Ghi chú đến thành viên
Go Back   4vn.eu > Kiến thức > Thế Giới Muôn Mầu > Sách - Tài liệu > Tủ sách Lịch sử - Địa lý > Lịch Sử
Gởi Ðề Tài Mới Trả lời
 
Ðiều Chỉnh
  #1  
Old 25-04-2008, 11:28 PM
donkihotexuthanh's Avatar
donkihotexuthanh donkihotexuthanh is offline
Phá Quan Hạ Sơn
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 293
Thời gian online: 0 giây
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 11 Times in 5 Posts
Anh hùng Phạm Tuân kể về chuyến bay lịch sử

Kỷ niệm 90 năm Cách mạng tháng Mười Nga (7/11/1917 – 7/11/2007):

Anh hùng Phạm Tuân kể về chuyến bay lịch sử

TP - Cách đây khoảng 1/4 thế kỷ chàng trai Phạm Tuân đã lập nên hai kỷ lục không bao giờ bị phá: Người lái máy bay chiến đấu đầu tiên bắn rơi B52 và cũng là người châu Á đầu tiên bay vào vũ trụ.


Trung tướng Phạm Tuân đang kể chuyện đời mình
Phía sau hai kỷ lục khiến cả thế giới ngỡ ngàng ấy là những nỗ lực phi thường của Phạm Tuân cùng với công lao của đất nước Liên Xô, mà giờ đây nhắc lại hai từ đó, biết bao người vẫn bồi hồi xúc động.

Nhân kỷ niệm cách mạng tháng Mười Nga, Trung tướng Phạm Tuân đã kể lại quãng đời đầy sự kiện và cũng đầy ắp kỷ niệm với xứ sở bạch dương…

Kỳ I: Thi “trượt” thợ máy lên làm phi công

Ước mơ của cậu bé làng Quốc Tuấn

Người châu Á đầu tiên bay vào vũ trụ ấy sinh ra tại một làng nhỏ mang tên Quốc Tuấn thuộc tỉnh Thái Bình, trong một gia đình nông dân.

Tin tức về chuyến bay đầu tiên của con người vào vũ trụ vẫn được lan đi nhanh chóng với tốc độ âm thanh đến tất cả các vĩ tuyến và kinh tuyến trên thế giới. Tin tức ấy đến với ngôi làng Quốc Tuấn của Phạm Tuân qua đài phát thanh. Thời kỳ đó, chưa có vô tuyến truyền hình, và báo chí cũng chẳng mấy khi đến được với làng Quốc Tuấn.

Những người biết chữ, nói chung là những người lớn đã giải thích cho những trẻ em nông thôn như Phạm Tuân biết rằng ở nước Liên Xô anh em đã có một con người dũng cảm bay lên cao hơn những tầng mây, rất cao và rất xa.

Trước đó, ở góc sân của mình, chú bé Phạm Tuân đã nhìn thấy những chiếc máy bay bay qua khoảng trời vùng quê. Bay ở phía dưới những lớp mây. Những đôi mắt trẻ thơ trầm trồ nhìn theo con chim sắt khổng lồ và kỳ diệu ấy mà không hình dung nổi về khả năng có thể bay cao hơn thế.

Vả lại, ở trường học các thầy giáo làng đã giải thích rằng Trái đất có hình tròn và rất lớn. Bằng cách nào mà có thể dùng máy bay – trên đài phát thanh người ta gọi là tên lửa - bay vòng quanh trái đất chỉ trong vòng 90 phút?

Đối với Phạm Tuân, ngày ấy mới 14 tuổi, thì ý nghĩa lịch sử to lớn của sự kiện đó đã được minh chứng qua bài phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đài phát thanh.

Người nói: Liên Xô đã mở đầu công tác to lớn trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học về khoảng không vũ trụ. Tôi tin rằng không xa nữa sẽ đến giờ phút có một đại diện của thanh niên Việt Nam bay vào vũ trụ.

Phạm Tuân ghi nhớ mãi những lời Chủ tịch Hồ Chí Minh nhưng không hề nghĩ rằng đến một ngày nào đó một chàng trai chất phác như mình lại trở thành người đại diện ấy.

Nhưng sự kiện chuyến bay của con người đầu tiên vào vũ trụ được cảm nhận một cách đặc biệt nhạy cảm vào những ngày đầu của cuộc chiến tranh chống xâm lược Mỹ ở Việt Nam.

Khi ấy cũng là những phi công, nhưng là phi công Mỹ, từ trên trời cao- khoảng trời chứa đựng đầy mơ ước và tưởng tượng của những chú bé như Phạm Tuân - đã thả hàng loạt bom chết chóc xuống các thành phố và xóm làng Việt Nam làm dâng lên làn sóng căm thù của người dân.

Sức mạnh của lòng căm thù ấy là vô hạn. Những người đến tuổi trưởng thành đã nhất loạt thẳng tiến ra trận tuyến tiền phương. Nhưng lá đơn tình nguyện của những cậu học trò lớp 10 như Phạm Tuân lúc ấy đã nhận được những câu trả lời đại thể như sau:

“Sự đóng góp của các bạn vào tư thế sẵn sàng chiến đấu của đất nước - đó là công việc học tập ở trường. Các bạn sẽ đứng trong hàng ngũ các lực lượng vũ trang bảo vệ đất nước khi nào trở thành người có kỹ năng, có kiến thức và nắm vững các phương tiện hiện đại”.

Vì vậy, mãi một năm sau, khi đã tốt nghiệp lớp 10, Phạm Tuân mới được gia nhập quân đội.

Phạm Tuân kể lại cái ngày mà cho đến bây giờ ông vẫn nhớ như in: “Khi gặp cán bộ quân sự, tôi đã đề nghị điều tôi đến phục vụ trong không quân. Trong lòng tôi có nỗi đau và tuyệt vọng vì sự bất lực của nhiều đồng bào cùng làng xóm trước những trận ném bom của Mỹ mà chúng không bị trừng phạt.

Khi được biết mình chỉ có thể học để trở thành thợ máy sửa chữa máy bay thì tôi vui mừng đồng ý ngay. Trong đầu tôi chỉ có một ý nghĩ - dù chỉ là thợ máy, kỹ thuật viên, nhưng phục vụ trong không quân là được.

Tôi sẽ được ở bên cạnh những người có thể trừng trị bọn Mỹ đã tiến hành những vụ đánh phá nhằm vào những người dân vô tội trên đất nước mình”.

“Trượt” thợ máy lên làm phi công

Phạm Tuân đến nước Nga đúng lúc mùa thu đang chuyển dần sang đông. Thiên nhiên như bày ra như bức tranh “Mùa thu vàng” của Levitan, những chiếc lá đồng loạt chuyển sang màu vàng la đà rơi xuống .


Phạm Tuân trên chiếc máy bay chiến đấu
Nhưng chàng trai ấy chẳng có nhiều thời gian mà ngoạn cảnh vì phải bắt tay vào học tiếng Nga còn hết sức mới mẻ. Nhờ sự quan tâm đầy tình người của các bạn Liên Xô cộng với nỗ lực của bản thân, việc học tiếng Nga cũng trở nên trôi chảy.

Học nghiệp vụ cũng diễn ra dần dần. Tuy nhiên, chẳng bao lâu Phạm Tuân đã toàn tâm toàn ý hướng tới sân bay, nơi có tiếng gầm rít của động cơ những chiếc phản lực MIG do những người bạn đồng niên điều khiển. Trong đó có những người bạn đến từ Việt Nam.

Phạm Tuân khao khát được có mặt bên họ. Và số phận đã mỉm cười với anh. Một số học viên Việt Nam không theo nổi chương trình học hoặc sức khỏe kém nên bắt đầu bị sàng lọc.

Và nguồn bổ sung cho các học viên phi công có thể là các học viên thợ máy. Chàng trai đến từ làng Quốc Tuấn là một trong số mười người gặp vận may ấy. “Người ta trượt phi công xuống làm thợ máy, còn tôi “trượt” thợ máy lên làm phi công”, Phạm Tuân nhớ lại.

Ước mơ cháy bỏng được trở thành phi công bay trên bầu trời với chiếc máy bay chiến đấu của Phạm Tuân đã được nhiều người thầy, người bạn Liên Xô “chắp cánh”. Đặc biệt là vị huấn luyện viên đầu tiên mà các học viên đã gọi bằng cái tên đơn giản: Misa.

Thế rồi trung tâm huấn luyện bay đã ở lại phía sau. Phạm Tuân cùng các học viên được tập trên các loại máy bay kiểu Iak -18, UTI - MIG 15 và bay trên loại máy bay MIG-17.

Trong số những người tốt nghiệp đó, có 10 phi công đạt trình độ kỹ thuật khá giỏi, được huấn luyện bay ban đêm. Phạm Tuân là phi công tiêm kích đầu tiên được bay đêm trên MIG -17 ở Liên Xô.

Ra đi để học làm thợ máy nhưng khi về nước Phạm Tuân đã là một phi công được đào tạo cơ bản. Nhưng ở Việt Nam anh và các bạn đồng môn lại tiếp tục được đào tạo lại để điều khiển những chiếc máy bay MIG -21, một trong những loại máy bay tiêm kích hoàn hảo nhất thế giới.

Và một lần nữa những huấn luyện viên Liên Xô lại tận tình hướng dẫn. Họ làm công việc ấy không chỉ trên sa bàn mà còn bên cạnh những phi công Việt Nam trong các chuyến bay thật.

Cho đến bây giờ Phạm Tuân vẫn tin tưởng sâu sắc rằng các phi công không thể có được lớp học bay nào tốt hơn thế ở bất cứ các trung tâm huấn luyện bay và sân bay thử nào khác.

Lúc ấy, B52 của đế quốc Mỹ được coi là pháo đài bay bất khả xâm phạm. Nhưng trong một lần xuất kích, phi công Vũ Đình Rạng đã vượt qua được vành đai phòng thủ dày đặc của máy bay tiêm kích Mỹ để tấn công B52.

Chiếc pháo đài bay lừng danh bị trọng thương vội trút bom ở rừng rậm, buộc phải hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay gần nhất ở Thái Lan. Điều đó khiến người ta đã nhận ra rằng có thể làm được điều không thể.

Bộ Chỉ huy Sư đoàn của Phạm Tuân, đứng đầu là Đại tá Trần Hanh - Anh hùng LLVT, đã bắt tay đào tạo một nhóm phi công để thực hiện nhiệm vụ đặc biệt quan trọng.

Họ phân tích chiến thuật của các máy bay ném bom Mỹ và của các máy bay tiêm kích yểm trợ ban ngày và ban đêm, trong những điều kiện thời tiết khác nhau. Phạm Tuân cùng các đồng chí trong đội bay đã nhiều lần cất cánh đi làm những nhiệm vụ như vậy, nhưng chưa gặp thời cơ thuận lợi để bắn hạ B52.

Lần thoát chết khó tin

Nhờ có thiết bị ra đa tốt đặt trên các máy bay trinh sát nên phía Mỹ thường xuyên săn tìm được các địa điểm bố trí máy bay của ta. Ngày 18/12/1972, máy bay Mỹ bất ngờ tấn công sân bay của ta được bố trí khá xa và ngụy trang tốt.

Phạm Tuân là phi công đầu tiên cất cánh lên bầu trời sau khi có báo động. Chẳng mấy chốc, máy bay Mỹ đã phá hủy đường băng cất cánh, đài chỉ huy. Liên lạc bị cắt.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, nhiên liệu trên máy bay sắp cạn kiệt do vậy cần hạ cánh khẩn cấp. Phạm Tuân đã quyết định vẫn hạ cánh ở sân bay vừa bị đánh bom.

Quyết định này được báo lên đài chỉ huy binh chủng không quân. Và được phép. Đêm tối, không hề có đèn pha trên sân bay, Phạm Tuân hạ cánh chỉ nhờ ánh sáng phát ra từ chiếc đèn pha máy bay.

Khi máy bay vừa chạm đất thì lập tức bị tụt xuống hố bom. Tốc độ hạ cánh của MIG - 21 khá cao và chiếc máy bay đã lộn nhào, rồi trượt đi khoảng 300 mét.

Bụng máy bay hướng lên trời và quay trở lại 180 độ. Chiếc máy bay gần như đã bị phá hủy. May mắn là nó nhanh chóng dừng lại và không bốc cháy.

Phạm Tuân thoát ra khỏi buồng lái đã hư hỏng hoàn toàn. Sáng hôm sau, anh thấy đường băng cất cánh giống như bề mặt của mặt Trăng vẫn từng được miêu tả trong phim viễn tưởng, hết hố bom này đến hố bom khác.

Anh đã thoát chết nhờ một phép màu nào đó. Nhưng sau đó chính anh đã tự mình làm nên một phép màu gây chấn động dư luận khi bắn hạ pháo đài bay B52.

“Vào ngày 27/12/1972, số phận đã dành cho tôi một cơ hội…”, Phạm Tuân kể…

TP - Khi Phạm Tuân đến nhà tù Hỏa Lò gặp các phi công Mỹ đang bị giam giữ ở đây, những phi công ấy đã nói thật rằng cho đến giờ, khi đã nằm trong “khách sạn Hilton” họ vẫn chưa hiểu vì sao B52 lại bị bắn rơi?

MiC - 21 bắn hạ pháo đài bay

Đã hơn 30 năm trôi qua, nhưng Phạm Tuân vẫn nhớ cái ngày 27/12/1972 ấy như vừa mới xảy ra hôm qua: “Sau khi cất cánh trong đêm tối, tôi bay giữa các lớp mây, ở độ cao 500m. Những sĩ quan hướng dẫn đường bay có kinh nghiệm nhất như: đồng chí Tú, Chuyên, Hùng, các nhân viên theo dõi bản đồ đường bay, điều phối không lưu đã hướng dẫn đường bay cho tôi như thể cầm tay dẫn đường để tôi bay vào nơi cần thiết, thuận lợi nhất cho tấn công.

Họ biết cách dẫn đường cho tôi bay xuyên qua đội hình những “con ma” bay của Mỹ trong các tốp khác nhau để bảo vệ pháo đài bay ném bom. Tôi đã bình tĩnh và thực hiện chính xác mệnh lệnh, nhanh chóng lấy độ cao, quan sát nhanh màn hình của máy ngắm trên máy bay.

Khoảng cách đến mục tiêu là 10km. Đúng lúc đó tôi nhận được lệnh tấn công. Song tôi đã thực hiện mệnh lệnh đó chậm hơn nhiều, vì tôi muốn tiếp cận mục tiêu gần hơn nữa để ăn chắc.

Sau khi phóng 2 quả tên lửa, tôi cho máy bay bổ nhào xuống. Tôi đưa máy bay xuống độ cao an toàn và hạ cánh. Mấy giờ sau có tin thông báo chính thức không quân Việt Nam đã bắn rơi B52 của Mỹ và tôi nhận được bức điện đặc biệt của Bộ trưởng Quốc phòng trực tiếp chúc mừng về chiến thắng đó. Hồi ấy tôi đã nói và cả giờ đây tôi vẫn cho rằng “đó là chiến công chung của cả một tập thể anh hùng”.

Chiến thắng của Phạm Tuân đã là một “cú hích” góp phần làm nên “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”. Ngày 27/12/1972 trở thành ngày “Điện Biên Phủ trên không” của bộ đội không quân. Ngay đêm hôm sau phi công Vũ Xuân Thiều đã hạ thêm một pháo đài bay B52 nữa.

Chiếc máy bay MIG - 21 do phi công Phạm Tuân điều khiển giờ đây không còn nằm trong Bảo tàng Phòng không không quân nữa, mà đã được đưa sang Bảo tàng Lịch sử quân sự. Đó là một ngoại lệ dành cho chiếc máy bay đã làm nên một điều tưởng như không thể vào thời điểm đó.

Tôi đã nhìn rất lâu vào chiếc MIG -21 ở bảo tàng, nó nhỏ bé ngay cả khi ở giữa khoảng sân hẹp và sẽ càng nhỏ bé hơn khi bay trên trời, khi so sánh với pháo đài bay B52. MIG -21 không chiến với B52 có phải như “châu chấu đá xe”? Vậy mà MIG -21 nhỏ bé cùng với Phạm Tuân đã khiến cho niềm tự hào của không quân Mỹ cháy ra tro.

Khi Phạm Tuân đến nhà tù Hỏa Lò, thăm các phi công Mỹ đang bị giam giữ ở đây, những phi công ấy đã nói thật rằng cho đến giờ, khi đã nằm trong tù họ vẫn chưa hiểu vì sao B52 lại bị bắn rơi?

Đầu năm 1973, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng đã ký Sắc lệnh phong tặng Phạm Tuân danh hiệu Anh hùng LLVT. Phạm Tuân tiếp tục phục vụ tại Trung đoàn “Sao đỏ”. Anh đã thực hiện hơn 200 lần xuất kích trong 5 năm tham gia chiến đấu.

Từ đỗ “vớt” đến ứng cử viên số một

Vậy là đã 16 năm trôi qua kể từ cái ngày Iuri Gagarin bay vào vũ trụ và nói những lời đầy hình tượng mang ý nghĩa thời đại “Chúng ta đi nào”. Cậu bé làng Quốc Tuấn ngày đó giờ đã trở thành phi công bắn rơi B52 và vẫn chăm chú theo dõi mỗi lần phóng tàu vũ trụ của Liên Xô. Mỗi lần như thế, Phạm Tuân lại chợt nghĩ: biết đâu số phận một lần nữa sẽ ban tặng cho mình một “tấm vé may mắn”?

Điều đó có vẻ như trở nên thực tế hơn khi vào năm 1977, Phạm Tuân rất vui mừng đón nhận thông báo mình sẽ được gửi sang Học viện Không quân nổi tiếng mang tên Iuri Gagarin ở Liên Xô để học tập.

Hai năm học đầu tiên trôi qua, đến năm 1979, Liên Xô và Việt Nam đã ký thoả thuận “Intercosmos”. Bản thoả thuận đó quy định những điều kiện tuyển chọn bốn ứng cử viên du hành vũ trụ trong hàng ngũ quân nhân Việt Nam, để sau đó chọn lấy hai và đào tạo họ tại thành phố Ngôi Sao nổi tiếng.

Trong suốt hai tháng làm việc tại Việt Nam, các bác sỹ Liên Xô chỉ có thể tuyển lựa được ba ứng cử viên. Bộ Quốc phòng quyết định cần tuyển lựa ứng cử viên thứ tư trong số các học viên phi công đang theo học tại Matxcơva.

Phạm Tuân lọt vào danh sách ứng cử viên, nhưng “tình hình về tim” không tốt đã khiến anh không vượt qua được rào cản y học nghiêm ngặt. Thật nặng nề khi nhận ra điều đó. Tuy vậy tại Việt Nam vẫn chưa tuyển được ứng cử viên thứ tư. Thời gian thúc ép, thế là Phạm Tuân đỗ “vớt” trên quan điểm “đằng nào cũng loại, lấy vào cho đủ”.

Ứng cử viên số một đương nhiên phải là viên phi công có nhiều kinh nghiệm nhất của Việt Nam từng bắn rơi 9 máy bay Mỹ. Đó là phi công Nguyễn Văn Cốc. Thế nhưng trong lần kiểm tra cuối cùng của Ủy ban giám định y khoa, anh đã bị loại. Một lần nữa, Phạm Tuân lại “lội ngược dòng”, từ vị trí dự bị anh trở thành ứng cử viên số một cho chuyến bay vào vũ trụ.

Anh cảm thấy mình như đang ở trong mơ khi biết sẽ được tập luyện trong đội bay chính, cùng với nhân vật từng thực hiện hai chuyến bay xuất sắc vào vũ trụ, đó là phó chỉ huy thứ nhất Phòng quản lý đào tạo các phi công vũ trụ, hai lần Anh hùng Liên Xô, đại tá Vichto Vaxileêvich Gorơbatcô.

Hai người anh em Việt Nam - Liên Xô và những lần “thử lửa”

Có một quy định là hai nhà du hành vũ trụ cùng điều khiển tàu vũ trụ phải hợp nhau về tính cách. Kể cả khi mọi cái đều đã hoàn hảo, nhưng nếu tính cách không hợp thì phải chọn người khác. Và như có duyên với nhau từ kiếp trước, Phạm Tuân và Vichto Vaxileêvich Gorơbatcô mặc dù tuổi đời khác nhau, nhưng lại hợp nhau có khi còn hơn cả anh em sinh đôi. Đến mức tại những địa điểm khác nhau và trong những hoàn cảnh khác nhau, họ đều đưa ra những câu trả lời đại thể giống nhau!

Đối với Phạm Tuân và Vichto Vaxileêvich Gorơbatcô thì những trận ném bom của máy bay địch là những ký ức đầu tiên được nhớ kỹ nhất và khủng khiếp nhất. Ông Vichto còn nhớ rất rõ lần các máy bay của phát xít đã bắn giết một cách dã man đàn ngựa của ông. Còn Phạm Tuân thì đã chứng kiến cảnh ngôi làng bên cạnh bị huỷ diệt như thế nào sau trận bắn phá của máy bay Mỹ.

Và cũng từ những điều trông thấy ấy, họ đều ấp ủ khao khát được trở thành phi công, được bay và hiến dâng cả cuộc đời, tri thức, sức khỏe cho ước mơ đó.

Một phần tư thế kỷ đã trôi qua kể từ buổi gặp gỡ đầu tiên nhưng trong ký ức Phạm Tuân vẫn nhớ đến từng chi tiết nhỏ nhất trong công việc đồ sộ của chuyến bay vào vũ trụ. Công việc tập luyện của các đội bay vũ trụ Xô - Việt được bắt đầu từ những bài tập luyện trên biển. Phạm Tuân gần như lập tức đã yêu mặt biển phẳng lặng với màu xanh lơ, những con sóng cồn và chân trời thơ mộng chạy xa tít, tiếng chim hải âu kêu ầm ĩ, những chiếc thuyền đánh cá … gây cảm xúc ngây ngất của các con tàu.

Nhưng sau những giờ phút lãng mạn bên Biển Đen, chàng trai Việt Nam ấy đã trải qua những lần tập luyện trong các điều kiện hết sức đặc biệt, gần như đã vượt quá giới hạn sức chịu đựng của một con người bình thường.

Chẳng hạn như khi người ta thả buồng kín xuống nước, từ boong con tàu đang thực hiện các cuộc thử nghiệm. Thiết bị ấy nổi chòng chành trên mặt sóng như một chiếc phao khổng lồ, cạnh nó để đề phòng bất trắc - là những con thuyền cứu hộ vây quanh và có một chiếc tàu lặn trực bên cạnh.

Bây giờ các nhà du hành vũ trụ tiến hành các động tác cởi bỏ y phục chuyên dụng trong điều kiện bị lắc lư hết sức dữ dội. Sau khi hoàn tất động tác này, các nhà du hành vũ trụ mở nắp buồng kín và nhảy xuống nước. Áo cứu hộ nâng các nhà du hành vũ trụ nổi trên mặt nước. Họ bơi trên các con sóng, bắn pháo hiệu và châm đốt các ống nhả cột khói màu da cam lên trời.

Những cuộc thử nhiệm đã diễn ra nhiều ngày với các công việc dày đặc, từ sáng tinh mơ đến lúc mặt trời lặn. Tất cả nhằm làm sao để trong bản báo cáo về mấy chục cuộc thử nghiệm trước chuyến bay vào vũ trụ sẽ xuất hiện lời nhận xét: “Đã hoàn tất”.

Hai năm trời ròng rã tập luyện cho chuyến bay, Phạm Tuân và các đồng sự lúc nào cũng căng thẳng. Có những lúc, chỉ thực hiện một vài thao tác, mà họ đã bị sút cân.

“Tôi vào loại khoẻ nhưng cũng không khỏi mệt. Vất vả nhất là bài tập trên máy kiểm tra tiền đình. Cứ 3 giây cúi đầu lại 3 giây ngẩng đầu, liên tục trong 10 phút, tưởng không chịu nổi. Ai cũng phải gồng hết sức. Tập để thích ứng với mọi tình huống xảy ra, phần để quen, phần để không bao giờ có chữ “nếu”. Áp lực rất lớn”, Phạm Tuân kể.

Cuối cùng thì phần tổng kết những đợt kiểm tra và sát hạch cũng đến. Trong cuộc họp báo, trước câu hỏi của các nhà báo về những khó khăn trong quá trình đào tạo nhà du hành vũ trụ Việt Nam, ông Vichto Gorơbátcô đã trả lời không cần suy nghĩ: “Trong mọi công việc đều gặp khó khăn, nhất là đối với một công việc phức tạp như bay vào vũ trụ. Tuy nhiên, nhà du hành vũ trụ Việt Nam đã hoàn thành chương trình tập luyện.

Mặc dù gặp khó khăn trong việc học tiếng Nga, nhưng anh ấy đã hoàn toàn nắm vững những kỹ thuật cần thiết. Về các môn lý thuyết và kỹ năng thực hành thì họ đã đạt điểm xuất sắc” .

Trong tâm trạng phấn khởi, Phạm Tuân đã trả lời câu hỏi của một nhà báo về những dự định ấp ủ thầm kín đối với chuyến bay vào vũ trụ. Anh nói: “Tôi muốn tin chắc lần cuối cùng rằng trái đất đúng là hình tròn và từ quỹ đạo nhìn thấy ngôi làng Quốc Tuấn của tôi”.

Thế rồi, cái giây phút lịch sử mà hàng triệu triệu trái tim Việt Nam và trên toàn thế giới mong chờ đã đến…

TP - Đúng 1giờ 33 ngày 23/7/1980 (giờ Hà Nội) tại sân bay vũ trụ Bai-cô-nua (Liên Xô) tàu vũ trụ Liên hợp 37 do Gorơbatco và Phạm Tuân điều khiển đã phóng lên vũ trụ.


Phạm Tuân và Gorơbatco trước giờ lên tàu vũ trụ ngày 23/7/1980


Chẳng thể nào diễn tả thành lời cảm xúc khi con tàu rời mặt đất và tiến vào khoảng không gian mênh mông vô tận. Anh bay như trong giấc mơ của cậu bé làng Quốc Tuấn ngày nào.

Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tôi tin rằng trong tương lai, sẽ có đại diện của thanh niên Việt Nam bay vào vũ trụ” ngày nào nay thành hiện thực.

Người Việt Nam trên trạm vũ trụ “Salút -6”

Bay vào vũ trụ, bay vào một thế giới khác, tất cả đều trở nên mới mẻ và điều đầu tiên cảm nhận là tình trạng không trọng lượng.

Ngay cả việc tưởng như nhỏ nhất là ấn vào những nút cần thiết vào thời gian cần thiết cũng trở nên không hề đơn giản.

Vì tất cả những gì được học ở Trái đất suy cho cùng vẫn chỉ là lý thuyết, còn lên tàu vũ trụ mới thực sự thực hành và không được quyền mắc sai lầm.

Từ lúc cất cánh bay vào quỹ đạo đến thời điểm tiến lại gần trạm vũ trụ, ở giai đoạn này thời gian trôi đi không đều. Thoạt đầu, nhịp độ như thể từ từ.

Sau khi vào quỹ đạo, trong suốt thời gian bay ba vòng thứ nhất, Phạm Tuân và Vichto Gorơbatco kiểm tra cặn kẽ tình hình và khả năng hoạt động của hệ thống máy móc, các cụm thiết bị trên tàu, độ kín trong các khoang của con tàu.

Được phép của Mặt đất, họ đã cởi bỏ các bộ đồ bay vũ trụ. Ngay sau đó lực ép tăng lên ghê gớm. Vòng quay thứ tư và thứ năm, con tàu “Xai úz 37” chuyển lên quỹ đạo cao hơn.

Con tàu như bám vào “gáy” trạm vũ trụ và bắt đầu rượt đuổi đến gần nó. Ở vòng bay thứ 16 và 17 vị chỉ huy con tàu lại thực hiện thêm một lần cơ động, tiếp cận “Salút 6” ở khoảng cách cho phép khởi động các thiết bị tự động ghép nối.

Vào khoảnh khắc ấy, tất cả mọi người, từ đội bay trong tàu vũ trụ, đội bay trên trạm “Salút- 6”, tập thể các cán bộ chuyên môn hết sức đông đảo của Trung tâm điều khiển chuyến bay đều hoạt động như một thể thống nhất.

Vì vậy, quá trình ghép nối con tàu với trạm vũ trụ- công đoạn quan trọng nhất của chuyến bay, đã diễn ra mà không hề gặp bất cứ trục trặc nào.

Phạm Tuân đặt chân lên trạm “Salút -6” với niềm xúc động khó tả. Một kỷ lục lập tức được xác lập: Người Việt Nam đầu tiên, người châu Á đầu tiên đã đặt chân lên vũ trụ.

Người Việt Nam ấy mang lên vũ trụ cuốn Tuyên ngôn độc lập và di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng lá cờ đỏ sao vàng!

Trên trạm vũ trụ, đội “Têrếch” của Phạm Tuân và Vichto Gorơbatco đã được đón tiếp nồng hậu với nghi lễ dâng tặng bánh mì cùng muối được chuẩn bị bởi các thành viên trong đội bay chính gồm Lêonit Pôpốp và Valeri Riumin.

Nhưng có rất ít thời gian dành cho việc biểu lộ tình cảm, bởi tiếp theo là những báo cáo gửi về Mặt đất. Bắt đầu thực hiện những cuộc thí nghiệm đầu tiên không thể trì hoãn. Mãi đến 4 giờ sáng, theo giờ Mátxcơva, họ mới sắp xếp xong chỗ ngủ.

Ông Valeri Riumin kiếm chỗ nằm cho mình trên tràn của trạm vũ trụ vì với vóc người của mình, ông chỉ có thể nằm ở nơi ấy. Phạm Tuân được nằm ngủ ở sườn phải, còn các ông Vichto Gorơbatco và Lêonít Pôpốp thì được bố trí chỗ ngủ ở sườn trái của trạm vũ trụ.

Vả lại, trên trạm vũ trụ này, trong điều kiện không thể xác định được các khái niệm “phía dưới”, “phía trên”, “bên sườn” thì chỗ nào cũng tốt và thuận tiện.

Trong chương trình của chuyến bay, mục tiếp theo là giấc ngủ. Tuy nhiên, Phạm Tuân và Vichto đã đề nghị Trung tâm chỉ huy phát lên quỹ đạo bản tin truyền hình về những tin tức Đại hội Olympic.

Và họ đã cổ vũ cho các nhân vật thể thao nổi tiếng đang thi đấu trên sân vận động. Thế rồi, sự mệt mỏi đã đưa họ vào giấc ngủ.

Sau này các ông Lêonít Pôpôp và Valeri Riumin bảo rằng họ đã ngủ rất say và trông dễ thương lắm, với cảnh vắt chéo tay trên ngực, giống như những đứa trẻ.

Một tờ báo Trung ương của Liên Xô đã viết như sau: “Thật là niềm vui cho các bác sỹ, những người chỉ đạo chuyến bay vũ trụ, vì hôm qua các đồng chí Vichto Gorơbatco và Phạm Tuân đã bị chậm giờ làm việc.

Vì mãi đến 9 giờ sáng họ mới tỉnh dậy. Còn các đồng chí Lêonít Popốp và Veleri Riumin như đã quy định, đúng 8 giờ sáng đã bắt liên lạc với mặt đất. Đồng chí Lêônít Pôpôp nói:

“Họ đã ngủ quá say, không nỡ đánh thức họ, cứ để họ ngủ trong khi chuẩn bị bữa sáng”. “Bữa sáng có gì vậy?”- Cán bộ điều hành ở dưới Mặt đất hỏi. Đồng chí Pôpốp đáp: “Thực đơn bây giờ rất đa dạng, chúng tôi được cung cấp rất nhiều thức ăn ngon, làm cho đôi mắt chúng tôi hoa cả lên”.

Sau khi tỉnh giấc và xem lại thời gian Phạm Tuân và Vichto Gorơbatco vội vã lau mặt bằng khăn giấy, ăn vội bữa sáng và mở đầu phiên liên lạc với Mặt đất bằng câu “Xin lỗi các đồng chí”.

Để bù lại những ngày làm việc quá tải vừa qua - ông Vichto Blagốp, phó chỉ huy chuyến bay đáp lại: “Chúng tôi rất vui mừng thấy rằng đã kết thúc giai đoạn thích nghi căng thẳng.

Hôm nay là ngày khó khăn của các đồng chí. Tôi lưu ý, đến chiều tối sẽ có hai buổi phát hình dành cho cuộc họp báo. Còn bây giờ chúng ta bắt tay thực hiện chương trình…”.


Phạm Tuân cùng hai nhà du hành vũ trụ Gorơbatco (phải) và Veleri Riumin trên tàu vũ trụ


Cuộc họp báo Vũ trụ - Mặt đất

Ngay sau đó, họ bắt tay sửa chữa phím điều khiển của thiết bị “Cristal” có một linh kiện bị hỏng. Tiếp theo là tiến hành những thí nghiệm khoa học hết sức quan trọng ở trong vũ trụ.

Thế rồi ngày làm việc đầu tiên của đội bay du hành vũ trụ Xô - Việt trên quỹ đạo đã đi đến hồi kết.

Một đoàn nhà báo đông đảo đang nóng lòng chờ đợi họ. Đó là 110 phóng viên đến từ các nước xã hội chủ nghĩa đã trực sẵn tại Trung tâm chỉ huy các chuyến bay vũ trụ, 27 cán bộ thuộc ngành phát thanh truyền hình và báo chí từ Việt Nam đến Matxcơva để thông tin về chuyến bay Xô - Việt vào vũ trụ.

Cuộc đối thoại Vũ trụ - Mặt đất mà chỉ cách vài thập kỷ trước người lãng mạn nhất cũng không tưởng tượng nổi, đã kéo dài một giờ rưỡi.

Một số câu hỏi và câu trả trả lời trong cuộc họp báo chưa từng có ấy, cho đến bây giờ Phạm Tuân vẫn nhớ rõ mồn một: “Chương trình nghiên cứu khoa học của các đồng chí chứa đựng gần 30 cuộc thí nghiệm. Tình hình diễn ra như thế nào?”.

“Ngay sau khi bay vào quỹ đạo, chúng tôi đã bắt tay vào thực hiện những cuộc thí nghiệm đầu tiên - Phạm Tuân đáp - Tính đến hôm nay chúng tôi đã thực hiện xong tất cả những gì ghi trong chương trình”.

“Đồng chí có ấn tượng gì về trạm vũ trụ “Salut-6”?”.

“Điều thú vị nhất là cuộc gặp gỡ với các đồng chí Valeri và Leônít”, Vichto Gorơbatco trả lời: “Chúng tôi lập tức nhận ra rằng trạm vũ trụ này có người ở và ở đây có những vị chủ nhà rất vui vẻ, niềm nở”.

“Các đồng chí có gặp phải điều gì bất ngờ nào đó không?”

Các ông Lêonit Pôpốp và Valeri Riumin cho biết: “Chúng tôi bay trong vũ trụ đã lâu rồi, trong thời gian ấy đã có nhiều sự thay đổi. Chúng tôi cất cánh hồi mùa xuân, còn bây giờ đã là mùa hè. Chúng tôi đã quan sát thấy nhiều hiện tượng hết sức thú vị trên Mặt đất và trên vũ trụ. Do vậy, bây giờ chúng tôi không ngạc nhiên về bất kỳ điều gì”.

Trong suốt một giờ rưỡi họp báo, các nhà du hành vũ trụ đã không thể trả lời hết rất nhiều câu hỏi. Vì những cuộc thí nghiệm khác đang chờ.

Ngắm Việt Nam từ trên quỹ đạo

Lúc ấy, ước nguyện thầm kín nhất của Phạm Tuân là được nhìn thấy Việt Nam từ trên quỹ đạo. Trong những ngày đầu tổ hợp vũ trụ bay theo quỹ đạo luôn thấy Mặt trời.

Mặt trời không lặn đã chiếu sáng trái đất ở phía dưới trạm vũ trụ, với những tia chiếu xiên.

Thế nhưng ngay cả qua ánh sáng không chói sáng ấy Phạm Tuân đã nhận ra những đặc điểm hình dáng đất nước thân yêu mà anh chỉ được biết qua những chuyến bay trên máy bay.

Tuy nhiên, đáng tiếc là vào thời gian đó có quá nhiều mây mù che khuất. Các phóng viên của tờ “Đơnhep” đã an ủi Phạm Tuân: “Đồng chí đừng buồn, sẽ còn có dịp ngắm nhìn thỏa thích.

Nếu trời cứ tiếp tục có nhiều mây che khuất, chúng tôi sẽ giúp. Chúng tôi sẽ chụp ảnh tất cả, sẽ đo đạc các thông số quang phổ, chúng ta sẽ thực hiện được các quan sát”.

Vichto Gorơbatco, vốn có tính hài hước, trước câu hỏi từ mặt đất. “Nhà du hành vũ trụ làm nhiệm vụ nghiên cứu của ông làm công việc gì”, ông đã trả lời một mực rằng nhà du hành vũ trụ ấy luôn có mặt ở ô cửa sổ và không rời khỏi đó chừng nào chưa thấy ngôi làng thân yêu của mình.

Và quả thật, trong hầu hết thời gian tự do, Phạm Tuân đều ngồi bên ô cửa sổ với chiếc ống nhòm trong tay mong được nhìn thấy dải đất hình chữ S phía dưới. Có những lúc anh đã vi phạm thời gian biểu quy định giờ đi ngủ, ngồi tại “đài chỉ huy” để quan sát.

Một trong những thí nghiệm quan trọng và hết sức thú vị là cuộc thử nghiệm “Bèo hoa dâu” (Alôla). Cây bèo hoa dâu thuộc dạng cỏ nội hoa hèn ở đồng quê Việt Nam chẳng ngờ đã du hành lên vũ trụ với một sứ mệnh khoa học ít ai ngờ tới...

TP- Dù chỉ có hơn 7 ngày trên vũ trụ, nhưng với Phạm Tuân là mãi mãi... Tình anh em giữa Phạm Tuân và Gorơbatco như cái cây đã sâu rễ bền gốc, ngày càng trổ cành đâm lá, ra hoa kết trái…


Gia đình Phạm Tuân và vợ chồng ông Gorơbatco

Trên trạm vũ trụ “Salut - 6” đã trồng được lúa mì, đậu nành, hành và các loại nấm, thậm chí cả cây hoa tuylip. Giờ có thêm bèo hoa dâu từ đồng ruộng Việt Nam! Sau 7 ngày 20 giờ 42 phút ở trong vũ trụ với 142 vòng quỹ đạo quanh Trái đất, Phạm Tuân và Gorơbatco trở về trái đất...

Bảy ngày qua đi trên vũ trụ tựa hồ chỉ một ngày. Đã đến lúc chuẩn bị quay về mặt đất. Từ lâu người ta đã nhận thấy đường về nhà hình như ngắn hơn.

Trong vũ trụ đó không chỉ là cảm giác: Đường bay của cuộc hạ cánh thì ngắn hơn nhiều so với đường bay của con tàu vận tải vũ trụ từ nơi xuất phát đến khi ghép nối với trạm vũ trụ. Khi bay lên cao, vào vũ trụ, cần thời gian lâu hơn một ngày đêm, còn thời gian hạ cánh về Trái đất chỉ mất một vài giờ.

Buổi tối tiễn đưa, trước lúc chia tay, đã diễn ra đặc biệt cảm động. Họ che đậy nỗi buồn bằng những câu bông đùa với nhau và chúc nhau thành công. Phạm Tuân và Vichto chúc Leônít Pôpop và Veleri Riumin tiếp tục chuyến bay may mắn, còn hai người ở lại thì chúc các đồng chí của mình hạ cánh an toàn.

Phạm Tuân không bao giờ quên nơi ấy, cách thành phố Giêdơcacdơgan 180 km về phía Đông Nam, hai nhà du hành vũ trụ Liên Xô và Việt Nam đã nhẹ nhàng đặt chân xuống mặt đất sau cuộc phiêu lưu trong vũ trụ.

Trở về đất mẹ

Những gì diễn ra đối với hai nhà du hành vũ trụ sau cuộc hạ cánh chẳng khác gì ngày hội, tràn ngập niềm vui sướng, hạnh phúc. Cuộc gặp gỡ cảm động diễn ra ở thành phố Ngôi Sao, nơi mà cha của Phạm Tuân cũng được mới đến từ Việt Nam.

Trong khi chờ phần thưởng cao quý của Nhà nước do đích thân Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Brêgiơnhep trao tặng, Phạm Tuân và Gorơbatco chuẩn bị báo cáo về chuyến bay, cùng chơi môn quần vợt ưa thích và đắm mình trong không khí gia đình.

Trở lại những ngày trước khi bay vào vũ trụ, trong một thời gian dài, Phạm Tuân sống độc thân. Điều đó đã kết thúc khi có một chàng phi công thuộc phi đoàn bên cạnh mời anh sang chơi. Anh đến và nhìn thấy cô em gái của bạn, tên là Trần Thị Phương Tân. Rồi thế là như người ta vẫn thường nói, “chàng phi công đã mất định hướng trên bầu trời, một lần và mãi mãi”.

Chẳng bao lâu, họ làm lễ cưới. Năm 1979, vợ và cô con gái 3 tuổi của Phạm Tuân đã đáp máy bay sang Matxcơva. Khi đến thành phố Ngôi Sao, chị Tân chưa thể quen với cuộc sống mới.

Tuy nhiên, các bà vợ của các nhà du hành vũ trụ đã giúp chị sắp xếp ổn thoả trong sinh hoạt như thể đã quen thân nhau từ lâu lắm. Bà Valentina Gorơbatco trở thành người bạn gái và là người chỉ bảo tốt nhất cho chị Tân. Bà Gorơbatco là một người phụ nữ tuyệt vời, yêu đời và không bao giờ phiền muộn, đã có công rất lớn đối với người chồng mà ai đó nói vui rằng “ở vũ trụ nhiều hơn ở nhà” của mình.

Có những ngày nghỉ, bà Valentina Gorơbatco đã thết đãi gia đình Phạm Tuân những món ăn Nga truyền thống. Đủ các loại xalát, dưa muối, món ngỗng nấu với táo và quả hắc mai tử…

Bà dạy chị Tân nhào bột làm bánh mằn thắn và nướng các loại bánh Varêniki có nhân quả anh đào… Bà đưa chị về Matxcơva để đi thăm các danh thắng của thủ đô. Những ký ức đẹp ấy vẫn luôn được lưu giữ trong gia đình Phạm Tuân.

Hơn 40 năm đã trôi qua, nhưng cho đến bây giờ Phạm Tuân vẫn nhớ buổi lễ tại Điện Kremli như vừa mới xảy ra hôm qua: “Tại phòng khánh tiết lộng lẫy, với sự hiện diện của một số Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, đại diện Bộ Ngoại giao, Đại sứ quán lần lượt bước vào.

Tổng Bí thư Brêgiơnhep đã trao huân chương Lênin cho ông Gorơbatco. Sau đấy đã tuyên đọc Sắc lệnh về việc tặng thưởng tôi. Không thể tả nổi sự hồi hộp của tôi khi thực hiện những bước đi theo kiểu nghi thức đội hình tiến về vị đứng đầu Nhà nước Liên Xô. Tổng Bí thư Brêgiơnhep đã gắn lên ngực tôi ngôi Sao Đỏ của danh hiệu Anh hùng Liên Xô và Huân chương Lê Nin, rồi ôm hôn tôi thân mật như người cha…Niềm vui sướng và tự hào, niềm hạnh phục ấy đã lưu lại trong tôi suốt đời”.

Mấy ngày sau, đội du hành vũ trụ của Phạm Tuân cùng gia đình đã đáp máy bay trở về Việt Nam. Anh trở về mang theo những kỷ lục, mang theo bức ảnh chụp tổ quốc từ trên vũ trụ và nỗi nhớ đất mẹ da diết. Những cuộc đón tiếp ở quê nhà cũng chẳng thể nào quên.

Đứng suốt dọc con đường từ sân bay Gia Lâm về Hà Nội (dài 7km) là dòng người mang theo những biểu ngữ, khẩu hiệu, những bức chân dung, cờ hoa. Đâu đâu cũng vang lên những tiếng hô chào đón, chúc mừng, những nụ cười, những cái bắt tay cháy bỏng.

Tại cổng Phủ Chủ tịch, Tổng Bí thư Lê Duẩn, Chủ tịch nước Nguyễn Hữu Thọ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Đại tướng Văn Tiến Dũng đón Phạm Tuân và Gorơbatco.

Hôm ấy, đúng ngày Quốc khánh 2/9, 35 năm ngày Việt Nam tuyên bố độc lập. Và Phạm Tuân cùng Gorơbatco đã được Tổng Bí thư Lê Duẩn gắn lên ngực áo tấm huy chương Sao Vàng, Anh hùng lao động XHCN Việt Nam.

Những ngày tiếp theo, hai nhà du hành vũ trụ đã có rất nhiều cuộc gặp gỡ tại nhiều thành phố, làng mạc, từ Bắc chí Nam. Đâu đâu, họ cũng được tiếp như những người hùng. Họ đã liên tục ký tên lưu niệm trong các cuốn sách, các tấm bưu thiếp, những cuốn album... Đi đến bất cứ nơi nào ở Việt Nam, người dân đều nhận Phạm Tuân và Gorơbatco như thể đã quen thân lâu lắm.

Phạm Tuân đã mời gia đình Gorơbatco về thăm quê mình, nơi ngày xưa cậu bé làng Quốc Tuấn đã nhìn lên bầu trời bị băm nát bởi máy bay Mỹ và mơ ước được trở thành phi công…

“Xin hẹn đến cuộc gặp mới”


Anh hùng Phạm Tuân với các bạn Nga tại Đoàn Không quân Sao Đỏ năm 1981 - Ảnh: Phạm Yên
Họ trồng cây lưu niệm ở nhiều nơi. Và sau này, Gorơbatco đến thăm Việt Nam lần nữa, ông đã tránh nắng dưới tán cây mình trồng. Tình anh em giữa ông và Phạm Tuân cũng như cái cây đã sâu rễ bền gốc, ngày càng trổ cành đâm lá, ra hoa kết trái…

Họ gọi nhau là những người anh em vũ trụ và dù mấy chục năm đã trôi qua nhưng vẫn thường qua lại thăm nhau, lúc thì ở Nga, lúc thì Việt Nam với những tình cảm như cùng máu mủ ruột rà. Điều đó đã được thể hiện đậm nét trong cuốn hồi ký “Đứa con trai Sao Vàng của miền Kuban” của Gorơbatco vừa được giới thiệu trang trọng tại Thủ đô Matxcơva - Liên bang Nga. Trong buổi giới thiệu đó, một nhà báo Nga đã đề nghị tác giả nói mấy lời về Phạm Tuân và Việt Nam.

Gorơbatco tâm sự: “Phạm Tuân là một con người tài năng, anh ấy lĩnh hội ngay mọi điều trong chuyến bay. Trong khi bay, anh ấy không chỉ đơn giản là một nhà du hành - nghiên cứu mà còn là kỹ sư trên tàu vũ trụ. Vũ trụ đã kết thân tôi với Phạm Tuân.

Nếu nói khoảng cách giữa Matxcơva và Hà Nội, thường thường người ta bảo “xa thế!”. Nhưng nếu theo kích thước vũ trụ thì thậm chí lại rất gần. Xuất phát từ sân bay Baicơnua, chỉ vài phút sau chúng tôi đã có mặt trên vùng khí quyển Việt Nam rồi.

Tôi đã đến Việt Nam nhiều lần. Kể từ năm 1980 lần đầu tôi đến, cho tới nay tại Việt Nam đã thay đổi rất nhiều. Theo chiều hướng ngày càng tốt đẹp hơn. Chúng tôi rất thích được đến Hà Nội.

Người Việt Nam luôn đối xử với người Nga một cách tôn trọng, quý mến. Ở đất nước hiền hoà này, bạn có thể thấy ngay ai cũng có tình cảm hữu nghị với đất nước Nga. Tôi muốn được gửi lời chào đến bạn Phạm Tuân thân thiết. Tôi muốn nói với anh ấy rằng “Xin hẹn đến cuộc gặp mới!”.

“Xin hẹn đến cuộc gặp mới”, đó cũng là điều mà Trung tướng Phạm Tuân mong chờ. Kể từ ngày con tàu vũ trụ hạ cánh xuống mặt đất, hai nhà du hành vũ trụ đã trải qua những giờ phút chông chênh, bởi những gặp gỡ rồi chia ly. Người về Việt Nam nhớ nước Nga, người nước Nga nhớ Việt Nam.

Phạm Tuân dự định đến một lúc nào đó, khi đã vợi đi công việc bộn bề, ông sẽ cùng gia đình trở lại nước Nga, thăm thành phố Ngôi Sao, thăm nơi ngày xưa đã miệt mài khổ luyện, thăm lại nơi con tàu vũ trụ như huyền thoại ấy đã bay vào khoảng không vô tận, gắn kết hai người con của đất nước Nga - Việt. Dù chỉ có hơn 7 ngày trên vũ trụ, nhưng với Phạm Tuân là mãi mãi...

Phạm Tuân sinh năm 1947 tại xã Quốc Tuấn - huyện Kiến Xương - tỉnh Thái Bình. Sau 8 năm đạt ba danh hiệu Anh hùng, Phạm Tuân trở về với cương vị của một người lính, cương vị Chủ nhiệm Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng. Vợ ông là Thượng tá, bác sỹ quân y.

Ông có hai người con. Con gái đầu là Phạm Thị Hằng, sinh năm 1976, đã học xong thạc sỹ ở Australia. Con trai Phạm Tuấn Anh đang học đại học ở Vương quốc Anh.

Một sự tình cờ rất ý nghĩa: Gia đình ông đang sống tại một căn hộ trên con đường từng mang tên Chiến thắng B52 tại thủ đô Hà Nội, nay là đường Trường Chinh.

Phùng Nguyên



Các chủ đề khác cùng chuyên mục này:

Tài sản của donkihotexuthanh

Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời

Từ khóa được google tìm thấy
dong chi pham tuan, trung tuong pham tuan



©2008 - 2014. Bản quyền thuộc về hệ thống vui chơi giải trí 4vn.eu™
Diễn đàn phát triển dựa trên sự đóng góp của tất cả các thành viên
Tất cả các bài viết tại 4vn.eu thuộc quyền sở hữu của người đăng bài
Vui lòng ghi rõ nguồn gốc khi các bạn sử dụng thông tin tại 4vn.eu™