Những bài viết trong phần này cùng với tác phẩm CHÓ TRẮNG MŨI ĐỎ của tác giả TOAN ÁNH là những truyền thuyết của vùng quê Việt Nam xa xưa. Xin được giới thiệu với các bạn.
1. THẦN LINH BIỂN CẢ VỚI NGƯ DÂN
Núí có thần núi, sông có thần sông thì biển cả cũng có những linh thần của biển. Ở đây chúng tôi không nhắc tới đức Nam Hải Quán Thế Âm Bồ Tát, các vị Long Vương, bà Thủy cung Thánh Mẫu, dân chúng quen gọi là đức mẫu Thoải và các vị thần khác thuộc giới vô hình ngự trị trên biển rộng bao la, chúng tôi chỉ đề cập tới những loài thủy tộc được ngư dân tôn thờ, trong số đó có cá Voi đã được nói trong một vài bài trước. Rùa biển được tôn hiệu là Đệ Bát Thánh Phi Nương Nương Tôn Thần hay công chúa thủy tề, con vua Long Vương, theo các sắc phong còn được lưu giữ tại các lăng Dinh Vạn: Thủy Tú, Nam Nghĩa, Khánh Long và Hiệp Hưng xã Châu Thành, Phan Thiết. Ông Nược tức là cá Nược, tương cận với cá Voi, có tiền thân là một thầy sãi đánh mất pho kinh trong khi qua một chuyến đò. Ông Sứa tức là Sứa biển khổng lồ, có tích bị đọa địa ngục vì rủi “xơi’ nhằm một ngư phủ hành nghề xúc ruốc. Cùng các loài rắn biển giết người như: Đẻn Hèo, Xỏ Rế… ông Nược và ông Sứa vì có tội nên không được liệt vào hàng có sắc phong như ông Nam Hải và bà Thánh Phi nương nương.
Chúng tôi không nhắc lại sự tôn thờ cá Voi, chúng tôi chỉ nói tới các loài thủy tộc khác đã khiến dân chài tôn kính hoặc sợ hãi.
Bà Rùa là một loài rùa đầu phụng mắt người, ngư dân rất sợ hãi, và được tôn thờ ngang hàng với Nam Hải đại tướng quân. Đây là một loài rùa được ngư dân tỉnh Bình Thuận gọi tôn là Bà Lớn hoặc Bà Tám theo tục lệ cổ truyền.
Theo ngư dân phân biệt, có ba loại Bà: Bà Tám có hình hoa mai ở mu rùa, màu xanh; Bà Mộc tức là Mộc Trù thần xà, hình thù giống rắn, dài hai gang tay bằng cây thước mộc, lưng đen bụng vàng và sau đuôi có hai chấm trắng, ở đầu có chữ nhâm; và Bà Lạch, còn gọi là Bà Chằng Lạch.
Hình thù kỳ dị của các bà khiến mỗi khi ngư dân gặp phải kinh hồn hú vía. Bà Lớn với thân hình rùa màu vàng lợt, vuông ba thước, trên mu có ba sóng khế, hai bên tả hữu có bốn sóng khế nhỏ, bốn chân tay hình rẽ quạt như mái chèo, đầu như đầu chim phụng hoàng, có mào giống mào gà trống, cổ vàng, hầu đỏ, đặc biệt đôi mày nằm xuôi với cặp lông mi giống mắt người. Bà Lớn thường ở kẹt hang những tảng đá cỡ lớn chồng chất lên nhau, ở những nơi có đá ngầm và vắng vẻ.
Mỗi năm với ảnh hưởng gió mùa, giêng, hai với sóng to gió lớn là thời kỳ sinh đẻ của giống rùa này. Nơi lâm bồn thường là những cồn cát cao, sạch sẽ ít người qua lại. Bà đẻ mỗi lần từ 30 đến 50 quả trứng to bằng trứng ngỗng. Bà đào những lỗ vào trong cát, đẻ vào đó. Đẻ xong bà trở về hang đá, đợi đúng trăm ngày sau trở lại. Khi trứng đã nở ra những rùa con bằng cái chén, hình thù giống hệt bà Lớn, chỉ khác màu đen thay vì màu vàng, màu vàng với thời gian sẽ trổ ra sau, thì Bà Lớn tới để đón đàn con về sống an toàn nơi hang đá. Những con rùa con này được ngư dân kính cẩn gọi tên là Cô.
Có những trường hợp vì yếu sức lội theo Bà Lớn không nổi, nhiều Cô bị sóng đánh giạt trở lại vào bờ, ngư dân nào gặp phải thỉnh về nuôi dưỡng, kính cẩn cho đến lớn. Việc nuôi dưỡng này hoặc thực hiện tại đền nơi thờ cá Voi hoặc tại tư gia, nhưng phải tinh khiết sạch sẽ. Người biết chăm sóc nuôi Cô, về sau sẽ được Cô biết ơn, phù hộ cho trúng cá, làm ăn phát đạt.
Phải nuôi Cô trong những lu rộng, chậu to, hoặc hồ xi măng, mỗi ngày mỗi thay nước, nhất là trong những ngày rằm, mồng một, không được quên. Nước phải múc ngoài biển khơi. Thức ăn của Cô gồm toàn hai loại tôm và chang chang, một loại sò hến nhỏ.
Sau thời gian một năm, Cô lớn bằng chiếc mâm bồng, người nuôi phải dùng xuồng đưa cô ra khơi thả Cô về với Bà Lớn, nhưng không phải muốn đưa Cô đi lúc nào cũng được, phải tùy thuộc ở dấu hiệu Cô cho thấy như là biếng ăn, biếng lội… Người ta phải xin âm dương và chỉ khi được cô đồng ý mới được thả Cô về biển. Điều đáng ngạc nhiên là lúc đưa Cô đi, ra tới khơi là Bà Lớn xuất hiện đón, ngư dân địa phương gọi là Mẹ rước con.. Nếu không gặp Bà Lớn, phải chở Cô vào bờ đợi bữa khác.
Theo lời thuật của ngư dân Bình Thuận, tại hải phận Phan Thiết, một buổi chiều nọ, một dân chài gặp Cô mang về nuôi dưỡng theo tục lệ. Một hôm thay nước cho Cô, người chủ thuyền lại nhờ một bạn ra biển múc nước trong sạch mang về, song chẳng hiểu vì vô tình hay cố ý, ngư phủ này lại múc vội nước gần bờ biển.
Hôm sau, thuyền chủ cho thuyền ra khơi hành nghề, và theo thông lệ của nghề mành nục khi khi đến địa điểm đánh cá, một ngư phủ có bổn phận lội xuống nước, địa phương gọi là lội tùng, dùng cặp kính để trông coi nơi cá đậu ra hiệu kéo lưới bắt cá. Hôm đó ngư phủ lội xuống nước chính là người hôm trước đã múc nước một cách cẩu thả, bỗng nhiên một Bà Lớn xuất hiện dùng bốn chân tay rẻ quạt đập nát cả mình nạn nhân đến phun máu.
Trong lúc được các bạn đồng nghiệp hốt hoảng cứu nguy, nạn nhân mới nhớ và nhắc trở lại câu chuyện múc nước. Lập tức chủ thuyền và các ngư nhân phải cùng nhau khẩn vái xin Bà tha thứ. Sau đó, nạn nhân cố gắng lội tùng một lần nữa, lần này bà Lớn đã biến mất, giúp cho nạn nhân làm xong nhiệm vụ, thu hoạch đầy khoang ghe cá !
Từ ngày đó, mọi người đều dốc lòng tôn kính Bà Lớn.
Ngư dân hành nghề trên những ghe thuyền rất kiêng cử việc chửi rủa, thề thốt, rủi trúng giờ linh lại chạm đến danh tánh của Bà. Những ngư dân không tin thần linh biển cả, có những lời báng bổ, thường bị bà Lớn chặn ghe, một điềm báo trước không có cá, có khi ra khơi cả tháng liền cũng không thu hoạch được gì. Ngư dân nào thành khẩn tôn kính thường thu hoạch tốt trong nghề nghiệp.
Để tạ ơn Bà Lớn giúp đỡ, người ta mời thầy xem chân giò gà và cúng lễ, lễ dù đơn sơ nhưng phải cử hành theo giờ mới linh ứng. Phải khởi sự cúng vào khoảng 5 giờ sáng, khi mặt trời chưa mọc. Đồ lễ gồm gà quay, thịt luột, chè xôi, vàng mã và đặc biệt là bông hoa chuối sứ. Ngoài ra phải có hình bà bằng đồ mã. Cúng xong đồ lễ phải đưa cả xuống biển, không được giữ lại món nào. Nếu Bà Lớn chấp nhận, sự linh ứng thấy ngay: Bà Lớn đột nhiên nổi lên mặt nước rước lấy hết đồ cúng.
Khi Bà Lớn chết, xác nổi lên mặt biển, ngư dân dùng thuyền ra rước thỉnh về an táng ở các làng Dinh Vạn.
-----------
Ông Nược, tức là cá Nược cũng được ngư dân tôn kính.
Tại tỉnh Bình Thuận, ông Nược cũng được ngư dân coi là thần linh với chức vụ được kể là đệ tử chư vị thủy thần.
Tương tự với cá Voi, hình thù ông Nược to lớn hạng trung bình, có những đặc tính khác lạ. Theo tục truyền, tiền thân ông là một thầy sãi đánh mất pho kinh trong một chuyến qua đò. Ông có một vài điểm khác với cá Voi: hình thù ông rất đẹp, đầu tròn trọc lốc, mỏ nhọn như mỏ chim, đuôi tôm to lớn chĩa hai để lái, lưng đen, bụng trắng. Sống ở dưới nước nhưng ông thở bằng phổi nên ít lội được xa liên tục hoặc ngâm mình dưới biển cả.
Ông nhỏ hơn ông Nam Hải, bề dài từ thước rưỡi đến hai thước, cân nặng độ vài ba tạ, có vú, sinh con nuôi bằng sữa, biết nghe tiếng nói của con người, hiền lành và lanh lẹ khi vẫy vùng ngoài biển cả. Cũng có những ông Nược to lớn, mình dài cả chục thước lội hai bên cá Ông. Các ông Nược bảo vệ cho cá Ông.
Thức ăn căn bản của ông Nược là mực. Thấy ông Nược xuất hiện ở đảo, ngư dân không bỏ lỡ cơ hội câu mực, cho thuyền tới bủa lưới, thâu hoạch rất nhiều. Ông ưa nhào lộn trên mặt biển và thường trượt theo các ghe thuyền đi đánh cá. Thấy ông theo, ngư dân khấn vái, lập tức ông bỏ đi xa cho ghe thuyền tiếp tục hành nghề. Nếu trên ghe thuyền có ai nói: “ Đua, đua Ông Nược !” thì ông Nược sẽ không bỏ lỡ cơ hội thi đua với thuyền rượt bắt suốt buổi không biết mệt.
Theo ngư dân, ông Nược giúp ích rất nhiều cho họ. Mỗi khi thuyền ghe bị bọn thầy phá lưới ếm thì không đánh được cá hoặc dụng cụ bị hư hao. Thầy phá lưới là hạng người chuyên phá hoại lưới đánh cá, mỗi khi xin cá của các thuyền chài không được thỏa mãn. Bọn người này có nhiều phép, nhiều đòn làm cho lưới hoặc bị cong queo tròn xoe lại hay đứt dây lưới khi dàn lưới mới được bủa ra. Có tên dùng bùa ếm lưới, dàn lưới bị ba ba hoặc con dú, một loạì rùa biển, cắn phá. Có khi họ đóng đinh vào mắt ghe, cột bườm hay bánh lái, trong trường hợp này thuyền có ra khơi thì thu hoạch cũng rất ít.
Mỗi khi thuyền bị dơ uế, ngư phủ bị phong long xanh, phong long tử, bị thầy phá lưới bỏ bùa, hoặc vì vô tình những bạn đồng nghề nhục mạ lẫn nhau, xúc phạm tới các vị thủy thần, lập tức ông Nược báo hiệu cho biết bằng cách xuất hiện hàng đàn nối đuôi nhau đi quanh quẩn trước mũi ghe, thấy vậy các chủ ghe hiểu ngay lập tức làm lễ tạ, và khi trở về nội địa phải nhờ các pháp sư giải bùa, làm lễ cúng trang nghiêm, hoặc phải “xông” để “ mổ” cho ra bùa phép thì hành nghề mới có cá được.
Dân chài lưới rất kỵ đàn bà có mang hoặc đang nguyệt kỳ dơ uế bước qua dàn lưới, kiêng cả sự giao thiệp với những người này, nếu không sẽ bị mắc chứng phong long xanh, phong long tử, đi đánh cá thì có mà thu hoạch cá thì không.
Ông Nược còn giúp ngư dân biết trước để đề phòng bão tố. Đang hành nghề mà thấy ông nhảy vọt lên cao lăn tròn vài vòng rồi lại rớt xuống nước, đó là điềm ngọn gió đổi thay, ngư dân quen gọi Ông Nược ngứa mình. Lại khi trời đang “láng” gió, nghĩa là êm gió, bỗng thấy từng đàn ông Nược từ hướng Bắc lội về hướng Nam, ông Nược đi rước gió, hôm sau sẽ có gió Nồm, ngư dân biết trước ngược thuyền trở lại, tránh được tai nạn xảy ra bất ngờ.
Về sự tích ông Nược, ngư dân kể lại xưa kia có một thầy sãi trên chuyến đò qua sông có mang theo một pho kinh sách quý. Rủi con đò hôm ấy đông khách, quá nặng bị chìm giữa dòng sông, nước cuốn trôi mất pho kinh. Thầy sãi trở lại lặn hụp tìm kiếm không ra, cứ lặn hụp mãi cho đến một ngày kia hóa thân thành cá Nược.
Ông Nược cũng như ông Nam Hải chỉ linh thiêng tại biển Nam, còn tại biển Bắc Trung Hoa, Nhật Bản, họ vẫn săn bắt các ông, giết hại rất nhiều.
Dân Việt Nam bao giờ cũng tôn trọng ân nghĩa nên đối với các ông có sự thờ cúng để tri ân.
-------------
Một trong các loài thủy tộc nữa cũng được ngư dân tôn sùng, thờ cúng là ông Sứa, một loại sứa biển khổng lồ, có nhiều đặc tính khác biệt với các loại sứa biển thông thường gồm sứa lửa, sứa xanh, sứa chén, sứa trắng. Trong các loại này có sứa lửa có nhiều tua dài màu đỏ chứa đầy chất nhờn, ai chạm phải thì ngứa vô cùng, có khi ngứa đến chết. Sứa xanh và sứa chén có hình thù nấm rơm to bằng nắm tay, không có chất ngứa, có thể dùng làm thực phẩm. Riêng loại sứa trắng, to bằng chiếc mâm, dùng làm gỏi ăn rất ngon và là một món nhậu tuyệt vời.
Ông sứa được ngư dân tôn sùng và được cung kính gọi là ông Sứa. Ông to lớn lắm, bề dài trên 20 thước…đầu to bằng phẳng, miệng nằm ngang, vây dài thườn thượt, khắp mình có hình bông hoa màu ngũ sắc trông rất đẹp. Mình ông cũng mềm như các loại sứa khác, nhưng đây là cái mềm dẻo dai chịu đựng, phá không vỡ, đập không rời. Ông bơi rất chậm chạp, tốc độ chỉ vào khoảng 500 thước một giờ, nhưng được cái trông rất ung dung, và ngư dân bảo rằng khi ông lội thì thật oai vệ như một viên đại tướng, bên cạnh có hàng đàn cá bốp đi theo chờ ông Sứa nhả ra chất nước nhờn đón nhận làm thức ăn. Các thuyền câu thường theo vết ông Sứa bủa lưới câu bắt cá bốp, loại cá rất ngon, thơm thịt, đắt tiền.
Ông Sứa ăn các loại cá ve, cá cơm, tôm, tép và món ăn ông ưa thích nhất là ruốc.
Chính vì ham ăn ruốc mà ông Sứa trước đây cũng có sắc phong như ông Nam Hải, bà Đệ Bát Thánh Phi nương nương, sau này sắc phong bị thu hồi vì phạm tội nuốt nhầm một ngư dân đang xúc ruốc. Ruốc là một loại hải sản giống như con tép, ngư dân xúc ruốc về làm mắm, thứ mắm ruốc ta vẫn bắt gặp trên thị trường. Ruốc xuất hiện rất nhiều tại eo gành thuộc hải phận và cửa sông xã An Hải ( Phú Hải) quận Hải Long tỉnh Bình Thuận. Người ta xúc ruốc bằng một số dụng cụ đơn sơ gồm cái sườn và cặp cà kheo. Cái sườn có đẫy bằng vải để đựng ruốc, cặp cà kheo còn gọi là chân khêu để khi mực nước cao thì dùng.
Về chuyện ông Sứa nuốt nhầm người xúc ruốc ngư dân kể lại như sau, câu chuyện chỉ giới hạn trong đám dân chài Bình Thuận:
Một hôm, có hai vợ chồng ngư dân đang hành nghề xúc ruốc, thì ông Sứa đi tìm thức ăn chợt trông thấy xa xa có đám ruốc lờ mờ, nhưng không trông thấy hai vơ chồng ngư dân. Ông Sứa há miệng xốc tới nuốt trọn đám ruốc vào bụng, nuốt theo luôn cả người chồng. Khi trở về ông Sứa bị Diêm Vương phạt về tội sát nhân, bị đoạ luôn và từ đó về sau, ông Sứa không được đám ngư dân trọng vọng thờ cúng nữa.
-------------------
Nói đến các loài thủy tộc khiến ngư dân phải sợ hãi thì phải nói tới loài rắn; độc tôn ngự trị trong các loài rắn biển là Đẻn Hèo. Đẻn hèo có thân hình dài khoảng ba thước, mình tròn bằng cổ tay, cứ cách khoảng hai phân có một lằn đen trên mình màu vàng, có vảy nằm sát da và trên đầu có chữ “nhâm” ở giữa. Chính do chữ nhâm này mà ngư dân thường gọi là ông Hèo để chỉ đến hèo trong tín ngưỡng tôn sùng những loài thủy tộc linh thiêng.
Đẻn Hèo thường xuyên xuất hiện phơi mình trên mặt biển ở bất cứ tầm nước xa hoặc gần, và lội đi với tốc độ nhanh như chớp. Đẻn Hèo ăn các loại cá nhỏ li ti cùng bọt nước. Theo các vị bô lão từng hành nghề là dân chài ở Bình Thuận, Đẻn Hèo vốn dĩ hiền lành, nhưng đã cắn ai thì người đó hết phương cứu chữa, chỉ có chờ chết. Chính vì vậy mà ngư dân tôn trọng và không bao giờ dám xúc phạm tới trong khi hành nghề đánh cá.
Bên Đẻn Hèo còn lại Đẻn Kim, ngư dân cũng rất sợ. Đẻn Kim dài một thước, thân hình tròn nhỏ bằng ngón tay út, bụng to đầu nhỏ trông như chiếc đũa mun đen rất dễ sợ. Thức ăn của Đẻn Kim là tép con, cá nhỏ, rong biển và bọt nước. Nạn nhân bị Đẻn Kim cắn không thấy đau trong khi toàn thân đều bị tê cứng và mình mẩy tím bầm, sùi bọt mép, cứng họng, đơ lưỡi và chết không kịp trối trăng.
Loài đẻn đáng sợ vào hàng thứ ba trong rắn biển là Đẻn Giẻ Rách, dài từ 20 đến 30 phân, tròn như chiếc đũa, toàn thân có màu vằn đen. Đẻn Giẻ Rách ăn chất bùn non và cặn bã ở sông rạch, do đó ngư dân mò tôm cua thường là nạn nhân của loại rắn này.
Nhân nói tới đẻn, chúng tôi cũng xin đề cập tới những loại đẻn tương đối hiền lành, và ngư dân thường bắt làm thức ăn ngon bổ. Đó là các giống Lịch Bùn (đẻn có xương), Lịch Cát (đẻn không xương), Chình Bồng có vảy màu xám lẫn lấm chấm đen và cá Lạc có vây, lưng vàng, bụng trắng, đầu giống con chồn có răng bén nhọn cắn người đến phun máu. Tất cả các loại rắn này phần nhiều có thân màu trắng đục, dùng đuôi dẹp đào hang để ở, nên mới có tên con Lịch, con Chình, khác với con Lươn ở đồng quê…
Trong các loại rắn biển còn có hai loại đáng sợ được ngư dân gọi tôn là Bà: Bà Lạch còn được gọi là Bà Chằn Lạch, riêng hai tiếng Bà Chằn cũng đủ nói lên điều đáng sợ của loại rắn này, và Bà Mộc chúng tôi cũng đã nhắc tới ở đầu bài.
Bà Lạch hình thù giống rắn, có mào đỏ như mào gà dính liền với một chữ nhâm và chỉ xuất hiện mỗi khi ngư phủ nào vô tình xúc phạm đến danh tính trong lúc hành nghề.
Bà Mộc, tức Mộc tru thần xà hình dáng thật đẹp, lưng đen, bụng vàng, miệng đỏ, trên đầu có chữ nhâm, sau đuôi có ba chấm trắng như mặt nguyệt, dài khoảng một thước mộc (40 phân tây), nên gọi là Bà Mộc, có tên trong văn tế các thủy thần tại lăng Dinh Vạn, và khi chết cũng được chôn cất ở các Lăng Dinh theo tục lệ cổ truyền.
Khi nhắc tới loài đẻn, ngư dân địa phương có thể cho biết loài đẻn Kim còn là phương tiện để giúp kẻ vô lương. Những tên này bắt đẻn về đập chết phơi khô, nghiền nát thành bột để dùng làm thuốc mê “xông” vào các nhà để mọi người mê đi mà lọt vào ăn trộm.
Đẻn Xỏ Rế cũng được nhắc tới, loại đẻn này thường được cuốn tròn thành khoanh nổi lềnh bềnh ngay trước cửa biển, báo cho ngư phủ biết trời sắp có dông to gió lớn, không nên ra khơi.
Ngư dân cũng thường kể lại cho nhau nghe những câu chuyện linh thiêng về các loài thủy tộc như câu chuyện sau đây: Trên một chiếc thuyền, người tổng khậu với tay xuống nước vo gạo nấu ăn chợt thấy một bà Mộc, liền thách đố buông lời xúc phạm. Lập tức bà Mộc dùng toàn lực “bay’ vọt tới quấn chặt cả hai tay người tổng khậu. Người này la hoảng, lại bỗng thấy đau đầu nhức nhối. Sáu người bạn đồng thuyền lực lưỡng xúm lại gỡ tay cho người kia nhưng vô hiệu. Chủ thuyền phải thắp hương khấn vái, xin bà tha cho, tức thì bà Mộc nhảy vọt khỏi thuyền lội đi nơi khác.
Mỗi nghề, mỗi dân tộc có tín ngưỡng riêng, thì vì nghề nghiệp, ngư dân Việt Nam phải tôn sùng thần linh biển cả và bộ hạ của các vị xuất hiện dưới hình thức những loài thủy tộc, cũng là chuyện thường.
2. PHÙ THỦY CAO TAY
Phù thủy, miền Nam gọi là thầy pháp, miền Bắc gọi là thầy Tự. Đây là những ông thầy cúng, theo mọi người cúng lễ thành đoàn âm binh, và sai khiến những âm binh này như một vị tướng sai khiến ba quân, và âm binh tuân lệnh thầy phù thủy làm tất cả những công việc thầy sai khiến, chống người dương và chống cả người âm, làm những việc hợp lý cũng như những việc phi lý. Mỗi lần làm xong những việc sai khiến đều được thầy phù thủy khao quân, nghĩa là cúng lễ cho ăn uống. Tiệc khao quân có khi thật long trọng với đủ thịt cá, trái cây, rau cỏ, hoa quả; nhưng nhiều khi cũng thật đơn sơ, chỉ gồm một nồi cháo hoa hoặc vài chiếc bánh tráng, vài chiếc bắp ngô, mấy quả dưa chuột …
Mỗi thầy phù thủy đều có bàn thờ để thờ âm tướng và âm binh, và nơi thờ đặt riêng tại một căn nhà, được mệnh danh là “tĩnh”. Có thầy phù thủy thờ tại tĩnh của mình những vị tướng nhà Trời như Triệu Công Minh, Tề Thiên Đại Thánh, Trương Thiên Sư .v.v.. Các thầy dựa vào oai của các vị thần tướng này để chiêu mộ âm binh và sai khiến chúng. Mỗi thầy có những câu chú riêng, và mỗi khi muốn sử dụng âm binh, trước hết phải thỉnh âm binh qua tiếng tiu, tiếng cảnh, tiếng chuông, tiếng khánh, và phải có tướng lệnh ban ra bằng những câu chú.
Trước khi thỉnh âm binh, bàn thờ phải có đủ đèn nhang trầu nước, mùi nhang thơm kéo âm binh về tĩnh.
Ngoài việc cúng lễ trong khi thỉnh âm binh, hàng ngày các thầy phù thủy phải sớm chiều đèn nhang tại tĩnh với hương hoa trầu quả để cúng các thiên tướng.
Câu chuyện này đề cập tới một thầy Tự, tức là một thầy phù thủy miền Bắc, và là một câu chuyện chúng tôi nghe nhắc lại nhiều lần khi nhỏ tuổi. Chuyện nhắc lại không nói rõ thầy Tự này quê quán nơi đâu, và thầy đã hoạt động tại vùng nào. Chỉ biết rằng thầy rất cao tay và có nhiều pháp thuật kỳ ảo.
Một lần có một bà đi chợ mua một chiếc thủ lợn, khi ở chợ về, bà này gặp thầy. Đôi bên chào hỏi nhau. Bỗng thầy chỉ vào chiếc rổ đi chợ của bà, trong đó ngoài chiếc thủ lợn còn có rau đậu, và bảo:
- Trời ơi! Tưởng bà đi chợ mua gì, chẳng hoá ra bà lại mua chiếc đầu lâu. Ông ấy ở nhà hay nhắm rượu với đầu lâu lắm hay sao ?
Nghe nói vậy, bà kia nhìn rổ chợ. Quỷ thần ơi, một chiếc đầu lâu người trọc hếu, hai mắt nhắm nghiền, cặp môi nhợt nhạt vều ra, đang nằm chềnh ềnh giữa rổ trên đám cà chua, rau hành!. Bà ta sợ quá, kêu lên một tiếng, vất luôn cả rổ chợ mà chạy! Vừa chạy, bà vừa rủa con mẹ hàng thịt dám bán thịt người cho bà!
Bà có ngờ đâu, ông thầy tự đã dùng phép phù thủy để biến hóa chiếc đầu heo thành đầu người, và khi bà quăng rổ chợ chạy đi, ông thầy Tự đã ung dung nhặt hết từ rau cỏ đến chiếc đầu heo mang về làm đồ cúng khao âm binh.
Lại có một lần nữa, có một cô đi chợ mua được mớ lòng lợn, hàng thịt ở các chợ bán lẫn cả lòng và xương. Mớ lòng lợn này, bà hàng thịt đã dùng lạt buộc để cô xách đi chợ dễ vì chiếc rổ chợ của cô đã nhỏ lại đựng đầy rau đậu rồi. Ở thôn quê Việt Nam trước đây, đi chợ người ta không xách giỏ như ở Sài gòn ngày nay, người ta cắp theo một chiếc rổ, hoặc cũng có khi là một chiếc bị cói.
Cô đi chợ kia, từ chợ ra về, một tay cắp rổ chợ vào nách, tay kia xách xâu lòng lợn. Trên đường về, cô gặp ông thầy Tự. Không biết mớ lòng lợn đã gợi cơn thèm của thầy Tự chăng, mà thầy chỉ vào xâu lòng lợn của cô hỏi:
- Cô mua mấy con rắn kia bao nhiêu tiền?
Cô kia không nhìn xuống xâu lòng lợn đáp:
- Đây là lòng lợn, đâu có phải rắn!
Ông thầy tự cười nói:
- Cô nhìn lại xem, đấy là lòng lợn hay là rắn.
Cô này lúc đó mới nhìn xuống xâu lòng, thì ghê quá! Không phải là xâu lòng, mà là một xâu có bốn năm con rắn đang ngóc đầu lên như muốn mổ vào cạnh sườn cô ! Thế là cô vội vàng vứt xâu lòng xuống đất và bỏ chạy. Thầy Tự nhặt lên, xâu rắn lại biến trở lại nguyên là xâu lòng ! Và hôm đó, thầy Tự đã được bữa nhắm rượu với lòng lợn thật ngon !
Với cái thuật biến hóa của thầy, đã nhiều lần thầy kiếm chác được đồ nhậu hoặc thức ăn để khao âm binh, nhưng cũng có lần thầy bị thất vọng vì gặp một con người quá chai lì.
Lần đó, một em nhỏ độ 15, 16 tuổi đi chợ với mẹ, mẹ bận bán hàng, mua được một con cá quả lớn, sai con xách về, con cá bị xâu qua mang bằng một sợi lạc. Câu bé gặp thầy Tự, thấy con cá tươi ngon, thầy Tự liền giở nghề cũ, chỉ vào con cá bảo cậu bé:
- Em xách con rắn về làm chi vậy ?
Cậu bé nhìn xuống, con cá đã biến thành con rắn. Cậu ngơ ngác, nhưng cậu không sợ, vì con cá bị xâu qua mang, nên đầu cá bị biến thành đầu rắn, con rắn biến hình chỉ quẩy đuôi, còn đầu vẫn bị xâu qua chiếc lạt. Cậu nói:
- Lạ thiệt! Lúc nãy mẹ tôi mua con cá chứ có mua rắn bao giờ!
Thầy Tự bảo cậu:
- Thôi vất nó đi, ai mà ăn rắn!
Trước đây, người miền Bắc rất ít người ăn thịt rắn, sau này vì mất mùa, chiến tranh, người dân bị đói khổ, người ta mới ăn thịt rắn.
Nghe lời thầy Tự, cậu bảo:
- Ăn chứ ! Sao lại không ăn ! Thịt rắn ăn cũng ngon như thịt cá quả vậy !
Không biết, ở nhà cậu ta ăn thịt rắn chưa, nhưng câu nói của cậu đã làm thầy Tự thất vọng! Thầy đành bỏ đi. Còn cậu kia đi một quãng nhìn lại thì con rắn đã biến đâu mất, trong tay cậu vẫn xách y nguyên con cá quả.
Về nhà, cậu thuật lại mọi việc đã xảy ra, cha cậu nói:
- Lại cái thằng cha phù thủy rồi! Nó làm nhiều chuyện thất đức, rồi nó sẽ chịu hậu quả.
Theo nhận xét của tiền nhân, những thầy Tự với những công việc làm nhiều khi chống lại quỷ thần, thường để tội cho con cháu, và rất nhiều thầy Tự đã không con. Phần vì âm đức bị giảm sút, phần bị ma quỷ oán hận vì các thầy dùng âm binh của mình khống chế các vong hồn khác.
Những thầy Tự càng cao tay bao nhiêu, âm đức càng kém chừng ấy. Cao tay, thầy chiêu được nhiều âm binh, ảnh hưởng của thầy mạnh đối với âm giới, thầy có thể sai khiến âm binh để hại người dương và cả người âm nữa. Một thầy Tự cao tay mà thù hằn ai, người đó khổ với thầy, trong nhà có thể sinh quái, sự kiện này có thể được báo hiệu trước qua linh cảm của những giống vật như gà gáy gở, chó lê trôn .. rồi rắn vào nhà ! Sau đó là những tai họa xảy ra nếu gia chủ kém phúc đức: cháy nhà, đổ tường, con cái ốm đau, của cải mất mát ..! Gặp trường hợp này, người ta lại phải tìm tới một ông thầy Tự khác cũng cao tay để nhờ bùa phép chống đỡ với âm binh của thầy Tự kẻ thù.
Âm binh là thứ dữ, nhiều khi âm binh phản lại cả thầy, nếu thầy sai chúng làm một công việc gì mà không khao công xứng đáng, hoặc trong công việc này thầy không điều khiển đủ số âm binh để hoàn thành.. Sai âm binh, thầy Tự nào cũng phải theo dõi để hỗ trợ cho chúng. Một điều các thầy Tự thường chú ý là chỉ nên sử dụng âm binh vào ban đêm hoặc nếu có sai khiến trong lúc ban ngày cũng phải tránh đừng để bất cứ ai bắt gặp âm binh trong công việc; như vậy là lộ thiên cơ và lập tức bị âm binh phản chống, sự phản chống này rất tai hại.
Âm binh của thầy Tự trong câu chuyện này là thứ âm binh dữ, đã gọi âm binh tới là phải có việc cho âm binh làm và có cái gì khao thưởng.
Có một hôm, bà Tự theo lời chồng dặn, phải quét trước ngôi tĩnh cho sạch sẽ, để tĩnh bẩn thỉu thiên tướng sẽ không giáng, thiên tướng nếu không giáng, thầy Tự không thể nào sai khiến nổi âm binh.
Trong tĩnh, ngoài bàn thờ với tượng các thiên tướng, còn các tự khí, và ở dưới đất có bày trống, chiêng, tỉu, cảnh dùng để thỉnh âm binh. Tiếng trống chỉ nổi lên khi thầy Tự thỉnh mời các vị thiên tướng và đốc thúc âm binh; tiếng chiêng hoặc tiếng chuông gọi âm binh, loại chiêng và chuông nhỏ dùng riêng tại các tĩnh; còn tiếng tiu, tiếng cảnh khi thầy Tự đọc văn cúng, tự thầy sẽ gõ lên.
Bà Tự hôm đó trong khi quét tước ngôi tĩnh, đã vô ý để cán chổi đụng vào chiêng, đụng mạnh khiến chiêng phát ra tiếng lớn như có người gõ ! Sự vô ý của bà đã có hậu quả ! Nghe tiếng chiêng, đoàn âm binh tưởng có lệnh của thầy mời, liền xuất hiện. Thấy bóng ma lố nhố quanh bàn thờ, bà Tự hoảng hồn, nhưng bà đã nhanh trí nói:
- Hôm nay thầy có việc bận đi vắng, có nhờ ta thỉnh chư vị âm binh lên. Thầy muốn đoàn binh chuyển cho thầy hàng cau ở trước cửa nhà về phía sau nhà ! Thầy cũng dặn nấu nồi cháo để khao thưởng ba quân sau khi công việc hoàn tất.
Bà nói dứt, đoàn âm binh biến mất. Chúng ra đi để cùng nhau thi hành lệnh của thầy chúng do bà vừa truyền ra.
Nguyên phía trước cửa nhà từ lâu vẫn có một hàng cau gần mười cây. Bà Tự đã trót lỡ đụng phải chiêng và âm binh hiện lên, bà hiểu nguy cơ nếu không có việc cho âm binh làm, có thể chúng sẽ vật bà chết tươi ngay tại tĩnh. Là vợ một thầy phù thủy cao tay, bà hiểu rõ âm binh của chồng, nên mau trí khôn bà đã nhân danh chồng sai khiến lũ âm binh làm một việc mà cho đến giờ phút đó có lẽ vợ chồng bà không bao giờ nghĩ tới !
Đoàn âm binh vừa biến mất, bà vội vàng bỏ dở công việc quét tĩnh, xuống bếp đặt nồi cháo lớn để lát nữa làm tiệc khao quân.
Thật lạ lùng! Hàng cau đang mọc trước cửa nhà, không có ai đào đánh, bỗng dưng cứ từng cây một chuyển dần sang trồng ở đằng sau nhà, những cây cau tự động chuyển đi, như có người đào lên chuyển đi vậy!
Khi tất cả hàng cau được trồng lại ở phía sau nhà thì nồi cháo cũng vừa chín. Bà Tự lấy một chiếc nong lớn ngả ra trước tĩnh, bày bát thìa rồi bà bê nồi cháo ra múc một phần ra bát, đoạn bà thắp hương cài chung quanh nong và lầm rầm khấn:
- Lệnh thầy, ba quân đã làm xong! Theo lời thầy ta có nồi cháo khao quân, xin ba quân chia nhau hưởng thụ.
Chiều hôm đó khi thầy Tự trở về, nghe lời vợ thuật lại, thầy khen vợ là nhanh trí, nếu không chưa biết sự gì sẽ xảy ra! Từ đó, mỗi khi quét tĩnh bà Tự phải hết sức thận trọng để khỏi đụng tới chiếc chiêng, và bà cũng không dám để người nhà nào làm công việc này, sợ họ vô ý đụng phải chiêng tạo nên tiếng kêu thì thật là rắc rối.
Thầy Tự cao tay được dân trong vùng tín nhiệm, trừ những việc chiếm đoạt lặt vặt mớ lòng heo, cái thủ lợn… là những việc đáng chê, thầy Tự cũng đã giúp nhiều người trừ tà ma, chống lại sự trù ếm gây nên bởi những đồng nghiệp khác.
Mỗi vùng không phải chỉ có một thầy Tự, có nhiều thầy Tự theo nhiều môn phái khác nhau, tức là thờ các vị thiên tướng khác nhau, những thầy Tự này đối với nhau vẫn thường có sự đố kỵ như hàng thịt nguýt hàng cá vậy ! Có nhiều người gặp điều không may, nhất là khi có người ốm đau bị nghi là ma làm, thường tìm tới các thầy tự xin bùa trừ tà, linh bùa của thầy Tự này không thấy hiệu nghiệm, người ta lại tìm tới thầy Tự khác, cũng như một con bệnh chữa bệnh tại một ông lang không khỏi, bỏ đi chữa tại một ông lang khác. Chính sự thay thầy trừ tà của các đệ tử đã tạo sự ganh ghét giữa các thầy Tự, các thầy này cũng luôn luôn có sự gièm pha lẫn nhau. Nhiều khi hai thầy Tự căm hờn nhau, gièm pha nhau chưa đủ, các ông còn sai âm binh đánh phá nhau ! Như vậy là có hai đoàn âm binh đụng trận. Trận chiến giữa họ ghê gớm lắm, binh lính thời xưa giao tranh cũng không ghê gớm bằng !
Ông thầy Tự trong câu chuyện này cũng đã có nhiều lần giao binh với các thầy Tự khác trong vùng cũng vào bậc cao tay, cuộc giao binh xảy ra ngay tại trước cửa tĩnh của thầy, khiến hàng xóm chung quanh phải một phen kinh sợ.
Một hôm, vừa sẩm tối, đang trời quang mây tạnh bỗng một trận gíó lớn ầm ầm nổi lên. Gió thật to làm tốc cả mái nhà, bay cả ngói. Lạ kỳ nhất, gíó chỉ tập trung vào một khoảng hơn mẫu ruộng - một mẫu ruộng miền Bắc là 3600 thước vuông – Gió lớn như gào thét, lại thêm đỗ mưa, những hạt mưa lớn to bằng trái bồ quân ! Mưa gíó chỉ xoay quanh nhà ông Tự!
Chắc ông Tự hiểu là kẻ địch đang tấn công mình. Ông vào tĩnh thắp nhang, đánh trống, gõ chiêng và ông đọc những câu chú gì không ai biết, chỉ biết rằng tiếp theo tiếng chiêng tiếng trống của ông, mưa gió càng đổ lớn, gió hình như có hai chiều trái ngược nhau tạo nên những cơn lốc bốc cả sỏi đá lên cao rồi lại rơi xuống.
Những gia đình ở xung quanh, nhà nào nhà nấy đều lo sợ hãi hùng. Các cụ già có kinh nghiệm bảo con cháu thắp nhang trên các bàn thờ, khấn lễ Trời Phật, kêu cầu Thổ Công và tổ tiên che chở. Các cụ bảo con cháu: “Âm binh đánh nhau”.
Trời tối càng tối hơn vì mưa gió. Trong mưa gió người ta nghe như có tiếng la hét, và có tiếng gươm giáo chạm nhau. Ầm ầm và ầm ầm, thỉnh thoảng giữa tiếng ầm ầm lại có tiếng giống tiếng người rú lên như khi bất thần bị đâm ! Rồi người ta nghe có cả tiếng rên rỉ và tiếng khóc.
Trời mưa tạnh, nhìn không gian thật ảm đạm, quãng tối mờ mờ, quãng tối đen, lâu lâu có một chớp nhoáng và một tiếng sét thật lớn! Thiên tướng cũng đang xuất trận !
Ai tò mò nhìn ra đêm tối, mỗi khi có luồng chớp sáng, có thể thấy mập mờ những bóng người đang chập chờn tiến lên lùi xuống, bỗng hiện rồi bỗng mất; những âm binh đang giao chiến ! Có những bóng người bị chém cụt đầu lảo đảo ngã, có bóng những chiếc đầu lăn dưới đất, những thây cụt đầu máu từ cổ phun ra, những bóng ma này thoáng có đấy, thoáng lại mất ngay.
Có khi gió bão ầm ầm như vậy trong ba bốn ngày liền, có khi chỉ từ chập tối tới nửa đêm đã hết. Theo các cụ thì đó là âm binh của một ông Tự khác tới tấn công tĩnh của ông Tự này, ngôi tĩnh đương nhiên biến thành một đồn ải, và ông Tự này phải huy động âm binh ra chống giữ cho đến khi chiến thắng đuổi được quân thù; lúc đó gió bão mới tan. Sau những trận gió bão này, một mùi tanh hôi kinh tởm bốc lên, các cụ bảo là mùi máu ma, sân nhà ông Tự bị cày nát, những mảnh gỗ, mảnh sành, mảnh sắt không biết ở đâu rơi xuống rất nhiều, mái tĩnh bị lật ngói, hàng hiên bị hất rơi. Nơi đây đã là bãi chiến trường của hai phe âm binh quyết chiến. Tất cả mùi hôi tanh, những mảnh gỗ, mảnh sành, mảnh ngói ông Tự không khiến ai thu dọn, ban ngày vẫn còn đấy, nhưng chỉ sau một đêm, sân đã gọn, sạch sẽ, mái ngói đã lợp lại. Ông Tự đã huy động âm binh để thu dọn chiến trường! Quân ông đã đại thắng quân thù! Trong đêm thu dọn chiến trường nếu có nhà cửa nào của lân bang bị trốc nóc, tung ngói, âm binh cũng tu sửa lại hết!
Thường trong những cuộc giao chiến giữa hai phe âm binh, chỉ sân vườn nhà ông Tự bị hư hại đào xới, ít khi nhà cửa hàng xóm bị xâm phạm. Mỗi lần cuộc chiến kết thúc thắng lợi, ông Tự lại mở lễ lớn khao âm binh, có khi mỗ heo, còn giết gà vịt là chuyện bình thường. Những lễ khao âm binh long trọng này, ngôi tĩnh nhà ông Tự vang lên tiếng ê a không phải riêng của ông, mà của các đệ tử ông và của những con hương đã được ông giúp đỡ chữa bệnh hoặc trừ tà cho..Ông Tự và những người này đọc những bài khấn lễ thiên tướng và âm binh. Thôi thì trống chiêng suốt ngày, trong tĩnh, ngoài sân đồ lễ bày la liệt, sau buổi lễ vàng mã diêm hóa bốc cháy sáng rực như cháy nhà!
Sau một cuộc âm chiến, âm binh thường bị hao hụt đi, có chiến trận tất phải có kẻ sống người chết. Những bóng ma cụt đầu, những bóng đầu lâu lăn dưới đất, những bóng thân xác phun máu, người ta thấy thoáng hiện, thoáng mất, chập chờn như có như không trong đêm tối qua luồng chớp nhoáng, chính là những âm binh bị kẻ thù giết. Số lượng âm binh bị tiêu hao này cần phải được thay thế ngay để tránh sự giảm sút quân số, ngõ hầu đủ lực lượng để chống lại một cuộc tấn công có thể có của một kẻ thù khác, và cũng cần phải đủ âm binh để sai khiến trong những công việc.
Muốn có thêm âm binh, ông Tự phải chiêu binh, cũng như trần gian ta mộ lính, nếu có khác chỉ ở chỗ người trần thì bắt buộc trong độ tuổi nào đó phải sung quân ngũ, sự bắt buộc thực hiện dưới những cụm từ rất đẹp, nào là đi quân dịch, làm nghĩa vụ quân sự.. còn người âm, các ông Tự phải dụ dỗ để những hồn ma chịu gia nhập đoàn âm binh của mình; như vậy hồn ma gia nhập một đoàn âm binh hoàn toàn với tính cách tự nguyện, khi chiến đấu hồn ma biết rõ là chiến đấu cho ông thầy của mình. Không bao giờ một âm binh than van đặt câu hỏi: Mình làm việc đở đạn để chết thay ai? Đối với âm binh không có nghĩa vụ quốc gia hay quốc tế nào hết, và một thầy Tự cũng không bao giờ xua âm binh của mình đi xâm lấn nước ma nào, mà bảo rằng có nhiệm vụ quốc tế !
Các thầy Tự chiêu binh ở đâu và vào thời gian nào ?
Thường thì các thầy lập đàn chiêu binh ở những bãi tha ma, hoặc ở những nơi nào các thầy biết trước đấy đã có sự chết chóc, có thể là một bãi chiến trường cũ, một thôn nào vừa có dịch lệ nhiều người chết.. Lễ đàn chiêu binh dựng lên với đủ lễ vật gồm thức ăn như thịt cá, xôi chè, bánh trái hoa quả, nhất là nhiều vàng mã nữa. Các thầy làm lễ chiêu binh về đêm, các thầy đọc những bài văn chiêu dụ với chiêng trống nổi lên. Trong bài văn chiêu dụ, các thầy thường nhắc tới những vong hồn cô đơn, không nơi nương tựa, rồi các thầy kể những cung cấp của các thầy cho các vong hồn khi vong hồn đã gia nhập đoàn âm binh:
Hồn hỡi hồn,
Cô đơn cõi chết
Không người thân thích
Không có cơm ăn
Đêm tối lang thang
Bụng thèm miệng khát
Áo cơ quần rách
Vất vưởng về đâu ?
Hồn hãy mau mau,
Theo thầy chịu lệnh
Không còn nhang lạnh,
Thầy cúng áo quần
Thầy cúng cơm canh,
Thầy cho vàng bạc
Những ngày lễ tiết
Hưởng thụ thỏa thuê
Hồn hãy biết nghe
Về nơi sung sướng,
Hồn hỡi hồn!
Về nơi thầy không còn vất vưởng
Về với thầy có bạn âm binh !
Đại khái bài văn chiêu âm binh lời lẽ như vậy, nhưng thường là những bài viết dài, các thầy ê a đọc hàng giờ mới hết.
Các thầy hay làm lễ chiêu âm binh trong dịp rằm tháng Bảy âm lịch, lúc này nhiều cô hồn lang thang, các thầy có thể lập lễ đàn chiêu binh ngay tại sân nhà trước cửa tĩnh.
Trong việc sử dụng âm binh, có nhiều thầy Tự dù rất cao tay cũng đã bị hại vì chính lũ âm binh của mình. Ông thày tự trong bài này cũng vậy. Nhờ có âm binh, ông đã thành công trong nhiều việc, và đã thắng nhiều thầy Tự cao tay khác trong những trận giao binh đấu pháp, nhưng rồi ông đã bị chính âm binh của ông vật chết. Ông đã giúp nhiều người trong nhiều việc khó khăn. Năm đó, vùng ông bị hạn hán, nhà nông khốn khổ vì thiếu nước. Người ta đến nhờ ông giúp làm sao cho ruộng có nước. Ông đã sai âm binh tát nước từ sông vào cho nhiều thửa ruộng.
Đêm kia, ông cũng lại sai âm binh tát nước vào một khu ruộng cao. Âm binh tát nước từ khuya cho tới gần sáng, nước đã tràn ngập cả khu ruộng, những cây lúa gần khô héo gặp nước như phớn phở lên. Tiếng gà gáy sáng đã vang vọng khắp trong làng. Nhà nông gọi nhau đi làm đồng. Theo lẽ lúc này thầy Tự phải thu âm binh về, nhưng không hiểu thầy vì nhọc mệt làm sao đã ngủ quên, không dậy để ra lệnh thu binh. Những người đi làm đồng sớm đã bắt gặp những chiếc bồ đài nhỏ tự động tát nước, họ chỉ trỏ cho nhau xem và bảo nhau: Đây là âm binh tát nước !
Âm binh thấy trời đã gần sáng rõ, người đi làm đồng bắt gặp chúng tát nước, chúng liền ngưng công việc lại và kéo nhau về vật chết thầy Tự. Chúng cho rằng thầy đã phản chúng để lộ thiên cơ !
Nghe tin thầy Tự bị âm binh của mình vật chết, các cụ già bảo nhau: Sinh ư nghệ, tử ư nghệ ! Và các cụ răn con cháu không nên làm nghề Phù Thủy, nghề này rất tổn âm đức, vì tuy có giúp người nhưng hại người nhiều hơn. Hơn nữa, giao thiệp với âm giới không phải dễ dàng, nhiều thầy phù thủy đã bị âm binh phản mà mất mạng. Các cụ lại nghiệm rằng: làm nghề phù thủy dễ bị tuyệt tự, mà dù cho có con, con cái cũng không gặp hay !