The Mediator - Cầu nối của những hồn ma - Meg Cabot
The Mediator - Cầu nối của những hồn ma
Meg Cabot
Susannah Simon, 16 tuổi, là một teen Mỹ "bình thường" về mọi mặt, trừ việc cô có thể nhìn thấy và giao tiếp với hồn ma. Câu chuyện mở đầu khi Susan chuyển đến Bắc California sống cùng mẹ và dượng Andy, cùng 3 đứa con riêng của dượng. Mọi thứ đều xa lạ với Susan, nếu không tính đến chuyện... ở đâu cô cũng thấy hồn ma, giống như khi còn ở New York. Ma ở khắp nơi, chỉ có điều hình như chỉ có mình cô trông thấy chúng.
Tập 1: Vùng đất u tối
Chương 1:
Người ta bảo với tôi rằng tôi sẽ trông thấy cọ.
Tôi chẳng tin, nhưng đấy là những gì họ nói. Họ nói tôi có thể nhìn thấy những cây cọ từ trên máy bay.
Tôi biết người ta có trồng cọ ở Nam California, tôi đâu phải con nít, tôi đã xem bộ phim 90210 và đủ thứ khác nữa. Nhưng tôi sẽ chuyển tới sống ở Bắc California cơ mà, tôi chắc chẳng có cọ kiếc gì ở Bắc California hết. Tôi đã tưởng thế, đấy là trước khi mẹ tôi bảo chớ có vứt hết áo len đi.
“Ồ không, con sẽ cần áo len đấy, cả áo khoác nữa. Ở đấy cũng có khi lạnh, có lẽ không lạnh bằng ở New York, nhưng cũng khá lạnh,” mẹ tôi nói.
Đấy là lí do tại sao tôi mặc cả áo cái khoác da màu đen trên máy bay. Tôi có thể chuyển nó đi cùng với hàng đống thứ khác, nhưng tôi có một cảm giác dễ chịu hơn khi mặc chiếc áo ấy.
Và giờ đây tôi ngồi trên máy bay, mặc áo khoác da, trông xuống những cây cọ qua khung cửa sổ khi máy bay hạ cánh. Và tôi nghĩ, Tuyệt cú, áo da đen và những cây cọ. Tôi đã dần quen với điều này, như thể tôi biết trước rồi mình sẽ quen được…
… Không.
Mẹ tôi không khoái chiếc áo da ấy lắm, nhưng xin thề là tôi không hề mặc nó cốt để làm mẹ giận hay gì hết. Tôi không giận dỗi gì mẹ về cái chuyện mẹ quyết định kết hôn với một người sống cách xa 3 ngàn dặm, buộc tôi phải chuyển trường vào giữa năm thứ hai; rời xa đứa bạn thân nhất – và cũng là duy nhất – tôi có kể từ hồi mẫu giáo đến giờ, rời xa thành phố mà tôi đã sống trong suốt 16 năm trời.
Ồ không, tôi không giận tí nào hết.
Tôi thực sự yêu mến dượng Andy. Dượng rất tốt với mẹ tôi, dượng làm cho mẹ hạnh phúc và dượng cũng yêu quý tôi nữa.
Điều duy nhất làm tôi không vui là việc phải chuyển đến sống ở California này.
À, mà tôi đã nhắc đến 3 đứa con riêng của dượng Andy chưa vậy?
Họ đều ra đón tôi khi tôi vừa bước xuống may bay. Mẹ tôi, dượng Andy, và 3 đứa con của dượng. Ngái Ngủ, Ngu Ngơ, và Tiến Sỹ, tôi gọi chúng thế. Anh em mới của tôi đấy.
“Suze!” Ngay cả khi không nghe thấy tiếng mẹ hét to tên tôi khi bước ra cửa, tôi không thể không trông thấy họ – gia đình mới của tôi. Dượng Andy đã bảo 2 đứa nhỏ nhất giơ cao tấm biển Mừng con trở về, Susannah! Những người khác cùng chuyến bay đi qua và trầm trồ với nhau, “Ái chà, trông hay quá nhỉ?” khi nhìn tôi với ánh mắt kinh ngạc.
Phải, tôi hoà nhập quá tốt đấy chứ.
Tôi bước lại gần họ và nói: “Thôi mà, mẹ bỏ tấm biển ấy xuống được rồi đấy.”
Nhưng mẹ còn mải ôm tôi nên chẳng chú ý gì cả. Mẹ cứ gọi mãi: “Ôi, Suze!” Ngoài mẹ ra, tôi không thích bị ai khác gọi là Suze hết, và qua vai mẹ tôi đưa mắt nhìn 3 thằng con trai đe doạ đừng có mà định bụng bày trò gì ở đây. Chúng chỉ đứng đó cười toe toét với cái biển ngớ ngẩn ấy, Ngu Ngơ cười vì nó còn biết làm gì khác đâu chứ, còn Tiến Sỹ – thì chắc là vì nó vui khi được gặp tôi. Ngài Tiến Sỹ kì lạ thế đấy. Ngái Ngủ – đứa lớn nhất – thì chỉ đứng ỳ ra đó, trông… ngái ngủ chứ sao nữa.
“Chuyến bay thế nào, nhóc?” Dượng Andy đỡ chiếc túi khỏi vai tôi, khoác lên vai dượng. Dượng có vẻ ngạc nhiên vì nó lại nặng đến thế và nói, “Chà, con tống thứ gì vào thế này? Con cũng biết buôn lậu trạm bơm cứu hoả của thành phố New York qua biên giới bang là tội nặng đấy.”
Tôi cười với dượng. Dượng Andy thật sự có vẻ ngờ nghệch, nhưng là một người ngờ nghệch tốt bụng. Dượng chẳng biết tí ti gì về cái yếu tố cấu thành tội nghiêm trọng ở bang New York hết, vì dượng mới chỉ đến đó có 5 lần, mà tình cờ là chỉ cần 5 lần ấy dượng đã thuyết phục được mẹ lấy dượng.
“Không phải trạm bơm cứu hoả, máy thu phí đỗ ô tô đấy ạ. Mà con còn tận 4 cái túi nữa cơ.” Tôi nói.
“4 cơ á?” Dượng giả bộ sốc. “Con đang suy tính gì đấy hả? Chuyển nhà hay làm gì?”
Tôi đã nói dượng Andy toàn nghĩ dượng ấy là diễn viên hài chưa ấy nhỉ? Không phải đâu. Dượng làm nghề mộc.
“Chị Suze,” ông Tiến Sỹ háo hức nói, “chị Suze, chị có để ý thấy là lúc hạ cánh, đuôi máy bay hơi bị chếch lên không? Đấy là hiện tượng xảy ra khi một vật có khối lượng chuyển động với tốc độ lớn gặp phải vận tốc gió tương đương hoặc lớn hơn thổi ngược chiều.”
Tiến Sỹ, đứa nhỏ nhất, khoảng 12 tuổi, nhưng thằng nhóc cứ như 40 vậy. Nó dành gần cả thời gian đón khách khứa trong lễ cưới để thao thao với tôi về chuyện gia súc bị người ngoài hành tinh làm thịt ra sao, chuyện nước Mỹ đang ém nhẹm Khu Vực Số 51 như thế nào nhằm không cho người dân biết rằng Chúng Ta Không Đơn Độc.
“Ôi Suzie, con đến đây mẹ vui lắm. Rồi con sẽ thích ngôi nhà. Dù lúc đầu chưa quen, nhưng bây giờ con đến rồi… Con chờ xem phòng riêng nhé. Dượng Andy đã sửa sang lại rất đẹp.”
Trước khi cưới, dượng Andy và mẹ tôi đã mất hàng tuần để tìm một căn nhà đủ rộng cho cả 4 đứa con mỗi đứa có 1 phòng riêng. Cuối cùng thì họ tìm được ngôi nhà vĩ đại trên đồi Carmel, cái nhà mà nếu không vì nó ở cái bang chết giẫm này thì làm sao mà mua được, và lại được công ty sửa chữa Andy sửa sang lại với cái giá quá rẻ. Mẹ tôi đã tất bật suốt mấy ngày chuẩn bị phòng cho tôi, căn phòng mẹ cứ nói mãi rằng đấy là phòng đẹp nhất nhà.
“Từ cửa sổ phòng con trông ra cảnh biển đẹp tuyệt! Ôi Suze, rồi con sẽ thích mê cho mà xem!” Mẹ nói.
Tôi chắc rằng mình cũng sẽ thích, kiểu như tôi sẽ thích việc bỏ ăn bánh mỳ vòng thay bằng giá linh lăng, hay thay vì đi tàu điện ngầm thì đi lướt sóng, những thứ đại loại như vậy.
Chẳng hiểu sao Ngu Ngơ hỏi tôi bằng cái giọng vốn ngớ ngẩn sẵn của nó: “Cậu thích tấm biển không?” Không thể tin được là nó bằng tuổi tôi. Nó tham gia vào đội cử tạ của trường, mong đợi gì hơn được ở nó chứ? Đầu nó chẳng nhét được cái gì khác ngoài việc nhịn thở và gồng cơ tập thể hình – đấy là những gì tôi biết được sau khi ngồi cạnh nó ở đám cưới – tôi ngồi giữa nó và Tiến Sỹ, bạn tưởng tượng được cuộc nói chuyện đi đến đâu rồi đấy.
“Ừ, tấm biển rất tuyệt,” tôi nói, giật tấm biển khỏi bàn tay ú nần của nó và úp mặt có chữ viết xuống. “Ta đi được chưa ạ? Con muốn lấy hành lý trước khi có ai nhặt mất.”
“À, đi chứ.” Mẹ nói, trao cho tôi cái ôm chặt cuối cùng. “Ôi, gặp con mẹ vui biết bao. Trông con tuyệt lắm…” Rồi sau đó mẹ bước đi và nói nhỏ để không ai nghe được, dù mẹ chẳng muốn nói điều đó: “... Cho dù mẹ đã nói với con về cái áo đó, Suze, và mẹ tưởng con phải vứt cái quần jeans ấy đi rồi chứ…”
Tôi mặc cái quần jeans cũ nhất, cái bị thủng đầu gối ấy. Trông nó cực hợp rơ với cái áo phông đen và đôi bốt khoá kéo đến mắt cá chân. Cái quần jeans, đôi bốt, cái áo khoác da màu đen của dân đua môtô, cộng thêm cái túi đeo vai Surplus màu xanh hải quân làm cho tôi trông giống như con nhóc trốn nhà đi lang thang trong một bộ phim truyền hình vậy.
Nhưng này, khi mẹ phải ngồi trên chuyến bay suốt 8 tiếng đồng hồ thì mẹ cũng muốn cho bản thân mình thoải mái đấy.
Tôi nói vậy, nhưng mẹ chỉ đưa mắt nhìn tôi và cho qua. Đấy là điểm tốt ở mẹ tôi. Mẹ không ca cẩm mãi về một điều gì đó như các bà mẹ thường thế. Ngái Ngủ, Ngu Ngơ và Tiến Sỹ chẳng biết là chúng may mắn đến như thế nào đâu.
Mẹ nói: “Được rồi, lấy hành lý của con đi,” rồi mẹ cất cao giọng và gọi: “Jake, lại đây nào, chúng ta sẽ mang hành lý của Suze về.”
Mẹ phải gọi Ngái Ngủ bằng tên thật của anh ta, vì lúc ấy trông anh ta cứ như đã đứng đấy mà gà gật rồi vậy. Tôi từng hỏi mẹ xem có phải Jake, học năm cuối trung học, mắc chứng ngủ rũ (sẵn sàng ngủ ở bất cứ nơi đâu) hay có nghiện không, thì mẹ trả lời đại loại: “Không? Sao con lại hỏi thế?” Cứ như thể anh ta đứng đó mà không chớp mắt liên tục và câm như hến vậy.
Từ từ đã, cũng không hẳn như vậy đâu. Anh ta cũng có nói với tôi một lần. Lần hỏi: “Này, em ở trong một băng nhóm nào đó hả?” là trong đám cưới khi anh ta trông thấy tôi đứng ngoài, mặc cái áo da đen ấy ra ngoài váy phù dâu, lén hút thuốc.
Để tôi giải thích đã nào. Đấy là điếu thuốc đầu tiên và duy nhất tôi từng hút. Khoảng thời gian ấy đối với tôi thật khó khăn. Tôi đã lo sợ mẹ tôi sẽ cưới người đàn ông này, chuyển đến California và hoàn toàn quên hẳn tôi. Xin thề là trước đó tôi chưa từng động đến một điếu thuốc nào hết.
Đừng nghĩ là tôi nhìn nhầm Jake. Cao khoảng 1m80, với mái tóc vàng óng mất trật tự và đôi mắt xanh lấp lánh giống hệt bố, hẳn cô bạn thân Gina của tôi sẽ gọi anh ta là hấp dẫn. Nhưng anh ta chưa phải là người hấp dẫn nhất đâu, theo ý tôi.
Ông Tiến Sỹ vẫn đang thao thao bất tuyệt về vận tốc gió. Nó đang phân tích tốc độ vận hành thích hợp để thoát khỏi lực hấp dẫn của trái đất. Tốc độ ấy gọi là vận tốc thoát. Tôi nghĩ Tiến Sỹ có thể giúp ích trong việc la cà giúp tôi làm bài tập, cho dù tôi học trên nó 3 lớp.
Trong khi Tiến Sỹ đang giảng giải, tôi đưa mắt quan sát xung quanh. Đây là lần đầu tiên tôi đến California, và cho dù ta vẫn đang đứng trong sân bay – sân bay quốc tế San Jose – thì phải nói rằng ta đã hoàn toàn xa hẳn New York rồi. Đầu tiên là: mọi thứ đều sạch sẽ. Không bụi, không rác, không viết vẽ bậy ở bất cứ chỗ nào. Các sảnh đợi được sơn toàn một gam màu sáng, mà màu sáng thì bám bụi phải biết. Vì sao người dân New York chỉ toàn mặc màu tối? Không phải để trông cho sành điệu đâu. Đấy là để không phải tống tất tần tật quần áo vào hiệu giặt là sau chỉ mỗi một lần mặc.
Nhưng dường như ở CA đầy nắng này đấy chẳng phải mối bận tâm. Có thể nói, gam màu sáng hoàn toàn lên ngôi. Người phụ nữ đi qua tôi mặc quần legging hồng và áo chẽn bó kiểu thể thao Spandex. Thế đấy. Nếu đây là một ví dụ cho những điều bắt buộc phải tuân thủ ở California thì có thể nói tôi đang gặp phải một cú sốc văn hoá hết sức nghiêm trọng.
Và còn điều gì kì lạ ở đây nữa nhỉ? Chẳng có một vụ cãi lộn nào hết. Mọi người đều xếp hàng nghiêm chỉnh, chẳng ai to tiếng với nhân viên bán vé cả. Ở New York, nếu bạn là khách hàng, bạn sẽ cãi vã với người bán, cho dù bạn đang bất cứ đâu – ở sân bay, khu thương mại Bloomingdale, hay xếp hàng mua xúc xích đi nữa. Nơi nào cũng vậy thôi.
Nhưng không phải ở đây. Mọi người ở đây đều kiên nhẫn chờ đợi.
Chắc là tôi biết nguyên cớ. Tôi thấy hình như ở đây chẳng có điều gì có thể khiến con người ta khó chịu được cả. Ngoài kia ánh nắng đang chan hoà trên những tán lá cọ tôi trông thấy khi còn ngồi trên máy bay. Có cả chim mòng biển nữa – không phải bồ câu mà là những con mòng biển thật sự, màu trắng và xám – lao xao ngoài bãi đỗ xe. Và khi tôi lấy hành lý, chẳng ai thèm kiểm tra xem cái mác trên đấy có trùng khớp với cuống vé gửi không nữa. Mọi người đều nói những câu kiểu như: “Tạm biệt, chúc một ngày tốt lành.”
Phi thực tế.
Gina – bạn thân nhất của tôi ở Brooklyn, hừm, thôi thì đứa bạn duy nhất vậy – trước khi tôi đi có nói rằng việc có anh em là con riêng của dượng cũng có điểm tốt. Cô ấy biết vậy vì có tận 4 anh em – không phải con riêng của dượng hay dì mà là anh em ruột. Tuy thế, tôi chẳng còn tin những gì cô ấy bảo hơn cái việc tin vào những gì lúc trước người ta nói với tôi về loài cọ. Nhưng đến khi trông thấy Ngái Ngủ xách 2 cái túi, Ngu Ngơ xách 2 cái còn lại, còn tôi thì tay không vì cái túi đeo vai thì dượng Andy cũng đeo nốt rồi, tôi cũng hiểu những điều cô bạn tôi nói, rằng có anh em cũng có cái lợi của nó. Họ có thể mang vác những đồ nặng giúp bạn mà trông cứ như không vậy.
Này, chính tay tôi xếp đồ đấy nhé. Tôi biết trong đó có gì chứ. Chúng chẳng hề nhẹ nhàng tí nào hết, thế mà trông Ngái Ngủ và Ngu Ngơ cứ như thế: Vô tư đi, chúng ta cùng vác nào.
Đồ đạc của tôi an toàn ra tận bãi đỗ xe. Khi cửa tự động mở ra, mọi người - kể cả mẹ tôi - đều thò tay vào túi và lôi kính mát ra. Hẳn họ phải biết điều gì đấy mà tôi không biết. Bước ra khỏi xe, tôi mới biết điều ấy là gì.
Ở đây ngập tràn ánh nắng.
Không chỉ nắng, mà là nắng chói chang rực rỡ đến loá mắt. Tôi cũng có kính chứ bộ, đâu đó, nhưng khi rời New York thời tiết có vài độ và đang mưa tuyết, tôi chẳng biết phải nhét chúng vào chỗ nào dễ lấy cả. Lần đầu tiên khi mẹ nói chúng tôi sẽ chuyển đi – mẹ và dượng Andy thấy rằng việc mẹ – với 1 đứa con và cái nghề phóng viên truyền hình – chuyển đi sẽ dễ dàng hơn là cho dượng với tận 3 đứa, nhất là với công việc kinh doanh của dượng – mẹ bảo rằng rồi tôi sẽ thích California. “Đấy là trường quay phim Goldie Hawn,
Chevy Chase,” mẹ nói.
Tôi thích phim Goldie Hawn, tôi cũng thích Chevy Chase, nhưng chưa bao giờ nghe nói người ta gộp cả 2 phim đấy thành 1 cả.
“Đấy là bối cảnh cho những câu chuyện của tác giả Steinbeck mà con học ở trường, chuyện Chú Ngựa Đỏ ấy mà.”
Phải nói là tôi chẳng mấy ấn tượng. Tôi nhớ trong chuyện Chú Ngựa Đỏ chẳng có nhân vật nữ nào hết, cho dù trong đó có rất nhiều đồi núi. Đứng trong bãi đỗ xe, tôi đưa mắt nhìn những dãy đồi bao quanh sân bay quốc tế San Jose, quả thật là nhiều, và bao phủ những dãy đồi ấy là lớp cỏ toàn một màu nâu héo úa.
Lác đác trên những ngọn đồi ấy là những cái cây tôi chưa thấy bao giờ. Trông chúng bẹp dí ở trên đỉnh như thể có người khổng lồ từ trên trời đấm thẳng xuống vậy. Sau này tôi mới biết đấy là cây cyprus.
Rõ ràng là có hệ thống phun nước ở bãi xe, bởi ở đây có những bụi cây xum xuê với những bông hoa đỏ to tướng, trông chúng thấp tè so với những cây cọ cao đến vô tận và to đến không ngờ. Lát sau, khi nhìn những bông hoa ấy tôi mới nhận ra chúng là hoa dâm bụt. Và những con bọ kì quái bay quanh những bông hoa, phát ra những tiếng vù vù ấy, hoá ra lại chẳng phải là bọ biếc gì hết. Chúng là chim ruồi.
“Ồ, chúng có ở khắp nơi. Nhà mình cũng có máng cho chúng ăn ở nhà. Nếu thích con treo một cái trên bậu cửa sổ cũng được đấy,” mẹ nói khi tôi chỉ cho mẹ.
Chim ruồi dám bay đến tận cửa sổ phòng bạn cơ đấy! Loài duy nhất bay đến cửa sổ phòng tôi khi còn ở Brooklyn là chim bồ câu. Mẹ tôi chưa bao giờ khuyến khích tôi nuôi chúng cả.
Phút giây thư giãn với chim ruồi của tôi tan biến khi Ngu Ngơ đột ngột thông báo: “Con sẽ lái xe” và nhảy luôn lên ghế tài xế của chiếc xe tải nhỏ.
“Bố sẽ lái,” dượng Andy kiên quyết.
“Thôi mà bố, làm sao con thi lấy bằng lái được nếu bố không cho con luyện tập chứ?” Ngu Ngơ nói.
“Con có thể tập với chiếc Rambler,” dượng Andy nói khi mở cốp sau của chiếc Land Rover và bắt đầu xếp hành lý của tôi vào, “Con cũng vậy, Suze à.”
Tôi giật mình, “Con cũng vậy là sao ạ?”
“Con cũng có thể tập lái xe với chiếc Rambler,” dượng ngoắc tay về phía tôi bông đùa, “nhưng phải có người biết lái ngồi bên cạnh.”
Tôi chớp mắt, “Con không biết lái xe.”
Ngu Ngơ phát ra tiếng cười ầm ỹ nghe như tiếng ngựa, “Cậu mà không biết lái xe à?” Nó huých Ngái Ngủ đang ngồi dựa vào một bên thân xe, mặt hướng ra nắng, “Này Jake, cậu ta không biết lái xe.”
“Chẳng có gì lạ nếu một người dân New York không có bằng lái. Anh không biết thành phố New York luôn tự hào về hệ thống giao thông lớn nhất Bắc Mỹ, phục vụ 3,2 triệu dân trong bán kính 4 triệu dặm vuông từ thành phố New York, qua Long Island đến tận Connecticut hả? Với lại 1,7 tỉ người sử dụng hệ thống tàu điện ngầm, xe bus và tàu hoả mỗi năm đấy,” ngài Tiến Sỹ nói.
Mọi người trố mắt nhìn Tiến Sỹ, và mẹ tôi dè dặt nói: “Mẹ chẳng bao giờ lái xe trong thành phố cả.”
Dượng Andy đóng cửa sau chiếc Land Rover, nói: “Đừng lo, Suze. Dượng và mẹ đăng ký cho con một khoá học lái xe. Rồi con ngang tài với Brad ngay ấy mà.”
Tôi ngó Ngu Ngơ. Cả triệu năm nữa tôi cũng không nghĩ có người sẽ bảo tôi cần phải ngang tài với Brad trong mọi mặt.
Rồi tôi bắt gặp rất nhiều điều đáng ngạc nhiên. Những cây cọ mới chỉ là phần mở đầu. Khi lái xe về nhà – nhà chúng tôi cách sân bay khoảng 1 giờ, không phải 1 giờ trôi nhanh cho lắm, khi tôi bị nêm chặt giữa Ngái Ngủ và Ngu Ngơ, còn Tiến Sỹ ngồi trên đống hành lý đằng sau vẫn đang dẫn giải về niềm tự hào của Uỷ Ban Giao Thông New York – tôi bắt đầu nhận ra rằng mọi thứ rồi sẽ khác, rất khác với những gì tôi dự đoán, và chắc chắn là khác hoàn toàn với cuộc sống trước đây.
Không chỉ là việc tôi đến sống ở đầu kia của đất nước, không chỉ là những gì tôi thấy đều khác hoàn toàn với New York: bên đường đầy những biển quảng cáo atiso hay lựu với giá 1 đô 12 quả; những cánh đồng nho nối tiếp nhau, cây xoắn xuýt quanh những thân gỗ; những rừng cây chanh và cây bơ; có những loại cây cối xum xuê um tùm mà tôi chẳng biết tên. Trên tất cả mọi điều, đó là bầu trời bao la xanh ngắt dến nỗi những quả khí cầu lơ lửng trông nhỏ xíu như một chiếc cúc lọt thỏm giữa bể bơi tiêu chuẩn Olympic vậy.
Ở đây có biển, và biển trải rộng trong tầm mắt bất ngờ đến nỗi ban đầu tôi chẳng nhận ra, chỉ ngỡ một cánh đồng khác nữa lại hiện ra. Nhưng rồi tôi thấy cánh đồng ấy cứ lấp lánh, phản chiếu ánh mặt trời, nhấp nháy như thế đang gửi mật mã SOS với tôi vậy. Ánh nắng chói chang đến nỗi khó mà trông rõ khi không có kính râm. Nhưng biển đây rồi… biển Thái Bình Dương bao la như bầu trời kia, một thực thể sống động, uốn éo, xô bờ cát trắng của mảnh đất hình vòng cung cong cong.
Sống ở New York, suy nghĩ của tôi về biển – hay ít nhất là bờ biển cát trắng – ít ỏi và rất khác. Tôi không nén nổi há hốc miệng vì sững sờ khi trông thấy biển. Lúc ấy, mọi người đều ngưng nói, trừ có Ngái Ngủ, lúc ấy đang ngủ, tất nhiên rồi.
“Gì vậy con?” Mẹ tôi hỏi có vẻ lo lắng.
“Không, không có gì ạ,” tôi bối rối. Dĩ nhiên họ đều quá quen thuộc với cảnh biển này rồi. Chắc họ sẽ nghĩ tôi thật kì quặc vì trông tôi hết sức thích thú khi ngắm cảnh ấy. “Con chỉ ngắm biển thôi mà.”
“Ra vậy,” mẹ nói, “Ừ, biển thật đẹp phải không?”
Ngu Ngơ nói: “Sóng to đấy. Con sẽ ra chơi trước khi ăn bữa tối.”
“Không được, chừng nào con chưa thi giữa kì xong,” dượng đáp.
“Thôi mà bố!”
Việc này làm mẹ tôi ca một bài dài về ngôi trường tôi sắp chuyển đến, ngôi trường mà Ngái Ngủ, Ngu Ngơ và Tiến Sỹ cũng đang học. Nó được đặt theo tên của Junipero Serra, một người Tây Ban Nha định cư vào những năm 1700, ép buộc người dân bản xứ ở đây từ bỏ đạo của họ và chuyển sang đạo Cơ Đốc. Thực ra ngôi trường đó là một trụ sở rất lớn của hội truyền giáo được xây bằng gạch nung, hàng năm thu hút đến 20 triệu khách du lịch đến tham quan.
Tôi không chú ý lắm đến những điều mẹ tôi nói. Tôi từ trước đến giờ chẳng có một tí tẹo hứng thú nào hết đối với trường học. Lý do duy nhất mà tôi chưa chuyển đến đây từ trước lễ Giáng Sinh là vì Trường Truyền Giáo đã hết chỉ tiêu, và tôi bắt buộc phải đợi đến học kì 2 may ra mới có cơ hội. Tôi chẳng lấy đấy làm buồn phiền. Tôi sống với bà trong vòng vài tháng, việc này hoá ra lại thật thú vị. Bà tôi là một luật sư xuất sắc chuyên về lĩnh vực hình sự, ngoài ra bà còn là một đầu bếp cừ khôi nữa.
Biển dần khuất sau những ngọn đồi nhưng tôi vẫn còn mải nghĩ. Tôi đang ngoái cổ lại mong được nhìn thấy cảnh biển khác thì đột ngột chú ý. Tôi nói: “Khoan đã, ngôi trường này được xây vào năm nào cơ?”
“Thế kỷ 18,” Tiến Sỹ đáp. “Hệ thống truyền giáo, được thực thi bởi những thầy tu dòng thánh Francis dưới sự chỉ dẫn của nhà thờ Công giáo và chính quyền Tây Ban Nha, được lập ra không chỉ để bắt những người dân bản xứ phải theo đạo Cơ Đốc mà còn huấn luyện họ trở thành những thương nhân thành đạt trong xã hội mới của Tây Ban Nha. Lúc đầu, việc truyền giáo là để –”
“Thế kỷ 18?” tôi nói, rướn người về phía trước. Tôi bị kẹp giữa Ngu Ngơ và Ngái Ngủ – đầu anh ta gục xuống đến khi đỗ lại trên vai tôi, đến mức chỉ cần ngửi qua tôi có thể nói chắc rằng anh ta đang dùng loại dầu gội Finesse. Nói cho bạn hay, Gina chưa bao giờ nói với tôi về chuyện bọn con trai choán mất quá nhiều chỗ ngồi như thế, nhất là khi họ cao đến 1m80, nặng gần cả trăm cân. “Từ tận thế kỷ 18 cơ á?”
Mẹ tôi chắc đã thấy được nét kinh hoàng trong giọng nói của tôi, bèn quay lại trấn an: “Nghe này Suze, chúng ta đã bàn về chuyện này rồi. Mẹ đã nói với con là có cả một danh sách dài ngoằng xin học ở trường Robert Louis Stevenson, mà con cũng bảo con không thích học ở một trường toàn con gái là gì, thế nên trường Sacred Heart không ổn, hơn nữa dượng Andy cũng nghe nói về những điều tiếng rất xấu về chuyện nghiện ngập gây lộn ở những trường công lập quanh đây – ”
“Từ tận thế kỷ 18 cơ á?” Tôi thấy tim mình bắt đầu đập dồn dập, như thể tôi mới chạy hộc tốc một quãng vậy. “Thế tức là nó đã gần 300 năm tuổi?”
Chúng tôi lái xe qua thành phố Carmel-ven-biển, có những căn nhà nhỏ đẹp như tranh vẽ – thậm chí một số còn lợp mái lá – cùng với những nhà hàng và những phòng tranh xinh xắn. Dượng Andy phải lái cẩn thận vì đường phố đông đúc những người lái xe đã hết-hạn-sử-dụng bằng lái; mà cũng không có đèn giao thông gì cả, chẳng hiểu sao người dân ở đây luôn tự hào về điều đó.
“Dượng không hiểu, từ thế kỷ 18 thì có gì đáng sợ đến thế?” Dượng Andy thắc mắc.
“Suze chưa bao giờ có hứng thú với những căn nhà cổ,” mẹ tôi nói mà chẳng có một tí ngữ điệu - điều mà tôi luôn gọi là giọng thông-báo-tin-buồn khi mẹ đọc những bản tin về máy bay rơi hay trẻ vị thành niên phạm pháp trên TV.
“Thế à? Thế thì có lẽ con bé chẳng thích ngôi nhà đâu,” dượng nói.
Nắm lấy thành ghế tựa đầu của dượng, tôi lo lắng thắc mắc: “Tại sao ạ? Lý do gì mà con lại không thích ngôi nhà?”
Khi rẽ vào thì tôi hiểu ngay lý do. Ngôi nhà rất rộng và đẹp vô cùng với những cái tháp theo phong cách từ thời Victoria và tất cả mọi thứ khác nữa. Mẹ tôi đã chọn màu sơn xanh biển, trắng và kem. Ngôi nhà được bao quanh bởi những cây thông cao lớn bóng đổ dài và những cây bụi trổ hoa khắp nơi. Ba tầng, hoàn toàn bằng gỗ, không giống như những ngôi nhà quanh đấy chỉ rặt kính với thép hay đất, nó là ngôi nhà đẹp nhất, giàu thẩm mỹ nhất ở đây.
Và tôi chẳng muốn đặt chân vào tí nào.
Tôi biết rằng khi đồng ý chuyển đến sống với mẹ ở California này là tôi sẽ phải quen với rất nhiều thay đổi. Những cây atisô dọc hai bên đường, những vườn chanh, hay biển… chúng thật sự đâu có quan trọng gì. Thực ra, thay đổi lớn nhất chính là việc tôi sẽ phải chấp nhận mẹ dành tình cảm cho những người khác nữa. Bố tôi đã mất được khoảng chục năm, thời gian chục năm ấy chỉ có mỗi hai mẹ con với nhau. Và phải nói thật rằng tôi vẫn thích mọi thứ vẹn nguyên như nó vốn thế. Thực tế mà nói, nếu không vì dượng Andy đã làm cho mẹ hạnh phúc đến nhường ấy thì hẳn tôi đã kịch liệt phản đối vụ chuyển chỗ ở này rồi.
Chẳng thể nào nhìn hai người họ - dượng Andy và mẹ - mà không nhận ra ngay rằng họ yêu nhau đến thế nào. Và tôi sẽ là loại con cái kiểu gì nếu ngăn cản họ? Vậy là tôi đón nhận dượng Andy, đón nhận 3 đứa con riêng của dượng, và chấp nhận thực tế là tôi sẽ phải để lại sau lưng tất cả những gì yêu thương tôi đã có – cô bạn thân nhất của tôi, bà tôi, những bánh mỳ tròn, và cả khu thời thượng SoHo nữa – tất cả để mang lại cho mẹ tôi niềm hạnh phúc mẹ xứng đáng có được.
Nhưng tôi vẫn chưa nghĩ đến một chuyện là, lần đầu tiên trong đời tôi sẽ phải sống trong một ngôi nhà thực sự.
Không phải là một ngôi nhà chung chung nào đó, mà là ngôi nhà được sửa sang lại, vốn từng được sử dụng để làm nhà trọ vào thế kỷ 19, dượng Andy tự hào khoe với tôi như thế khi dỡ đồ của tôi trong xe, nhét vào tay những đứa con trai. Được xây vào năm 1849, ngôi nhà chẳng có mấy tiếng tăm vào cái thời ấy. Những cuộc đấu súng vì đàn bà và bài bạc xảy ra ở phòng khách phía trước, giờ vẫn có thể trông thấy những lỗ đạn. Dượng Andy đã sửa lại chút ít, thay vì thay hẳn nó đi. Điều này có vẻ hơi lẩm cẩm, dượng thú nhận, nhưng cũng hay. Dượng dám cá rằng chúng tôi đang sống trong ngôi nhà duy nhất có những lỗ đạn còn lại từ thế kỷ 19 trên dãy đồi Carmel này.
Huh, tôi cũng nghĩ vậy.
Mẹ cứ liếc nhìn tôi suốt khi chúng tôi bước lên hiên nhà. Tôi biết mẹ lo lắng không biết tôi đang nghĩ gì. Tôi hơi khó chịu với mẹ vì mẹ chẳng nói trước với tôi. Tuy vậy tôi cũng hiểu nguyên nhân vì sao mẹ lại làm vậy. Nếu mẹ nói trước mẹ đã mua một ngôi nhà trên trăm tuổi thì hẳn tôi đã không chuyển đến sống ở đây mà sẽ sống với bà cho đến khi đi học đại học.
Bởi lẽ mẹ tôi đúng ở một điểm: tôi không khoái những ngôi nhà cổ.
Cho dù vậy, như tôi thấy ngôi nhà cổ này rất khác. Đứng trên hiên nhà có thể nhìn thấy toàn cảnh đồi Carmel phía bên dưới, làng mạc, thung lũng, bãi biển, đại dương… Một quang cảnh đẹp tuyệt vời – đáng để cho người ta bỏ hàng triệu đô để kiếm một chỗ ở đây (căn cứ vào những ngôi nhà xa hoa quanh đấy) – cái nơi mà tôi lại chẳng muốn sống tí tẹo nào hết.
Khi mẹ tôi gọi: “Lại đây Suze, lại xem phòng của con đi,” tôi không thể không rùng mình khe khẽ.
Ngôi nhà đẹp từ trong ra ngoài. Tất cả gỗ thích làm nhà đều bóng loáng, sắc xanh dương và vàng trông thật vui tươi. Nhận ra những đồ đạc của mẹ khiến tôi cảm thấy khá hơn đôi chút. Đây là chiếc két hình chiếc bánh mà mẹ và tôi đã mua vào nghỉ dịp cuối tuần ở Vermont. Và đây, những tấm ảnh chụp khi tôi còn bé xíu treo trên tường phòng khách, cạnh ảnh của Ngái Ngủ, Ngu Ngơ và Tiến Sỹ. Kia là những cuốn sách của mẹ trong chiếc giá sách gắn vào hốc tường trong căn phòng nhỏ. Cây cối của mẹ ở mọi nơi, những bệ gỗ treo trước những bậu cửa sổ kính đã đổi màu thời gian, hay trên cái trụ tay vịn cuối cầu thang, những cái cây mẹ đã phải trả cái giá vận chuyển cao chót vót vì mẹ sẽ buồn biết bao nếu phải xa chúng.
Nhưng cũng có những thứ mà tôi chưa từng thấy bao giờ: chiếc máy vi tính màu trắng đẹp đẽ trên chiếc bàn mẹ từng hay ngồi viết những tấm séc để thanh toán hoá đơn; chiếc TV màn hình lớn được nối với chiếc điều khiển cầm tay của trò chơi điện tử đặt trong hốc lò sưởi trong phòng trông không hợp tí nào; cạnh cửa gara là những chiếc ván lướt sóng được đặt dựa vào tường; và một chú chó to tướng đến là lắm dãi nhớt cứ gí chiếc mũi to đùng ươn ướt vào túi tôi vì tưởng tôi giấu đồ ăn trong đấy.
Những đồ đạc ấy dường như có vẻ là đồ của đàn ông, không phù hợp và xa lạ đối với cuộc sống của hai mẹ con tôi trước đây. Nhưng rồi tôi cũng sẽ phải quen dần với sự có mặt của chúng thôi.
Phòng tôi ở tầng trên, thẳng phía dưới là mái hiên trước nhà. Trong suốt quãng đường từ sân bay về, mẹ tôi cứ lo lắng mãi về chỗ ngồi gần chiếc cửa sổ được làm đua ra phía ngoài mà dượng Andy đã lắp trước đó. Từ chiếc cửa sổ ấy, cảnh quan bao la của toàn bộ bán đảo trải rộng trước mắt, cũng giống như khi nhìn từ hiên nhà. Mọi người thật tuyệt vời khi dành cho tôi một căn phòng đáng yêu, trông ra khung cảnh bên ngoài đẹp nhất so với các phòng khác trong nhà.
Và tôi hiểu được những vất vả của họ để làm cho căn phòng trở nên thân thuộc nhất với tôi, hay ít nhất là đối với một đứa con gái hay mơ mộng, nữ tính đầy mình… mà tôi thì không thế, tôi chẳng phải loại con gái có bàn phấn gắn gương hay điện thoại tiểu thư công chúa. Tôi hiểu được sự vất vả của dượng Andy khi dượng dùng giấy màu kem có điểm những bông hoa lưu ly xanh dán lên phía trên những tấm ván tường phòng tôi và trên những bức tường phòng tắm kề bên được dành riêng cho tôi; khi mọi người dành cho tôi chiếc giường mới bốn phía phủ rèm - kiểu giường mẹ luôn thích chọn cho tôi và hẳn đã không cầm lòng được. Tôi hối hận biết bao về cách cư xử của mình trong xe. Đi vòng quanh căn phòng, tôi thầm nghĩ, thế này cũng không đến nỗi nào, mình cũng không còn thấy băn khoăn nữa. Có lẽ mọi thứ rồi cũng sẽ tốt đẹp, có lẽ nỗi buồn chưa bao giờ tồn tại trong ngôi nhà này, có lẽ tất cả những kẻ bị bắn đều đáng tội…
Khi quay về hướng chiếc cửa sổ, tôi chợt nhận thấy có người ngồi sẵn trên chiếc ghế cạnh cửa sổ mà dượng Andy đã làm cho tôi với tất cả tình thương.
Người đó tôi, Ngái Ngủ, Ngu Ngơ hay cả Tiến Sỹ đều không quen.
Tôi quay về phía dượng Andy xem dượng có nhìn thấy kẻ lạ mặt kia không, nhưng dượng không thấy, cho dù hắn đứng ngay trước mặt.
Mẹ tôi cũng không nhìn thấy hắn, mẹ chỉ nhìn thấy mỗi tôi mà thôi. Có lẽ vẻ mặt tôi lúc ấy chẳng dễ coi cho lắm, nên mặt mẹ xị xuống, mẹ thở dài và nói: “Ôi Suze, đừng lại thế chứ con.”
Chắc có lẽ tôi nên giải thích ở đây. Tôi không hoàn toàn giống như những đứa con gái mười sáu tuổi thông thường khác.
Ôi, tôi cũng có vẻ bình thường đấy chứ. Tôi không nghiện, không uống rượu hay hút thuốc - trừ cái lần duy nhất bị Ngái Ngủ bắt gặp. Tôi không xỏ khuyên ở đâu hết, trừ hai tai, mỗi tai một lỗ. Tôi chẳng có hình xăm nào, cũng chẳng nhuộm tóc. Trừ đôi bốt và cái áo khoác da, tôi không dùng quá nhiều đồ màu đen. Tôi thậm chí cũng chẳng sơn móng tay màu tối. Nhìn chung, tôi là một teen Mỹ quá bình thường.
Tất nhiên rồi, chỉ trừ một việc là tôi có thể giao tiếp với người chết.
Có lẽ thế chưa đúng lắm, phải chỉnh lại là người chết nói chuyện với tôi chứ. Ý tôi là, tôi không phải là người khơi mào cho các cuộc chuyện trò kiểu đó. Thực ra, tôi cố tránh những điều ấy càng xa càng tốt ấy chứ.
Chỉ có điều chúng chẳng để tôi yên.
Những hồn ma ấy mà.
Đừng nghĩ tôi bị điên, hay ít nhất tôi cũng không điên hơn bạn vào cái tuổi 16 đâu. Tôi đoán nhiều người cho là tôi có vẻ điên điên. Chắc chắn phần lớn trẻ con ở khu tôi ở trước đây cho là vậy. Dở người ấy mà. Các giáo viên phụ trách trường tôi đã hơn một lần coi tôi không bình thường. Lắm khi tôi nghĩ có khi họ cứ nhốt béng tôi vào hoá lại dễ chịu hơn.
Nhưng ngay cả khi ở trên tận tầng 9 ở Bellevue – nơi người ta nhốt những kẻ điên loạn ở New York, tôi chắc cũng chẳng tránh được bọn ma. Chúng sẽ tìm ra tôi mà thôi.
Chúng luôn luôn tìm thấy tôi.
Tôi vẫn nhớ cái lần đầu tiên. Tôi nhớ rõ lần đó như nhớ tất cả những kỷ niệm khác vào quãng thời gian ấy, những kỷ niệm không mấy vui vẻ, vào lúc tôi khoảng 2 tuổi. Tôi nhớ rõ như nhớ cái lần tôi giằng con chuột khỏi con mèo nhà tôi, nâng niu nó trong tay cho đến khi người mẹ hoảng hốt của tôi vứt béng nó đi mất.
Này, lúc đó tôi mới có 2 tuổi thôi mà.
Hồn ma ấy cũng giống như con chuột, xám xịt và bất lực. Đến tận bây giờ tôi vẫn không biết bà ta là ai. Tôi nói bằng cái giọng bi bô của trẻ con mà bà ấy chẳng hiểu gì cả. Dù có là ma thì cũng đâu có hiểu được đứa trẻ 2 tuổi hơn những người thường là mấy. Bà ấy chỉ đứng trên đầu cầu thang nhà tôi nhìn tôi với ánh mắt buồn bã. Lúc đó tôi thấy thương bà ấy, thương như thương con chuột ấy, và muốn giúp bà. Chỉ không biết phải giúp thế nào. Thế là tôi làm cái điều mà bất cứ đứa trẻ 2 tuổi nào cũng làm. Tôi chạy đi tìm mẹ.
Đó là lần tôi học được bài học đầu tiên về ma: chỉ có mình tôi trông thấy chúng mà thôi.
À, tất nhiên người khác cũng nhìn thấy chứ. Nếu không thì làm quái gì có những ngôi nhà ma ám, những câu chuyện ma, chương trình Những Bí Ẩn Chưa Có Lời Giải, và những gì đại loại kiểu thế? Nhưng có một điểm khác ở đây. Hầu hết những người gặp ma thì chỉ nhìn thấy 1 con thôi. Còn tôi thì nhìn thấy tất cả bọn ma.
Tất cả bọn ma. Tất cả. Tất cả những người chết, vì bất kỳ lý do gì mà vẫn còn lang thang trên đời thay vì đến nơi họ lẽ ra cần phải đến, tôi đều nhìn thấy hết.
Để tôi nói cho bạn hay, như thế là cực kỳ nhiều ma đấy.
Cũng cái ngày mà tôi trông thấy con ma đầu tiên, tôi hiểu ra rằng hầu hết mọi người - kể cả mẹ tôi - chẳng thể nhìn thấy chúng. Không ai trong số những người tôi quen có thể thấy ma. Hay ít nhất chẳng ai thừa nhận điều đó cả.
Dẫn đến điều thứ hai tôi biết về ma vào cái ngày hôm đó, 14 năm về trước: tốt nhất đừng có ba hoa là mình vừa trông thấy 1 con ma, sau này cũng thế. Hay trường hợp của tôi, những con ma.
Tôi không sẽ không bảo là mẹ tôi nhận ra thứ mà tôi chỉ cho mẹ và bi bô với mẹ vào cái buổi chiều khi tôi 2 tuổi ấy, là một con ma. Chắc là mẹ không biết. Chắc mẹ chỉ nghĩ tôi đang cố nói với mẹ điều gì đó về cái con chuột mà mẹ tịch thu mất vào lúc sáng. Nhưng mẹ chỉ nhìn lên cầu thang, gật gật và nói: “Ừ ừ, Suze này, con muốn ăn trưa với món gì nào? Pho mát hay cá ngừ?”
Tôi không mong đợi ở mẹ một phản ứng tương tự như cái phản ứng khi con chuột bị tóm - mẹ tôi, lúc đấy đang ôm đứa trẻ mới sinh nhà hàng xóm, ré lên một tiếng kinh hoàng trước cái cảnh con chuột đang nằm gọn trong tay tôi, và mẹ thậm chí còn hét to hơn nữa khi tôi tự hào khoe thành tích với mẹ - và to nữa nữa khi tôi tự hào khoe thêm: “Mẹ xem này. Giờ con cũng có em bé đấy nhé,” – giờ tôi nhận ra là lúc ấy mẹ không hiểu được tôi vì mẹ đâu có nhìn thấy ma.
Nhưng tôi cũng chờ đợi chí ít là một lời giải thích cho cái thứ đang lơ lửng trên đầu cầu thang. Hầu hết những thứ ngày thường tôi vẫn thắc mắc, từ cái trạm bơm cứu hoả cho đến những ổ cắm điện, tôi đều được giải đáp rõ ràng. Tại sao cái thứ trên đầu cầu thang kia thì lại không chứ?
ẳng có gì hết.
Ở cái tuổi lên 2, tôi thấy điều ấy cũng chẳng có gì đáng thắc mắc cho lắm. Lúc ấy, nó cũng chỉ giống như những điều khác để phân biệt giữa trẻ con và người lớn mà thôi: Trẻ con phải ăn hết phần rau, người lớn thì không. Trẻ con có thể chơi vòng quay ngựa gỗ trong công viên, người lớn thì không. Trẻ con có thể nhìn thấy những thứ màu xám, người lớn thì không.
Và mặc dù lúc đó chỉ mới 2 tuổi, tôi cũng hiểu ra rằng cái thứ màu xám ở đầu cầu thang ấy chẳng phải là thứ để đem ra hỏi han. Không hỏi ai hết. Không bao giờ.
Và tôi chẳng bao giờ nói với bất kỳ ai về con ma đầu tiên tôi thấy, cũng không nói với ai về hàng trăm con ma khác tôi gặp sau này. Có gì để nói đâu nhỉ? Tôi trông thấy chúng. Chúng nói chuyện với tôi. Hầu như tôi chẳng hiểu chúng nói gì, muốn gì, và rồi chúng luôn luôn bỏ đi. Hết chuyện.
Có lẽ mọi thứ cứ trôi qua như thế nếu như bố tôi không đột ngột qua đời.
Thật đấy. Chỉ có vậy thôi. Phút trước bố còn ở đó, nấu ăn và cười đùa như bố thường làm, vậy mà hôm sau bố đã không còn nữa.
Mọi người an ủi tôi suốt cái tuần sau khi bố mất – cái tuần mà tôi chỉ biết đứng trên bậu cửa chờ bố về - nhưng bố chẳng bao giờ trở về nữa.
Tôi chẳng thích nghe những lời an ủi. Tại sao tôi phải nghe họ chứ? Bố không về nữa ư? Họ có lẩm cẩm không vậy? Tôi hiểu một điều là bố mất rồi. Nhưng bố chắc chắn rồi sẽ quay về. Ai sẽ giúp tôi làm bài tập toán đây, ai sẽ thức dậy thật sớm cùng tôi vào sáng Chủ Nhật, làm bánh quế theo cách của người Bỉ và xem phim hoạt hình cùng tôi, ai sẽ dạy tôi lái xe khi tôi 16 tuổi như đã hứa bây giờ? Bố có lẽ đã mất thật rồi, nhưng chắc chắn tôi sẽ lại được gặp bố thôi. Hàng ngày tôi vẫn thấy những người đã khuất, thế thì sao tôi lại không gặp được bố cơ chứ?
Hoá ra tôi đã đúng. Bố tôi đã mất, tôi không nghi ngờ gì điều đó. Bố mất vì chứng nhồi máu cơ tim. Mẹ tôi đã tiến hành hoả táng rồi giữ tro trong chiếc cốc vại uống bia kiểu Đức cổ, loại có nắp đậy. Bố từng rất thích uống bia. Mẹ đặt nó lên giá cao chỗ con mèo không với tới, thỉnh thoảng lúc mẹ nghĩ là tôi không quanh quẩn đâu đây, mẹ lại nói chuyện với chiếc cốc ấy.
Điều này làm tôi buồn kinh khủng. Chắc chắn là tôi không thể đổ lỗi cho mẹ vì làm tôi buồn. Nếu tôi không biết thì có lẽ tôi cũng đã nói chuyện với chiếc cốc ấy rồi.
Nhưng bạn thấy đấy, những người đó đã lầm. Bố tôi mất, điều đó đúng. Nhưng tôi vẫn được gặp lại bố.
Thực ra, giờ có khi tôi còn gặp bố nhiều hơn cả khi bố còn sống. Khi ấy, bố đi làm suốt ngày. Giờ bố mất rồi, bố chẳng có nhiều việc để làm, vì thế mà tôi gặp bố rất nhiều lần. Thực tế là quá nhiều ấy chứ. Bố khoái cái việc đột ngột hiện ra khi tôi ít để ý nhất. Như thế chẳng hay ho cho lắm.
Cuối cùng thì bố là người giải thích cho tôi. Tôi nghĩ, về một mặt nào đó việc bố mất cũng tốt thôi, vì nhờ đó mà tôi hiểu được mọi chuyện.
Thật ra thì không phải vậy. Có một người bói bài tarot đã từng nói về chuyện đó một lần rồi. Đó là cái lần trường tôi tổ chức hội hè. Tôi đi cũng chỉ bởi Gina không muốn đi một mình. Tôi nghĩ vụ này thật vớ vẩn, nhưng tôi vẫn đi bởi vì đó là những điều mà những người bạn thân nhất hay làm vì bạn mình. Người đàn bà đó – bà thầy bói Zara – xem lá bài của Gina và nói chính xác những gì cô ấy muốn nghe: À, rồi sau này cháu sẽ cực kỳ thành đạt, làm bác sỹ phẫu thuật não, cháu sẽ kết hôn vào năm 30 tuổi, có 3 con, vân vân và vân vân. Khi xong việc, tôi những muốn đi nhưng Gina cứ nhất định bắt bà Zara xem cho cả tôi nữa.
Bạn biết thế nào rồi đấy. Bà Zara xem các lá bài một lần, bà có vẻ đăm chiêu, rồi tráo bài và xem lại. Rồi bà ấy nhìn tôi:
“Cháu,” bà ấy nói, “nói chuyện được với người đã khuất.”
Điều này làm Gina hết sức hào hứng. Cô nàng tuôn: “Lạy Chúa! Lạy Chúa tôi! Thật thế à? Suze, cậu nghe thấy không đấy? Cậu có thể nói chuyện với người chết! Cậu cũng là cô đồng!”
“Không phải là cô đồng,” bà Zara nói. “Mà là Cầu nối của hồn ma.”
Gina có vẻ bị sốc, “Gì cơ? Đấy là cái gì thế ạ?”
Nhưng tôi thì hiểu. Tôi không biết chính xác phải gọi như thế nào, nhưng tôi hiểu nó là cái gì. Bố tôi không giải thích được rõ lắm, nhưng tôi biết đại loại là thế này: tôi là người có thể liên hệ với những người đã chết ngoẻo rồi nhưng vẫn vương vấn vì những điều còn… bận tâm. Sau đó, nếu có thể, tôi giúp đỡ họ giải quyết cái mớ bòng bong đó đi.
Tôi chỉ có thể nghĩ được cách giải thích đó thôi. Chẳng biết tại sao tôi lại may mắn đến thế - ý tôi là ở chỗ, về tất cả những phương diện khác thì tôi hoàn toàn bình thường, hừm, gần như bình thường. Tôi chỉ không may mắn ở chỗ là có khả năng liên lạc với người chết.
Không hẳn là tất cả những người chết. Chỉ những người chết chưa nhắm mắt thôi.
Bạn thấy cuộc sống của tôi mười sáu năm vừa qua đầy những hoa thơm trái ngọt thế nào rồi đấy.
Hãy tưởng tượng việc bạn bị người đã chết ám ảnh – theo nghĩa đen của từ ấy – từng phút từng ngày trong đời. Chẳng hay ho gì đâu. Bạn đi mua đồ ăn hay kiếm một lon soda – ối chà, một gã đứng ngay trong góc. Gã bị bắn chết. Và nếu bạn giúp cho cảnh sát tóm được kẻ thủ sát thì gã kia sẽ nhắm mắt xuôi tay mà yên nghỉ.
Thế mà lúc ấy tất cả những gì bạn muốn lại chỉ là một lon soda thôi.
Hay là bạn đến thư viện mượn sách – và ối, hồn ma của một bà thủ thư nào đấy đến tìm bạn, muốn bạn nói giúp với thằng cháu là bà ta rất bực mình về những điều nó làm với những con mèo của bà ta sau khi bà chết ngoẻo đi rồi.
Đó mới là những người biết lý do vì sao họ vẫn còn quanh quẩn trên đời. Nửa còn lại thì chả rõ vì sao họ chưa đi về cái cõi âm mà lý ra họ phải đến.
Rắc rối ở chỗ vì thế mà con ngốc là tôi đây phải giúp họ đi đến đó.
Tôi là cầu nối của những bóng ma.
Nói cho bạn hay, đấy chẳng phải là điều tôi muốn mọi người dính vào đâu.
Chuyện cầu nối này chả xơ múi được gì. Chả có ai đề nghị trả lương tháng hay gì gì cho tôi hết, thậm chí tiền lương theo giờ cũng không. Chỉ là có những khi bạn thấy ấm lòng khi làm được điều gì đó giúp người khác mà thôi. Như việc đi nói với một cô bé, người đã không kịp nói lời tạm biệt với người ông trước khi ông mất, rằng ông cô rất yêu thương cô, và ông tha thứ cho cô cái lần cô coi chuyện ông kể về xứ El Dorado là chuyện nhảm nhí. Những câu chuyện như thế thực sự sưởi ấm trái tim bạn, thật đấy.
Nhưng còn lại thì hầu hết chẳng dễ chịu tí nào. Ngoài cái điều rắc rối là lúc nào cũng bị quấy rầy bởi những người mà chỉ mỗi mình bạn trông thấy, thì trên thực tế, có rất nhiều con ma cực kỳ đáng ghét. Nói nghiêm chỉnh đấy. Chúng là những thứ của nợ khó chiều. Nhìn chung, chúng biết rằng với cách cư xử của chúng khi còn sống, chúng không được người ta kính trọng cho lắm. Thế là chúng cứ ở lại mà quấy rầy người ta, sập cửa, đập phá, làm cho mọi thứ trở nên lạnh lẽo, rên rẩm. Biết tôi đang nói về cái gì rồi đấy, cái loài yêu tinh ấy mà.
Đôi khi chúng cũng trở nên hung dữ, cố làm cho người khác bị thương. Chúng cố tình làm vậy đấy. Đó là những lúc tôi điên tiết lên, những lúc tôi buộc phải tẩn cho chúng một trận.
Đó là điều mẹ tôi thấy lúc mẹ nói, “Ôi Suze, đừng có lại thế nữa chứ con.” Khi tôi tẩn nhau với ma, mọi thứ thường trở nên hơi bị… lộn xộn một tí.
Tôi không có ý định làm cho căn phòng mới này lộn tùng phèo lên, vì thế mà tôi quay lưng lại với con ma đang ngồi trên chiếc ghế gần cửa sổ và nói: “Không có gì đâu mẹ. Mọi thứ đều ổn cả. Căn phòng đẹp lắm. Con cám ơn mẹ nhiều.”
Chắc mẹ không tin, chẳng dễ lừa được mẹ tôi đâu. Tôi biết mẹ đang nghi tôi có điều gì đó không ổn, nhưng mẹ lại không biết đấy là điều gì. Thế có lẽ cũng tốt, vì nếu không thì cả cái thế giới vốn trật tự của mẹ sẽ náo loạn hết lên cho xem. Mẹ là phóng viên truyền hình, mẹ chỉ tin vào những điều gì mẹ thấy tận mắt. Mà mẹ thì đâu có thấy ma.
Bạn không biết tôi ao ước được như mẹ đến nhường nào đâu.
“Vậy được rồi, mẹ mừng vì con thích. Mẹ đã hơi lo một chút. Mẹ biết con không khoái… ừm… những nơi cổ kính.”
Những nơi cổ kính là cái điều mà tôi ghét nhất, bởi vì nơi nào càng cổ thì càng có nguy cơ là sẽ có người nào đó qua đời, và rồi người đó vẫn đang lang thang quanh đấy để tìm sự công bằng hay chờ đợi để nhắn gửi thông điệp cuối cùng cho một người khác. Nói cho bạn hay, điều này dẫn đến một hậu quả khá thú vị khi tôi và mẹ đi tìm mua nhà trong thành phố. Chúng tôi chọn được những căn hộ gần như hoàn hảo, thế rồi tôi sẽ nói như kiểu: “Không, không đời nào,” mà chẳng có lý do nào có thể viện ra cả. Thật lạ là mẹ lại không gửi béng tôi vào trường nội trú cho xong chuyện.
“Thật mà, mẹ. Căn phòng tuyệt lắm, con rất thích,” tôi nói.
Nghe thấy điều đó, dượng Andy hớn hở chạy khắp phòng cho tôi thấy những chiếc đèn chỉ cần vỗ tay là có thể bật tắt (ôi giời ơi), và hàng đống những thứ dượng đã lắp đặt. Tôi theo chân dượng, bày tỏ niềm vui thích, cẩn thận không nhìn về hướng có con ma. Thật ấm áp khi thấy dượng Andy muốn làm cho tôi vui đến thế. Và tôi quyết định sẽ thật vui vẻ, như dượng ấy khao khát. Chí ít thì vui hết mức mà một người như tôi đây có thể.
Lát sau, chẳng còn gì để chỉ cho tôi xem nữa, dượng Andy bèn đi chuẩn bị cuộc liên hoan ngoài trời để mừng việc tôi dọn đến, chúng tôi có một bữa tối với hải sản và thịt nướng. Ngái Ngủ và Ngu Ngơ thì đi “lướt tí sóng” trước bữa ăn, còn ông Tiến Sỹ thì dạt về một chỗ khác, lẩm bẩm một cách khó hiểu về bữa ăn, về một “cuộc thử nghiệm” đang tiến hành, để lại tôi ngồi một mình với mẹ…
“Con thực sự không có vấn đề gì đấy chứ, Suze? Mẹ biết đây là một thay đổi lớn. Mẹ biết như thế là đòi hỏi quá nhiều ở con – ” mẹ hỏi.
Tôi cởi chiếc áo khoác da. Không biết tôi nói điều này chưa, nhưng tháng Giêng như thế này là khá nóng, khoảng trên 20 độ. Lúc ngồi trong xe mà tôi nóng muốn chết. “Con ổn mà mẹ - thật đấy.”
“… Bắt con rời xa bà, Gina, và cả New York nữa. Mẹ thật ích kỷ. Mẹ biết đối với con mọi thứ chẳng dễ dàng gì. Nhất là sau khi bố mất…”
Mẹ tôi cứ muốn cho rằng cái lý do vì sao tôi chẳng giống mẹ hồi mẹ còn tuổi teen như tôi - mẹ là đội trưởng đội cổ vũ, là nữ hoàng trong lễ hội hằng năm dành cho cựu học sinh, có rất nhiều bạn trai, và nhiều thứ khác nữa – là do tôi mất bố khi còn quá nhỏ. Mẹ nghĩ cái chết của bố là nguyên nhân của mọi thứ, từ việc tôi chẳng có bạn bè gì hết, trừ Gina, cho đến việc đôi khi tôi cư xử theo cách rất kỳ quặc.
Và tôi chắc rằng một số việc tôi làm trước đây có vẻ kỳ lạ đối với những ai không biết tôi làm thế để làm gì, hay vì ai. Vô số lần tôi bị phát hiện quanh quẩn ở những nơi không nên đến. Vài lần tôi cũng từng bị cảnh sát dẫn về nhà vì tội xâm phạm, phá hoại của công hay đập phá và đột nhập gia cư.
Ngay cả khi tôi chưa bao giờ thực sự bị kết án về một tội nào đó, tôi đã phải ngồi hàng tiếng đồng hồ trong phòng bác sỹ trị liệu của mẹ - được an ủi rằng cái việc tôi hay tự nói chuyện với bản thân là hoàn toàn bình thường, nhưng xu hướng tôi nói chuyện với những người không tồn tại thì có lẽ là không bình thường.
Kể cả việc tôi không thích những ngôi nhà nào xây quá 5 năm.
Hay kể cả việc tôi dành hàng đống thời gian trong nghĩa địa, trong nhà thờ, đền đài, lăng tẩm, căn hộ hay nhà riêng (đã bị khoá) của người khác, hay lang thang trong sân trường sau giờ học.
Chắc mấy đứa con của dượng Andy đã nghe được ít nhiều, vì thế mới có chuyện vớ vẩn về băng nhóm nào đó. Nhưng như tôi đã nói, tôi chưa bao giờ bị xử lý vì những gì đã làm.
Và thậm chí cái lần bị đình chỉ học trong hai tuần vào năm tôi học lớp 8 cũng không bị ghi vào hồ sơ.
Vì thế có lẽ việc mẹ tôi ngồi trên giường nói về “sự khởi đầu mới mẻ” hay những thứ đại loại thế cũng không phải là điều gì bất thường cho lắm. Điều kỳ quái là ở chỗ mẹ cứ nói trong khi con ma thì đang ngồi cách đó không xa, quan sát hai mẹ con. Nhưng mặc kệ. Mẹ dường như có nhu cầu cần trình bày về chuyện mọi thứ sẽ trở nên khá hơn cho tôi ra sao khi sống ở West Coast này.
Và nếu đấy là những gì mẹ muốn thì tôi sẽ cố hết sức cho mẹ đạt được mong muốn ấy. Tôi đã quyết định sẽ không làm bất cứ điều gì có thể tống tôi vào tù, cũng là một sự khởi đầu mới đấy chứ.
“Thôi được rồi, chắc là con không cần người dỡ đồ giúp nên mẹ sẽ đi xem dượng Andy chuẩn bị bữa tối đến đâu rồi,” mẹ nói, hết cả hơi sau bài thuyết trình về việc con-sẽ-không-thể-có-bạn-bè-gì-hết-nếu-không-có-một-cách-hành-xử-thân-thiện.
Dượng Andy, ngoài việc có khả năng xây dựng nên bất cứ thứ gì, còn là một đầu bếp siêu đẳng mà mẹ tôi thì chắc chắn là chẳng bao giờ bén gót.
Tôi nói: “Vâng, vậy cũng được. Con sẽ dỡ đồ và mấy phút nữa con xuống.”
Mẹ gật đầu và đứng dậy, nhưng không để tôi thoát dễ dàng thế. Đi ra đến cửa, mẹ quay lại và nói, đôi mắt xanh ngấn nước: “Mẹ chỉ mong con được hạnh phúc, Suzie à. Tất cả những gì mẹ muốn chỉ có vậy thôi. Con có nghĩ con sẽ hạnh phúc khi sống ở đây không?”
Tôi ôm lấy mẹ. Xỏ đôi đôi bốt ấy vào thì tôi cao bằng mẹ. “Chắc chắn rồi mẹ à. Ở đây con sẽ hạnh phúc mà. Con cảm thấy nơi này giờ là nhà của mình rồi,” Tôi nói.
“Thật không? Con nói thật đấy chứ?” Mẹ sụt sịt.
“Thật mà.” Tôi không hề nói dối, ý tôi là trong phòng tôi hồi còn ở Brooklyn lúc nào mà chẳng có ma như thế này.
Mẹ đi ra, và tôi khép cửa khe khẽ sau lưng mẹ. Chờ đến khi không còn nghe tiếng bước chân mẹ trên cầu thang nữa, tôi mới quay lại.
“Này,” tôi nói với con ma đang ngồi trên chiếc ghế cạnh cửa sổ, “anh là tên quái nào vậy?”
Last edited by khungcodangcap; 16-10-2009 at 10:24 AM.
Nếu bảo rằng gã này ngạc nhiên khi bị xưng hô kiểu đó thì có lẽ là còn nhẹ đấy. Hắn ta trông còn hơn cả ngạc nhiên. Hắn ngoái hẳn lại phía sau lưng xem có thật là tôi đang nói với hắn hay không.
Nhưng dĩ nhiên, thứ duy nhất ở sau lưng hắn là cái cửa sổ và quang cảnh đẹp tuyệt của vịnh Carmel. Rồi hắn quay lại nhìn tôi, chắc nhận ra tôi đang chiếu tướng đích thị vào hắn vì hắn thốt lên: “Nombres de Dios,” theo cái cách hẳn sẽ làm cho Gina lăn đùng ra bất tỉnh nhân sự, vì cô nàng vốn kết các anh chàng mang dòng máu Latinh.
“Gọi thánh thần cũng chả ích gì đâu,” tôi bảo hắn, đá chiếc ghế đính tua hồng về phía bàn phấn mới và ngồi dạng chân trên ghế. “Nếu vẫn chưa tỉnh ra, thì này, Thần Thánh cũng chả mấy bận tâm đến anh đâu. Nếu không thì Ngài đã chả để anh rũ xác ra ở đây đến –” tôi dò xét cách ăn mặc của hắn, trông rất giống kiểu ăn mặc trong Miền Tây Hoang Dã, “xem nào, đến 150 năm. Có thật là anh đã ngoẻo được từng ấy năm rồi không?”
Hắn nhìn tôi bằng đôi mắt đen lóng lánh. “Ngoẻo nghĩa là gì?” Hắn hỏi bằng giọng khàn khàn do lâu ngày không nói.
Tôi đảo mắt một vòng. “Lên nóc tủ,” tôi cắt nghĩa. “Đi ma teo, về chầu ông bà, ngủ với giun.” Thấy biểu hiện của hắn chứng tỏ hắn vẫn không hiểu, tôi chán nản đành kết, “Chết ấy.”
“À, ra là chết.” Hắn đáp. Nhưng thay vì trả lời câu hỏi của tôi, hắn lắc đầu. “Tôi không hiểu,” giọng hắn băn khoăn, “tôi không hiểu làm thế nào mà cô lại nhìn thấy được tôi. Từ xưa đến giờ chưa có ai –”
“Vậy đấy,” tôi ngắt lời hắn. Tôi nghe hàng đống những lời này rồi, bạn biết đấy. “Nghe đây, thời thế thay đổi rồi. Vậy vấn đề rắc rối nho nhỏ của anh là gì?”
Hắn nhìn tôi bằng đôi mắt to, hắn có hàng mi còn dài hơn cả của tôi. Thường thì tôi không gặp những con ma hấp dẫn cho lắm, nhưng tên này… trời, khi còn sống chắc hắn ta phải được lắm, vì giờ thì hắn chết rồi và tôi đang cố hình dung ra cái thứ dưới lớp áo trắng cổ mở rộng, để lộ một ít phần ngực và bụng mà hắn đang mặc kia. Liệu ma có được lớp cơ bụng đến thế không nhỉ? Đấy là điều tôi chưa từng có dịp nào – hay có lòng dạ nào – để khám phá cả.
Không thể để bị sao lãng bởi điều đó ngay bây giờ được. Tôi là một người đạt đến mức điêu luyện cơ mà.
“Rắc rối nho nhỏ?” hắn kêu lên. Ngay cả khi hắn có một giọng nói du dương êm dịu, tiếng Anh của hắn đều đều và không giống giọng địa phương, giống như tôi đã hình dung từ trước, cách phát âm chữ t rất nhẹ giống kiểu Brooklyn. Rõ ràng là hắn có mang dòng máu Tây Ban Nha, căn cứ vào cái từ Dios và màu da của hắn, nhưng hắn cũng là người Mỹ như tôi – hay cũng là người Mỹ giống như một ai đó sinh ra trước khi California trở thành một bang.
“Phải.” Tôi hắng giọng. Hắn hơi quay đi và đặt đôi bốt lên tấm thảm xanh nhạt phủ trên chiếc ghế cạnh cửa sổ, nhờ đó mà tôi có được câu trả lời, phải, ma cũng có thể có cơ bụng săn chắc như ai. Cơ bụng hắn nổi lên, được bao phủ bởi một lớp lông thưa mỏng đen óng.
Tôi nuốt xuống. Thật khó khăn.
“Rắc rối, khó khăn. Tại sao anh vẫn còn ở đây?” Hắn nhìn tôi, không một chút biểu hiện nhưng có vẻ có hứng thú. Tôi thêm: “Sao anh còn chưa về cõi bên kia?”
Hắn lắc đầu. Tôi đã nói là hắn có mái tóc ngắn sẫm màu và trông có vẻ khá thô chưa nhỉ? Như thể nếu chạm vào thì sẽ có cảm giác rất dày dặn vậy. “Tôi không hiểu ý cô muốn hỏi gì?”
Tôi cảm thấy hơi nóng, nhưng vì đã cởi chiếc áo da ra rồi nên tôi chẳng biết phải làm gì nữa. Tôi không khoái cái việc cởi bất cứ thứ gì trong khi hắn ta đang ngồi đó nhìn. Điều này làm cho tôi đột ngột rất khó chịu.
“Anh bảo sao, anh không hiểu những gì tôi nói ấy à?” Tôi cáu kỉnh nói, gạt một vài sợi tóc cho khỏi vướng vào mắt. “Anh đã chết rồi. Anh không thuộc về nơi này. Lẽ ra anh phải làm cái việc mà người ta vẫn thường làm khi chết rồi chứ. Hưởng thụ trên thiên đàng, bị thiêu dưới địa ngục, tái sinh, cải thiện tầm nhận thức tốt hơn, hay thế nào đấy. Anh đúng ra không được… hừm… không được đi lang thang.”
Hắn trầm ngâm nhìn tôi, một chân co lên, cánh tay khẽ đung đưa đặt trên đầu gối. “Nếu tôi cứ đi lang thang thì sao nào?” Hắn hỏi.
Tôi không dám chắc, nhưng có cảm giác hắn đang bỡn cợt tôi. Mà tôi thì không thích bị bỡn cợt. Thật đấy. Người Brooklyn lúc trước cũng hay bỡn, cho đến khi tôi học được là một cú đấm thẳng vào mũi có thể làm họ nín ngay.
Tôi chưa sẵn sàng oánh tên này, chưa đâu. Nhưng cũng sắp rồi. Ý tôi là, tôi đã phải đi cả triệu dặm dài tưởng như mất đến hàng mấy ngày để đến sống với những tên con trai ngốc nghếch; tôi phải dỡ đồ; tôi làm cho mẹ khóc; rồi sau đó gặp ngay một con ma trong phòng. Đừng đổ lỗi cho tôi về chuyện tôi cư xử thô lỗ với hắn chứ.
“Nghe đây,” tôi đứng dậy thật nhanh, vòng chân ra phía sau ghế. “Anh có thể đi lang thang nếu muốn, bồ tèo ạ. Mặc xác anh. Tôi cóc cần biết. Nhưng anh không được lang thang quanh đây.”
“Là Jesse,” anh ta nói, không động đậy.
“Cái gì?”
“Cô gọi tôi là bồ tèo. Tôi nghĩ chắc cô muốn biết tôi cũng có tên. Là Jesse.”
Tôi gật. “Phải. Được rồi, thế thì Jesse. Anh không thể ở đây được, Jesse ạ.”
“Còn cô?” Jesse đang cười. Anh ta có khuôn mặt đẹp trai, khuôn mặt mà nếu ở trường cấp 3 cũ của tôi thì anh ta đã được bầu làm vua trong buổi khiêu vũ rồi. Kiểu gương mặt mà Gina sẽ cắt ra khỏi tờ tạp chí và dính lên tường phòng mình.
Nhưng anh ta không hề đáng mến tí nào hết. Trông anh ta nham hiểm lắm. Cực kỳ nham hiểm.
“Còn tôi thì làm sao?” Tôi biết mình đang ăn nói thô lỗ. Tôi cóc quan tâm.
“Tên cô là gì?”
Tôi trừng mắt. “Nghe đây. Nói cho tôi hay anh muốn gì, rồi biến đi. Tôi đang nóng, muốn thay quần áo. Tôi không có thời gian để -”
Anh ta ngắt lời tôi, nhẹ nhàng như thể chẳng thèm nghe tôi nói gì hết: “Người phụ nữ đó - mẹ cô ấy mà - gọi cô là Suzie.” Đôi mắt ánh ta nhìn tôi lấp lánh. “Có phải đấy là tên gọi tắt của Susan không?”
“Susannah,” tôi tự động chỉnh ngay. “Giống trong bài hát ‘Đừng khóc vì tôi’ ấy.”
Anh ta cười. “Tôi biết bài hát đó.”
“Rồi. Chắc nó lọt vào top 40 bài hát vào cái năm anh chào đời đấy nhỉ?”
Anh ta vẫn cười. “Giờ đây là phòng cô phải không, Susannah?”
“Phải,” tôi nói. “Bây giờ đây là phòng của tôi. Thế nên anh phải dọn đi chỗ khác thôi.”
“Tôi phải dọn đi chỗ khác?” Anh ta nhướn một bên lông mày đen. “Chốn này đã là nhà tôi 150 năm rồi. Tại sao tôi phải rời bỏ nó chứ?”
Tôi thực sự cáu điên rồi đây. Cái chính là vì tôi đang rất nóng, muốn mở cửa sổ ra, mà cái cửa sổ thì lại ở sau anh ta, mà tôi thì không muốn lại gần anh ta đến thế. “Bởi vì đây là phòng của tôi. Tôi sẽ không chia sẻ phòng mình với một tên cao bồi chết nghoẻo nào đó đâu.”
Điều này chạm phải lòng tự ái của anh ta. Anh ta dậm mạnh chân xuống sàn và đứng dậy. Ngay lập tức tôi ước giá mình đừng nói gì hết. Anh ta cao, cao hơn tôi nhiều, thế mà kể cả có đôi bốt vào thì tôi cũng đã khoảng 1m75.
“Tôi không phải cao bồi,” anh ta tức giận bảo. Anh ta cũng hạ giọng cũng nói thêm điều gì đó bằng tiếng Tây Ban Nha, nhưng vì tôi học tiếng Pháp nên chả hiểu gì hết. Lúc đó, chiếc gương cổ treo phía trên bàn trang điểm của tôi bắt đầu rung rung một cách đáng sợ trên cái móc gắn vào tường. Tôi biết đấy không phải là do một cơn động đất ở California mà là do con ma đang đứng trước mặt tôi, cái thứ mà hiển nhiên có khả năng điều khiển mọi thứ chuyển động.
Đây là một điều về loài ma: chúng rất dễ tự ái! Một chuyện dù nhỏ nhất cũng có thể làm chúng nổi cơn tam bành.
“Ôi chà,” tôi nói, đưa hai tay lên, lòng bàn tay hướng ra ngoài. “Bình tĩnh, bình tĩnh đã nào anh bạn.”
“Gia đình tôi,” Jesse nổi xung lên, chỉ tay vào mặt tôi, nói, “phải làm việc vô cùng vất vả để có được thành quả trên cái xứ này, nhưng không bao giờ, không bao giờ là một vaquero –”
“Này,” tôi nói. Đấy chính là lúc tôi phạm một sai lầm lớn. Tôi không thích cái ngón tay anh ta đang chỉ vào tôi, bèn vươn ra tóm lấy nó thật mạnh, chộp lấy tay anh ta, kéo anh ta về phía tôi để anh ta nghe cho rõ tiếng tôi rít lên: “Thôi ngay cái trò với chiếc gương đi. Và đừng có chỉ tay vào mặt tôi. Còn thế nữa là tôi bẻ gãy ngón tay luôn đấy.”
Tôi lăng bàn tay anh ta đi và hài lòng thấy chiếc gương đã thôi rung lắc. Nhưng sau đó tôi chợt nhìn vào mặt anh ta.
Ma thì làm gì có máu. Làm sao mà có, chúng chết rồi cơ mà. Nhưng xin thề, lúc ấy mặt Jesse trở nên trắng bệch, không còn màu sắc gì hết, như thể máu trên mặt anh ta đã bốc hơi đi đâu hết rồi vậy.
Không sự sống, không máu, tức là ma không phải là một thứ vật chất. Vì thế việc tôi tóm lấy ngón tay anh ta là hoàn toàn vô nghĩa, tay tôi phải đi xuyên qua anh ta. Đúng không?
Nhầm. Đó là điều xảy ra với hầu hết mọi người. Nhưng không phải với những người giống như tôi. Không phải với những người nói chuyện được với người chết. Chúng tôi có thể nhìn thấy ma, nói chuyện với ma, và, khi cần, có thể tẩn cho chúng một trận.
Nhưng đấy không phải là điều mà tôi muốn đem đi khoe khắp chốn cùng quê. Tôi cố gắng tránh chạm vào chúng – thật ra là chạm vào tất cả mọi người – tránh càng xa càng tốt. Nếu những cố gắng để thương lượng không xong mà tôi buộc phải sử dụng vũ lực đối với một con ma cứng đầu cứng cổ thì nói chung tôi mong chúng không biết trước rằng tôi có thể làm thế. Luôn luôn nên dùng những đòn bất ngờ khi phải đương đầu với những thành viên trong hội âm phủ, những kẻ khét tiếng chơi bẩn.
Jesse nhìn xuống ngón tay mình như thể nó vừa bị tôi vừa xuyên thủng một lỗ vậy, có vẻ hoàn toàn không thể thốt nên một câu nào hết. Có lẽ đó là lần đầu tiên trong suốt 1 thế kỷ rưỡi qua anh ta bị một người nào đó chạm vào. Việc đó có thể làm một người bị sốc nặng. Đặc biệt là với một kẻ đã chết.
Lợi dụng lúc anh ta đang kinh ngạc, tôi nói bằng giọng cứng rắn nhất, vô cảm nhất: “Giờ nghe đây Jesse. Đây là phòng của tôi, anh hiểu chứ? Anh không ở lại đây được đâu. Hoặc anh phải giúp tôi đưa anh đến nơi cần phải đến, hoặc là anh đi kiếm ngôi nhà khác mà ám. Rất tiếc, nhưng phải thế thôi.”
Jesse rời mắt khỏi ngón tay mình, nét mặt anh ta dường như vẫn nhất định không chịu tin: “Cô là ai?” Anh ta khẽ khàng hỏi. “Cô là loại… con gái kiểu gì vậy?”
Anh ta ngần ngừ rất lâu trước khi nói ra cái từ con gái, rõ ràng vẫn còn chưa chắc từ đó có đúng trong trường hợp của tôi hay không. Điều đó khiến tôi nóng gáy. Ý tôi là, có lẽ tôi không phải là đứa con gái nổi nhất trường, nhưng chưa có một ai phủ nhận việc tôi là một đứa con gái thực sự. Đám công nhân xây dựng thỉnh thoảng hò hét những lời lẽ lỗ mãng vào tôi, nhất là khi tôi mặc chiếc váy ngắn bằng da màu đen. Tôi không phải không có tí hấp dẫn nào hay cư xử như đàn ông. Chắc chắn lúc trước là tôi có đe doạ bẻ gãy ngón tay anh ta, nhưng thế không có nghĩa tôi không phải là con gái, có Chúa chứng giám!
“Để tôi nói cho anh hay tôi không phải loại con gái như thế nào,” tôi cấm cẳn. “Tôi không phải loại con gái ở chung phòng với người khác giới. Hiểu chứ? Vì thế, hoặc anh biến đi, hoặc tôi tống cổ anh ra ngoài. Hoàn toàn do anh chọn. Tôi cho anh ít thời gian suy nghĩ. Nhưng lúc tôi quay lại đây, Jesse, tôi muốn anh không còn ở đây nữa.”
Tôi quay lưng lại và bỏ đi.
Tôi phải làm thế. Tôi không hay thua trong các vụ cãi nhau với bọn ma, nhưng có cảm giác lần này tôi sẽ thua, thua tệ hại. Lẽ ra tôi không nên nói năng cộc lốc với anh ta, và cũng không nên thô bạo như vậy. Tôi thực sự không hiểu mình bị làm sao, thật đấy. Tôi chỉ…
Tôi nghĩ chắc là tôi chỉ không hề mong chờ có một con ma đẹp trai đến vậy ở trong phòng tôi, thế thôi.
Chúa ơi, tôi nghĩ, và phóng vù xuống sảnh. Tôi sẽ làm gì đây nếu anh ta không chịu đi? Tôi không thể thay quần áo ngay trong chính căn phòng của mình!
Cho anh ta thêm chút thời gian, tiếng nói vang vọng trong đầu tôi. Đó là giọng nói tôi hết sức dè chừng tránh không nói cho bác sỹ trị liệu của mẹ tôi.
Cho anh ta thêm thời gian. Rồi anh ta sẽ bỏ đi. Chúng lúc nào cũng làm thế.
Hừm, nói chung thì phần lớn là như vậy.
Last edited by khungcodangcap; 16-10-2009 at 10:25 AM.
Bữa tối trong gia đình Ackerman cũng giống như bữa tối trong tất cả những ngôi nhà to khác mà tôi từng biết: Mọi người ngay lập tức nói chuyện - tất nhiên chỉ trừ có Ngái Ngủ, kẻ chỉ nói khi được hỏi trực tiếp – và không ai muốn dọn bàn sau khi ăn xong. Tôi đủ tỉnh táo để gọi điện cho Gina, nói rằng cô nàng đã lầm. Tôi chẳng thấy việc có anh em có tí teo lợi ích nào hết: họ há miệng ra mà nhai, và ngốn hết tất cả bánh mỳ tròn Poppin’ Fresh trước khi tôi kịp lấy cho mình một chiếc.
Sau bữa tối, tôi thấy tốt nhất là nên tránh xa phòng mình ra và cho Jesse thêm thời gian để quyết định xem nên ra đi cùng với hàm răng còn nguyên vẹn hay là không. Tôi không phải là đứa khoái dùng vũ lực, nhưng công việc của tôi lại đem lại hậu quả tai hại là thế. Lắm khi, cách duy nhất có thể làm cho một người nghe lời là bằng nắm đấm. Tôi biết đấy không phải là thủ pháp được sổ tay chẩn đoán trên giá sách của các vị bác sỹ trị liệu tán thành cho lắm.
Thế nhưng, có ai nói tôi là chuyên gia trị liệu đâu nhỉ.
Điều rắc rối trong dự định là ở chỗ tối đó lại là tối thứ bảy. Sức ép của chuyện chuyển nhà làm tôi quên béng mất ngày hôm đó là thứ mấy. Khi còn ở nhà cũ, tối thứ bảy tôi thường đi chơi với Gina, bắt tàu điện ngầm đến khuVillage chơi và đi xem phim, hay chỉ là loanh quanh ở quán Joe’s Pizza ngắm người qua lại. Tôi chưa từng được một tên con trai nào rủ đi chơi, nếu không tính cái lần Daniel Bogue mời tôi trượt cùng với cậu ta khi có bài hát dành riêng cho các đôi tình nhân tại trung tâm trượt băng Rockerfeller Center, vào năm lớp 5.
Rồi sau đó tôi tự làm mình mất mặt khi ngã đập mặt xuống sân trượt.
Tuy nhiên, mẹ tôi thì lại lo lắng cho tôi nên đẩy tôi tham gia vào các vụ tụ tập ở Carmel. Rửa bát đĩa xong, mẹ ngay lập tức như kiểu: “Brad này, tối nay con làm gì? Có tiệc tùng hay gì không? Hay con dẫn Suze đi cùng và giới thiệu nó với vài người nhé.”
Ngu Ngơ – lúc đó đang trộn một món giàu protein, hiển nhiên rồi, hai tá tôm to vĩ đại và một đống món sò nướng tiêu thụ trong bữa tối đâu có thấm tháp gì – đáp: “Vâng, thế cũng được, nếu tối nay anh Jake không phải đi làm.”
Ngái Ngủ, tỉnh dậy khi nghe tên mình, liếc xuống đồng hồ và nói: “Khỉ thật,” với lấy chiếc áo khoác jean và ra khỏi nhà.
Tiến Sỹ nhìn đồng hồ và khụt khịt. “Lại muộn nữa. Nếu không cẩn thận thế nào anh ấy cũng tự đuổi việc mình cho xem.”
Ngái Ngủ có việc làm sao? Thông tin này mới đối với tôi đây, thế là tôi hỏi: “Anh ấy làm việc ở đâu ạ?”
“TiệmpizzaPeninsula.” Tiến Sỹ đang tiến hành một thử nghiệm kỳ quái với con chó và cái máy đi bộ của mẹ. Con chó – to khủng khiếp, chắc là nó lai giữa giống chó St. Bernard và gấu - ngồi im trên sàn trong khi Tiến Sỹ gắn các điện cực lên chỗ mà nó đã cạo trụi lông trên người con chó. Lạ nhất là có vẻ như mọi người đều không lấy gì làm phiền lòng, kể cả con chó.
“Ngá- à, Jake, làm việc ở một tiệm bánh pizza ấy ạ?”
Dượng Andy đang cọ cái đĩa nướng bánh trong bồn rửa, nói: “Nó giao bánh cho họ. Kiếm được khối tiền boa đấy.”
“Anh ấy đang tiết kiệm để mua một chiếc Camaro,” Ngu Ngơ nói cho tôi hay, bộ râu kem sữa to tướng dính trên môi trên.
“Hả,” tôi nói.
“Các con muốn bố thả cho xuống bất kỳ chỗ nào cũng được. Con vừa bảo gì hả Brad? Muốn chỉ cho Suze đường đến trung tâm mua sắm hả?” Dượng Andy hào phóng nói.
“Không ạ,” Ngu Ngơ đáp, lấy ống tay áo quệt lên miệng. “Mọi người vẫn đang nghỉ ở Tahoe. Có lẽ để cuối tuần sau.”
Tôi gần như sụm xuống vì nhẹ người. Cái cụm từ trung tâm mua sắm luôn làm cho tôi phát hoảng, nỗi sợ này không liên quan đến những người sống nhăn đâu nhé. Ở New York không có trung tâm mua sắm, nhưng Gina lại thích bắt tàu hoả đến chơi một cái ở New Jersey. Lúc nào cũng thế, khoảng 1 tiếng sau thì các giác quan của tôi đã được phát huy tối đa, và tôi phải ngồi xuống nghỉ trong cái quán Đây Không Phải Là Sữa Chua, làm một hơi trà thảo mộc cho đến khi đỡ mệt.
Và phải nói thật là, tôi không hề khoái cái ý nghĩ có người “thả tôi xuống” đâu đó. Chúa ơi, chuyện gì xảy ra với cái nơi này thế không biết nữa? Tôi có thể thấy ý tưởng về tàu điện ngầm ở đây có thể không hay ho cho lắm, là do lỗi của San Andreas, nhưng chẳng lẽ người ta không thể có nổi hệ thống xe bus cho ra hồn?
“Tôi biết rồi,” Ngu Ngơ nói, dận mạnh chiếc cốc rỗng xuống bàn. “Tôi sẽ chơi với cậu vài lượt Coolboarder, Suze ạ.”
Tôi chớp mắt nhìn cậu ta: “Cậu sẽ làm cái gì cơ?”
“Chơi Coolboarder với cậu.” Thấy tôi vẫn đần ra, Ngu Ngơ tiếp: “Cậu chưa bao giờ nghe nói đến Coolboarder hả? Vậy đi thôi.”
Cậu ta dẫn tôi đến chỗ cái TV màn hình lớn trong phòng chung. Hoá ra Coolboarder là tên một trò chơi video. Mỗi người chơi có một tấm ván trượt tuyết, rồi trượt đua xuống các sườn dốc, sử dụng một cái điều khiển bằng tay để điều khiển tốc độ của vận động viên và các loại chuyển động của người đó.
Tôi hạ Ngu Ngơ đến lần thứ 8 thì cậu ta nói: “Thôi, xem phim đi.”
Thấy mình có lẽ hơi quá – chắc có lẽ tôi cũng nên để cậu bạn tội nghiệp thắng ít nhất một lần – tôi cố sửa lỗi bằng cách tình nguyện đi lấy bỏng ngô dưới bếp.
Lúc ấy tôi mới thực sự cảm thấy mệt mỏi. Giữa New York và California chênh nhau đến 3 múi giờ, vì thế mà dù mới có 9 giờ nhưng tôi cảm thấy mệt mỏi cứ như thể giờ là nửa đêm rồi vậy. Dượng Andy và mẹ tôi đã đi nghỉ trong căn phòng to hoành tráng, nhưng vẫn để cửa mở, chắc là để bọn tôi không suy nghĩ linh tinh xem họ đang làm gì trong ấy. Dượng Andy đọc một cuốn tiểu thuyết trinh thám, còn mẹ tôi thì đang xem phim truyền hình.
Tôi chắc rằng việc này hoàn toàn vì bọn trẻ con chúng tôi; những tối thứ Bảy khác dám cá là họ đóng cửa, hay ít nhất là đi chơi với bạn bè của dượng Andy hay đồng nghiệp mới của mẹ ở đài truyền hình ở Monterey, nơi mẹ làm việc. Hiển nhiên là họ đang cố thức để khiến bọn tôi cảm thấy yên tâm. Sau những gì dượng và mẹ cố gắng thì cũng nên để họ ngủ một giấc chứ.
Tôi đứng đợi cho ngô rang nở ra, băn khoăn không biết bố tôi sẽ nghĩ gì về tất cả những chuyện này. Bố không thích việc mẹ tái hôn cho lắm, mặc dù như tôi đã nói, dượng Andy là người đàn ông rất tuyệt vời. Bố thậm chí còn ít thích cái việc tôi chuyển đến West Coast này hơn nữa cơ.
Khi tôi nói cho bố biết, bố hỏi: “Làm thế nào mà bố hiện ra cái bùm trước mặt con nếu con sống xa đến cả 3 ngàn dặm?”
“Cái chính ở đây là, bố ạ,” tôi nói, “bố không nên bùm một cái xuất hiện trước mặt con. Đúng ra thì bố chết rồi cơ mà, phải không ạ? Lẽ ra bố nên làm việc gì mà người đã chết cần phải làm ấy, chứ đừng theo dõi hai mẹ con con nữa.”
Trông bố có vẻ bị tổn thương vì điều đó. “Bố không theo dõi,” bố đáp. “Bố chỉ kiểm tra thôi. Để chắc chắn rằng con được hạnh phúc, tất cả chỉ có thế.”
“Con có hạnh phúc,” tôi an ủi bố. “Con rất hạnh phúc, cả mẹ cũng thế.”
Tôi đang nói dối, tất nhiên. Nhưng không phải về mẹ - mà là tôi. Cái viễn cảnh phải chuyển đi khiến cho tôi lo lắng như một con ngốc. Thậm chí đến giờ tôi cũng không rõ mọi việc sẽ suôn sẻ. Việc với Jesse ấy mà. Tôi muốn nói là, bố tôi đang ở đâu chứ? Sao bố không lên nhà cho tên đó một trận? Jesse dù sao cũng là một tên con trai, ở trong phòng của tôi, và các ông bố thường rất ghét những chuyện như vậy…
Nhưng ma thì khác. Chúng chả bao giờ loanh quanh khi bạn thực sự cần chúng. Ngay cả khi đấy là bố bạn đi chăng nữa.
Chắc tôi đã để đầu óc lang thang ít lâu, vì điều tiếp theo tôi biết là cái lò vi sóng báo hiệu. Tôi lấy bỏng ngô và mở túi ra. Đang đổ bỏng vào trong cái bát gỗ to thì mẹ vào bếp và bật cái đèn phía trên đầu lên.
“Vâng ạ,” tôi nói. Tôi cho vài miếng ngô rang vào miệng. “Ngu Ng- à, Brad và con sẽ xem phim.”
“Con chắc chứ?” Mẹ vẫn nhìn tôi nghi ngờ. “Con chắc là mình không có vấn đề gì chứ?”
“Vâng, con ổn mà. Con chỉ mệt thôi.”
Trông mẹ có vẻ nhẹ nhõm. “Ừ phải.Chắc là con mệt do chênh lệch múi giờ. Nhưng… ừm… chỉ có điều là trông con không vui khi lần đầu tiên con bước vào phòng mình. Mẹ biết cái giường phủ rèm là hơi quá, nhưng mẹ không cưỡng lại được.”
Tôi nhai bỏng, hoàn toàn chẳng xa lạ gì với những chuyện kiểu thế. “Cái giường đẹp mà mẹ -cả căn phòng nữa.” Tôi nói.
Mẹ tôi thật sự nhẹ nhõm hẳn, tôi cảm thấy thương mẹ. Mẹ là người phụ nữ tốt bụng và không đáng có một đứa con gái là người giao tiếp với hồn ma.
Tôi biết từ trước là mẹ có phần thất vọng về tôi. Khi tôi 14 tuổi, mẹ cho tôi một đường dây điện thoại riêng, nghĩ rằng nếu quá nhiều bạn trai gọi điện cho tôi thì các bạn của mẹ sẽ không gọi được. Bạn có thể tưởng tượng mẹ thất vọng đến thế nào khi chả có ai ngoài Gina gọi cho tôi bằng đường dây riêng, mà chỉ để kể lại các phi vụ hẹn hò của cô nàng. Tôi đã nói rồi, bọn con trai ở khu tôi ở chả bao giờ có hứng mời tôi đi chơi cả.
Người mẹ đáng thương của tôi. Mẹ luôn muốn có một đứa con gái ngoan ngoãn, bình thường. Thế mà thay vào đấy, mẹ lại có tôi.
“Cưng à,” mẹ nói. “Con không muốn thay quần áo sao? Con mặc bộ này suốt từ 6 giờ sáng đến giờ đúng không?”
Mẹ hỏi câu này đúng vào lúc Tiến Sỹ đi vào để dán thêm keo lên các điện cực. Chắc tôi sẽ không dám nói thế này đâu: Mẹ à, nói thật nhé, con cũng muốn thay lắm, nhưng con không khoái làm vậy trước mặt hồn ma của một tên cao bồi đang sống trong phòng con đâu.
Thay vào đó, tôi nhún vai và nói như không có gì: “Vâng, lát con sẽ thay.”
“Con chắc chắn không cần người dỡ đồ giúp đấy chứ? Mẹ cảm thấy thật tệ. Lẽ ra mẹ -”
“Không, con không cần giúp, lát nữa con sẽ dỡ.” Tôi ngó Tiến Sỹ đang lục lọi cái ngăn kéo. “Con đi đây. Con không muốn lỡ mất phần đầu phim.” Tôi nói.
Tất nhiên, rốt cuộc thì tôi lỡ mất phần mở đầu của phần giữa, và cả phần kết bộ phim. Tôi lăn ra ngủ trên chiếc tràng kỷ, mãi cho đến khi dượng Andy lay nhẹ vai tôi lúc 11 giờ.
“Lên ngủ đi nhóc,” dượng nói. “Dượng nghĩ đã đến lúc thừa nhận là con bị hạ đo ván rồi đấy. Đừng lo, Brad sẽ không nói cho ai biết đâu.”
Tôi lảo đảo ngồi dậy, đi lên phòng. Tôi tiến ngay về phía chiếc cửa sổ để ngỏ. Tôi nhẹ cả người vì Jesse không còn chắn lối. Phải. Cuối cùng thì tôi cũng giữ được căn phòng.
Tôi vớ lấy cái túi vải đi vào phòng tắm, tắm một cái và, cực kỳ cảnh giác - tôi đâu biết chắc liệu Jesse có nghe lời và biến đi hay không – thay bộ đồ ngủ. Bước ra khỏi phòng tắm, tôi thấy tỉnh táo hơn chút ít. Tôi nhìn quanh, cảm nhận cơn gió hiu hiu, ngửi mùi biển mằn mặn. Không giống như hồi còn ở Brooklyn, nơi lúc nào tai con người ta cũng bị tra tấn bởi còi hú và báo động ô tô, ở đây thật tĩnh lặng, âm thanh duy nhất là tiếng cú rúc thảng hoặc.
Tôi ngạc nhiên nhận ra rằng mình hoàn toàn chỉ có một mình. Thực sự một mình. Không có con ma nào lảng vảng xung quanh. Đây chính là cái điều tôi hằng mong muốn.
Tôi leo lên giường, vỗ tay để tắt đèn. Rồi tôi cuộn mình thật sâu bên dưới tấm chăn mới cứng.
Ngay trước khi giấc ngủ kéo đến, tôi nghĩ mình nghe thấy cái gì đó ngoài tiếng cú rúc. Nghe như tiếng ai đó hát Ôi Susannah, giờ đây em còn khóc vì tôi nữa không, vì tôi đến từ Alabama với cây đàn banjo.
Nhưng tôi tin chắc rằng mình chỉ tưởng tượng ra vậy thôi.
Ngôi trường Công giáo Juniperro Serra, dạy từ mẫu giáo đến lớp 12, được chuyển thành trường cho cả học sinh nam và nữ nào những năm 80 và gần đây đã bỏ yêu cầu mặc đồng phục nghiêm ngặt, may phước cho tôi. Đồng phục vốn là màu xanh đậm và trắng, không phải màu tôi thích. Mau mắn thay, kiểu đồng phục ấy đã trở nên quá phổ biến đến nỗi họ bỏ luôn, cũng như việc trường chỉ dành cho nam sinh trước đây, và mặc dù không được mặc quần jeans, học sinh có thể mặc bất cứ thứ gì chúng thích. Và vì muốn xài hết số quần áo thiết kế mua ở vô số các cửa hàng giảm giá ở New Jersey cùng với Gina đóng vai trò nhà tư vấn thời trang, điều này làm tôi rất khoái.
Những thứ liên quan đến đạo Thiên chúa mới thật sự là vấn đề. Không hẳn đến mức là một điều phiền phức. Mẹ tôi chưa bao giờ tốn công ép tôi theo bất kỳ tôn giáo nào. Bố tôi là tín đồ Do thái không tích cực, mẹ tôi theo đạo Cơ đốc. Tôn giáo chưa bao giờ quan trọng đối với bố mẹ tôi, và chẳng cần phải nói, nó chỉ làm tôi rối trí mà thôi. Bạn hẳn phải cho tôi là đứa hiểu thấu về tôn giáo hơn ai hết, nhưng thực ra, tôi chẳng biết tí ti gì về chuyện xảy ra với những con ma mình tống khứ đi đâu đó sau khi chết. Tất cả những gì tôi biết, khi tống chúng đi rồi, là chúng không quay về nữa. Không bao giờ. Chấm hết.
Vì thế khi mẹ và tôi đến phòng hành chính của Trường Truyền Giáo vào ngày thứ Hai sau khi chuyển đến California đầy nắng, tôi hơi lùi lại khi đối diện với tượng chúa Jesus bị đóng đinh trên thánh giá cao 1m80, phía sau bàn làm việc.
Lẽ ra tôi không nên ngạc nhiên đến thế. Mẹ tôi đã chỉ cho tôi ngôi trường ấy từ phòng tôi khi giúp tôi dỡ đồ vào buổi sáng Chủ Nhật. “Con thấy mái vòm kia không? Trường Truyền Giáo đấy. Cái mái vòm ấy che phía trên nhà nguyện.” Mẹ nói.
Tiến Sỹ cứ quanh quẩn khắp nơi – tôi thấy lúc nào thằng nhóc chả vậy – và chúi mũi vào một trong những tài liệu của nó, lần này là về những thầy tu dòng thánh Francis, thành viên của hội Thiên Chúa giáo La mã tuân theo lời răn của thánh Francis chuẩn y năm 1209. Theo như Tiến Sỹ thì Cha Junipero Serra, một thầy tu Francis, là một nhân vật lịch sử bị nhìn nhận một cách hoàn toàn sai lầm. Là một người có công lớn đối với nhà thờ Công giáo nhưng gây tranh cãi, một thời ông từng được coi như thánh sống, nhưng như Tiến Sỹ nói, thổ dân Mỹ đã coi chuyện ông chuyển đến như là “sự công khai ủng hộ chính sách khai thác thuộc địa của người Tây Ban Nha. Cho dù Junipero Serra được biết đến là người đã đấu tranh cho quyền sở hữu đất đai và tự do trong kinh tế của những người bản xứ cải đạo, ông ta hoàn toàn ủng hộ việc không cho họ có quyền tự trị, là kẻ trung thành với những kiểu hình phạt tra tấn về thể xác, đã xin chính quyền Tây Ban Nha cho cái quyền được tra tấn những người da đỏ.”
Khi Tiến Sỹ kết thúc bài giảng, tôi chỉ nhìn nó và nói: “Em có trí nhớ thiên về hình ảnh đấy nhỉ?” Thằng nhóc chẳng hiểu tôi nói gì cả.
“À,” nó nói, “biết về lịch sử nơi mình đang sống cũng tốt.”
Tôi nhớ chuyện này để tham khảo về sau. Có thể tôi sẽ cần đến Tiến Sỹ trong trường hợp Jesse lại hiện ra lần nữa.
Giờ đây, khi đứng trong văn phòng mát lạnh của toà nhà cổ mà Junipero Serra đã cho xây dựng để cải thiện dân bản xứ trong vùng, tôi băn khoăn tự hỏi rồi mình sẽ gặp bao nhiêu hồn ma. Cái người tên Serra này hẳn đã gây thù chuốc oán với kha khá thổ dân ở đây - đặc biệt là với thứ gọi là những kiểu hình phạt tra tấn về thể xác – và tôi không nghi ngờ gì chuyện mình rồi sẽ phải gặp tất cả bọn họ.
Rồi khi mẹ và tôi đi trên hành lang rộng dẫn ra cái sân trong của Trường, tôi chỉ toàn gặp những người dân vùng này. Có vài du khách đang chụp ảnh cái thác nước ấn tượng, một người làm vườn cắm cúi quanh gốc một cây cọ - thậm chí ở ngôi trường mới của tôi cũng có cọ cơ đấy - một vị linh mục trầm tư dạo bước trên lối đi có mái che giữa hai toà nhà. Nơi này thật xinh đẹp và bình yên - nhất là đối với một toà nhà cổ kính đã từng phải chứng kiến quá nhiều cái chết như thế.
Tôi không thể nào hiểu nổi. Những con ma biến đi đâu hết rồi?
Cũng có thể chúng sợ phải loanh quanh ở nơi này. Tôi cũng thấy hơi rợn khi nhìn lên cây thánh giá đó. Tôi muốn nói là, tôi chả có ý gì chống lại tôn giáo hết, nhưng có cần thiết phải dựng cả một cái thánh giá với những vết thương và gì gì nữa trông như thật như thế không nhỉ?
Hiển nhiên tôi không phải là đứa duy nhất có ý nghĩ đó, có một tên con trai đang ngồi thùm thụp trong chiếc tràng kỷ gần cái mà người ta bảo mẹ và tôi ngồi chờ, nó liếc theo hướng tôi nhìn và nói: “Người sẽ nhỏ những giọt huyết lệ nếu người con gái nào tốt nghiệp ra trường vẫn còn là một thiếu nữ đồng trinh.”
Tôi không thể không bật ra tiếng cười khan. Mẹ liếc tôi một cái. Nhân viên văn thư, một người phụ nữ trung niên có dáng người đầy đặn, trông như thể có điều gì đó xúc phạm đến bà ghê gớm, đảo tròn con mắt, mệt mỏi nói: “Ôi, lại Adam.”
Adam, tên con trai tầm tuổi tôi trông khá ổn, nhìn tôi với vẻ hoàn toàn nghiêm túc. “Thật đấy,” cậu ta nói. “Chuyện xảy ra vào năm trước. Với chị gái mình.” Cậu ta hạ giọng một cách đầy ẩn ý. “Chị ấy đã được chọn.”
Tôi lại cười, và mẹ cau mày nhìn tôi. Mẹ đã bỏ ra gần hết ngày hôm qua giải thích cho tôi hiểu rằng thật sự rất, rất khó để thuyết phục trường nhận tôi vào học, nhất là khi mẹ chả đưa ra được bằng chứng nào chứng tỏ tôi đã được làm lễ rửa tội cả. Rốt cuộc thì họ nhận tôi chỉ vì dượng Andy có 3 đứa con trai cũng học ở đây. Tôi tưởng tượng ra một khoản hiến tặng khá lớn cũng góp phần trong việc tôi được nhận, nhưng mẹ không nói cho tôi về điều đó. Tât cả những gì mẹ nói là tôi phải cư xử cho đúng đắn, đừng có quăng quật bất cứ thứ gì ra ngoài cửa sổ - dù tôi nhắc cho mẹ nhớ là vụ đó không phải do lỗi của tôi. Tôi đã oánh nhau với một con ma mới hung bạo, con ma dám không nghe lời, không chịu từ bỏ vụ ám tủ để đồ của bọn con gái ở trường cũ của tôi. Cái vụ ném con ma đó qua cửa sổ tất nhiên đã làm hắn phải nghe lời, buộc hắn sau này phải biết đường mà cư xử cho đàng hoàng tử tế.
Dĩ nhiên tôi đã nói với mẹ là tôi đang tập oánh tennis trong nhà và cái vợt bay khỏi tay tôi - một câu chuyện bốc phét đặc biệt không thể tin được, vì chưa ai tìm thấy cái vợt tennis của tôi hết.
Khi tôi đang ôn lại kỷ niệm đau thương ấy thì cánh cửa gỗ nặng nề mở ra, một vị linh mục bước ra và nói: “Chào chị Ackerman, hân hạnh được gặp lại chị. Đây chắc hẳn là cháu Susannah Simon. Mời vào.” Ông dẫn chúng tôi vào văn phòng, ngừng lại và nói với tên con trai đang ngồi trên tràng kỷ: “Ôi, không, trò McTavish. Không phải vào ngày đầu tiên của học kỳ mới thế này chứ.”
Adam nhún vai. “Biết làm thế nào được ạ? Mụ ấy ghét con.”
“Cẩn thận, đừng có gọi sơ Ernestine là mụ, cậu McTavish. Lát nữa ta sẽ nói chuyện với trò, sau khi xong việc với 2 quý cô đây.”
Chúng tôi bước vào, và thầy hiệu trưởng, Cha Dominic – đấy là tên ông ấy – ngồi xuống chuyện trò với chúng tôi một lát, hỏi xem tôi có thích California không. Tôi nói có thích, đặc biệt là biển. Gia đình tôi đã dành gần hết ngày trên bãi biển sau khi tôi dỡ đồ xong. Tôi đã tìm thấy cặp kính râm, và dù nước lạnh không bơi được, tôi đã có một thời gian tuyệt vời chỉ nằm ườn trên bãi cát ngắm sóng biển. Sóng còn to hơn cả trong phim Baywatch, và ông Tiến Sỹ suốt cả chiều giải thích cho tôi chuyện đó. Giờ tôi quên béng rồi, vì ánh mặt trời làm cho tôi mê mẩn và tôi hầu như chẳng nghe gì hết. Tôi bắt đầu yêu biển, yêu hương vị biển, những lớp tảo trên mép nước, cảm nhận bờ cát mát lạnh lùa qua ngón chân, vị mặn của muối còn vương trên da khi tôi trở về nhà. Ở Carmel có lẽ không có quán Bagel Bob nào hết, nhưng chắc chắn là cũng đâu có bãi biển nào ở Manhattan chứ.
Cha Dominic thực thà bảy tỏ rằng ông hi vọng tôi sẽ vui khi học ở Trường Truyền Giáo, và tiếp tục nói rằng cho dù tôi không theo đạo Thiên chúa, tôi cũng không nên cảm thấy mình không được phép đến lễ Mass. Dĩ nhiên, có những Ngày Lễ Thánh Bắt Buộc(*), ngày mà những học sinh theo đạo Thiên chúa tạm gác bài học qua một bên và đến nhà thờ. Tôi có thể tham gia cùng, hoặc ở lại lớp học không một bóng người, tuỳ tôi chọn.
Tôi nghĩ điều này thật buồn cười, nhưng tôi cố gắng kìm giữ lại. Cha Dominic đã có tuổi nhưng còn nhanh nhẹn, và tôi thấy ông cũng khá dễ coi trong bộ áo chùng cổ đen trắng - phải nói là ông đẹp so với cái tuổi 60. Tóc ông đã bạc trắng, đôi mắt xanh biếc, móng tay gọn gàng. Tôi không biết nhiều linh mục lắm, nhưng tôi nghĩ người này có lẽ cũng không đến nỗi nào, đặc biệt là khi ông không xử nặng tay tên con trai ngồi ngoài kia, kẻ đã dám gọi một bà xơ là mụ ta.
Sau khi Cha Dominic nói tôi nghe những trường hợp có thể bị đuổi học – bỏ học quá nhiều, buôn bán ma tuý trong trường, chuyện như cơm bữa – ông hỏi tôi có gì chưa rõ nữa không, tôi nói không. Ông bèn hỏi mẹ tôi còn gì cần hỏi nữa không, mẹ cũng không. Thế là ông đứng lên và nói: “Vậy thì tốt rồi. Tôi xin tạm biệt chị, chị Ackerman, và xin dẫn cháu Susannah vào lớp. Được chứ, Susannah?”
Tôi nghĩ việc một ông hiệu trưởng, mà hẳn phải có khối việc phải làm, tốn thời gian dẫn tôi vào lớp thì có vẻ khá kì quặc, nhưng tôi không nói gì hết. Tôi chỉ lấy áo khoác – cái áo len Esprit kiểu quân đội màu đen, hàng độc (mẹ sẽ không cho tôi mặc đồ da vào ngày đầu tiên đi học) – đứng chờ trong khi mẹ bắt tay ông ấy. Mẹ hôn tạm biệt tôi, nhắc tôi tìm Ngái Ngủ lúc 3 giờ vì anh ta có nhiệm vụ lái xe đưa tôi về - chỉ có mẹ không gọi anh ta là Ngái Ngủ. Một lần nữa cái việc thiếu nghiêm trọng phương tiện giao thông công cộng lại làm cho tôi phải lê xác đến trường và về nhà cùng mấy anh em con dượng.
Rồi mẹ ra về, và Cha Dominic cùng tôi băng qua sân, sau khi bảo Adam ngồi chờ ông.
“Không vấn đề, thưa cha,” Adam đáp. Cậu ta liếc tôi sau lưng Cha. Chẳng có mấy tên con trai cùng tuổi thèm liếc đến tôi. Hi vọng cậu ta học cùng lớp tôi. Cuối cùng thì mong ước của mẹ rằng tôi sẽ hoà nhập hơn với cuộc sống xung quanh cũng có cơ trở thành hiện thực.
Trong khi đi, Cha Dominic nói cho tôi biết chút ít về toà nhà này – hay những toà nhà này, như thế mới đúng. Một dãy những khối nhà có tường dày xây bằng gạch nung nối với nhau bằng lối đi có mái thấp, giữa những toà nhà ấy là một cái sân rất đẹp trồng đầy cọ, có vòi phun nước và một bức tượng Cha Serra bằng đồng cùng với những phụ nữ da đỏ với những chiếc túi địu con đằng sau lưng, quỳ dưới chân ông ta. Phía bên kia lối đi là những chiếc ghế đá cho khách nghỉ chân khi ngắm khung cảnh tĩnh lặng đẹp tuyệt vời quanh sân; cửa ra vào của các lớp học và các hộc tủ để đồ bằng thép được ốp ngay vào tường gạch. Cha Dominic nói một trong những ngăn tủ ấy giờ là của tôi, ông cũng chỉ cho tôi ngăn tủ của chính ông. Liệu tôi có muốn cất áo khoác đi không nhỉ?
Tôi đã rất ngạc nhiên khi thức dậy vào buổi sáng Chủ Nhật run rẩy toàn thân vì lạnh. Tôi tung chăn ra và đóng sầm cửa sổ lại, chán ngán nhìn màn sương bao phủ khắp thung lũng, toàn bộ khung cảnh mở ra vịnh đều trở nên tối tăm. Tôi chắc rằng cơn bão nhiệt đới khủng khiếp nào đó đã đổ bộ vào, nhưng Tiến Sỹ khẽ khàng giải thích rằng sương mù vào sáng sớm là chuyện thường ngày ở vùng Tây Bắc này, và rằng vùng Pacifico – tiếng Tây Ban Nha, nghĩa là thờ ơ – quá nổi tiếng bởi ở đây chẳng có mấy bão bùng. Tiến Sỹ trấn an tôi rằng đến trưa sương sẽ tan hết, rồi sau đó trời lại nóng như mấy ngày trước thôi.
Thằng nhóc nói đúng. Lúc tôi từ biển về nhà, rám nắng và vui vẻ, phòng tôi lại nóng như lò thiêu vậy, và tôi lại mở tung những cánh cửa sổ - thấy rằng lúc tỉnh dậy vào buổi sáng thì nó đã được đóng lại rồi, tôi cứ nghĩ người mẹ thân yêu của mình đã lo lắng cho mình.
Ít nhất, tôi cũng hi vọng mẹ tôi đã làm vậy. Giờ nghĩ lại… nhưng không, tôi không gặp lại Jesse sau ngày chuyển đến đây. Chắc chắn là mẹ tôi đã đóng chúng lại.
Dù sao đi nữa, khi bước ra ngoài, trèo lên xe của mẹ tôi lại thấy lạnh, vì thế mới phải mặc chiếc áo khoác len ấy.
Cha Dominic bảo ngăn tủ của tôi là ngăn số 273, và Cha hài lòng nhìn tôi tự xem xét nó, thong dong phía sau tôi, vui vẻ ngắm nhìn những thanh xà của lối đi, nơi có những gia đình chim én làm tổ hàng năm. Ông có vẻ khá thích các loài chim – thật ra là thích nhất trong số các loài động vật, vì có một câu ông ấy hỏi tôi là làm thế nào mà tôi quen được với Max, con chó của nhà Ackerman – không giấu diếm vẻ chế nhạo khi dượng Andy cứ lặp đi lặp lại rằng những khúc gỗ trên lối đi sẽ phải đem thay, nhờ vào công đức của bọn chim én và chất thải của chúng.
268, 269, 270. Tôi đi dọc hành lang rộng mở, đọc những con số trên những cánh cửa tủ màu be. Khác với những ngăn tủ trường tôi khi còn ở Brooklyn, tủ để đồ ở đây không hề bị vẽ bậy, không lõm hay bị dính đầy những sticker của các ban nhạc rock. Tôi đoán chắc học sinh ở West Coast tự hào về bộ mặt của trường chúng hơn bất kỳ đứa học sinh Mỹ nào.
271, 272. Tôi đứng khựng lại.
Trước ngăn tủ 273 đứng chình ình một con ma.
Không phải Jesse. Đó là một đứa con gái, ăn mặc rất giống tôi, chỉ khác là tóc vàng óng chứ không nâu như tóc tôi. Trên mặt cô ta hiện hữu một cái nhìn cực kỳ khó chịu.
“Cô,” cô ta nói với tôi, “nhìn cái gì?” Rồi, cô ta hỏi ai đó đứng phía sau tôi: “Đây là đứa người ta thế vào chỗ tôi chứ gì? Biết ngay mà.”
Được rồi, thú nhận nhé. Tôi phát hoảng lên. Quay lại phía sau, tôi há hốc miệng nhìn Cha Dominic đang liếc nhìn đầy dò hỏi.
“À,” ông nói khi nhìn vào bộ mặt tôi, “ta chắc vậy.”