sinh. Chàng ta tỉnh lại lúc rạng sáng ngày mười bảy, ngơ ngác nhận ra người vợ góa xinh đẹp của Tần Nhương Thư nằm cạnh mình.
Nhật Phủ hồi tưởng lại, hiểu rằng sau khi chàng dùng Lục Mạch Thần Chỉ đã thương Nghiên Tái Thuần, Thúy Sơn đã đưa chàng đào tẩu đến khu rừng này. Qua khung cửa sổ mở rộng kia, chàng nhìn rõ màu đỏ vàng của những cây Ô Thích sớm thư về, và nghe chim rừng ríu rít đón bình minh.
Nhật Phủ ngắm nhìn gương mặt thanh tú nhưng xanh xao của Thúy Sơn, cố nén tiếng thở dài. Chàng chợt nghe lòng rung động mãnh liệt những cảm giác yêu thương. Giờ đây, chàng mới thức ngộ được rằng mình thầm ái mộ nàng quả phụ này.
Hình bóng ba người đàn bà họ Ðiền hiện ra khiến Nhật Phủ vô cùng chua xót, hoang mang. Từ ngày xuất đạo, chàng luôn tôn sùng bậc kỳ hiệp Ngũ Ðài Sơn là Tần Nhương Thư, xem đấy là tấm gương sáng, nào ngờ, chính chàng lại làm kẻ bất nghĩa. Dường như chàng đã say mê bốn người vợ góa của Nhương Thư.
Nhật Phủ nghe bàng quang căng cứng, rón rén ngồi lên, ra phía sau tiểu tiện. Và chàng giật mình khi thấy cả quần lót cũng được thay. Vậy là Thúy Sơn đã vì chàng mà hi sinh tiết hạnh.
Nhật Phủ thẫn thờ trở vào nhà trên, đi thử sang hai gian kia, rồi ngồi xếp bằng trên án thư vận công kiểm tra chân khí.
Chàng mừng vì kinh mạch thông suốt, chỉ hơi đau khi lưu chuyển qua huyệt Nhũ Căn nơi ngực phải. Huyệt này thuộc Kinh Túc Dương Minh Vị. Do vậy, chàng không thể thi triển khinh công. Về ngoại thương, hai lóng xương ngực bị gãy vẫn chưa liền, thì tay phải cũng chẳng cử động được. Tóm lại, Nhật Phủ phải tĩnh dưỡng thêm một thời gian dài mới mong khôi phục võ công.
Họ Tần đành phế bỏ ý định đi Tế Nam giết Kỵ Ba Thần Quân, song trở lại Lạc Dương thì lòng thêm hổ thẹn. Chưa biết quyết định thế nào thì có tiếng chân người chạy đến.
Ðấy là Thúy Sơn, thấy chàng, nàng thở phào nhẹ nhõm:
- Tiểu muội thức giấc, chẳng thấy công tử đâu lòng vô cùng lo lắng! Không ngờ công tử lại hồi phục nhanh như vậy, mới ba ngày đêm đã có thể đi lại!
Nhật Phủ hổ thẹn tự nhủ thầm:
- "Ta mê man ba ngày đêm, tiêu tiểu không hay biết, khiến Bạch phu nhân phải khổ sở biết bao!"
Chàng bước xuống, vòng tay vái dài:
- Ơn đức của phu nhân tại hạ dẫu chết ngàn lần cũng không đền đáp nỗi!
Biết chàng ám chỉ việc tiết hạnh, Thúy Sơn đỏ mặt cúi đầu, lát sau đáp bằng giọng thê lương:
- Công tử là vận mạng của võ lâm, tiểu muội ngộ biến phải tùng quyền, sau này sẽ tự sát để tạ tội với tiên phu ở suối vàng!
Nhật Phủ kinh hãi lắp bắp:
- Không được! Kẻ đáng chết nhất là tại hạ! Sau khi diệt xong Kỵ Ba Thần Quân, Tần mỗ sẽ tự sát ngay!
Thúy Sơn cười mát:
- Công tử chết đi có trả lại danh dự cho tiểu muội được không?
Nhật Phủ lúng túng:
- Thế tại hạ phải làm thế nào đây?
Thúy Sơn nghiêm giọng:
- Ta có một điều kiện nho nhỏ! Chẳng hiểu công tử có dám đáp ứng hay không?
Nhật Phủ khẳng khái đáp:
- Xin phu nhân cứ dạy! Dẫu bất cứ yêu cầu nào tại hạ cũng xin tuân mệnh!
Thúy Sơn gật gù:
- Ta muốn công tử trở thành thủ hạ trung thành với ta, luôn theo sát để bảo vệ, không được tự do làm theo ý mình!
Nhật Phủ bối rối không hiểu, song đã lỡ hứa đành phải giữ lời:
- Tại hạ xin đặt mình dưới sự sai khiến của phu nhân!
Thúy Sơn tuy hài lòng nhưng vẫn hồi hộp vì không biết chắc kết quả. Nàng trầm ngâm hỏi:
- Thương tích của công tử thì sao?
Nhật Phủ đáp:
- Bẩm phu nhân! Có lẽ phải tịnh dưỡng thêm vào ngày nữa!
Thúy Sơn mỉm cười:
- Nơi đây còn đủ gạo thịt cho cả tháng, chúng ta cứ nghỉ ngơi cho thật khỏe mạnh rồi hãy lên đường. Ðây là vùng cứ địa của Âm Sơn Giáo, chẳng thể xem thường được!
Nàng không biết rằng Dương Châu Thần Thâu chỉ đến trễ nửa khắc, và đã cùng tổng binh Khai Phong đuổi cổ Âm Sơn Giáo về Tây Hạ. Hiện giờ, Bạch Túc Nhiên cùng đệ tử Cái Bang đang ráo riết truy tìm nàng và Nhật Phủ.
Ngày hôm ấy, Thúy Sơn rất vui, lòng đắc ý vì kế sách của mình. Trước đây, lúc còn ở Tạ gia trang, nàng đã nhiều lần dọ hỏi quá khứ của Tần Nhật Phủ, gã không nói thì nàng cũng chẳng dám làm gì. Nay với thân phận chủ nhân, nàng tin rằng gã phải mở miệng.
Thúy Sơn đi một vòng vào rừng, săn được hai con chồn và một con rắn to đem về nấu bữa trưa.
Chủ nhà có cả gói trà Long Tĩnh thượng hạng, chính hiệu Hàng Châu, nàng cũng pha cho Nhật Phủ uống. Tuy mang danh chủ tớ nhưng Thúy Sơn vẫn hầu hạ họ Tần chu đáo, khiến gã không hiểu mục đích của nàng.
Xong bữa, Thúy Sơn nhấp hớp trà rồi hỏi:
- Phải chăng công tử đã chán sống nên mới đơn thân độc mã đi tìm Âm Sơn Lão Tổ?
Nàng hỏi rất khéo nên họ Tần phải thú thực:
- Bẩm phải! Tại hạ có nỗi khổ tâm nên không còn thiết sống nữa!
Thúy Sơn mừng rỡ hỏi tiếp:
- Phải chăng nỗi khổ tâm ấy liên quan đến ba người chị em chung thuyền của ta?
Nhật Phủ đau khổ gật đầu, ấp úng:
- Ðúng thế! Tại hạ cho rằng mình mắc quái bệnh về tâm thần nên có thể đã hành động trong lúc mộng du?
Thúy Sơn cau mày:
- Vì sao công tử biết mình mắc bệnh?
Nhật Phủ cười thảm:
- Chỉ có kẻ tâm thần mới không nhớ được quá khứ của mình!
Thúy Sơn run bắn lên vì hạnh phúc. Có đến chín phần là Nhương Thư bị Ải Thần Quân thay đổi dung mạo và dùng tà thuật xóa bỏ ký ức. Lão xóa được nhưng không thể bù vào cả một dĩ vãng dài đến hai mươi mấy năm, gồm biết bao nhiêu hình ảnh và ký ức.
Trong vài ngày sau đó, Thúy Sơn cố gắng mô tả những sự cố trong đời Nhương Thư để gợi cho chàng nhớ lại, song không có kết quả. Nhật Phủ vẫn dửng dưng, cất lời tán dương thần tượng của mình.
Gần cuối tháng bảy, Nhật Phủ đã hoàn toàn bình phục, công lực sung mãn như xưa, mở lời đòi đi Tế Nam.
Thúy Sơn nát cả cõi lòng, giận hờn nói:
- Công tử đã giao đời mình cho ta, sao lại còn định tự sát lần nữa?
Nhật Phủ buồn bã đáp:
- Tại hạ không thể sống trong hoàn cảnh éo le này thêm nữa! Mong phu nhân lượng thứ chu! Mỗi ngày tại hạ càng thêm đắc tội với Tần đại hiệp!
Thúy Sơn kinh ngạc:
- Tại sao thế?
Nhật Phủ nhìn nàng bằng ánh mắt thê lương:
- Tại hạ đã yêu phu nhân!
Thúy Sơn vừa cảm động vừa tức cười, cúi đầu vân vê tà áo, lát sau cố ra vẻ nghiêm nghị:
- Không sao! Ta đã quyết định lấy công tử làm chồng rồi! Ta còn trẻ, chẳng thể làm thân quả phụ mãi được! Giết xong Kỵ Ba Thần Quân, chúng ta sẽ tìm chỗ non xanh nước biếc mà ẩn dật!
Nhật Phủ bối rối:
- Nhưng tại hạ mặt mũi nào sống yên vui khi đã đắc tội với ba vị phu nhân họ Ðiền?
Thúy Sơn thản nhiên đáp:
- Ta sẽ nói thật và rủ họ cùng về hầu hạ công tử. Dẫu sao giọt máu trong bụng họ cũng là của chàng!
Nhật Phủ ngơ ngác như kẻ lạc vào cõi tiên. Không ngờ sự việc lại được giải quyết đơn giản và thuận lợi như vậy. Chàng thầm yêu cả bốn nàng quả phụ và được cả bốn.
Nhật Phủ lúng túng vái dài:
- Tần mỗ được phu nhân hạ cố thành toàn, cảm kích mà nói chẳng nên lời!
Ðêm xuống, Thúy Sơn nũng nịu bảo:
- Ðã là phu thê, chàng hà tất phải ngủ ở án thư nữa!
Tất nhiên Nhật Phủ hoan hỉ vâng lời. Hai người nằm cạnh nhau, im như thóc vì xấu hổ. Thúy Sơn xa chồng đã lâu, nay được trùng phùng, lòng xuân phụ rộn ràng, xao xuyến. Thấy đối phương cứ đực ra, nàng đành phải làm mặt dày, chủ động lăn sang, ngồi lên đưa tay vuốt ve gương mặt họ Tần.
Dưới ánh đèn tọa đăng, đôi mắt Thúy Sơn rực rỡ niềm yêu thương và khao khát. Nàng run rẩy cởi áo, để lộ thân hình ngà ngọc, nhũ phong của nàng hơi nhỏ nhưng thật săn chắc và kiêu hãnh.
Nhật Phủ mỉm cười hạnh phúc, đắm đuối mơn man đôi tạo vật kỳ diệu, động tác rất nhẹ nhàng. Rồi chàng ngồi dậy, thoát y cho cả hai, vuốt ve Thúy Sơn rất lâu mới gầy cuộc truy hoan.
Thúy Sơn ứa lệ vì cảm nhận được tất cả những gì thân thiết, từ cử chỉ cho đến mùi da thịt của Nhật Phủ khi động tình. Chàng càng là chàng hơn khi phá thành đoạt lũy, với phong cách dũng mãnh mà đằm thắm.
Biết chắc Nhật Phủ chính thực người chồng thất lạc, Thúy Sơn hân hoang dâng hiến, lệ mừng tuôn ướt gối.
Hết hiệp, Nhật Phủ ngại ngùng hỏi:
- Nàng rất nồng nàn nhưng vì sao lại khóc nhiều như vậy?
Thúy Sơn giận dỗi trườn lên cắn vai chàng đau điếng rồi kể hết khúc nôi. Nhật Phủ bàng hoàng, ngơ ngác nhưng hiểu rằng đấy là cách giải thích hữu lý nhất cho cuộc đời chàng.
Niềm tin càng vững chắc khi Thúy Sơn đọc vanh vách đoạn đầu khẩu quyết của pho tâm pháp nội công mà chàng đang luyện. Pho tâm pháp này chỉ mình chàng biết mà thôi, và cứ ngỡ là sở học nhà họ Tần. Tuy nhiên, chàng vẫn còn ngơ ngác, chưa nhớ được quá khứ. Thúy Sơn bực bội tát yêu chàng và bảo:
- Sáng mai chúng ta về Lạc Dương nhờ Thần Y chữa trị cho chàng!
Nhương Thư khí huyết phương cương, đã lại động tình, ngượng ngùng hỏi:
- Thế ngày xưa ta và nàng thường đấu mấy hiệp?
Phu thê ân ái mặn nồng đến cuối canh tư, ôm nhau ngủ vùi, khi mặt trời lên cao mới chịu thức dậy để lên đường.
Nhưng Thúy Sơn đã thay đổi ý định. Nàng biết khi về Lạc Dương, vợ chồng khó có điều kiện chăn gối, nên muốn ở lại đây thêm vài ngày cho thỏa tình cá nước.
Thúy Sơn nũng nịu nói:
- Tần đại ca! Chàng có đến bốn vợ khiến tiểu muội luôn chịu thiệt thòi! Hay là chúng ta ở lại thêm vài ngày nữa, đại ca dạy cho tiểu muội công phu Lục Mạch Thần Chỉ?
Nhương Thư thật thà đáp:
- Thì cứ về đến Tạ gia trang rồi ta sẽ dạy cho cả bốn nàng một lúc!
Thúy Sơn tức tối muốn nổ đom đóm mắt, giận dữ nói thẳng ra:
- Ðại ca muốn giữ đạo công bằng cũng được! Vậy thì tiểu muội chưa có thai quyết chưa về!
Vừa nói nàng vừa cấu nhéo Nhương Thư kịch liệt, mắt ươn ướt xuân tình. Nhương Thư đã hiểu, cười bảo:
- Té ra là thế! Ta sẽ chiều ý nàng!
Và chàng sực nhớ ra, thận trọng hỏi lại:
- Thế lúc ta chưa trúng tà pháp thì có thiên vị ai trong bốn nàng hay không?
Thúy Sơn hãnh diện ỏn ẻn đáp:
- Ðại ca yêu thương tiểu muội nhất đấy!
Quả đúng như thế, dù bề ngoài vẫn giữ đạo công chính nhưng trong lòng Nhương Thư vẫn xem trọng Thúy Sơn hơn. Nàng đã dám vì chàng mà lao xuống vực thẳm chết theo, chân tình ấy thế gian không ai sánh nổi.
Nhương Thư gật gù:
- Vậy là không tốt! Sau này ta phải ưu ái ba chị em họ Ðiền thêm mới được!
Thúy Sơn tức quá đấm lưng chàng thùm thụp.
Ngay sau khi ăn điểm tâm bằng chào, Nhương Thư giảng giải khẩu quyết Lục Mạch Thần Chỉ cho Thúy Sơn nghe.
Tuyệt học này chính là phép dồn chân khí ra ngoài cơ thể qua sáu huyệt trên đầu những ngón tay. Sáu huyệt này thuộc về sáu kinh mạch, nhưng mỗi bàn tay chỉ năm ngón, do vậy, có hai huyệt nằm chung một ngón.
- Huyệt Thiếu Thương thuộc Kinh Thủ Thái Âm Phế, nằm phía sau góc móng tay cái.
- Huyệt Thương Dương thuộc Kinh Thủ Dương Minh Ðại Trường, nằm sau góc móng ngón trỏ.
- Huyệt Trung Xung thuộc Kinh Thủ Quyết Âm Tâm Bào, nằm ở đầu ngón giữa.
- Huyệt Quan Xung thuộc Kinh Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu, nằm ở đầu ngón áp út.
- Huyệt Thiếu Xung thuộc Kinh Thủ Thiếu Âm Tâm, nằm ở mé trong đầu ngón út.
- Huyệt Thiếu Trạch thuộc Kinh Thủ Thái Dương Tiểu Trường, nằm ở góc móng ngoài ngón út.
Sáu kinh kia đều mang huyệt kép, nghĩa là bàn tay phải và bàn tay trái đều có thể thi triển Lục Mạch Thần Chỉ. Hai bàn tay cộng lại thành mười hai đạo chỉ phong, nhưng ít ai đủ công lực để xạ ra cùng một lúc.
Ðây là căn bản của Lục Mạch Thần Kiếm nhà họ Ðoàn đất Ðại Lý. Tiếc rằng tác giả chẳng nhớ khẩu quyết nếu không đã chép ra để chư vị luyện thử.
Nhắc lại, ngày dạy võ, đêm dạy yêu, sau chín hôm thì Thúy Sơn đỏ mặt thỏ thẻ:
- Ðại ca! Tiểu muội đã trễ kinh được bốn ngày, chắc là đã cấn thai! Còn khẩu quyết Lục Mạch Thần Chỉ cũng đã thuộc lòng, chúng ta đi thôi!
Nhương Thư mỉm cười:
- Lạ thực! Sao trước đây không ai chịu chửa đẻ, nay lại nhất loạt mang bầu dễ dàng thế này? Hay ta không phải là Tần Nhương Thư!
Chàng chưa phục hồi ký ức nên vẫn mơ hồ, chỉ biết tin vào lời của Thúy Sơn.
Cô ả họ Bạch cũng còn một chút xíu nghi hoặc, giấu kín trong tâm thức, nên giật thót mình. Song đã tự trấn an được ngay, hờn giận nói:
- Dẫu chàng là ai cũng mặc xác! Suy nghĩ hoài chắc tiểu muội phát điên mất!

Hồi 15

Báo Ứng Phùng Báo Ứng
Giang Biên Khấp Hiền Thê

Ðêm ấy chỉ bình yên được đến cuối canh ba thì Nhương Thư phát hiện có tiếng chân người dẫm gẫy cành khô. Chàng bật dậy, đánh động Thúy Sơn.
Hai người khoác vội y phục bước ra. Qua song cửa sổ phía trước, đôi mắt cú vọ của Nhương Thư thấy hàng chục bóng đen đã vây quanh mộc xá.
Thiên la địa võng đã khép kín, đuốc thông được đốt lên để thị uy, và có tiếng âm trầm vang lên:
- Tích Bảo Chân Nhân! Bổn tọa là hội chủ Báo Ứng Hội, cùng các cao thủ hạng nhất đã vây chặt nơi này! Lão muốn sống thì phải đem Mạc Gia Thần Kiếm ra đây nạp. Bổn tọa hứa sẽ không đòi thêm bất cứ vật gì!
Thúy Sơn sợ hãi thì thầm:
- Ðại ca! Chúng ta xui xẻo nên mới chết thay cho lão Tích Bảo Chân Nhân Tư Mã Hầu! Không ngờ căn mộc xá nghèo nàn này lại là nhà của kẻ giàu có nhất võ lâm!
Lúc còn ở Lạc Dương, Nhương Thư trong vai Tần Nhật Phủ, đã nghe nói nhiều về sự lợi hại của Báo Ứng Hội. Nay lại không có kiếm trong tay, chàng như hổ bị chặt móng, chẳng dám sính cường vì sợ hại đến Thúy Sơn. Nàng có kiếm nhưng vũ khí của chàng thì đã rơi lại ở Cô Ðộc Bảo.
Nhương Thư nói ngay:
- Sơn muội! Chúng ta sẽ thoát ra bằng lối sau, nàng chạy trước mở đường. Ta dùng Lục Mạch Thần Chỉ đoạn hậu!
Xem ra, chỉ có kế thứ ba mươi sáu là đắc sách, hai người lần xuống bếp rồi bất ngờ xông ra. Biết đệ tử Báo Ứng Hội giỏi nghề phóng độc châm. Nhương Thư đã cầm theo cây gậy trúc già của chủ nhà.
Mấy ngày qua, chàng đã dùng thanh trúc này để dạy cho Thúy Sơn vài chiêu kiếm pháp. Có nó chàng vững tâm hơn vì chẳng thể dùng đôi bàn tay thịt để đối phó với ám khí được.
Quả nhiên, phòng tuyến đối phương ở phía sau mộc xá lập tức chặn vợ chồng Nhương Thư bằng trận mưa kim độc.
Nhương Thư cố ý vượt lên trước, múa tít gậy trúc che chắn cho ái thê.
Công lực gần hoa giáp cộng với kiếm thuật siêu phàm đã tạo nên bức tường kín đáo, vững vàng đánh bạt tất cả những mũi kim thép dài nửa gang tẩm độc đen sì.
Và Nhương Thư ập đến như cơn lốc, gậy trúc vừa va chạm với vũ khí của kẻ thù là tả thủ đã xạ liền một đạo chỉ phong.
Khi giáp chiến, thần chỉ còn lợi hại hơn ám khí bội phần, vì chẳng cần phải móc ra hay lắc cổ tay. Chỉ kình từ đầu ngón giữa xạ ra như tia chớp, xoèn xoẹt xé gió và xuyên thủng da thịt kẻ thù. Chàng không cần bắn vào mắt vì bọn sát thủ Báo Ứng Hội không có công lực trăm năm, không luyện thành cương khí hộ thân như Âm Sơn Lão Tổ.
Trong phép kiếm chỉ hợp nhất, Nhương Thư thường sử dụng hai đạo chỉ kình xuất phát từ hai huyệt Thương Dương, Trung Xung, vì chúng nằm trên đầu ngón trỏ và ngón giữa.
Trong tư thế bắt kiếm ấn của bàn tay tả, hai ngón này luôn chỉa ra, nên chỉ xuất chính xác và bất ngờ.
Những đạo chỉ kình vun vút bay ra trong màn đêm nhập nhòe ánh đuốc nên bọn Báo Ứng Hội không tài nào tránh nổi.
Trong cảnh nguy ngập, Nhương Thư chẳng thể giữ được lòng nhân hậu, ra tay rất tàn nhẫn để đưa ái thê thoát thân.
Chàng liên tục khoét lỗ trên thân thể đối phương và tiếng rên la vang dội cả rừng đêm.
Gậy trúc cũng chẳng phải hoàn toàn vô huyết trong tay một kiếm sĩ thượng thừa. Mũi gậy biến hóa khôn lường, thọc thẳng vào tử huyệt kẻ địch, không đâm thủng da thịt, nhưng chân khí vào tận đáy, đủ để lấy mạng người.
Bản lãnh Thúy Sơn kém chàng vài bậc, song cũng kiêu dũng hơn bọn sát thủ. Nàng sát cánh với trượng phu mở đường máu, mắt phượng tròn xoe đầy sát khí, kiếm quang lồng lộng phủ sương.
Vợ chồng Nhương Thư giết liền mười sáu gã sát thủ, vừa đánh vừa chạy về hướng Bắc, song Báo Ứng Hội chủ Ðào Thiên Hậu và bốn cao thủ lão thành đã truy đuổi ráo riết chẳng chịu rời.
Ðến thảm cỏ trống, Nhương Thư liền hối thúc Thúy Sơn:
- Nàng hãy thoát đi trước, ta chậm lại chặn đường! Hẹn gặp nhau ở Lạc Dương!
Biết chàng võ nghệ siêu phàm, khinh công xuất chúng, không thể bị vây được, Thúy Sơn cắn răng đào tẩu trước vào màn đêm.
Nhương Thư bắt đầu quay ngoắt lại, lao vào một gã sát thủ, xạ liền hai đạo chỉ kình đả thương gã rồi đoạt lấy kiếm. Gã này nhanh chân hơn đồng bọn nên đả lãnh đủ.
Nhương Thư vung cước đá văng xác nạn nhân rồi hiên ngang đứng lại quát vang:
- Ðào Thiên Hậu! Ta là Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách Tần Nhật Phủ đây!
Danh tiếng của đại sát tinh đất Hà Bắc đã khiến họ Ðào chột dạ, giữ bốn vị hộ pháp ở lại với mình, chỉ để bọn tép riu truy sát Thúy Sơn.
Nhương Thư nói tiếp:
- Ðừng cho người đuổi theo nữa! Ta mới là người biết Tích Bảo Chân Nhân hiện nay ở đâu!
Nghĩ đến cảnh tìm người trong rừng đêm rậm rạp, tối tăm. Ðào Thiên Hậu cũng ngao ngán, tập trung bắt con mồi trước mặt hay hơn. Lão liền ra lệnh cho thủ hạ vây chặt Nhương Thư, không phân tán ra nữa.
Hội chủ Báo Ứng Hội được coi là nhân vật hắc đạo tàn ác và thần bí nhất võ lâm. Ngay Vô Ưu Cái và lực lượng hàng vạn của Cái Bang cũng không tài nào biết được mặt thật của họ Ðào, hoặc sào huyệt của Báo Ứng Hội.
Cái tên Ðào Thiên Hậu là do lão tự khai chứ chưa chắc đã là thực. Lão ta có thân hình tầm thước, dáng vóc trung bình, không gầy, không béo và luôn mang mặt nạ.
Với hình dạng bình thường như thế, Ðào Thiên Hậu dễ dàng hòa lẫn vào xã hội. Cả thuộc hạ lão cũng vậy, họ trà trộn vào bách tính, sống bằng những nghề rất lương thiện, khi được lệnh mới hành động. Tóm lại, Báo Ứng Hội không hề có sào huyệt, hội viên liên kết với nhau bằng mật hiệu, được điều động bởi bốn thủ hạ lão luyện, thân tín của hội chủ. Chỉ có bốn người này mới biết lai lịch thật của Ðào Thiên Hậu. Tất nhiên họ tuyệt đối trung thành, thà chết chứ không khai báo.
Chính nhờ lối tổ chức chu đáo, thần bí ấy mà Ðào Thiên Hậu đã thoát khỏi sự truy lùng của Cái Bang và Phật Ðăng Thượng Nhân.
Giờ đây họ Ðào xuất hiện trước mặt Nhương Thư bằng dung mạo đã quen thuộc với võ lâm: mắt dài nhỏ, mũi ưng, gò má cao, cằm bạnh. Những nét ấy tạo nên vẻ dữ tợn, oai phong và ác độc. Phải chăng lão cố tình gây ấn tượng để che giấu một chân diện hoàn toàn ngược lại.
Ðào Thiên Hậu lạnh lùng hỏi Nhương Thư:
- Tần Nhật Phủ! Bổn tọa nghe nói ngươi một mình một kiếm hạ sát Âm Sơn Lão Tổ, thân thọ trọng thương được ả vợ góa của Tần Nhương Thư mang đi, vậy vì sao hai ngươi lại có mặt nơi này, và có quan hệ gì với Tích Bảo Chân Nhân?
Nhương Thư điềm tĩnh đáp:
- Quả đúng thế! Tần đại phu nhân cõng ta chạy lạc vào đây, và hoàn toàn không biết nhà của ai! Lúc ấy mộc xá không có một bóng người!
Ðào Thiên Hậu quắc mắt:
- Thế vì sao hai ngươi lại bỏ chạy, không đứng lại mà phân giải?
Nhương Thư cười nhạt:
- Lão là kẻ thù giết cha Tần Nhương Thư, hiện lại là công địch của võ lâm, liệu có tha cho Bạch Thúy Sơn hay không?
Ðào Thiên Hậu gian xảo có thừa, mắt sắc như dao, nhận ra đối phương rất thành thực. Song lão hỏi gằn:
- Ngươi có dám đem danh dự ra bảo đảm cho lời nói của mình không?
Nhương Thư gật đầu:
- Tần mỗ là kẻ cao ngạo, chẳng thèm nói láo bao giờ! Song phương vốn không thù oán, Ðào môn chủ hãy rút quân để tránh thương vong!
Lúc đầu, Ðào Thiên Hậu vẫn nghi ngờ Nhật Phủ là Nhương Thư hóa thân, song thấy chàng chẳng chút sát khí khi gặp mình là kẻ thù giết cha, mối hoài nghi kia liền tan biến. Lão vuốt chòm râu cằm dài và đen nhánh suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Quan điểm của lão phu rất rạch ròi, không bạn thì là thù! Nếu ngươi đã đầu phục hội đồng võ lâm tất trước sau cũng tìm cách tiêu diệt Báo Ứng Hội! Do vậy, đêm nay, nếu ngươi muốn sống thì phải qui hàng bổn tọa!
Nhương Thư dựng ngược đôi lông mày kép và nạt:
- Cuồng phu! Lão tưởng bổn công tử sợ lũ chó sơn hay sao?
Dứt lời, chàng thi triển phép Ngự Kiếm, hung hãn lao đến như cơn bão. Chiêu Chân Nhân Ðảo Mệnh này được Nhương Thư dồn hết mười hai thành công lực nên khí thế cực kỳ bá đạo, kiếm kình rít vo vo, kiếm phong lạnh lẽo tỏa rộng. Huyền Không Kiếm Pháp là tuyệt học Ðạo gia, hiểm và xảo hơn hẳn Phật Ðăng kiếm pháp.
Ðào Thiên Hậu và bốn lão già râu bạc vội liên thủ chống đỡ, chẳng dám xem thường cơn thịnh nộ của kẻ đã từng giết Âm Sơn Lão Tổ Lương Dã Toàn.
Năm người này đều có công lực tương đương hoa giáp, lại quen lối đánh lượng bích nên đã chặn đứng được chiêu kiếm kinh hồn của Nhương Thư.
Tiếng thép chạm nhau vang rền, Nhương Thư nghe thân kiếm chấn động mạnh, tự lượng sức mình không bằng bèn mượn lực phản chấn nhảy lùi. Song chàng lập tức lướt chếch sang mé hữu, tấn công lão già cầm Cửu Hoàn Ðao, không đánh vào trung lộ nữa.
Báo Ứng Hội là nơi qui tụ những kẻ ác độc, tham lam trên giang hồ, mỗi người một xuất xứ, chẳng cùng môn phái. Do vậy, tuy Báo Ứng Hội Chủ sử dụng trường kiếm nhưng bốn hộ pháp và các sát thủ thì không nhất thiết phải như thế. Trong bốn lão già kia, chỉ mình người bị mất nửa vành tai trái là dùng kiếm giống Ðào Thiên Hậu mà thôi.
Nhắc lại, Nhương Thư muốn phá thế liên thủ của đối phương nên tìm cách chia để diệt. Chàng chừa ba phần chân khí cho tay tả và chụp lưới kiếm vào lão cầm đao.
Tuy chỉ có bảy phần công lực nhưng chiêu Huyền Chi Hựu Huyền cũng đủ dọa khiếp đối phương. Ðúng như tên gọi, đường kiếm huyền huyền, ảo ảo chẳng thấy đâu là sơ hở.
Là sát thủ già dặn, quen vào sanh ra tử, lão ta nghiến răng công thẳng vào màn kiếm quang của đối thủ. Trong giao đấu, chẳng phải lúc nào cũng có thể nhìn thấy sơ hở hay ý đồ của kẻ thù, lúc ấy, người ta đối phó bằng cách đổi đòn, kẻ nào mạnh, nhanh thì thắng.
Kiếm và đao là hai loại vũ khí khắc chế lẫn nhau. Kiếm nhẹ mà nhanh, đao nặng nên lực chém mãnh liệt. Do vậy, tuy kiếm đứng đầu trong binh khí phổ song số người học đao pháp còn đông hơn người học kiếm. Bằng chứng điển hình là mấy chục vạn quân triều Minh đều dùng đao là vũ khí.
Vậy tại sao kiếm lại làm mưa làm gió trên giang hồ? Bởi vì kiếm thuật là đỉnh cao của võ học, là tín ngưỡng của những kẻ có căn cơ thượng hạng. Khi đạt đến trình độ cao siêu, không thanh đao nào có thể ngăn chặn đường đi của mũi kiếm.
Nhương Thư là một trong những kiếm sĩ xuất sắc nhất võ lâm. Sở đắc đến hai pho tuyệt kiếm của Phật môn và Ðạo gia. Về chiêu thức thì không ai hơn được.
Chàng nhận ra lưỡi Cửu Hoàn Ðao kia khống chế từ ngực đến đầu gối của mình, thế thức hiểm ác và mạnh mẽ, song chưa đủ nhanh, tuy nhiên mối đe dọa thực sự đến từ lão già Cầm Phá Sơn Phủ ở phía sau lưng chàng. Nhương Thư đã tiên liệu trước nên khi bảo kiếm vừa chạm Cửu Hoàn Ðao phía trước, chàng hạ tả thủ chĩa xéo ra sau xạ liền một đạo Thương Dương chỉ. Ðồng thời, Nhương Thư điểm liền bảy thức cuối trong chiêu kiếm.
Hai tiếng rú cất lên cùng một lúc, lão cầm đao ngã gục ngay vì thủng ngực, còn lão cầm búa thì lảo đảo ôm bụng. Nhương Thư quay ngoắt lại hớt đứt yết hầu nạn nhân rồi tung mình ra xa tránh chiêu hợp công của Ðào Thiên Hậu và hai lão hộ pháp còn lại.
Họ Ðào đau lòng khôn xiết trước cái chết chóng vánh của hai thủ hạ trung thành. Lão điên cuồng gầm vang:
- Lập trận!
Thế là bọn đệ tử Báo Ứng Hội lăn xả vào, phối hợp cả đao kiếm lẫn độc châm, quyết băm thây kẻ địch. Song không phải chúng đánh đấm hỗn loạn mà theo một chiến thuật định sẵn, nhịp nhàng và dũng mãnh.
Từ vòng tròn chung quanh, bọn sát thủ thay nhau chạy qua chạy lại, tấn công tâm điểm là Nhương Thư, chỉ một chiêu là rút sang vị trí đối diện. Mỗi đợt như thế là sáu gã, tả, hữu, tiền, hậu, thượng, hạ.
Ðáng ngại nhất là mũi hạ bàn, trong tư thế cuộn tròn người, che thân bằng vũ khí, những tên sát thủ kia đã khiến Nhương Thư phải lúng túng.
Ðịa Ðường đao pháp là môn võ kỳ dị nhất Trung Hoa, xuất hiện vào thời Nam Tống, khi quân Mông Cổ xâm lăng Hoa Hạ.
Kỵ binh Mông Cổ hung hãn và thiện chiến đã đè bẹp bộ binh nhà Tống nhờ vó ngựa thần tốc. Lúc chúng đánh Hồ Nam, một vị ẩn sĩ đã đến thành Tương Dương dạy cho quân Tống pho Ðịa Ðường đao pháp này. Vài ngàn cặp chân ngựa Mông Cổ đã bị chặt và thành Tương Dương cầm cự được mấy năm trời. Sau này, Chu Nguyên Chương cũng có cả một đạo quân chuyên luyện Ðịa Ðường đao pháp, phá tan những đội kỵ binh nhà Nguyên, thành lập triều Minh.
Lục phương thọ địch, lại thêm độc châm bên ngoài bắn vào như mưa, Nhương Thư đành phải hát bài tẩu mã. Chàng thi triển Cửu Huyền Bộ Pháp, kiếm ảnh che thân, tiến dần về hướng Bắc.
Tất nhiên trận pháp của Báo Ứng Hội không cho phép, bọn sát thủ liều chết xông vào, chẳng ngại câu sinh tử. Dũng khí của chúng quả là đáng sợ.
Nhương Thư có cảm giác như mình bị vây chặt bởi một lũ người điên, không còn dám nương tay, bảo kiếm bay lượn như tia chớp, đã gạt những đòn tấn công và lấy mạng kẻ thù.
Cả ba cao thủ đầu sỏ Báo Ứng Hội là Ðào Thiên Hậu và hai lão hộ pháp cũng tham gia trận pháp. Với họ, Nhương Thư đối phó rất vất vả nên lưng trúng độc châm chi chít, tuy đau đớn nhưng chàng không thấy hiện tượng trúng độc, lòng càng tin lời Thúy Sơn. Nàng đã bảo rằng Tần Nhương Thư ba lần ăn được kỳ trân, thân thể bách độc bất xâm. Nhương Thư vừa đánh vừa nhổ bỏ ám khí trên người và ném trả lại đối phương.
Ðào Thiên Hậu cũng phát giác việc này, kinh hãi thét lên:
- Gã này không sợ độc! Các ngươi hãy bắn vào mắt gã cho ta!
Thế là bọn sát thủ ở ngoài cứ nhắm vùng mặt Nhương Thư mà phóng kim thép.
Nhương Thư như mãnh hổ cùng đường, giận dữ múa tít trường kiếm, tả xung hữu đột. Chàng xông đến đâu là có xác người gục ngã, tiếng kêu lìa đời nấc nghẹn hoặc ồn ào.
Nhương Thư đủ khôn ngoan để né tránh ba cường địch, chú tâm tấn công đám đệ tử kém tài, thu hoạch rất lớn.
Thấy thủ hạ chết như rạ, Ðào Thiên Hậu tan nát ruột gan, quên cả thận trọng lao vào tập kích hậu tâm họ Tần.
Nhương Thư đã tin mình là Nhương Thư nên nảy ý định sát hại Ðào Thiên Hậu để báo phụ thù. Nếu bỏ lỡ cơ hội này, sau sẽ khó gặp được lão hồ ly xảo quyệt này.
Sau lần thoát chết dưới mũi côn ngàn cân của Âm Sơn Lão Tổ, chàng hiểu rằng cơ thể mình rắn chắc, kiên cố hơn thường nhân gấp mấy lần. Giờ đây chàng lợi dụng ưu thế đó để ra tay.
Nhương Thư bất ngờ đề khí bốc lên cao, khoằm bàn tay tả xạ đủ sáu đạo Lục Mạch Thần Chỉ vào mặt Ðào Thiên Hậu.
Tiếng chỉ kình rít gió khiến họ Ðào sợ hãi. Nhưng lão đã hơi chậm chân, và cũng vì tốc độ cực nhanh của chỉ phong, nên lãnh một chỉ vào mắt trái.
Công lực phân tán làm sáu nên không mạnh, chỉ đủ sức phá vỡ nhãn cầu Ðào Thiên Hậu. Nhưng trong lúc họ Ðào tá hỏa tam tinh, tay chân bủn rủn thì kiếm của Nhương Thư đã đến nơi, đâm thủng yết hầu của lão. Ðây cũng là vị trí của huyệt Liêm Tuyền, thuộc mạch Nhâm.
Mũi kiếm cắt đứt khí quản lẫn thực quản, máu tràn vào phổi đưa nạn nhân đến cái chết khá nhanh chóng. Ðào Thiên Hậu ngạt thở, mắt trợn trắng, miệng há hốc, hai tay cào cấu cổ họng đòi dưỡng khí.
Nhưng lão chưa kịp chết thì Nhương Thư đã trúng đòn của lão hộ pháp cầm chùy. Chàng muốn giết kẻ gia thù nên chấp nhận trả giá, có điều không được quá đắt.
Khi đâm vào cổ Ðào Thiên Hậu, Nhương Thư chỉ dùng có hai thành công lực, kỳ dư dồn cả về hậu tâm để đỡ đòn.
Tiếng chùy giáng vào lưng nghe khá kêu, Nhương Thư hộc máu và bị đẩy văng về phía trước. Kỳ diệu thay, chàng không chết mà còn vung kiếm giết liền hai gã đang lơ ngơ đứng đúng nơi mình đến.
Nhương Thư tràn tới, xuất chiêu Lôi Phong Thiết Phiến, kiếm quét tròn một đường hình rẻ quạt, không phải chém mà là đâm thủng ngực thêm bốn tên nữa. Kể thì đơn giản nhưng thực ra chiêu này có đến một trăm linh tám thế thức, mũi kiếm vừa quét vừa điểm như mưa nên đối phương không sao ngăn nổi.
Phòng tuyến đã trống, Nhương Thư lao vút đi, khuất dạng trong bóng tối của khu rừng phía Bắc thảm cỏ. Chạy được hơn dặm, chàng nghe tiếng Thúy Sơn hỏi:
- Phải đại ca đó không?
Chàng vội đáp:
- Ta đây!
Từ sau một gốc cây lớn, Thúy Sơn xuất hiện, giọng đầy lo âu, trách móc:
- Thấy đại ca lâu quá không đến, tiểu muội nóng ruột quay lại xem sao?
Nhương Thư cảm động nắm tay nàng:
- Chúng đông đến hàng trăm tên, ta phải vất vả lắm mới giết được lão Ðào Thiên Hậu rồi thoát thân!
Thúy Sơn hân hoan nói như reo:
- Ðại ca giỏi thực! Giữa vòng vây dày đặc mà vẫn báo được gia thù!
Thúy Sơn đã tìm ra đường mòn đưa đến bờ Nam sông Hoàng Hà nên dắt Nhương Thư đi theo. Họ đến nơi thì trời hửng sáng.
Ðoạn bờ này có địa thế rất cao nên không cần đắp đê. Hai người ngồi phịch xuống bãi cỏ xanh rì nhờ mưa đầu thu để nghỉ ngơi. Ðào Thiên Hậu đã chết, chắc chắn bọn Báo Ứng Hội không dám đuổi theo Nhương Thư.
Thúy Sơn nhờ ánh bình minh mà phát hiện những vết máu trên lưng trượng phu, kinh hãi rú lên:
- Ðại ca thọ thương rồi!
Và nàng mau mắn lột áo chàng, đau lòng trước mấy chục lỗ thủng nhỏ và một vết bầm lớn cỡ bàn tay. Thúy Sơn ấn vào và tò mò hỏi:
- Chỗ này của đại ca bị loại vũ khí gì đánh trúng vậy?
Nhương Thư cười đáp:
- Cây chùy sắt của lão hộ pháp béo lùn! May mà ta đã vận công bảo vệ, và mượn đà đẩy mà nhảy đi, không thì xương đã gãy rồi!
Thúy Sơn vừa bôi thuốc kim sang lên vết thương, vừa cằn nhằn:
- Ðại ca không được liều mạng như thế nữa! Lỡ chàng có mệnh hệ gì lần nữa, bọn tiểu muội chắc phát điên mất!
Nhương Thư liền an ủi:
- Nàng chớ quá lo lắng làm gì, làm gì có kẻ giết nổi ta?
Sau khi hạ sát Âm Sơn Lão Tổ, chàng thực sự tin tưởng vào kiếm pháp và chỉ pháp của mình nên mới nói thế.
Nhưng từ trong cánh rừng cạnh bờ sông bỗng có tiếng ai cười nhạt:
- Cuồng ngôn! Bọn ta đến hóa kiếp cho ngươi đây!
Vừa nói, phe đối phương vừa ập đến, vây chặt vợ chồng Nhương Thư. Chàng không biết lai lịch bọn lạ mắt này, song Thúy Sơn đã sợ hãi thét lên:
- Âu Dương Lăng!
Nhờ thế Nhương Thư mới hiểu gã trung niên áo xanh, tuấn tú, oai phong kia từng là cung chủ của Tứ Phạn Thiên Cung. Nghe đồn gã đã đưa thủ hạ về Thiểm Tây liên kết với Báo Ứng Hội, nhưng sao lúc nãy không xuất hiện để trợ giúp Ðào Thiên Hậu.
Cạnh Âu Dương Lăng là tám lão già trong Hộ Cung Thập Nhị Chân Khanh. Thế lực của đối phương khiến Nhương Thư thầm lo ngại cho Thúy Sơn.
Bờ sông cao hơn mặt nước Hoàng Hà đến tám chín trượng, nước sông lại chảy cuồn cuộn như thác lũ, nhảy xuống mà thọ thương hay không giỏi thủy tính là khó toàn mạng.
Thúy Sơn thì thầm:
- Ðại ca! Chúng ta hãy phá vòng vây chạy dọc bờ sông tìm về Khai Phong! Tiểu muội bơi rất dở và cũng chẳng dám nhảy xuống nước từ độ cao chóng mặt này!
Là bậc anh hùng bất khuất, Nhương Thư hiên ngang đáp:
- Phá vây không khó! Nàng cứ giữ vị trí sát mép sông, ta ở phía ngoài chống trả!
Âu Dương Lăng cười nhạt:
- Cứ trăn trối đi rồi chết! Ngươi đã thọ thương làm sao địch nổi bọn ta? Nay bổn nhân tập thành Thần Quang Chưởng Pháp, mở lượng bao dung cho ngươi được nghỉ ngơi một khắc!
Thêm sức lực là thêm sinh cơ, Thúy Sơn chụp lấy ngay:
- Cung chủ quả có khí độ của bậc trượng phu! Song ta thắc mắc vì sao cung chủ lại có mặt nơi này mà không bạt kiếm trương trợ Ðào Thiên Hậu?
Thúy Sơn là một trong những mĩ nhân hàng đầu võ lâm, sau những ngày hoan lạc trùng phùng với Nhương Thư, nàng mập ra, dung nhan càng mặn mà quyết rũ. Âu Dương Lăng là nam nhân, lại nổi tiếng phong lưu, lẽ nào không chạnh lòng ngây ngất.
Y nhìn nàng bằng ánh mắt thèm thuồng và đắc ý đáp:
- Bổn cung dời đến Thiểm Tây, nhất thời phải chịu lụy địa chủ là Báo Ứng Hội! Nhưng Ðào Thiên Hậu tham lam, bắt ta phải dâng khẩu quyết Thần Quang Kiếm Phổ. Ta đồng ý nên được họ Ðào xem trọng, đối đãi tử tế! Khi biết lão đi Khai Phong đoạt Mạc Gia Thần Kiếm, ta lập tức bám theo, chỉ đến trễ độ vài khắc. Nhưng dẫu có đến sớm ta cũng chẳng dại gì cứu mạng lão!
Thúy Sơn tủm tỉm hỏi thêm:
- Cung chủ bảo rằng mình tập đại thành Thần Qung Chưởng Pháp, tiểu muội chẳng dám tin vì công lực cung chủ còn kém lắm!
Âu Dương Lăng ngửa cổ cười ngạo nghễ:
- Này mĩ nhân! Trước sau gì nàng cũng phải chết hoặc thuộc về ta, vì vậy, bổn nhân chẳng giấu giếm làm gì! Ta đã làm thịt con Huyết Hoa Lộc nên hiện sở hữu đến hơn hoa giáp chân khí, và mỗi ngày mỗi tăng thêm! Chỉ ba năm nữa là ta sẽ trở thành vô địch thiên hạ!
Nhương Thư nhìn cặp mắt chói lọi hào quang của Âu Dương Lăng, biết rằng gã không nói khoác. Chàng càng thêm lo lắng, quyết định đào tẩu ngay. Nhương Thư vỗ lưng Thúy Sơn khẽ quát:
- Ði!
Cả hai thủ kiếm lao vút về hướng tây, cùng tấn công ba lão Chân Khanh. Thúy Sơn chọn một còn Nhương Thư phụ trách hai.
Sáu đạo thần chỉ là vũ khí bất ngờ nên nạn nhân không tránh khỏi, vừa cử kiếm đã buông rơi, ôm ngực rên la. Còn chiêu kiếm Niên Miên Nhược Tồn cũng thành công chẳng nhỏ. Ðường kiếm lấp lánh trong ánh triều dương, vẽ nên những đường tơ bất tận, níu chặt kiếm của lão Chân Khanh.
Lão ta bất ngờ xoè tả thủ vỗ liền một chưởng cách không để tự cứu nguy. Thì ra Âu Dương Lăng đã đem Thần Quang Chưởng Pháp dạy cho thủ hạ.
Chưởng kình vừa chạm ngực Nhương Thư thì đã đứt đoạn vì chàng đã biến chiêu đâm thủng huyệt Lao Cung của đối thủ. Sau đó, chàng trổ ba lỗ trên ngực lão.
Tuy đắc thắng nhưng Nhương Thư lại bội phần lo lắng, lập tức tràn qua mé hữu để hỗ trợ Thúy Sơn. Nàng không đủ bản lãnh để đối phó với Thần Quang Chưởng Pháp.
Phản ứng thần tốc này đã cứu vãn được một phần tai họa. Lão già thấp bé kia thấy kiếm quang cuồn cuộn ập đến liền run sợ, chưởng kình lệch đi, chỉ trúng vào vai phải Thúy Sơn.
Là thân liễu yếu đào tơ, xương cố nhỏ nhắn, Thúy Sơn đau đớn rú lên, thân hình loạng choạng. Tuy nhiên, kẻ đả thương nàng đã phải bồi thường. Kiếm chưa đến nơi thì Nhương Thư đã hạ thủ bằng một ngọn chỉ phong vào huyệt Ðộc Tỵ dưới đầu gối chân phải đối phương. Lão ta lập tức lảo đảo vì chân trụ tê tái, lộ sơ hở và trúng một kiếm vào vùng gan.
Nhương Thư chẳng cần biết nạn nhân sống chết thế nào, nhảy về phía ái thê. Âu Dương Lăng và ba lão Chân Khanh đã đến nơi, nhất tề cử chưởng hợp công. Nhương Thư kinh hãi ôm Thúy Sơn nhảy ngược về phía bờ sông.
Nàng nữ hiệp vùng Bát Ðạt Lĩnh tuy gãy xương vai nhưng vẫn kiên cường nén đau, cùng Nhương Thư hợp lực đề khí, nhờ vậy hai người bay khá xa, chỉ còn cách mép vực sông hơn trượng.
Hai lão Chân Khanh trấn giữ mé này lập tức vung chưởng tấn công. Nhương Thư chẳng hề úy kỵ, ôm kiếm lao vào, kiếm kình vun vút cắt nát chưởng phong, dư lực giáng vào người chàng nhưng không ngăn được đà tiến vũ bão. Chàng đã đạt đến trình độ thi triển thuật ngự kiếm trong khoảng cách gần, chính là khắc tinh của Thần Quang Chưởng Pháp.
Hai lão giết mướn già khiếp vía, vội cử kiếm chia tả hữu phản kích.
Thanh gươm của Nhương Thư loang rộng, va chạm với cả hai đối thủ. Tiếng tinh tang vang lên dồn dập. Luồng kiếm ảnh sáng bạc kia bất ngờ nghiêng hẳn về mé hữu, chụp lấy lão Chân Khanh cao gầy, râu ngắn ngủn. Lão rú lên thảm khốc vì cái đau khủng khiếp của vùng ngực trái.
Lão còn lại thấy kẻ thù hở sườn trái, nghiến răng đâm liền bốn nhát, nhưng Thúy Sơn đã luôn bám sát Nhương Thư, đỡ đòn cho chàng.
Tuy đánh mất ký ức nhưng bản năng sinh tồn của Nhương Thư vẫn nguyên vẹn. Nó lại được tôi luyện qua những trận đấu sinh tử trong quá khứ, khi hữu sự liền hiển hiện. Chàng đã tính toán rất chính xác chứ chẳng phải liều lĩnh.
Thúy Sơn chặn xong đòn tập kích thì Nhương Thư quay sang xạ một đạo chỉ kình sắc bén như dùi sắt, xuyên thủng huyệt Mũi Trung trên ngực trái kẻ địch. Ðây chính là tử huyện nên nạn nhân khó thoát chết.
Nhưng vẫn còn Âu Dương Lăng và ba lão Chân Khanh nữa, cả bốn vung song chưởng tấn công Nhương Thư và Thúy Sơn, chẳng thèm dùng kiếm cho mệt.
Nhương Thư kinh hoàng dồn toàn lực vào chiêu Huyền Vụ Mãn Thiên, kiếm quang tỏa rộng che chắn cho cả hai người.
Tám đạo chưởng kình giáng vào màn sương kiếm mịt mù, lực đạo mãnh liệt như sấm sét, nên đã phá thủng được lá chắn thép, một đánh vào bụng Nhương Thư, một vào ngực Thúy Sơn.
Nhương Thư chỉ hộc máu lảo đảo, song Thúy Sơn thì văng ngược ra phía sau, rơi xuống sông Hoàng Hà. Nhương Thư ngoái nhìn theo, nhận rõ vòi máu tươi trong miệng Thúy Sơn phun ra vương vãi không gian.
Chàng đau đớn gầm lên, định lao theo người yêu thì bị đối phương chặn lại bằng những đạo chưởng phong vũ bão.
Nỗi thống khổ biến thành cơn thịnh nộ điên cuồng. Nhương Thư trợn mắt xông vào Âu Dương Lăng. Chính phát chưởng của gã đã đưa Thúy Sơn xuống hoàng tuyền. Với độ cao tám chín trượng, một kẻ thọ thương như nàng chẳng thể nào sống sót nổi. Thúy Sơn dẫu không nát xương vì sức căng của mặt nước thì cũng bị dòng nước đục ngầu, hung hãn kia cuốn đi và dìm chết.
Công lực Nhương Thư chưa đầy hoa giáp, tức thị kém Âu Dương Lăng một, hai bậc, nhưng võ nghệ của chàng cao siêu hơn hắn ta. Và khi chàng đã nổi điên, xem thường sinh tử thì càng đáng sợ.
Âu Dương Lăng chột dạ trước ánh mắt toé lửa căm hờn của đối phương, vội đánh chiêu Nguyệt Quang Vân Xuất, song thủ vỗ liền mười hai chưởng ảnh. Cùng lúc ấy, ba lão đạo sĩ giả hiệu mang danh Chân Khanh kia cũng hợp chưởng cùng môn chủ.
Nào ngờ, thân hình Nhương Thư đang ập đến lại đột ngột bốc cao như pháo thăng thiên, khiến những đạo chưởng kình hụt mục tiêu, chạm vào nhau nổ ì ầm.
Cơn giận ngút trời đã nhất thời khích động tiềm thức Nhương Thư, khiến chàng bất giác thi triển chiêu Kính Ðảo Quang Phương theo phương vị hai trục tung, hoành.
Và từ trên không trung, chàng sa xuống như núi Thái Sơn ập vào đầu kẻ thù. Âu Dương Lăng hồn phi phách tán cử song thủ vỗ liền hai chưởng, đồng thời song cước lui mau. Không phải do gã phản ứng nhanh mà bởi Nhương Thư đã hao tổn chân nguyên sau trận tử đấu với Báo Ứng Hội, Âu Dương Lăng thoát chết nhưng hai bàn tay bị đâm nát, rơi mất mấy lóng, mặt và đầu cũng tổn thương nhẹ.
Cảm giác đau đớn và sợ hãi đã làm cho Âu Dương Lăng chẳng còn chút dũng khí nào, tung mình đào tẩu ngay.
Ba lão Chân Khanh liều chết cầm chân Nhương Thư để cung chủ thoát thân. Càng đánh họ càng khiếp đảm trước kiếm thuật và tấm thân sắt thép của Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách. Chàng liên tiếp trúng chưởng mà vẫn đứng vững và trả lại họ những vết thương vấy máu. Cả ba sợ xanh mặt hè nhau bỏ chạy, chia làm ba hướng để làm khó dễ họ Tần.
Nhương Thư không ngần ngại đuổi theo cái lão đã dại dột chạy đúng hướng Âu Dương Lăng vừa thoát đi. Lão ta bị truy quá nút, vừa chạy vừa nói nhanh:
- Sao ngươi không chạy dọc bờ sông tìm xác vợ, theo ta làm gì?
Lão chỉ nói vì quá sợ, nào ngờ lại có tác dụng. Nhương Thư lập tức đình bộ, chạy ngược về phía bờ sông. Chàng phi thân như điên theo dòng nước đang hùng dũng xuôi Ðông, miệng gọi vang:
- Sơn muội! Sơn muội!
Chàng hành động một cách mù quáng vì giờ này xác Thúy Sơn đã trôi xa hàng mấy dặm.
Ðược vài khắc, Nhương Thư kiệt lực, vấp tảng đá ngã lăn ra, chàng bò đến mép vực sông nhìn dòng nước vàng đục, ác độc kia mà khóc vùi.
Chàng chẳng cần biết mình là ai, chỉ biết mình yêu tha thiết Bạch Thúy Sơn, và cái chết thảm của nàng đã khiến chàng đứt từng khúc ruột.
Nhương Thư càng đau khổ hơn khi không thể nhảy xuống nước chết theo nàng. Thứ nhất là vì chàng bơi rất giỏi, chẳng thể chết đuối được. Thứ hai, chàng phải sống để giết Âu Dương Lăng mà báo thù, cũng như tiêu diện Kỵ Ba Thần Quân.
Nhương Thư nghiến răng thề nguyện:
- Sơn muội hãy chờ ta! Ngày nào diệt xong Tứ Phạn Thiên Cung và Sơn Hải Bang ta sẽ đến với nàng!
Nhương Thư thổn thức đến khô lệ, và mơ màng nghe có tiếng chim bay ngang, hót trên đầu. Tiếng chim đã gợi cho chàng nhớ đến những con bồ câu đưa thơ của Cái Bang, huy động nhân thủ ngược dòng tìm xác Thúy Sơn. Chàng không thể để người vợ yêu lênh đênh làm mồi cho cá, hoặc được chôn như một nạn nhân vô danh.
Nhương Thư bật dậy phi thân về Khai Phong cho thật nhanh. Lúc đi ngang tòa mộc xác của Tích Bảo Chân Nhân, nơi ngập tràn kỷ niệm, chàng sực nhớ đến giọt máu của mình trong bụng Thúy Sơn, càng thương tâm vô hạn.
Ði thêm một đỗi, Nhương Thư phát hiện một con tuấn mã còn đủ yên cương đang gặm cỏ, chàng lướt đến vỗ về rồi lên ngựa. Con vật này chắc là của một lão Chân Khanh đã bị chàng giết.
Sơn Tây là vùng đất bị người Mông Cổ chiếm giữ lâu nhất, lại là cao nguyên nên nghề nuôi lừa ngựa rất phát đạt. Nhương Thư cỡi ngựa từ nhỏ, thuật kỵ mã và chăm sóc thuộc hàng thượng thặng.
Chàng không cần dùng roi đánh đập mà vẫn khiến con ngựa lạ ngoan ngoãn phóng như bay. Tuy đang nóng ruột, Nhương Thư cũng thầm khen ngựa tốt.
Chàng vào cửa Ðông thành lúc cuối giờ Thìn, lỏng tay cương, dáo dác tìm bọn ăn mày.
Hình dung thiểu nảo và bộ y phục bê bết máu của Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách đã khiến bách tính trố mắt nhìn. Khách giang hồ thì kinh ngạc thầm mừng rỡ vì đã biết chuyện chàng hạ sát Âm Sơn Lão Tổ, thọ trọng thương, được Bạch Thúy Sơn cõng chạy.
Một hán tử mang kiếm bước ra, vòng tay nói:
- Sau khi cùng quân triều đình quét sạch Âm Sơn Giáo, Dương Châu Thần Thâu cùng đệ tử Cái Bang đã khổ công tìm kiếm đại hiệp và Tần phu nhân. Sao đại hiệp không đến phân đà cho họ mừng.
Nhương Thư gật đầu:
- Xin cảm tạ các hạ! Song ta không biết lối!
Hán tử kia hăng hái đáp:
- Tại hạ rất vinh dự được dẫn đường cho đại hiệp!
Sau trận Cô Ðộc Bảo, Tần Nhật Phủ đã làm chấn động võ lâm, thanh danh vang rền như sấm dậy, ai cũng tôn thờ chàng làm thiên hạ đệ nhất cao thủ, và chắc chắn sẽ trở thành minh chủ võ lâm.
Bởi thế, hán tử này sướng rơn khi được làm quen và giúp đỡ chàng hiệp sĩ họ Tần. Gã hùng dũng rảo bước, đi phía trước đầu ngựa của thần tượng, cố tỏ vẻ bình thường, song thực ra, mũi gã nở lớn và phập phồng, còn miệng chỉ chực cười toe toét. Gã biết có rất nhiều người đang nhìn mình với ánh mắt ngạc nhiên và ganh tỵ.
Tim gã nổi trống trận khi nghe Tần Nhật Phủ hỏi:
- Xin các hạ cho Tần mỗ được biết đại danh!
Hán tử áo đen lắp bắp vì cảm động:
- Bẩm đại hiệp! Tại hạ là một kẻ áo vải vô danh, tên gọi Mục Tử Lương, năm nay hai mươi bảy tuổi, quê đất Hồ Nam!
Họ Mục khai báo đầy đủ, cứ như sắp kết giao huynh đệ với người ta vậy.
Nhương Thư chẳng thể nói câu "cửu ngưỡng", chỉ gật đầu. Nhìn vai áo vải xấu sờn rách của Mục Tử Lượng, chàng chạnh lòng nghĩ đến hàng vạn chàng trai khác đang đeo gươm phiêu bạt, bỏ cố hương đi tìm chút thanh danh. Ða phần số ấy đều thất bại như Tử Lượng vậy. Muốn nổi danh hiệp khách trong chốn giang hồ sát máu này chẳng phải là chuyện dễ.
Phân đà Cái Bang ở Khai Phong không xa, chỉ quanh co vài ngõ là đến nơi. Mục Tử Lượng hăng hái hét vang:
- Tần đại hiệp giá lâm!
Bọn hán tử đang ngồi trước sân vá áo bắt rận giật mình ngẩng lên, nhận ra chàng trai lông mày kép mà mình cực khổ tìm kiếm lâu nay.
Họ lúng túng đứng dậy khom lưng vái chào vì Tần Nhật Phủ đã chẳng chờ họ thông báo mà đi xăm xăm vào cửa sảnh.
Khách được chào đón bằng những tiếng ồ kinh ngạc, mừng rỡ của khá nhiều người. Quanh chiếc bàn bát tiên trần trụi, sứt mẻ kia có đến năm người, gồm Vô Ưu Cái, Ngọa Long Tú Sĩ, Triều Châu Thần Y, Dương Châu Thần Thâu và một gã khất cái gầy gò, cao lêu nghêu.
Gã cao gầy ấy chính là phân đà chủ địa phương này, tên gọi Thanh Trúc Cái Phan Ðình Khải. Họ Phan đã cấp báo về tổng đàn Lạc Dương khi tìm mãi không thấy Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách và Bạch Thúy Sơn. Do vậy, bọn Vô Ưu Cái mới vội vã đến Khai Phong.
Gương mặt đưa đám và thân thể tang thương của Nhương Thư đã khiến mọi người lo lắng. Vô Ưu Cái hấp tấp hỏi:
- Thúy Sơn đâu?
Nhương Thư thiểu não đáp:
- Sơn muội đã bị Âu Dương Lăng đánh trúng một chưởng, rơi xuống sông Hoàng Hà! Bang chủ mau cho chim câu bay đến các địa phương ở hạ lưu, huy động thuyền và người để vớt xác!
Vô Ưu Cái yêu thương Thúy Sơn như em gái, nay nghe hung tin không giữ nổi sự trầm tĩnh thường nhật, tái mặt quát:
- Sự việc thế nào? Mau nói rõ ta nghe!
Nhương Thư cười nhạt, mắt đổ lửa:
- Chuyện rất dài, trước mắt lão cứ làm theo lời ta!
Vẻ mặt đau khổ và dữ tợn của chàng đã khiến Vô Ưu Cái tỉnh táo lại. Lão bảo thủ hạ:
- Khải nhi! Sao ngươi không đi lo công việc, còn ngồi đấy làm gì?
Thanh Trúc Cái chính là đệ tử của Hầu Mộ Thiên. Gã vội dạ vang, tất tả bước ra ngoài.
Ngọa Long Tú Sĩ lên tiếng:
- Tần công tử cứ an tọa rồi kể rõ nguồn cơn cho bọn lão phu nghe thử?
Nhương Thư thẫn thờ ngồi phịch xuống ghế, uống liền ba chén trà cho nguôi cơn khát, rồi chậm rãi kể lại tất cả, trừ việc yêu đương giữa chàng và Thúy Sơn.
Cái chết của nàng đã khiến chàng chẳng còn thiết tha việc mình là ai nữa. Có nhận thân phận cũ cũng vô ích vì không bằng cớ và còn phiền nhiễu bởi sự tra hỏi. Nhương Thư quyết định giữ danh nghĩa Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách, diệt ma, phục thù xong là tự sát, chết theo nương tử.
Trong khi kể lể, những giọt lệ đã vơi giờ lại đầy và tràn ra khoé mắt, chứng tỏ niềm tiếc thương Thúy Sơn vô hạn. Ðiều này đã khiến bọn Vô Ưu Cái nghi hoặc. Là bậc anh hùng cái thế, nước mắt họ Tần nào dễ tuôn rơi như vậy.
Ngọa Long Tú Sĩ là ngươi luôn đoán chắc Nhật Phủ là Nhương Thư, giờ càng vững tin hơn. Lão đá nhẹ vào chân Vô Ưu Cái rồi bấm độn, xem thủ hung cát thế nào. Lỗ Tú Sĩ trầm ngâm một lúc, mặt lộ nét mừng:
- Tượng quẻ rất tốt! Thúy Sơn tuy gặp nạn nhưng có đến chín phần sống sót! Tần thiếu hiệp cứ yên tâm vào trong tắm gội, nghỉ ngơi và để Tạ Thần Y chăm sóc vết thương!
Nhương Thư bán tín bán nghi, gằn giọng hỏi lại:
- Tiên sinh nói thực đấy chứ?
Lỗ Ðăng Hân mỉm cười:
- Nếu sai, lão phu xin phế bỏ cái danh hiệu Ngọa Long ngay!
Là đệ tử nhà Phật, chàng vốn không tin bói toán, xong giờ đây chàng bám víu vào quẻ Dịch kia để không chết vì tuyệt vọng. Hơn nữa, thanh danh của Ngọa Long Tú Sĩ lừng lẫy đã ba chục năm, cũng đáng để tin lắm chứ.
Nhương Thư thở phào:
- Tạ ơn Phật Tổ! Nếu Thúy Sơn thoát nạn thì đệ tử nguyện xây một cảnh chùa thật lớn!
Ðây chính là khuyết điểm của Di Hồn Ðại Pháp, vì không thể thay đổi thói quen trong ngôn ngữ. Nhương Thư đã bộc lộ bản chất sư sãi của mình.
Mắt Vô Ưu Cái sáng lên, lão mỉm cười:
- Té ra Tần thiếu hiệp lại là một người mộ đạo, kính Phật chứ không kính Tam Thanh!
Nhương Thư cũng sững sờ trước việc này, thầm rủa mình đúng là cái gã sư nửa mùa của chùa Phật Quang.
Chàng không đối đáp, lặng lẽ đứng lên, chợt phát hiện Mục Tử Lượng vẫn còn lẩn quẩn trước sân phân đà, liền bảo Vô Ưu Cái:
- Phiền bang chủ thưởng cho vị huynh đài áo đen tên Mục Tử Lượng kia! Y đã nhiệt tình đưa đường cho tại hạ đến đây!
Hầu Mộ Thiên gật đầu và bảo gã tiểu cái hầu trà:
- Ngươi hãy dẫn Tần công tử xuống khánh xá, dành cho y một phòng thoáng đãng, yên tĩnh!
Gã tiểu cái vâng dạ, khom lưng mời Nhương Thư đi theo. Ở đây, Vô Ưu Cái bước ra cửa sảnh, vẫy gọi Mục Tử Lượng:
- Ngươi vào đây!
Họ Mục mừng rỡ rảo bước theo bang chủ Cái Bang vào sảnh. Hầu Mộ Thiên ngắm nghía gương mặt thuần hậu, thật thà của Mục Tử Lượng, định nói thì bị Ngọa Long Tú Sĩ cướp lời:
- Chẳng hay Mục thiếu hiệp quê quán ở đâu?
Mục Tử Lượng vội vòng tay đáp:
- Bẩm tiền bối! Vãn bối quê huyện Nhạc Dương, phủ Hồ Nam!
Lỗ Tú Sĩ hỏi tiếp:
- Dung mạo của thiếu hiệp rất giống Tỏa Hầu Mục Vĩnh Phu cũng người đất Nhạc Dương! Dám hỏi đôi bên có quan hệ gì không?
Mục Tử Lượng tái mặt cúi đầu, sợ hãi đáp:
- Vãn bối chính là thứ nam của Tỏa Hầu!
Ngọa Long Tú Sĩ làm nhà trên núi Lỗ Gia Công, cũng thuộc Hồ Nam, nên biết rõ giới võ lâm trong phủ. Tỏa Hầu Mục Vĩnh Phu lại là một đại nhân vật, lừng danh với tài chế tạo ổ khóa, thiết kế cơ quan, tất nhiên Lỗ Ðăng Hân chẳng lạ.
Võ lâm Trung Nguyên có hai người nổi tiếng khéo tay là Tỏa Hầu ở phương Nam và Trượng Vương Tất Qui ở phương Bắc. Trượng Vương qua đời đã lâu, chính thị ông nội của Tất Cung Bảo, chủ nhân những trái Bạt Sơn Thần Lựu.
Lỗ Tú Sĩ cười ha hả:
- Thì ra ngươi là chàng trai không thích nghề bán ổ khóa, trốn nhà đi làm hiệp sĩ đây sao?
Lão còn giễu cợt:
- Sao ngươi không dùng tài mở khóa gia truyền mà kiếm ăn, để phải đói rách thế kia!
Mục Tử Lượng đỏ mặt, lúng túng đáp:
- Vãn bối tuy được chân truyền song tuyệt đối chẳng dám làm nhục nhã tông môn! Xin tiền bối chớ nói thế!
Vô Ưu Cái vốn có tài minh chủ, giỏi thuật dùng người, nhận ra Mục Tử Lượng là bậc hiền tài, rất hữu dụng cho sự nghiệp giáng ma. Ông vui vẻ hỏi:
- Mục hiền điệt! Ngươi bỏ cảnh giàu sang phú quí chắc cũng vì hiệp tâm vạn trượng, nuôi chí trừ gian diệt bạo! Nay võ lâm gặp hồi kiếp nạn, ma chướng hoành hành, chẳng hay hiền điệt có chịu đem sức ra sát cánh với lão phu hay không?
Mục Tử Lượng choáng váng, ngây ngất như người đậu trạng nguyên, quì xuống lạy:
- Bang chủ đã có lòng hạ cố, vãn bối xin xả thân phò tá!
Vô Ưu Cái rời ghế, đỡ Mục Tử Lượng lên, đưa vào bàn. Ông hỏi han kỹ lưỡng, hài lòng khi biết họ Mục đủ tài đáp ứng những yêu cầu của mình. Ông bèn bảo gã về chỗ cư trú thu xếp hành lý, sang đây chờ lệnh.
Mục Tử Lượng đi rồi, Vô Ưu Cái nghiêm nghị hỏi Lỗ Tú Sĩ:
- Này Lỗ hiền đệ, tài bói toán của ngươi có thực sự linh ứng hay không?
Lỗ Ðăng Hân gượng cười:
- Thiên cơ đâu dễ để người phàm biết được! Quẻ bói chỉ đáng tin sáu bảy phần mà thôi! Tiểu đệ phải nói cứng thế để trấn an Nhương Thư đấy!
Hầu Mộ Thiên cau mày:
- Ngươi đã dám khẳng định rồi ư?
Lỗ Ðăng Hân gật đầu, nghiêm giọng:
- Tiểu đệ tự tin mình không thể lầm! Nay họ Tần thọ thương là cơ hội tốt để chúng ta kiểm chứng!
Vô Ưu Cái gật gù, quay sang bảo Tạ Thần Y:
- Phiền Tạ lão huynh xem xét thật kỹ cơ thể Tần Nhật Phủ!
Tạ lão mỉm cười, về phòng lấy rương thuốc, đi xuống khách xá. Nửa canh giờ sau ông trở lại, đôi lông mày bạc cau tít.
Tạ Thần Y nhấp hớp trà rồi kể:
- Lão phu đã để lẫn một hoàn thuốc ngủ vào thuốc trị nội thương, nhờ vậy có điều kiện quan sát rất kỹ. Khổ thay, mặt y không hề có dấu vết mổ xẻ hay dịch dung! Tuy nhiên lão phu đã khám phá việc y không sợ độc, dù trúng hơn hai chục mũi độc châm. Hai là, xương cốt y cứng rắn khác thường, chịu nguyên một chùy vào lưng mà chẳng gãy!
Vô Ưu Cái là người cực kỳ thận trọng nên phân vân:
- Lạ thực! Hai đặc tính cơ thể kia đúng là của Nhương Thư, song chẳng lẽ trên đời lại có kẻ tài ba đến mức cắt da xẻ thịt mà không để lại dấu vết?
Ngọa Long Tú Sĩ cười mát:
- Lão phu xin hiến một kế mọn!

Hồi 16

Khê Ngạn Kiến Vô Y
Bích Thượng Phùng Quỷ Kế

Hôm sau, Vô Ưu Cái đến gặp Nhương Thư, trao cho chàng một quyển bí kíp chép tay, ân cần dặn dò:
- Ðây là Phật Ðăng Kiếm Phổ! Tuyệt học làm lừng danh Tần Nhương Thư! Nay công tử thay y giáng ma, hãy nghiên cứu để tăng cường bản lãnh!
Quyển thủ lục này do Trác Thiên Lộc chép lại, bị Nhương Thư thu hồi, giao cho Vô Ưu Cái cất giữ. Chàng sợ tuyệt học của ân sư bị thất truyền nên ủy thác Hầu Mộ Thiên tìm người tài đức mà truyền lại, trong trường hợp chàng đoản mệnh.
Nhương Thư mừng rỡ cảm tạ họ Hầu. Chàng hy vọng qua việc học Phật Ðăng Kiếm Pháp mà khẳng định thân phận thực và dần dà khôi phục ký ức.
Chàng luyện Phật Ðăng Kiếm Pháp mười mấy năm ròng, chiêu thức in sâu vào tiềm thức, phép Di Hồn Ðại Pháp chỉ che mờ được ý thức, khiến chàng tạm quên đi. Giờ xem lại khẩu quyết, tay hữu bắt kiếm ấn thực hành, Nhương Thư thi triển một hơi toàn pho, chẳng chút ngượng ngùng.
Nhương Thư thở dài, hoàn toàn xác định mình là ai. Trong những ngày sau đó, chàng ở rịt trong phòng, luyện đi luyện lại những chiêu kiếm, mắt nhắm nghiền để tâm trí thức dậy theo từng đường gươm quen thuộc. Phật Ðăng Kiếm Pháp chính là chiếc chìa khóa thần diệu mở dần cánh cửa dĩ vãng bị tà pháp khép chặt. Gương mặt hòa ái, từ bi của Phật Ðăng Thượng Nhân hiện ra trước tiên vì ông là người dạy kiếm cho Nhương Thư. Sau đó là phong cảnh chùa Phật Quang, núi Ngũ Ðài và thi thể lõa lồ của người mẹ bạc mệnh. Lần lượt, Nhương Thư khôi phục toàn bộ ký ức, kể cả việc bị Ải Thần Quân bắt sống. Chính lão đã dùng tài dao kéo biến chàng thành Tần Nhật Phủ.
Chàng có thể tiết lộ bí mật này cùng bọn Vô Ưu Cái truy tìm Ải Thần Quân, bắt lão trả lại chân diện mục. Nhưng nếu thế thì chàng không thực hiện được lời thề với Thúy Sơn. Ba người vợ họ Ðiền và ba chiếc bào thai chẳng cho phép chàng tự sát.
Kỷ niệm về họ cũng đã sống lại cùng tình yêu, điều này khiến Nhương Thư vô cùng bối rối. Chàng quyết định giữ kín lai lịch, chờ xem an nguy của Thúy Sơn thế nào. Nếu nàng sống sót đúng như lời Ngọa Long Tú Sĩ tiên đoán thì hạnh phúc sẽ vẹn toàn.
Dù không quen gian dối, Nhương Thư vẫn phải nói ngược lòng mình khi bị Vô Ưu Cái hỏi han. Chàng bảo rằng Phật Ðăng Kiếm Pháp uyên thâm vô lượng, chẳng thể luyện thành trong thời gian ngắn được. Chàng biết đây là mưu kế của Ngọa Long Tú Sĩ, kẻ đã khẳng định với Thúy Sơn về thân phận của chàng.
Vẻ thất vọng lóe lên trong đôi mắt già nua của Hầu Mộ Thiên, làm cho Nhương Thư đau lòng vô hạn. Vô Ưu Cái yêu thương chàng như ruột thịt, chắc đã rất thương tâm khi mất mát.
Tiết Trung thu đến mang theo toàn tin xấu. Thứ nhất, các phân đà dọc hạ lưu Hoàng Hà báo về rằng không thể tìm thấy xác Thúy Sơn. Họ đã dọ hỏi dân cư dọc hai bờ, suốt chiều dài ngàn dặm, cũng chẳng có ai vớt được.
Tin thứ hai là việc Sơn Hải Bang do Kỵ Ba Thần Quân đích thân thống lãnh đã vây hãm Cưu Sơn, tình thế bọn Hoàng Nghi Tuyệt vô cùng nguy ngập.
Vô Ưu Cái liền cho mời Nhương Thư lên sảnh. Chàng hơi ngạc nhiên khi thấy cả Mục Tử Lượng cũng được mời dự họp. Gã đã đến ở đây cùng lúc với chàng, song hai người ít khi gặp gỡ.
Hầu Mộ Thiên thông báo kết quả cuộc tìm kiếm Thúy Sơn trước. Nghe xong, Ngọa Long Tú Sĩ hớn hở nói ngay:
- Không thấy xác tức là quẻ bói của lão phu đã linh nghiệm! Có lẽ Thúy Sơn được chiếc thuyền nào đó vớt lên. Họ đi ngược về hướng Tây nên không biết việc chúng ta tìm kiếm!
Nhương Thư buồn rầu lẩm bẩm:
- Một kẻ thọ chưởng thương, rơi xuống từ độ cao tám chín trượng, khó mà sống nổi với dòng nước dữ dội của sông Hoàng!
Lỗ Ðăng Hân bác ngay:
- Cát nhân chẳng thể chết yểu được! Trước đây nàng ta và Nhương Thư rơi xuống vực thẳm sâu vài chục trượng mà vẫn an toàn cơ mà!
Nhương Thư là người trong cuộc nên biết rất rõ, phần nào tin vào những kỳ tích phi thường.
Vô Ưu Cái bàn sang việc võ lâm, kể lại tình hình gay cấn ở Cưu Sơn. Nhương Thư xem Hoàng Nghi Tuyệt là bằng hữu chí thân nên khẳng khái nói:
- Tại hạ xin đi ngay Cưu Sơn để giải vây cho phe ta, đồng thời nhân cơ hội này mà giết Kỵ Ba Thần Quân, không cần chờ đến đại hội minh chủ nữa!
Vô Ưu Cái gật gù:
- Hiện nay, Bất Trí Thư Sinh, Thiết Kình Ngư, Lô Sơn Ngũ Tặc cùng hai trăm cao thủ Thiếu Lâm đã khởi hành đi Cưu Sơn. Tuy nhiên, trong lực lượng của chúng ta không ai đủ sức đương cự lại lão quỷ già Thành Vô Chiến. Vì vậy, Tần thiếu hiệp hãy đến đấy để cầm chân hắn!
Nhương Thư cau mày:
- Vì sao bang chủ lại dùng chữ "cầm chân "?
Hầu Mộ Thiên thở dài:
- Vì bản lãnh của Kỵ Ba Thần Quân Thành Vô Chiến lợi hại hơn Âm Sơn Lão Tổ một bậc. Lão ta lại có bảo giáp da cá hộ thân, kiếm đâm không thủng!
Nhương Thư sực nhớ đến tấm bảo y mà Lã Tập Hiền đã mượn của Kỵ Ba Thần Quân, khi định giao đấu với chàng.
Ngọa Long Tú Sĩ tiếp lời họ Hầu:
- Không phải mình lão ta mà cả mười người đệ tử thân tín cũng mặc bảo y, đao pháp rất cao cường!
Tạ Thần Y bỗng than thở:
- Phải chi có được thanh Mạc Gia Thần Kiếm của Tích Bảo Chân Nhân thì mới mong giết được lũ tà ma đáng ghét kia!
Vô Ưu Cái hậm hực chửi:
- Mả cha cái lão đạo sĩ chuyên đào mồ thiên hạ! Bốn năm trước lão ta vớ được thanh thần kiếm trong một ngôi mộ cổ ở ngoại thành Lạc Dương, có mang đến khoe với lão phu, lão huyênh hoang rằng sẽ tìm bậc nhân hiệp mà tặng kiếm, sau đó ôm bảo vật biến mất tăm. Nếu lão ta thực lòng vì võ lâm thì đã sớm tặng cho Nhương Thư rồi. Còn ai xứng đáng hơn y nữa?
Chợt lão đổi giọng, quay sang ân cần với Mục Tử Lượng:
- Này Mục hiền điệt! Ðến lượt ngươi trưng của quí ra rồi đấy!
Họ Mục hân hoan gật đầu, trịnh trọng nhấc một túi lụa nhỏ trong lòng lên, đặt xuống bàn, miệng ấp úng vì xúc động:
- Bẩm chư vị! Vãn bối nhận được lệnh của Hầu bang chủ lập tức thức trắng chín ngày đêm, chế tạo ra được mười viên Lân Hỏa Thần Ðạn, theo đúng thiết kế của Lỗ tiền bối! Với loại vũ khí này, Tần thiếu hiệp có thể yên tâm đối phó với Kỵ Ba Thần Quân và bọn giáp sĩ!
Nói xong, Mục Tử Lượng đổ ra bàn những viên bi bằng vàng, lớn cỡ hột nhãn, hình cầu nhưng có sáu nốt lồi nhỏ xíu.
Nhương Thư cầm lên xem thử, ngơ ngác hỏi:
- Tác dụng của chúng thế nào?
Ngọa Long Tú Sĩ Lỗ Ðăng Hân tươi cười giải thích:
- Áo giáp da cá của thầy trò Kỵ Ba Thần Quân đều được tẩm dầu, tương tự như Ðằng Giáp của đám rợ phương Nam, từng bị Khổng Minh thiêu chết. Do vậy, lão phu đã nghĩ ra việc chế tạo Lân Hỏa Thần Ðạn, nhưng không có người đủ khéo kéo mà thực hiện. May thay, Mục hiền điệt đây sở đắc tài hoa của Tỏa Hầu, đã thành toàn ý nguyện của lão phu!
Mục Tử Lượng sung sướng lên tiếng giải thích:
- Bẩm chư vị! Tuy bề ngoài đơn giản nhưng việc tạo tác lại cực kỳ khó khăn, phức tạp. Sáu nốt lồi nhỏ xíu như đầu tăm này chính là bộ phận kích hỏa. Khi Lân Hỏa Thần Ðạn chạm mạnh vào người đối phương sẽ phát nổ và bốc cháy. Lửa lân tinh rất dữ dội, không thể dập tắt được và bám rất chắc vào mục tiêu. Giao Bì giáp của Kỵ Ba Thần Quân tẩm dầu thì lão càng mau chết.
Cử tọa hết lời khen ngợi tài nghệ của Mục Tử Lượng khiến gã khoan khoái phi thường. Dương Châu Thần Thâu nói đùa:
- Sao ngươi lại hoang phí đến mức dùng vàng là ám khí? Ngươi muốn Hầu bang chủ sạt nghiệp hay sao?
Mục Tử Lượng gượng cười:
- Bạch huynh quả khéo đùa! Vàng là thứ kim loại thích hợp nhất vì có thể dát mỏng, kéo sợi dễ dàng, lại không rỉ sét! Nếu làm bằng đồng thì lượng thuốc nổ ít ỏi kia không phá vỡ nổi vỏ bọc!
Nhương Thư cắt ngang lời gã:
- Mục công tử có thể chế tạo Bạt Sơn Thần Lựu được không?
Mục Tử Lượng bẽn lẽn lắc đầu:
- Thưa không, đấy là nghề độc môn của dòng họ Tất, tại hạ chẳng dám so bì!
Lỗ Tú Sĩ xen vào:
- Lão phu đã nghiên cứu rất kỹ trái Bạt Sơn Thần Lựu cuối cùng của chúng ta, nhận ra nó được dồn một loại thuốc nổ đặc biệt nên sức công phá mới khủng khiếp như thế! Chỉ riêng phương pháp nén chặt thứ hỏa dược nhạy cảm ấy vào ống đồng cũng đủ làm cho cả thiên hạ phải nhức đầu!
Vô Ưu Cái xoa tay:
- Không khó thì đâu còn là Trượng Vương! Thôi thì có gì xài nấy! À! Tần thiếu hiệp có biết ném ám khí hay không?
Dưới ánh mắt sắc như dao của lão, Nhương Thư cố bình thản đáp:
- Tại hạ quen luyện Lục Mạch Thần Chỉ, có thể dùng chỉ phong bắn thần đạn đi được mà!
Câu trả lời nghe hữu lý, nhưng thực ra là chàng có luyện qua phép ném Thiết Niệm Châu.
Nhương Thư biết rõ bản chất "cẩn tắc vô ưu" của Hầu Mộ Thiên, dù biết chắc chín phần vẫn chờ sự xác nhận của chàng.
Vô Ưu Cái dịu giọng bảo Mục Tử Lượng:
- Hiền điệt hãy về nghỉ ngơi vài ngày rồi tiếp tục chế tạo thêm thần đạn! Vận mệnh của võ lâm tùy thuộc vào ngươi đấy!
Tuy biết bị đuổi khéo nhưng Mục Tử Lượng vẫn cao hứng về câu nói trịnh trọng của lão hồ ly họ Hầu.
Dương Châu Thần Thâu không chờ đuổi, giả đò rủ Mục Tử Lượng đi uống rượu. Trong sảnh giờ đây chỉ có bốn người, cả gã tiểu cái hầu trà cũng bị xua đi mất.
Lúc này, Vô Ưu Cái mới nghiêm nghị nói với Nhương Thư:
- Tần thiếu hiệp! Bọn lão phu đã điều tra cặn kẽ, biết rõ thiếu hiệp là người đã làm cho bụng của ba nàng họ Ðiền phưỡn ra! Lão phu không bắt lỗi, chỉ muốn ngươi thành thực thú nhận và lãnh trách nhiệm!
Nhương Thư chờ đợi câu hỏi này đã lâu, chua chát đáp:
- Nếu tại hạ nhận mình là cha những đứa bé kia thì đồng ý lấy ba vị phu nhân họ Ðiền, liệu họ có chịu không?
Vô Ưu Cái cười nhạt:
- Chắc chắn là không! Vì vậy, ý của lão phu là ngươi sẽ tự sát trước linh vị của Nhương Thư để tạ tội!
Lão định bắt bí để chàng lòi đuôi chuột, chịu nhận lại thân phận, nào ngờ Nhương Thư buột miệng đáp ứng ngay:
- Dám làm dám chịu! Giết xong Kỵ Ba Thần Quân và Âu Dương Lăng là tại hạ dâng đầu cho bang chủ!
Dứt lời, chàng đứng phắt dậy trở về phòng. Ở đây, ba lão nhân nhìn nhau ngơ ngẩn. Hầu Mộ Thiên rầu rĩ than:
- Thế này là thế nào nhỉ? Nếu y là Nhương Thư sao không mở miệng thừa nhận mà lại chịu chết?
Ngọa Long Tú Sĩ dù cơ trí như Khổng Minh, song không biết rõ sự việc trong mộc xá, cũng như lời nguyện đồng hành cùng Thúy Sơn về cõi âm của Nhương Thư, nên đâm ra bối rối. Lão bắt đầu nghi ngờ định kiến vững chắc trước đây của mình.
Tạ Thần Y lên tiếng phá tan bầu không khí nặng nề:
- Lão phu đã theo cách của Lỗ lão đệ, bấm vào huyệt Mi Tâm song họ Tần chẳng hề có biểu hiện đau đớn. Có thể kết luận gã không phải là Nhương Thư bị phép Nhiếp Hồn biến thành Nhật Phủ!
Vô Ưu Cái ôm đầu than:
- Chắc lão phu điên mất!
Sáng hôm sau là ngày mười sáu tháng tám, Nhương Thư lên đường đi Cưu Sơn. Chàng phải có mặt sớm để hỗ trợ Hoàng Nghi Tuyệt. Lực lượng chính phái ở đấy khá mạnh, chỉ thiếu cao thủ để đủ sức đối phó với Kỵ Ba Thần Quân. Với hơn chục viên Lân Hỏa Thần Ðạn vàng óng, xinh đẹp kia, Nhương Thư hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu ấy.
Cưu Sơn chỉ có một đỉnh và căn cứ Cưu Bang lại nằm trên bình đài ở sườn Ðông, vì ba hướng còn lại là rừng cây rậm rạp, đầy ác thú, độc vật, không có lối ra vào.
Cũng chính vì thế mà quân Sơn Hải Bang chỉ vây hãm đoạn chân núi hướng Ðông, chiếm lấy Lạc Pháp Trấn.
Lực lượng của Hoàng Nghi Tuyệt đông độ năm trăm, đã rút cả lên bình đài, tuy an toàn nhưng lâu ngày sẽ chết đói.
Quân tiếp viện còn ở phía sau nhưng Nhương Thư phải có mặt thật sớm vì Kỵ Ba Thần Quân đang cho thủ hạ đóng một chiếc thang khổng lồ, cao mười trượng, rộng hai trượng.
Mặt trước của thang dựng đứng, lợp kín bằng ván dầy, mặt sau dốc và gồm những bậc ngang. Khi đóng xong, Sơn Hải Bang sẽ dùng con lăn đẩy chiếc thang áp sát bình đài rồi tiến lên. Lúc ấy, bọn Hoàng Nghi Tuyệt sẽ phải bó tay.
Sơn Hải Bang đã quét sách đệ tử Cái Bang trong bán kính mười dặm quanh Cưu Sơn. May mà trạm truyền tin lại sớm nằm trên núi, nên Vô Ưu Cái và hội đồng võ lâm mới nắm rõ cục diện.
Nhiệm vụ của Nhương Thư là có mặt trên bình đài, chặn đánh Kỵ Ba Thần Quân lúc lão nhảy từ đầu thang sang. Thủ hạ của lão đã có bọn Hoàng Nghi Tuyệt phụ trách.
Nhưng chàng sẽ lên bằng cách nào khi chung quanh núi là vách đá dựng ngược? Kỵ Ba Thần Quân đã đích thân khảo sát toàn khu vực mà không tìm ra lối lên, đành phải đóng thang. Hơn nữa, hàng ngàn tổ ong độc không cho phép lão đưa quân vào rừng. Một người thì không sao nhưng nhiều người sẽ đánh động bầy ong dữ.
Ngày xưa, trong những cuộc chiến tranh, người Trung Hoa dựa vào thành lũy mà phòng thủ, vì thế, một vài công cụ phá thành đã ra đời. Trong số đó có loại thang dài thượt gọi là vân thê (thang mây) được làm bằng tre và khá đơn giản. Khi sử dụng vân thê, người ta phải phối hợp với cung tiễn để hỗ trợ, song không mấy có kết quả. Ða số quân cảm tử trèo lên thang đều bỏ mình vì bị xô ngã, hoặc bị dầu hôi trút xuống đầu.
Loại thang nặng nề, kiên cố của Kỵ Ba Thần Quân sáng tạo ra không dùng được trong chiến tranh vì quanh thành đều có đào hào sâu, khó mà đưa qua. Song Cưu Sơn không phải thành quách và đệ tử Cưu Bang cũng chẳng có cung tiễn nên vân thê của Thành Vô Chiến mới có đất dụng võ.
Như đã nói ở trên, việc thông tin liên lạc giữa Cưu Sơn và Lạc Dương vẫn được duy trì, nên Nhương Thư có cách để lên núi.
Bọn Sơn Hải Bang không mù nên đã thấy chim câu mang thư cầu viện bay đi. Vì vậy, họ đặt mai phục ở mọi ngã đường để chặn đánh, chủ yếu phòng ngự hướng Nam, nơi ấy có đường thông với quan đạo. Quân chính phái đến tiếp ứng Cưu Sơn bắt buộc phải đi lối này.
Có một điều mà một kẻ đầy thao lược như Thành Vô Chiến không nghĩ đến, là việc đối phương chỉ có một mình và đi từ Khai Phong đến chân phía Bắc núi Cưu. Ở hướng này, họ Thành chỉ rải vài tên trinh sát cho có lệ. Lão mang theo sáu trăm quân nhưng cũng chẳng đủ để rải hết một chu vi hàng chục dặm.
Kế trưa ngày mười tám, Nhương Thư có mặt trong một thôn nhỏ, cách xa Cưu Sơn khá xa. Chàng vào quán trọ nghèo nàn ở đầu thôn ăn thật no, gởi ngựa lại rồi xuất phát.
Cuối giờ Mùi, chàng đến khu rừng già chân núi, dễ dàng qua mặt một gã hải tặc đang ngủ gục dưới gốc cây, tiến vào rừng.
Mưa thu làm thảm rừng ẩm ướt, xông lên mùi lá mục, côn trùng sinh sôi nảy nở rất nhiều, chúng rỉ rả chào đón Nhương Thư, song thỉnh thoảng lại có những tiếng sột soạt đầy đe dọa.
Tiếng hổ gầm từ xa vọng lại không làm Nhương Thư nao núng. Cả những tổ ong nằm rải rác khắp nơi cũng chỉ khiến chàng mỉm cười. Hoàng Nghi Tuyệt từng kể rằng loài Hoàng Phong trong rừng Cưu Sơn rất độc và dữ tợn, ai bị chúng đốt là toi mạng ngay. Nhờ bầy ong và đàn hổ mà khu rừng nguyên thủy rộng mênh mông này vẫn chưa bị loài người tàn phá. Bọn tiều phu chỉ đốn củi ở bìa rừng chứ không dám vào sâu.
Chợt phát hiện một con mãng xà dài ngoằng, to lớn, ngoắt ngoẻo trên cành cây trước mặt, Nhương Thư đi chếch sang hướng khác để tránh. Không có gì nguy hiểm sao mặt chàng lại nặng nề và ánh mắt u buồn thế kia? Ðấy là bởi con vật đã gợi nhớ đến Thủy Xà Vương và người yêu bạc mệnh là Bạch Ngọc Tiên Tử Lâm Ðại Ngọc.
Chàng đã giết được Thiểm Bắc Thần Long và Âm Sơn Lão Tổ để trả thù, song đâu phải nhờ thế mà Lâm nương sống lại.
Nhương Thư cố nén đau thương, vung kiếm chặt cành mở lối, bước nhanh hơn. Càng đến gần chân núi thì thảm rừng càng nhiều đá tảng, song chỉ làm đường dễ đi đối với kẻ có khinh công cao siêu. Nhương Thư nhảy từ tảng đá này sang tảng đá khác, trông đẹp như cánh chim, khiến lũ tu hú đang quang quác trên cành cao phải ghen tỵ.
Ðường rừng hiểm trở, Nhương Thư liên tục chuyển hướng để tránh những trở ngại quá lớn, nên thỉnh thoảng chàng phải nhảy lên ngọn cây, quan sát đỉnh Cưu Sơn để định hướng cho đúng.
Không muốn đánh động lũ ong rừng hung dữ, chàng chỉ dùng kiếm chặt những cành gai khi cần thiết.
Trong rừng thường có suối, do nước tích tụ trên núi chảy xuống, và Nhương Thư đã gặp một trong những khe suối ấy.
Nhương Thư mừng rỡ cởi hết y phục, nhảy xuống giòng nước mát, trong veo, có màu xanh của lá rừng. Chàng gột rửa bụi bặm và xăm soi những chỗ kín trên cơ thể để tìm bắt loài ve nhỏ bé mà lì lợm. Chàng không sợ độc, song chúng lại không sợ chàng.
Ve rừng chẳng hề đáng yêu như loài ve sầu vẫn thường ngợi ca mùa hạ. Chúng chỉ nhỏ hơn hạt mè, thuộc hạng khát máu nhất trần gian. Chúng thích những vùng phủ lông như đầu, nách, hạ thể...và khi cắn ai thì chui luôn vào sâu da thịt, khiến nạn nhân phát sốt, đau đớn vô cùng. Ðáng sợ nhất khi chúng chui vào lỗ tai, hổ thì rống chạy cong đuôi, người thì kêu cha gọi mẹ, đau thấu trời.
Nhương Thư chợt nghe tiếng sột soạt, đảo mắt nhìn quanh mà chẳng thấy gì, khi đã chắc rằng chẳng còn kẻ thù nhỏ bé nào trên người, Nhương Thư khoan khoái lên bờ, mở tay nải nhỏ lấy bộ võ phục sạch thay. Bộ lúc nãy cũng đã dơ bẩn và bị gai góc móc toạc, chẳng tiếc làm gì. Và chàng cũng không đủ can đảm ngồi bắt lũ ve trong bộ quần áo ấy.
Hơn nữa, sau mấy tháng đóng vai chàng công tử phong lưu Tần Nhật Phủ, Nhương Thư đã nhiễm thói quen sạch sẽ và chỉnh tề. Chàng không muốn xuất hiện trước mặt Hoàng Nghi Tuyệt và Từ Thanh Huệ với một bộ dạng rách rưới khó coi.
Giờ đây, Nhương Thư chỉ cần đi dọc bờ suối là sẽ đến được chân núi. Tất nhiên là phải ngược dòng.
Nhưng vừa đi được một đoạn, chàng chợt nghe phía sau vọng lại những âm thanh kỳ lạ. Tiếng kêu ấy đầy vẻ giận dữ, pha lẫn sự sợ hãi và dường như là cầu cứu vậy. Chúng trong trẻo và đúng là tiếng nữ nhân.
Không kịp tự hỏi vì sao chốn hiểm địa hoang vu này lại có đàn bà, Nhương Thư quay ngoắt lại, lao vút đi như tên bắn. Khi đến đoạn suối lúc nãy, chàng phát hiện trên bờ Tây có một con mãng xà, thân to bằng bắp đùi người lớn, đang quấn chặt một nhân vật tóc dài. Người này đang dùng hai tay xiết cổ con mãng xà, cố ngăn không cho cái miệng rộng hoác, đầy răng ngược kia nuốt gọn đầu mình.
Loài trăn lợi hại nhất là ở những vòng xiết chết người, lực đạo mạnh đến mức xương nai già cũng phải gãy răng rắc.
Ðã từng bị rơi vào hoàn cảnh ấy, Nhương Thư chẳng dám chần chừ, lướt đến vung kiếm chém bay đầu con trăn. Thân nó lỏng ra và nạn nhân kia thoát chết, nhún chân rời xa con mãng xà đang quằn quại,đứng nhìn Nhương Thư với ánh mắt biết ơn, miệng cười toe toét, nhe hàm răng nhọn hoắt, trắng nhỡn, gương mặt y chỉ lem luốc chứ không xấu xí, song toát ra vẻ man rợ, hoang sơ. Tuổi tác y chỉ độ mười sáu, mười bảy.
Nhương Thư đỏ mặt tía tai, chẳng dám nhìn vì y hoàn toàn lõa thể, và lại là giống cái. Nàng ta chẳng phải loài khỉ vượn vì trên làn da đen đúa kia không phủ lông mao, trừ những chỗ mà đàn bà ai cũng có. Nhưng cơ thể ấy đầy những bắp thịt thon dài, rắn rỏi, nhất là ở tứ chi. Ðấy có lẽ là kết quả của cuộc sống leo trèo hái trái, hay săn đuổi thú rừng.
Nhương Thư bối rối, quay gót bỏ đi. Nhưng cô gái rừng rú kia chỉ nhún chân một cái đã bay vèo qua mặt chàng chặn lại, hai tay giang rộng, mắt đầy vẻ van xin, lưu luyến.
Nhương Thư chột dạ nghĩ thầm:
- Chết ta rồi! Hay là con bé này định giữ ta lại làm chồng?
Chàng ngượng ngùng hỏi thử, dù chẳng biết đối phương có biết nói hay không.
- Dám hỏi cô nương là ai, vì sao lại một mình lạc lõng chốn này?
Cô gái lại cười và lắc đầu, tỏ vẻ không hiểu, và bập bẹ:
- Mày...nói gì?
Thì ra nàng ta chỉ biết tiếng Hồ Nam, trong khi Nhương Thư hỏi bằng tiếng Bắc Kinh.
Ðại loại, nước Trung Hoa tuy rộng lớn, mỗi vùng một thứ tiếng, song vẫn chỉ gồm khoảng tám phương ngữ ở tám khu vực.
Phương ngữ miền Bắc lấy tiếng Bắc Kinh là căn bản, phân bố theo khu vực cư trú của những thị tộc Bắc Hán. Từ sông Hoàng Hà qua Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quí Châu. Người sử dụng phương ngữ này đông đảo nhất, chiếm độ bảy phần mười dân số.
Phương ngữ của vùng giáp ranh Giang Tô, Triết Giang, lấy tiếng Thượng Hải làm đại biểu, đại bộ phận tập trung ở Triết Giang.
Phương ngữ của vùng Hồ Nam, dùng ngôn ngữ Trường Sa làm cơ sở.
Phương ngữ của Khách Gia là ngôn ngữ của người Hán di cư từ lưu vực sông Hoàng Hà xuống phía Nam, tập trung ở các tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Giang Tô. Ở Hồ Nam, Tứ Xuyên cũng có một số ít người nói tiếng Khách Gia.
Phương ngữ Phúc Kiến. Phân bố chủ yếu ở Phúc Kiến và một bộ phận ở Ðài Loan.
Phương ngữ vùng Giang Tây, Hồ Bắc, lấy tiếng Nam Xương là chủ.
Phương ngữ vùng phía nam Phúc Kiến, có ở cả Ðông Bộ tỉnh Quảng Châu, một phần đảo Hải Nam, Ðài Loan dùng nhiều nhất (Ðài ngữ).
Phương ngữ Quảng Châu, lấy tiếng Quảng Ðông làm chủ, tập trung ở Lưỡng Quảng.
May thay thân mẫu của Nhương Thư là người Hồ Nam, dĩ nhiên bà đã dạy cho con trai ngôn ngữ của quê hương. Chàng yêu mẹ nên yêu cả những gì gợi nhớ đến bà, bất giác có hảo cảm với cô gái man rợ này. Nhương Thư vui vẻ dùng tiếng Hồ Nam lập lại câu hỏi. Nàng ta cười tít mắt đáp một cách chậm chạp và ngọng nghịu, vì có lẽ đã nhiều năm không dùng đến.
- Ối chà! Té ra....mày cũng....biết nói tiếng....của cha tao ư? Nhưng...."cô nương" là cái gì vậy?
Trong tiếng Hán, hai từ Nhĩ, Ngã được dùng để xưng hô cho mọi vai vế, muốn dịch sao cũng được. Ðiều này đã bị các bậc túc nho đất Giao Chỉ chê bai rằng Hán ngữ thiếu sự phong phú và phân minh. Cha con, ông cháu mà cứ "Ni - Ngộ, Lư - Wa, Ní - Mờ " thì còn thể thống, lễ giáo gì nữa.
Do vậy, trong trường hợp này, tác giả dịch hai từ "Nhi - Ngã" của cô gái ở lõa thể kém văn minh kia bằng "mày - tao" chắc là thích hợp hơn. Nhưng nếu thế thì hơi chói tai, đổi là "ta - ngươi" dễ nghe hơn.
Nhương Thư phì cười giải thích:
- Cô nương tức là "mày" đấy!
Trong lễ nghĩa Trung Hoa, khi nói chuyện, Nhương Thư luôn phải nhìn vào mặt đối phương. Song thị hướng của mắt người khá rộng nên nhãn tuyến chàng bao quát luôn cả bộ ngực thanh tân, mun múp cao của cô gái. Chàng thầm hổ thẹn và nhớ Thúy Sơn vô hạn.
Nữ sơn nhân kia vui vẻ nói:
- Lúc nãy, ta đang tắm thì nghe tiếng chân của ngươi, vội ẩn vào bụi rậm trên bờ. Ta mãi mê xem ngươi tắm nên không để ý đến con trăn! Ngươi đi khỏi thì nó quấn lấy ta!
Nhương Thư xấu hổ đến mức chỉ muốn độn thổ, cúi gầm mặt xuống thì ánh mắt lại vướng phải cái gò nhỏ xum xuê lau lách, càng thêm lúng túng. Chàng cuống lên:
- Thôi ta đi đây!
Và chàng quay gót bước nhanh. Song cô gái rừng rú kia đã hoảng hốt, lướt theo với một tốc độ kinh người, từ phía sau ôm chặt lấy Nhương Thư, miệng van xin:
- Ðừng đi! Cha ta chết đã năm mùa tuyết rơi, và kể từ ấy ta chưa gặp được người nào cả!
Giọng nói khẩn thiết thê lương kia khiến Nhương Thư rùng mình, tưởng tượng ra cảnh tịch mịch đáng sợ của một con người, giữa rừng già chỉ toàn dã thú và cây cối lặng câm. Chàng là kẻ từ bi, nhân hậu, lẽ nào lại để cho một đồng loại phải sống trong cảnh sơ khai, mất dần tính người này.
Nhương Thư bâng khuâng tưởng nhớ ân sư, lòng thanh thản với quyết định của mình, dịu giọng bảo:
- Nàng hãy buông ta ra, đưa ta về nhà xem sao!
Cô gái không hiểu ý, vẫn xiết chặt vòng tay mạnh mẽ, lực đạo lên đến mấy trăm cân. Xem ra nàng ta có sức khoẻ thật khác thường.
Cô gái rừng rú ngơ ngẩn hỏi:
- Nhà là gì?
Nhương Thư rầu rĩ đáp:
- Nhà là nơi mà ngươi và thân phụ thường ở đấy!
Cô gái gật gù:
- Té ra cái hang đá còn được gọi là nhà!
Nàng ta buông Nhương Thư ra, nắm tay chàng lôi đi:
- Hãy theo ta!
Ðến lượt thân sau mượt mà với chiếc eo thon lẳn, bờ mông chắc nịch, tròn trịa làm xốn xang đôi mắt Nhương Thư. Chàng chịu hết nổi, giữ cô gái lại, mở bọc hành lý lấy ra bộ y phục cuối cùng, dịu dàng bảo:
- Nàng hãy xuống suối tắm và rửa sạch đất cát rồi mặc quần áo vào!
Cô gái hân hoan nhận lấy, cười khanh khách:
- Cha ta cũng có một bộ màu xanh thẫm giống như vậy! Song ông ta đã mặc khi chết, ta chẳng dám lột ra!
Nàng hớn hở đặt lên tảng đá cạnh bờ rồi xuống suối tắm táp, kỳ cọ. Dĩ nhiên Nhương Thư quay đi, chẳng dám nhìn.
Lát sau, cô gái rừng lúp xúp trong bộ quần áo rộng thùng thình, hiện ra trước mặt chàng. Hai vạt áo vẫn mở toang, còn lưng quần thì được kéo lên đến tận dưới vú, vì cô gái thấp hơn Nhương Thư một cái đầu. Chàng cắn răng khép nhanh hai vạt áo, giật lấy dải thắt lưng, quấn chặt cho nàng ta.
Nhương Thư thoáng giật mình khi thấy dung mạo nàng có nét giống Bạch Ngọc Tiên Tử Lâm Ðại Ngọc, tuy không đẹp bằng. Chàng nghe lòng quặn đau, thở dài nói:
- Ta tên Tần Nhật Phủ, còn nàng tên gì?
Cô nàng nhăn mặt, gãi đầu suy nghĩ trông rất khổ sở:
- Lúc còn sống, phụ thân gọi ta là Anh nhi, còn họ thì ta quên béng mất rồi. Chẳng nhớ Triệu, Ngụy, Tề, Lỗ, Tống gì cả!
Nói xong, Anh nhi mau mắn dẫn Nhương Thư đi về hướng Ðông. Ðộ vài chục dặm thì đến một khách xá cao chừng mười trượng, dường như là sườn Tây của một nếp đất đột ngột nhô cao do địa chấn. Tuy nói là đi nhưng thực ra làm gì có đường xá. Anh nhi di chuyển bằng cách đu dây lêo hay quăng mình từ cành này sang cành khác. Ðộng tác nhanh nhẹn, nhẹ nhàng chẳng thua loài khỉ vượn. Nhương Thư không chịu kém, bắt chước làm theo lòng rất thích thú.
Nhà của Anh nhi là một động khẩu lớn, cao đến hai trượng và rộng cũng chừng ấy. Khu vực trước cửa động là một bãi cỏ phẳng phiu, thưa thớt cây cối nên ánh dương quang lọt được vào trong, khiến khung cảnh thạch động sáng sủa, chẳng đến nỗi âm u.
Nhờ vậy, Nhương Thư sớm nhận ra hai con hổ vằn to lớn đang nằm chễm chệ trên sân động, nhìn mình với ánh mắt nghi hoặc và đầy đe dọa.
Anh nhi thấy chàng giật mình, bèn cười khanh khách:
- Ðừng sợ! Tiểu Thư và Tiểu Hùng là vật nuôi của ta đấy!
Rồi nàng vui vẻ bảo hai con hổ một lớn một nhỏ:
- Hắn chính là khách của ta! Hai ngươi đi ra ngoài để ta tiếp khách!
Hai con ác thú ngoan ngoãn đứng lên, lừng lững đi ra. Lúc ngang qua Nhương Thư, chúng khẽ gầm gừ để thị uy.
Anh nhi đắc ý giới thiệu:
- Con lớn là Tiểu Hùng, cũng giống đực như ngươi vậy! Còn Tiểu Thư là giống cái nên nhỏ hơn! Ba năm trước ta giết cha mẹ chúng rồi bắt chúng về nuôi cho vui!
Nhương Thư nghe nhắc đến đực - cái, chột dạ nhớ lúc mình tắm suối, bị con bé thổ tả này rình. Chàng ậm ừ cho qua chuyện rồi bước vào sâu quan sát.
Trong động không hề có vật dụng gì ngoài hai chiếc phản gỗ thô sơ, xấu xí, một phủ đầy bụi, có lẽ là của người đã chết. May mà Anh nhi không ăn thịt sống vì giữa động có một bếp than, cạnh cắm hai chạng ba nhỏ dùng để gác thanh sắt nướng thịt.
Nhương Thư bước đến vách tường Bắc vì nơi đây có đặt một cỗ quan tài bằng thân cây nguyên vỏ. Nó được xẻ đôi khoét rỗng ruột, đặt tử thi vào rồi trám lại bằng nhựa cây. Với loại gỗ long não này thì chẳng loại mối mọt nào hủy hoại được.
Trên vách đá hai bên linh cữu có khắc đôi liễn, nét bút cứng cáp, hùng mạnh:
Huy ngô bửu kiếm tỳ hưu viễn tích nam san!
Tạm dịch:
Ta dương buồm gấm, cá dữ dạt ra biển Bắc.
Ta múa gươm thiêng, ác thú chạy tít núi Nam!"
Hai câu đối ngang tàng, cao ngạo này rất quen thuộc với Nhương Thư. Chàng đã thầm đoán ra lai lịch thân phụ của Anh nhi. Ông chính là Cẩm Phàm Kiếm Khách Ðoan Mộc Toàn, bá chủ Ðộng Ðình Hồ và một đoạn sáu trăm dặm sông Trường Giang.
Mẫu thân Nhương Thư là người thành Trường Sa, phủ Hồ Nam, nên biết rõ nhân vật này, từng kể cho chàng nghe. Ðoan Mộc Toàn thành danh từ năm hai mươi bốn tuổi, do xuất thân từ nhà đại phú nên cho đóng một chiếc thuyền lớn, trang trí hoa lệ, buồm bằng gấm dầy màu xanh, lúc thì lưỡng lờ trên Ðộng Ðình Hồ, lúc xuôi ngược Trường Giang, oai phong lẫm lẫm. Về võ công, Ðoan Mộc Toàn đứng đầu võ lâm phương Nam nhờ pho Thiên Cương Kiếm Pháp và cả thanh Thiên Cương Thần Kiếm cứng rắn tuyệt luân.
Ông ta lại anh tuấn hơn người, đúng câu tài mạo song toàn, vì thế mà cao ngạo, khó khăn cả trong việc chọn người phối ngẫu, gần bốn mươi vẫn phòng không chiếc bóng.
Ðột nhiên, đến năm Kỷ Tỵ, nhằm năm chính thống thứ mười bốn, lúc Nhương Thư tròn một tuổi, Cẩm Phàm Kiếm Khách mắc phải quái bệnh, mặt mũi, thân thể lở lói, u nần như người bị phong cùi. Và sau đó không lâu, Ðoan Mộc Toàn biến mất, chẳng rõ đi đâu.
Nhương Thư đang trầm ngâm suy nghĩ thì Anh nhi đã mang ra một túi nhỏ bằng da nai, trao cho chàng và nói:
- Trước khi chết! Cha ta có dặn rằng khi nào có người nào đến đây thì cho họ xem cái túi này!
Nhương Thư mở nút thắt dây buộc bụng miệng túi, đổ những vật bên trong ra phản, gồm một kim bài có dây đeo, một quyển sách và một mảnh lụa tròn.
Chàng xem xét tấm kim bài vàng óng kia trước, thấy một mặt khắc nổi hai câu liễn giống trên vách, mặt kia là một chiếc thuyền buồm.
Nhương Thư trao thẻ bài ấy cho Anh nhi rồi trải cuộn lụa ra. Nó chính là di thư của Cẩm Phàm Kiếm Khách, có lẽ được viết bằng câu nhọn chấm máu tươi, vì nơi đây làm gì có bút mực. Ngay mảnh lụa cũng chỉ là một vạt áo cắt ra.
Nội dung của di thư thế này:
"Duyên nhân nhã giám! Lão phu vốn thực là Cẩm Phàm Kiếm Khách Ðoan Mộc Toàn đất Hồ Nam. Năm tứ thập, lão phu mắc quái chứng, dung mạo bị phá hủy, bèn bỏ Ðộng Ðình Hồ đi tìm danh y. Triệu Châu Thần Y đã tận tình điều trị cho lão phu hết nửa năm mà không có kết quả. Mùa xuân năm chính thống thứ mười lăm, Bố Y Thần Yoán Tô Hữu Tề đến Triều Châu thăm Tạ Thần Y, biết chuyện của lão phu liền bói dùm một quẻ. Ông ta khuyên lão phu nên đi lên hướng Bắc, khi nào nghe chim tu hú kêu bảy tiếng thì dừng chân ắt gặp thuốc thang!
Lão phu liền nghe lời họ Tôn nên có mặt ở Cưu Sơn này. Mật của loài Ðộc Hoàng Phong đã chữa lành quái bệnh, song không thể trả lại dung mạo anh tuấn cho lão phu.
Trước khi lâm bệnh, lão phu đã có lời minh sơn thệ hải với Nghi Xương Thần Nữ Khúc Phi Anh. Do vậy, lão phu không dám vác gương mặt lồi lõm, đầy sẹo về Hồ Nam gặp nàng, đành chôn vùi đời mình chốn rừng sâu.
Tám năm sau, trong lúc đi săn thịt, lão phu chợt phát hiện có một đứa bé gái độ bốn tuổi đang sống chung với bầy vượn. Lão phu liền bắt về nuôi, đặt tên là Ðoan Mộc Anh, để tưởng nhớ đến người yêu cũ.
Anh nhi hiếu thảo và ngoan ngoãn đã khiến cuộc đời lão phu có được những ngày hạnh phúc. Năm Anh nhi mười hai tuổi lão phu đã quyết định đưa nó về với nhân quần xã hội, nào ngờ, chưa kịp thực hiện thì lão phu bị một con rắn cực độc cắn vào đùi.
Biết mình không thể sống sót, lão phu xé áo, cắt tay viết bức di thư này để lại. Ai là người hữu duyên vào được chốn tuyệt địa, đọc thư này, xin hãy khai ân đưa đứa con gái nuôi của lão phu về Ðoan Mộc Gia Trang ở Trường Sa. Túc hạ cứ đưa tấm kim bài và di thư này ra, sẽ được hậu tạ ngàn lượng hoàng kim.
Ðoan Mộc Toàn tái bút!"
Ðọc xong, Nhương Thư giảng giải sơ lược cho Anh nhi nghe rồi dặn dò:
- Nay ta còn phải lên núi Cưu Sơn một chuyến, Anh nhi hãy ở đây chờ đợi vài ngày nữa ta sẽ quay lại rước nàng!
Ðoan Mộc Anh tròn mắt thắc mắc:
- Vách núi dựng đứng cao ngất, làm sao ngươi lên được!
Nhương Thư mỉm cười:
- Sẽ có người thả dây kéo ta lên!
Ðoan Mộc Anh lộ vẻ đắc ý:
- Ta chẳng cần dây cũng lên được. Ngươi thật là dở tệ!
Nhương Thư biết nàng không nói dối vì đã mấy năm sống với bầy vượn, khả năng leo trèo phải khác thường.
Hoàng hôn đã tắt lịm, lát nữa đây không gian sẽ tối đen, Nhương Thư đòi đi ngay. Anh nhi hăng hái:
- Ta sẽ dẫn ngươi đi cho nhanh. Song chỗ hẹn có đặc điểm gì để nhận ra?
Nhương Thư đáp:
- Ban ngày họ cắm lá cờ trắng, ban đêm thì đốt lửa trên đỉnh vách!
Anh nhi cười hì hì:
- Thế thì không lo! Chúng ta ăn cho no cái đã!
Trong thư, đệ tử Cái Bang ở Cưu Sơn đã nói rằng Kỵ Ba Thần Quân không thể đóng xong thang trong vòng năm sáu ngày tới. Do vậy, Nhương Thư chẳng gấp lắm, ở lại ăn bữa chiều với Anh nhi. Thực ra bụng chàng cũng đói meo.
Ðoan Mộc Anh thổi bùng bếp than, bẻ thêm củi khô vào để nướng chiếc đùi nai. Gia vị chỉ có loại muối là tro của thảo mộc, chẳng mặn mà cho lắm.
Trong lúc ăn, Nhương Thư vui vẻ nói:
- Anh nhi! Ta sẽ nhận nàng làm em! Từ nay ngươi gọi ta là Tần đại ca và xưng là tiểu muội!
Ðoan Mộc Anh mừng rỡ lập đi lập lại hai từ ấy, miệng cười khúc khích, để lộ hàm răng trắng nhọn của kẻ quen ăn thịt. Trước khi về với Cẩm Phàm Kiếm Khách, nàng không biết dùng lửa và ăn thịt sống.
Xong bữa, Anh nhi hớn hở đưa đường cho Nhương Thư, chỉ nửa canh giờ sau đã đến bìa rừng, nơi tiếp giáp với sườn phía Bắc núi Cưu Sơn.
Chân vách toàn đá sỏi nên cây cối rất thưa thớt, tạo một khoảng trống lớn, dọc theo chân núi. Nhờ vậy, Nhương Thư đã nhìn thấy đốm lửa lập lòe trên đỉnh vách, cách chỗ chàng đứng không xa.
Nhương Thư dịu dàng bảo:
- Anh nhi hãy về động đi, tối đa là mười ngày ta quay lại đón hiền muội!
Ðoan Mộc Anh gật đầu không nói song ánh mắt hoang dại kia sáng rực niềm tin và nỗi lưu luyến.
Thực ra thì lúc ấy trời đã tối, sương mù từ cánh rừng bốc lên che phủ không gian, song cả Nhương Thư lẫn Ðoan Mộc Anh đều có nhãn lực phi thường nên mới thấy rõ nhau, cũng như cảnh vật.
Nhương Thư rảo bước, lát sau đã đến nơi, phát hiện dưới chân ngọn lửa trên đỉnh núi là một tảng đá khổng lồ, cao nửa trượng, mặt lớn độ chục mảnh chiếu.
Nhương Thư đã mấy lần rơi xuống vực, đối với độ cao cũng âm thầm ngán ngại, chẳng khác chim rừng trúng tên, thấy cành cong là sợ. Chàng thủ nhầm:
- Hoàng Nghi Tuyệt quả khéo chọn địa điểm! Lỡ đứt dây, ta rơi xuống tảng đá này thì khó sống!
Bỗng chàng nghe tiếng động sau lưng, quay lại thì thấy Ðoan Mộc Anh, liền cau mày hỏi:
- Sao Anh muội không chịu về động?
Anh nhi lúng túng đáp:
- Tiểu muội từng té gãy xương vì dây leo đứt, lo cho đại ca.... nên đến đây xem sao?
Nhương Thư phì cười:
- Làm sao hiền muội hứng ta cho được, lúc ấy cả hai cùng chết chứ nào có ích gì? Những người trên kia là bạn của ta, chắc y đã kiểm tra dây kỹ lưỡng, làm sao đứt được!
Ðoan Mộc Anh gật gù:
- Thế thì tốt! Nhưng tiểu muội sẽ ở đây, chờ đại ca lên an toàn rồi mới đi!
Nhương Thư cảm động trước sự quan hoài của cô gái rừng hoang dã, vỗ vai nàng rồi nhảy lên tảng đá. Sợi dây chão lớn bằng cổ tay đã thả sẵn, song Nhương Thư phải báo hiệu rồi mới dám lên. Chàng ngửa cổ vận công nói:
- Tại hạ là Tần Nhật Phủ đây!
Người phía trên đáp ngay:
- Hay quá! Không ngờ Tần đại hiệp lại đến sớm như thế! Mời đại hiệp thượng sơn!
Nhương Thư yên lòng nắm dây chão lần lên, hai chân điểm vào vách, phần dây chão phía dưới được quấn hờ hơn nửa vòng quanh thân để có thể neo mình nghỉ ngơi khi cần. Lực đạo hai cánh tay chàng rất khẻo nên tốc độ tiến khá nhanh, nửa khắc đã đạt độ cao mười trượng, cách đỉnh vách chỉ ba trượng.
Bỗng từ trên đầu chàng có ba người ló ra, tay phải cầm đao, tay trái cầm đuốc soi sáng. Một gã cười khanh khách:
- Tần Nhật Phủ! Ngươi trúng kế của Thần Quân rồi!
Nhương Thư chưa kịp cảm nhận được hết sự kinh hoàng thì đối phương vung đao chặt dây chão. Nhớ đến tảng đá dưới chân, Nhương Thư chua xót tự nhủ rằng mình chắc chắn phải chết. Ngay cả khi không rơi trúng tảng đá, chàng cũng khó toàn mạng vì nền đất chân núi cứng rắn.
Nhát đao oan nghiệt kia nhanh đến mức không cho phép chàng phản ứng.
Dây đứt lìa trong tiếng rú phẫn nộ của Nhương Thư. Nỗi sợ hãi khiến chàng co rúm người lại, tay nắm chặt sợi dây, chân kẹp cứng lấy đoạn chão nãy giờ quấn quanh hông.
Trong khoảnh khắc sinh tử ấy, Nhương Thư chợt thấy sợi dây chão phía dưới căng ra và một lực đạo mãnh mẽ giật phăng thân hình chàng chấn sang mé hữu, rơi xuống tàn lá xum xuê của một cây cổ thụ ở cách tảng đá ba trượng. Chiều cao của cây này đã năm trượng nên khoảng cách rơi giảm bớt đi.
Theo bản năng sinh tồn, Nhương Thư đã dồn toàn bộ công lực bảo vệ thân thể. Sức nặng cộng với đà rơi của chàng đã làm cành cây gãy răng rắc một loạt từ trên ngọn xuống. Dĩ nhiên, da thịt của Nhương Thư chẳng thể lành lặn, rách toạc nhiều đường và mê man bất tỉnh vì đầu bị đập mạnh, nhưng chàng vẫn còn sống.
Trưa hôm sau, Nhương Thư hồi tỉnh, ngỡ ngàng nhận ra mình đang nằm sấp, thân thể lõa lồ, lưng đùi sau vương vướng cái gì đó.
Chàng vừa định ngồi lên thì có tiếng người nhắc nhở:
- Ðại ca cứ nằm im, chờ tiểu muội thay thuốc lá, băng bó xong mới được cử động!
Ðấy là tiếng của Ðoan Mộc Anh. Chàng xấu hổ quá liền nằm im thin thít. Dẫu sao nằm sấp vẫn kín đáo hơn ngồi dậy.
Hồi tưởng lại cảnh tử vong, chàng nhận ra chính Anh nhi đã cứu mạng mình. Nhương Thư liền hỏi:
- Anh muội! Ngươi làm thế nào để cứu được ta vậy?
Ðoan Mộc Anh vừa giã lá cây trong chiếc cối gỗ, vui vẻ giải đáp:
- Ðại ca biết không, tiểu muội chờ đại ca lên được nửa đường, liền nắm đầu dây trèo lên cây cổ thụ, cột chặt vào ngọn rồi giữ lấy và thu dần về!
Nhương Thư hiểu ra, lầm bầm:
- Thảo nào ta có cảm giác phần dây phía dưới hơi căng và cứ tưởng do gió đưa!
Anh nhi nói tiếp:
- Nhờ ánh sáng cây đuốc của bọn ác độc kia mà tiểu muội nhìn thấy nhát dao chặt dây, và kịp thời kéo đại ca về phía mình!
Nhương Thư cảm động nói:
- Hiền muội thực là thông minh và tốt bụng!
Bảy ngày sau, nhờ những thứ thuốc vô danh mà thần diệu trong rừng Cưu Sơn, ngoại thương của Nhương Thư đã hoàn toàn bình phục, song lòng lại nặng trĩu lo âu.
Thứ nhất, chàng lo cho an nguy của Cưu Bang. Vụ ám sát chàng chứng tỏ rằng Kỵ Ba Thần Quân đã chiếm được Cưu Sơn, trước khi chàng đến, thư cầu viện chỉ là quỷ kế.
Thứ hai, giờ đây chàng lại có thêm trách nhiệm với cô gái bạc mệnh Ðoan Mộc Anh. Trong những ngày qua, Anh nhi đã chăm sóc chàng chẳng chút thẹn thùng, và dù không nói ra nhưng ánh mắt kia ngập tràn niềm yêu thương vô hạn. Nàng đã thẳng thắn từ chối việc về Trường Sa sống với nhà họ Ðoan Mộc và đòi theo chàng mãi mãi.
Nhương Thư hiểu rằng lời thề đồng hành xuống suối vàng với Thúy Sơn sẽ chỉ được thực hiện sau nhiều năm nữa. Hình bóng ba người vợ đang mang thai luôn nhắc nhở chàng không được phép chết. Chẳng thà bất tín chứ không thể bất nhân, bất nghĩa.
Trời sanh đã quá ưu đãi, nhiều lần ban cho chàng mạng sống, sao chàng có thể tự hủy được?
Mười một viên Lân Hỏa Thần Ðạn được Nhương Thư nhét vào ngực áo nên không bị cành cây va chạm vào khi chàng rơi xuống. Ðây cũng là điều xảo diệu khôn lường, vì nếu không gặp Ðoan Mộc Anh, không tặng nàng bộ quần áo cuối cùng thì Nhương Thư đã bỏ túi thần đạn vào tay nải, và chắc chắn chúng sẽ phát nổ, thiêu chết chủ nhân.
Chàng chỉ mang theo ba bộ võ phục, một mặc trên người, hai trong bọc. Khi bỏ một, tặng một, túi hành lý rỗng không, vô dụng, được để lại trong thạch động.
Kẻ gian hùng, mưu đồ bá chủ, thường có tật luyến tài, muốn thu dụng những kẻ anh hùng về làm thủ hạ. Do vậy, Nhương Thư hi vọng bọn Hoàng Nghi Tuyệt vẫn còn bị giam giữ chứ chưa chết.
Lực lượng chính phái ở Cưu Sơn toàn là những cao thủ kiêu dũng, số còn sống sót sau cuộc chiến tất sẽ được Kỵ Ba Thần Quân dùng Nhiếp Hồn Ðại Pháp khống chế chứ không giết cho uổng phí. Tham vọng càng lớn thì càng cần nhiều nhân thủ để thực hiện.
Nghĩ vậy nên Nhương Thư quyết định dọ thám Cưu Sơn một lần xem sao. Chàng hỏi Ðoan Mộc Anh:
- Anh muội! Hôm trước ngươi bảo rằng có thể trèo lên vách đá Cưu Sơn mà không cần người kéo lên! Nay ta muốn nhờ hiền muội giúp ta lên đấy để cứu những người đang bị giam giữ!
Cô gái đã trả lại cho Nhương Thư bộ võ phục, vì bộ trên người chàng đã tan nát khi rơi xuống tàn cây. Dù định lực cao như núi, Nhương Thư cũng phải giữ lễ, bắt Anh nhi khoác vào người mảnh da gấu. Thường thì nàng chỉ mặc nó khi tuyết bắt đầu rơi.
Cẩm Phàm Kiếm Khách qua đời khi con gái nuôi mới mười hai tuổi đến giờ thì những bộ quần áo da cũ đã không còn vừa vặn, nên Anh nhi phải vụng về tự chế tác lấy. Ðơn giản là nàng lột da con gấu đen, chặt đầu, chặt hai bàn tay, và thiến ngang bụng, rốt cuộc có được chiếc áo khoác lông dài đến quá gối.
Khổ thay, Anh nhi lại chẳng có thói quen khép hai vạt áo nên cái gì cần giấu lại lộ ra. Nhương Thư khổ sở nhắc nhở thì nàng cười khúc khích.
- Thế này cho mát! Vả lại đại ca đã thấy ráo trọi rồi, che giấu làm gì nữa! Còn của đại ca thì tiểu muội nào có lạ gì!
Nhắc lại, khi nghe Nhương Thư đòi lên núi, Ðoan Mộc Anh hăng hái nhận lời:
- Tiểu muội sẽ lên trước, thả dây để đại ca lên sau!
Sợi dây chão oan nghiệt hôm trước vẫn còn nằm vắt vẻo trên tàn cây cổ thụ, tuy thiếu ba trượng song vẫn đủ dùng vì Nhương Thư có thể từ một chỗ cao nào đó tung mình lên chụp lấy đầu dây.
Xế chiều hôm ấy, hai người chuẩn bị lên đường. Anh nhi trút ngay bộ lông gấu ra:
- Leo núi không thể mặc áo lùng tùng, nặng nề này được!
Nhương Thư xốn mắt trước thân hình thon lẳng, khỏe mạnh, đầy sức sống thanh xuân của Anh nhi, vội cởi áo mặc cho nàng.
- Vậy thì hiền muội hãy mặc áo này vào!
Quả là chiếc áo đủ dài để che phủ đến tận gối mà không làm cô gái vướng víu khi leo trèo.
Hai người có mặt ở chỗ cũ, Anh nhi rút lấy đầu dây chão đang lòng thòng, cuộn lại rồi dẫn Nhương Thư đi về hướng Ðông thêm vài chục trượng. Ðoạn vách đá phía này ghồ ghề, có nhiều mẩu lồi, khe nứt, khả dĩ làm điểm tựa đặt chân. Song chỉ có loài khỉ vượn mới có thể vượt vách bằng con đường cheo leo hiểm trở này.
Nhương Thư thầm lo ngại, hỏi nàng:
- Anh muội có chắc lên được hay không?
Ðoan Mộc Anh mỉm cười tự hào:
- Ðại ca yên tâm! Tiểu muội đã lên núi ba bốn lần rồi!
Sương chưa lên, ánh tà dương vẫn còn soi rõ cảnh vật, song trên đỉnh vách không người canh gác nên Nhương Thư chẳng sợ bị phát hiện. Chàng chỉ lo Anh nhi trượt tay mà thôi.
Nhương Thư thở dài:
- Hiền muội lên đi! Ðại ca sẽ cố đỡ nếu ngươi rơi xuống!
Chàng không nói khoác vì biết rõ sức mạnh của mình. Chàng định sẽ nhảy lên hứng lấy Anh nhi. Và dùng xác thân mình làm nệm cho cú rơi của nàng.
Ðoan Mộc Anh chỉ cười, nhanh nhẹn trèo lên. Gió Tây lồng lộng thổi tung vạt áo để lộ đôi mông rám nắng tròn đầy khiến Nhương Thư bật cười.
Chàng cười chính mình vì đa dục mà e dè, sợ hãi đủ điều. Trong khi Anh nhi hồn nhiên, vô tư, trong sáng như trời xanh lồng lộng. Tự bao giờ con người phải dùng y phục để che chở thân thể trước con mắt dục vọng của đồng loại? Y phục trước tiên chỉ là dụng cụ làm ấm da thịt khi lạnh giá, sau đó kín đáo hơn để chống muỗi mòng.
Nhương Thư nghe lòng thanh thản hơn, chăm chú theo dõi bước tiến của cô gái rừng. Anh nhi hành động nhanh nhẹn, chuẩn xác như loài vượn, tứ chi bám vào những điểm tựa nhỏ bé, từng bước vững vàng vượt lên. Nàng không sợ độ cao, như cá không sợ nước nên đã thành công, tất nhiên phải kể đến sức mạnh và sực khéo léo của cuộc sống hoang dã.
Hơn khắc sau, Ðoan Mộc Anh đã an toàn ngồi vắt vẻo trên đỉnh vách, thả sợi dây se bằng vỏ cây xuống. Nó rất nhẹ nên nàng phải cột đầu dây vào một cục đá.
Nhương Thư bắt lấy, cột đầu dây chão vào để Anh nhi kéo lên. Sau khi cố định đầu trên, Anh nhi ra hiệu cho Nhương Thư. Ðoạn vách này thấp hơn chỗ chàng ngộ nạn hai trượng nên Nhương Thư chỉ cần tung mình lên là nắm được ngay.
Có dây, chàng thoăn thoắt trèo, hơn nửa khắc đã đến nơi. Theo kế hoạch, Anh nhi ở lại bảo vệ đường rút lui, còn Nhương Thư lần ra sườn Ðông dọ thám.
Ðoan Mộc Anh có mang theo Thiên Cương Thần Kiếm, ở chỗ chật hẹp hiểm trở này, dẫu gặp cường địch cũng không đáng ngại. Nhương Thư đã khảo sát võ nghệ của nàng, mừng vì Anh nhi có sức khỏe phi thường và trình độ kiếm pháp khá cao.
Thiên Cương kiếm pháp chủ ở lực đạo mãnh liệt, đòn ra như lôi giáng. Chiêu thức không rườm rà nhưng rất hiểm độc. Nó vốn dành cho nam nhân, nhưng Ðoan Mộc Anh còn khỏe hơn lũ đàn ông. Nàng lại mang bản chất sơn dã, khi đánh nhau thì dữ như cọp.
Nhương Thư tủm tỉm cười kéo vạt áo xốc xếch của Anh nhi xuống và nói:
- Hiền muội đừng vì nóng ruột mà lần theo ta! Nếu để mất sợi dây này là nguy đấy!
Anh nhi nghiêm nghị:
- Tiểu muội chỉ chờ đến lúc bình minh! Ðại ca không ra thì tiểu muội sẽ vào đấy!
Nhương Thư cảm động gật đầu và buột miệng nói đùa:
- Muội ăn mặc thế này mà vác kiếm đánh nhau thì e rằng phe đối phương khó thoát chết!
Anh nhi ngơ ngác không hiểu, nhìn theo bước chân Nhương Thư.
Họ Tần nương theo cây cối, đi vòng ra sườn núi hướng Ðông, lòng ngạc nhiên trước vẻ tĩnh lặng khác thường của nơi này. Dù phe nào chiếm cứ cũng không thể im ắng vì giờ mới là giữa giờ Dậu, chiều đã đi nhưng màn đêm chưa buông.
Nhương Thư mạnh dạn áp sát khu nhà gỗ, không chờ đợi bóng đêm nữa. Nghe ngóng hồi lâu, chàng có thể khẳng định nơi đây chẳng một bóng người.
Nhương Thư thận trọng tiến vào hậu viện, lục soát dần ra ngoài. Tất cả những tài sản có giá trị đều đã bị lấy sạch. May thay, trong phòng nọ còn sót lại hai bộ võ phục cũ kỹ của nam nhân và cả chục bộ võ phục dành cho nữ.
Nhương Thư đoán đây là khuê phòng của vợ chồng Hoàng Nghi Tuyệt. Phe địch toàn đàn ông nên không lấy quần áo đàn bà làm gì. Nghĩ đến Ðoan Mộc Anh, Nhương Thư dồn vài bộ cả nam lẫn nữ vào một vuông vải, đeo lên vai.
Không hề có mùi máu, chứng tỏ nơi đây chẳng xảy ra cuộc chiến. Vậy thì Kỵ Ba Thần Quân đánh chiếm Cưu Sơn bằng cách nào?
Lòng đầy nghi vấn và lo lắng, Nhương Thư đi vào tòa đại sảnh bằng gỗ, trụ sở chính của Cưu Bang. Nơi đây cũng còn nguyên vẹn, chỉ mất những vật trang trí.
Nhương Thư chậm chạp đi dọc chiều dài đại sảnh, ra đến cửa chính, đứng dưới mái hiên bâng khuâng nhìn quanh chiếc sân rộng, kéo dài đến tận mép bình đài.
Ðã gần cuối giờ Dậu, không gian nhá nhem, mờ mờ, song trên nền trời vẫn nổi bật hai vật khiến chàng chú ý. Ðó là hai cột gỗ có thanh ngang ở trên như chữ thập, và dường như ai đó đang bị trói ở đấy.
Nhương Thư kinh hãi lao vút về hướng ấy, nhận ra hai thân hình tả tơi, lem luốc, y phục đầy máu khô kia chính là Hoàng Nghi Tuyệt và Từ Thanh Huệ.
Nhương Thư run giọng gọi:
- Hoàng đại huynh! Hoàng đại tẩu!
Song không ai trả lời cả. Nhương Thư sa lệ, vung kiếm đốn cột gỗ trói Hoàng Nghi Tuyệt, chỉ ba bốn nhát đã xong, chàng buông kiếm đỡ lấy cột, từ từ hạ xuống đất.
Trước tiên, chàng thò tay thăm mạch cổ họ Hoàng, hân hoang khôn xiết vì gã còn sống. Nhương Thư đến luôn cây cột thập tự giá thứ hai, càng mừng hơn khi Từ Thanh Huệ cũng chưa chết, dù mạch mong manh như sợi tơ mỏng.
Không thể mạo phạm đến vợ của bằng hữu. Nhương Thư liền đưa cả người lẫn cột vào đại sảnh. Những ngọn đuốc cắm trên tường quá rẻ tiền nên chẳng ai thèm lấy. Chàng đốt cả lên cho sáng sủa rồi chặt dây trói và tìm nước cho hai nạn nhân uống.
Sau đó, Nhương Thư chạy ngược phía sườn Bắc, gọi Ðoan Mộc Anh:
- Anh muội mau đến giúp ta một tay! Phe đối phương đã rút hết cả rồi, chỉ để lại hai người bạn của ta!
Anh nhi đang nóng ruột đợi chờ, mừng rỡ chạy đến ngay. Ðôi mắt cú vọ của chàng nhìn rất rõ cặp đùi ngựa của Anh nhi đang phơi ra trước gió, liền tháo tay nải, nhanh tay lấy ra một chiếc quần dài.
- Hiền muội hãy mặc vào kẻo bạn ta cười đấy!
Ðoan Mộc Anh ngoan ngoãn thêm lời và còn ra vẻ lễ giáo:
- Tiểu muội đã nhớ được lời phụ thân dạy bảo lúc còn thơ, quyết từ nay không lõa thể nữa!
Nàng bỗng mỉm cười và nói thêm một câu:
- Nhưng với đại ca thì tiểu muội chẳng hề e ngại!
Nhương Thư rầu thúi ruột, chẳng hơi đâu mà cãi cọ với con bé kém văn minh này. Chàng nắm tay Anh nhi lôi đi thật nhanh.
Gần nửa đêm, hai nạn nhân đã được đưa về đến thạch động. Tuy đã được cho uống nước lúc còn trên núi. Song giờ đây một bát nước nóng pha mật ong rừng cũng là điều cần thiết. Có lẽ họ đã phải chịu đói khát vài ngày.
Sau đó, Nhương Thư dồn chân khí kiểm tra kinh mạch. Nhận ra có bảy huyệt đạo bị phong tỏa, nên gân cốt vợ chồng họ Hoàng đều mềm nhũn, không còn tính cường cơ. Còn những vết thương rướm máu kia chính là vết roi da, hậu quả của một cuộc tra tấn hành hạ.
Thương tích không nặng song đã làm độc khiến hai người sốt mê man, lại thêm kiệt lực vì chẳng được ăn uống. Họ còn sống là nhờ đã dày công luyện võ, chân nguyên thâm hậu, sức chịu đựng hơn người.
Kỵ Ba Thần Quân quả là tàn ác khi dành cho họ cái chết dần mòn đáng sợ này.
Trước tiên, Nhương Thư truyền chân nguyên, đả thông những huyệt đạo bị bế tắc, thúc đẩy chân khí bản thân họ lưu chuyển.
Thủ pháp điểm huyệt của Kỵ Ba Thần Quân rất quái dị, Nhương Thư tốn rất nhiều sức lực mới giải phá được. Cũng may Nhiên Ðăng Tâm Pháp vô cùng uyên bác, màu nhiệm, lại thêm tu vi gần hoa giáp nên Nhương Thư đã thành công.
Kinh mạch ổn định song nạn nhân vẫn chưa tỉnh lại được. Nhương Thư tiến hành bước điều trị ngoại thương.
Ðoan Mộc Anh thấy chàng cởi y phục Hoàng Nghi Tuyệt cũng lăng xăng cởi áo Thanh Huệ. Nhương Thư giật mình cản lại:
- Nàng hãy ra ngoài, chờ ta lo xong cho họ Hoàng rồi hãy vào rửa vết thương cho Hoàng đại tẩu!
Anh nhi tròn mắt thắc mắc:
- Sao chúng ta không cùng làm một lúc cho nhanh?
Nhương Thư bối rối giải thích:
- Thân xác của nữ nhân chỉ dành cho trượng phu, người ngoài không được phép nhìn hay chạm đến. Từ nương là vợ của họ Hoàng, ta đâu thể thất lễ được!
Ðoan Mộc Anh gật gù ra vẻ hiểu biết, chậm rãi đi ra ngoài. Ðược vài bước thì quay lại nói:
- Ðại ca! Nếu thế thì tiểu muội chính là vợ của đại ca phải không?
Nhương Thư biết nàng ám chỉ đến việc hai người quá quen thuộc với nhau, liền hổ thẹn, chẳng biết nói sao. May thay, Anh nhi không chờ câu phúc đáp bước đi ngay.
Ttrưa hôm sau, nhờ uống mật ong quí và được đắp lá rừng, Hoàng Nghi Tuyệt đã hồi tỉnh trước., Gã ngơ ngác nhìn đôi nam nữ lạ mặt đang đứng cạnh giường, lát sau mới đủ tỉnh táo để nhận ra đôi lông mày kép quái dị nhất thế gian. Họ Hoàng lộ sắc mừng, thều thào hỏi:
- Tần đại hiệp vẫn còn sống đấy ư? Thế mà Thành lão quỷ bảo rằng Tần đại hiệp đã chết ở sườn núi phía Bắc!
Gã chợt nhớ đến ái thê, lo lắng hỏi thêm:
- Từ nương thế nào rồi? Ðại hiệp có cứu được nàng không?
Nhương Thư gật đầu trấn an:
- Hoàng huynh yên tâm! Ðại tẩu vẫn bình an, đang nằm ở góc xa kia!
Ánh mắt Hoàng Nghi Tuyệt lộ vẻ hân hoan. Gã thở phào:
- Trời cao có mắt nên người tốt chẳng thể chết oan!
Tri ân nhưng không nói lời cảm tạ vốn là thói quen của họ Hoàng.
Nhương Thư cho gã uống một bát mật ong rồi hỗ trợ việc hành công. Ðến chiều thì Hoàng Nghi Tuyệt đã khôi phục được bảy phần sức lực và Từ Thanh Huệ cũng tỉnh lại song vẫn còn rất yếu ớt.
Hoàng Nghi Tuyệt đã có thể ăn uống bình thường, ngấu nghiến thanh toán món thịt nai nướng, song ăn từng ít một cách quãng nhau để khỏi chết vì bội thực như Vương An Thạch.
Trong khoảng cách giữa hai lần ăn, họ Hoàng trò chuyện với ân nhân. Nhương Thư liền hỏi:
- Kỵ Ba Thần Quân chiếm được Cưu Sơn bằng cách nào? Tại hạ thấy chiếc thang khổng lồ kia chưa đóng xong mà?
Hoàng Nghi Tuyệt quắc mắt căm hờn chậm rãi nói:
- Gã khốn kiếp Tiểu Hồ Ly Chung Kim Dục đã bán đứng bọn tại hạ. Hôm rằm tháng tám, gã bỏ thuốc mê vào thức ăn, nước uống khiến đêm ấy mọi người ngủ say như chết, và Sơn Hải Bang chiếm được Cưu Sơn mà chẳng tốn một mũi tên. Hôm sau, Kỵ Ba Thần Quân được thư của Vô Ưu Cái bang chủ, biết đại hiệp sẽ đến bằng đường sườn Bắc liền tương kế tựu kế để sát hại.
Nhương Thư hỏi tiếp:
- Lực lượng cao thủ chính phái ở Cưu Sơn đâu cả rồi, có ai bị hại không?
Hoàng Nghi Tuyệt buồn rầu đáp:
- Tất cả đều bị khống chế bằng độc dược và Nhiếp Hồn Thuật! Họ sẽ trở về để ám hại năm vị chưởng môn trong hội đồng võ lâm!
Nhương Thư giật mình kinh hãi:
- Nguy hiểm thực! Tại hạ phải đi ngay để ngăn chặn âm mưu này!
Họ Hoàng chua chát lắc đầu:
- Có lẽ đã quá trễ rồi! Tuy nhiên Thành Vô Chiến không có ý định giết chóc mà chỉ khống chế hội đồng võ lâm! Ðại hội minh chủ sắp đến, không thể thiếu họ được, và vì Kỵ Ba Thần Quân tin rằng ngôi vị tối cao ấy sẽ thuộc về mình.
Nhương Thư thở phào:
- Thế thì chưa đến nỗi! Tại hạ sẽ tìm người giải tỏa Nhiếp Hồn Pháp cho họ!
Và chàng ngạc nhiên hỏi lại:
- Vì sao Hoàng huynh lại biết rõ mọi mưu đồ của Sơn Hải Bang như thế?
Hoàng Nghi Tuyệt cười lạnh:
- Tại hạ và chiết thê đã thống lãnh Cửu Bang tiêu diệt khá nhiều thủ hạ Sơn Hải Bang nên bị Thành Vô Chiến căm ghét, không cho phép sống sót. Trong lúc giam cầm, tên cẩu tặc Tiểu Hồ Ly đã thường xuyên đến đánh đập và chọc tức bằng cách tiết lộ kế hoạch của Kỵ Ba Thần Quân. Gã này cho rằng bọn ta chẳng thể thoát chết mà kể lạí!
Nhương Thư phẫn nộ trước sự phản bội đê tiện của Chung Kim Dục, an ủi họ Hoàng:
- Tại hạ thề rằng sẽ bắt Tiểu Hồ Ly đền tội!
Chợt nhớ đến an nguy của ba người vợ bụng mang dạ chửa, Nhương Thư cau mày bảo:
- Dẫu sao tại hạ cũng phải đi ngay Lạc Dương xem tình hình thế nào. Hoàng huynh và đại tẩu cứ ở đây dưỡng thương bình phục hãy lên đường. Hẹn gặp nhau ở Tổng đà Cái Bang!
Hoàng Nghi Tuyệt liền bàn:
- Nếu Vô Ưu Cái đã bị hại thì Lạc Dương chẳng còn là nơi an toàn! Mong đại hiệp thận trọng khi vào thành! Ngoài cửa Ðông có tòa Toàn Chân Ðạo Quán của Từ Phong Chân Nhân Khúc Hoàn Sơn. Ông ta quen biết với tiên sư tất sẽ vui lòng cho Tần đại hiệp trú chân. Vợ chồng tại hạ cũng sẽ đến đấy tìm đại hiệp.
Sáng hôm sau, tức hai mươi bảy tháng tám, Nhương Thư dặn dò Ðoan Mộc Anh chăm sóc vợ chồng Hoàng Nghi Tuyệt rồi rời thạch động.
Chàng trở lại quán trọ trong thôn nghèo hôm trước lấy ngựa. Lão điếm chủ thực thà vẫn chưa bán mất tuấn mã của vị khách thất tung. Nhương Thư đền bù cho lão bằng tờ ngân phiếu trăm lượng bạch ngân.
Tài sản của than_long_vn

  #8  
Old 06-05-2008, 03:27 PM
than_long_vn's Avatar
than_long_vn than_long_vn is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 429
Thời gian online: 3 tuần 2 ngày 13 giờ
Xu: 0
Thanks: 2
Thanked 0 Times in 0 Posts
Hồi 17

Hải Long Bất Khất Đương Lân Hỏa
Giai Đắc Vô Thu Lưỡng Vĩnh Hoan

Mười ngày sau có một kỵ sĩ võ phục xanh, áo choàng cùng màu, nón tre rộng vành sùm sụp, từ đường quan đạo Đông Tây, rẽ phải về hướng bờ sông Lạc Hà.
Ngã ba này cách cửa Đông thành Lạc Dương bốn dặm, dẫn đến Toàn Chân Đạo Quán của Từ Phong Chân Nhân! Lão quán chủ già nua lẩm cẩm ấy dường như thích chết đói về cõi tiên hơn là giàu sang, do vậy, đạo quán rộng thênh thang này thưa vắng bóng tín đồ.
Không người cúng dường, đền miếu tiêu điều tàn tạ, cỏ mọc đầy những khe gạch trên sân. Cả hàng rào mộc cẩn quanh đạo quán cũng không được cắt xén tỉa tót nên mọc um tùm, loạn xạ, chẳng mỹ quan chút nào cả.
Song chính vì vậy mà đạo quán là nơi rất thích hợp cho những kẻ muốn tránh né con mắt của người ngoài. Nếu không, thiên hạ sẽ thắc mắc vì sao chốn tu hành lại có ba ả giai nhân đang thơ thẩn ngắm những bụi cúc tháng chín, và thỉnh thoảng thở dài thườn thượt.
Cổng tam quan của đạo quán luôn khép chặt, cài then cẩn thận khiến chàng kỵ sĩ áo xanh thẫm kia phải đập cửa vào gọi vang:
- Lão quán chủ! Đệ tử có việc xin cầu kiến!
Ba ả vú to kia vội vã chuồn ngay vào khu nhà phía sau đại điện của Đạo Quán. Họ đi đến một phòng lớn, nơi có bốn lão nhân tuổi từ năm mươi mấy đến tám chục đang ngồi đàm đạo.
Người già nhất mặc đạo bào, râu tóc bạc như sương, da mặt nhăn nheo, mũi lân đỏ ửng vì thích rượu hơn thích trà. Ông ta chính là Từ Phong Chân Nhân Khúc Hoàn Sơn.
Ba lão còn lại là người quen của chúng ta: Ngọa Long Tú Sĩ, Triều Chân Thần Y và Dạ Quân Tử. Vậy thì ba thiếu phụ kia phải chăng là chị em nhà họ Điền?
- Thưa đúng thế! Uyển Xuân luôn nhanh nhảu, hớt hải nói:
- Khúc quán chủ! Có một gã đến đập cửa, gọi đích danh ông đấy!
Mã Lan tủm tỉm tiếp lời:
- Phải chăng lại là người đến đòi tiền rượu? Tiện nữ sẵn sàng trả hết giùm Chân Nhân để đền ơn tương trợ.
Khúc Hoàn Sơn ngượng ngùng nói lầu bầu:
- Làm gì còn chủ nợ nữa! Hôm trước Mã thí chủ đưa bạc, bần đạo đã thanh toán xong xuôi cả rồi!
Ngọa Long Tú Sĩ cau mày:
- Lạ thực! Sao gã không xưng danh tính nhỉ! Đạo trưởng nên mang theo kiếm, bọn lão phu sẽ ẩn mình theo dõi, sẵn sàng tiếp ứng!
Từ Phong Chân Nhân nghe lời quân sư, về đạo xá lấy vũ khí, rồi mới ra mổ cổng.
Nhương Thư đã được Nghi Tuyệt miêu tả kỹ dung mạo của Khúc quán chủ nên yên tâm vòng tay nói:
- Bẩm quán chủ! Đệ tử là Tần Nhật Phủ, bằng hữu của Hoàng Nghi Tuyệt! Y bảo quán chủ là chỗ thâm giao với Đao Đế, có thể cưu mang đệ tử vài ngày!
Trong lúc chàng nói thì Chân Nhân đã nhận ra cặp lông mày kép. Song ông vẫn không vồn vã mà lại lạnh lùng đáp:
- Bổn quán nghèo nàn, thùng gạo lại vừa cạn, chẳng dám chiêu đãi bậc quí nhân. Phiền công tử vào thành tìm khách sạn mà ở.
Nhương Thư đang ngớ người trước thái độ bất ngờ này thì Chân Nhân hỏi bâng quơ:
- Sao bần đạo nghe lời đồn công tử và họ Hoàng đều đã bị Kỵ Ba Thần Quân giết chết ở Cưu Sơn?
Nhương Thư hiểu ngay lão sợ chàng là của giả, liền vui vẻ lột nón:
- Đệ tử chính thực Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách, xin đạo trưởng cứ kiểm tra lông mày khắc rõ!
Từ Phong Chân Nhân đang lưỡng lự thì có tiếng người vọng ra:
- Chân nhân kêu gã giao vũ khí rồi mới vào khách xá! Đấy là giọng nói của Ngọa Long Tú Sĩ, lão ta cùng hai người kia đã nấp trong gian mé hữu của Đại Điện Thờ Tam Thánh để quan sát. Đây cũng là nơi tiếp khách của đạo quán.
Nhương Thư nghe giọng quen quen nhưng không dám khẳng định, vội trao kiếm cho Khúc quán chủ, cột ngựa vào gốc đào già gần đấy, đi theo ông ta.
Khách xá rất tối vì cửa sổ đóng chặt còn cửa chính chỉ hé mở. Nhương Thư vừa bước chân vào thì bị một thanh kiếm đặt lên cần cổ.
Và cửa sổ được mở toang ra, giúp Nhương Thư nhận rõ ba người trong nhà. Chàng nghiêm nghị hỏi:
- Vì sao tam vị lại có mặt nơi này?
Ngọa Long Tú Sĩ bước đến giật đôi lông mày lệch của chàng, cào thử da mặt rồi thở phảo:
- Tạ ơn Hoàng Thiên! Công tử vẫn còn sống!
Dạ Quân Tử nghe vậy liền thu kiếm về, nhìn Nhương Thư bằng ánh mắt kỳ lạ. Lão chậm rãi nói:
- Lão phu vẫn không tin ngươi yểu mệnh!
Năm người ngồ xuống quanh bàn. Nhương Thư thầm lo ngại khi thấy ba lão này không ở Tạ gia trang mà lại đến đây. Chàng trầm giọng bảo:
- Chuyện thoát chết của tại hạ rất dài, phiền chư vị nói sơ tình hình ở Tạ gia trang và tổng đà Cái Bang trước đã! Tần mỗ rất nóng lòng được biết!
Ngọa Long Tú Sĩ thở dài thườn thượt, nói với giọng thê lương:
- Hai nơi ấy đều bị Sơn Hải Bang khống chế cả rồi! Vô Ưu Cái và ba người vợ góa của Tần Nhương Thư đều bị giết!
Nhương Thư giật bắn mình, mắt trợn ngược, người run lên bần bật. Hung tin này như sét đánh ngang tai khiến chàng không sao chấn tỉnh được.
Nước mắt úa ra và Nhương Thư bật khóc thành tiếng:
- Ôi Hầu lão ca! Ôi ba người vợ yêu của ta! Tần mỗ còn sống ngày làm gì nữa?
Bốn lão già nhìn nhau đắc ý, và Dạ Quân Tử lạnh lùng nói:
- Ba nàng ấy là vợ của Tần Nhương Thư chứ không phải là vợ của ngươi!
Nhương Thư chẳng còn giấu giếm làm gì nữa, mếu máo đáp:
- Quách lão ca! Tiểu đệ đây chính là Nhương Thư đây! Ải Thần Quân đã dùng tà pháp và thuật cắt da, đắp thịt biến tiểu đệ thành Tần Nhật Phủ. Nhờ Thúy Sơn mà tiểu đệ mới tỉnh táo, khôi phục lại ký ức!
Nhắc đến người yêu dấu đã vong mạng chàng càng đau đớn. Thê tử đền chết sạch, Nhương Thư điên dại gào lên:
- Vợ con ta đâu?
Khí huyết nghịch hành, Nhương Thư hộc máu, ngã ngửa ra sàn nhà mê man bất động!
Quách Tàn Bôi cuống lên, trách móc Ngọa Long Tú Sĩ:
- Mưu kế này của lão thực quá độc ác, liệu y có sao không?
Tạ Thần Y ngồi xuống thăm mạch, mỉm cười trấn an:
- Chẳng có gì đáng lo! Giờ ta cứ đưa gã vào giao cho ba ả họ Điền!
Thực ra thì ba nàng đã vác ngực ra đến. Giọng nói quen thuộc của chồng khiến họ giật mình, có cảm giác như Nhương Thư đang gọi. Họ không còn tin vào việc hồn ma của chàng hiện về gieo giống, mà tin lời Ngọa Long Tú Sĩ đã khẳng định: Nhật Phủ là Nhương Thư!
Ba ả nhận ra Nhật Phủ nằm trên sàn, ngơ ngác và lo lắng. Lỗ Tú Sĩ đắc ý giải thích:
- Lão phu giả đò báo rằng các nàng đã chết, thế là hắn khóc lóc thú nhận mình là Nhương Thư, bị Ải Thần Quân đổi xác.
Ba nàng mừng rỡ ngồi xuống xuốt ve mặt trượng phu, nước mắt tuôn dàn dụa.
Quách Tàn Bồi cằn nhằn:
- Để lão phu bồng gã về phòng cho các ngươi tha hồ ôm ấp!
Nửa khắc sau, Nhương Thư hồi tỉnh, nhìn ba gương mặt thân yêu, mơ màng nói:
- Thì ra ta đã đuổi kịp các nàng! Thế Thúy Sơn đâu? Chẳng lẽ lại đầu thai nhanh như vậy, không chờ đợi ta?
Uyển Xuân phì cười:
- Bọn thiếp còn sống chứ đã chết đâu! Chàng bị Ngọa Long Tú Sĩ lừa đấy!
Nhương Thư ngồi bật dậy, ôm chầm lấy họ, cảm nhận được hơi ấm và mùi hương da thịt mới tin là thực! Chàng ngượng ngùng nói:
- Ta thực có lỗi với các nàng!
Rồi chàng hôn hít họ để đền bù. Bạch Cúc bỗng nói:
- Dung mạo này xa lạ quá, khiến thiếp chẳng yên lòng! Tướng công mao tìm lão chết tiệt Ải Thần Quân, bắt lão ta trả lại gương mặt cũ!
Uyển Xuân cũng tức tối chửi um:
- Mả cha cái lão lùn độc ác, bày ra trò quái dị này!
Nhương Thư vội bịt miệng nàng và nghiêm giọng:
- Thực ra Thần Quân chính là ân nhân của ta. Ông đã cứu ta thoát khỏi vực sâu, dốc túi truyền tuyệt học. Ta đã nhớ ra việc ông nhận ta làm nghĩa tử, xưng hô cha con suốt nữa năm trời! Còn trò tinh quái này hoàn toàn không có ác ý!
Mã Lan hiền lành nói:
- Tướng công dạy chí phải! Bọn thiếp sẽ tôn kính Thần Quân như cha chồng!
Nhương Thư hài lòng xoa bụng nàng và hỏi:
- Con của chúng ta thế nào rồi?
Mã Lan đỏ mặt đáp lí nhí:
- Thai mới hai tháng, chưa có động tĩnh gì cả, song Tạ Thần Y bảo rằng chúng rất khỏe mạnh!
Uyển Xuân và Bạch Cúc cũng vén áo, phụng phịu bắt Nhương Thư áp tai nghe ngóng. Tất nhiên chàng chẳng thấy con mình lên tiếng, chỉ nóng mặt vì làn da mịn màng, nồng ấm!
Nhưng chàng nhớ đến Vô Ưu Cái, cau mày hỏi:
- Ba nàng không sao song Hầu lão ca thì thế nào?
Bạch Cúc rầu rĩ đáp:
- Kỵ Ba Thần Quân oán hận Hầu Bang Chủ nhất nên đã rất nặng tay, biến bang chủ Cái Bang thành một kẻ si ngốc, ai nói gì cũng gật, suốt ngày cười nói huyên thuyên. Do vậy, Hầu lão ca mất chức bang chủ, người thay ông ta là Truyền Công Trưởng Lão Thiết Thủ Cái Phùng Đông Tuân! Họ Phùng tính tình tham lam, từ lâu đã mê chức bang chủ, nay hết lòng trung thành với Thành Vô Chiến để giữ ghế!
Tình tự, âu yếm hàng canh giờ, Nhương Thư hơi ngượng, rời phòng đi tìm các lão nhân. Ba cô vợ cũng sửa sang y phục, đi theo chẳng chịu rời!
Thấy nụ cười giễu cợt trên môi của Dạ Quân Tử, Nhương Thư hổ thẹn đánh trống lảng:
- Chẳng hay sức khoẻ bá mẫu thế nào mà Quách lão ca quay lại sớm vậy?
Quách Tàn Bôi cười đáp:
- Gia mẫu vẫn khang kiện! Ngươi hãy ngồi xuống đây, bọn lão phu nóng lòng muốn nghe kể lại chuyến đi Cuuu Sơn!
Nhương Thư tuân mệnh, thuật lại mọi sự, chỉ giấu giếm Đoan Mộc Anh suốt ngày lõa thể, nhỡn nhơ đây đó!
Song ba ả họ Điền nghe nói Anh nhi cưu mang chồng mình, liền tỏ lòng tri ân, rộng lượng. Uyển Xuân vui vẻ nói:
- Tội nghiệp cho Đoan Mộc Anh, chờ nàng đến bọn thiếp sẽ hết lòng chăm sóc, bù đắp cho tuổi thơ bất hạnh của nàng!
Bạch Cúc thì đánh phủ đầu:
- Nếu tướng công muốn có người bầu bạn lúc bọn thiếp thai nghén thì cũng chẳng sao!
Nào ngờ Nhương Thư tán thành ngay:
- Các nàng đã rộng lượng thì ta cũng không từ chối!
Bạch Cúc tức đến nghẹn họng, rủa thầm mình dại miệng nên se dây tự trói, sắc mặt lúc đỏ, lúc xanh trông rất tức cười!
Nhương Thư thản nhiên như không thấy, hỏi Lỗ Đăng Hân:
- Mong tiên sinh cho tại hạ rõ cục diện giang hồ hiện nay!
Chàng rất tin tưởng tài trí Tú Sĩ và đã nghe Uyển Xuân kể lý do tại sao họ có mặt nơi này. Tối ngày hai mươi lăm tháng tám, Lỗ Đăng Hân nghe chim cú kêu, động tâm gieo quẻ, rồi quả quyết bắt cả nhà phải rời ngay Tạ gia trang. Lúc này các vị đại phu đã về quê thăm nhà vì không còn việc gì để làm, Dạ Quân Tử thì mới đến được hai ngày. Mười gã hóa tử hộ trang cũng đi theo họ.
Quách Tàn Bôi không tin tài tiên tri của họ Lỗ nên ẩn bên ngoài chờ đợi. Lát sau, lão hộc tốc chạy đến đạo quán báo tin Tạ gia trang đã bị một đội quân bịt mặt tấn công. Không gặp ai, chúng giận dữ phóng hỏa rồi mới chịu rút!
Trước đó vài khắc, Vô Ưu Cái đã bị Kỵ Ba Thần Quân ám hại nhờ nội ứng trong tổng đà!
Nhắc lại, nghe Nhương Thư hỏi thế, Lỗ Tú Sĩ vuốt chòm râu đẹp, tư lự đáp:
- Giờ đây, chúng ta là những người duy nhất còn tự do. Cả đạo quân của Bất Trí Thư Sinh và Thiết Kình Ngư đi tiếp viện Cưu Sơn cũng bị Sơn Hải Bang mai phục, bắt sống gần hết. Năm phái bạch đạo hầu như bị thúc thủ vì chưởng môn bị khống chế! Trước tình hình này, thiển ý của lão phu là phải giết cho được Kỵ Ba Thần Quân trong đại hội võ lâm. Nếu không làm được điều ấy thì chúng ta sẽ đi Sơn Tây tìm Ải Thần Quân. Chỉ có lão ta mới giải nổi Nhiếp Hồn Thuật của lão quỷ. Khi cứu được hội đồng võ lâm rồi, chúng ta huy động lực lượng đệ tử năm phái tiến đánh Tế Nam!
Nhương Thư cùng họ thảo luận kỹ càng từng chi tiết của kế hoạch. Sau bữa cơn chiều lại bàn tiếp, tận cuối canh hai mới xong. Ba nàng góa phụ hụt nóng lòng được gần chồng nên chửi rủa thầm bốn lão già thiếu tế nhị kia!
Về đến phòng, Nhương Thư nằm xóng xoài trên giường, mắt lim dim ra chiều muốn ngủ. Uyển Xuân hờn mát:
- Tướng công không còn yêu thương bọn thiếp nữa sao?
Nhương Thư cười gượng:
- Các nàng đang thai kỳ mà!
Mã Lan hổ thẹn nói lí nhí:
- Tạ Thần Y có dạy rằng từ tháng thứ sáu mới phải kiêng cữ ái ân!
Nhương Thư mừng rỡ:
- May quá! Thế mà ta tưởng lại phải ngủ một mình!
Đêm ấy, khách xá của Toàn Chân Đạo Quán tràn ngập hương sắc tình yêu, bọn Mã Lan phỉ tình cá nước, không biết rằng Nhương Thư chẳng vui trọn vẹn vì thương nhớ Thúy Sơn!
Lần này đại hội võ lâm được tổ chức chân núi Tung Sơn. Trước kỳ hạn vài ngày, anh hùng hảo hán Tam Sơn Ngũ Nhạc đã tràn ngập huyện thành Đăng Phong, sáng rằm thánh chín tề tựu đông đảo trước lôi đài, tổng cộng con số lên đến nửa vạn người!
Khung cảnh đại hội đã quá quen thuộc nên tác giả chẳng miêu tả làm gì cho rườm rà, xin đi ngay vào cuộc!
Trước đây, hội đồng võ lâm dùng đại hội như kế sách giáng ma, thừa cơ tiêu diệt Âm Sơn Lão Tổ và Kỵ Ba Thần Quân qua bàn tay Tần Nhật Phủ. Vô Ưu Cái vẫn còn giữ túi chất độc thấm qua máu của Quảng Đông Thần Đao Cốc Hậu Nhan, kẻ đã chết ở Chính Khí Trang, nên định thi hành kế dĩ độc công độc. Tứ Mi Kiếm Khách chỉ cần đả thương được hai lão quỷ là thành công!
Nay hội đồng võ lâm bị Thần Quân khống chế dĩ nhiên tình hình đã khác, Nhương Thư phải đem thực tài ra để diệt ác, không trông chờ vào ai được nữa!
Ban giám đài vẫn là năm vị chưởng môn bạch đạo. Thiết Thủ Cái ngồi vào ghế của Hầu Mộ Thiên, gương mặt thịt nung núc, đầy vẻ tham lam, ti tiện kia tươi rói. Có lẽ lão là kẻ duy nhất của hội đồng không bị trúng tà nhãn Nhiếp Hồn và kỳ độc.
Chỉ có đệ tử năm phái mới biết rõ âm mưu sâu độc của Kỵ Ba Thần Quân, song chẳng được phép nói ra, vì ngay trong nội bộ từng phái cũng có người của Sơn Hải Bang.
Sau khi chiếm được Cưu Sơn, biết được lộ trình quân tiếp viện, Thành lão quỷ đã bố trí phục binh bắt gọn đạo quân hai trăm người của Bất Trí Thư Sinh.
Những tù binh này nhanh chóng khuất phục bởi Nhiếp Hồn Thuật, rầm rộ quay về căn cứ, báo rằng phòng tuyến Cưu Sơn không thể giữ được vì thiếu lương thực, họ phải phá vây đào tẩu.
Năm phái chưa kịp nghi ngờ giả chân thì bị đánh úp, chưởng môn bị uy hiếp!
Tình hình chung là thế, giờ ta hãy nghe Thiết Thủ Cái cất giọng the thé khai mạc đại hội. Lập tức có người lên tiếng hỏi: - Hầu Mộ Thiên đâu mà Cái Bang lại đưa lão gà mái này ra?
Quần hùng ồ lên cười hưởng ứng, vì mấy ngày qua đã phong thanh biết được dã tâm của Kỵ Ba Thần Quân! Mười gã hóa tử bảo vệ Tạ gia trang đều là đồ đệ của Hầu Mộ Thiên nên không chịu bó tay, theo kế sách của Ngọa Long Tú Sĩ mà phục thù. Họ trút bỏ lớp ăn mày, trà trộn vào lực lượng hào khách, khéo léo rỉ tai bôi nhọ Sơn Hải Bang!
Còn người dám xách mé tân bang chủ Cái Bang chính là Hồng Diện Tôn Giả Hoàng Huy Do. Lão ta đi Quỳnh Châu, Hải Nam mới vừa về đến, chưa biết ất giáp gì, kể cả cái chết của Thúy Sơn!
Thiết Thủ Cái Phùng Đông Tuấn giận tím mặt nhưng không dám phát tác, giả vờ buồn rầu đáp:
- Bẩm Hoàng Tôn Giả! Hầu đại ca bỗng nhiên phát cuồng, không còn năng lực lãnh đạo nên lão phu phải thay ông ta mà chấp chưởng Cái Bang!
Hồng Diện Tôn Giả giật mình suy nghĩ, quay sang hỏi han những người đứng chung quanh. Họ nhao nhao tranh nhau thuật lại những điều mình biết khiến gương mặt đỏ như son của Hoàng lão tái mét.
Tôn Giả đau đớn rú lên: - Sơn nhi!
Nhưng không hiểu sao ông chợt sững sờ, miệng há hốc, đứng im không biểu hiện gì thêm, dường như đã có chủ ý!
Và khi nghe Kỵ Ba Thần Quân cho thủ hạ lên đăng ký thì Tôn Giả cũng sang sảng bảo Thiết Thủ Cái ghi tên mình vào.
Đại hội ồn ào hẳn lên, mừng vì sẽ được chứng kiến cuộc so tài của hai đại nhân vật, một là bá chủ Biển Đông, một là vũ nội đệ tứ thần!
Nhưng hai lão già bất tử ấy đã xuất hiện thì còn ai dám đăng ký nữa? Cho nên cử tọ xôn xao hẳn lên vì có một kẻ không sợ chết đã dũng cảm đối đầu với hai đại kỳ nhân.
Ông ta cao giọng tuyên bố:
- Lão phu là Cẩm Phàm Kiếm Khách Đoan Mộc Toàn xin được tham gia tranh cử!
Thế là những kẻ biết chuyện năm xưa trên chiếc thuyền buồm gấm xanh liền thao thao kể cho người chung quanh nghe về quá khứ của Đoan Mộc Toàn! Còn những người đứng gần thì lấm lét liếc nhìn gương mặt đoan chính, đầy xẹo của lão già áo đen đội nón rộng vành kia! Lũ thẹo xấu xí ấy chắc là dấu vết của quái bệnh năm nào!
Dũng khí của Đoan Mộc Toàn đã khiến cho tám chín cao thủ phương xa phấn khởi lên tiếng tham dự! Vậy là tổng số ứng viên chẵn mười hai!
Có lẽ ban giám đài, mà đại diện là Thiết Thủ Cái, làm theo ý của Kỵ Ba Thần Quân nên đã xếp Cẩm Phàm Kiếm Khách đánh trận khai mạc. Đối thủ Đoan Mộc Toàn là Thanh Hải Thiết Thương Mạc Lôi, tuổi độ ngũ thập!
Thần Quân thượng đài sau cùng, và lại chẳng phải cặp với Hồng Diện Tôn Giả. Thành Vô Chiến muốn có lợi thế tìm hiểu võ công các ứng viên để dễ bề đối phó. Lão gian hùng như Tào Tháo, lại đa nghi không kém nên luôn thận trọng!
Nghe gọi tên, Cẩm Phàm Kiếm Khách lột nón rộng vành và tay nải trên vai, trao cho ả đệ tử trẻ tuổi đứng bên cạnh.
Ả này khá xinh đẹp, nước da đen dòn, mắt láo liên luôn ánh lên vẻ thích thú, tò mò, cứ như kẻ quê mùa được lên chốn đô hội vậy.
Đoan Mộc Toàn cởi cả chiếc áo choàng, nãy giờ khép kín ngực, để lộ tấm kim bài lừng danh, lớn cỡ bàn tay. Và thanh kiếm có vỏ bằng bạc nạm lam ngọc, chuôi khảm vàng kia chính là Thiên Cương Thần Kiếm!
Đoan Mộc Toàn chậm rãi bước lên lôi đài, trông oai phong lẫm liệt nhưng thật đáng thương vì gương mặt lồi lõm những vết sẹo. Ai đó buông tiếng thở dài như tiếc cho một kẻ ngày xưa đã từng nổi tiếng mỹ nam tử!
Vẻ xấu xa lồ lộ đã khiến thiên hạ không chú ý đến đôi thùy châu đầy đặn của Đoan Mộc Toàn! Thực ra, đôi tai ấy cũng đã được che giấu khéo léo bằng vài món tóc mai lòa xòa cạnh thái dương. Thảng hoặc có người nhìn thấy thì cũng chẳng lấy làm lạ, vì họ không nhớ rõ dung mạo của một kẻ thất tung gần ba chục năm!
Tướng Phật Nhĩ không hiếm nên không ai nghi ngờ Đoan Mộc Toàn là Tần Nhật Phủ, hoặc Tần Nhương Thư.
Hai gã có tướng trường thọ này đã yểu mệnh chết sạch rồi! Kỵ Ba Thần Quân cũng tin như thế!
Giờ chúng ta quay sang quan sát bá chủ đất Thanh Hải, vùng cao nguyên phía Tây của Trung Hoa, nơi phát nguyên hai con sông vĩ đại là Hoàng Hà, Trường Giang và có hồ nước mặn lớn nhất nước!
Thanh Hải Thiết Thương Mạc Lôi có thân hình cao lớn nên mới dám chọn trường thương làm vũ khí. Lão cao hơn Cẩm Phàm Kiếm Khách hần một cái đầu!
Về dung mạo thì cũng đủ tai, mắt, mũi, miệng. Song tất cả đều lớn hơn người thường vì đầu lão khá to, xứng với thân hình.
Chiếc mũi lân của họ Mãc lộ rõ những gân máu, kết quả của một đời làm bạn với Tửu Thần. Song, ở nơi giá lạnh như Thanh Hải, ai cũng uống rượu cả, cho nên chẳng có gì đáng trách!
Thanh Hải rộng mênh mông, chỉ toàn núi đồi và đồng cỏ, dân cư thưa thớt, gồm nhiều bộ tộc thiểu số như: Tạng, Hồi, Thổ, Mông, Tác Ta, Mông Cổ, Ca Dắc... người Hán thì ít!
Và dường như Mạc Lôi có mẹ là người thổ thì phải, vì mắt của lão to mà sâu! Hôm nay, Thanh Hãi Thần Thương mặc võ phục màu trắng viền chỉ bạc, bó sát thân hình lực lưỡng, cuồn cuộn những bắp thịt. Xem ra, lão ta còn oai vệ hơn Cẩm Phàm Kiếm Khách một bậc.
Chốn thị thành lắm kẻ gian ngoa nhưng đất thô lậu thường chỉ sản sinh những kẻ thực thà chất phát, Mạc Lôi ồm ồm nói:
- Này Đoan Mộc Toàn! Ta trẻ hơn lão mười mấy tuổi, lại to con hơn nên nhường lão xuất thủ trước!
Câu này nghe có lý nhưng lại đi ngược với quy cũ võ lâm Trung Nguyên, cũng như lễ tôn trưởng vì thế quần hùng phá lên cười sằng sặc!
Thiết Thủ Cái mau miệng can thiệp vào vui vẻ giải thích cho họ Mạc nghe:
- Túc hạ sai rồi! Người trẻ tuổi hơn luôn phải ra tay trước để tỏ lòng tôn kính tuổi tác, và tránh cho đối phương cái tiếng ỷ già hiếp trẻ!
Thiết Thương ôm bụng cười hô hố:
- Lão ngu quá! Càng già càng yếu, gân cốt nhão nhoẹt, đến vợ còn chê, làm sao ăn hiếp những người trẻ tuổi được? Bằng chứng là ta đây hồi trẻ có bốn vợ mà còn chê ít, giờ chỉ đủ sức cho một mà thôi!
Họ Mạc còn quay xuống hỏi cử toạ:
- Dám hỏi chư vị, ta nói thế có đúng không?
Khách giang hồ phần lớn đều có tính thích ồn ào, hiếu sự, liền cười vang và đồng thanh khen phải!
Thiết Thủ Cái bị gã quê mùa họ Mạc chê là ngu, lại đưa ra lý sự cùn, liền bực bội nói:
- Ngươi mới là kẻ dốt nát! Người luyện võ, càng già công lực càng thâm hậu, làm sao thua đám thanh niên được?
Thanh Hải Thiết Thương trợn mắt sừng sộ:
- Này lão chết tiệt kia! Lão chê ai là dốt nát? Ta nói có sách, mách có chứng, bằng cớ xác thực đàng hoàng! Lần này Mạc mỗ vào Trung Nguyên sớm vài tháng, đi du ngoạn khắp nơi, nghe kể về hai gã trai trẻ là Tần Nhương Thư và Tần Nhật Phủ. Họ chưa đến ba mươi mà thay nhau tiêu diệt toàn là những lão già khú đế. Gần đây nhất là việc Tần Nhật Phủ một mình một kiếm giết Âm Sơn Lão Tổ, đấy không phải là trẻ mạnh hơn già hay sao?
Thiết Thủ Cái cứng họng trước lập luận vững chắc và bằng chứng hiển nhiên của Thiết Thương. Còn đám hào kiệt trẻ tuổi thì hoan hô như sấm dậy đồng thanh gọi vang hai cái tên Tần Nhương Thư và Tần Nhật Phủ.
Hai cao thủ bạc mệnh ắt đều là thần tượng của giới trẻ. Họ đã nung đúc hào khí cho những mái đầu xanh mới tập tễnh dấn bước giang hồ!
Chẳng cần nói chư vị độc giả chắc cũng biết Cẩm Phàm Kiếm Khách là do Tần Nhương Thư giả dạng. Sự có mặt của tay cao thủ dịch dung là Dạ Quân Tử Quách Tàn Bôi đã khiến Ngọa Long Tú Sĩ nghĩ ra mưu kế này!
Nhương Thư thấy mến vị bá chủ ngốc nghếch đất Thanh Hải, quyết định nhẹ tay với lão. Chàng sẽ đả bại họ Mạc chứ không gây thương tích. Từ ngày Thúy Sơn thiệt mạng, Nhương Thư xuất thủ tàn nhẫn hơn trước bội phần.
Không muốn kéo dài cuộc cãi cọ vui vẻ nhưng vô nghĩa này, Nhương Thư lên tiếng:
- Mạc túc hạ đã nói thế thì lão phu xin phép ra tay trước!
Thanh Hải Thiết Thương hớn hở gật đầu:
- Có thế chứ! Thì ra tôn giá có đầu óc hơn cái lão ăn mày dốt nát, ngoan cố kia! Xin mời!
Thiết Thủ Cái tức điên người, nhưng không thể đối đáp vì cuộc chiến đã bắt đầu.
Cẩm Phàm Kiếm Khách rút nhanh thanh Thiên Cương Thần Kiếm đen trùi trũi, lừng danh nhờ độ bền chắc, chặt vào đá cũng không gãy, không mẻ! Có điều nó nặng gấp rưỡi kiếm thường, phải là người có công lực thâm hậu mới dám dùng.
Nhương Thư đã ngày đêm nghiên cứu pho Thiên Cương Kiếm Pháp, và làm quen với thanh kiếm mới. Chàng không nhất thiết phải đạt đến tinh tuý mà chỉ cần nắm bắt lộ số để che mắt thiên hạ. Khi giao đấu, chàng sẽ thi triển Phật Đăng Kiếm Pháp và Huyền Không Kiếm Pháp là chủ yếu.
Giờ đây, Nhương Thư xông vào tấn công Mạc Lôi bằng một chiêu kiếm đơn giản, ít biến hoá nhưng nhanh và cực kỳ mãnh liệt.
Họ Mạc mỉm cười khinh thị, múa cây thương sắc dài nửa trượng một xích, giải phá chiêu kiếm của đối thủ bằng chín thế điểm tựa sấm sét. Cũng hư kiếm, trường thương lợi hại nhất ở những thức đâm.
Sắt chạm sắt, Thiết Thương nghe hai cánh tay chấn động, thầm kinh ngạc trước sức mạnh của Cẩm Phàm Kiếm Khách, tự hỏi chẳng lẽ đúng là "Gừng càng già càng cay".
Song không phải vì thế mà ngán sợ, kẻ cứng đầu đất Thanh Hải hùng hổ ra sức phản kích, trường thương vù vù xé gió, vun vút bay lượn trong gió thu, công thủ đều có đủ.
Người đánh trường thương thường cầm vũ khí bằng hai tay, ra đòn bằng lực đạo của song thủ và cả sức của vai, lưng nên động tác uyển chuyển trông rất dũng mãnh và đẹp mắt. Những bước tiến thoái, tọa tấn của họ Mạc nhanh nhẹn và vững chắc, biểu hiện một bản lãnh đã dầy công rèn luyện. Lão lại có sức khỏe phi thường của gân cốt và những bắp thịt to lớn hộ trợ nên càng lợi hại!
Quần hào vô cùng thán phục đường trường thương của vị khách thô lỗ miền Tây, vỗ tay hoan hô ầm ĩ. Họ tin rằng Thiết Thương sẽ thắng vì Cẩm Phàm Kiếm Khách chỉ vờn quanh ngoài tầm thương, không sao áp sát được. Thương dài kiếm ngắn, không nhập nội thì làm sao Đoan Mộc Toàn đả thương được đối phương? Ngược lại, Mạc Lôi hoàn toàn có thể trạm vào người kẻ địch!
Tiếng sắt thép va chạm liên hồi, hòa với tiếng quát tháo thị uy của họ Mạc. Lão tên Lôi nên thích những âm thanh đầy tính đe dọa!
Nhưng dù đã trổ hết nghề, quát tháo khô cả cổ mà Thiết Thương vẫn không sao phá thủng được lưới kiếm của đối phương. Cẩm Phàm Kiếm Khách cứ ung dung, nhởn nhơ như cánh bướm, đánh bạt những đường thương hiểm hóc và vũ bảo của đối thủ. Dường như Đoan Mộc Toàn muốn dùng kế Dĩ Dật Đãi Lao, chờ Mạc Lôi kiết sức mới phản công!
Sau ba khắc quay cuồng múa may, biểu diễn thương pháp, Mạc Lôi nghe hai cánh tay mỏi nhừ, đòn ra bắt đầu chậm hơn, mồ hôi ướt sũng bộ võ phục bằng gấm đắt tiền. Nhưng chẳng lẽ mở miệng nhận bại khi chưa ai rách áo hay thọ thương, Mạc Lôi cắn răng cầm cự đến cùng!
Cẩm Phàm Kiếm Khách bắt đầu phản công, bảo kiếm bay vun vút, tạo nên màn sương đan mờ mù mịt. Tiếng vũ khí va chạm giờ đây gấp gáp, rượt đuổi nhau tạo cảm giác như chỉ là một chuỗi ngân dài. Mạc Lôi kinh hoàng nhận ra mũi thương của mình đã bị trường kiếm phong tỏa. Và khi lão nỗ lực thọc một đòn chí mạng vào ngực Đoan Mộc Toàn thì đối phương xoay người lẹ như chớp, tránh khỏi đường thương hiểm ác, rồi ập đến.
Gương mặt xấu xí ghê rợn của Cẩm Phàm Kiếm Khách lù lù hiện ra trước mặt khiến Mạc Lôi thất kinh hồn vía. Sau đó lão nghe hai huyệt Kiên Tĩnh trên vai, hai huyệt Phục Thố trên đùi đau nhói. Nhưng quan trọng là hạ nang cũng lạnh toát và đau ghê rợn.
Kẻ học thức còn giải khuây bằng cầm, kỳ, thi, họa, hoặc đọc sách, còn người thô mạng, dốt đặc như Mạc Lôi thì chỉ có hai thú vui duy nhất là rượu và đàn bà!
Rượu thì lão bắt đầu hạn chế vì lục phủ ngũ tạng không cho phép, chỉ có khoản lăn lóc trên giường là xem ra trường cửu, an toàn nhất!
Mạc Lôi lại vừa lấy thêm người vợ thứ năm trẻ trung và hấp dẫn nên mới dắt vào Trung Thổ du ngoạn, sẵn hưởng tuần trăng mật luôn! Tình cờ gặp Đại hội võ lâm, lão đưa Ngũ phu nhân đến xem, bỗng nổi hứng khoe tài với người đẹp, để chứng tỏ mình còn rất khoẻ mạnh anh hùng! Giờ đây nếu bị thương vào chỗ nghiệt thì còn gì đời trai nữa? Không những vợ mới bỏ lão mà cả bốn mụ vợ cũ cũng sẽ đay nghiến chê bai. Hơn nữa, họ Mạc chưa có con trai nối dõi!
Nói thì dài nhưng thực ra tất cả những viễn cảnh tối rắm ấy hiện ra trong khoảnh khắc, Mạc Lôi sợ đến nỗi rú lên thảm khốc, cứ như bị đâm thủng ngực vậy.
Huyệt Kiên Tĩnh trúng đòn thì hai tay không cầm nổi Thiết Thương. Huyệt Phục Thố bị điểm thì song cước nhũn ra, và Mạc Lôi quỵ xuống, ngã sấp mặt xuống sàn lôi đài.
Lão là người chất phác, thẳng như ruột ngựa nên chẳng che giấu nỗi tuyệt vọng, bật khóc ồ ồ:
- Thế là toi đời ta rồi! Chẳng thà lão đâm chết ta đi chứ sao lại đánh vào chỗ ấy? Ngọc hành bị vỡ thì ta tuyệt tự và bị vợ bỏ ngay! Ôi Ngũ nương ơi! Ta quả là ngu dại khi không chịu nghe lời nàng, thượng đài cho khổ thân!
Quần hùng phá lên cười nhưng cũng có một số phẫn nộ chửi vang:
- Thật là đê tiện! Sao lại có thứ võ công đánh vào hạ thể thế này? Thật là nhục nhã cho Trung Thổ?
Và người vợ thứ năm của Mạc Lôi đã trèo lên được mộc đài, ôm chồng khóc ngất:
- Tướng công ơi! Ông không nghe lời thiếp nên mới khổ thế này! Tuần trăng mật chưa qua mà tướng công nỡ để thiếp rơi vào cảnh có chồng cũng như không thì tội cho thiếp lắm!
Mạc Lôi nghe lời than khóc ấy cũng thập phần thống khổ rống lên như cha chết!
Chợt lão phát hiện huyệt Kiên Tĩnh trên vai phải đã mở, liền thò xuống bụng dưới sờ nắn thử. Thấy của quý vẫn nguyên vẹn, chẳng đứt, chẳng vỡ, lão mừng đến phát cuồng, thét vang:
- Ngũ nương ơi! Nó vẫn an toàn, không sứt mẻ gì cả!
Hai huyệt Phục Thố ở chân cũng đã mở, Mạc Lôi lồm cồm đứng lên, miệng cười toe toét, tay lần cởi giải quần:
- Này bà nó cứ xem lại, đừng than khóc nữa!
Mấy ngàn khách quan chiến ôm bụng cười lăn lóc, cười đến nôn ruột. Và ai đó còn hối thúc:
- Ngươi cởi quần thì ta thưởng cho trăm lượng!
Thiết Thủ Cái sợ lão ngốc vùng sơn dã kia cởi thực liền quát lớn:
- Mạc Lôi không được làm càn!
Họ Mạc tỉnh ra, cười hề hề thắt lại giải quần, nhặt thương sắt, dắt cô vợ trẻ hạ đài. Vừa đi lão vừa nói với nàng:
- Về khách điếm cái đã, ở đây đông người quá!
Bỗng lão sực nhớ ra, quay lại vái Cẩm Phàm Kiếm Khách:
- Cảm tạ lão huynh đã nương tay! Ơn này ta chẳng dám quên, khi nào có dịp ghé thăm Thánh Đức Linh Cáp, nhớ đến Mạc gia trang để ta báo đáp!
Nhương Thư tủm tỉm đáp:
- Lão phu sẽ đến!
Chàng cũng hạ đài, mừng vì sự tình kết thúc vui vẻ. Nãy giờ chàng cũng lo ngay ngáy, tưởng mình đã lỡ tay, mới luyện vài ngày nên Nhương Thư đánh chiêu Thiên Cương Ngũ Điểm không được chuẩn xác. Đúng ra, nhát kiếm thứ năm nhắm vào huyệt Khí Xung phía trên hạ thể.
May mà chàng chỉ dùng kiếm kình để điểm huyệt nên trúng đâu cũng chẳng sao. Bởi ngọc hành là chỗ nhậy cảm nên Mạc Lôi bị đau nhiều, tưởng mình bị thiến!
Nhương Thư đã luyện kiếm đến mức chân khí lú ra khỏi mũi kiếm một ngón tay. Giá chàng có đủ hoa giáp công lực thì kiếm kình hóa kiếm khí, dài đến cả gang!
Trên lôi đài, Thiết Thủ Cái đã tuyên bố Đoan Mộc Toàn thắng trận và mời cặp thứ hai thượng đài.
Trận đấu này diễn ra giữa Xích Phong Thần Đao Ô Mã Cách, cao thủ nội Mông với Tháp Thành Quỷ Trượng Lỗ Xích, người Tây Vực!
Hai lão ngang tài, ngang sức lại có đấu pháp thận trọng nên cuộc chiến kéo dài lê thê, đến tận giờ Ngọ cũng chưa phân thắng bại. Quần hùng chán ngán và đói bụng nên la ó um sùm, chê bai hai đấu sĩ là chết nhát.
Khách giang hồ thường biết nhiều ngôn ngữ, có kẻ dùng tiếng Mông, tiếng Duy Ngô Nhĩ thoá mạ thậm tệ, khiến hai vị anh hùng sơn dã kia bực bội bãi chiến, quay xuống chửi lại. Cuối cùng họ cũng vì đói khát mà bỏ cuộc, rời Đại hội, một không quay trở lại nữa!
Chiều hôm ấy cặp thứ ba thượng đài, tái diễn tình trạng buổi sáng, song khá hơn vì giữa giờ Thân có một ứng viên tự nhận bại.
Thế là mất toi một ngày mà chỉ tổ chức được ba trận đấu. Để khỏi làm mất thì giờ của chư vị, tác giả xin đi ngay sang ngày thứ tư, khi mà chỉ còn ba đại cao thủ là Kỵ Ba Thần Quân, Hồng Diện Tôn Giả, và Cẩm Phàm Kiếm Khách. Họ vẫn chưa chạm trán lần nào, do sự sắp xếp của ban Giám Đài.
Sáng mười tám tháng chín, Thiết Thủ Cái Bang sang sảng mời Kỵ Ba Thần Quân Thành Vô Chiến và Hồng Diện Tôn Giả Hoàng Huy Do thượng đài.
Thần Quân đánh giá cao Tôn Giả, xem thường Cẩm Phàm Kiếm Khách nên muốn dồn sức lực đả bại cường địch trước, lỡ lão có bị thọ thương thì hôm sau cũng đủ sức thanh toán kẻ yếu là Đoan Mộc Toàn.
Hội đồng võ lâm như lũ rối, răm rắp tuân lệnh Thần Quân!
Thành Vô Chiến kém Hồng Diện Tôn Giả một tuổi, không có vinh dự đứng trong hàng ngũ Tứ Thần vì hùng cứ biển Đông, ít khi vào Trung thổ. Giang hồ gọi lão và Ải Thần Quân là Võ Lâm Nhị Quân!
Có thể trước đây võ công của Thành Vô Chiến chẳng bằng Hoàng lão, song kẻ sĩ ba ngày không gặp đã khác, thì sau bốn mươi năm lại càng khó biết hơn thua!
Vô Ưu Cái đã cho điều tra, loáng thoáng biết được việc Thần Quân tìm được kỳ hoa dị quả trên một hòn đảo hoang, công lực tăng tiến vượt bậc, râu bạc hoá đen mun. Tiếc rằng kỳ trân kia không làm mọc lại được mái tóc trên chiến đầu hói bóng. Vài sợi còn sót lại chắc cũng hồi xuân song nham nhở như lông chó, vì thế Thần Quân đã cạo quách chúng đi.
Lạ thay, với chiếc đầy trọc lóc và bộ râu rồng rậm rạp, đen nhánh, trông họ Thành càng oai vệ, đẹp lão. Râu đen thì chân mày cũng phải đen, cứ như hai lưỡi kiếm xếch ngược lên góc trán. Thần Quân có thêm một tướng tốt là chiếc mũi Huyền Đảm, tựa trái mật treo giữa mặt. Tiếc rằng, miệng lão lại nhỏ xíu, môi mỏng tanh, khiến kẻ ác mồm gọi là cái đít vịt!
Hôm nay, Kỵ Ba Thần Quân ăn mặc rất thanh lịch. Thân hình dong dỏng cao, khá rắn chắc, được tôn vinh bởi bộ trường bào xám bằng gấm thượng hạng may rất khéo, cùng chiếc áo choàng lưng dầy màu vàng nhạt.
Hồng Diện Tôn Giả thì xuề xòa với chiếc áo thụng, nửa giống tăng bào, nữa giống đạo bào, có màu của tơ tằm mới chưa nhuộm. Hai ống tay áo dài thượt như chạm đất kia chính là vũ khí của ông. Tuy y phục giản dị nhưng thân hình khôi vĩ, gương mặt đỏ như son và màu trắng đáng kính của râu tóc đã tạo cho Tôn Giả một thần khí phi phàm.
Hoàng Huy Du cười bảo:
- Này lão đầu quả dưa kia! Sao lão không tiếp tục vùng vậy ngoài biển rộng bao la, vào mảnh đất chật hẹp này để làm gì?
Cử toà cười ồ vì nhận ra đầu của Kỵ Ba Thần Quân rất giống một quả dưa gang!
Thành Vô Chiến gian hùng cái thế, thâm trầm như biển cả, chẳng hề bị khích nộ, cười nhạt đáp:
- Lão phu là người Trung Thổ, lúc già nhớ cố hương nên quay về, có gì là lạ!
Tôn Giả bổng thở dài, mặt buồn thiu:
- Người già mà nhớ quê là điềm sắp chết rồi đấy! Thành lão đệ mau về Quảng Đông sắp xếp hậu sự, còn chần chừ ở đây làm gì nữa? Lão phu xin đưa tiền điếu trước để lão đệ có lộ phí mà đi đường!
Cái vẻ "mèo khóc chuột" tinh quái của Tôn Giả đã khiến quần hùng cười nôn tuột, và làm cho Kỵ Ba Thần Quân biến sắc. Họ Thành lạnh lùng gắt:
- Đánh đi! Đừng nói nhảm nữa!
Về qui cũ thì Thần Quân nhỏ tuổi hơn mới là người được phép ra táy trước. Song Hồng Diện Tôn Giả đã bất ngờ muối mặt, lao vào tấn công như sấm sét.
Ông xuất ngay chiêu Cẩm Tụ Tế Thiên (Tay áo gấm che trời). Đôi ống tay áo dệt nên màn tụ ảnh mờ mờ, tụ kình mãnh liệt như thác lũ chụp lấy đối phương!
Bị mất tiên cơ, Thần Quân tái mặt rút đao múa tít, thủ nhiều hơn công, biến mất trong màn đao quang vàng óng. Màu vàng sang trọng này được tạo ra bở thanh Long Giáp Kim Đao oai trấn biển Đông.
Gọi là Long Giáp vì trên thân đao không trơn láng mà được khắc hàng ngàn mảnh vẩy rồng tinh xảo. Đao được mạ vàng rực rỡ. Vì ngoài lý do diêm dúa, Long Giáp Đao còn tiềm tàng sát cơ! Từng chiếc vây được đánh bóng loáng kia là từng mảnh gương nhỏ xíu phản chiếu ánh dương quang, làm loá mắt địch thủ!
Thành Vô Chiến là kẻ biết lợi dụng từng lợi thế nhỏ để thắng địch.
Nhưng sáng nay, mặt trời mùa thu vùng Hoa Bắc chỉ nhạt nhòa, không phát huy được tính năng của bảo đao, và kẻ địch của Thần Quân lại là bậc kỳ lão võ lâm, đang chiếm tiên cơ nhờ ra đòn đột ngột.
Đôi ống tay áo chứa đầy chân khí liên tiếp giáng hàng chục nhát nặng như búa tạ vào lưới đao, cuối cùng, ống tay bên hữu vươn được đến ngực của Thần Quân.Tiếng tụ kình nổ vào da thịt vang rất rõ. Thành Vô Chiến bị đẩy lùi một trượng, khoé miệng rỉ máu, vạt áo ngực rách toang để lộ áo trong trong trơn bóng, có màu đen mốc là lạ.
Hồng Diện Tôn Giả thấy đối phương trúng một đòn chí tử mà không hề hấn gì lòng rất chán ngán. Ông hiểu rằng Kỵ Ba Thần Quân có công lực thâm hậu hơn mình, và đã luyện thành cương khí hộ thân, vì áo giáp da cá kia chống được đao kiếm nhưng không chống được chưởng kình!
Do vậy, chẳng chờ Thiết Thủ Cái quát tháo, bênh vực gà nhà, Tôn Giả nhảy lùi ngay sừng sộ nói:
- Này Thành Vô Chiến! Sao lão dám mặt áo giáp thượng đài?
Quần hùng nghe vậy liền nhao nhao phản đối kịch liệt, quên cả việc Tôn Giả là người phạm quy trước!
Thiết Thủ Cái vội lên tiếng:
- Đây là sơ xuất của lão phu, quên không đọc điều lệ giao đấu nên Thành bang chủ không biết. Nay đã lỡ rồi, chẳng cần kiêng kỵ nữa, ai có giáp cứ mặc, ai có ám khí cứ tung ra, thế là công bằng!
Quần hào nghe lão nói ngang, giận dữ la ó, chửi bới vang trời. Song Hồng Diện Tôn Giả ra hiệu cho họ im lặng rồi rút cây trâm đồng trên búi tóc xuống, vui vẻ nói:
- Thế cũng được! Lão phu sẽ có dịp để thi triển tuyệt kỹ Huyền Hư Đoạt Mệnh Thần Trâm. Công phu này lão phu luyện thành đã lâu mà chẵng chỗ dùng!
Vẻ hân hoan, đắc ý của Tôn Giả đã khiến Thần Quân thầm lo ngại! Phải chăng đúng là tuyệt kỹ phóng trâm kia rất lợi hại nên Hoàng lão mới hí hửng như vậy?
Thiết Thủ Cái hắng giọng bảo:
- Giờ nhị vị hãy đấu lại, xem như chiêu lúc nãy không tính! Lần này Thành Bang Chủ sẽ xuất thủ trước vì ông ta có niên kỷ nhỏ hơn Hoàng tiền bối!
Tôn Giả trợn mắt:
- Phế ngôn! Ai bảo ngươi rằng lão phu già hơn Thành Vô Chiến?
Thiết Thủ Cái tái mặt cãi:
- Cả võ lâm đều biết Kỵ Ba Thần Quân bảy mươi chín tuổi, sinh năm Đinh Sửu tức năm Hồng Võ thứ ba mươi. Còn Hoàng tiền bối năm nay chẵn tám chục, sinh năm Bính Tý!
Hồng Diện Tôn Giả cười khanh khách:
- Sai rồi, thực ra lão phu tuổi Mậu Dần, năm nay bảy mươi tám, cầm tinh con cọp nên tướng mão lão phu mới khôi vị, oai vệ thế này, bộ ngươi mù sao không thấy?
Quần hào vốn chán ghét kẻ tiểu nhân ti tiện, làm chó săn cho Thần Quân như Thiết Thủ Cái, nên đã đồng thanh tán thành lập luận của Hoàng Huy Do. Ai đó còn mỉa mai:
- Tinh nào tướng ấy! Chỉ nhìn sơ Phùng bang chủ là tại hạ biết ngay ông cầm tinh con chó!
Câu này có ý chửi Thiết Thủ Cái là chó săn, khiến lão tức điên người chửi lại:
- Cha mi mới là chó! Người kia đốp chát ngay:
- Đúng vậy! Cha ta ngủ với mẹ lão nên bà ấy đẻ ra chó!
Cử tọa cười hô hố, ngoác miệng tham gia cuộc khẩu chiến, khiến Đại hội võ lâm chẳng còn ra thể thống gì nữa!
Kỵ Ba Thần Quân chẳng thèm bận tâm, lạnh lùng bảo Tôn Giả:
- Lão phu chấp ngươi xuất thủ trước đấy!
Hoàng lão mỉm cười lướt đến tấn công. Thấy trận đấu đã tiếp diễn, quần hùng mới chịu ngậm miệng để theo dõi.
Hai bậc cao thủ lão thành đem hết sở học ra tranh tài, thân hình di chuyển, đảo lộn nhanh như gió, bóng vào tơ chạm ánh hoàng kim vang lên tiếng kình phong ào ạc và tiếng đao rít lên như xé lụa.
Kỵ Ba Thần Quân e ngại mũi trâm đồng trong tay hữu của Tôn Giả nên phong thủ phần đầu và hạ thể rất kín đáo. Từ vai đến thắt lưng đã có giao bì giáp che chở nên không đáng ngại.
Thành Vô Chiến ngày càng phát huy được ưu thế về công lực và vũ khí, đao quang dàn dụa sát khí, sau ba trăm chiêu đã chém rách tay áo của đối thủ.
Hồng Diện Tôn Giả tự lượng sức mình không giết nổi đối phương, có đánh nữa chỉ thêm nguy, liền ra đòn tối hậu, một thắng một thua. Ông xuất chiêu Cẩm Trung Châm Xuất (Trong gấm lòi kim), tay áo phất như quét, điểm hơn trăm thức, công phá lưới đao và uy hiếp thân trên họ Thành.
Tuy có bảo y và cương khi song Thần Quân chẳng dám xem thường những đòn trời giáng của Thiết Tụ, vì khi thân hình bị chấn động, đẩy lùi, đường đao khó tránh được việc lộ sơ hở làm mồi cho cho mũi trâm đồng!
Bởi thế, Kỵ Ba Thần Quân dồn toàn lực vào tuyệt chiêu Ngự Ba Trảm Quái, Long Giáp Đao loang nhanh như thiểm điện, chặn đứng mọi thế công của kẻ địch, đồng thời xen lẫn những đòn đâm hiểm ác. Thì ra Thành Vô Chiến đã đưa cả tinh túy của kiếm thuật vào đao pháp của mình!
Hồng Diện Tôn Giả bị chiêu đao hùng mạnh và ảo diệu đẩy lùi liên tiếp, không hạ đài thì khó toàn tính mạng. Song đột nhiên, hai ống tay áo của ông đứt rời khỏi vai, bay đến quấn lấy đao Thần Quân. Chúng bị chém te tua nhưng cũng đã làm Thành Vô Chiến giật mình và đường đao chậm lại.
Ngay lúc ấy, mũi trâm đồng trong tay hữu Hoàng Tôn Giả bay ra, nhắm vào bụng dưới của họ Thành. Nhưng lão ác ma bản lãnh trùm đời, đâu dễ bị chết nhanh như thế, đã kịp lách người tránh né, chỉ bị mũi trâm cắm vào dùi phải, và không phải là chỗ nhược.
Sau đó, Thần Quân tiếp tục tràn tới quyết lấy mạng đối thủ. Nhưng Hồng Diện Tôn Giả đã khôn ngoan tung mình rơi xuống đất nhận bại. Ông cười khanh khách:
- Lão phu xin đầu hàng! Mong Thần Quân trả lại chiếc trâm cài tóc. Nó tuy không đáng một xu nhưng lại là kỷ vật của lão phu đấy!
Vết thương không sâu, không đau đớn nên kẻ chiến thắng tỏ vẻ rộng lượng, rút ra ném trả cho chủ nhân. Trong lúc nhận sự hoan nghênh của cử tọa, Thành lão quỷ ngấm ngầm vận công không thấy hiện tượng trúng độc mới yên tâm!
Thiết Thủ Cái hớn hở công bố kết quả trận đấu và kính cẩn hỏi Kỵ Ba Thần Quân:
- Thành Bang Chủ có cần nghỉ ngơi đến sáng mai hay tham gia trận chiến chót ngay chiều nay?
Quần hào không muốn thêm sở hụi một ngày nữa nên ồn ào đề nghị đánh trận bế mạc vào lúc giữa giờ Mùi!
Thầm nghĩ mình có dư thời gian để phục hồi trọn vẹn công lực, Kỵ Ba Thần Quân đồng ý!
Đúng như chương trình, giữa giờ Mùi, hai ứng viên của trận chung kết có mặt trên lôi đài.
Kỵ Ba Thần Quân đã vất bỏ bộ trường bào buổi sáng, thay vào bằng bộ khác rực rỡ hơn. Màu hồng xem ra rất thích hợp với lễ đăng quang ngôi vị minh chủ võ lâm!
Phần Cẩm Phàm Kiếm Khách dường như không tin tưởng vào chiến thắng chiều nay nên mặc chiếc áo màu xanh đã cũ, hàm ý nhạt mùi danh lợi, có thua cũng chẳng sao!
Chiếc đạo quang trên đầu Đoan Mộc Toàn cũng chẳng mới mẻ gì, hình thêu Thái Cực sổ chỉ, phai màu trông thật tang thương!
Cách ăn mặc ấy quả tương ứng với mảnh kim bài mờ đục trên ngực.
Kỵ Ba Thần Quân đắc ý vì phong thái mình tôn quý, oai nghiêm hơn hẳn đối phương, liền tủm tỉm hỏi đùa:
- Té ra mấy chục năm nay túc hạ bỏ nhà đi tu tiên! Nhưng sao giờ lại động lòng trần tục muốn là Minh chủ võ lâm?
Đoan Mộc Toàn ung dung đáp:
- Bần đạo được Chân Võ Đế Quân giáng mộng, dạy rằng phải về ngay Trung Thổ sát cánh cùng đồng đạo giáng ma! Bần đạo đi ngang đây tình cờ gặp đại hội này. Thuận duyên mà tham gia thế thôi!
Nghe đối phương ám chỉ mình là tà ma, Thần Quân bẽ mặt không hỏi thêm.
Thiết Thủ Cái hằng giọng tuyên bố:
- Mời Đoan Mộc đạo trưởng xuất thủ trước!
Cẩm Phàm Kiếm Khách gật đầu, rút kiếm thủ thế, bàn tay tả bắt kiếm đặt xéo trước ngực. Tay áo đạo bào rộng và dài quá bàn tay nên lão phải lắc cổ tay mấy lần để kiếm ấn có thể ló ra ngoài.
Kỵ Ba Thần Quân luôn cảnh giác cao độ, chiếu đôi nhãn thần sắc bén quan sát từng cử chỉ nhỏ song không phát hiện điều khả nghi!
Đoan Mộc Toàn đã bắt đầu tấn công bằng thứ kiếm pháp Thiên Cương rất quen mắt. Thần Quân điềm nhiên đón đỡ bằng chiêu đao với bảy thành công lực chiếm ngay được chút ưu thế. Lão thầm đoán Đoan Mộc Toàn có tối đa là năm chục năm chân khí, dù tuổi đã sáu mươi tám.
Chẳng còn gì để e ngại, Kỵ Ba Thần Quân yên tâm biểu diễn đao pháp, cống hiến cho khán giả những chiêu hoa mĩ để họ phải tâm phục khẩu phục Tân Minh Chủ.
Sát khi của chiêu đao không nhiều, công thủ lưỡng toàn, đao kình vù vù chấn động không gian, song chỉ có mục đích thị uy và bắt đối phương phải thối lui dần và rơi khỏi lôi đài.
Đấu pháp này vừa biểu lộ được tài hoa, vừa thể hiện tính thượng võ và cũng rất an toàn vì lưới đao kín như bưng!
Quần hùng vỗ tay reo hò, ngây ngất trước đao pháp kỳ diệu và hùng mạnh của Thần Quân, khiến lão hài lòng.
Cẩm Phàm Kiếm Khách bị bức tường thép kia dồn ép, cứ phải lùi mãi, dù đã cố chi trì để trụ lại.
Lôi đài rất rộng, bề ngang là mười trượng, vị chi mỗi bên có được năm, song lùi mãi cũng phải đến nơi. Sau hơn hai trăm chiêu, Đoan Mộc Toàn chỉ còn cách mép đài đúng một trượng, bị Thanh long Đao Giáp đánh văng ngay ra!
Cẩm Phàm Kiếm Khách rơi đúng ngay mép lôi đài, đứng trên gờ nhỏ là thanh gỗ kẹp ván lót sàn đài. Gờ này chạy suốt bốn mép lôi đài, còn có tác dụng trang trí và báo cho kẻ đang giật lùi biết mình sắp rơi.
Thấy đối phương lảo đảo thân hình như sắp té, Kỵ Ba Thần Quân đình bộ, đình thủ để chứng tỏ tư cách cao thượng của một bậc Minh Chủ đáng kính! Vinh quang dễ khiến người ta ngây ngất, hơn cả rượu ngon!
Cáo già cũng có lúc sa bẫy, bậc trí giả đôi khi mắc sai lầm! Kỵ Ba Thần Quân đã không thoát được kế hoạch tinh vi của Ngọa Long Tú Sĩ! Lỗ Đăng Hân từng phục vụ Thành Vô Chiến nên hiểu rõ bản chất, tính tình của lão ta!
Cầm Phàm Kiếm Khách, tức Tần Nhương Thư, đang loạng choạng bỗng bất ngở bay vút lại trở lại, kiếm quang phủ mờ thân ảnh, kiếm kình rít vo vo.
Thuật ngự kiếm lợi hại ở chỗ đường gươm nhanh tựa sao sa, hàng trăm thế thức đánh ra chỉ trong khoảnh khắc, hỗ trợ với đà nhảy nên Nhương Thư lao nhanh như tia chớp.
Nụ cười tươi rói trên miệng Kỵ Ba Thần Quân héo đi và đôi mắt lộ rõ sự kinh hoàng. Trực giác của kẻ lão luyện sớm đánh hơi được mùi vị tử vong.
Chiếc tán thép đan mờ chưa đến thì năm điểm nhỏ màu vàng óng đã đi tiên phong, ba nhắm thân trên, hai nhắm hạ thể. Thành Vô Chiến phản ứng mau lẹ tuyệt luân, thò tả thủ quét hai mũi ám khí phải dưới, mặc kệ ba mũi Thượng bàn vì ỷ vào bảo giáp. Đồng thời hữu thủ chặt xéo một đường đao mãnh liệt vào lưới kiếm đang ập đến.
Trong lúc cấp bách mà Thần Quân dồn được năm thành lực đạo cũng đã là điều phi thường. Đao kiếm chạm nhau, họ Thành khôn ngoan mượn lực phản chấn lùi chếch sang bên tả nửa trượng. Năm thành công lực của lão đã tương đương với cả tu vi của Nhương Thư.
Nhưng nguy hiểm đâu chỉ có thế, Lân Hỏa Thần Đạn đã phát nổ, lửa bùng lên đốt cháy bàn tay tả và nuốt chửng gương mặt nạn nhân. Trước tiên, bộ râu rồng quăn tít, và đôi lông mày quắc thước của Thành Vô Chiến bị cháy rụi.
Số người chết vì nước luôn nhiều hơn vì lửa, song ai cũng sợ lửa hơn nước! Tuy chỉ bị rát da mặt mà Thẩn Quân cũng rơi vào hoảng loạn không kịp tránh thức kiếm tiếp theo của Nhương Thư, đứt lìa cánh tay trái.
Cái đau thấu trời đã làm cho lão tỉnh táo lại, vung đao đánh bạt đường gươm đang đâm vào cổ,
Áo ngoài, áo trong bốc cháy khét lẹt, biến Thần Quân thành ngọn đuốc sống. Nhưng trái với dự đoán của Ngọa Long Tú Sĩ, áo giáp da cá của họ Thành rất khó cháy, lửa chỉ tàn phá được mặt ngoài một cách chậm chạp chứ không lan nhanh hay ăn thủng!
Nửa vạn người sửng sốt kêu lên trước cảnh tượng bất ngờ và đáng sợ này. Họ trố mắt nhìn cảnh Kỵ Ba Thần Quân mang ngọn lửa trên thân, tuyệt vọng chống trả lại những đường kiếm sấm sét của Đoan Mộc Toàn!
Cả cuống chết đít còn cay, Thành Vô Chiến dẫu cụt một cánh tay, da mặt bị phỏng nhẹ nhưng công lực vẫn còn được tám thành. Lão chẳng cam tâm buông xuôi, để ngôi Minh Chủ tuột khỏi tay. Hơn nữa, cảm giác giận dữ, căm hờn của một kẻ bị lừa đã thôi thúc lão phải báo thù.
Thần Quân nghiến răng vung ra những chiêu đao mãnh liệt như sóng dữ, chẳng kể gì đến việc lửa đang đốt cháy áo quần. Lão có cương khí hộ thân nên không thể bị hại bởi ngọn lửa nhỏ bé kia được!
Song lão quên một điều là khi không còn gì để cháy thì ngọn lửa tắt ngúm và thân dưới sẽ hiện ra lồ lộ trước mặt quần hùng!
Thần quân điên cuồng đánh một hơi bốn chục chiêu mà không làm gì được đối phương. Cẩm Phàm Kiếm Khách giờ đây mới để lộ thực tài, đường gươm kỳ ảo và nhanh như thiểm điện, thẳng thắn chiết giải đao chiêu, thân hình chập chờn như ma muội.
Kỵ Ba Thần Quân chưa hề chạm trán Nhương Thư hay Nhật Phủ nên không nhận ra lộ số võ công của Đoan Mộc Toàn, nhưng lòng bắt đầu ngán ngại. Máu từ cánh tay cụt vẫn tuôn và chẳng mấy chốc Thần Quân sẽ kiệt lực, lão bèn nhớ đến chước thứ ba mươi sáu.
Lúc này, tiếng cười đã lan tỏa khắp đại hổi. Họ không còn kinh ngạc vì ngọn lửa và bắt đầu chú ý đến việc Kỵ Ba Thần Quân trần truồng, ngoài mảnh giáp che thân trên, mọi thứ đều phơi ra cả.
Có kẻ ác độc nào đó còn cười hô hố xúi giục:
- Đoan Mộc Toàn! Sao ngươi không thiến cha cái của lòng thòng trước mặt kia đi, trông nó đong đưa thật ngứa mắt!
Thế là cử tọa cười bò, buông lời chế giễu Thần Quân, có muối mặt đánh nữa cũng chỉ mang nhục mà không chừng còn mang họa, Thành lão quỷ tấn mạnh nhưng chân lại bước lùi!
Tất nhiên Nhương Thư không để lão chuồn, kiếm quang tỏa rộng, sát khí mịt mờ, chỉ chờ sơ hở là hạ thủ.
Trong giao đấu, chẳng phải muốn chạy là chạy, muốn lùi là lùi. Khi quay mình đào tẩu là để trống lưng, khi tung ngược ra sau là để trống hạ bàn, còn khi thoái hậu là tấn công không vững, chính vì thế, Kỵ Ba Thần Quân chỉ dám lùi từng bước để bảo toàn tính mạng!
Nhờ thận trọng như thế mà Thần Quân đã an toàn thoái lui được một quãng dài, chỉ còn cách mép đài ba trượng. Nhương Thư vô cùng khâm phục đao pháp và sự chịu đựng kiên cường của đối phương. Song chàng không cam tâm để lão thoát thân liền xuất kỳ chiêu.
Nhương Thư vung kiếm đâm liền tám mươi mốt thức, phong tỏa từ mặt đến bụng Thần Quân. Thành Vô Chiến thận trọng giải phá, đao kiếm chạm vào nhau vang rền! Lão đã bảo vệ được thân trên, nhưng một luồng chỉ phong từ ngón giữa của bàn tay tả Nhương Thư đã bất ngờ bay ra, nhắm vào huyệt Trung Cực thuộc mạch Nhâm, nằm dưới rốn bốn thốn.
Chẳng không thể đánh vào huyệt Khí Hải vì bảo giáp của lão ma đã che kín chỗ nhược ấy. Dù đã tính toán chu đáo, nhắm rất chuẩn nhưng ý trời không thuận. Miếng ván lót sàn lôi đài phía sau Kỵ Ba Thần Quân bị dẫm đạp quá nên long đinh, bật lên hơi cao, nâng gót của ủng khi lão ma lùi lại, đứng lên. Bởi thế, huyệt Trung Cực thoát nạn còn hạ bộ họ Thành mang họa!
Đạo Trung Xung chỉ xuyên thủng dương vật và ngọc hành của Thần Quân đúng như ý nguyện của quần hùng!
Kỵ Ba Thần Quân đau thấu trời, rú lên như heo bị chọc huyết, rồi liều mạng nhảy ngược về phía sau. Lão đã yếu nhiều nên cú nhảy chỉ xa hơn trượng, còn cách mép lôi đài cũng chừng ấy, và Nhương Thư đã lướt theo.
Tính mạng Thần Quân tưởng chừng hữu hỉ, nào ngờ, từ dưới đất có bốn bóng người nhất tề nhảy lên. Vũ khí của họ dài thượt, vươn quá họ họ Thành mà đỡ đòn giùm.
Họ chính là Đài Loan Tứ Ngư Ông, thủ hạ trung thành của Thần Quân. bốn lão ma biển Đông đã dồn hết công lực và cần câu thép nên lực đạo rất hùng hậu, họ lại xuất hiện bất ngờ khiến Nhương Thư bị động, chàng mà cố giết Kỵ Ba Thần Quân thì sẽ khó mà toàn mạng. Bởi vậy, Nhương Thư phải tung mình tránh chiêu lưỡng công kia!
Kỵ Ba Thần Quân cố nén đau, rống lên như hổ bị thương:
- Té ra ngươi là tiểu tử Tần Nhật Phủ?
Lão đã nhận ra chàng nhờ Lục Mạch Thần Chỉ. Quần hào sửng sốt, nhìn Cẩm Phàm Kiếm Khách và thét vang mừng rỡ khi Đoan Mộc Toàn lột mặt nạ, để lộ gương mặt anh tuấn và đôi lông mày kép có một không hai!
Họ Tần vòng tay nói:
- Kính cáo chư vị đồng đạo! Tại hạ bị Thành Vô Chiến dùng quỉ kế ám hại ở Cưu Sơn. may mà trời cao chưa nỡ đoản mệnh, tại hạ thoát chết, giả dạng làm Cẩm Phàm Kiếm Khách để báo thù.
Thấy thần tượng chưa chết mà còn chiến thắng oanh liệt lão quỉ già Thành Vô Chiến, hàng ngàn hào kiệt trẻ phấn khởi phi thường, đồng thanh hô vang:
- Tần Minh Chủ! Tần Minh Chủ!
Đám trung niên, lão nhân cũng phục lăn trước bản lãnh và tài biến hóa xuất quỉ nhập thần của Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách nên cũng hô hào theo con cháu.
Dù không muốn nhưng Thiết Thủ Cái vẫn phải đại diện hội đồng võ lâm tuyên cáo việc trao ngôi minh chủ cho Tần Nhật Phủ.
Khánh Hỉ Đại Sư, phương trượng Thiếu Lâm Tự và Thông Thiện Chân Nhân, chưởng môn phái Võ Đang rời bàn giám đài, trao võ lâm lệnh kỳ và võ lâm ấn kiếm bằng Tử Ngọc cho họ Tần. Gọi là kiếm ấn vì chuôi của thanh tiểu kiếm dài một gang này tận cùng bằng một quả ấn nhỏ hình vuông. Nó là tác phẩm của Trượng Vương Tất Quỳ nên rất tinh xảo và xinh đẹp. Loại ngọc tía cực hiếm và có tính phát quang khi bị nóng lên!
Nhìn ánh mắt đờ đẫn và nụ cười bi dại của họ, Nhương Thư đau lòng khôn xiết!
Kỵ Ba Thần Quân và bọn thủ hạ đã nhanh chân rời Đại hội vì sợ Tần minh chủ hạ lệnh cho quần hùng tấn công!
Lão phòng xa vô ích vì trong kế hoạch của Ngọa Long Tú Sĩ không có khoản này! Nay năm phái đều nằm trong tay Thần Quân, các chưởng môn bị khống chế cả tâm thức lẫn sinh mạng thì ngôi Minh chủ của Nhương Thư chỉ hữu danh vô thực!
Chàng dơ cao võ lâm kiếm lệnh và võ lâm lệnh kỳ, vui vẻ nói với quần hùng:
- Tại hạ sẽ cho sửa sang lại tổng đàn võ lâm, đúng rằm tháng hai sang năm sẽ tổ chức tiệc mừng. Mời toàn thể chư vị vui lòng hạ cố, dùng vài chén rượu nhạt!
Toàn trường hoan hô như sấm dậy, khen ngợi sự rộng rãi của Tân minh chủ. Việc đãi đằng nửa vạn người chẳng phải là chuyện ai cũng dám làm, hoặc đủ sức làm!
Sau đại hội, Tân minh chủ Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách biến mất tăm, dù tổng đàn võ lâm ở núi Thái Thất đang khởi công trùng tu.
Gọi là sửa chữa nhưng thực ra gần như xây mới, vì sau nhiều năm không minh chủ trị vì, tổng đàn đã hư hại khá nhiều.
Thái Thất Sơn là đỉnh cực Đông của rặng Tung Sơn, đầu Tây chính thị là núi Thiếu Thất, nơi chùa Thiếu Lâm tọa lạc.
Kỵ Ba Thần Quân đang nắm trong tay năm phái lớn, tức là một nửa võ lâm. Lão chỉ cần danh vị minh chủ là nuốt luôn nửa còn lại. Nhưng miếng mồi đã vào trong miệng còn phải nhả ra, lại cụt mất một cánh tay, Thành Vô Chiến quyết không tha cho Tần Nhật Phủ.
Với thế lực bao trùm, Thần Quân cho truy tìm tung tích họ Tần. Và cử đi mấy chục toán sát thủ, Tiếc rằng, Tần Nhật Phũ đã biệt dạng, không hề để lại dấu vết.
Khi người của Sơn Hải Bang đến công trường xây dựng tổng đàn võ lâm thì thấy quân triều đình canh gác rất nghiêm mật.
Người lãnh mối thầu này là em vợ của Tổng Trấn Quân Vụ Hà Nam. Lão ta được trả giá hời để thi công theo đúng bản vẽ, và có trách nhiệm bảo vệ công trình cho đến rằm tháng hai sang năm. Vì thế, lão đã nhờ đến sự hỗ trợ của ông anh rể là ngài tổng trấn. Được chi năm trăm lượng hoàng kim, tổng trấn vui vẻ điều quân đến canh gác!
Gã trinh sát Sơn Hải Bang vừa mò đến dọ hỏi thì lập tức bị vây bắt ngay. May mà gã nhanh chân, không thì đã ăn những đòn tra tấn của nha môn.
Vậy thì chàng trai họ Tần của chúng ta đâu? Xin thưa rằng, Nhưưng Thư và bầu đoàn thê tử, bằng hữu đã kéo nhau đi Sơn Tây tìm Ải Thần Quân!
Đầu tháng mười họ có mặt ở thành Trường Trị, vào trọ trong lữ điếm rồi dọ hỏi về nhà cửa của Ải Thần Quân.
May mà lão chưởng quỷ là người sinh đẻ chốn này nên biết rõ, chỉ đường cho khách. Bọn Nhương Thư ăn cơm trưa xong, y phục chỉnh tề tìm đến Tần gia trang.
Quách Tàn Bôi đã chế tạo một chiếc mặt nạ, tạm thời trả lại cho Nhương Thư dung mạo cũ, và cũng để tránh tai mắt kẻ thù. Điều này đã khiến ba ả họ Điền vui vẻ hơn, song Đoan Mộc Anh thì lại bỡ ngỡ. Số người trong đoàn là mười một vì vợ chồng Hoàng Nghi Tuyệt, Dương Châu Thần Thâu và Mục Tử Lượng cũng có mặt. Thần Thâu và Tử Lượng ở Khai Phong về Tung Sơn xem đại hội, gặp bọn Ngọa Long Tú Sĩ.
Hồng Diện Tôn Giả không hiểu sao đã bỏ đi mất dạng sau khi đại hội bế mạc. Có lẽ ông đau lòng vì các chết của Bạch Thúy Sơn nên không còn thiết đến sự đời nữa.
Hôm rằm tháng chín, Tôn Giả đã được Lỗ Tú Sĩ dặn dò kế hoạch hí lộng Kỵ Ba Thần Quân. Ông có trách nhiệm là cho Thành lão quỷ bộc lộ bảo y, đồng thời hợp thức hóa việc sử dụng ám khí của Nhương Thư. Nếu không, dù có đả bại Kỵ Ba Thần Quân chàng cũng chẳng thể trở thành Minh chủ, không phải vì danh dự mà vì đại cục sau này!
Nhắc lại bảy kỵ sĩ hộ tống cỗ xe song mã mui kín, chở bốn nàng rầm rộ xuất hiện trước cửa Tần Gia Trang!
Nhương Thư ngỡ ngàng khi thấy cơ ngơi xập xệ, nghèo nàn của toàn trang viện. Chẳng phải Ải Thần Quân đã tặng hết tài sản cho chàng rồi tay trắng hồi hương! Ngày ấy, Tần Thế Lan, tức Ải Thần Quân, rời Tạ gia trang mà không lấy theo vàng bạc, châu báu gì cả.
Nhương Thư vô cùng xúc động, biết Thần Quân thật sự yêu thương mình như con vậy. Lão chỉ cần lấy lại một phần tư châu báu cũng đủ biến nơi đây thành phủ đệ lộng lẫy của bậc Vương Hầu!
Quanh trang chỉ là rào trúc sơ sài vì tường cũ đổ sập không tiền xây lại. Nhà cửa được cất theo lối Tam Hợp Thiện, ba dãy vây lấy bên, nhưng giờ đây ngói dột, cột xiêu, gạch lát sân bong lên từng mảng, cỏ mọc đầy.
Người trong nhà đã đi ra. Đó là một lão già tuổi sáu mươi, râu tóc hoa râm, dung mạo rất giống Ải Thần Quân. Lão mở cổng rào, nghi ngại hỏi:
- Chẳng hay quí khách giá lâm tệ xá về việc gì?
Nhương Thư vòng tay kính cẩn đáp:
- Bọn tại hạ muốn được bái kiến Tần lão tiền bối, tức Ải Thần Quân!
Lão nhân lạnh lùng bảo:
- Nhị thúc của lão phu không có nhà! Ông ta về đây ăn báo mấy tháng rồi bỏ đi Thái Nguyên du ngoạn, chẳng thấy trở về!
Thì ra lão này là cháu ruột của Thần Quân, cảnh nhà khó khăn nên không vui khi thấy thúc phụ trở về với hầu bao lép kẹp. Lão sợ hãi Thần Quân nên ngậm bồ hòn làm ngọt, nay gặp dịp mới buột miệng than thở trách móc. Thái độ này cũng chẳng có gì là lạ. Khi người ta quá nghèo, vợ con không đủ ăn thì việc cưu mang thêm một ông chú uống rượu như hũ chìm là cả một nỗi kinh hoàng!
Điền Uyển Xuân thấy thế liền đổ dầu vào lửa, dấm dẳng nói:
- Lão ấy trốn rồi ư? Bọn ta đến đây để đòi nợ đây!
Lão nhân họ Tần tái mặt xua tay hớt hải:
- Lão phu chẳng liên quan gì cả! Gia thúc phụ bỏ nhà đi đã ba mươi mấy năm, chẳng giúp đỡ gì được cho con cháu, sao lại bắt lão phu trả nợ thay?
Lão ta đang nói thì có một phụ nhân tuổi ngũ tuần, áo vải xanh vá víu ra đến nơi. Bà nghe nói đến nợ nần của chú chồng liền khóc lóc, tru tréo lên:
- Tướng công thấy không! Thiếp đã linh cảm trước tai hoạ này ngay khi Nhị thúc xuất hiện! Lão ta uống sạch gia tài dành dụm của chúng ta, lại còn huênh hoang rằng con nuôi lão sẽ mang vàng đến đây xây dựng nhà cửa, biến Tần gia trang thành đài phủ đất này. Vàng đâu chẳng thấy, chỉ thấy chủ nợ đến tìm! Phen này thiếp và lũ con chỉ còn nước ra đường mà ở thôi!
Rồi mụ quỳ sụp xuống lạy lục:
- Oan có đầu, nợ có chủ! Xin chư vị đi Thái Nguyên tìm lão chết tiệt ấy mà đòi, đừng đẩy gia đình tiện phụ vào cảnh khốn cùng!
Uyển Xuân không ngờ trò đùa của mình lại tai hại đến vậy, sợ Nhương Thư giận, vội chạy đến đỡ Tần phụ lên:
- Đại thư đừng khóc nữa! Tiểu muội chỉ đùa thôi mà! Bọn tiểu muội chính là nghĩa tức (dâu nuôi) của Tần lão gia, mang vàng về xây lại Tần gia trang đây! Tần thị há hốc miệng, dụi mắt tưởng mình nằm mơ. Trong lúc ấy, Nhương Thư vòng tay thi lễ:
- Tiểu đệ, Tần Nhương Thư, nghĩa tử của Tần lão gia, xin ra mắt biểu ca!
Lão nhân kia cũng sửng sốt không kém vợ mình, luống cuống đáp:
- Thực thế sao! Té ra nhị thúc không nói láo! À... Lão phu là Tần Nam Sơn..., mời chư vị vào!
Ngọa Long Tú Sĩ biết chắc chủ nhà không đủ ghế cho khách ngồi, nên vui vẻ nói! - Ngoài sân này mát mẻ, chẳng nhất thiết phải vào trong làm gì. Hơn nữa, lão phu muốn xem qua địa thế để tính toán việc xây dựng.
Hai canh giờ sau, bọn Nhương Thư rời Tần gia trang, để vợ chồng Tần Nam Sơn bàn bạc cách tiêu xài số vàng năm ngàn lượng!
Trưa mùng sáu tháng mười, đoàn nhân mã đi vào thành Thái Nguyên, địa phương trù phú, sầm uất nhất Sơn Tây.
Vào đầu thời nhà Minh, Thái Nguyên là nơi đặt phủ đệ của Tần Vương, một trong những hoàng tử của Chu Nguyên Chương. Minh Thái Tổ đã giao đất Sơn Tây và phong tặng cho con trai mình! Còn vùng Hà Bắc thuộc quyền Yên Vương Chu Đệ, người mà sau này soán ngôi cháu, lấy đế hiệu là Minh Thành Tổ.
Danh thắng nổi tiếng nhất Thái Nguyên là đền thờ Tần Tử nằm trong Lâm Viên Cổ dưới chân núi Ông Sơn, phía Nam Thành!
Lâm Viên có nghĩa là vườn rừng, rừng cây do người trồng làm vườn cảnh. Nơi đây sơn thủy hữu tình, có hàng trăm đền đài, cung điện, miếu mạo, nhứng cái khiến người ta đắm say nhất là ba con suối ở đền Tấn Từ: Thiên Lợi Tuyền, Thánh Mẫu Tuyền và Nan Lão Tuyền!
Ngoài việc nước suối trong vắt, ngọt ngào, phong cảnh bên bờ và chiếc cầu Tấn Từ xinh đẹp đã gợi ý thơ cho hàng ngàn tao nhân mặc khách. Song vào thời ấy, cạnh suối Nan Lão, dưới cầu Tấn Từ độ gần dặm còn có một nơi mà du khách nào cũng phải ghé thăm, đấy là Trường Xuân tửu điếm.
Quán rượu này chỉ là một công trình đơn giản bằng gỗ, mái ngói, nằm bên bờ suối, cảnh vật không hơn những danh thắng khác trong lâm viên, nhưng nó thu hút khách nhờ nhan sắc của chủ nhân.
Hai mươi năm trước có một nữ lang tuổi ba mươi đến đây dựng quán, giờ nàng đã tròn ngũ thập mà dung nhan vẫn như xưa! Người ta phong tặng nàng danh hiệu Nan Lão Tiên Cơ, ý chỉ vị trí quán rượu cũng như sự trường tồn của vẻ đẹp thiên kiều bá mị.
Tiên Cơ có nhũ danh là Trình Bích Liễu, thân hình nhỏ nhắn, thâm thấp như hàng vạn nữ nhân Trung Hoa khác. Nghĩa là nàng chỉ cao hơn Ải Thần Quân hai lóng tay.
Phải chăng vì nhan sắc và chiều cao khiêm tốn của Tiên Cơ mà Ải Thần Quân phế bỏ mộng thành tiên, quyết tâm lấy cho được nàng? Hoặc vì một lý do nào khác khiến lão già trẻ con tuổi cửu tuần này yêu say đắm thì chỉ có trời mới hiểu nổi!
Sau ba ngày điều tra, bọn Nhương Thư tá hỏa tam tinh khi nghe nói Ải Thần Quân yêu điên cuồng chủ nhân Trường Xuân tửu điếm, đến mức xin vào làm tiểu nhị không lương để được gần gũi Nan Lão Tiên Cơ.
Người người ôm bụng cười lăn cười lóc, chỉ mình Đoan Mộc Anh không cười, thản nhiên nói:
- Hai người ấy đều trẻ mãi không già, vốn được trời sinh ra để lấy nhau, chẳng phải thế sao?
Nhương Thư tủm tỉm khen:
- Anh nhi quả là cao kiến! Bọn ta đã quên mất điểm này!
Ngọa Long Tú Sỉ lên tiếng:
- Hay lắm! Chúng ta sẽ thành toàn cho mối lương duyên thiên định này!
Mã Lan thích thú hỏi:
- Nhưng bằng cách nào?
Lỗ Đăng Hân cười đáp:
- Để lão phu và Tần công tử đến Trường Xuân điếm tìm hiểu tình hình rồi sẽ tính!
Quách Tàn Bôi cằn nhằn:
- Lão phu cũng đi nữa, bằng không thì hai người đừng hòng mượn mặt nạ!
Ba người hóa trang xong, tìm đến Trường Xuân tửu điếm. Lời đồn quả chẳng sai, quán rượu luôn đầy ắp tửu khách, và hơn nữa là khách võ lâm, vì Nan Lão Tiên Cơ cũng rất giỏi võ!
Hữu xạ tư nhiên hương, bao năm nay, hằng trăm thế gia công tử, hào kiệt giang hồ đất Thái Nguyên và vùng phụ cận đã rắp ranh sắm sẽ, thầm thương trộm nhớ mỹ nhân! Phần lớn đã mỏi mòn bỏ cuộc, tìm mối khác, chỉ còn lại những nam nhân cao tuổi, bởi Tiên Cơ đã năm mươi!
Trong tình yêu, chẳng thể dùng võ nghệ diệt trừ tình địch mà giành lấy trái tim, cho nên dù bản lãnh thượng thừa mà Ải Thần Quân vẫn bị hạ phong trước kẻ khác!
Thứ nhất là vì lão quá lùn, thứ hai là quá già, thứ ba là không có tiền. Trong khi phe đối phương tuổi tác chỉ từ ngũ tuần đến thất tuần, trẻ trung, tráng kiện, thân thể cao lớn, oai vệ, gia tài đồ sộ.
Bọn Nhương Thư ngồi xuống một bàn trống, tò mò quan sát nữ chủ nhân. Họ dương đôi mắt nghi hoặc ngắm nghía nữ lang xinh đẹp, trẻ trung đang ngồi sau quầy quỹ, không sao tin được rằng nàng ta đã năm mươi!
Tiên Cơ cũng nhìn thấy khách mới, rời quầy bước đến bàn, nở nụ cười tươi tắn, thân thiện:
- Chắc tam vị mới đến tệ điếm lần đầu! Thiếp là Trình Bích Liễu, rất vinh dự được đón tiếp ngọc giá của bậc quý nhân!
Giọng nàng trong trẻo, ngọ ngào, khiến lòng người xao xuyến. Bộ đoạn bào bằng lụa xanh kia ôm sát thân hình nhỏ nhắn, cân đối và làm tôn nước da trắng trẻo, mịn màng của Tiên Cơ!
Nói xong nàng quay lại cao giọng gọi:
- Tần huynh! Mau ra xem khách cần chi!
Nàng nghiêng mình chào bọn Nhương Thư rồi quay gót.
Dạ Quân Tử vỗ đùi tán thưởng:
- Ả này vừa đẹp, vừa khéo, bảo sao lão quỷ họ Tần không chết mê chết mệt!
Lúc này, Ải Thần Quân đã ra đến, áo tiểu nhị lem nhem dầu mỡ, khăn vải vắt vai. Lão khúm núm hỏi với dáng điệu rất chuyên nghiệp: - Dám hỏi chư vị đại gia dùng những món gì?
Ngoài cặp lông mày thứ hai mới mọc lại, sau vài tháng trời rời Lạc Dương, Thần Quân còn có thêm hàng râu mép xanh đen, gọn ghẽ. Lão muốn lấy Tiên Cơ nên không thể giữ dung mạo trẻ con được!
Lỗ Tú Sĩ biết hai người kia sắp sửa phá lên cười nên nói mau:
- Một mâm rượu thịt gồm bốn món thượng hạng!
Thần Quân hài lòng gật đầy, tất tả rảo bước. Ở đây, ba vị khách cúi gầm mặt để cười cho thỏa. Nhương Thư chợt thắc mắc:
- Vì sao Thần Quân không mang thêm chân giả để được cao như lúc đóng vai Thế Lan? Lỗ Đăng Hân vui vẻ giải thích:
- Lão ta yêu thực tâm nên không muốn gian dối Tiên Cơ, còn lúc trước, do lão gán cho công tử danh hiệu và tên tuổi nên phải kê chân thật cao để khỏi bị Vô Ưu Cái nghi ngờ mình là Ải Thần Quân!
Rượu thịt được bưng ra, trong lúc bọn Nhương Thư ăn uống, không có khách vào thêm nên Ải Thần Quân rảnh rang, đứng cạnh quầy quỹ nói chuyện với Nan Lão Tiên Cơ.
Trong số thực khách hôm nay dĩ nhiên không thiếu vài tay tình địch của Thần Quân. Một lão nhân áo gấm đen sang trọng, đầu đội mũ bá hộ lên tiếng:
- Này Tần lão huynh! Tòa Bách Hoa Gia Trang ở bìa lâm viên vừa đăng bảng rao bán, sao lão huynh không mua tặng Trình Tiên Cơ? Lão họ Hồ thua bạc nên bán rẻ, chỉ có ba ngàn lượng mà thôi!
Cả quán cười ầm vì câu giễu cợt kia. Một tên tiểu nhị làm sao có nổi ba ngàn lượng vàng!?
Nào ngờ Tần lão quay sang hỏi Tiên Cơ:
- Nàng có thích tòa trang viện ấy không? Vài ngày nữa lão phu sẽ mua tặng nàng!
Trình Bích Liễu tủm tỉm gật đầu, nhưng ánh mắt lộ vẻ hoài nghi. Còn tửu khách thì cười hô hố, chê Ải Thần Quân là người khoác lác.
Tình địch thứ hai của Ải Thần Quân là một đại hán tuổi độ năm mươi, thân thể lực lưỡng, râu quai nón rất oai phong. Lão ra cười nhạt khích bát:
- Thần Quân là bậc võ lâm tiền bối, sao lại để kẻ khác chiếm đoạt danh hiệu và tên tuổi của mình! Tại hạ vừa dự đại hội võ lâm trở về, tận mắt chứng kiến gã Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách Tần Nhật Phủ đả bại Kỵ Ba Thần Quân đoạt ngôi minh chủ. Phải chăng lão huynh sợ hãi tiểu tử ấy nên không dám tìm đến hỏi cho ra lẽ!
Đám hào khách trong quán tán thành ngay, xem thường bản lãnh của Ải Thần Quân!
Tần lão cười khanh khách đáp:
- Các ngươi biết quái gì mà nói! Tần minh chủ võ lâm chính thực là con nuôi của lão phu. Nếu Trình Tiên Cơ chịu làm vợ lão phu, hắn sẽ đứng ra tổ chức và mời đủ chưởng môn, long đầu các phái trong thiên hạ đến dự!
Bọn hào khách ôm bụng cười ngặt nghẽo, chửi Thần Quân là kẻ nói láo một tấc đến trời!
Có kẻ tức quá, đốc thúc Nan Lão Tiên Cơ:
- Sao Trình mỹ nhân không lấy đó làm điều kiện hôn ước, để lão lòi mặt chuột ra?
Lời đề nghị này được nhiều người hưởng ứng, khiến Tiên Cơ mất tự chủ, bẽn lẽn nói:
- Thôi được! Thiếp cũng xin chiều ý chư vị! Rồi nàng bảo Thần Quân:
- Nếu trong ba ngày, Tần huynh mua nổi Bách Hoa Trang, thiếp xem như đã nhận sính lễ, và khi Tần huynh gọi được minh chủ võ lâm đến quì lạy thì lễ thành hôn sẽ cử hành!
Cả quán ồn ào như chợ vỗ. Tin chắc Ải Thần Quân sẽ bỏ cuộc một cách nhục nhã.
Quả đúng như vậy, Tần lão nhăn nhó một cách khổ sở:
- Lão phu chẳng biết ba ngày có kịp hay không nữa?
Bỗng có người gọi thêm rượu, lão bèn tất tả chạy đến bàn của ba người khách lạ mặt. Thần Quân hỏi mà như người mất hồn:
- Tam vị cần thêm mấy cân?
Và lão thiếu điều nhảy dựng lên vì nghe khách lạ hạ giọng đáp:
- Nghĩa phụ! Hài nhi là Nhương Thư đây! Xin nghĩa phụ cứ nhận điều kiện của Tiên Cơ, chỉ ba khắc nữa là mỹ mãn! Thần Quân mừng đến líu lưỡi:
- Trời cao có mắt nên Thư nhi đến rất đúng lúc! Con trai hãy cố giúp ta lấy được mụ vợ này, không thì ta chết mất!
Nhương Thư gật đầu mỉm cười, Thần Quân hí hửng chạy nhanh xuống bếp lấy vò rượu năm cân, mang lên cho con nuôi. Lão quay lại đứng bên quầy quỹ, lập tức bị thực khách tra hỏi:
- Sao Thần Quân có làm được không?
Thần Quân cười tươi rói, hỏi lại Nan Lão Tiên Cơ:
- Này Trình hiền muội! Nàng nói thực đấy chứ? Tiên Cơ đỏ mặt gật đầu:
- Thiếp vốn chẳng bao giờ nói hai lời!
Ải Thần Quân chợt nghiêm sắt mặt, nhìn nàng bằng ánh mắt thiết tha rồi truyền âm:
- Trước khi ra đi, lão phu muốn biết nàng có chút tình cảm nào với lão phu hay không?
Tiên Cơ lặng người, buồn rầu suy nghĩ rồi đáp: - Thực lòng thiếp cũng yêu mến Tần huynh vì đôi ta đều được trời ban cho Vô Thu Quả. Giá như Tần huynh đừng đại ngôn thì trước sau thiếp cũng nhận lời. Giờ sự thể thế này, xem như không duyên phận vậy!
Ải Thần Quân chết lặng người vì hạnh phúc ngút trời. Ông gật gù, quay lại nói với cử toạ:
- Mời chư vị cứ ăn uống thoải mái và chờ thêm vài khắc nữa để mừng cho lão phu và Tiên Cơ. Hôm nay tệ điếm xin chiêu đãi miễn phí! Chẳng ai tin nhưng cũng hồ hởi gọi thêm rượu thịt khiến Tiên Cơ tái mặt, kéo áo Thần Quân:
- Tần huynh định làm cho thiếp sạt nghiệp thì mới chịu đi ư?
Tần lão nheo mắt tình tứ:
- Nàng chớ lo! Cưới xong chúng ta ra ở Bách Hoa Trang, không làm đầy tớ cho thiên hạ nữa! Rượu vào lời ra, vài gã không biết ơn còn mỉa mai:
- Lát nữa Thần Quân bỏ của chạy lấy người thì bọn ta lấy tiền đâu ra mà trả?
Tần lão cười ha hả hỏi lại:
- Thế nếu lão phu làm được, liệu mỗi người có dám bỏ ra trăm lượng bạc mừng hôn lễ hay không? Ai dám thì dơ tay lên! Thế là bảy tám chục cánh tay nhanh nhảu đưa lên để chế giễu Thần Quân.
Tần lão nghiêm giọng:
- Lão phu có trí nhớ phi thường, nhớ không sót một ai. Kẻ nào nuốt lời thì hãy coi chừng đấy! Dứt lời lão xạ một đạo chỉ phong vào cột gỗ các chỗ đứng hơn trượng. Chỉ kình xé gió ghê người, bột gỗ bay mù mịt, và một cái lỗ sâu hoắm hiện ra!
Ai nấy lạnh gáy, nhớ đến truyền thuyết về tính hiếu sát của Ải Thần Quân ngày trước! Họ im như thóc, tự an ủi rằng chắc gì lão quỷ lùn kia đã cưới được Tiên Cơ. Nhưng lát sau, có một cỗ xe song mã lộng lẫy cùng vài võ sĩ hộ tống, dừng cương trước cửa quán rượu.
Cửa thùng xe mở ra, có bốn nữ nhân y phục hoa lệ bước xuống. Đám kỵ sĩ gồm có năm người, có cả lão già áo gấm nâu, lúc nãy đã từng ngồi trong quán!
Khi chín người ấy bước vào thì hai tửu khách lạ mặt cũng đứng lên, nhập bọn đi đến trước mặt Ải Thần Quân. Hán tử võ phục đen xoa mặt, hóa thành một chàng trai cực kỳ anh tuấn, rất giống Ải Thần Quân, cả mặt mũi lẫn đôi lông mày kép. Gã vòng tay nói:
- Hài nhi bái kiến nghĩa phụ và nghĩa nương! Thân đương nhiệm minh chủ không tiện thi đại lễ mong nhị vị nhân gia lượng thứ!
Ải Thần Quân xua tay cười khanh khách:
- Miễn lễ! Miễn lễ! Con hãy đứng sang một bên để lão phu nhận dâu!
Nhương Thư bước sang tả, nhường chỗ cho tam vị thiên kim tiểu thư nhà họ Điền. Ba ả e thẹn nghiêng mình theo phép túc bái. Rồi đến bọn nam nhân già trẻ đủ cỡ. Thấy chỉ còn mình Đoan Mộc Anh đứng tần ngần ngơ ngác, Thần Quân hỏi Nhương Thư:
- Thế con tiểu nha đầu kia là ai vậy?
Nhương Thư hít mạnh một hơi để lấy dũng khí rồi bước đến dắt nàng sơn nữ lại trước mặt Thần Quân và Tiên Cơ. Chàng trầm giọng giới thiệu:
- Bẩm nhị vị nhân gia! Nàng này là Đoan Mộc Anh, người vợ thứ tư của hài nhi!
Đoan Mộc Anh hân hoan ngước nhìn chàng: - Đại ca chịu lấy tiểu muội làm vợ ư? Thế thì hay quá, tiểu muội cũng muốn có con như ba vị đại thư kia!
Một trận bão cười nổ ra, phá tan không khí im lặng, trang nghiêm từ nãy đến giờ!
Thần Quân tủm tỉm bảo ba dâu lớn:
- Các con đừng ghen tuông mà hại đến bào thai! Mã Lan và Uyển Xuân thẹn thùng vâng dạ, riêng Bạch Cúc hậm hực nhủ thầm:
- Ghen làm quái gì! Các bà sắp lâm bồn, cần người quạt than, giặt giũ đây! Lúc ấy con quỉ đen kia sẽ biết thế nào là khổ sở!

Hồi 18

Hồng Nhan Thí Phát Nan Vong Ái
Hiểm Đạo Thần Quân Thí Bất Toàn

Cuối tháng mười, bọn Nhương Thư sang đến tả ngạn sông Hoàng Hà, thiếu mất bốn người đàn bà vì Từ Thanh Huệ và ba ả họ Điền đã ở lại Tần gia trang, dưới chân núi Ngũ Đài Sơn để tĩnh dưỡng. Họ là thai phụ nên không thể tham gia cuộc viễn chinh gian khổ được!
Ải Thần Quân đã trả cho Nhương Thư dung mạo cũ, song Dạ Quân Tử lại phải chế tác cho chàng một chiếc mặt nạ Tần Nhật Phủ!
Nhương Thư đã lên chùa Phật Quang hội ngộ với đồng môn, Chân Không thiền sư, phương trượng chùa, đã hứa sẽ bảo vệ bốn nữ nhân bụng mang dạ chữa kia!
Dĩ nhiên các nhà sư chỉ phụ trách vòng ngoài, việc hầu hạ bên trong đã có đám nữ tỳ lo toan!
Đoan Mộc Anh không bị giữ lại để giặt giũ như Bạch Cúc từng tính toán. Cô gái rừng thản nhiên tuyên bố:
- Tiểu muội sẽ đi theo Tần đại ca cho đến khi bụng to như tam vị đại thư mới thôi!
Bạch Cúc nổi dóa:
- Muốn bụng to thì nào có khó! Ngươi cứ ở lại đây để ta kiếm cho một gã tiều phu, hà tất phải bám lấy tướng công?
Đoan Mộc Anh nghe vậy rút kiếm đâm cổ tự sát, may mà Nhương Thư kịp ngăn lại. Bạch Cúc hết hồn hết lời năn nỉ cô gái sơn dã cương cường. Uyển Xuân cũng nói vào Anh nhi mới nguôi giận.
Chiều ngày đầu tháng mười một, Nhương Thư có mặt ở Toàn Chân Đạo Quán. Và ngay tối hôm ấy, họ bí mật vào thành Lạc Dương, đột nhập phân đà Cái Bang.
Vô Ưu Cái hồi sinh, và sau bốn ngày, nội bộ Cái Bang không còn ai là tai sai của Kỵ Ba Thần Quân nữa.
Thiết Thủ Cái quỳ xuống khóc lóc xin tha mạng và đã toại nguyện. Bề ngoài, lão vẫn là bang chủ Cái Bang để bảo toàn bí mật cho chiến dịch giải thoát các phái của bọn Nhương Thư.
Sau Cái Bang, Thiếu Lâm, bọn Nhương Thư giải phóng thêm phái Hoa Sơn ở Thiểm Tây và phái Võ Đang ở Hồ Bắc. Dạ Quân Tử Quách Tàn Bôi về Tứ Xuyên để cứu phái Nga Mi. Đến cuối tháng mười một thì cục diện võ lâm được vãn hồi hoàn toàn, phe chính phái bàn đến việc phản công, tiêu diệt Sơn Hải Bang.
Nhưng phân đà bí mật của Cái Bang ở Tế Nam đã gởi tin về! Đó là việc Kỵ Ba Thần Quân kết thông gia với tri phủ Sơn Đông. Thành Võ Chiến đã đem ái nữ xinh đẹp như tiên gã cho đứa con trai xấu xí đần độn của Quách tri phủ để củng cố thế lực của mình. Thế là lão được sự hậu thuẫn của quan quân Sơn Đông, khiến lực lượng bạch đạo chẳng dám bén mảng đến Tế Nam.
Tin thứ nhứt là đám cưới, tin thứ hai thì ngược lại! Võ Lâm Mạnh Thường Quân đột nhiên trúng gió độc, sắp chết và có di chúc để lại hết gia sản cho trưởng nữ.
Nghe xong tin này, Ngọa Long Tú Sĩ biến sắc nói:
- Thành lão quỷ quả là ác độc, không từ bất cứ thủ đoạn nào. Tài sản Điền gia phần lớn nằm trong các bất động sản, Thần Quân muốn chiếm đoạt hết nên mới hạ độc thủ. Sau khi võ lâm Mạnh Thường Quân chết, chắc chắc trưởng nữ là Hổ Hồng Nhan Điền Ngọc Trâm cũng khó yên thân.
Nhương Thư bàng hoàng nhớ đến người con gái ngang tàng, nóng nảy và bồng bột ngày nào! Thúy Sơn là gái giả trai nên Ngọc Trâm vô tội, từ lâu, Nhương Thư định đi Tế Nam tìm nàng nhưng không có cơ hội. Quê vợ là sào huyệt của Sơn Hải Bang nên chẳng ai cho chàng đến đấy cả.
Song giờ này, nghe nói tính mạng người xưa đang bị đe dọa, Nhương Thư chẳng thể bỏ qua. Chàng nghiêm nghị nói:
- Hầu lão ca! Tiểu đệ phải đi Tế Nam rước Ngọc Trâm mới được!
Vô Ưu Cái nhìn chàng bằng ánh mắt yêu thương, cười bảo:
- Ngươi đi là phải đạo! Nhưng phải có kế sách chu đáo mới được!
Lão quay sang nói với Ngọa Long Tú Sĩ:
- Này Lỗ hiền đệ! Ngươi mau trổ tài Gia Cát, bày cho lão phu một diệu kế để bình định Sơn Đông xem nào?
Lỗ Đăng Hân gượng cười:
- Hầu bang chủ chớ nên bỡn cợt kẻ hèn này nữa. Tiểu đệ chỉ có thể hiến một kế mọn để cứu cha con Võ Lâm Mạnh Thường Quân và bọn Bất Trí Thư Sinh ra khỏi tay hùm mà thôi.
Cao lão, Thiết Kình Ngư và anh em Lô Châu Ngũ Tặc vẫn còn bị Sơn Hải Bang giam giữ ở Tế Nam, vì Kỵ Ba Thần Quân mến tài Bất Trí Thư Sinh, muốn ông phò tá mình.
Vô Ưu Cái hài lòng:
- Kế ấy thế nào?
Tú Sĩ nghiêm nghị đáp:
- Lần này tiểu đệ sẽ đích thân đến Sơn Đông, tùy cơ ứng biến, không thể nói trước được. Chỉ phiền bang chủ bố trí đại quân mại phục ở đèo Cù Vân, nếu Kỵ Ba Thần Quân đuổi theo thì xem như lão ta đã tận số! Đèo Cù Vân nằm trên đường quan đạo từ Tế Nam đi Tế Châu, địa hình cực kỳ hiểm ác, một bên là sườn núi đầy loạn thạch, bên kia là vực sâu.
Vô Ưu Cái hân hoan:
- Hay lắm! Ngươi quả là khéo chọn nơi mai táng Thành Võ Chiến, lão phu tán thành kế hoạch này.
Cứu nhân như cứu hỏa, ngay sáng hôm sau, Nhương Thư và Hoàng Nghi Tuyệt đã khởi hành, đi trước một bước.
Thời xưa, trong luật giao thông, có một hạng người được hưởng quyền ưu tiên số một, đó là bọn dịch tốt chuyển vận công văn hỏa tốc. Họ có thể phóng ngựa như bay, ai không tránh đuờng, lỡ bị dẫm chết thì ráng chịu.
Muốn đi nhanh mà không gây nghi ngờ, Nhương Thư và Nghi Tuyệt đã giả làm hai dịch tốt. Tuy nói là giả nhưng họ lại có đủ giấy tờ tùy thân thiệt thọ, có luôn công văn của tri phủ Hà Nam gởi cho Tổng Trấn Quân Vụ Sơn Đông.
Tri phủ Hà Nam Tây Môn Đạt vốn là anh vợ của quan Tổng Trấn Trần Đăng Khải, nhân vật uy quyền số hai ở đất Sơn Đông. Đấy là trong thời bình, còn khi bờ biển bị quân Nhật Bản, Cao Ly xâm phạm thì Trần Tổng Trấn chịu sự điều động trực tiếp của bộ Hình, không thuộc quyền tri phủ Sơn Đông nữa.
Là người giữ gìn cương thổ, Trần Tổng Trấn luôn phải có mặt tại thanh đảo, dù nhà cửa, thê tử thì ở Tế Nam.
Trần Đăng Khải là một võ quan tài ba và rất thanh liêm nên cảnh nhà thanh bạch, chẳng được sung túc lắm. Do vậy, Tổng Trấn phu nhân, nhũ danh Tây Môn Lan, không được vui khi thấy gia tài của Quách tri phủ ngày càng đồ sộ.
Là nữ nhân, bà cóc cần biết chồng mình tốt gấp trăm lần lão Quách Tốn, lòng luôn bị hậm hực khi bị thua sút tri phủ phu nhân nhiều mặt. Đàn ông có nghèo thì cũng cười xòa, nhâm nhi vài chén rồi gõ bầu rượu mà ngâm câu "an bần lạc đạo", xong đàn bà phải lo toan đủ thứ nên không nuốt trôi nổi câu ấy.
Bào huynh của Tạy Môn Lan biết rõ gia cảnh của em gái nên thỉnh thoảng cũng giúp đỡ vài trăm lượng. Dĩ nhiên, tri phủ Hà Nam luôn dùng đường dây dịch trạm để chuyển tiền, vừa nhanh chóng lại vừa an toàn. Bọn đạo tặc chẳng dại gì chặn dịch tốt để cướp những tờ công văn vô dụng.
Nay đã gần giữa tháng chạp, tuyết rơi đầy, tiết trời lạnh căm căm, nhưng lòng Trần phu nhân nóng như lửa, mong mỏi món tiền viện trợ của anh trai. Không có nó, gia đình bà khó mà ăn tết cho vui vẻ được.
Bởi thế, Tổng Trấn phu nhân vui mừng khôn xiết khi nghe quân gác cổng dinh vào báo rằng có dịch tốt từ Lạc Dương đến.
Tây Môn Lan là em gái út nên tuổi mới ba mươi, dù đã hai mặt con nhưng nhan sắc vẫn mặn mà, xinh đẹp nhất hàng ngũ các mệnh phụ thành Tế Nam. Người đẹp thì thường quý trọng nhan sắc của mình, luôn tô điểm bằng y phục và dồ trang sức để được nhận những ánh mắt ngưỡng mộ, tán thưởng của thiên hạ.
Nàng lại không muốn bọn dịch tốt của anh mình xem thường nên càng phải giữ tư thế, không để họ về Lạc Dương kháo chuyện lung tung. Bởi vậy, Tây Môn Lan đã mặc bộ y phục đẹp nhất, son phấn cẩn thận rồi mới ra khách sảnh. Nàng hy vọng người ngoài chỉ nhớ đến nhan sắc của mình mà quên đi cảnh nghèo nàn của dinh Tổng Trấn.
Sau khi ngồi chễm chệ cạnh bàn, Tổng Trấn phu nhân mới cho lính mời hai gã dịch tốt kia vào.
Tuyết phủ đầy mũ và áo lông, khách phải phủi sạch, cởi ra trao cho tên lính hầu rồi mới nhập sảnh.
Tây Môn Lan kinh ngạc khi thấy hai gã dịch tốt này tướng mạo anh hùng, đường bệ chứ chẳng tầm thường, nhất là cái gã trẻ tuổi, có đôi vành tai phúc hậu kia lại càng bội phần tôn quý.
Và cũng gã ấy mỉm cười đôn hậu, vòng tay thi lễ theo cung cách võ sĩ rồi cất giọng trầm ấm:
- Tại hạ Tần Nhương Thư, bái đệ của Tây Môn đại nhân, xin ra mắt phu nhân!
Phải chăng Nhương Thư nói láo? Thưa không, chàng đã cùng tri phủ Hà Nam Tây Môn Đạt lạy nhau tám lạy ngay tối mùng một vừa rồi.
Vì sao quan tri phủ lại chấp nhận mối kết giao này? Bởi đã từ lâu, Tây Môn Đạt là nghĩa đệ của bang chủ Cái Bang Hầu Mộ Thiên.
Việc này người ngoài không được phép hay biết, song Tây Môn đại nhân được ngồi vững ba mươi năm ở ghế tri phủ Hà Nam cũng là nhờ Cái Bang. Y nổi tiếng là vị quan công minh, có tài xử án như thần, chưa hề để xảy ra oan khuất. Tình hình trị an trong phủ Hà Nam cũng rất yên ổn.
Tây Môn Đạt nhiều lần ban sắc chỉ khen thưởng, nhưng mọi công lao kia thực ra đều thuộc về Cái Bang. Bọn hóa tử có mặt khăp nơi, mau chóng tìm ra hung thủ để tri phủ đại nhân thăng đường phán xét.
Mà Nhương Thư còn hơn em ruột Vô Ưu Cái, lại là minh chủ võ lâm, thì tội gì Tây Môn Đạt không vơ lấy?
Nhắc lại, Tổng Trấn phu nhân Tây Môn Lan nghe khách nói thế, vội mời mọc:
- Đã là người nhà cả, mời Tần hiền đệ và vị huynh đài đây an tọa.
Nhương Thư giới thiệu danh tánh Hoàng Nghi Tuyệt với chủ nhà rồi cùng gã ngồi xuống. Chàng lấy thư của tri phủ Hà Nam trao cho Tây Môn Lan.
Trong bao thư có đến hai tờ hoa tiên. Nét mặt Tây Môn Lan biến đổi theo từng hàng chữ, bàn tay búp măng trắng trẻo run nhẹ.
Trong tờ thư thứ nhất có một đoạn đáng chú ý: "Thất muội! Ba năm trước, thái hậu du ngoạn Lạc Dương, làm mất vật yêu quý là con Hồng Anh Vũ. Ngu huynh may mắn tìm thấy nên được thái hậu ân thưởng hai ngàn lượng hoàng kim. Nay thấy hiền muội cảnh nhà thanh bạch, ngu huynh xin tặng một nửa, mong hiền muội nể mặt ta mà nhận cho!"
Tây Môn Lan đọc hết hai thư này, ngước lên nhìn Nhương Thư. Chàng trai họ Tần liền lấy ra một xấp ngân phiếu, cung kính đặt trước mặt nàng.
Tây Môn Lan thừa thông minh để hiểu số vàng này là của ai? Chị dâu của nàng, tức tri phủ phu nhân, là một người keo kiệt, đâu dễ gì chịu nhả cho em chồng khoản hoàng kim nhiều như vậy?
Và nếu Tây Môn Dạt thực sự có lòng thương em gái sao không chia từ mấy năm trước?
Nhưng của ai cũng mặc, Tây Môn Lan rất cần số vàng hợp pháp này. Chồng nàng cũng như người ngoài không thể đàm tiếu, dị nghị vì đã có phong thư làm bằng chứng. Anh cho em là chuyện thiên kinh địa nghĩa, dù ít khi xảy ra trường hợp mà số vàng lên đến cả ngàn lượng!
Bỗng nhiên Tây Môn Lan có cảm giác tri ân đối với Nhương Thư, kẻ đã giải thoát gia đình mình khỏi cảnh nghèo khó. Vì với số lương bổng nhỏ bé của quan Tổng Trấn, chắc chắn lúc về hưu, không dành dụm nổi trăm lượng bạc chứ đừng nói bạc ngàn.
Bổng lộc của quan lại triều đình rất thấp, do vậy, việc tham ô, nhũng nhiễu rất phổ biến. Ai cũng muốn vơ vét một mớ để dưỡng già. Trong mười vị quan, may ra chỉ một là thanh liêm.
Tri phủ Hà Nam, anh nàng, đã viết rất rõ yêu cầu của bọn Nhương Thư, là được tạm trú ít hôm để cứu người thân đang bị giam cầm trong Điền gia trang. Dinh Tổng Trấn thì rộng thênh thang, lại là cơ ngơi do triều đình cung cấp, Tây Môn Lan chẳng mất mát gì cả mà được ngàn lượng vàng, bảo sao nàng không cảm kích Nhương Thư?
Hơn nữa, Tổng Trấn phu nhân chẳng ưa gì quan tri phủ Sơn Đông lẫn thông gia của lão là Kỵ Ba Thần Quân! Hôm đám cưới con họ, nàng đã mất toi năm chục lượng bạc dù chẳng được ăn miếng nào. Nếu đến dự, nàng phải mừng trăm lượng, hết cả tiền chợ tháng ấy!
Ai cũng bảo "tiền tài như phấn thổ, nhân nghĩa tự thiên kim!" Nhưng thực ra, sự giàu sang đã tạo cho con người một ái lực! Người quân tử lãnh đạm với bọn phú quý song đàn bà lại chưa bao giờ được xem là quân tử. Vì thế, Tây Môn Lan chợt có ý định thân cận với Nhương Thư, nhất là khi chàng công tử giàu nứt đố đổ vách này lại hiền lành, nhân hậu chứ không kiêu ngạo như bọn trọc phú! Tây Môn Lan vui vẻ nói:
- Nay công tử đã là bái đệ của đại ca ta, thì hãy gọi ta là thất tỷ cho đúng lễ!
Nhương Thư vội vòng tay:
- Tiểu đệ xin tuân mệng thất tỷ!
Và chàng lấy ra một túi lụa nhỏ, kính cẩn nói:
- Đây là chút quà bái kiến của tiểu đệ, mong thất tỷ hạ cố thu nhận.
Tây Môn Lan hài lòng, bảo ả tỳ nữ đưa khách vào hậu viện tắm gội, nghĩ ngơi rồi chờ cơm trưa. Phần nàng mau mắn về khuê phòng giấu kỹ xấp ngân phiếu.
Khi đổ túi lụa ra xem thử, Tây Môn Lan chóng váng, tròn mắt nhìn hơn chục viên Lam Bảo Ngọc và Hồng Bảo Ngọc quý hơn vàng. Trị giá số châu báu vượt xa số vàng ngàn lượng. Nàng tin chắc rằng trong thành Tế Nam này không một nữ nhân nào có được loại ngọc xinh đẹp đến thế!
Lam Bảo Ngọc thì may ra con mụ tri phủ phu nhân còn có được, là sản phẩm của Trung Hoa. Nhưng những viên Hồng Bảo Ngọc đỏ như máu bồ câu này chỉ có ở Miến Điện và Xiêm La!
Tây Môn Lan bồi hồi nghĩ đến lúc mình đeo châu báu xuất hiện trước mặt lũ mệnh phụ kênh kệu trong thành! Cảm giác chiến thắng quả là tuyệt diệu!
Ngay buổi chiều Nhương Thư và Hoàng Nghi Tuyệt mang mặt nạ, đội tuyết tìm đến Thiền Vân ni viện ở gần cửa Nam thành, nơi tu hành của Hổ Hồng Nhan Điền Ngọc Trâm.
Ni viện nằm sâu trong khoảnh vườn đào u tịch, vắng vẻ, rất thích hợp với việc xa lánh bụi hồng trần.
Tuyết rơi mù mịt, hoa đào chưa nở, vậy mà quanh vườn thấp thoáng rất nhiều bóng khách nhàn du. Họ co ro trong áo choàng lông, đi qua đi lại cho đỡ lạnh, miệng lẩm bẩm liên hồi, chẳng phải là ngâm thơ vịnh tuyết mà là chửi cha mắng mẹ cái phiên gác gian khổ.
Trách nhiệm của một trăm tên bang chúng này là giữ kỹ vị ni cô pháp danh Vô Sắc cho đến lúc Điền trang chủ qua đời.
Khi Vô Sắc, tức Điền Ngọc Trâm về dự đám tang cha sẽ lọt vào tay Kỵ Ba Thần Quân. Lão chỉ cần nửa khắc để nhiếp hồn buộc Ngọc Trâm tự ý xin hoàn tục và trở lại thành con dâu của lão ta. Nhưng thế thì tại sao Thần Quân không giúp cho Điền Đông Giám chết sớm hơn, rồi dùng bản lãnh thần thông vào ni viện mà khống chế Ngọc Trâm?
Thành Võ Chiến cũng muốn như vậy nhưng không dám vì nhiều lý do. Thứ nhất, Điền trang chủ quan hệ rất rộng rãi, không phải chỉ ở đất Sơn Đông mà cả Bắc Kinh và các phủ lân cận. Thứ hai, không có loại thủ pháp hay dược độc nào giết người mà không để lại dấu vết. Nếu Hổ Hồng Nhan đòi mổ xác khám nghiệm thì Thần Quân sẽ nguy to. Do vậy lão quái đã phải dùng Nhiếp Hồn Thuật biến Điền Đông Giám thành một kẻ chán ăn. Không ăn thì sẽ chết và chẳng ai nghi ngờ hay buộc tội Thần Quân được cả.
Khi Điền trang chủ lâm bệnh, người trong họ đã mời các đại danh y đến chữa trị. Song nạn nhân vẫn lỳ lợm, không chịu nuốt bất cứ loại thực phẩm nào ngoại trừ nước lã. Người ta đành phải nấu sâm già cho lão uống cầm hơi. Sâm dù quý cách mấy cũng không thay được gạo, thịt, do đó, sớm muộn gì họ Điền cũng chết vì kiệt lực.
Còn việc đột nhập Thiền Vân ni viện thì Thần Quân chịu thua. Ngôi chùa nữ này có đến ba trăm mụ ni cô, đầu láng bóng như nhau, nửa đêm biết ai với ai mà mò. Vào ban ngày thì dễ bị lộ và rất nguy hiểm, vì ni viện này được sự đỡ đầu của chính hoàng thái hậu. Đây cũng là nơi mà vợ con các quan lại Tế Nam thường xuyên đến lễ phật.
Nhắc lại, Nhương Thư và Hoàng Nghi Tuyệt quan sát hồi lâu, nhận ra Thiền Vân ni viện được canh phòng cẩn mật, thất vọng quay về dinh Tổng Trấn.
Tối hôm ấy, Nhương Thư lộ vẻ buồn rầu, họ Hoàng liền nhắc nhở:
- Sao công tử không lấy túi gấm mà Ngọa Long Tú Sĩ đã trao lúc lên đường. Lão ta dặn rằng khi nào gặp khó khăn thì hãy mở cẩm nang ra.
Nhương Thư gượng cười:
- Tại hạ không quên, chỉ thẹn mình thiếu cơ trí, chưa bao giờ tự giải quyết được việc gì cả.
Hoàng Nghi Tuyệt vỗ vai chàng, cười khanh khách:
- Nhân vô thập toàn! Hà tất công tử phải ưu phiền vì khiếm khuyết nhỏ nhoi ấy? Vả lại, chẳng phải lòng nhân của công tử đã thu phục được trí tuệ của Lỗ Tú Sĩ đấy sao?
Nhương Thư hổ thẹn, mở bọc hành lý lấy túi gấm để xem diệu kế của Ngọa Long Tú Sĩ.
Chàng và Hoàng Nghi Tuyệt kề đầu đọc chung, lát sau nhìn nhau mỉm cười, dơ ngón cái khen ngợi tài thần cơ diệu đoán của Lỗ Đăng Hân. Lão ta đã đoán trước việc Thiền Vân ni viện bị phong tỏa và bày cho Nhương Thư kế sách xâm nhập đúng như câu "Ốc trung quyết sách, thắng ư thiên lý ngoại!" (Ở nhà liệu việc mà thắng xa ngàn dặm)
Hai người liền khăn áo chỉnh tề lên khách sảnh mời Tổng Trấn phu nhân đến thương lượng. Dĩ nhiên Tây Môn Lan vui vẻ đáp ứng, chẳng hể nghi ngại.
Hôm sau là rằm tháng chạp, Tổng Trấn phu nhân lên kiệu đi đến Thiền Vân ni viện để lễ phật. là vợ của quan nhị phẩm, Tây Môn Lan được dùng kiệu phủ sa hay lụa màu xanh. Trời hạ thì sa, trời đông thì lụa dầy. Trong kiệu còn có lồng than bằng đồng để sưởi ấm.
Ngoài hai gã phu khiêng kiệu, Tây Môn Lan còn mang theo mười gã vệ binh đeo đao tiền hô hậu ủng rất oai phong. Nhà nàng nghèo nhưng danh giá nhất nhì Sơn Đông này.
Mới giữa giờ Thìn nên Tây Môn Lan là tín đồ đến sớm nhất, khiến bọn bang chúng Sơn Hải Bang mai phục bên ngoài ni viện phải ngạc nhiên, song chẳng chút nghi ngờ. Đương nhiên chúng không dám chận đường để hỏi han.
Cửa chùa đã rộng mở và bên trong sân gạch phía trước có hơn chục nữ ni đang quét tuyết chuẩn bị đón khách thập phương.
Một ni sư tuổi trung niên đon đã chào hỏi:
- A di đà phật! Sao hôm nay nữ thí chủ đến sớm hơn mọi rằm khác vậy?
Tây Môn Lan vén màn kiệu, vui vẻ đáp:
- Đêm qua đệ tử có giấc mơ lạ nên đến sớm để thỉnh giáo Thần Ni.
Vị ni cô kia cười bảo:
- Sư phụ đang đi quyền ở hậu tự, Tây Môn thí chủ cứ thẳng vào mà bái kiến.
Tây Môn Lan gật đầu, dặn bọn vệ binh ở lại sân trước rồi ra lệnh cho phu kiệu đưa mình đi tiếp. Qua khỏi Quan Âm Bảo Điện là đến vườn hoa nhỏ nằm giữa ba dãy Thiền Đường. Sau lưng Thiền Đường mới là tăng xá của các nữ ni.
Trụ trì ni tự này có pháp hiệu Thiền Vân khỏe mạnh, minh mẫn. Người ta đồn rằng Thần Ni rất giỏi võ, song chưa ai thấy bà xuất thủ bao giờ.
Thần ni noi gương Thiếu Lâm Tự, dạy khí công và võ nghệ cho các ni cô, song chỉ dạy quyền cước chứ không dạy kiếm thuật.
Thấy cỗ kiệu quen thuộc dừng cạnh sân gạch, Thần Ni bỏ dở pho quyền, bước vào ngồi trong tòa tiểu đình bát giác gần đấy.
Tây Môn Lan đã xuống kiệu, tất tả đi đến tiểu đình, cung kính đảnh lễ trước thềm. Thần Ni thấy mến vị phu nhân nghèo mà mộ đạo này nên hiền hòa bảo:
- Đã là chỗ quen biết, sao thí chủ lại phải đa lễ như vậy? xin mời vào dùng với lão ni chén trà cho ấm.
Tây Môn Lan khép nép ngồi xuống chiếc đôn sứ cạnh bàn đá, nhấp hớp trà thơm nóng bỏng.
Thần Ni nhìn khách chăm chú rồi nói:
- Phải chăng thí chủ có việc quan trọng muốn bàn với lão ni?
Tây Môn Lan ngượng ngập gật đầu:
- Bẩm phương trượng! Hôm nay đệ tử đến đây vì việc của ni sư Vô Sắc. Đệ tử nghe nói Kỵ Ba Thần Quân đã ám hại Điền trang chủ và sẽ hạ thủ luôn Vô Sắc để đoạt gia sản.
Thiền Vân Thần Ni bình thản đáp:
- Vô Sắc đã là người nương thân cửa phật, không màn đến của cải, còn sự an toàn của nó đã có bần ni lo liệu. Thí chủ bất tất phải quan tâm.
Tây Môn Lan nóng mặt cười nhạt:
- Phật tổ cũng dạy chúng sinh phải hiếu để, lẽ nào con thấy cha sắp chết mà không cứu?
Thần Ni cau mày:
- Điền lão thí chủ lâm trọng bệnh, các danh y còn bó tay thì Vô Sắc làm gì được?
Tây Môn Lan nghiêm giọng:
- Điền trang chủ bị Thần Quân dùng thuật Nhiếp Hồn ám hại mà bỏ ăn đến chết chứ chẳng bệnh hoạn gì cả. Đệ tử cam đoan cứu được Điền lão, chỉ cần sự hợp tác của Thần Ni mà thôi.
Thiền Vân lưỡng lự:
- Thôi được, lão ni sẽ gọi Vô Sắc ra đây xem ý nó thế nào
Bà quay sang bảo nữ ni hầu trà:
- Tiểu Tĩnh! Con mau gọi Vô Sắc sư tỷ đến đây.
Lát sau, Tiểu Tĩnh đưa một ni cô có thân hình thon gầy, dung mạo xinh đẹp nhưng đầy nét bi ai, ra đến tiểu đình.
- Vì sao phu nhân lại biết rõ nội tình Sơn Hải Bang mà đứng ra can thiệp?
Tây Môn Lan mỉm cười:
- Đệ tử có một gã nghĩa đệ từ lâu thầm thương trộm nhớ Hổ Hồng Nhan. Y muốn làm rể họ Điền nên ra sức lập công, cứu cho được cha vợ.
Vô Sắc chính thị con cọp cái xinh đẹp đất Tế Nam nên tính nóng như lửa vẫn còn. Nàng giận dữ nạt:
- Mụ chớ nói càn! ta không nhịn nữa đâu nhé.
Tây Môn Lan che miệng cười khanh khách:
- Ối chà! Kẻ tu hành sao lại hung dữ đến thế? Sau này ta phải bảo nghĩa đệ dạy dỗ lại mới được.
Rồi nàng dơ tay vẫy hai gã phu kiệu, họ vội rảo bước đến ngay.
Thiền Vân Thần Ni dù có định lực thâm hậu cũng không chịu nổi cảnh này, liền gằn giọng:
- Thí chủ đừng ỷ mình là Tổng Trấn phu nhân mà tự tung tự tác. Lão ni sẽ tấu lại với hoàng thái hậu đấy.
Tây Môn Lan xua tay, ra hiệu cho bà im lặng. Thần Ni ngơ ngác nhìn đệ tử yêu thét lên khi một gã lính khiêng kiệu lột nón ra:
- Tần tướng công!
Và nàng lảo đảo như sắp ngất xỉu. Thiền Vân Thần Ni vướng bàn đá nên không sao ra được để đỡ, nhưng gã họ Tần kia đã bay vút đến, ôm gọn thân hình ẻo lả của Vô Sắc và xoa bóp quanh gáy để cứu tỉnh.
Vô Sắc mở mắt ra, ôm chặc họ Tần mà khóc lóc kể lể:
- Tướng công ơi! Hai năm nay lòng thiếp chẳng lúc nào nguôi phiền muộn vì hối hận và nhung nhớ. Khi nghe tin chàng chết chỉ muốn tự sát cho xong.
Nhương Thư ngượng ngùng trước ánh mắt ngỡ ngàng của vị lão ni, liền bịt miệng Hổ Hồng Nhan và dịu dàng nói:
- Ta may mắn thoát chết, trở về đây rước nàng và cứu nhạc phụ. Ngôi chính thất vẫn mãi là của nàng.
Ngọc Trâm thẹn thùng nói:
- Thiếp mặt mũi nào mà tranh giành ngôi thứ với Thúy Sơn?
Té ra dù không ra khỏi ni viện nhưng Ngọc Trâm cũng am tường chuyện giang hồ, biết cả việc Thúy Sơn là gái giả trai. Có lẽ đám nhà bếp tình cờ đi chợ nên nghe ngóng được.
Ngọc Trâm không để ý đến nét mặt kỳ quái của Nhương Thư, quay sang giới thiệu tình quân với Thần Ni:
- Sư phụ! Chàng chính là trượng phu của đồ nhi từ cỏi chết trở về.
Thiền Vân Thần Ni ngán ngẩm, tiếc công dạy dỗ con cọp cái đa tình kia! Thân đang là ni cô mà thản nhiên ôm ấp nam nhân trước mặt trụ trì thì còn tu hành chi nữa.
Bà chưa kịp nổi giận thì Nhương Thư đã quỳ xuống đảnh lễ:
- Đệ tử Phật Quang Tự, Ngũ Đài Sơn, xin ra mắt Thần Ni.
Thiền Vân chấn động hỏi lại:
- Thí chủ là đệ tử của vị thần tăng nào vậy?
Nhương Thư cung kính đáp:
- Bẩm Thần Ni! Tiên Sư là Phật Đăng Thượng Nhân, lúc sinh tiền vẫn thường nhắc đến Thần Ni.
Thiền Vân hoan hỉ nói:
- Thiện tai! Thiện tai! Té ra thí chủ là truyền nhân của Phật Đăng sư huynh! Theo vai vế ngươi hãy gọi ta là sư thúc.
Vài khắc sau, khi khách thập phương đến đông thì kiệu của Tổng Trấn phu nhân cũng rời ni viện. Bước chân hai gã kiệu phu vẫn bình thường khiến không ai có thể nghi ngờ rằng trong kiệu có đến hai người ngồi. Với công lực của Nhương Thư và Hoàng Nghi Tuyệt thì dẫu khiêng ngàn cân cũng vẫn nhẹ nhàng.
Chiều mười sáu, dinh Tổng Trấn có thêm vài vị khách. Họ mặc y phục võ quan, chừng như là thủ hạ của Tổng Trấn mang thư về thăm nhà.
Bốn người này chính là Ngọa Long Tú Sĩ, Dương Châu Thần Thâu, Đoan Mộc Anh và Triều Châu Thần Y.
Nhương Thư giới thiệu Điền Ngọc Trâm với những người mới đến, bắt Đoan Mộc Anh gọi nàng bằng đại thư. Anh nhi không chịu, trợn mắt nói:
- Tiểu muội đến trước phải làm chị, sao làm em được?
Nhương Thư liền nhỏ nhẹ giải thích rằng Ngọc Trâm là chị cả của bọn Mã Lan, tuổi tác hơn cả Anh nhi rắt nhiều.
Đoan Mộc Anh không tin, hờn dỗi nói:
- Đại ca lừa tiểu muội ư? Y thị không có lông thì làm sao lớn hơn được Anh nhi?
Cô gái rừng rú này mới học tiếng Bắc Kinh chẳng bao lâu nên dùng chữ mao thay cho chữ phát, khiến Tổng Trấn phu nhân Tây Môn Lan phá lên cười nắc nẻ, còn đám nam nhân chỉ dám nhếch mép.
Hổ Hồng Nhan biết phận hàng thần, cố nén cơn giận dữ, cúi gầm mặt xuống đất trông rất đáng thương. Nhương Thư thấy gia sự rối ren, vừa buồn vừa xấu hổ cho cái tính đa mang của mình, liền đứng lên đi về phòng.
Anh nhi mang bản chất hoang sơ tinh tuyền, tuy ngoài miệng nhận vợ chồng nhưng trong lòng vẫn xem Nhương Thư như người cha. Nay thấy chàng buồn vì mình, Anh nhi sợ hãi, hối hận, rời ghế lao vút theo chặn đường, ôm chân Nhương Thư mà khóc:
- Anh nhi đã biết lỗi, đại ca hãy đánh đòn tiểu muội chứ đừng buồn rầu nữa! Từ nay Anh nhi chẳng bao giờ dám cãi lời đại ca, dù có phải gọi ả không lông kia là bà nội cũng chẳng sao!
Nàng dùng tiếng Hồ Nam, gợi cho Nhương Thư nhớ đến mẫu thân. Chàng bùi ngùi đỡ Đoan Mộc Anh lên vỗ về:
- Ta rất yêu thương Anh muội, đâu nỡ đánh đòn.
Anh nhi sung sướng cười khì, quay lại gọi Ngọc Trâm là đại thư, ngồi xuống bên cạnh, dáng điệu rất ân cần, trìu mến.
Nhương Thư hài lòng, về ghế cùng mọi người bàn bạc kế sách cứu Điền trang chủ và bọn Bất Trí Thư Sinh. Tổng số tù nhân lên đến tám người nên công việc không hề dễ dàng chút nào cả.
Ngọa Long Tú Sĩ yêu cầu Ngọc Trâm vẽ lại sơ đồ nhà cửa trong Điền gia trang. Ông xem kỹ, trầm ngâm suy nghĩ, vầng trán rộng và gương mặt sáng láng toát ra vẻ thông thái, cương nghị.
Nhương Thư ngắm lão lòng đầy cảm giác kính phục và yêu mến. Trí tiệu của Lỗ Tú Sĩ hữu dụng hơn hẳn bản lãnh võ công của chàng.
Lỗ Đăng Hân bỗng hỏi:
- Dinh tri phủ nằm cách Điền gia trang bao xa?
Tây Môn Lan là vợ võ tướng, bản thân cũng biết chút đỉnh võ nghệ nên rất thích thú chuyện giang hồ. Nàng thực sự bị cuộc phiêu lưu của bọn Nhương Thư mê hoặc, chẳng còn nghĩ đến hậu quả. Tây Môn Lan hồ hởi ứng tiếng ngay:
- Dinh tri phủ ở mé Tây thành, cách Điền gia trang chỉ độ hơn dặm. Phải chăng Lỗ túc hạ sợ lão Quách Tốn cho quân đến tiếp viện thông gia?
Lỗ Đăng Hân mỉm cười lắc đầu:
- Không phải sợ mà là mong cho họ đến thật đúng lúc. Tháng này có hai người mười tám và mười chín. Đúng là trời đã giúp ta.
Lão bèn trình bày kế sách khiến cả nhà phải phục lăn. Ngay nửa đêm, Dương Châu Thần Thâu lập tức lên đường . Đối với một tay đạo chích thượng thừa như Bạch Túc Nhiên thì việc đột nhập Điền gia trang là điều khả thi, nhưng gã không thể cứu người ra và cũng chẳng được giao nhiệm vụ ấy.
Trong mùa đông, chẳng phải ngày nào tuyết cũng rơi mù mịt, mà đôi khi trở trời, chỉ lất phất vài hạt, hoặc hoàn toàn không. Nhưng kẻ tiên đoán được thời điểm ấy thì phải có tài thông thiên triệt địa cỡ Gia Cát Lượng.
Lỗ Đăng Hân đã không làm hổ thẹn cái thanh danh Ngọa Long Tú Sĩ, sáng mười tám tuyết ngưng rơi cho đến tận nửa đêm mười chín vẫn chưa có.
Và đúng giữa canh ba, một loạt những công trình phía sau Điền gia trang đột nhiên phát hỏa, cả nhà bếp, nhà kho, nhà tù đều bốc cháy.
Ngọn lửa xuất phát từ nhà kho, nơi chứa ngũ cốc và một lượng dầu mỡ thắp đèn rất lớn.
Biết có kẻ phá hoại, Kỵ Ba Thần Quân ra lệnh chữa cháy và phòng vệ thật cẩn mật. Nơi đầu tiên lão quan tâm là tòa nhà gạch kiên có đang nhốt bọn Bất Trí Thư Sinh.
Lão kinh ngạc khi thấy cửa chính vẫn còn ổ khóa lủng lẳng và bọn canh gác cũng xác nhận tù nhân chưa hề thoát ra. Lửa bốc lên từ bên trong, sức cháy rất dữ dội vì có một lớp rơm dầy cho tù nằm.
Thành Võ Chiến ngơ ngẩn nhủ thầm:
- Chẳng lẽ họ Cao quẫn trí nên tự thiêu cả bọn? Hay hung thủ không cùng phe với tù nhân?
Lửa đã lan sang hai công trình bằng gỗ khác. Thần Quân đành gạt bỏ nghi vấn lao về hướng ấy.
Tình thân gia mặn nồng nên Quách tri phủ cùng em trai đã thống lãnh quân sĩ đến Điền gia trang giúp đỡ. Chàng ngốc Quách Lang Sinh ế vợ đã lâu, nay lấy được tiên nữ nên hết lòng tri ân cha vợ, hăng hái đốc thúc quân lính chữa cháy.
Quân sĩ triều đình ngày xưa thường kiêm luôn việc cứu hỏa mỗi lúc doanh trại, công đường bị cháy. Do vậy, họ có đầy đủ dụng cụ, hành sự rất hiệu quả.
Đám cháy được dập tắt, Thần Quân ngỏ lời cảm tạ cha con họ Quách. Ân nhân rút cả, Thành Võ Chiến sực nhớ đến nhà tù, liền sai thủ hạ tưới nguội căn nhà đã sập, bới ra tìm hiểu sự thực.
Khi phát hiện không có xác chết nào cả, Thần Quân giật bắn mình, lao về nơi Điền Đông Giám đang dưỡng bệnh.
Biểu đệ của võ lâm Mạnh Thường Quân là Điền Đông Tạo, run rẫy nói:
- Bẩm Thành lão gia! Lúc nẫy có mấy gã quân triều đình vào đây mang theo một bộ y phục binh sĩ. Lạ thay, Điền biểu huynh mở mắt nhổm dậy, mặc vào và đi theo họ, y như không hề mắc bệnh vậy. Biểu huynh còn nhờ lão phu nhắn lại rằng: Thành lão gia khôn hồn thì hãy đi khỏi Điền gia trang, bằng không thì sẽ rơi đầu trước công đường đấy.
Kỵ Ba Thần Quân rụng rời chân tay, hiểu rằng chỗ đứng ở Tế Nam đang lung lay. Điền Đông Giám có hậu thuẫn của vài đại thần ở Bắc Kinh sẽ dễ dàng khép tội Sơn Hải Bang. Thành Võ Chiến quyết tìm cho được họ Điền để cứu vãn tình hình.
Lão cho thủ hạ điều tra bốn cửa thành, được biết rằng có một cỗ xe và toán kỵ binh ra khỏi cửa Tây lúc cuối canh tư, ngay khi cửa thành vừa mở.
Dù đã trễ một canh giờ nhưng Thần Quân vẫn quyết định truy đuổi. Lão mang theo mười gã đệ tử chân truyền, Đài Loan Tứ Ngư Ông và năm mươi tay đao thiện chiến nhất. Xe chở bệnh nhân, là Điền Đông Giám, tất không thể chạy nhanh được, Thần Quân tự tin sẽ bắt kịp.
Thành Võ Chiến không hề nghĩ đến việc đối phương dụ mình vào trận mai phục vì lão chẳng biết việc năm phái đã thoát vòng cương tỏa. Thiết Thủ Cái vẫn gửi thư điều đặn, khẳng định thế chủ động của Sơn Hải Bang, chỉ cần các toán sát thủ ám hại được minh chủ võ lâm Tần Nhật Phủ là xong.
Dọc đường, Kỵ Ba Thần Quân còn được bọn đệ tử Cái Bang sốt sắng chỉ dẫn đường đào tẩu của cỗ xe song mã và đám kỵ binh. Từ lâu nay, phân đà Sơn Đông đã nghe lệnh Thiết Thủ Cái tận tụy phục vụ Thần Quân. Có điều, giờ đây tình thế đã đảo ngược khi Vô Ưu Cái hồi phục.
Đúng như tính toán của Ngọa Long Tú Sĩ, họ bị Thần Quân bắt kịp dưới chân đèo Cù Vân. Tuy hơi chột dạ trước địa hình hiểm ác của ngọn đèo, song Thành Võ Chiến lại tự trấn an rằng Tần Nhật Phủ đơn thương độc mã, không được năm phái hỗ trợ, chẳng có người để mai phục.
Hơn nữa, trừ khi phục binh đông đến vài trăm và gồm toàn những tay kiên dũng thì mới đáng sợ, bằng như ô hợp thì lão và đám thủ hạ tinh nhuệ thừa sức đánh tan.
Đã có chủ ý, Thần Quân vẫn tiếp tục đuổi theo, đưa đoàn nhân mã lên đèo. Lão đến đuợc đỉnh thì nhìn thấy cỗ xe song mã và mười gã kỵ binh kia dưới lưng chừng đèo, chỉ cách độ hơn dặm.
Họ Thành mừng rỡ ra roi phi xuống, nào ngờ, hàng cây cổ thụ bên đường lần lượt ngã xuống, dầu có phóng qua cây trước cũng vẫn vướng cây sau. Cùng lúc ấy, hàng trăm tảng đá to lớn từ sườn núi lăn xuống, gây ra những tiếng động khủng khiếp như địa chấn. Thần Quân kinh hoàng hiểu rằng phe đối phương đông đến mấy trăm vì phải hai ba người mới xô nổi tảng đá to lớn như thế.
Người ngựa đang bị dồn cục trước những thân cây, đường đèo lại hẹp, không có chỗ cho ngựa xoay trở. Thế là thảm họa ập xuống đầu bọn hải tặc.
Khi viên đá cuối cùng rơi xuống vực thẳm, khói bụi lắng hết, Thần Quân mới phát hiện ra chỉ còn mình và Đài Loan Tứ Ngư Ông sống sót. Họ giỏi khinh công nên mới thoát chết trước trận lở núi này.
Song chưa hết, trên sườn núi vọng xuống tiếng cười ngạo nghễ, quen thuộc của Vô Ưu Cái và tiếng niệm phật trầm hùng của Khánh Hỉ đại sư. Kỵ Ba Thần Quân biết mình đã trúng kế, giận dữ gầm vang:
- Hầu Mộ Thiên! Ngươi tưởng có thể hại đưọc bổn Thần Quân ư? Đừng hòng!
Dứt lời, lão cùng Đài Loan Tứ Ngư Ông xông ngược về phía đỉnh đèo, cố mở đường máu thoát thân. Cả năm người đều mặc bảo y da cá nên không sợ gươm đao.
Nhưng toán cao thủ trấn giữ đỉnh đèo đã đón tiếp Thần Quân bằng những viên hỏa đạn. Tay trái bị cụt không ảnh hưởng nhiều đến công lực và bản lãnh của họ Thành. Lão múa tít bảo đao che thân, đánh bạt những viên bi vàng óng khiến chúng phát hỏa, lửa bay loạn xạ song không thể dính vào người Thần Quân.
Tuy nhiên trong khung cảnh ồn ào, náo loạn ấy, Thành Võ Chiến chẳng nhận ra một tiếng cạch khô khan phía sau lưng, tức là trước mặt Đài Loan Tứ Ngư Ông.
Khi bốn lão đồng thanh rú lên:
- Bang chủ nhảy mau!
Thì cũng là lúc trái Bạt Sơn Thần Lựu cuối cùng phát nổ. Kỵ Ba Thần Quân đã kịp đề khí tung mình về phía trước, nhưng hơi muộn nên máu tươi hộc ra thành vòi, da thịt ở mông và hai chân nát bấy.
Dẫu thế, Thần Lựu lại thổi thân hình Thành Võ Chiến, cộng với đà nhảy, đưa lão văng xa đến năm trượng, vượt qua đầu phòng tuyến đỉnh đèo. Lão cố nén đau dồn tàn lực mà đào tẩu.
Có ba bóng người đã đuổi theo, quyết không lưu lại tai họa cho võ lâm. Đó là Nhương Thư, Hoàng Nghi Tuyệt và Đoan Mộc Anh. Giờ đây mọi người mới biết cô gái sơn dã kia đã có tốc độ của loài báo.
Chạy được vài dặm, Thần Quân biết mình khó thoát vì hai chân đau đớn, máu tuôn xối xả, liền dừng bước để đổi mạng với đối phương.
Bọn Nhương Thư chia thế tam giác vây lão cướp biển già vào giữa, lão ta ngạc nhiên khi không thấy Tần Nhật Phủ. Lão yên tâm đôi chút, vung đao tấn công con bé có nước da đen đúa, nhưng hai gã nam nhân kia đã xông vào.
Vô Ưu Cái không lầm khi nhận ra xét rằng Kỵ Ba Thần Quân lợi hại hơn Âm Sơn Lão Tổ. Ngoài việc mang bảo giáp, đao pháp của lão đã đến mức thượng thừa, so với Đao Đế chưa chắc đã thua.
Một mình chống ba, thân lại thọ trọng thương, thế mà Thành Võ Chiến vẫn ngoan cường tả xung hữu đột, hung hãn như hổ cùng đường.
Đánh lâu sợ rằng Đoan Mộc Anh sơ xuất, Nhương Thư liền nhân lúc lão quay lưng đón chiêu đao của Hoàng Nghi Tuyệt, xạ liền một đạo chỉ phong dũng mãnh vào hậu chẩn đối phương.
Do không biết chàng trai lạ mặt kia là Tần Nhật Phủ nên Thần Quân hoàn toàn chẳng nghĩ đến việc kẻ địch có thể chạm đến mình từ khoảng cách hơn trượng.
Chỉ kình không xuyên thủng nổi xương đầu cứng rắn nhưng cũng làm cho họ Thành choáng váng, đau đớn, mắt mờ đi. Hoàng Nghi Tuyệt không hề bỏ lỡ cơ hội, chặt phăng thủ cấp kẻ thù, khiến Kỵ Ba Thần Quân chết mà không hiểu tại sao.
Đài Loan Tứ Ngư Ông cũng bị các chưởng môn và lực lượng đông đảo phe chính phái hạ sát. Chiến thắng trọn vẹn này khiến quần hùng phấn khởi, reo hò vang dội.
Vô Ưu Cái cười khanh khách, vỗ vai Ngọa Long Tú Sĩ mà khen ngợi:
- Công đầu thuộc về ngươi đấy. Cái kế nhỏ kia quả là tuyệt diệu, thu hoạch đến bất ngờ.
Mọi người cũng xúm vào tán dương khiến Lỗ Đăng Hân cao hứng phi thường. Lão vòng tay nói vài câu khiêm tốn rồi thì thầm vào tai Vô Ưu Cái, Hầu Mộ Thiên gật đầu, cao giọng ra lệnh:
- Yếu quyết của binh pháp là hư thực khó lường. Do vậy, chúng ta sẽ dọn dẹp chiến trường thật sạch, không được để lại bất cứ dấu vết nào.
Nam sáu trăm người cùng hành động nên công việc hoàn thành rất chóng vánh. Xác người ngựa bị ném cả xuống vực thẳm cạnh đèo, máu trên đường cũng được xúc đi.
Không một khách lữ hành nào được chứng kiến trận chiến, vì trước đó, xa xa đã cắm biển gỗ mang dòng chữ:"Đèo có hổ dữ, cấm đi qua!"
Thế là bách tính phải rẽ qua đường khác.
Đoàn người về đến Lạc Dương thì đã là ngày mùng bốn tết nguyên đán, và nhận được tin quan tri phủ Sơn Đông Quách Tốn bị triều đình thuyên chuyển về Phúc Kiến.
Sau đó, Sơn Hải Bang tan rã vì không thấy Kỵ Ba Thần Quân cùng toán viễn chinh trở lại, và người đỡ đầu là Quách tri phủ bị đổi đi. Cơ ngơi Điền gia trang hiện đang được chú họ Hổ Hồng Nhan là Điền Đông Tạo quản lý. Số tù binh trúng Nhiếp Hồn Thuật lập tức được phân đà Cái Bang Tế Nam đưa về Lạc Dương để điều trị.
Dù Nhương Thư hết lòng tôn kính, võ lâm Mạnh Thường Quân vẫn vô cùng hổ thẹn, cương quyết xuất gia tại chùa Thiếu Lâm, giao hết cơ nghiệp cho rể và con gái.
Khánh Hỉ đại sư vì nể mặt Nhương Thư mà nhận Điền Đông Giám làm đệ tử, trở thành cao tăng đời thứ hai chứ không đến nỗi đứng hạng bét cùng với đám chú tiểu mới nhập môn.
Việc bứng Quách Tốn đi khỏi Sơn Đông chính là một bước trong kế hoạch của Ngọa Long Tú Sĩ, đề phòng trường hợp Kỵ Ba Thần Quân không đuổi theo hoặc không rơi vào bẫy mai phục ở đèo Cù Vân.
Chim câu đã mang thư của Nhương Thư, tức Tần Nhật Phủ đến Bắc Kinh, nhờ quan Tả Đô Ngự Sử họ Lâm ở Đông Xưởng, đút lót bộ Lại, hoán chuyển tri phủ hai địa phương Sơn Đông và Phúc Kiến.
Thời gian thấm thoát qua mau, chẳng mấy chốc đã đến rằm tháng hai, tổng đàn võ lâm ở chân núi Thiếu Thất, thuộc rặng Tung sơn đã được xây xong trước đây nửa tháng.
Công trình này tuy đơn giản nhưng rất đồ sộ và kiên cố, toát ra vẻ uy nghiêm lẫm liệt, xứng đáng là cơ quan quyền lực cao cả nhất võ lâm.
Dù khuôn viên mở rộng gấp đôi lúc trước nhưng những cây tùng già nua vẫn được giữ lại để che chở cho thảm cỏ xanh mượt mà. Chúng không hề che lấp tòa võ lâm đại sảnh ba tầng sừng sững, xây theo hình tháp trên nhỏ dưới to.
Tầng trệt rộng mênh mông có thể chứa cả ngàn người, bốn vách trổ cửa rất lớn, khi mở toang gần như không hề ngăn cách với sân gạch ở ba cạnh Nam, Tây, Đông, tăng khả năng hội họp lên gấp vài lần.
Hai tầng trên nhỏ hơn nhiều, là chỗ cư trú của minh chủ và gia quyến. Nhiệm kỳ tính theo tuổi thọ hoặc sức khỏe của minh chủ nên có thể Nhương Thư sẽ ở đây ba bốn chục năm hay hơn nữa.
Không phải chỉ đại sảnh là được lát nền, ốp tường bằng đá cẩm thạch Đại Lý mà tất cả những công trình khác cũng vậy.
Hai trăm cao thủ các phái làm nhiệm vụ ở tổng đàn sẽ được bố trí trong những dãy nhà khang trang, sạch sẽ, được xây bằng cùng một loại vật liệu với đại sảnh.
Dĩ nhiên không thể thiếu vườn hoa với đầy đủ giả sơn, thủy tạ, suối khe, hoa cỏ. Tóm lại, gần nửa vạn hào kiệt giang hồ mặc sức suýt xoa, trầm trồ tán dương thánh địa của võ lâm.
Tiếng reo hò như sấm động khi mọi người được biết Tần Nhật Phủ là Tần Nhương Thư và hôm nay chính là ngày đại hỉ của chàng.
Ngộ biến tùng quyền, Vô Ưu Cái chỉ dọc tên cô dâu chứ không ai dám ló mặt ra. Một ả thì trọc đầu, ba ả mang bầu, ả chết, ả thất tung, chẳng lẽ đưa ra con mọi đen Đoan Mộc Anh ra chọc cười thiên hạ? Người giang hồ rất phóng khoáng nên chấp nhận tuốt, nâng chén chúc mừng lia lịa, ai nấy say mèm.
Hội đồng võ lâm cũng có thông báo qua tình hình, giúp mọi người hiểu rõ cục diện, cảnh giác đề phòng sự tái xuất của Báo Ứng Hội, Tứ Phạn Thiên Cung và Âu Sơn Giáo. Hoàng Nghi Tuyệt được chọn làm Võ Lâm Chưởng Kỳ Sứ, có thể thay mặt Nhương Thư giải quyết mọi việc tranh chấp trên giang hồ. Ngọa Long Tú Sĩ, Bất Trí Thư Sinh và Triều Châu Thần Y được phong làm Võ Lâm Khách Khanh, cố vấn cho minh chủ.
Thiết Kình Ngư, Dạ Quân Tử làm Chấp Pháp Sứ Giả, còn Lô Châu Ngũ Tặc làm Cận vệ, mỗi đội bốc chục người.
Mục Tử Lương, con trai Tỏa Hầu thì phụ trách hỏa xưởng chuyên chế tạo vũ khí. Gã rất hài lòng vì chính Tạ Thần Y cũng chỉ đảm nhiệm nghiên cứu thuốc trị thương và thuốc giải độc.
Kẻ có công lao với võ lâm đều được tưởng thưởng xứng đáng, quần hùng vui vẻ ra về, vững tin sự trường tồn của chính khí võ lâm. Đương nhiên họ hết lòng ca tụng minh chủ Tần Nhương Thư, kẻ đã nhiều lần chết đi sống lại để tiêu diệt tà ma.

Hồi 19

Long Đàm TầmNghĩa Phụ
Cựu Địa Ngộ Thê Nhi

Nhưng sóng gió giang hồ nào chịu sớm lặng yên! Gần giữa tháng ba, Vô Ưu Cái đột ngột đến tổng đàn võ lâm cùng Nhương Thư, Nghi Tuyệt và đám nam nhân bàn bạc rất lâu, bọn đàn bà không đưọc tham dự.
Nửa đêm, Nhương Thư lên lầu bảo Ngọc Trâm thu xếp hành lý cho mình. Chàng phải đi ngay đến Tây Sơn vì Ải Thần Quân gặp kẻ thù cũ là Hằng Sơn Song Lão. Thần Quân biết mình không thể địch lại nên đã nhờ đệ tử Cái Bang gởi thư cầu cứu Nhương Thư!
Việc nghĩa chẳng thể đừng nên các nàng không dám cản trở, chỉ dặn dò chàng bảo trọng. Ai cũng bùi ngùi chỉ mình Đoan Mộc Anh khô lệ, chẳng nói năng gì.
Vô Ưu Cái và Tạ Thần Y đã khởi hànhh hồi chiều nên Nhương Thư một mình ra đi. Gần sáng, chàng mang mặt nạ rồi mới lên đường. Trong dung mạo một hán tử trung niên mặt mũi tầm thường, chàng chẳng sợ ai nhận ra mình.
Tháng ba là lúc xuân về đến vùng Hoa Bắc. Dọc đường, hoa dại lác đác nở, rừng cây đâm chồi nẩy lộc vì trút bỏ được lớp áo tuyết lạnh lùng.
Cảnh vật mùa xuân tươi thắm không làm ánh mắt Nhương Thư bớt nặng trĩu âu lo. Thực ra, Ải Thần Quân đã bị Hằng Sơn Song Lão bắt giữ ở trên núi Càn Sơn, căn cứ của Tứ Phạn Thiên Cung.
Tại sao Song Lão lại từ vùng cực Bắc Sơn Tây đến Thái Nguyên bắt Ải Thần Quân rồi đưa về tận Càn Sơn? Phải chăng họ đã được Âu Dương Lăng mang vàng đến dâng tặng, mời hai vị thần núi Bắc Nhạc về hỗ trợ?
Khó mà hiểu được, vì trong bức thư gởi đến tổng đàn Cái Bang chỉ viết mơ hồ: "Ải Thần Quân Tần Nhật Phủ hiện bị giam ở Càn Sơn, ai muốn gặp xin cứ đến!"
Cuối thư thự danh là: "Hai người già đất Hỗn Nguyên."
Hỗn Nguyên chính là nơi ngọn Hằng Sơn tọa lạc, nên Vô Ưu Cái và Ngọa Long Tú Sĩ đã đoán ra Hằng Sơn Song Lão! Hai vị thần núi này tuổi độ tám chục, ba mươi mấy năm trước từng bị Ải Thần Quân đả thương. Nay có lẽ họ luyện thành thần công tuyệt thế gì đó nên mới bắt sống được Tần lão. Vả lại, Ải Thần Quân đã san sẻ cho Nhương Thư mười năm tu vi nên yếu đi.
Lời lẽ mơ hồ là để tránh trách nhiệm sau này, nhưng vật chứng thì rất thực. Đấy là bộ dao mổ mà Thần Quân mang từ Ba Tư về.
Lỗ Tú Sĩ khẳng định việc này có liên quan đến Âu Dương Lăng, vì ngoài gã và đám đệ tử Tứ Phạn Thiên Cung, không ai có thể vượt cánh rừng Mông Hãn Hoa, mang Thần Quân đến Càn Sơn.
Và ngược lại, người duy nhất khả dĩ cứu được Thần Quân là Tần Nhương Thư. Cái bẫy này dành riêng cho chính chàng!
Tuy biết thế nhưng Nhương Thư vẫn dấn thân vào hiểm địa, bằng mọi giá phải cứu cho được cha nuôi.!
Trước khi đến Thái Thất Sơn báo tin, Vô Ưu Cái đã sớm điều cao thủ ở phái Hoa Sơn và Cái Bang tập trung ở bờ Nam Hoàng Hà. Họ sẽ dùng thuyền con vượt sang bờ Bắc, hỗ trợ Nhương Thư. Nhưng khổ thay, họ không thể theo chàng vào tận Càn Sơn, chỉ ở bìa rừng, chờ chàng mang Ải Thần Quân ra, chặn đánh truy binh thế thôi!
Chiều mười sáu, Nhương Thư có mặt ở bờ sông, Hầu bang chủ và Ngọc Tâm Tử đã hiện diện.
Họ Hầu nghiêm nghị dặn dò Nhương Thư lần cuối, trước khi chàng lên thuyền vượt sông:
- Tần hiền đệ! Ải Thần Quân tuổi đã gần trăm, nếu có chết thì cũng chẳng oan ức gì nữa! Nay ngươi đang nắm vận mệnh võ lâm, không được cưỡng cầu mà tính mạng lâm nguy, phụ lòng tin của mọi người.
Nhương Thư vâng dạ, hứa sẽ bảo trọng, song lòng chàng nghĩ sao thì chẳng ai hiểu được.
Xẩm tối, gần trăm chiếc thuyền con cỡi luồng sóng dữ sông Hoàng Hà mà sang bờ Bắc. Nước chảy xiết nên họ phải chèo cật lực, thả chéo từ một vị trí xa hơn dặm, chứ chẳng thể nào cắt ngang mặt sông mà thẳng tiến. Cuối canh hai, đoàn thuyền cặp bờ Bắc. Ba trăm cao thủ nằm lại mặt đê, chỉ mình Nhương Thư đột nhập Càn Sơn.
Nhờ nhản lực phi thường, Nhương Thư chẳng cần đèn đuốc, nương ánh trăng băng rừng mà vào.
Đầu xuân, Mông Hãn Hoa nở rộ, hương thơm nhàn nhạt quyện lẫn sương đêm nên nồng nàn hơn ban ngày. Thật khó mà biết được tại sao loài hoa quái quỷ này lại duy nhất sinh sôi ở Càn Sơn?
Gần cuối canh ba, Nhương Thư đến được bìa rừng phía trong, ngồi trên chạng ba cây quan sát cảnh điêu tàn đổ nát của Tứ Phạn Thiên Cung.
Không một công trình nào được xây dựng lại vì Càn Sơn chẳng còn là sào huyệt an toàn nữa.
Cỏ cây vô tri không có tội nên vườn hoa phía sau thạch cung dường như vẫn nguyên vẹn. Và giờ đây, trên bãi cỏ là một chiếc lồng gỗ kiên cố.
Đối phương chủ tâm dụ Nhương Thư vào bẫy nên không giấu giếm tù nhân mà tung ra như miếng mồi hấp dẫn.
Vườn hoa sáng rực bởi mấy chục cây đuốc lớn, soi rõ thân hình nhỏ bé, đáng thương của Ải Thần Quân trong cũi gỗ. Các ngọn đuốc đều có những mảnh đồng lá bóng loáng che phía sau để ánh sáng tập trung vào khu vực nhốt tù, và ngược lại, vòng ngoài vườn hoa khá tối tăm.
Trăng rất sáng nhưng không giúp Nhương Thư nhìn rõ toán mai phục trong những lùm cây, bụi hoa.
Nhương Thư đã được mấy lão hồ ly dặn dò kỹ lưỡng nên không loạn động, nhẩy xuống đất cẩn trọng tiến về vườn hoa.
Chàng vượt qua tòa thạch cung đổ nát, êm ái như mèo đi một vòng để thám thính. Lạ thay, quanh hoa viên chẳng hề có một mống phục binh nào cả?
Như vậy, có lẽ là phe đối phương ẩn trong khu vườn cách nơi đây vài chục trượng? Nếu thế thì chàng đủ thời gian phá cũi gỗ, cõng nghĩa phụ đào tẩu, trước khi kẻ thù kịp kéo đến!
Bất Trí Thư Sinh từng tiên liệu trường hợp này và cảnh báo rằng khi ấy cái cạm bẫy sẽ nằm ngay nơi nhốt tù. Chỉ cần chục cân hỏa dược là Nhương Thư và cha nuôi sẽ cùng tan xác.
Nhương Thư căng mắt quan sát, nhận ra thảm cỏ chung quanh cũi gỗ hoàn toàn nguyên vẹn, không hề có dấu đào bới để chôn thuốc nổ. Cũi gỗ có bốn chân cao hơn mặt đất ba xích, và phía dưới cũi là cỏ xuân mơn mởn, cùng màu với toàn khu vực.
Vậy là không có hỏa dược, Nhương Thư nằm im trong bụi hoa suy nghĩ, quyết định liều một chuyến. Tiếng rên khe khẽ của người trong cũi khiến chàng đứt từng khúc ruột, không còn nhẫn nại được nữa.
Nhương Thư chồm dậy, lao vút như tên bắn đến bên lồng gỗ, vung kiếm chặt phăng ổ khóa sắt, mở cửa kéo thân hình nhỏ bé của Ải Thần Quân ra.
Tiếng thép chặt thép vang lên khô khan, khá rõ ràng trong đêm vắng và dĩ nhiên đối phương luôn giám sát chặt chẽ khu vực nhốt tù. Tiếng báo động, quát tháo vang lại từ bìa rừng chung quanh không làm chàng lo sợ vì tự tin sẽ kịp thoát đi.
Song chính lúc này cái bẫy chết người mới hoạt động, Ải Thần Quân đột nhiên nhe răng cười ác độc, đồng thời giáng một quyền sấm sét vào ngực Nhương Thư. Thân hình chàng họ Tần văng ngược ra sau hơn trượng, lăn lông lốc trên thảm cỏ.
Ải Thần Quân ngửa cổ cười dài khoái trá, để lộ hàm răng khấp khểnh vàng ố, khác hẳn với hàm răng đẹp của Tần Nhật Phủ.
Và quái dị thay, thân hình lão ta dần dần duỗi ra, cao hơn trước hai gang tay, khiến bộ y phục lem luốc kia trở nên ngắn cũn cỡn. Công phu xúc cốt của người này quả đã đạt đến mức siêu phàm.
Lão ta đắc ý đi về phía thân hình bất động của Nhương Thư, thưởng lãm thành quả của mình. Nạn nhân có sống sót thì cũng trọng thương bởi cú đấm bất ngờ và vô cùng mãnh liệt vào ngực trái.
Song việc đời lại như phong vân, bất trắc chẳng thể nào lường trước được, nên đôi khi thợ săn trở thành kẻ bị săn. Nhương Thư đang nằm úp mặt xuống cỏ, bỗng ngẫng lên và hất tay hữu xạ một đạo chỉ kình vào bụng dưới kẻ thù. Trong khoảng cách nửa trượng, không ai có thể tránh được Lục Mạch Thần Chỉ cả!
Lão già lạ mặt kia rú lên thảm khốc, ôm bụng lảo đảo vì huyệt Khí Hải bị xuyên thủng. Ngoài cảm giác đau đớn của da thịt, phủ tạng, còn có cả sự kinh hoàng của một võ sĩ bị phế võ công.
Trong khí công, cơ thể con người có đến ba nơi mang tên Đan Điền, ứng với Tam Tài: Thượng Đan Điền nằm trong đầu, tụ điểm là huyệt Ấn Đường, ở giữa hai chân mày, là nơi chứa thần, thuộc về thiên của Tam Tài. Trung Đan Điền nằm ở vùng bụng trên, tụ điểm là huyệt Trung Uyển, nằm trên rốn hai lóng tay, tàng trữ hậu thiên khí do hô hấp và địa khí (do ăn uống). Nó ứng với nhân của Tam Tài.
Tối quan trọng là Hạ Đan Điền, nằm trong cùng bụng dưới rốn, tụ điểm là huyệt Khí Hải. Đây là nơi tàng chứa chân khí của người luyện nội công, sức lực từ đấy đi ra tứ chi và toàn cơ thể.
Nay lão già lạ mặt kia bị thăng Khí Hải, tức thị công lao luyện tập mấy chục năm hoàn toàn mất hết, nhưng không chết.
Tiếng rú thê lương của lão già khiến đồng đảng thất kinh, có giọng già nua hớt hải kêu lên:
- Nhị đệ làm sao thế?
Nhưng Nhương Thư đã đứng lên, chụp lấy nạn nhân, kê kiếm vào cổ lão ta và dõng dạc quát:
- Hằng Sơn Đại Lão! Mau đưa nghĩa phụ ta ra đổi lấy lão chết tiệt này!
Phe đối phương đã đến nơi, vây quanh Nhương Thư, tổng số đông đến gần trăm, đứng đầu chính thị Âu Dương Lăng là một lão nhân cao gầy, mặc đạo bào vàng.
Gương mặt đầy sẹo của Âu Dương Lăng lộ rõ vẻ thất vọng và căm hờn. Gã đã bị Nhương Thư chặt rụng ba ngón tay và đâm nát mặt ở bờ sông Hoàng Hà.
Âu Dương Lăng không sao tin nổi việc Nhương Thư có thể thoát chết dưới quyền của lão nhị Sầm Thành Dũ. Gã tức tối hỏi:
- Vì sao ngươi phát hiện được mưu kế này? Và phải chăng ngươi đã lót thép vào ngực?
Nhương Thư bình thản đáp:
- Nghĩa phụ ta suốt đời không ăn tỏi, còn lão quỷ họ Sầm này lại nồng nặc mùi ấy khiến ta cảnh giác, dồn chôn khí vào ngực. Khi lão xuất thủ, ta thuận đà nhảy đi nên chỉ bị thương nhẹ!
Nhương Thư không nói hết sự thực, vì đúng là chàng có mặc bảo y! Đoan Mộc Anh đã lột tấm Giao bì giáp của Kỵ Ba Thần Quân tặng cho chàng! Nếu không có nó, Nhương Thư đã bị thương nặng hơn nhiều.
Chàng không quen nói dối nhưng cũng biết im lặng để đỡ bị thiệt thòi trong chốn giang hồ, kẻ thật thà khó mà tồn tại được! May thay, cuộc chiến ở đèo Cù Vân được giữ kín, làm cho thiên hạ tưởng rằng Kỵ Ba Thần Quân sợ Nhương Thư nên rút về Đông Hải. Nếu biết Thành lão quỷ đã chết, chắc Âu Dương Lăng cũng tiên liệu được việc Nhương Thư có bảo y.
Bỗng lão nhị, con tin trong tay Nhương Thư thều thào lên tiếng:
- Đại ca! Tiểu đệ bị phế võ công chẳng muốn sống nữa! Đại ca cứ giết tên tiểu quỷ này và Ải Thần Quân để báo thù cho tiểu đệ!
Nhương Thư giật mình, không ngờ lão nhị lại kiên cường đến thế, khiến chàng mất đi cơ hội cứu cha nuôi. Chàng càng lo lắng hơn khi thấy Hằng Sơn Đại Lão Sầm Cơ Giảo đưa tay áo lau nước mắt rồi gằn giọng:
- Hay lắm! Chúng ta đều đã quá già, chết cũng chẳng sao! Ta thề sẽ phân thây gã tiểu tử chó chết kia, nấu cỗ cúng vong hồn hiền đệ!
Nhương Thư vội nói:
- Gia nghĩa phụ không có tội tình gì, Sầm lão cứ thả ông ấy ra. Ta hứa sẽ quay lại ngay để tôn giá rửa hận. Tần mỗ đương kim minh chủ võ lâm, lời nói nặng hơn cửu đỉnh, quyết chẳng thất tín!
Sầm Cơ Giảo lưỡng lự hỏi:
- Ngươi có dám đem thanh danh của sư phụ là lão trọc Phật Đăng ra bảo chứng hay không?
Nhương Thư khẳng khái đáp:
- Có! Tại hạ xin thề trước vong linh của người!
Âu Dương Lăng vội can ngăn:
- Sầm tiền bối! Lỡ y không giữ lời, mang Ải Thần Quân chuồn thẳng thì sao?
Sầm lão đại cười nhạt:
- Lúc ấy là cả thiên hạ sẽ biết việc này và y sẽ chết trong nhục nhã.
Lão nói không sai vì giới võ lâm rất xem trọng lời hứa. Chẳng thà đang đánh mà phá vây đào tẩu, chứ đã hứa quay lại thì không thể sai lời.
Lát sau, Ải Thần Quân được mang ra. Thấy lão mê man, bất tỉnh, mặt mày, y phục lem luốc, Nhương Thư đau lòng khôn xiết, trầm giọng gỏi:
- Phải chăng tôn giá đã hạ độc thủ gia phụ?
Sầm lão đại cười nhạt:
- Lão họ Tần chỉ bị điểm huyệt và cho uống chút Mông Hãn Dược, không tin thì ngươi cứ kiểm tra thì sẽ rõ!
Từng nghe nói Hằng Sơn Song Lão tính tình cổ quái, ác độc, nhưng luôn giữ chữ tín, Nhương Thư yên tâm trao Sầm Thành Dũ cho hai gã đệ tử Tứ Phạn Thiên Cung, đổi lấy Ải Thần Quân. Chàng kiểm tra kinh mạch cha nuôi, không thấy bế tắc, chân nguyên vẫn tụ ở Đan Điền, hiểu rằng đối phương đã thành thực.
Nhương Thư vái Sầm lão đại:
- Tại hạ xin được đưa gia nghĩa phụ ra bìa rừng trao cho người khác rồi quay lại ngay! Cảm tạ tôn giá đã tin tưởng!
Nói xong, chàng bồng Ải Thần Quân lao vút về hướng Nam, ở đây, Sầm Cơ Giải thở dài, chua chát nói với Âu Dương Lăng:
- Ngươi là một thằng ngu nên mới đánh giá thấp tên tiểu tử này. Bản lãnh của gã còn cao hơn Ải Thần Quân một bậc!
Sầm lão nhị đã được băng bó, uống thuốc xong, trợn mắt bảo:
- Chẳng lẽ đại ca không tự tin giết được gã?
Lão đại cười nhạt:
- Hiền đệ yên tâm! Trừ phi gã mọc cánh mới thoát được trận này!
Nhương Thư thì sao? Chàng đi ra bờ sông bằng đường mòn, không phải băng rừng như lúc vào, nên tốc độ rất nhanh, chỉ vài khắc đã đến bìa rừng.
Bọn Vô Ưu Cái hoan hỉ phi thường, xúm lại hỏi han Nhương Thư:
- Làm sao ngươi cứu được Tần lão gia một cách dễ dàng như thế?
Nhương Thư trao Thần Quân cho Triều Châu Thần Y chăm sóc rồi điềm đạm kể lại mọi việc. Ai nấy xám mặt vì lo lắng, nhưng không thể xúi chàng thất tín được. Chàng liền an ủi họ:
- Tại hạ thừa sức phá vây đào tẩu, chư vị chớ nên quá bi quan như vậy.
Vô Ưu Cái mỉm cười thê lương:
- Hiền đệ phải cẩn trọng đấy! Nếu không chắc giữ chân được ngươi, Sầm lão đại đâu bao giờ chấp nhận thả Ải Thần Quân. Nhưng thôi! Ngươi cứ đi đi!
Nhương Thư vái chào chung rồi quay bước, hiên ngang quay lại tử địa, trong ánh mắt thương cảm của mấy trăm người. Họ đau lòng và bi phẫn vì không thể giúp được chàng.
Nhương Thư vào đến chỗ hẹn thì trời cũng mờ sáng. Chàng cau mày nhận thấy nhân số đối phương đã đông gấp đôi lúc trước, có thêm hàng trăm gã sát thủ áo xanh nữa. Bọn này có lẽ là đệ tử của Báo Ứng Hội lúc nãy đã ẩn trong rừng để cảnh giới.
Nhương Thư an nhiên thụ mệnh, bước đến trước mặt Sầm lão đại, ôm kiếm chào:
- Tại hạ y ước quay lại để tôn giá báo thù, nhưng xin nói trước rằng tại hạ sẽ phá vây đào tẩu đấy! Chư vị không cản nổi thì chẳng phải lỗi của Tần mỗ!
Sầm Cơ Giảo rút kiếm lạnh lùng đáp:
- Để xem ngươi lọt lưới bằng cách nào?
Lão vung kiếm tấn công ngay, không hề ngại mang tiếng già hiếp trẻ.
Trong nghề đánh kiếm, Nhương Thư chẳng ngán ai, ung dung xuất chiêu Minh Đăng Thất Hiện, vẽ nên bẩy kiếm ảnh hình ngọn lửa.
Kiếm chạm kiếm, Nhương Thư rúng động vì phát hiện chân khí của mình bị đối phương hút mất một ít. Nghĩa là chỉ sau vài chục chiêu chàng sẽ kiệt lực.
Công phu bàng môn tả đạo này đã từng xuất hiện, song dưới hình thức dùng lòng bàn tay chạm da thịt nạn nhân mà đoạt chân lực. Nay Hằng Sơn Đại Lão đạt đến mức cách vật hấp chân, qua kiếm thu nội lực, thì quả là đáng kinh ngạc.
Nhương Thư đã được Phật Đăng Thượng Nhân giảng giải qua sự lợi hại của Hấp Tinh Tà Pháp, liền dồn hết công lực sang tả thủ, còn trường kiếm được điều khiển bằng sức mạnh của cơ bắp cánh tay phải.
Cũng giống như lần đấu với Quảng Đông Thần Đao Cốc Hậu Nhan ở Chính Khí Trang, việc khổ luyện ngoại công của Nhương Thư đã có tác dụng. Tuy không được dồn chân khí nhưng cánh tay cuồn cuộc gân cốt của chàng cũng đủ sức thi triển chiêu kiếm thần diệu cầm cự với Sầm Cơ Giáo!
Một mặt, Nhương Thư dở pho Cửu Huyền chân pháp di chuyển quanh đối phương và tả thủ thoang thoảng xạ ra những đoạn chỉ xé phong.
Đấu pháp này đã phát huy tác dụng, vô hiệu hóa được tà pháp của Sầm lão đại, khiến lão vô cùng tức tối. Nếu Sầm lão nhị không bị phế võ nghệ thì Nhương Thư đã chẳng thành công. Ải Thần Quân cũng hành động như Nhương Thư, song lưỡng đầu thọ địch nên thất bại.
Sầm Cơ Giảo điên tiết tấn công như vũ bảo, quyết bắt đối phương chạm kiếm hầu đánh văng vũ khí. Nhưng Nhương Thư có trình độ kiếm thuật siêu phàm, chiêu thức biến hóa tuyệt luân. Hư thực khó lường, lăm le uy hiếp những tử huyệt, cộng thêm những đạo chỉ kình hiểm ác sẵng sàng đưa đối thủ vào chỗ chết.
Hằng Sơn đại lão đã thi thố hết sở học mà không làm gì được gã trẻ tuổi công phu ngoại lai. Lão đột ngột vung tả thủ vỗ một đạo chưởng phong sấm sét vào ngực Nhương Thư. Thì ra Âu Dương Lăng đã đem Thần Quang Chưởng Pháp làm mồi nhử Hằng Sơn Song Lão về giúp mình!
May thay, Nhương Thư đã quá quen với những động tác ấy, vừa thấy đối phương xòe bàn tay trái, khoe nửa vòng là chàng lập tức xoay dọc người nên phát chưởng chỉ trúng phớt ngực phải. Giao bì giáp cùng khả năng chịu đòn phi thường của tấm thân sắt thép đã vô hiệu hóa gần hết tác hại của đạo kình. Thân hình bị đẩy lệch đi, song không ảnh hưởng đến việc chàng xạ một đạo chỉ phong vào sườn trái họ Sầm.
Trong võ học, thế công càng mạnh thì càng lộ sơ hở, nhất là lúc đòn đánh chạm mục tiêu mà kết quả không đạt như mong muốn, và kẻ thù còn đủ sức để phản kích.
Năm xưa, Nhương Thư đâm thủng ngực trái Lã Tập Hiền, song tim lão nằm bên phải nên chàng thọ hại. Giờ đây cũng thế, phát chưởng cách không kia chẳng đả thương hoặc đẩy văng được Nhương Thư, thì với tư thế vương thẳng tả thủ, để lộ sườn trái, Sầm Cơ Giảo đã rơi vào hiểm cảnh.
Đạo tung xung chỉ tức khắc khoan thủng da thịt, làm tổn thương phủ tạng của nạn nhân. Sầm lão đại đau đớn rú lên, tung mình nhẩy lùi ra xa.
Nhương Thư chưa kịp quay gót đào vong thì Âu Dương Lăng và bọn sát thủ dưới quyền đã ập đến. Đáng sợ nhất là tám đạo chưởng kình của Âu Dương Lăng và ba lão Chân Khanh.
Dù rất muốn lao vào đổi mạng với kẻ đã sát hại cô vợ yêu dấu Bạch Thúy Sơn của mình, song Nhương Thư vì những người đang sống mà nuốt hận, cố trầm tĩnh chờ cơ hội tốt chớ chẳng dám khinh xuất.
Nhương Thư đề khí bốc cao hai trượng rưỡi, nhanh tay móc túi lụa đựng trăm viên Lân Hỏa Thần Đạn, xoay một vòng, rải đều xuống hàng ngũ dầy đặc của bọn sát thủ áo xanh.
Sự hào phóng này đã đem lại kết quả mỹ mãn, tiếng gào thét của sáu bẩy chục kẻ xấu số vang lên, dọa khiếp bầy chim rừng đang ríu rít chào đón bình minh. Lửa lân hỏa cháy rất mạnh, không thể tắt dù nạn nhân có lăn tròn trên mặt đất, đương nhiên nó làm cho y phục bốc cháy ngùn ngụt.
Nhưng trước khi những viên Lân Hỏa Thần Đạn phát nổ lóc bóc, Nhương Thư đã múa tít trường kiếm che thân, sa xuống đầu một lão Chân Khanh.
Chàng không chọn Âu Dương Lăng vì phát hiện công lực gã đã gia tăng thêm một bậc, cao hơn lần chạm trán trước. Được gần gũi những kẻ tài trí, khôn ngoan như Vô Ưu Cái, Bất Trí Thư Sinh, Ngọa Long Tú Sĩ, đầu óc Nhương Thư cũng mở mang thêm, hiểu rõ lẽ tiến thoái, quyết định rất sáng suốt.
Lão Chân Khanh xấu số kia đứng hơi xa Âu Dương Lăng và hai lão còn lại, xem ra khá đơn độc. Lão vội cử song thủ vỗ liền bốn đạo chưởng kình vào màn kiếm quang đang bay đến, song không đủ sức cản được chiêu Thiên Hỏa Giáng Ma.
Có Giao bì giáp hộ thân, Nhương Thư an toàn vượt qua lưới chưởng, chặt đứt hai tay và đâm thủng ngực kẻ thù.
Tất nhiên, Âu Dương Lăng và hai lão Chân Khanh kia không đứng im, họ nhất tề ập tới bủa chưởng vào lưng họ Tần. Song Cửu Huyền Thần Bộ đã giúp Nhương Thư sớm rời vị trí, lẩn ra phía sau lưng nạn nhân của mình, và xông vào hàng ngũ rối loạn của bọn sát thủ Tứ Phạn Thiên Cung.
Những thân hình bốc cháy lăn lộn trên mặt đất luôn miệng rên la khiến bọn còn lành lặn phải nhụt chí, càng dễ chết dưới tay một kiếm thủ thượng thừa như Nhương Thư.
Âu Dương Lăng vội quát tháo thủ hạ và đuổi theo Nhương Thư. Nếu để chàng thoát chết lần này thì gã sẽ không còn đất sống. Trong cương vị minh chủ võ lâm, Nhương Thư thừa lực lượng khiến gã phải trốn chui trốn nhủi suốt đời. Chính vì lý do ấy mà Âu Dương Lăng đã phải mang vàng bạc và tuyệt học Thần Quang dụ dỗ Hằng Sơn Song Lão hạ sơn.
Để khích lệ tinh thần thủ hạ, Âu Dương Lăng cao giọng:
- Ai đâm trúng Tần tiểu tử một kiếm sẽ được thưởng năm trăm lượng vàng.
Nếu không tham thì đã chẳng làm sát thủ, do vậy, môn đồ Báo Ứng Hội và Tứ Phạn Thiên Cung được hơi vàng tiếp thêm dũng khí, hăm hở lăn xả vào mỏ vàng là Nhương Thư, quên cả việc tử sinh. Gia dĩ, bản chất của bọn này đã sẵn hung hăng, liều lĩnh và can trường, từng làm nổi danh hai tổ chức khủng bố.
Địa Đường Đao Pháp của Sát Thủ Hội không phát huy được nhiều vì mặt đất đầy dẫy những thi thể bị thương vì lân hỏa. Thân trên Nhương Thư lại do bảo y che chở, chàng điềm tĩnh phối hợp kiếm khí, đối phó với lũ côn đồ điên loạn và khát máu kia. Mỗi đường kiếm, mỗi đạo chỉ phong của chàng đều có kết quả khả quan, đả thương thêm vài chục gã thanh y.
Song dẫu sao Nhương Thư cũng đã bị cầm chân để Âu Dương Lăng và hai lão Chân Khanh hạ thủ. Ba người này liên tiếp đẩy những đạo chưởng Thần Quang mãnh liệt, và vài phát đã trúng mục tiêu khiến chàng phải hộc máu! Họ rất xảo quyệt, luôn thay đổi vị trí để tránh những đòn chết người của Nhương Thư.
Đến rạng sáng, lực lượng đối phương bị thương vong hơn nửa, chỉ còn độ bẩy tám chục, nhưng ngược lại, Nhương Thư cũng đã kiệt sức, rơi vào cảnh mãnh hổ nan địch quần hồ!
Biết thế đã cùng, Nhương Thư thầm gọi tên Bạch Thúy Sơn rồi quyết đổi mạng với Âu Dương Lăng. Chàng giết xong kẻ thù thì cũng khó sống sót, có thể thực hiện lời hứa đồng hành!
Trong phút giây tối hậu, hình bóng người thân thoáng hiện lên nhưng không thay đổi được tình thế. Giờ đây, chàng có muốn đào tẩu để toàn sinh thì cũng chẳng thể được!
Song bỗng nhiên, xa xa vọng lại tiếng rú thánh thót, quen thuộc của Đoan Mộc Anh. Không hiểu vì sao cô gái rừng lại có mặt và vào được chốn này? Thêm một tay kiếm lợi hại như Anh nhi là hy vọng sống sót vẫn còn. Nhương Thư phấn khởi đảo bộ tránh chiêu chưởng của Âu Dương Lăng rồi xông vào hai gã áo xanh mé hữu.
Khi bản năng sinh tồn trỗi dậy, sinh lực con người cũng tăng lên, đường kiếm của Nhương Thư dũng mãnh đánh bạt hai thanh đao, đâm thủng yết hầu kẻ địch. Chàng tiếp tục xấn tới, đánh thốc về hướng Nam, nơi mà Đoan Mộc Anh đang lao đến.
Song Anh nhi không đến một mình mà mang theo hàng vạn con ong độc, khách hàng của loài Mông Hãn Dược. Trong khu vườn quanh Càn Sơn, thú lớn không sống nổi, chỉ có loài côn trùng là tồn tại được. Mông Hãn Hoa nở gần như quanh năm nên số lượng đàn ong phát triển khá đông, tuy không độc bằng ong vàng ở Cưu Sơn nhưng cũng đủ khiến bọn Âu Dương Lăng phải bối rối.
Đoan Mộc Anh lướt đi như gió, miệng phát ra những âm thanh sè sè kỳ lạ, đưa đàn ong đến đấu trường. Nàng hung hãn như hổ cái, xông vào tấn công một tên áo xanh ở vòng ngoài, Thiên Cương Bảo Kiếm lập tức đánh bạt vũ khí rồi đâm thủng bụng gã.
Tuy là nữ nhi những mang bản chất hoang dã nên lối đánh của Anh nhi cực kỳ cương mãnh và liều lĩnh, khí phách dọa khiếp kẻ thù.
Lúc này, hàng vạn con ong đã hỏi tham da thịt của đám đông, kể cả Đoan Mộc Anh và Nhương Thư. Đôi vợ chồng trẻ này không sợ độc, trong lúc đối phương tối tăm mặt mũi.
Cục diện đã đảo ngược, Nhương Thư hiểu rằng đây là cơ hội hiếm có để giết Âu Dương Lăng. Gã đang cuống cuồng giơ đôi bàn tay thiếu mấy lóng, dệt lưới chưởng để chống cự với lũ ong, hai lão Chân Khanh kia cũng vậy.
Nhương Thư liền thi triển Cửu Huyền Thần Bộ đến mức chót, lướt nhanh qua những gã áo xanh vô hại, đang cố phủi ong khỏi mặt, xông về phía Âu Dương Lăng.
Gã nhận ra tử thần hơi muộn màng, chỉ còn cách cử chưởng đối phó bằng chín đạo chưởng phong bài sơn đảo hải. Với công lực hơn hoa giáp, gã tự tin có thể chặn bước một kẻ đã hao tổn chân nguyên.
Chưởng kình chạm lưới kiếmm ở khoảng cách một trượng, có vẻ như khá an toàn. Song đột nhiên thân hình Nhương Thư ngã vật ngửa, y như người trượt vỏ chuối vậy. Và chàng lướt dài phía dưới những đạo chưởng phong, trong chớp mắt đã ở dưới chân đối thủ.
Âu Dương Lăng kinh hoàng đề khí bốc lên không trung để tránh cái chiêu thức kỳ quái kia. Nhưng bảo kiếm đã rời tay Nhương Thư, bay vút theo, cắm xiên từ bụng dưới, trở ra bả vai của gã.
Chiêu này không có trong Phật Đăng Kiếm Pháp hay Huyền Không Kiếm Phổ mà do Nhương Thư nghĩ ra khi nhìn thấy Địa Đường Đao Pháp. Chàng hơi ngốc sự đời nhưng trong nghề võ thì mẫn tiệp phi thường.
Âu Dương Lăng rú lên ghê rợn, rơi phĩch xuống mặt cỏ nhàu nát. Nhương Thư chồm lên rút kiếm ra, cẩn thận chặt đầu gã, xách chạy về phía Đoan Mộc Anh. Chàng hớn hở cao giọng:
- Anh muội đi thôi! Ta đã giết được Âu Dương Lăng rồi!
Anh nhi nhe hàm răng trắng nhọn vui vẻ nói:
- Tiểu muội giết chưa đã tay, đại ca chờ thêm vài khắc nữa!
Nàng là người duy nhất chưa chịu gọi Nhương Thư là tướng công, và cũng chưa trao thân cho chàng! Nhương Thư và Đoan Mộc Anh từng ngủ chung, song Anh nhi chỉ huyên thuyên trò chuyện nói cười, rồi ôm chàng mà ngủ tỉnh bơ. Dường như Nhương Thư cũng hài lòng với việc ấy, không hề đòi hỏi ái ân!
Nhắc lại, dù Đoan Mộc Anh chưa thỏa mãn lòng hiếu sát, song phe đối phương thấy thủ cấp Âu Dương Lăng thì đều nản chí bỏ của chạy lấy người, chẳng còn một mống! Hằng Sơn Song Lão cũng thế!
Nhương Thư không cho Anh nhi đuổi theo, kéo nàng vào lòng, hôn lên má và khen ngợi:
- Hảo hiền muội! Không có ngươi thì ta đã chết ở chốn này rồi!
Anh nhi cười hồn nhiên:
- Tiểu muội rình nghe cuộc bàn luận nên biết rõ mọi việc. Do lạc đường mà tiểu muội đến trễ, bị Hầu lão ca ngăn cản nhưng cứ xông vào đại, nào ngờ chẳng bị mê man bởi Mông Hãn Hoa. Thấy trong rừng có nhiều tổ ong, tiểu muội liền kéo chúng theo!
Hai người nắm tay nhau chạy về hướng bờ sông, tiếng cười trong trẻo của Anh nhi đã sớm đến tai bọn Vô Ưu Cái. Họ mừng rỡ tụ tập chào đón lẻ trở về từ cõi chết.
Trước khi đi Càn Sơn, Nhương Thư đã trao lệnh kỳ và kiếm ấn cho Hoàng Nghi Tuyệt, nhờ gã tạm đảm đương đại nhiệm trong trường hợp chàng táng mạng. Nay không những sống sót, Nhương Thư còn giết được Âu Dương Lăng, niềm vui được nhân đôi!
Về đến tổng đàn võ lâm, Nhương Thư bị bốn ả cằn nhằn trách móc đủ điều, nhưng Đoan Mộc Anh lại được ngợi khen quá cở!
Thủ cấp của Âu Dương Lăng được ướp thuốc cẩn thận, chờ khi xác định rõ việc sống chết của Thúy Sơn mới đặt lên bàn tế vong! Do lời khẳng định của hai vị đại quân sư là Bất Trí Thư Sinh và Ngọa Long Tú Sĩ nên cả nhà đều tin tưởng rằng Thúy Sơn còn sống. Nhương Thư thì nghi ngờ nhưng chẳng dám nói ra.
Sự vụ ở tổng đàn võ lâm rất bề bộn, đơn kiện cáo từ khắp nơi gởi về, cả thiếp mời sinh nhật, đám cưới cũng chẳng ít. Người của tổng đàn tất bật ngược xuôi để giải quyết những tranh chấp giữa các bang hội.
Lúc này mới thấy hết được tài thao lược của Ngọa Long Tú Sĩ và Bất Trí Thư Sinh. Họ luôn tìm ra cách thu xếp ổn thỏa mối bất hòa, chỉ một phong thư với những lời lẽ sáng suốt, đầy đủ ân, uy, là hai phe bãi chiến.
Chưởng Kỳ Sứ Hoàng Nghi Tuyệt cùng bọn Thiết Kình Ngư đảm đương toàn bộ gánh nặng, không để Nhương Thư phải nhọc nhằn vì bất cứ việc gì. Chàng đã bôn ba, gian khổ quá nhiều, giờ xứng đáng được nghỉ ngơi.
Tất nhiên, mọi sự đều được tường trình qua minh chủ võ lâm để được duyệt và ấn ký. Nhương Thư thấy cái gì cũng hoàn hảo, không chê vào đâu được, liền cười bảo:
- Xem ra, với tài ba của chư vị, dẫu không có ta thì võ lâm cũng vẫn thanh bình!
Bất Trí Thư Sinh xua tay, nghiêm giọng:
- Hiền đệ sai rồi! Dù ngươi không thường xuất hiện nhưng thần oai bao trùm vũ nội khiến tà ma khiếp vía, hào kiệt tứ phương nể phục, nên công việc mới trôi chảy như vậy. Thiếu ngươi, phong ba sẽ nổi lên ngay.
Ải Thần Quân đã hoàn toàn bình phục, đưa cả Nan Tiên Cơ về tổng đàn võ lâm sống với Nhương Thư. Vợ chồng họ dù bất lão nhưng việc chửa đẻ chắc chắc khó xong nên muốn được ẳm bồng những hài nhi sắp chui ra khỏi bụng ba ả họ Điền.
Thần Quân giơ ngón cái cười khanh khách:
- Thư nhi! Giờ đây ngươi còn oai phong hơn cả Phật Đăng Thượng Nhân rồi đấy!
Nhương Thư ngượng ngùng mỉm cười, đáy mắt phảng phất nổi buồn sâu kín. Chàng thương nhớ Thúy Sơn vô vàn.
Gần cuối tháng tư, ba chi em họ Điền lần lượt hạ sinh hai nam, một nữ. Bạch Cúc, Uyển Xuân vui vẻ, còn Mã Lan có ý buồn vì đẻ con gái.
Nhương Thư hiểu ý, dỗ dành người vợ hiền lành, thùy mị:
- Con gái chúng ta sau này sẽ giống nàng, vừa xinh đẹp, vừa nhân hậu. Lũ nam tử nghịch ngợm, phá phách, có gì đáng yêu đâu?
Mã Lan dương đôi mắt nhung huyền, ướt mượt, sung sướng hỏi lại:
- Tướng công nói thực lòng chứ?
Nhương Thư gật đầu hạ giọng:
- Nàng không thấy ta xem Anh muội như em gái đấy sao?
Mã Lan che miệng cười:
- Nay bọn thiếp đều bận bịu con thơ, đã đến lúc Anh muội hầu hạ chàng rồi đấy!
Nhương Thư vui vẻ lắc đầu:
- Ta đã có quá nhiều vợ, thích em gái hơn!
Đầu tháng bảy, cuộc truy tìm Bạch Thúy Sơn trên phạm vi cả nước vẫn không có kết quả. Vậy là chỉ còn hơn tháng nữa tang lễ của minh chủ đại phu nhân sẽ được cử hành. Một năm là thời hạn đủ để xác định việc sống chết của Thúy Sơn.
Tối mùng hai, Nhương Thư cùng bọn Nghi Tuyệt, Tào Ưng thù tạc. Lòng sầu muộn nên chàng uống nhiều hơn thường lệ. Men rượu chẳng giúp làm vơi nỗi nhớ nhung, lại còn khơi dòng ký ức, khiến bao nhiêu kỷ niệm về hai người vợ bạc mệnh xâu xé tâm hồn chàng! Cái chết minh bạch của Bạch Ngọc Tiên Tử không làm chàng thống khổ bằng sự mơ hồ trong sinh tử của Thúy Sơn.
Bọn Hoàng, Tào gọi chàng là Tần minh chủ, sao nghe xa lạ và cay đắng. Cảnh vinh thân phì gia này chàng nào có thể yên tâm hưởng thụ khi vong hồn Thúy Sơn cứ vất vưởng ngoài cửa hoàng tuyền mà chờ đợi. Hoặc vì không được chôn cất tử tế mà nàng không siêu thoát nổi!
Hình bóng căn mộc xá ở ngoại thành Khai Phong, chốn tràn ngập ái ân chợt hiện lên khiến lòng Nhương Thư đau nhói và choáng váng! Nỗi khát khao được quay lại nơi ấy đã xâm chiếm tâm hồn chàng, xua đuổi tất cả những ý niệm khác.
Nhương Thư tư lự bảo:
- Hoàng huynh! Tào huynh! Mờ sáng, tại hạ sẽ lên đường đi Khai Phong vì việc riêng! Mong nhị vị giữ kín lộ trình và trấn an giùm đám nữ nhân!
Nghi Tuyệt nhìn chàng bằng ánh mắt ấm áp, gật đầu hứa:
- Minh chủ cứ yên tâm khởi hành, nhưng trong mười ngày xin báo tin về để mọi người yên tâm!
Thiết Kinh Ngư Tào Ưng nốc cạn chén rượu rồi lên tiếng:
- Tại hạ sẽ tháp tùng cùng minh chủ! Ưng tôi cũng muốn thắp vài nén hương cho người bạn cũ họ Bạch!
Nhương Thư gượng cười:
- Té ra Tào huynh cũng đoán ra tâm sự của ta ư?
Tào Ưng cười buồn:
- Lòng dạ của minh chủ thế nào chẳng lẽ Tào Mỗ lại không biết?
Đêm ấy, Nhương Thư vẫn giấu kín nỗi buồn, làm nhiệm vụ với người đang sống. Hổ Hồng Nhan không hề nhận ra, đắm đuối chìm vào khoái lạc rồi ngủ vùi.
Tóc nàng chỉ mới mọc dù được hơn gang, luôn phải mang tóc giả, ngay cả khi gẩn gũi trượng phu. Nàng đã van lụy Ải Thần Quân ban cho thứ thuốc kích thích tóc mau dài. Tuy Thúy Sơn là gái giả trai, nhưng việc nàng say đắm gã mà bỏ Nhương Thư cũng là lỗi lầm chẳng nhỏ.
Từ ngày nàng quay về, Ngọc Trâm luôn khép nép, nhũn nhặn với ba cô em gái, chỉ sợ họ đem chuyện xưa ra chế giễu. May thay, ngay cả cô ả khó chịu nhất là Bạch Cúc cũng vì tình chị em mà tha thứ hết.
Cuối canh tư, Nhương Thư lặng lẽ xách tay nải nhỏ và bảo kiếm rời phòng. Thiết Kình Ngư đã chờ sẳn ở cổng tổng đàn với hai con tuấn mã. Hoàng Nghi Tuyệt cũng có mặt, rót cho hai kẻ đăng trình chén rượu tống biệt ấm tình bằng hữu.
Nhương Thư và Tào Ưng dắt ngựa hơn dặm mới dám thượng mã. Họ phi nước đại, lướt trong màn sương khuya, tiếng vó câu khua vang có hương vị hào sảng của kiếp sống giang hồ, khiến nỗi sầu trong lòng người lữ thứ dịu đi.
Bẩy ngày sau, hai người đến thành Khai Phong, vào khách điếm nghĩ trọ. Dùng cơm trưa xong, họ đi đến cánh rừng phía Đông Cô Độc Bảo, tìm lại căn mộc xá của Tích Bảo Chân Nhân.
Nhương Thư gởi ngựa nơi nhà lão tiều phu ở bìa rừng, theo lối cũ rảo bước. Gọi lối cũ là về phương diện tâm lý, thực ra chẳng hề có đường mòn, đường lớn gì cả. Nhương Thư nhắm hướng đi theo ký ức, được vài dặm bỗng phát hiện phía trước có tiếng cành lá khua động và tiếng chân người nặng trĩu.
Thân đương đại nhiệm, lại nhiều lần chết hụt nên giờ đây Nhương Thư rất thận trọng. Chàng và Tào Ưng rón rén nương theo gốc cây, bụi rậm đi về hướng ấy.
Chàng tròn mắt kinh ngạc khi nhận ra lão tiều phu rách rưới, lưng cõng bó củi lớn kia là Hồng Diện Tôn Giả Hoàng Duy Do. Gương mặt hốc hác, ánh mắt lạc thần, cũng như dáng điệu mệt mõi của lão đã khiến Nhương Thư cảnh giác, không dám chạy đến mừng.
Tôn Giả bước đi nặng nề, chứng tỏ võ công đã mất hết và hình dung tiều tụy kia chứng tỏ lão đang bị bạc đãi. Nhương Thư đau lòng khôn xiết, cố nhẫn nại bám theo để tìm hiểu sự thể. Kẻ đã khống chế được một bậc kỳ nhân trong Vũ Nội Tứ Thần phải có bản lĩnh lợi hại phi thường, chàng chẳng thể khinh xuất được.
Tào Ưng thì thầm:
- Tần minh chủ! Dường như Hoàng lão gia bị trúng tà pháp thì phải!
Hoàng lão không hề phát hiện việc mình bị theo dõi, oằn lưng cõng củi chậm bước, hai khắc sau về đến tòa mộc xá, nhà của Tích Bảo Chân Nhân.
Hai người phục lại bên ngoài, bàng hoàng nghe tiếng khóc oe oe của một hài nhi. Nhương Thư từng nghe ba đứa con của mình khóc nên đoán rằng tiểu hài này mới sinh. Chàng bồi hồi tự hỏi: Phải chăng Thúy Sơn còn sống và đã khai hoa nở nhụy? Chàng chỉ muốn xông thẳng vào mộc xá để rõ thực hư, nhưng từ trong ấy đã có người bước ra.
Đấy là một đạo nhân áo xám, tuổi độ lục tuần, râu tóc hoa râm, mặt chữ điền rắn rỏi, dễ coi.
Trên ngực lão có đeo một viên pha lê màu đỏ tía, lớn bằng quả vải, không nhẵn nhụi mà nhiều mặt cắt. Tương tự tinh thể kim cương, lấp lánh phản chiếu ánh dương quang.
Trên lãnh thổ Trung Hoa hoàn toàn chẳng có mỏ kim cương nào cả, chính người Tây Dương đã đem thứ đá quý ấy đến bán cho hoàng hậu, phi tần và bọn mệnh phụ đất Bác Kinh.
Song với Nhương Thư thì viên pha lê kia có ý nghĩa khác. Chàng đã được Ải Thần Quân truyền thụ hết pho Di Hồn Đại Pháp nên biết nó là dụng cụ để thi triển thuật thôi miên. Chàng cũng có một viên như thế!
Thiết Kình Ngư hồi hộp nói nhỏ:
- Lão này chính là Tích Bảo Chân Nhân Tư Mã Hầu, bẩy năm trước ta từng gặp ở Tế Nam! Lão vốn không phải kẻ ác, sao lại khống chế, đày đọa Hoàng lão gia nhỉ?
Nhương Thư trầm ngâm đáp:
- Một kẻ tham tài bảo thì không bao giờ là kẻ tốt được! Chẳng qua trước đây lão khéo che giấu bản chất thực đấy thôi. Ta đoán rằng cả Thúy Sơn cũng bị lão ta uy hiếp!
Tào Ưng ngơ ngác:
- Nhưng nữ nhân trong mộc xá là một người đàn bà có con cơ mà?
Nhương Thư rầu rĩ gật đầu:
- Sơn muội đã cấn thai trước khi ngộ nạn!
Tào Ưng cân nhắc:
- Vậy là có thể chính Tích Bảo Chân Nhân đã cứu mạng đại phu nhân, song vì lý do bí ẩn nào đó nên đã không buông tha, giam giữ mãi đến bây giờ?
Lúc này Tích Bảo Chân Nhân đã rút kiếm ra khỏi vỏ, dựng đứng trước mặt, ngắm nghía với ánh mắt say sưa. Thân kiếm bóng loáng như gương kia bỗng nhiên tỏa ánh xanh mờ một cách thần kỳ. Chỉ có loại thần kiếm thời Xuân Thu Chiến quốc mới phát quang khi được dồn chân khí!
Vậy là thanh kiếm ngắn này chính thị là Mạc Gia Thần Kiếm mà Báo Ứng Hội Chủ từng muốn chiếm đoạt.
Tích Bảo Chân Nhân bắt đầu luyện kiếm, thi triển một loại kiếm pháp cực kỳ ảo diệu và lạ mắt, hào quang của thân kiếm mỗi lúc một thêm rực rỡ, bay loạn như rồng xanh, khí thế oai vũ phi phàm. Nhương Thư thầm chột dạ vì nhận ra rằng những chiêu kiếm kỳ bí kia thật khó giải phá, vì kiếm của chàng sẽ bị chặt gẫy trước khi chạm cơ thể đối phương.
Tào Ưng cũng thức ngộ được sự lợi hại của pho kiếm, liền ái ngại hỏi:
- Liệu hai ta hợp sức có thắng nổi không?
Nhương Thư gật đầu:
- Được! Nhưng trước tiên phải đưa hai mẹ con Thúy Sơn thoát khỏi vòng vây nguy hiểm. Hoàng Tôn Giả đã lại đi hái củi, không đáng lo! Sau đó, chúng ta liên thủ hành động, Tào Ưng huynh hãy thi triển Cửu Huyền Bộ Pháp, bám chặt lưng Tư Mã Hầu mà quấy rối, tạo cơ hội cho ta hạ thủ!
Thiết Kình Ngư đã được chàng dạy cho pho thân pháp ảo diệu kia, nay có dịp áp dụng, lòng rất phấn khởi.
Hai người êm ái chuồn ra phía sau mộc xá, đột nhập vào. Nhương Thư từng ở đây khá lâu nên rành rõ địa hình. Chàng cẩn thận quan sát, nước mắt trào tuôn, nhịp tim loạn xạ khi nhận ra người đàn bà gầy yếu, xanh xao đang ngồi cho con bú kia chính là Bạch Thúy Sơn!
Không để cho tiếng kêu kinh ngạc vang lên, đánh động Tích Bảo Chân Nhân, Nhương Thư lướt đến, búng một đạo chỉ phong khóa á huyệt của Thúy Sơn, bồng xốc cả hai mẹ con lên mà chạy ngược ra phía sau mộc xá.
Lúc đầu, Thúy Sơn còn bỡ ngỡ, nửa mừng, nửa sợ vì gương mặt thực của trượng phu. Nhưng khi nhìn thấy Thiết Kình Ngư và nụ cười rạng rỡ, nàng hiểu rằng đây là sự thực.
Nhương Thư ôm vợ con đến một vùng cây cối rậm rạp, kín đáo, cách mộc xá vài chục trượng mới dừng bước, giải huyệt cho Thúy Sơn.
Tiếng nấc nghẹn ngào bật ra:
- Tướng công! Thiếp mõi mòn trông đợi chàng từng khắc, tưởng chẳng bao giờ được gặp lại nhau.
Nhương Thư nuốt lệ hỏi:
- Tích Bảo Chân Nhân có đáng chết hay không?
Thúy Sơn vừa nức nở vừa gật liên hồi:
- Tư Mã Hầu là người ác độc và tàn nhẫn, tướng công hãy mau giết đi, tuyệt đối không được nương tay!
Hình dung tiều tụy và ánh mắt sợ hãi kia đã biểu hiện được những đắng cay, thống khổ mà nàng phải chịu đựng. Nhương Thư nghe lòng bốc lửa, hôn lên trán Thúy Sơn rồi dặn dò:
- Nàng cứ ẩn náu chỗ này! Ta và Tào huynh giết lão quỉ ấy xong sẽ trở lại ngay!
Tào Ưng cũng nói:
- Sơn muội cứ yên tâm, ta thề sẽ băm nhỏ lão khốn kiếp ấy ra!
Trong lúc xúc động, gã chẳng khách sáo nữa, xưng hô thân thiết như ngày xưa.
Hai kiếm thủ lướt như bay vể sân trước mộc xá, Tích Bảo Chân Nhân vẫn còn say mê luyện kiếm, không hề phát hiện ra khách lạ.
Nhương Thư lạnh lùng hắng giọng, khiến lão giật mình dừng tay, có lẽ Chân Nhân biết chàng nên đảo tròng mắt gian xảo, tươi cười:
- Bần đạo vui mừng được tiếp kiến Tần minh chủ!
Tào Ưng nóng nẩy chửi ngay:
- Đừng xảo quyệt uổng công, bọn ta đã biết rõ cả rồi! Lão hãy dọn mình chờ chết!
Chân Nhân sực nhớ ra rằng nãy giờ không nghe tiếng tiểu hài ọ ẹ, tức thị mẹ con Thúy Sơn đã được giải thoát. Lão tức tối gằn giọng:
- Ngươi tưởng ta sợ chăng?
Nhương Thư phẫn nộ đến mức không thèm lên tiếng, rút kiếm xông vào ngay. Chàng không nên thi triển phép Ngự Kiếm vì thanh Mạc Gia sắc bén vô song, nhưng chàng lại làm thế khiến lão Tích Bảo Chân Nhân mừng rỡ vô cùng. Lão tin rằng mình sẽ đắc thủ ngay chiêu đầu, liền múa tít bảo kiếm lao đến đổi đòn. Pho kiếm pháp của Tư Mã Hầu khác lạ ở chỗ có rất nhiều thế chém, tuy trái với tinh thần kiếm đạo, song lại phát huy được hết uy lực của Mạc Gia Thần Kiếm. Mục tiêu của lão là hủy vũ khí của đối phương trước, hạ sát sau!
Chính Thiết Kình Ngư cũng ngỡ ngàng lo sợ cho Nhương Thư, tưởng chàng vì quá nóng giận nên quên mất sự lợi hại của thần binh.
Nhưng cả hai đều lầm, nỗi căm hờn càng khiến Nhương Thư tỉnh táo suy tính, tìm cách giết kẻ thù nhanh nhất. Việc chàng đánh chiêu Huyền Chi Hựu Huyền bằng phép Ngự Kiếm là giả trá, thân kiếm chỉ được phổ ba thành chân khí. Và khi kiếm sắp chạm kiếm, thân hình Nhương Thư đột ngột bốc thẳng lên cao. Tất nhiên Tích Bảo Chân Nhân hụt mất mục tiêu, thuận đà vẫn lướt đi, thành ra Nhương Thư lại ở phía sau lưng lão.
Chàng không bỏ lỡ cơ hội, lộn ngược đầu, xỉa tả thủ xạ liền sáu đạo chỉ kình mãnh liệt. Là người bách chiến, luôn phải đối đầu với những đại cao thủ, kinh nghiệm lâm trận của Nhương Thư rất dầy dạn. Chàng lo ngại Tích Bảo Chân Nhân mặc giáp nên bỏ thân trên mà tấn công hạ bàn. Do vậy, mông và đùi sau của Tư Mã Hầu trúng đòn, cơ bắp bị tổn thương, không còn có thể đào tẩu được nữa! Lão đau đớn thét lên, vừa sợ hãi vừa bàng hoàng vì bản lãnh kỳ tuyệt của Nhương Thư. Lão không ngờ rằng mình lại thọ thương ngay trong chiêu đầu tiên!
Tích Bảo Chân Nhân đào trộm một ngôi mộ cổ, tìm thấy Mạc Gia Thần Kiếm và kiếm phổ, tưởng mình có thể đứng đầu thiên hạ nhưng lão lại quên rằng mình hoàn toàn thiếu kinh nghiệm giao đấu và điều kiện ấy quan trọng chẳng kém gì võ nghệ.
Giờ đây, có muốn đào vong cũng chẳng xong, lão cắn răng chống cự sự giáp công của hai địch thủ. Vả lại, tài sản bao năm tích cóp ở cả chốn này, dưới nền mộc xá, và khổ thay, lão đã từng khoe với Thúy Sơn.
Nhưng càng đánh, Tư Mã Hầu càng tuyệt vọng bởi thân pháp chập chờn và nhanh như thiểm diện của đối phương.
Hai đùi đau buốt, Tích Bảo Chân Nhân mất hẳn sự linh hoạt, không xoay trở kịp nên trúng vài kiếm của Nhương Thư. Song, quả thực là lão có mặc bảo y bên trong đạo bào nên chẳng chết được.
Nhương Thư mừng vì mình đã hành động đúng, liền tập trung tấn công mặt và bụng dưới kẻ thù. Từng phải đối phó với Hằng Sơn Đại Lão Sầm Cơ Giảo, Nhương Thư đã quen lối đánh Điểm Tinh, dùng toàn những thế đâm, vũ khí không chạm nhau mà vẫn uy hiếp được kẻ thù. Chỉ có người sở đắc kiếm đạo thượng thừa mới làm được như chàng.
Nhương Thư quắc đôi thần nhãn, chiếu xuyên màn kiếm ảnh, thọc những đường gươm thiểm diện làm cho Tư Mã Hầu kinh tâm táng đởm.
Chân đau, lại phải phân tâm đối phó với Thiết Kình Ngư ở phía sau nên dù có bảo kiếm, bảo y mà lão vẫn phải chịu thế hạ phong.
Điều quái lạ của trận đấu này là không hề có tiếng thép chạm nhau, chỉ có tiếng kiếm kình xé gió, tiếng chỉ phong rít ghê người.
Vết thương nơi hai đùi sau càng đau nhức và tuôn máu không ngớt làm cho giảm sức lực của Tích Bảo Chân Nhân. Tất nhiên, bộ pháp của lão cũng chậm dần, mặt và bụng trúng ba chỉ của Nhương Thư, bộ dạng vô cùng thảm não.
Nghĩ đến việc lão là ân nhân cứu mạng Thúy Sơn, Nhương Thư bất nhẫn không muốn giết và lên tiếng:
- Lão hãy buông kiếm đầu hàng, ta sẽ tha mạng cho!
Tích Bảo Chân Nhân đang trong tuyệt vọng nên rất bất ngờ trước tấm lòng từ bi của đối phương. Nỗi vui mừng đã khiến lão phân tâm mà tuyệt mạng.
Thì ra Tào Ưng không hài lòng với quyết định nhân từ của Nhương Thư nên đã hạ độc thủ. Gã ôm kiếm lăn tròn, cuốn đến chân Tư Mã Hầu. Lão ta kinh hoàng vung kiếm chém mạnh, chặt gẫy vũ khí của họ Tào. Thanh Mạc Gia thần kiếm thuận đà hung hãn xả xuống người Thiết Kình Ngư. Song Nhương Thư đã không để lão giết chết người thân của mình, kịp ập vào thọc kiếm tiện đứt cánh tay hữu Tích Bảo Chân Nhân, cứu mạng Tào Ưng.
Thiết Kình Ngư chẳng hề ngần ngại, nghiến răng đâm thủng bàng quang lão ác đạo bằng thanh kiếm gẫy chỉ còn một nửa.
Gần cuối trung tuần tháng bẩy, có hai cỗ xe song mã dừng trước tổng đàn võ lâm.
Tiếng reo hò vang lên náo nhiệt khi hai mẹ con Thúy Sơn được Hoàng Tôn Giả đỡ xuống xe. Cỗ song mã thứ hai chất đầy ngọc ngà châu báu và cổ vật. Tào Ưng đã vét sạch gia sản của Tích Bảo Chân Nhân!
Lệ đoàn viên nhỏ như mưa, tiếng khóc lẫn tiếng cười, niềm vui lớn đến nỗi chẳng bút nào tả xiết.
Kẻ xấu hổ thẹn thùng là Điền Ngọc Trâm. Người được an ủi là Điền Mã Lan vì con của Thúy Sơn cũng là gái.
Trong tiệc mừng chiều hôm ấy, cả nhà lắng nghe Thúy Sơn kể lể sự tình. Thì ra nàng may mắn rơi xuống một chiếc thuyền lớn chở lông cừu, đang xuôi giòng Hoàng Hà.
Vào thời nhà Minh, sông Hoàng Hà đã đổi dòng chảy xuống phía Nam bán đảo Sơn Đông, ra biển bằng cửa của sông Hoài, trên đất Giang Tô. Bởi vậy, thổ sản vùng Tây Bắc Trung Hoa thường được đưa ra miệt duyên hải phía Dông bằng đường sông Vị Thủy, rồi Hoàng Hà.
Lông cừu của thảo nguyên Tây Bắc cũng là nguyên liệu quan trọng cho các xưởng dệt len ở Giang Nam. Những bao bố lông cừu nhẹ nhưng cồng kềnh, nên chủ thuyền phải chất cả lên trên thì mới chở được nhiều. Trời cao có mắt nên đã xui khiến Thúy Sơn đáp đúng vào chỗ êm ái, rồi mới văng xuống nước.
Dù vậy, nàng cũng khó thoát chết bởi sóng dữ nếu thuyền con của Tích Bảo Chân Nhân không neo ngay sát bờ sông. Lão nghiên cứu cổ thư, biết vách đoạn bờ sông này đã từng là nơi chôn cất một nhà đại phú gốc Thổ, theo lối Nham Mộ Thuyền Quan Táng.
Phong tục mai táng độc đáo này được người dân Thổ thực hiện từ hàng ngàn năm nay. Ở những khu vực như Tam Hiệp Trường Giang, Ba Đông, khu vực sông Bảo Tịch Thủy, sông Lộ Khê, sông Vũ Thủy, hai bên bờ sông vách cao dốc đứng có hàng loạt động nham thạch, trong động đặt những quan tài gỗ hình chiếc thuyền. Người Thổ đã đục đẽo vách vực sông thành hang rồi đưa linh cửu vào.
Tay nhà giàu kia lập nghiệp tại Khai Phong nên khi chết đã được con cháu chôn ở vách sông Hoàng Hà. Vì ngôi mộ này mà Tích Bảo Chân Nhân đã dựng nhà trong cánh rừng trên bờ sông để tiện việc tìm kiếm. Nghĩa là Tư Mã Hầu chẳng hề hay biết chuyện mộc xá có người đến ở cũng như sự truy tìm Mạc Gia Thần Kiếm của Báo Ứng Hội.
Lão ta đã kịp vớt Thúy Sơn lên thuyền, chữa trị nội thương cho nàng. Nhưng khổ thay, một kẻ suốt đời không màng nữ sắc lại vấp ngã trước dung nhan của người đàn bà bụng mang dạ chữa.
Tư Mã Hầu không hề để lộ dã tâm, đêm Thúy Sơn về mộc xá chăm sóc. Song lại ngấm ngầm phong tỏa chân khí. Lão đã đến đại hội võ lâm tìm Hồng Diện Tôn Giả, báo tin Thúy Sơn còn sống. Trên đường đi Khai Phong, Tư Mã Hầu ám toán Hoàng lão rồi dùng Nhiếp Hồn Thuật khống chế.
Tích Bảo Chân Nhân dùng sinh mạng của Tôn Giả để uy hiếp Thúy Sơn, bắt nàng phải lấy mình.
Đoán rằng sớm muộn gì Nhương Thư cũng quay lại mộc xá để tưởng niệm, Thúy Sơn liền dùng kế hoãn binh, hẹn rằng sau khi sanh nửa năm, con thơ dứt sữa sẽ thành thân. Quả nhiên, Nhương Thư đã đến kịp thời, trước khi Tư Mã Hầu dọn đi nơi khác.

Hồi 20

Tuyết Thượng Uyên Ương Thiên Lý Hiệp
Tây Hạ Hồng Nhan Đãi Cố Nhân

Xuân về, tổng đàn võ lâm rộn rã tiếng cười và tiếng khóc oe oe của năm tiểu hài. Từ Thanh Huệ, vợ Hoàng Tuyệt Nghi đã hạ sinh một nam hài hồi giữa tháng bẩy.
Sau Tết Nguyên Đán, sự vụ tổng đàn càng bội phần đa đoan, nhân thủ phân chia tứ tán đi công cán các địa phương. Hồng Diện Tôn Giả và vợ chồng Ải Thần Quân thì xuống Phúc Kiến du ngoạn núi Võ Di Sơn, chỉ còn Nhương Thư và hai lão khách khanh ở lại
Trưa mười chín tháng giêng, Vô Ưu Cái và tri phủ Hà Nam đột ngột xuất hiện, sắc mặt trầm trọng. Tây Môn tri phủ mặc triều phục nghiêm chỉnh, chứng tỏ lão đến đây vì việc công chứ chẳng phải thăm suông!
Hai chục gã vệ binh được lệnh ở ngoài sân, chỉ mình tri phủ vào sảnh. Lão ngượng ngùng nói:
- Phiền chư vị quỳ xuống để tiếp thánh chỉ!
Tây Môn Đạt mở thánh chỉ, trang trọng đọc:
“Thánh Hóa Đệ Thập Tứ Niên, Nguyên Nguyệt, Nguyên Nhật, Phụng thiên thừa vận Hoàng Đế chiếu viết: lão Thái Hậu ngọc thể bất an, thường bị đau đớn bởi chứng thấp khớp, trẫm nghe nói Đại Tù Trưởng Ba Lạc Sinh Hòa, Tây Hạ có một nhánh Thiên Niên Tam Thất khả dỉ trị dứt ác bệnh cho Thái Hậu. Tiết độ sứ Tây Hạ là Quan Hải Hiền Khanh đã tấu rằng Ba Lạc Sinh Hòa sẳn lòng dâng tặng, nhưng phải có người dũng lược đến nhận mang về Bắc Kinh! Trẫm nghĩ rằng không ai đủ tài đảm đương trọng trách này hơn Trung Nguyên võ lâm minh chủ, vậy Tần hiền khanh hãy mau lên đường đến Tây Hạ. Mong hiền khanh chớ phụ long kỳ vọng của trẫm. Khâm thử!”
Nghe xong thánh chỉ, Ngọa Long Tú Sĩ và Bất Trí Thư Sinh bấm tay xem quẻ dịch.
Chỉ cần nhìn sắc diện tái xanh và ánh mắt kinh hoàng của họ là đủ biết tượng quẻ xấu đến mức nào!
Nhương Thư kính cẩn mời Tây Môn tri phủ và Vô Ưu Cái an tọa! Hầu Bang chủ rầu rĩ nói ngay:
- Đây là cái bẫy của Nghiên Tái Thuần! Trong thánh chỉ không nêu kỳ hạn, Tần hiền đệ khoan hãy khởi hành, chờ có tin từ Bắc Kinh xem sao! Lão phu đã lệnh cho phân đà Bắc Kinh dọ hỏi quan Tả Đô Ngự Sử họ Lâm!
Bất Trí Thư Sinh thiểu não rung giọng:
- Dẫu biết rõ nội tình cũng cô ích! Tượng quẻ vô cùng hắc ám, Thiên la địa võng giăng đầy, không có phương vị nào là sinh môn cả! Dù chúng ta kéo hết quân số tồng đàn đi theo Tần hiền đệ thì cũng chẳng một ai sống sót trở về!
Cử tọa chấn động nhìn nhau may mà đám nữ nhân nghỉ trưa, chỉ mình Đoan Mộc Anh có mặt! Anh nhi thì không biết sợ là gì và cũng không tin bói toán!
Tây Môn Tri phủ cũng thở dài:
- Nội dung thánh chỉ đã khiến lão phu nghi ngại bởi thánh thượng không hề phong cho Tần minh chủ chức danh khâm sứ, không quân bảo vệ! Nghĩa là dầu cho Nhương Thư có chết trên đất Tây Hạ thì Ba Lạc Sinh Hòa cũng chẳng hề mang tội!
Guơng mặt thô lậu, mộc mạc của Bất Trí Thư Sinh nặng trĩu nỗi lo âu và hỗ thẹn, vầng trán rộng nhăn tít lại tựa luống cây. Bỗng lão lẩm bẩm:
- Chỉ còn cách đấy thôi!
Rồi lão bảo Đoan Mộc Anh:
- Phiền thất phu nhân ra ngoài cho lão hỏi vài câu!
Anh nhi cau mày:
- Ở đây toàn người nhà, lão muốn hổi gì thì cứ nói phứt ra, sao lại phải đi chỗ khác?
Sau khi Thúy Sơn trở về, thứ tự thê thiếp của Nhương Thư được xác định lại. Đại phu nhân là Bạch Ngọc Tiên Tử, kế đó là Thúy Sơn, Ngọc Trâm, Mã Lan, Bạch Cúc, Uyển Xuân rồi Đoan Mộc Anh vậy, Anh nhi được gọi là thất phu nhân.
Cao Trường Toản ấp úng, ngượng ngùng hỏi đại:
- Lão phu muốn biết phu nhân đã có kinh nguyệt chưa và... đã lần nào gần gủi minh chủ?
Tri phủ Hà Nam trợn mắt kinh ngạc vì chẳng ai hỏi một người đàn bà có chồng câu ấy! Còn Đoan Mộc Anh thì phá lên cười nắc nẻ:
- Lão nói chi mà khó hiểu? Kinh nguyệt là cái quái gì mà ta phải có? Còn việc gần gủi đại ca thì tất nhiên rồi, phu thê chúng ta thường ôm nhau ngủ rất ngon! Và thỉnh thoảng ta còn cởi...!
Nhương Thư thất kinh hồn vía, đưa tay bịt miệng Anh nhi, mặt đỏ như gấc, nói với Cao lão:
- Anh muội vẫn còn là đồng nữ!
Cả bàn tủm tỉm cười, và Vô Ưu Cái khen ngợi:
- Thư đệ thực đáng khâm phục!
Bất Trí Thư Sinh thở phào, bấm tay tín toán rồi nghiêm giọng:
- Đầu giờ ngọ sang một Tần hiền đệ cứ việc lên đường! Lão phu đã có cách biến hung thành cát!
Ai nấy đều mừng, chỉ riêng Ngoạ Long Tú Sĩ biến sắc.
Sau bữa cơm trưa, Tây Môn Tri phủ lật đật cáo từ để về Lạc Dương. Tong lúc Vô Ưu Cái uống trà, hàn huyên với Nhương Thư, Lỗ Tú Sĩ rủ Cao Thư Sinh về tiểu viện của mình.
Tú Sĩ thở dài:
- Cao hiền đệ định lập Ngọc Nữ Hộ Mệnh Pháp Đàn, đem mười năm tuổi thọ để giải kiếp nạn cho Nhương Thư đấy ư?
Lỗ Đăng Hân hơn Cao Trường Toản năm tuổi, có thể xem mình là bậc huynh trưởng!
Cao lão rầu rĩ đáp:
- Tiểu đệ đã đào tạo nên tên nghiệt súc Tái Thuần, gây họa cho võ lâm thì phải chịu trách nhiệm! Nay không ai đủ bản lãnh đi theo hỗ trợ cho Nhương Thư, tiểu đệ đành phải mượn sức quỉ thần vậy! Đời là bể khổ, Toản này chết sớm mười năm cũng chẳng sao!
Lỗ Đăng Hân mỉm cười:
- Trong thiên hạ đương thời, chỉ có Bất Trí Thư Sinh xứng là tri âm của Ngọa Long Tú Sĩ! Người chết sớm thì lão phu sẽ buồn lắm, vì thế, chúng ta sẽ cùng chủ tế, chia nhau số năm tuổi thọ!
Cao Lão vô cùng cảm động, song lại phân vân:
- Lỗ hiền huynh tuổi thọ đã cao, không nên làm như vậy!
Lỗ Tú Sĩ cười xòa:
- Hiền đệ chớ lo, lão phu thọ mệnh chín mươi năm, bỏ ra năm chẳng thấm tháp gì!
Cao Trường Toản chỉnh sắc đứng lên vái thật sâu:
- Tấm long nhân hậu của Lỗ hiền huynh tiểu đệ chẳng biết lấy gì mà báo đáp?
Lỗ Đằng Hân tủm tỉm đáp:
- Ta còn nợ ngươi hai bàn tay và chiếc lưỡi mà!
Tối đến, hai lão bàn bạc với Nhương Thư về việc lập đàn bảo mệnh. Song không nói ra việc họ bị tổn thọ!
Nhương Thư không tin những nghi thức thần bí của đạo giáo nhưng chẳng dám phản bác, phụ lòng quan hoài của hai vị quân sư!
Sáng hôm sau, Ngọa Long Tú Sĩ và Bất Trí Thư Sinh bắt tay vào việc chế tạo cờ quạt, vẻ bùa chú. Một mộc đàn cao nửa trượng cũng được dựng ở vườn hoa phía sau võ lâm đại sảnh.
Điền Ngọc Trâm thì tất bật vào huyện thành Đăng Phong mua sắm giấy tiền vàng bạc, nhang đèn, gà vịt, dê, cừu để tế lễ.
Nhương Thư thoáng nghe lòng hổ thẹn với vong linh của ân sư, thở dài bảo Vô Ưu Cái:
- Hầu lão ca! Tiểu đệ được ân sư hết dạ tài bồi, dậy dỗ mà nay phải nhờ đến quỉ thần hộ vệ thì còn mặt mũi nào xưng danh là học trò của Phật Đăng Thượng Nhân nữa?
Vô Ưu Cái cười vuồi, nghiêm nghị đáp:
- Năm xưa, sư phụ ngươi không hề có đối thủ nên chẳng cần gây sát nghiệp cũng trừng trị được tà ma. May hiền đệ tuổi trẻ lại toàn gặp phải ma vương quỉ dữ nên phải giết người để toàn sinh, gieo nhiều nhân xấu. Lão phu nghe Lỗ Tú Sĩ bảo rằng Nghiên Tái Thuần đã dùng đến phép Chiêu Vong Báo Ứng Lục Đinh, qui tụ oan hồn uổng tử những người đã chết dưới tay ngươi để bày ma trận. Do vậy, hai lão đạo sĩ thiên sư kia mới phải mượn con bé Đoan Mộc Anh mà giải phá!
Lão dừng lời, nhấp hớp trà rồi nheo mắt nói tiếp:
- Ngươi là sư sãi cửa chùa tất không tin việc quỉ thần. Vậy thì cứ điềm nhiên xem như pháp đàn kia hoàn toàn vô dụng! Hà tất hiền đệ phải chấp nhất việc có, không, chẳng có, chẳng không làm gì?
Nhương Thư tỉnh ngộ vái Vô Ưu Cái:
- Hầu lão ca qủa là bậc chân nhân sáng suốt! Tiểu đệ đã nghe lòng thanh thản, chẳng còn vướng bận gì cả!
Chiều buông, một toán đạo sĩ đông độ gần bốn chục người đã có mặt ở tổng đàn võ lâm, tham gia việc tế lễ.
Những đạo nhân này là người của Chân Võ Đạo Quán trên núi Ngọc Nữ Phong gần đấy!
Người Trung Hoa rầt chuộng hai từ Ngọc Nữ khi đặt tên núi, do vậy, có ít nhất ba đỉnh mang tên Ngọc Nữ phong.
Trong đỉnh của Hoa Sơn là một, núi Võ Đang ở Hồ Bắc là hai, và rặng Tung Sơn có nàng Ngọc Nữ thứ ba! Phải chăng hình dáng những ngọn núi này giống với bộ phận gợi cảm, mỹ miều nào trên cơ thể con gái?Hay vì chúng quá diễm lệ nên được ví với nữ nhân?
Chân Võ Đạo Quán, trên Ngọc Nữ Phong của dãy Tung Sơn, vốn là cơ sở thứ hai của phái Võ Đang. Có những giai đoạn lịch sử, phái này đã đặt cứ địa ở đây để tiện việc giáng ma, hoặc tranh giành ảnh hưởng với chùa Thiếu Lâm. Nhưng hiện giờ đến Chân Võ chỉ là một đạo quán bình thường, do sư đệ của chưởng môn là Thông Hạc Chân Nhân là quán chủ!
Cuối canh một thì đồ tế đã sẳn sàng, cuộc cúng tế bắt đầu. Mặt đàn gỗ khá rộng vuôn vức mỗi bể trượng rưỡi, chung quanh cắm la liệt cờ, phướn bằng vải hay giấy, vẽ đầy những nét ngoằn ngèo bí ẩn, bằng máu gà trống.
Trên chiếc hương án lớn, mượn của Chân Võ Đạo Quán, có tranh tượng Tam Thanh và càc vị thần đạo giáo như như Cửu Thiên Huyền Nữ, Lê Sơn Thánh Mẫu, Thái Bạch Kim Tinh....
Chư thần của đạo giáo xuất hiện khá nhiều trong hai tác phẩm Phong Thần và Tây Du Ký. Vài trăm năm sau, người Trung Hoa vẫn giữ gìn những nghi thức trai tiên của đạo giáo trong việc cầu an, ma chay, nhưng có thêm một bàn thờ phật kế bên, treo tượng Quan Âm Bồ Tát hoặc Phật Di Đà, lễ vật là đồ chay! Khả năng dung hòa của họ quả đáng kinh ngạc!
Ngoài rượu thịt, vật hiến tế quan trọng nhất của Ngọc Nữ hộ mệnh pháp đàn chính là đồng nữ, vì Anh nhi còn trinh tiết và cũng chưa có hiện tượng kinh nguyệt!
Pháp đàn quay mặt về hướng nam, hai pháp sư thì ngược lại. Đoàn Mộc Anh thả tóc, mặc áo dài trắng, quỳ trước hương án, ngoan ngoãn cúi lạy mỗi lần được lệnh.
Đôi mắt đen tròn của Anh nhi láo liên, ranh mãnh, miệng thoáng điểm nụ cười thích thú. Với nàng đây là một trò chơi lạ lẫm và khôi hài.
Ngọa Long Tú Sĩ và Bất Trí Thư Sinh nghiêm trang trong tấm đạo bào trắng, ngực thêu hình bát quái, đầu đội đạo quan đứng song song với nhau!..
Hai người đọc nhanh những đoạn kinh trúc trắc, khó hiểu, song thủ lien tục bắt ấn quyết, hoặc múa kiếm gỗ đào, đốt những đạo bùa bằng giấy màu vàng.
Dưới chân pháp đàn, mấy chục đạo sĩ Võ Đang ê a tụng Kinh Huỳnh Đình, âm điệu bổng trẫm du dương, hòa theo tiếng đàn, sáo, sênh, phách dặt dìu.
Giữa canh ba thì cuộc tế lễ mới kết thúc nhưng pháp đàn sẽ được duy trì nhang khói cho đến lúc Nhương Thư và Đoan Mộc Anh quay trở lại.
Bất Trí Thư Sinh nghiêm nghị bảo Nhương Thư:
- Giờ đây thất phu nhân đã được Cửu Thiên Huyền Nữ cho quỉ thần hộ vệ, ma quái oan hồn phải lánh xa. Đồng thời, nàng ta có thể linh cảm được những tai họa sắp xẩy đến, do vậy, Tần minh chủ hãy tin tưởng những gì thất phu nhân nói ra!
Nhương Thư thấy cô vợ trẻ con của mình vẫn thao láo đôi mắt tinh quái, chẳng có biểu hiện gì khác lạ, lòng bán tín bán nghi, gật đầu đáp:
- Tại hạ xin tuân mệnh tiên sinh!
Bỗng Đoan Mộc Anh cười khúc khích hỏi:
- Này Cao đạo sĩ! Nếu dọc đường đột nhiên ta bị “trọng thương” thì sao?
Bất Trí Thư Sinh ngơ ngác:
- Sao lại thọ thương được khi đã có bách thần hộ vệ?
Anh nhi nhăn mặt:
- Sao lão ngu quá vậy! Thọ thương tức là... ấy mà!
Vừa nói, nàng vừa chỉ vào cái gò nhỏ hoang sơ, rậm rạp của mình. Bất Trí Thư Sinh thẹn đỏ mặt còn bọn đàn bà ôm bụng cười ngất.
Ngọa Long Tú Sĩ tủm tỉm đỡ lời đồng nghiệp:
- Dẫu có việc ấy cũng chẳng sao, lão phu sẽ chỉ cho minh chủ cách đối phó!
Lão nhếch mép cười rồi bảo Nhương Thư:
- Đêm nay minh chủ có thể cận kề các phu nhân, không cần kiêng kỵ!
- Các nàng thẹn thùng nhưng lòng rất biết ơn lão già tế nhị kia! Dĩ nhiên không tính đến Đoan Mộc Anh. Bốn hài nhi đã có nhũ mẫu chăm lo, để năm nàng lần lượt vào phòng Nhương Thư từ tạ!
Ai cũng bảo trên đời sướng nhất là vua, vì ngoài quyền lực, thiên tử còn có hang trăm phi tần, cung nữ, tha hồ hưởng lạc. Nhưng tất cả treo rau ngon ở cửa hoan phòng, để mời gọi xe dê, đều không có tình yêu. Họ chỉ mong một vài đêm mưa móc sẽ cho ra Hoàng nam, hưởng phần vinh hiển.
Vì vậy, có thể nói rằng Nhương Thư sướng hơn vua. Chàng có sáu người vợ xinh đẹp, tính cách khác nhau song đều một lòng yêu thương chồng. Họ không cần vinh hoa phú quí, chỉ cần được cùng chàng sống đến bạc đầu!
Tục đa thê của xã hội phong kiến Trung Hoa đã khiến các nàng có hạnh phúc trong cảnh chồng chung! Tuy đáy lòng cũng có chút ghen hờn, song không vì thế mà gia sự rối ren! Hơn nữa, tranh giành làm gì khi Nhương Thư luôn là một chinh nhân, suốt đời xông pha hiểm địa, sinh tử khó lường! Các nàng lo sợ nhưng tự hào được làm vợ một bậc anh hùng cái thế, khí độ nhân từ, được cả võ lâm tôn sùng!
Đất Tây Hạ nằm phía Tây Bắc Trung Hoa, rộng mênh mông, gần tỉnh Minh Hạ và một phần Tuy Viễn bây giờ. Phía bắc Tây Hạ là sa mạc Đại Qua Bích, ba phía Tây, Nam, Đông giáp Cam Túc và Thiểm Tây.
Đây là lãnh thổ của dân tộc Hồi, và người Hồi Đảng Hạ là đông đảo, hùng mạnh nhất. Nhà Minh đã lập bộ máy cai trị Tây Hạ, đứng đầu là quan Tiết Độ Sứ. Nhưng triều đình không thu được một xu thuế nào của người Hồi, là còn phải chẩn tế mổi khi Tây Hạ bị hạn hán. Chính sách khoan dung này nhằm mục đích giữ cho người Hồi không nổi loạn, tách khỏi Trung Hoa như dưới thời nhà Tống!
Cuối tháng giêng, Nhương Thư và Đoan Mộc Anh đến Trường An nghỉ ngơi hai ngày rồi sang bờ Bắc song Vị Thủy, đi dọc Vị Thủy, đi dọc song Kinh Hà để đến Ngân Xuyên, thủ phủ của vùng Tây Hạ!
Kinh Hà là phụ lưu lớn nhất của song Vị Thủy, phát nguyên từ rặng Lục Bàn Sơn. Toàn bộ chiều dài và lưu vực của Kinh Hà đều nằm trong vùng cao nguyên Hoàng Thổ nên nước sông đục ngầu chẳng kém Hoàng Hà!
Địa hình Hoàng Thổ gồ ghề, hiểm trở thế nào thì chư vị độc giả cũng đã rõ. Dù đã sang tháng hai này tuyết vẫn rơi lất phất, làm cho đường đi nhầy nhụa một lớp bùn dẻo đặc quánh, hai con tuấn mã bước đi khó khăn, cước trình rất chậm chạp và gian khổ, biến việc cỡi ngựa thành một cực hình nhất là đối với nữ kỵ sĩ.
Trong võ lâm, việc mang gươm dong ruổi đường thiên lý hành hiệp vốn không phải của đàn bà con gái! Làn da mông, da đùi mịn màng, mỏng manh của họ chẳng thể nào chịu đựng nổi những cuộc cỡi ngựa đường dài! Nhất là khi tháng nào họ cũng có những ngày khó ở! Tóm lại, các ả nữ hiệp dù giỏi võ đến đâu cũng chỉ nổi tiếng trong phạm vi một địa phương thôi!
Đoan Mộc Anh thì khác, làn da đen bánh mật của nàng quen phơi dưới nắng mưa, chẳng mảnh vải che thân, nên quen dãi dầu sương gió, khả năng chịu đựng cọ xát rất tốt còn sức khỏe thì thật phi thường, chẳng thua một con báo cái!
Vẻ hoang sơ, ảm đạm của vùng cao nguyên Hoàng Thổ không hề làm Đoan Mộc Anh bớt đi sự thích thú của người khách lạ, và nỗi hân hoan được đồng hành với Nhương Thư! Nàng luôn miệng nói cười, ríu rít như chim sơn ca khiến đường dài bớt tịnh mịch.
Đây là lối đi ngắn nhất để đến Tây Hạ, song cực kỳ khó khăn nên ít người dám sử dụng. Do vậy, dọc đường dân cư thưa thớt, vài chục dặm mới có một xóm nhỏ.
Bách tính của vùng cao nguyên không dựng nhà trên mặt đất như ở Trung Nguyên mà lại khoét những vách đất vàng, đào hang mà cư ngụ. Có lẽ họ muốn tránh những cơn giông cát bụi khủng khiếp, năm nào cũng có vài lần. Lúc ấy, bụi vàng mù mịt không gian, che khuất cả vầng dương, chui vào mũi miệng con người. Tất nhiên bão sẽ thổi ập nhũng căn nhà gỗ lá đơn sơ. Xem ra, ở trong hang kín đáo và an toàn hơn. Địa mạo vùng Hoàng Thổ bị nước mưa xới mòn, chia ngang xẻ dọc như lòng sông cạn nên vách đất chẳng hề thiếu.
Không người thì không lương thực, vợ chồng Nhương Thư phải săn thú mà lót dạ. Điệu này càng khiến Anh nhi cao hứng, nàng là một thợ săn thiện nghệ.
Có nhiều đêm, hai người phải ngủ dưới một hào sâu kín gió, cạnh đống than hồng âm chỉ cháy. Đoàn Mộc Anh sung sướng nép thân hình nhỏ bé mảnh mai vào người Nhương Thư để tìm hơn ấm. Nàng tinh nghịch sờ mó, vuốt ve chàng nhưng chỉ lát sau đã ngủ rất ngon. Nhương Thư hài lòng với mối quan hệ vợ chồng thanh bạch này, cố giữ gìn dù biết rằng một ngày nào đó sẽ mất đi. Đoan Mộc Anh sẽ trưởng thành, chàng có thêm vợ song lại chẳng còn em gái!
Cuối tháng hai Nhương Thư và Anh nhi mới đến vùng thượng nguồn sông Kinh Hà, vượt sườn cực Tây Lục Bàn Sơn bằng đèo Vân Hải. Đèo này nối liền địa phận Thiểm Tây và Tây Hạ.
Núi đồi trên cao nguyên Hoàng Thổ thường ít cây cối, chỉ toàn đá và đất, riêng Lục Bàn Sơn lại um tùm, rậm rạp những loài cây vùng ôn đới, chủ yếu là loài lá kim. Chính những khu rừng bạt ngàn này đã tích trữ mưa, băng tuyết để cung cấp cho sông Kinh Hà.
Ở vùng hạ Tây Bắc, mùa đông kéo dài đến tận tháng tư nên tuyết rơi mù mịt, tiết trời cực kỳ lạnh giá, băng phủ kín tàn cây và đường mòn qua núi.
Đèo dốc đứng, trơn trượt, không thường được sử dụng nên bị hư hại nặng nề, nền đường lở từng mảnh lớn. Biết tuấn mã chẳng thể nào lên đèo được, hai kỵ sĩ tháo yên cương giấu trên ngọn cây rồi thả chúng vào rừng. Có thể hai con ngựa không sống sót nổi dưới nanh vuốt của bầy thú dữ, song chẳng còn cách nào khác!
Nhương Thư và Đoan Mộc Anh đeo bọc hành lý, rảo bước vượt đèo, lên đến đỉnh thì trời đã hoàng hôn. Trên vị trí cao vút này, gió đông rít vù vù, mang theo hàng vạn bống tuyết như muốn chôn vùi hai lữ khách.
Dù được che chở bởi áo mũ lông cừu thượng hạng song Đoàn Mộc Anh cũng rét run cầm cập, bảo Nhương Thư:
- Đại ca! Tiểu muội chịu hết nổi rồi! Công tử tìm hang hốc mà nghỉ chân sáng mai đi tiếp!
Nhương Thư vuốt tuyết trên mặt, đảo mắt nhìn vàch núi mé hữu, chẳng thấy chổ nào trú chân được liền cúi xuống:
- Anh muội hãy lên lưng để ta cỗng đi thêm một đoạn, may ra tìm được chỗ qua đêm!
Anh nhi ngoan ngoãn nhẩy phóc lên lưng, vỗ vai chàng rồi thét:
- Nào tiến lên tuấn mã!
Ngương Thư phì cười:
- Nàng dám xem ta là ngựa ư?
Tuy nói vậy nhưng lòng chàng rất vui trước những trò trẻ con của Anh Nhi. Tuổi thơ của Nhương Thư đầy ắp gian khổ, sau đó là cuộc sống trang nghiêm nơi cửa Phật, chỉ chuyên tâm kinh kệ và luyện võ!
Nhương Thư cộng lực phi phàm, nhãn lực tinh tường, tiến bước rất nhanh. Chàng nhận ra ngay bóng dáng của một ngối miếu ở dưới lưng chừng đèo bên kia, mừng rỡ chỉ cho Đoan Mộc Anh:
- Anh muội! Dưới kia có một ngôi miếu.
Đoan Mộc Anh ngóc đầu lên nhìn, bỗng rùng mình run giọng:
- Đại ca! Dường như tiểu muội thấy rất nhiều bóng ma đang bay lượn trên nóc miếu ấy. Chúng ta đừng đến đấy!
Nhương Thư căng mắt quan sát mà chẳng thấy gì cả. Song nhớ lời Bất Trí Thư Sinh nên dừng bước, không đi về hướng ấy nữa. Chàng phân vân ngẩng đầu nhìn dáo dác, phát hiện vách núi đứng cạnh mình có một động khẩu nhỏ. Chàng mừng rỡ thả Đoan Mộc Anh xuống, tung mình lên xem thử. Độ cao hai trượng ruỡi chẳng thể làm khó được chàng. Nhương Thư lom khom chui vào vì nóc hang khá thấp, bật hỏa tập xem xét. Hang sâu hai trượng, nền đá khô ráo, không hề có rắn rít, quả là nơi nghỉ ngơi lý tưởng.
Chàng hân hoan thò đầu ra gọi:
- Anh muội lên đây!
Đoan Mộc Anh nhún chân bốc cao được chàng túm lấy kéo vào trong. Nàng thấp hơn Nhương Thư cả gang tay nên có thể đứng thẳng lưng mà không sợ u đầu!
Hang đá này như một chiếc bình kín đáy, miệng hẹp nên gió đông không vào được sâu, chỉ rải tuyết phía ngoài. Hai người hoan hỉ dủng bữa chiều bằng lương khô, bốt tuyết thay nước uống. Và trải áo lông nằm nghỉ. Tấm làm chiếu, tấm làm chăn xem ra cũng ấp áp.
Đoan Mộc Anh ôm chặt thân hình ấm nóng của Nhương Thư, ngáp ngắn ngáp dài lát sau thiếp đi vì mệt nhọc. Hơn tháng trời bôn ba gian khổ, ngay Nhương Thư còn uể oải chứ đừng nói chi nàng! Và cuối cùng chàng cũng ngủ vùi!
Quá nửa đêm, cái lạnh của mùa đông Tây Bắc đến cực điểm khiến cơ thể nhỏ của Anh nhi run lên bần bật, làm Nhương Thư tỉnh giấc. Chàng vội vận công cho người nóng rực lên, sưởi ấm cho nàng. Dĩ nhiên chàng không thể ngủ được, nằm thao thức nghĩ suy, thầm hối hận đã đem cô bé tội nghiệp này theo! Chàng nghe tim nhói đau, khi đặt giả thiết rằng pháp đàn của Bất Trí Thư Sinh và Ngoạ Long Tú Sĩ chẳng hề linh ứng, hiệu nghiệm. Lúc ấy, Anh nhi sẽ phải chết một cách vô ích! Nếu đi một mình, chàng tự tin có thể thoát thân dù đối phương đông đến hàng ngàn, nhưng khi vướng bận Đoan Mộc Anh, cả hai sẽ bỏ mạng!
Nhương Thư thằm trách mình đã không đủ tự tin, suốt đời chỉ hành động theo sự xấp xếp của người khác, giờ đây di hại đến Anh nhi!
Đoan Mộc Anh đang ngủ say trong vòng tay chàng bỗng ú ớ rồi bật dậy. Nhương Thư kéo nàng nằm lại miệng vỗ về:
- Anh muội đừng sợ, đại ca ở đây mà!
Đoan Mộc Anh ngoan ngoãn nghe lời song không ngủ và hỏi chàng:
- Đại ca có tin vào tác dụng của cái pháp đàn quỷ quái kia không?
Nhương Thư bật cười:
- Chẳng phải lúc chiều người đã nhìn thấy ma đấy sao?
Đoan Mộc Anh lắc đầu:
- Không chắc lắm! Giờ nghĩ lại, tiểu muội cho rằng mình đã hoa mắt, hoặc bị lời nói của Cao lão ám ảnh nên tưởng tượng!
Nàng hạ giọng buồn rầu:
- Lúc nãy, tiểu muội nặm mộng thấy phụ thân. Ông nói rằng “ta đến đón con đấy” vậy là tiểu muội sắp chết rồi!
Kể xong, nàng bật khóc rấm rức, Nhương Thư chưa kịp an ủi thì từ hướng bắc vọng lại một tiếng nổ kinh hồn. Hai người vội chạy ra cửa hang thò đầu nhìn. Tòa cổ miếu ở lưng chừng đèo đang bốc cháy ngùn ngụt, dù tuyết rơi như mưa!
Nhương Thư hiểu ngay rằng ngôi miếu đã bị gài hỏa dược và ai vô tình mở cửa, hoặc vào miếu sẽ bị tan thây!
Nghiên Tái Thuần đề phòng chàng đi đường này nên đã đặt bẫy. Vậy là linh cảm của Đoan Mộc Anh hoàn toàn chính xác!
Chàng quay lại bảo:
- Anh muội còn nghi ngờ phép mầu của đạo gia nữa không?
Anh nhi cười khúc khích:
- Chính đại ca cũng đâu có tin!
Sau hôm nay, hai người xuống đèo, thận trọng quan sát ngôi cổ miếu đã cháy rụi, lửa tắt vì tuyết phủ. Đùi sau một con báo gấm nằm lại cách nên đất không xa, chứng tỏ chính nó đã mò vào miếu trốn tuyết, chết thay cho họ.
Nhương Thư nhiều lần đàm đạo với Mục Tử Lượng, biết rằng cơ quan kích nổ gài ngang cửa. Con vật xấu số chạm cánh cửa miếu nên tan xác.
Hai người nhìn nhau le lưỡi, tiếp tục cuộc hành trình. Anh nhi thản nhiên vác đùi báo theo để làm lương thực.
Ba ngày sau họ đến một con sông hẹp nhưng bờ cao hàng chục trượng, nước chảy như thác lũ, muốn qua phải sử dụng cầu treo.
Chiêc cầu này dài độ sáu trượng, được căng bằng hai sợi xích sắt cọng lớn cỡ ngón tay cái. Sàn cầu là những tấm ván có đoạn mất vài miếng vì mục nát. Gió bấc thổi ào ào, làm chiếc cầu đong đưa trông rất đáng sợ.
Đoan Mộc Anh run rẩy thì thầm:
- Đại ca! Tiểu muội lại nhìn thấy hàng trăm bóng ma lởn vởn trên cầu! Có lẽ đây là bẫy, chúng ta chẳng nên qua!
Nhương Thư nhớ đến vụ nổ nơi cổ miếu, ngao ngán thở dài, trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Chúng ta quay lại tìm lối khác vậy!
Chàng kéo Anh nhi đi ngược lại, được vài chục trượng thì lủi vào rừng, tìm cây có chạng ba lớn nhẩy lên. Đoan Mộc Anh ngơ ngác hỏi:
- Mới là giữa trưa, sao đại ca không tranh thủ tìm lối đi an toàn, lại nghỉ ngơi làm gì?
Nhương Thư mỉm cười:
- Đây chính là đoạn sông hẹp nhất, chẳng còn chổ nào qua được! Hầu lão ca đã dặn dò ta rất kỹ rồi, chờ đêm xuống chúng ta sẽ qua cầu! Mắt ta nhìn xuyên bống tối, trong khi đối phương không có khả năng ấy để phát hiện và hạ thủ!
Đoan Mộc Anh lo ngại:
- Lỡ chúng gài hỏa dược thì sao?
Nhương thư giải thích:
- Cầu bị gió lắc lư mạnh mà không phát nổ, chứng tỏ phải có người ở đầu cầu bên kia điều khiển! Nhưng họ không thấy chúng ta thì kích hỏa làm gì?
Đoan Mộc Anh cười khì:
- Ai bảo đại ca là ngốc? Chẳng qua đại ca không thèm mưu mẹo đấy thôi!
Nhương Thư ngượng ngùng tát nhẹ vào gò má đen đúa nhưng mịn màng của Anh nhi:
- Ngươi cũng biết nịnh nữa sao?
Chàng đặt cô vợ trẻ con của mình vào lòng, bảo nàng hãy ngủ đi. Đoan Mộc Anh đã sút vài cân, mệt mỏi đến mức lúc nào cũng muốn ngủ vùi!
Nhương Thư ngồi dựa thân cây, giữ chặt Anh nhi, bâng khâng ngắm những bóng tuyết trắng tinh đang bám trên cành lá. Tiếng thở đều đều của Anh nhi khiến chàng cảm thương và lo sợ. Đoan Mộc Anh còn cương cường hơn cả Thúy Sơn, tất không chịu đào vong một mình mà ở lại cùng chết với chàng!
Nhương Thư thở dài nuối tiếc hai tấm bảo y. Hoàng Nghi Tuyệt và Thiết Kình Ngư đi giải quyết tranh chấp ở Huy Châu nên chàng đã bắt họ mặc giáp. Nhương Thư còn trao cả Mạc Da Thần Kiếm nhưng Tào Ưng không nhận. Gã bảo rằng chỉ mình chàng xứng đáng sử dụng thanh thần kiếm thượng cổ ấy!
Giá như chàng và Anh nhi được hộ thân bằng hai chiếc áo giáp quí báu, đã tịch thu của Kỳ Ba Thần Quân, Tích Bảo Chân Nhân, thì họ thừa sức bảo toàn sinh mạng!
Chàng là người cửa Phật, tin vào nhân quả nghiệp báo chứ không tin sức mạnh quỷ thần. Lần thoát chết nơi cổ miếu vừa rồi chưa đủ để chàng thay đổi định kiến của mình!
Rồi Nhương Thư cũng thiếp đi, đến chiều được Anh nhi đánh thức để dùng bữa, món thịt nướng chấm muối chẳng làm nụ cười trên môi cô gái rừng bớt tươi. Đoan Mộc Anh ân cần đút từng miếng thịt nhỏ vào miệng Nhương Thư, ánh mắt đầy vẻ âu yếm, thương yêu.
Trời đã tối hẳn, tuyết nặng hạt hơn, mắt thường chẳng thể thấy người trong khoảng cách non trượng, nhưng Nhương Thư thì khác! Nhãn lực Đoan Mộc Anh cũng khá xong thua xa trượng phu.
Nhương Thư cõng nàng trên lưng, quay lại chiếc cầu treo. Tiếng xích sắt kẽo kẹt kinh người, chứng tỏ cầu bị gió lắc dữ dội, song chàng lại cảm thấy rất an toàn vì tin chắc đối phương không thể thấy được mình trong cảnh tối tăm mù mịt này!
Tay phải cầm bảo kiếm tuốt trần, tay trái vịn chắc dây chảo thành cầu, Nhương Thư căng mắt nhìn cho rõ những tấm ván dưới chân rồi lần bước.
Đến giữa cầu, một thanh ván mục bỗng gãy rời khiến hai người thụt xuống, xong Nhương Thư đã níu chặt dây chão nên trụ lại được. Cánh tay trái của chàng mạnh đến trăm cân thừa sức nặng của hai người!
Khi chàng đặt chân lên bờ đất bên kia cầu, thả Đoan mộc Anh xuống thì mới bị đối phương phát hiện. Đấy là do Anh nhi vô ý thở phào, trút bỏ nỗi sợ hãi, hồi hộp nãy giờ!
Hai đống tuyết lù lù gần đấy chính là hai gã đàn ông đang ngủ gà ngủ gật trong lớp chăn lông dấy sụ. Họ thét lên báo động va dung vũ khí tấn công.
Nhương Thư thấy rất rõ nên khi chúng vừa đứng lên la hét là chàng hạ thủ ngay. Thanh Mạc Da Thần Kiếm loé ánh xanh mờ và đâm thủng ngực hai gã mai phục.
Lúc đầu, vì áy náy trước cái chết của Tích Bảo Chân Nhân nên Nhương Thư không dụng đến chiếm lợi phẩm. Nhưng mọi người đã hết lời năn nỉ chàng hãy thu nhận bảo kiếm Mạc Da. Chàng lưỡng lự không nghe, cho đến khi Thúy Sơn khóc lóc, thì thầm:
- Tuy Tư Mã Hầu có ơn cứu mạng thiếp, ngược lại, lão ta đã bắt thiếp phải chịu muôn vàn khổ nhục! Dù thân này chưa bị cưỡng đoạt, nhưng đã ô uế bởi ánh mắt và bàn tay dâm đãng của lão ta! Ngày nào lão cũng sở soạng thiếp vài lần và xông vào nhà tắm. Do vậy, thiếp không dám tắm nhiều, cho con tiểu lên y phục mình để thân thể hôi hám, khiến lão gớm ghiếc mà tha cho. Nếu không vì Hoàng sư phụ và hài nhi thì thiếp đã cắn lưỡi tự sát từ lâu rồi!
Nhương Thư nghe xong rùng mình, toát mồ hôi lại trước nỗi đắng cay, cơ cực mà nàng phải chịu đựng! Và chàng thức ngộ rằng Tư Mã Hầu chết là phải đạo!
Nhương Thư phải mất vài tháng để làm quen với Mạc Da Thần Kiếm, nó ngắn hơn loại kiếm chàng thường dùng cả gang tay!
Giờ đây, chàng đã làm chủ được thần binh, tâm và kiếm hòa làm một, bản lãnh lợi hại hơn xưa mấy bậc!
Đám phục binh trong cánh rừng đầu cầu phía Bắc đã ùa ra, đông độ nửa trăm, tay kiếm tay đuốc cố chặn hai con mồi lại.
Ánh đuốc chập chờn bởi gió Đông soi rõ gương mặt kinh hoàng của những kẻ thọ thương dưới tay Nhương Thư và Đoan Mộc Anh. Nạn nhân rên la, gào thét bằng tiếng Hán, chứng tỏ họ không phải người Đẳng Hạ.
Thanh Mạc Da Thần Kiếm tỏa ánh xanh rực rỡ, loang loáng bay lượn, chặt gẫy vũ khí va xương cốt bọn mai phục dễ dàng như chặt mía.
Đoan Mộc Anh sát cánh Nhương Thư, chém giết với phong thái của loài mãnh thú. Không phải nàng có cái tâm ác độc và vì cuộc sinh tồn chốn rừng sầu luôn ác liệt và tàn nhẫn đã tạo nên tính cách ấy! Với Anh nhi, lũ người kia chính là hổ báo, nàng phải giết họ để được sống còn.
Tâm pháp nội công do Cẩm Phàm Kiếm Khách truyền thụ cho Đoan Mộc Anh chẳng có gì xuất sắc, song cơ thể nàng lại tiềm tàng một sức mạnh phi thương, không hiểu từ đâu mà có! Anh nhi múa thanh bảo kiếm Thiên Cương nặng nề kia rất nhẹ nhàng, đòn chém mãnh liệt tựa chẻ núi làm chùn tay những gã đàn ông vạm vỡ.
Nàng lại có lối đánh khá kỳ lạ là rùn thấp người, lao bổ vào tấn công từ ngực đến gối đối phương, nghĩa là đoạn giữa thân. Điều này có lẽ xuất phát từ thối quen di chuyển bằng tứ chi, khi còn sống chung với bầy vượn.
Từ ngày được Nhương Thư dạy cho Cửu Huyền Thân Pháp, khinh công Anh nhi ảo diệu và nhanh hơn trước, tất nhiên bản lãnh cũng tăng tiến theo. Giờ đây, nàng chỉ đảo thân hình vài cái là đã tiếp cận mục tiêu mà hạ thủ, song nạn nhân của nàng chỉ bằng nửa số Nhương Thư, Đoan Mộc Anh luôn chú ý ở gần chàng trong bàn kính một trượng, bảo vệ phía sau lưng, Nhương Thư yên tâm mở đường máu, chém một hơn mười tám cánh tay cầm đao kiếm, đưa Đoan Mộc Anh thoát khỏi vòng vây.
Với thần kiếm sắc bén tuyệt luân Nhương Thư đã có thể noi gương sư phụ, đả thương người chứ không giết chóc. Chàng rất hài lòng về việc này.
Chạy một đoạn, thấy bên đường có cây cổ thụ cành lá um tùm, Nhương Thư đình bộ, kéo Anh nhi nhẩy lên. Khi đã ngồi vững trên chạng ba rộng rãi, chàng hỏi:
- Anh muội có bị tổn thương chỗ nào không?
Đoan Mộc Anh đắc ý cười khúc khích:
- Tiểu muội chẳng hề hấn gì cả!
Đêm nay, trời lạnh chẳng thua đêm trên đỉnh đèo Vân Hải. Nhương Thư phanh rộng hai vạt áo lông, trùm kín thân thể Anh nhi. Mặc dù nàng cũng có áo ấm. Cô gái nằm thu lu trong lòng chàng và ngọ ngoạy mãi. Cảm giác phân kích của cuộc chiến khốc liệt lúc nãy đã làm nàng khó ngủ!
Lát sau có tiếng chân của toán phục binh đi ngay phía dưới. Ai đó lầm bẳm chửi thề:
- Con bà nó! Công lao mai phục, chịu đựng sương tuyết mười ngày nay giờ đã thành mây khói, lại còn thiệt mất hơn hai chục anh em. Ngàn lượng vàng này Phi Long Bang chúng ta nuốt không trôi rồi!
Nhờ câu nói ấy mà Nhương Thư biết lai lịch toán phục binh. Phi Long Bang hùng cứ vùng ranh giới Tây Hạ, Cam Túc nhân thủ khá đông đảo. Vậy là Nghiên Tái Thuần đã mướn họ giết chàng với giá ngàn lượng hoàng kim.
Từ Trường An đi Ngân Xuyên còn một lối nữa, đó là theo sông Vị đến Lan Châu rồi dọc Hoàng Hà. Có lẽ con đường ấy cũng đã bị mai phục bằng một lực lượng khác.
Vô Ưu Cái đã khuyên sử dụng con đường vất vả này để tránh phục binh. Chính lão đã vẽ bản đồ, chỉ dẫn cho Nhương Thư, Nào ngờ, Nghiên Tái Thuần đã tiên liệu trước.
Chờ phe địch đi xa, Đoan Mộc Anh lên tiếng:
- Đại ca! Bọn chúng đã chờ ở đây mười ngày tất phải dựng nhà, hoặc có nơi trú ẩn tốt trong khu rừng đầu cầu. Chúng ta hãy quay lại đấy tìm thử xem sao. Tiểu muội thèm được nằm bên lửa ấm thay vì co ro trong lòng đại ca mãi!
Nghe có lý, Nhương Thư tán thành, cùng Anh nhi nhẩy xuống đất, chạy ngược lại trận địa lúc nãy. Chàng chặt một cây đuốc đang nằm lăn lóc trên mặt tuyết, đốt lên soi đường. Quả nhiên, trong rừng có vài công trình bằng gỗ.
Không thể gọi là nhà vì chúng chỉ là những thân tùng được xếp ngang dọc, quây lấy một khoảnh đất, ngoài phủ cành lá. Nóc cũng được cấu tạo bằng một cách như thế nhưng những thân gỗ được xếp khít hơn.
Tuyết đã phủ đầy, biến những chiếc chuồng gỗ này thành những nắm mồ trắng toát, có cửa quay về hướng Nam để tránh ngọn gió Bắc khắc nghiệt.
Nhương Thư chọn căn nhà còn bếp than hồng âm ỉ và đống củi khô, Ánh lửa bừng lên soi sáng không gian và đem lại hơi ấm cho hai kẻ lạc lõng giữa đêm đông!
Đoan Mộc Anh thích thú cười khanh khách, ngồi sát bếp lửa mà sưởi.
Lát sau, nàng đứng lên cởi áo lông để thay y phục bên trong. Tuy trời rất lạnh, mồ hôi không đổ, nhưng sau vài ngày quần áo cũng có mùi khó ngửi.
Trước mắt Nhương Thư, Anh nhi chẳng chút ngại ngùng, phô bày trọn vẹn tấm thân thon nhỏ nhưng săn chắc, khỏe mạnh, dưới ánh lửa bập bùng, trông nàng quyến rũ lạ lùng!
Nhương Thư cũng đã cởi áo mũ, treo ở vách gần đấy, ngồi bỏ thêm củi vào đống lửa. Nóc công trình này khá cao nên không sợ cháy!
Nhưng Anh nhi đã lấy y phục sạch mang đến, bắt chàng phải thay:
- Đại ca cũng hôi hám lắm đấy!
Đã lâu không có được chổ nghỉ ngơi ấm áp thế này, hai người ngủ một mạch đến trưa hôm sau mới lên đường.
Lại thêm hơn nữa tháng trèo non lội suối nữa, vợ chồng Nhượng Thư đã đến được thành Ngân Xuyên, trên bờ tây sông Hoàng Hà.
Sau khi tắm gội thỏa thuê trong bồn nước nóng của Tây Bắc Đệ Nhất Lữ Điếm, hai người chén sạch mâm cơm thượng hạng. Nhương Thư dặn dò Anh nhi:
- Anh muội cứ ở lại lữ điếm nghỉ cho khoẻ, ta đến dinh quan Tiết Độ Sứ xem thế nào?
Đoan Mộc Anh đã uống vài chén rượu nên mắt trĩu xuống, chằng đòi theo làm gì! Nhương Thư y phục chỉnh tề, mang thánh chỉ và công văn của tri phủ Hà Nam rời lữ điếm.
Chàng đã hỏi thăm bọn tiểu nhị nên biết rằng dinh thự của họ Quan cách đấy không xa, chỉ chừng hơn dặm.
Mới giữa giờ Thìn mà không gian xám xịt tựa chiều buông. Tuyết bay nặng hạt, phủ thêm lớp giá băng lên nhà cửa và mặt đường lầy lội. Bánh xe, vó ngựa cũng như chân người đã không để tuyết giữ được mầu sắc trinh nguyên, tinh khiết.
Nhương Thư kéo cao cổ áo lông, rảo bước về hướng Tây. Người qua lại trong thành gồm nhiều sắc dân, song đa số là người Hồi. Họ vừa đi vừa chuyện trò, không ngờ chàng trai áo cừu trắng kia lại hiểu được vài câu.
Thở xưa, Nhương Thư đã từng lê lết ăn xin suốt mấy năm trời, ở chung với gã hành khất gốc Hồi, nên biết chút ít. Nghề ăn mày bắt buộc chàng phải biết nhiều thứ ngôn ngữ, biết cách phân biệt gốc gác những người mình xin bố thí. Khi chìa nón với một người Tứ Xuyên thì không thể nói tiếng Giang Tô được. Khách sẽ vui vẻ bố thí khi tưởng kẻ nghèo khó kia là đồng hương.
Và hôm nay, vốn liếng tiếng Hồi ngày thơ ấu đã giúp Nhương Thư nghe được một tin lạ. Đó là việc công chúa Đẳng Hạ Ba Lặc Kỳ Dung mở lôi đài chiêu phu, vài ngày nữa khai mạc. Và họ dự đoán kẻ chiến thắng chính là đứa con nuôi người hán xấu xí của Đại Từ Trưởng Ba Lạc Sinh Hoà.
Nhương Thư mỉm cười hổ thẹn, nhớ lại cái đêm ở Diên An, chàng đã ôm trọn thân hình lõa lồ, khiêu gợi của người đàn bà Đẳng Hạ ấy! Một chút xót xa thoáng gợn trong lòng Nhương Thư, khi nghỉ đến việc Kỳ Dung phải làm vợ một gã nửa người nửa ngợm như Nghiên Tái Thuần. Không những xấu xí, họ Nghiên còn gian xảo và đê tiện phi thường!
Chàng cũng hơi nuối tiếc vì biết mình không làm gì được Tái Thuần. Gã đã là nghĩa tử của Ba Lạc Sinh Hoà, chàng đành phải bó tay, chẳng dán động đến! Nhưng nếu gã vác mặt vào Trung Nguyên thì hãy coi chừng!
Dinh thự của Quan Tiết Độ Sứ Tây Hạ nằm ơ mé hữu con đường trục lớn Đông Tây của thành Ngân Xuyên. Đây là chổ ở và cũng là công đường, trụ sở làm việc.
Nhương Thư bước qua cánh cổng rộng, vào sân gạch trong thì bị hai gã mặc binh phục nhà Minh chạy ra gạn hỏi. Chàng nghiêm nghị đáp:
- Tại hạ phụng thánh chỉ đến bái kiến Tiết Độ Sứ đại nhân, phiền nhị vị dẫn lối cho!
Để chứng minh, chàng rút cuồn thánh chỉ bằng lụa vàng chìa ra! Màu vàng rực là đặc quyền thiêng liêng của thiên tử, bá quan và bá tính không được sử dụng. Do vậy, khi đọc sử võ lâm, thấy viết rằng ai đó mặc võ phục vàng thì có nghĩa là một mầu vàng pha trộn, hoặc đậm như vàng đất, hoặc thật nhạt như phơn phớt nắng.
Hai gã vệ binh vội cung kính vòng tay cúi đầu. Một gã nói:
- Mời Khâm Sứ đi theo tiểu nhân!
Gã không đưa Nhương Thư vào thẳng cổng đường mà đi vào lối nhỏ mé hữu, đến vườn hoa phía sau. Giữa vườn là một tòa nhà đơn độc, tường gạch quét vôi hồng, mái ngối lưu ly xanh.
Căn tiểu xá này vuông vức mỗi bề trượng rưỡi, chung quanh có lan can gỗ vây lấy thềm gạch. Cửa chính quay hướng nam, trên bậu cửa là bằng gỗ để ba chữ Khán Thư Trai, nghĩa là thư phòng.
Nền tiểu xá cao hơn mặt cỏ hoa viên, có ba bậc tam cấp để lên. Trong lúc gã vệ binh mở cửa, Nhương Thư cầm chiếc chổi nhỏ treo trên cột, phủi tuyết ở mũ, áo choàng và củng da.
Cửa chính có cánh bằng gỗ, nhưng cửa sổ hai bên đều lợp kính pha lê trong suốt, giá đắt như vàng vì mua của người Tây Dương, Từ vùng duyên hải phía đông mà vận chuyển lên đến tận chốn này thì giá cả sẽ tăng lên nhiều lần, dù bằng đường sông đi chăng nữa! Xem ra, lão Tiết Độ Sứ họ Quan này quả là kẻ lắm tiền!
Trời đông u ám nên ánh sáng từ hai khung cửa kính kia chẳng được tích sự, khiến ngài Tiết Độ Sứ phải tốn thêm tiền dầu cho ngọn tọa đăng lớn trên án thư. Có thế thì ngài mới thấy đường đọc sách.
Gã vệ binh bật hỏa tập châm đèn, mời khách ngồi xuống chiếc đôn sứ trước án thư rồi đi thỉnh thượng cấp.
Nhương Thư tò mò nhìn quanh, nhận ra cơ ngơi này mời được xây dựng, mùi vôi và gỗ còn phảng phất trong không khí. Kệ gỗ ở vách tường sau lưng án thư chẳng có nhiều sách, chỉ độ vài chục qưyển.
Vô Ưu cái đã cảnh báo rằng nguy hiểm luôn chực chờ, ngay cả trong dinh Tiết Độ Sứ! Vàng có thể mua được lòng người, và lão già Quan Hải kia chưa chắc là kẻ thanh bạch!
Nhương Thư vuốt ve bảo kiếm lạnh ngắt, tự tin rằng thanh Mạc Da Thần Kiếm này chàng không sợ bất cứ ai!
Nửa khắc sau, Tiết Độ Sứ đại nhân đã xuất hiện, chỉ một mình chứ không có hầu cận. Lão ta tuổi độ sáu mươi, mặt xương xẩu, lưỡng quyền cao nhọn, trán thấp, mắt không được to! Gương mặt và ánh mắt của lão toát ra một vẻ gì đó khiến Nhương Thư không thiện cảm.
Quan Hải cười ha hả, để lộ bộ răng thưa rụng mất một chiếc nơi cửa hàm trên:
- Lão Phu là Quan Hải, dám hỏi quí tính đại danh của công tử?
Nhương Thư đứng lên, lột mũ lông để xuống án thư, vòng tay đáp:
- Tại hạ Tấn Nhương Thư, phụng chỉ đến Tây Hạ mang Thiên Niêm Tam Thất về Bắc Kinh. Mời Quan đại nhân xem quan thánh chỉ và công văn của Hà Nam!
Quan Hải gật đầu nhận lấy với rồi bước đến ngồi xuống chiếc ghế dựa phía sau án thư. Lão vui vẽ nói:
- Thỉnh Tần đại hiệp an tọa!
Nhương Thư lại ngồi xuống đôn sứ, tay hữu đặt hờ trên chuôi kiếm. Chỉ cần lão cẩu quan này biểu hiện ác tâm là chàng khống chế ngay!
Nhưng Quan Hải thản nhiên đọc hai văn kiện, và chung quanh vắng lạng như tờ, không một tiếng bước chân mai phục!
Đọc xong, lão ngẫng lên mĩm cười:
- Cảm tạ đại hiệp đã đến đây! Lão phu đang cần vốn để dưỡng già!
Nhương Thư kinh hãi, chưa kịp phản ứng thì khoảng sàn dưới chân đôn sứ đột ngột mở toang, khiến chàng rơi xuống lòng đất, thì ra chiếc đôn dược đặt trên miệng một chiếc hầm sâu, đóng mở bằng nút cơ quan phía sau án thư.
Khán Thư Trai mới được xây cất chính là để phục vụ cho âm mưu ám hại chàng! Biết rõ bản lãnh võ công của Nhương Thư nên đối phương đã đào một giếng tròn đường kính gần nửa trượng, vách xây gạch tô rửa thật láng. Dẫu cho Nhương Thư có dang rộng hai tay, hai chân cũng không chạm vách. Nó lại sâu đến bốn trượng, một độ cao mà không ai tung mình vươn đến nổi. Đáy giếng cắm đầy chông sắt, mũi nhọn hoắt, sẵn sàng đâm nát bàn chân, hoặc cơ thể của nạn nhân.
Nhưng có một điều mà Nghiên Tái Thuần đã không tiên liệu là việc Nhương Thư mang theo Mạc Da Thần Kiếm.
Việc sát hại Tích Bảo Chân Nhân đã được giấu kín, vì quan hệ đến danh tiết của Thúy Sơn. Chẳng vinh dự gì để khai ra việc nàng bị Tư Mã Hầu uy hiếp và sờ soạng thân thể. Còn như không nói rõ mối nhục thì làm sao giải thích được cái chết của kẻ đã cứu mạng Thúy Sơn!
Giờ đây, thanh Thần Kiếm Xuân Thu đã phát huy tác dụng! Vừa rơi xuống độ hơn trượng, Nhương Thư đã kịp rút bảo kiếm vận toàn lực đâm vào vách gạch. Chẳng hổ danh thần vật, kiếm báu lập tức xuyên thủng lớp gạch nung, cắm ngập cán!
Nhương Thư bám chuôi kiếm trụ lại, treo lơ lửng trên vách giếng. Chàng lập tức đổi hơi, dùng lực đạo ngàn cân của hai cánh tay ấn vào điểm tựa ấy, bay vút lên mặt đất, đáp xuống án thư trong nỗi kinh hoàng của lão khốn kiếp họ Quan.
Chưa kịp hiểu điều gì xảy ra thì Quan Hải đã bị Nhương Thư điểm huyệt bằng ba đạo Lục Mạch Thần Chỉ, người cứng đơ như tượng gỗ. Chàng nhẩy xuống đất, đặt họ Quan nằm ngửa trên sành gạch, lạnh lùng nói:
- Lão xuất thân võ tướng chắc cũng từng nghe qua thủ đoạn tra đấn Đoạn Cốt Tàn Cân chứ? Tần mỗ sẽ cho lão nếm thử!
Quan Hải bị điểm cả á huyệt nên không nói được, chỉ biểu hiện sự khiếp sợ bằng ánh mắt và gương mặt nhăn nhó. Nhương Thư nói xong là thực hiện ngay, bẻ trật toàn bộ những khớp xương tứ chi của họ Quan. Trật một khớp còn đau thấy ông bà ông vải, huống hồ cổ chân, cổ tay, đầu gối, khủy tay và vai đều lệch vị trí! Cơn đau đớn khủng khiếp đã chụp lấy Quan Hải, khiến mắt lão trợn ngược, thân hình quằn quại, miệng ú ớ rên la, mồ hôi toát như tắm.
Nhương Thư làm theo lời dạy bảo của Vô Ưu Cái, song tấm lòng nhân hậu lại sớm bất nhẫn, nên chàng không kéo dài cuộc hành hạ, thấy lão vãi đái là giải tỏa ngay!
Trong lúc chờ họ Quan thấm thía nỗi sợ hãi, Nhương Thư giật rèm cửa nối lại, cột một đầu vào gốc cột nhà, trở xuống giếng thu hồi bảo kiếm!
Quan Hải chẳng muốn ai chứng kiến tội ác của mình nên đã đóng chặt của, lệnh cho bọn vệ binh không được đến tiểu xá, bởi vậy, chẳng ma nào biết việc đang xảy ra mà cứu vãn!
Nhương Thư tra kiếm vào vỏ, ngồi xuống giải á huyệt cho họ Quan, Quan Hải run giọng thều thào:
- Lảo phu đã biết tội, xin thành thật khai báo tất cả âm mưu của Nghiên Tái Thuần. Mong đại hiệp tha mạng cho!
Hai chữ “thành thực” dường như không thích hợp vời dung mạo xảo quyệt của họ Quan, khiến Nhương Thư chột dạ. Lão ta nắm trong tay năm vạn tinh binh, nếu trở mặt là chàng khó sống!
Nhương Thư biết mình cơ trí kém cỏi, chẳng thể phân biệt giả chân, lòng rất bối rối. Sực nhớ đến Di Hồn Đại Pháp, Nhương Thư mừng rỡ thi triển ngay!
Chàng tháo viên pha lê hồng nhiều mặt trên cổ xuống, đong đưa trước mắt họ Quan, ru lão vào trạng thái mơ hồ rồi bắt đầu tra hỏi.
Hơn khắc sau, bọ vệ binh gác cổng dinh lấy làm lạ khi thấy ngài Tiết Độ Sứ cung kính tiễn gã họ Tần ra đến tận cổng, lưng khom cơ hồ sát đất, miệng xưng ty chức rối rít. Quan Hải vồn rất cao ngạo, dù đối với khâm sai cũng chưa bao giờ hạ mình đến thế!
Họ không biết rằng giờ đây, linh hồn ngài Tiết Độ Sứ đã thuộc về Nhương Thư! Họ Tần về đến lữ điếm thì Đoan Mộc Anh đã thức giấc, đang nóng ruột trông chờ, Nghe chàng kể lại, Anh nhi phụng phịu nói:
- Từ nay tiểu muội sẽ không rời đại ca nửa bước!
Sáng hôm sau, Tiết Độ Sứ Quan Hải đích thân thống lãnh trăm quân kỵ, mang xe song mã đến lữ điếm đón vợ chồng Nhương Thư.
Đoàn người ngựa rầm rộ rời thành Ngân Xuyên, mất hai ngày đường mới đến được vùng đồi Lỗ Nhĩ Khắc, đại bản doanh của tù trưởng Ba Lạc Sinh Hòa.
Bộ tộc Ba Lạc bị Hán hóa khá đậm, biểu hiện ở cách đây dựng nhà cửa. Tuy nhiên, cũng nhờ tiếp thu nền văn minh Trung Hoa nên đại tù trưởng Sinh Hòa văn võ toàn thí, lục thao tam lược đầy một bụng, thế lực rất hùng mạnh.
Cơ ngơi của lão cũng được cất theo lối kiến trúc tam hợp thiện, chỉ khác ở chỗ là có thêm một đại lâu hai tầng đồ sộ, giữa sân gạch rộng, Về đại thể thỉ toà đại lầu này tuyền một màu trắng toát, nóc tròn như những nền thờ Hồi Giáo.
Cổng ra vào mở theo hướng chính Nam và phía trước là một khoảnh đất bằng phẳng, rộng đến vài mẩu. Có lẽ quảng trường ấy là nơi tụ tập dũng sĩ của toàn bộ tộc.
Giờ đây, trên quảng trường đã được dựng lên một lôi đài bằng gỗ, cao non trượng, và mai là ngày khai mạc hội tỷ võ chiêu phu. Lúc này chưa có khán giả, chỉ nhộn nhịp tiếng cười, tiếng búa của đám thợ mộc.
Nghe báo có quan Tiết Độ Sứ giá lâm, Ba Lạc Sinh Hòa cho người mời vào đại lầu chứ không ra đón. Lão có thể cao ngạo vì nắm thực quyền ở đất Tây Hạ này. Sinh Hòa mà khởi binh đòi độc lập thì các bộ tộc Đảng Hạ khác sẽ hưởng ứng ngay!
Trăm quân ở lại bên ngoài, chỉ mình Quan Hải và vợ chồng Nhương Thư vào. Ba Lạc Sinh Hòa đã chờ sẵn ở đầu chiếc bàn lớn trong tầng dưới đại lầu. Đây là nơi lão tiếp khách và tiệc tùng.
Chủ khách chào nhau. Trong lúc lão Tiết Độ Sứ giới thiệu danh tính và trình bày mục đích, Nhương Thư âm thầm quan sát Sinh Hòa giởi chủ Hán nhưng ông ta ăn mặc theo lối Đẳng Hạ chính thống, đầu nhẵn bóng, chỉ còn vài ba món tóc chung quanh, bện lại và buông rũ xuống. Ba Lạc Sinh Hòa tuổi độ hơn sáu mươi, da ngăm đen nhưng ngũ quan cân đối, mắt sáng, cằm bạnh, đầy vẻ cương nghị anh hùng. Nghe họ Quan nói xong, Sinh Hòa nhìn Nhương Thư, gật gù bão:
- Té ra ngươi là kẻ đã giết chết rể của ta! Ngươi dám vác mặt đến đây thì quả là dũng cảm đấy!
Nhương Thư điềm đạm vòng tay đáp:
- Tại hạ đã được lệnh ái là công chúa Ba Lạc Kỳ Dung miễn tội, xin tôn giá cũng lượng thứ cho!
Ba Lạc Sinh Hòa cười nhạt:
- Lão phu nghe nói ngươi đã trở thành minh chủ võ lâm, việc ấy đúng hay sai?
Nhương Thư gật đầu xác nhận:
- Thưa phải!
Sinh Hòa bỗng quắc mắt:
- Nếu ngươi muốn lão phu bỏ qua mối thù giết rể thì dập đầu lạy ba lạy!
Lão tưởng chàng sẽ nổi giận hoặc phân vân, bối rối. Nào ngờ Nhương Thư dịu giọng nói ngay:
- Tôn giá là bậc trưởng thượng, đã rộng lượng nhận ba lạy để xá hận thù, tại hạ xin tuân lệnh!
Chàng lập tức quì một chân chống một tay, đập đầu theo lối kỳ bái của người võ lâm! Đoan Mộc Anh thấy chàng lạy cũng lạy theo, mặt ngơ ngáo khiến Ba Lạc Sinh Hòa phải mỉm cười!
Lão vui vẻ mời ba ngưởi an tọa.
Rồi nói tiếp:
- Về vấn đề Thiên Niên Tam Thất thì lão phu chỉ chịu dâng tặng cho Minh Đế với điều kiện là Tần công tử phải thượng đài, đả bại Nghiên Tái Thuần, trở thành trượng phu của Kỳ Dung!
Nhương Thư đang rầu rĩ, chưa biết tính sao thì Đoan Mộc Anh vọt miệng hỏi:
- Này lão bá! Chẳng hay con gái ông đẹp hay xấu mà lại đòi gả cho Tần đại ca? Chàng hiện đã có đến có đến sáu vợ rồi đấy!
Sinh Hòa phì cười:
- Chắc chắn là đẹp hơn ngươi!
Lão quay lại bảo gã vệ sĩ lực lưỡng đang đứng hầu sau ghế:
- Ngươi vào mời công chúa lên đây!
Sinh Hòa không được phong vương nhưng vẫn gọi con gái là công chúa, chứng tỏ lão chẳng sợ gì triều đình Trung Hoa!
Lát sau, Kỳ Dung ra đến, mắt sáng rực nỗi hân hoan vì gặp lại Nhương Thư. Nàng bảo:
- Ta không ngờ có ngày công tử lại đến chốn thô hậu, hoang sơ này!
Nhương Thư ngượng ngùng vòng tay đáp lễ, giới thiệu Anh nhi với nàng. Đoan Mộc Anh hớn hở nói ngay:
- Này công chúa! Nàng mà trở thành vợ của Tần đại ca thì phải gọi ta là chị đấy!
Kỳ Dung ngơ ngác nhìn cha, Sinh Hòa giải thích:
- Tần công tử đến xin Thiên Niên Tam Thất về dâng Minh Đế. Ta bắt y phải đồng ý làm rể bộ tộc Ba Lặc thì mới chấp thuân!
Kỳ Dung mỉm cười:
- Tần công tử tính sao? Vì chàng mà góa bụa đã mấy Đông, sao bậc anh hùng không rủ lòng thương?
Nàng dừng một lúc rồi nói tiếp:
- Thực ra, từ ngày gặp gỡ ở Diên An đến này, lòng ta luôn nhớ nhung công tử!
Ánh mắt nàng thể hiện sự chân thành của trái tim chứ chẳng phải lời đầu chót lưỡi!
Nhương Thư bâng khuâng suy nghĩ, nhận ra mình cũng có cảm tình với người đàn bà thông minh, kiên quyết này. Hơn nữa, nếu lấy Kỳ Dung, chàng sẽ giữ được Tây Hạ cho Trung Hoa!
Văn hóa Hoa Hạ là tinh túy của ba nguồn tư tưởng chính: Phật, Lão, Khổng. Xu hướng tam giáo đồng lưu rất phổ biến nên một kẻ tu hành cửa Phật cũng không hiểu học thuyết Lão Trang và Khổng Mạnh. Nhương Thư là bậc anh hùng cái thế tất không thể thiếu lòng yêu nước, nay gặp dịp đáp dền ơn tấc đất ngọn rau, chàng hân hoan thực hiện ngay.
Nhương Thư nghiêm nghị đáp:
- Đại tù trưởng và công chúa đã hạ cố, tại hạ xin tuân mệnh, sáng mai gắng sức đả bại Nghiêm Tái Thuần.
Kỳ Dung vui ra mặt, nhìn chàng say đắm, nhưng Ba Lặc Sinh Hòa lại chẳng an tâm:
- Tần hiền diệt! Nghiên Tái Thuần thông minh tuyệt thế, hiện đã học hết võ công và tà thuật của Tây Hạ Pháp Sư. Lão phu e rằng ngươi khó mà địch lại y đấy!
Lần đầu tiên trong đời, Nhương Thư biểu lộ sự tự tin, không cần khiêm tốn:
- Xin đại tù trưởng yên lòng, vãn bối tuyệt đối chẳng thể thua được!
Sáng ngày hai mươi bốn tháng ba, tuyết rơi nhẹ, đại hội tỷ võ chiêu phu của công chúa Kỳ Dung khai mạc. Khán giả đông đến gần vạn, hầu hết là dân Đảng Hạ, chỉ lưa thưa vài trăm người thuộc chủng tộc khác như Hán, Mông, Thổ, Duy Ngô Nhĩ...
Cuộc trong tài hôm nay khác hẳn với đại hội võ lâm vì Nghiên Tái Thuần đứng ra thủ đài, toàn thắng hai mươi trận thì trở thành rể họ Ba Lặc!
Lúc đầu, nhờ trí tuệ tuyệt luân và tài sảo ngôn lệnh sắc, họ Nghiên đã đưc đài tù trưởng yêu mến, nhận làm con nuôi. Ông còn giới thiệu gã đến học nghệ với Đảng Hạ Pháp Sư. Nhưng cuối cùng, Sinh Hòa phát hiện bản chất xảo quyệt, tàn ác của gã, muốn giết đi thì đã quá muộn! Ngoài võ công và tà thuật, họ Nghiên còn khéo léo thu được gần ngàn dũng sĩ Đảng Hạ làm vây cánh, trở thành một thế lực đáng kể trong toàn bộ tộc Ba Lặc.
Hai tháng trước, Tái Thuần ngỏ lời cầu hôn Ba Lặc Kỳ Dung. Theo đúng tục lệ Đảng Hạ là tỷ võ chiêu phò mã, Kỳ Dung đã yêu cầu lập lôi đài, hy vọng có ai đó đủ tài đả bại gã đầu to, mắt liếng kia, cứu vớt đời nàng. Kỳ Dung may mắn biết được âm mưu của Tái Thuần và lão Tiết Độ Sứ nên chọn kỳ hạn tương ứng với cước trình của Nhương Thư.
Giờ đây, nàng ngồi cạnh đại tù trưởng trên hàng ghế đầu tiên, sát lôi đài, mặt tươi như hoa khiến dung nhan thêm mặn mà quyến rũ.
Sau lời khai mặc của Ba Lặc Sinh Hòa, Nghiên Tái Thuần tung mình nhẩy lên lôi đài bằng một thân pháp kỳ diệu, đẹp mắt, được khán giả tưởng thưởng những tiếng vỗ tay rất lớn.
Tái Thuần đã từ bỏ gốc gác Hán tộc, cạo đầu trọc lóc, chỉ chừa ba túm lòng thòng, y phục kiểu người Hồi, ngoài khoác áo lông ngắn không tay!
Trong bộ dạng mới này, họ Nghiên càng bội phần xấu xí. Gã lại nhơn nhơn vênh mặt tự đắc trông phát ghét! Tái Thuần đã nghe lão Tiết Độ Sứ báo tin Nhương Thư sa bẫy, bị chôn sống ở Ngân Xuyên, lòng rất hân hoan!
Họ Nghiên dõng dạc cúi chào cử tọa, nói một tràng tiếng Đảng Hạ và lại được hoan hô. Nhưng từ phía dưới đã có một bóng trắng bay vút lên lôi đài, tựa đám mây nhẹ nhàng vượt khoảng cách ba trượng, êm ái đáp xuống sàn gỗ. Người này quay xuống vòng tay chào và nói:
- Tại hạ là Tần Nhương Thư, ngưỡng mộ tài sắc của công chúa nên lặn lội từ Trung Nguyên đến đây dự đại hội!
Phong thái và gương mặt dễ mến, hiền từ của chàng trai khoác áo lông cừu trắng hơn hẳn Nghiên Tái Thuần nên đã chiếm được cảm tình của mọi người. Họ yêu mến Kỳ Dung, không muốn nàng làm vợ một gã quá xấu trai như Tái Thuần. Thế là họ reo hò như sấm đón chào Nhương Thư.
Họ Nghiên thì xanh mặt nhưng ỷ vào tà pháp nên không rút lui. Hạ đài trước khi chiến đấu là cái nhục lớn nhất của người Đảng Hạ. Họ sẽ khinh bỉ và xua đuổi gã ra khỏi vùng thảo nguyên này.
Nhương Thư lạnh lùng bảo gã:
- Ngươi nhỏ tuổi hơn có quyền xuất thủ trước!
Tái Thuần nhếch mép cười nham hiểm, không múa côn tấn công mà lại xỏ vào thắt lưng, hai tay múa may bất ấn, miệng lẩm nhẩm liên hồi.
Quái lạ thay, khoảng không gian trên lôi đài đột nhiên mịt mù sương tuyết, che mờ cả hai đấu thủ, mặc dù khu vực chung quanh vẫn sáng và tuyết chỉ rơi lất phất! Tà thuật của Tây Hạ Pháp Sư quả là lợi hại phi thường!
Phần Nhương Thư thì cảm giác thế nào? Chàng thấy hàng trăm oan hồn uổng tử thi thể không toàn vẹn, hoặc đẫm máu tươi, vây chặt lấy mình, vung đao kiếm tấn công. Dù biết đấy chỉ là tà pháp chàng vẫn phải múa kiếm chống đỡ. Vì rằng Nghiên Tái Thuần cũng trà trộn trong đám oan hồn mà tập kích chàng!
Nhương Thư bảo nguyên thủ nhất, thi triển sở học kiếm thuật thượng thừa đến mứt chót, phòng thủ cẩn mật. Mạc Da Thần Kiếm rực rỡ ánh xanh, loang quanh thân thể Nhương Thư, dệt lưới thép kín đáo, vô hiệu hóa được những đòn ám tập của phương, đồng thời còn chặt cụt dần thanh thiết côn!
Đoan Mộc Anh bồi rối hồi lâu, nhẩy lên đứng ở mép lôi đài, cắn đầu lưỡi phun vào đám sương mù. Thật là kỳ diệu, cảnh vật trên lôi đài lại sáng sủa như cũ! Và Tần Nhương Thư không bỏ lỡ cơ hội, phản công ngay bằng một chiêu Ngự Kiếm, hóa thành đạo hào quang xanh biếc bâay về phía kẻ địch.
Tái Thuần đâu nghĩ đến tà thuật bị phá nên hoàn toàn bất ngờ, chỉ còn cách đón chiêu. Công lực của gã kém Nhương Thư một bậc nên thiết côn bị Mạc Da Thần Kiếm chém gẫy ngay. Tuy nhiên, khi bị mũi kiếm đâm vào ngực phải, gã không lùi mà lại bước đến để lưởi kiếm xuyên thấu qua lưng, đến tận thanh che tay của chuôi kiếm. Đồng thời, gã buông côn, hai tay chụp lấy uyển mạch của Nhương Thư.
Nhìn bề ngoài thì có vẻ Nhương Thư đang chờ Tái Thuần chết hẳn rổi mới rút kiếm ra, cả hai đứng yên như tượng gỗ. Song thực tế, chàng đang phải cật lực chống chọi với tử thần! Luồng chân khí của chàng đang bị hai bàn tay Tái Thuần hút rất mạnh, không sao ngăn cản nổi. Tà công hấp tinh ngày không hiểu họ Nghiên đã học ở đâu mà quá ư lợi hại?
Nhương Thư mất dần công lực lòng vô cùng đau đớn, phẫn hận, cố bình tâm nhẩm lại khẩu quyết Nhiên Đăng Tâm Pháp tiếc thay không có kết quả và chàng rơi dần vào trạng thái mệt mỏi, mơ hồ của kẻ sắp cạn kiệt chân nguyên.
Nhưng bản năng cầu sinh đã khiến Nhương Thư cứ suy nghĩ mãi, và đột nhiên, chàn nhớ đến đoạn khầu quyết trên tờ giấy rời, nằm trong quyển kinh mà Tất Cung Bảo đã tặng.
Năm ấy, Bạch Ngọc Tiên Tử đã bắt Nhương Thư phải học thuộc. Về sau chàng nghiên cứu mãi mà không hiểu vì chân khí nghịch hành, đi từ các huyệt ngoại vì vào Đan Điền. Thì ra nó chính là Hấp Tinh Đại Pháp!
Tuy không tin tưởng lắm nhưng Nhương Thư vẫn phải cố thử. Chàng không phản kháng nữa mà đẩy chân khí lưu chuyển theo thứ tự mới. Thật bất ngờ khi luồng nội lực đang thoát ra qua ba huyệt Liệt Khuyết, Kinh Cử, Thái Uyên, trên cổ tay hữu, đã quay ngược chiều, ào ạt như thác lũ trở về Đan Điền.
Nhương Thư vui mừng khôn xiết nỗ lực đòi lại chân khí. Cuối cùng, hai chân Tái Thuần nhũn ra, thân hình quỵ xuống, tuột khỏi lưỡi kiếm Mạc Da. Gã chết trong oan ức ngút trời vì không giết được Nhương Thư mà còn tặng cho chàng toàn bộ công lực!
Tiếng reo hò vang lên như sấm, mừng Nhương Thư chiến thắng trở thành phò mã. Riêng Đoan Mộc Anh bước đến ngơ ngác hỏi:
- Tại sao Nghiên Tái Thuần lại giữ chặt đại ca, không cho rút kiếm ra?
Vừa mới thoát chết, tâm hồn Nhương Thư vẫn còn đang bồi hồi, choáng váng vì cảm giác vui mừng, bồng bột buột nói đùa:
- Tại vì gã giống các bà vợ của ta!
Tất nhiên Đoan Mộc Anh không hiểu gì cả!
HẾT
Tài sản của than_long_vn

Ðề tài đã khoá

Từ khóa được google tìm thấy
doc tan nhuong thu, tan nhuong thu, tan nhuong thu prc, tân nhương thư prc, tần nhượng thư, truyen tan nhuong thu, tu ma nhuong thu, xem phim tan nhuong thu


©2008 - 2014. Bản quyền thuộc về hệ thống vui chơi giải trí 4vn.eu™
Diễn đàn phát triển dựa trên sự đóng góp của tất cả các thành viên
Tất cả các bài viết tại 4vn.eu thuộc quyền sở hữu của người đăng bài
Vui lòng ghi rõ nguồn gốc khi các bạn sử dụng thông tin tại 4vn.eu™