Thứ tư ngày 11 tháng năm, mọi người đã trở về nhà. Họ đặt Regan vào giường, móc một ổ khóa lên các cánh cửa chớp, lột hết tất cả các gương soi ra khỏi phòng ngủ và phòng tắm của cô bé.
… “những lúc tỉnh trí càng lúc càng hiếm hoi, và tôi e rằng, giờ đây trong những lúc lên cơn, cô bé đã hòan tòan bị mất ý thức. Điều này mới mẽ và dường như xóa đi cơn chứng lọan thần kinh ít-tơ-ri đích thực. Lâm thời, một hoặc hai triệu chứng trong lĩnh vực MacNeil, chúng tôi gọi là những hiện tượng siêu tâm lý đã…”
Bác sĩ Klein đến. Chris có mặt cùng Sharon khi ông huấn luyện họ cách thức truyền dịch Sustagen cho Regan trong những thời kỳ cô bé bị hôn mê. Ông nhét ống truyền dịch qua đường lỗ mũi - dạ dày. “ Trước tiên…”
Chris bắt mình quan sát mà cố không trông thấy mặt con gái, nắm bắt từng lời chỉ dẫn của bác sĩ và dẹp qua những điều khác mà nàng đã nghe thấy ở Y viện. Những lời lẽ đó thấm qua vùng ý thức nàng như lớp sương mù len lách qua những cành lệ liễu.
…“ Bây giờ ở đây bà phát biểu là “không tôn giáo”, thưa bà MacNeil, có phải đúng thế không ạ ? Không hề có một chút giáo huấn nào về mặt đạo giáo phải không ?”
“ Ồ thì, đại khái chỉ có một từ “ Chúa” chung chung vậy thôi. Bác sĩ cũng biết đó. Sao bác sĩ lại hỏi ?”
“ Vâng, vì một lý do, đó là nội dung những lời cô bé hay nói trong nhiều lúc mê sảng – không phải những lúc lảm nhảm những vần vô nghĩa đâu - đều có khuynh hướng tôn giáo. Vậy theo bà, cô bé đã nhiễm được tư tưởng đó ở đâu ?”
“ Xin bác sĩ cứ cho một ví dụ.”
“ Như thể là, “ Giê-su và Maria, sáu mươi chín, chẳng h…”
Klein đã đưa ống truyền vào đến dạ dày Regan. “ Trước tiên bà phải kiểm soát xem chất dịch có bị len vào phổi không,” bác sĩ chỉ dẫn, vừa bóp trên ống truyền để chận nguồn chảy của dịch Sustagen. “ Nếu nó…”
… “triệu chứng của một thể lọai rối lọan mà người ta hiếm khi còn gặp, ngọai trừ ở những nền văn hóa nguyên thủy. Chúng tôi gọi đó là chứng bị ám ảnh dưới dạng mộng du. Thẳng thắng mà nói, chúng tôi cũng không biết gì nhiều về chứng đó, chỉ biết là nó xuất phát với một vài xung đột hay tội lỗi, rồi rốt cuộc dẫn dắt bệnh nhân đi đến ảo tưởng rằng thân xác anh ta đã bị một trí tuệ ngọai lai xâm nhập, một hồn ma, nếu người ta muốn gọi như thế. Trong thời xa xưa, lúc niềm tin vào quỷ dữ còn khá mạnh, thì các thực thể ám ảnh kia thường là một ác quỷ. Tuy nhiên, trong những trường hợp tương đối hiện đại, đa phần thì đó là linh hồn của một kẻ chết, thường là một kẻ mà bệnh nhân có quen biết hay đã gặp gỡ, và bệnh nhân có thể bắt chước một cách vô thức giống y giọng nói và cử chỉ của người đó. Thậm chí đôi lúc cả đến nét mặt của người đó nữa. Họ…”
Sau khi bác sĩ Klein sầu muộn kia đã cáo từ, Chris gọi điện thọai cho người đại diện của nàng ở Beverly Hills và thẫn thờ thông báo cho anh ta biết rằng nàng sẽ không đạo diễn phân đọan phim ấy nữa. Sau đó nàng gọi cho bà Perrin. Bà ta vắng nhà. Chris gác điện thọai với một cảm giác tuyệt vọng càng lúc càng tăng. Nàng cần phải được sự giúp đỡ của một…
… “ở những trường hợp mà hồn linh là của kẻ chết thì tương đối dễ ứng xử hơn nhiều, trong hầu hết những trường hợp này, người ta không tìm thấy những cơn giận hỏang, hay là những cơn tăng vận động và kích thích cơ vận động. Tuy nhiên, trong cái thể lọai hội chứng bị ám ảnh dưới dạng mộng du quan trọng kia, cái bản ngã mới bao giờ cũng hung ác, bao giờ cũng thù nghịch đối kháng lại bản ngã thứ nhất. Thật vậy, mục tiêu chính của nó là hủy diệt, khảo đả và thậm chí đôi khi là giết chết bản ngã thứ nhất.”…
Một bộ dây đai đã được giao đến tận nhà và Chris đứng chứng kiến, nhợt nhạt và kiệt sức, lúc Karl máng dây đai vào giường rồi buộc vào hai cổ tay Regan. Sau đó, lúc Chris xê dịch chiếc gối cho ngay vào giữa đầu Regan, người Thụy Sĩ vươn thẳng người lên và nhìn gương mặt thảm thiết của đứa bé với đôi mắt xót thương. “ Cháu bé sẽ khỏe chứ ?” Anh ta hỏi. Một thóang tình cảm vương vấn trong những lời anh ta nói, những ngôn từ e ấp nỗi ưu tư.
Nhưng Chris chẳng thể trả lời được. Lúc Karl đang ngỏ lời với nàng, nàng nhặt lên một vật đã được nhét dưới gối của Regan. “ Ai bỏ cái tượng thập ác này vào đây ?” nàng căn vặn.
….“ Hội chứng đó chỉ là biểu hiện của một xung đột nào đó, một tội lỗi nào đó, vì vậy, chúng tôi cố lần cho ra, tìm cho được xem nó là điều gì.. Vâng, biện pháp hay nhất trong một trường hợp thế này là dùng thôi miên liệu pháp, tuy nhiên, dường như chúng ta không thể thôi miên cô bé được. Thế là chúng ta chích cho cô bé một liều thuốc tổng hợp thôi miên - một biện pháp sử dụng đến chất ma túy – nhưng tình thật mà nói, có vẻ như biện pháp ấy cũng lại đi vào một ngỏ cụt khác mà thôi.”
“ Vậy thì biện pháp tiếp theo là gì ?”
“ Chỉ còn trông chờ vào thời gian, tôi e vậy, chỉ còn chờ thời gian mà thôi. Chúng ta chỉ còn biết tiếp tục cố gắng và hy vọng vào một sự thay đổi. Lâm thời cô bé cần được nhập viện để…”
Chris tìm gặp Sharon trong bếp đang đặt máy chữ lên bàn. Cô gái vừa mang máy chữ dưới phòng giải trí ở tầng hầm lên. Willie thái cà rốt ở bồn rửa chén chuẩn bị nấu ra-gu.
“ Có phải cô đã đặt cái tượng thập ác dưới gối con bé không, Shar ?”
Chris nói với một giọng căng thẳng.
“ Chị nói gì vậy ?” Sharon hỏi, hoang mang thấy rõ.
“ Cô không đặt à ?”
“ Kìa, Chris, thậm chí em còn chẳng hiểu chị nói gì nữa là khác. Em đã nói với chị rồi, em đã nói với chị lúc ở trên máy bay rồi, tất cả những gì em đã nói với Regan đó là “ Chúa dựng nên thế giới” , và có lẽ những điều về…”
“ Đựơc rồi, Sharon, được rồi, tôi tin cô, nhưng mà…”
“ Tôi, thì tôi không có đặt cái tượng đó.” Willie lầu bầu, giọng tự vệ.
“ Mẹ kiếp, thì cũng phải có ai đó bỏ nó vào đó chứ ?” Chris bùng nổ, rồi quay sang Karl lúc anh ta đang đi vào bếp và mở cửa tủ lạnh. “ Này, tôi hỏi lại anh lần nữa,” nàng nghiến răng, giọng gần như rít lên. “ Anh đã để cái thập ác đó dưới gối con bé phải không ?”
“ Không, thưa bà,” anh ta điềm đạm trả lời. Anh ta đang gói mấy cục nước đá vào một chiếc khăn lau mặt. “ Không. Không có thập ác nào hết.”
“ Cái thập ác khốn kiếp đó đâu có tự dưng mà dẫn xác lên đó được, bọn khốn ạ ! Các người phải có kẻ nói dối !” nàng rít lên trong cơn giận hoảng làm chóang váng cả phòng. “ Bây giờ mấy người nói dùm tôi là ai đã bỏ cái đó vào đấy, ai ?” Thình lình nàng quỵ xuống ghế rồi vật khóc nức nở vào đôi bàn tay run rẩy. “ Ôi, tôi xin lỗi, tôi xin lỗi, tôi không còn biết mình đang làm gì nữa !” Nàng khóc. “ Ôi, Chúa tôi, tôi không còn biết mình đang làm gì nữa !”
Willie và Karl lặng lẽ nhìn lúc Sharon trờ tới bên Chris và xoa nắn cần cổ nàng bằng bàn tay an ủi. “ Nào, ổn cả thôi. Ổn cả thôi !”
Chris đưa lưng tay áo lên lau mặt. “ Vâng, tôi đóan là ai đó làm việc ấy,” – nàng sụt sịt – “ cũng chỉ có hảo ý muốn giúp đỡ thôi.”
….“Này, tôi xin nhắc lại với các ông và các ông nên tin điều ấy, đó là tôi nhất định không đưa con tôi vào một nhà thương điên khốn kiếp nào hết !”
“ Đó chỉ là…”
“ Tôi không cần biết các ông gọi đó là cái nhà gì hết! Tôi nhất định không chịu để người ta bắt con tôi đi khuất mắt !”
“ Tôi xin lỗi.”
“ Ừ, xin lỗi, Chúa tôi ! tám mươi tám ông bác sĩ các ông mà chỉ nói với tôi có mấy điều thối như *** là…”
Chris đốt một điếu thuốc, nóng nẩy dụi tắt nó, rồi lên thang gác ngó chừng Regan. Nàng mở cửa. Trong bóng tối lờ mờ của phòng ngủ, nàng nhận ra một bóng người bên giường Regan, ngồi trên một chiếc ghế gỗ có lưng dựa thẳng. Karl. Anh ta đang làm gì vậy ? Nàng tự hỏi.
Lúc Chris lại gần hơn, anh ta vẫn không nhìn lên, mà vẫn chú mắt vào khuôn mặt đứa trẻ. Anh ta duỗi thẳng tay và đang sờ lên khuôn mặt nó. Cái gì trong tay anh ta thế ? Lúc Chris đến bên giường, nàng mới thấy rõ vật đó, bọc nước đá dã chiến mà lúc nãy anh ta chuẩn bị trong bếp. Karl đang lau mát trán cho Regan.
Chris xúc động, đứng nhìn ngạc nhiên, rồi thấy Karl vẫn không động đậy hay nhận ra sự có mặt của nàng, nàng quay ra rồi lẳng lặng rời phòng.
Nàng xuống bếp, uống cà phe đen rồi đốt một điếu thuốc khác. Rồi do một xung động thúc đẩy, nàng đi vào phòng. Có lẽ…có lẽ…
… “ một cơ hội thật mong manh, vì sự ám ảnh chỉ liên quan rất mơ hồ với chứng lọan thần ít-tơ-ri, xét vì căn nguyên của hội chứng đó gần như bao giờ cũng có tính cách tự kỷ ám thị. Con gái bà hẳn đã biết về chuyện quỷ ám, đã tin vào chuyện quỷ ám, và đã biết về một vài triệu chứng của nó, cho nên giờ đây, chính phần vô thức của cô bé đã sản sinh ra hội chứng đó. Nếu điều đó có thể xác minh được, thì người ta có thể thử áp dụng một phương thức chữa trị, đó là trị liệu bằng tự kỷ ám thị. Trong những trường hợp như thế này, tôi nghĩ đó như cách trị liệu cơn sốc, mặc dù đa số các nhà trị liệu khác không đồng ý, tôi nghĩ thế. Ồ, vâng – như tôi đã nói – đó là một cơ hội rất mong manh, rất ít có khả năng xảy ra, và vì bà chống đối không chịu cho con gái bà nhập viện, tôi sẽ…”
“ Lạy Chúa, ông cứ gọi tên điều đó ra đi! Đó là việc gì ?”
“ Bà có từng nghe về PHÉP ĐUỔI QUỶ chưa, thưa bà Mac Neil ?”
Đám sách trong văn phòng là một phần của đồ đạc gia dụng và Chris rất xa lạ với chúng. Lúc này, nàng đang nhìn kỹ từng tựa sách, tìm kiếm, tìm kiếm…
… “ nghi lễ đúng quy cách ngày nay đã lỗi thời, trong nghi lễ đó, các giáo sĩ Do Thái Giáo và các linh mục cố gắng trục đuổi tà linh ra. Chỉ còn giới công giáo là chưa lọai bỏ nghi lễ đó nhưng họ giữ điều đó kín như bưng, coi như một điều khá bối rối, tôi nghĩ. Nhưng đối với một kẻ tự cho rằng mình bị quỷ ám thực sự, thì tôi nghĩ lễ nghi đó sẽ khá gây ấn tượng. Thực vậy, lễ nghi đó trước đây đã thường có tác dụng dù rằng dĩ nhiên là không phải vì lý do mà họ tưởng, mà thuần túy chỉ là sức mạnh của sự ám thị. Niềm tin của nạn nhân vào việc bị quỷ ám đã giúp tạo ra tác dụng đó, hay chí ít thì cũng là tạo ra bề mặt của hội chứng đó, và cùng một thể ấy, chính niềm tin của anh ta vào quyền năng đuổi quỷ có thể làm chứng ấy biến mất. Đó là…chà, bà lại cau mày rồi. Vâng, có lẽ tôi cần thuật cho bà nghe về những thổ dân ở Úc. Những thổ dân này tin rằng nếu một thầy phù thủy nghĩ đến một “tia tử thần” nhắm vào họ từ xa thì chắc chắn là họ sẽ phải chết, bà thấy đó. Và thực tế là họ đã chết thật! Họ chỉ việc nằm xuống và từ từ chết! Và, lắm khi, điều duy nhất cứu được họ cũng chính là một hình thức ám thị tương tự, một “tia’ phản tác dụng do một thầy phù thủy khác phóng ra !”
“ Có phải bác sĩ định bảo tôi mang con bé đến một thầy lang phù thủy chăng?”
“ Vâng, tôi cho rằng mình định nói đúng như vậy thật: xét như nó là một biện pháp cùng đường, có lẽ nên tìm một vị linh mục. Thực vậy, tôi biết lời khuyên này nghe ra có vẻ trái cựa, kỳ cục, nguy hiểm nữa là khác, trừ phi ta có thể xác quyết được chắc chắn là Regan có biết chút gì về chuyện quỷ ám, đặc biệt là phép đuổi quỷ, trước khi mọi chuyện này xảy ra không. Bà có nghĩ là cô bé có thể đã đọc về điều đó không ?”
“ Không, tôi không nghĩ như vậy.”
“ Hay xem một phim về đề tài đó ? Hoặc một chương trình truyền hình chẳng hạn ?”
“ Không ?”
“ Hay là đọc Phúc Âm, có lẽ thế ? Kinh Tân Ước chẳng hạn ? Vì có rất nhiều đoạn kinh thánh kể về chuyện quỷ ám, về quyền năng đuổi quỷ của Chúa Ki-Tô, thực vậy, những đọan mô tả về các triệu chứng trong Kinh Thánh cũng y hệt như chuyện quỷ ám ngày nay. Nếu như bà…”
“ Này, chuyện đó chẳng có ích lợi gì đâu. Bây giờ tôi chỉ cần cho bố con bé nghe thấy là tôi đã cho triệu tập cả một bọn những…”
Móng tay ngón trỏ của Chris khẽ tanh tách từ bìa sách này đến bìa sách nọ, không có gì cả. Không Kinh Thánh, không Tân Ước. Không một…
Mắt nàng đảo nhanh lại một tựa sách nằm ở ngăn kệ dưới cùng. Bộ sách biên khảo về thuật phù thủy mà Mary Jo Perrin đã gửi cho nàng. Chris nhấc cuốn sách đó ra khỏi kệ và lật trang mục lục, ngón cái cứ lướt nhanh xuống…
Đó rồi ! Tựa đề một chương sách đập rộn ràng như một nhịp tim : “ CÁC TRẠNG THÁI QUỶ ÁM” . Chris gấp sách và nhắm mắt lại cùng một lúc, thắc mắc, thắc mắc rất lung…
Có lẽ…rất có lẽ…
Nàng mở mắt và thong thả bước xuống bếp. Sharon đang đánh máy chữ. Chris giơ quyển sách lên.”Cô đọc cuốn này chưa, Shar ?”
Sharon vẫn đánh máy, không hề nhìn lên. “ Đọc cái gì cơ ?” Cô gái nói.
“ Cuốn sách về phù thủy này nè.”
“ Chưa.”
“ Có phải cô để nó trong văn phòng không ?”
“ Không. Không hề đụng tới.”
“ Willie đâu ?”
“ Đi chợ.”
Chris gật đầu đắn đo. Sau đó nàng lên thang gác đến phòng Regan. Nàng cho Karl xem cuốn sách. “ Có phải anh để cuốn sách này trong văn phòng không, Karl ? Trên kệ sách ấy ?”
“ Thưa bà, không.”
“ Chắc là Willie,” Chris thì thầm lúc nàng nhìn đăm đăm cuốn sách. Những dự đóan như những gợn sóng lăn tăn suốt người nàng. Như vậy là các bác sĩ ở y viện Barringer có lý chăng ? Có phải đúng là điều đó rồi không ? Có phải Regan đã thuỗn được cơn chứng rối lọan của nó từ những trang sách này thông qua tự kỷ ám thị chăng ? Có phải con bé đã tìm thấy những triệu chứng của nó được liệt kê ở đây chăng ? Một cái gì đó đặc biệt mà Regan đang làm ?
Chris ngồi xuống bàn, mở ra chương luận về quỷ ám và bắt đầu tìm tòi, tìm tòi, và đọc:
…“ Xuất phát trực tiếp từ niềm tin phổ biến vào quỷ dữ chính là hiện tượng được biết dưới tên gọi là quỷ ám, một trạng thái trong đó nhiều cá nhân tin rằng các chức năng tâm thần và thể xác họ đã bị xâm lấn và điều khiển bởi một ác quỷ ( thường thấy nhất trong thời kỳ chúng ta đang bàn đến ở đây ) hoặc bởi hồn của một người chết. Không có một thời kỳ nào trong lịch sử hay ở phần đất nào trên thế giới mà lại không thấy đề cập đến hiện tượng này, bằng những mô tả khá nhất quán, dù vậy, hiện tượng này vẫn chưa được giải thích một cách thỏa đáng. Kể từ công trình nghiên cứu nghiêm chỉnh của Traugott Oesterreich được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1921, có rất ít điều được bổ sung vào vốn kiến thức về lĩnh vực này, cho dù đã có nhiều tiến bộ trong ngành tâm thần học….”
Chưa được giải thích một cách đầy đủ ? Chris cau mày. Nàng có một ấn tượng khác các bác sĩ.
… “ Người ta chỉ mới biết được như sau : đó là, có những người khác nhau, ở vào những thời điểm khác nhau đã trải qua những sự biến đổi lớn lao hòan tòan cho đến nỗi những kẻ chung quanh họ có cảm tưởng là mình đang tiếp xúc với một người khác hẳn. Chẳng những giọng nói, dáng điệu cử chỉ, nét mặt và những động tác đặc trưng bị biến đổi, mà thậm chí bản thân người đó cũng cho rằng mình hòan tòan khác hẳn với nhân cách (hay bản ngã) nguyên thủy, cũng như cho rằng mình có một cái tên – tên người hay tên quỷ - và một lịch sử hòan tòan khác biệt…”
Các triệu chứng. Các triệu chứng ở đâu nhỉ ? Chris thắc mắc một cách nôn nóng.
… “ Ở quần đảo Mã Lai, nơi chuyện quỷ ám xảy ra thường xuyên, hằng ngày ngay cả trong thời đại này, hồn của kẻ chết thường khiến cho người bị nó ám bắt chước được những cử chỉ, giọng nói và dáng điệu của nó một cách cực kỳ giống thực đến nỗi bà con của kẻ chết phải khóc òa lên. Nhưng lọai trừ cái gọi là cơn chứng giống quỷ ám - tức là những trường hợp xét cho cùng chỉ là trò giả tạo, chứng loạn thần pa-ra-noi-a hay ít-tê-ri - vấn đề luôn luôn đặt ra với việc giải thích các hiện tượng quỷ ám, lối giải thích cổ xưa nhất là lối giải thích mang tính chất thông linh học, một ấn tượng có vẻ được củng cố bởi sự kiện rằng cái nhân cách (hay bản ngã) xâm nhập này có thể tạo ra những thành tích hòan tòan xa lạ với nhân cách nguyên thủy. Chẳng hạn, trong hình thức quỷ dữ ám, con “quỷ” đó có thể nói những ngôn ngữ hòan tòan xa lạ đối với nhân cách nguyên thủy, hoặc giả….”
Đó ! Một cái gì đó rồi ! Những lời lẽ huyên thuyên của Regan ! Một toan tính nói tiếng lạ chăng ? Nàng đọc tiếp rõ nhanh.
… “ hoặc giả biểu hiện những hiện tượng siêu tâm lý khác nhau, chẳng hạn như hiện tượng thần kích : tức là sự chuyển động các vật thể mà không cần viện đến lực vật chất…”
Những tiếng gõ đây chăng ? Động tác nẩy người lên xuống trên giường chăng ?
… “ Trong những trường hợp bị hồn người chết ám ảnh,có những biểu hiện như bài tường thuật của Oesterreich về một tu sĩ, ông này, đang khi bị ma ám, chợt trở nên một vũ công xuất sắc và tài năng, mặc dù trước khi bị ám, ông chưa hề nhảy múa lấy một bước. Lắm lúc, những biểu hiện này gây ấn tượng mạnh cho đến nỗi nhà tâm thần học Jung, sau khi trực tiếp nghiên cứu một trường hợp, đã chỉ có thể đưa ra một lời giải thích phiến diện về điều mà ông chắc chắn là “không thể nào ngụy tạo được…”
Đáng ngại thật. Giọng điệu của đọan văn này quá đáng quan ngại.
… “ và Willie James, nhà tâm lý học vĩ đại nhất mà Châu Âu từng sản sinh ra, cũng đành phải thừa nhận “tính chất khả thể của lối giải thích theo tinh thần thông linh học về hiện tượng đó” sau khi ông đã nghiên cứu tường tận cái gọi là “Kỳ quan Watseka” : mộtt cô gái vị thành niên ở Watseka, bang Illinois. Cô bé này đã mang lấy bản ngã giống hệt của một cô gái tên là Mary Roff đã chết cách đó 12 năm trước khi Watseka bị ám, trong một nhà thương điên ở tiểu bang…”
Cau mày, Chris không nghe thấy tiếng chuông cửa ngân vang, không nghe thấy Sharon dừng đánh máy lại, đứng lên ra mở cửa.
… “ Hiện tượng quỷ ám thường được cho là đã bắt nguồn từ thời kỳ sơ khai của Thiên Chúa giáo, tuy nhiên, trên thực tế, cả hai hiện tượng quỷ ám lẫn phép đuổi quỷ đều xuất hiện trước công nguyên rất xa. Các người Cổ Ai Cập và các nền văn minh tối cổ trên vùng sông Tigre và sông Euphrate đều tin rằng các rối lọan về tâm linh và thể xác đều phát sinh do lũ quỷ xâm lấn vào thân thể. Chẳng hạn như sau đây là câu chú trừ tà ma trong những bệnh trẻ em tại Cổ Ai Cập : “ Hãy đi khỏi đây, hỡi hồn linh đến từ cõi tối, kẻ có mũi lật ngược, có mặt lật úp. Có phải ngươi đến toan hôn đứa trẻ này chăng ? Ta không để cho ngươi…”
“ Chris ?”
Nàng vẫn đọc, mê mãi. “ Shar, tôi đang bận.”
“ Có một thanh tra Ban Án Mạng muốn gặp chị.”
“ Chúa ôi, này Sharon, bảo ông ta…”
Nàng ngưng bặt.
“ Khoan, khoan, hượm đã.” Chris cau mày, vẫn chăm chăm cuốn sách. “ Khoan, mời ông ấy vào đi. Cứ để ông ấy vào.”
Có tiếng bước chân. Có tiếng chờ đợi.
Ta đang chờ cái gì thế này ? Chris tự hỏi. Nàng an tọa trên nỗi mong đã được biết đến nhưng vẫn chưa thể định nghĩa, giống như một giấc mơ sống động mà người ta chẳng hề nhớ được.
Ông ta bước vào cùng Sharon, vành mũ nhúm nhó túm trong tay, ông ta vừa thở khò khè, vừa đi nghiêng ngả, vẻ cung kính. “ Rất lấy làm tiếc. Cô bận quá, bận quá. Tôi thật là quấy rầy.”
“ Thế giới ra sao rồi ?”
“ Rất tệ, rất tệ. Con gái cô thế nào ?”
“ Chẳng có gì thay đổi.”
“ Chà, tiếc quá, tôi lấy làm tiếc kinh khủng.” Lúc này, ông ta lúng ta lúng túng bên cạnh bàn, mắt ông ướt sũng vẻ âu lo. “ Lẽ ra tôi không được phép quấy rầy. Con gái cô, thật là một nỗi âu lo. Có Chúa biết, lúc Ruthie của tôi sụm xuống vì chứng – à, không, không, Sheila cơ, con bé…”
“ Mời ông ngồi xuống đi.” Chris cắt ngang.
“ Ồ, vâng, cảm ơn cô,” ông ta thở ra, với vẻ biết ơn, ông ta đặt người xuống trên một chiếc ghế bên kia bàn, đối diện Sharon lúc này đã quay trở lại với việc đánh máy thư từ.
“ Xin lỗi, ông đang nói gì nhỉ ?” Chris hỏi nhà thám tử.
“ Ồ, con gái tôi ấy mà, con bé, à, thôi đừng quan tâm.” Ông bỏ qua chuyện đó. “Cô đang bận, tôi xin bắt đầu ngay đây, tôi sẽ kể lại câu chuyện đời tôi, cô có thể đem đóng thành phim được đấy. Thật đấy ! Khó mà tin được ! Giá cô chỉ cần biết một nữa những điều thường diễn ra trong cái gia đình khùng điên của tôi, cô biết chứ, giống như thế - à được, cô là - Một chuyện, tôi sẽ kể cho cô nghe một chuyện ! Chẳng hạn như chuyện mẹ tôi, mỗi thứ sáu bà đều làm cho chúng tôi món chả cá, đấy! Duy có điều là suốt một tuần liền, suốt tuần ấy, chẳng ai tắm táp gì được vì mẹ tôi đã rộng con cá chép đó trong bồn tắm, nó cứ bơi tới bơi lui, bơi tới bơi lui, suốt tuần, vì mẹ tôi cho như thế sẽ trục hết được chất độc trong ruột cá! Cô sẵn sàng rồi chứ ? Vì nó…À, kể thế đủ rồi, bây giờ kể thế là đủ.” Ông ta thở dài mệt mỏi, phác tay ra dấu bỏ qua chuyện đó. “ Thỉnh thỏang ta cũng phải cười một phát cho khỏi phải khóc.”
Chris cứ nhìn ông ta, đờ đẩn, chờ đợi…
“ À, ra cô đang đọc sách.” Ông liếc cuốn sách khảo về thuật phù thủy. “ Lấy tài liệu cho một cuốn phim chăng ?” ông hỏi.
“ Chỉ đọc vậy thôi.”
“ Hay chứ ?’
“ Tôi mới bắt đầu.”
“ Phù thủy,” ông lẩm bẩm, đầu ông nghiêng ngả, đọc tựa sách trên đầu trang.
“ Ông có việc gì nào ?” Chris hỏi ông ta.
“ Vâng, tôi rất tiếc. Cô đang bận quá. Cô bận quá. Tôi xong ngay đây thôi. Như tôi đã nói rồi, tôi không muốn quấy rầy cô, trừ ra…”
“ Trừ ra cái gì ?”
Ông ta chợt nghiêm mặt lại, hai tay chắp trên bàn. “ Vâng, vụ ông Dennings, thưa bà MacNeil.”
“ Thì…”
“ Mẹ kiếp,” Sharon buột miệng vì bực bội, vừa lôi tọat bức thư ra khỏi trục máy chữ. Cô vò viên nó lại rồi ném nó vào giỏ rác cạnh Kinderman. “ Ôi, tôi xin lỗi.” Cô tạ lỗi lúc nhận ra tiếng rủa bực dọc của cô đã làm gián đọan câu chuyện của họ.
Chris và Kinderman đều nhìn trừng trừng.
“ Cô là Fenster ?” Kinderman hỏi cô gái.
“ Spencer,” Sharon lên tiếng, vừa kéo ghế chớm đứng lên ra nhặt bức thư.
“ Không sao, không sao,” Kinderman nói, vừa với tay xuống sàn gần chỗ chân và nhặt tờ giấy vò nhàu lên.
“ Cám ơn,” Sharon nói.
“ Không có chi. Xin lỗi. Cô là thư ký ?”
“ Sharon, đây là..”
“ Kinderman,” nhà thám tử nhắc nàng. “ William Kinderman.”
“ Được rồi. Còn đây là Sharon Spencer.”
“ Hân hạnh,” Kinderman ngỏ lời cùng cô gái tóc vàng lúc này đã khoanh tay trên bàn máy chữ, nhìn nhà thám tử với vẻ hiếu kỳ. “ Có lẽ cô có thể giúp ích được,” ông nói thêm. “ Vào đêm ông Dennings qua đời, cô rời nhà đi ra hiệu thuốc, để ông ta lại một mình ở nhà, đúng không ?”
“ Ồ không, có Regan ở đây nữa.”
“ Đó là con gái tôi.” Chris nói rõ.
Kinderman tiếp tục hỏi Sharon. “ Ông ta đến gặp bà MacNeil ?”
“ Vâng, đúng thế.”
“ Ông ta mong là bà MacNei sẽ về sớm ?”
“ Vâng, tôi có bảo ông ta là chắc chị ấy sẽ về ngay đấy thôi.”
“ Tốt lắm. Còn cô rời nhà lúc mấy giờ ? Cô nhớ chứ ?”
“ Để xem. Lúc đó tôi đang xem phần tin tức, cho nên tôi nghĩ - Ồ không, hượm đã - phải rồi, đúng rồi. Tôi còn nhớ lúc đó tôi bực mình vì nhà bào chế bảo là nhân viên giao hàng của họ đã ra về rồi.Tôi nhớ mình đã nói. “ Ủa, mới bây giờ ấy à,” một câu gì đại lọai là mới có 6 giờ 30 phút. Thế rồi Burke đến đúng mười phút hay hai mươi phút sau đó.
“ Vậy thì bù qua sớt lại,” nhà thám tử kết luận, “ cứ cho là ông ta đã đến đây hồi 6 giờ 45 phút đi.”
“ Thế tất cả mọi chuyện này là nghĩa gì ?” Chris hỏi, nổi căng thẳng ảm đạm trong người nàng càng lúc càng tăng.
“ Vâng, điều đó đặt ra một câu hỏi, thưa bà MacNeil.” Kinderman nói, giọng khản đặc, quay đầu lại nhìn nàng. “ Đến nhà này cứ cho là vào lúc 7 giờ kém 15 phút và chỉ 20 phút sau đã cáo lui rồi...”
“ Ồ, thì Burke là thế đó.” Chris đáp. “ Đúng anh ta là như thế.”
“ Cũng đúng là ông Dennings,” Kinderman hỏi, “ hay lui tới các quán rượu trên phố M. chứ ?”
“ Không.”
“ Không, tôi đã nghĩ là không. Tôi đã làm một kiểm chứng nhỏ. Và cũng đúng là ông ta không có thói quen di chuyển bằng taxi chứ ? Cũng đúng là ông ta không từ nhà gọi một chiếc taxi lúc ông ta cáo lui đấy chứ ?”
“ Có, ông ta có gọi.”
“ Thế thì người ta phải thắc mắc - phải không nào ? – là làm thế nào ông ta lại cuốc bộ tà tà trên thềm đường ở đầu dãy bậc cấp ấy, và người ta phải thắc mắc tại sao các hãng taxi lại không thể xuất trình được một hồ sơ ghi lại những cú điện thoại gọi thuê xe phát xuất từ ngôi nhà này vào đêm hôm ấy chứ ?” Kinderman nói thêm, “ ngoại trừ có một cú gọi cho chiếc taxi đã đến đón cô Spencer của bà đây vào lúc đúng 6 giờ 47 phút ?”
“ Tôi không biết,” Chris đáp, giọng nàng không còn chút sinh khí...và nàng chờ đợi.
“ Ông đã biết hết mọi chuyện!” Sharon há hốc nhìn Kinderman, đầy bối rối.
“ Vâng, xin bà bỏ lỗi cho tôi,” nhà thám tử bảo cô gái. “ Tuy nhiên, sự việc bây giờ đã trở nên nghiêm trọng.”
Chris thở không đầy hơi, mắt dán vào nhà thám tử. “ Về phương diện nảo ?” nàng hỏi. Giọng nàng thều thào trong họng.
Ông nghiêng người qua, đôi tay vẫn chắp trên bàn, trang giấy đánh máy vo tròn giữa đôi tay ông. “ Thưa bà MacNeil, bản phúc trình của chuyên viên bệnh lý dường như đã chứng tỏ rằng vẫn rất có thể cái chết của ông ta là do tai nạn. Tuy nhiên...”
“ Có phải ông định nói là anh ta đã bị giết không ?” Chris căng thẳng.
“ Tư thế - tôi biết điều này thật rất đau đớn…”
“ Cứ nói.”
“ Tư thế đầu của Dennings và vết lột của các cơ bắp trên cổ đã...”
“ Ôi, Chúa ơi !” Chris rúm người lại.
“ Vâng, thật là đau xót. Tôi rất tiếc. Tôi thật hối tiếc kinh khủng. Nhưng bà thấy đó, một tình trạng như vậy ta có thể bỏ qua các tiểu tiết không bao giờ có thể xảy ra trừ phi ông Dennings đã bị ngã và rơi qua một khoảng cách nào đó rồi mới chạm vào bậc cấp, ví dụ như rơi khoảng bảy hay muời thước trước khi lăn lông lốc xuống đến chân bậc cấp. Như vậy, một khả năng hiển nhiên, nói trắng ra có lẽ là...Chà, trước hết để tôi hỏi cô đã...”
Lúc này ông quay sang một cô Sharon đang cau mày. “ Lúc cô rời nhà, thì ông ta ở đâu, ông Dennings ấy ? Với đứa trẻ chăng ?”
“ Không, ông ta ở trong văn phòng ngay dưới này. Ông ta đang pha rượu uống.”
“ May ra con gái bà còn nhớ,” ông quay sang Chris , “ là ông Dennings có ở trong phòng cô bé đêm đó hay là không chăng ?”
Không biết con bé có từng ở một mình với anh ta không ?
“ Sao ông hỏi vậy ?”
“ May ra con gái bà còn nhớ chăng ?”
“ Không đâu, tôi đã bảo ông rồi, cháu đã được chích thuốc an thần với liều lượng mạnh, và...”
“ Vâng, vâng, bà đã kể cho tôi rồi, đúng vậy. Tôi nhớ rồi. Nhưng có lẽ cô bé có tỉnh giấc chăng, và...”
“ Không thể có chuyện đó. Và...”
Ông ta ngắt ngang. “ Vậy lần trước chúng ta nói chuyện với nhau, cô bé cũng được tiêm thuốc an thần đấy chứ ?”
“ Thì, vâng, đúng là cháu đã được chích thuốc,” Chris hồi tưởng. “ Vậy thì sao ?”
“ Tôi nghĩ là tôi có trông thấy cô bé nơi cửa sổ phòng vào ngày hôm ấy.”
“ Ông lầm rồi.”
Ông ta nhún vai. “ Có thể lắm. Có thể lắm. Tôi không dám chắc.”
“ Nghe đây, tại sao ông lại hỏi mọi chuyện này ?” Chris căn vặn.
“ Vâng thì, một khả năng thấy rõ, như tôi đã nói đó, là có lẽ người chết đã quá say đến độ ông ta vấp chân và ngã xuống từ phòng ngủ của con gái bà chứ sau.”
Chris lắc đầu. “ Tuyệt không. Không thể có trường hợp đó. Trước hết, cửa sổ phòng đó luôn luôn đóng kín, hai nữa, Burke bao giờ cũng say, nhưng anh ta không bao giờ bất cẩn chút nào. Đúng không, Shar ?”
“ Đúng vậy.”
“ Burke thường đạo diễn phim khi anh ta say mèm. Vậy thì có lý nào anh ta lại sẩy chân và rơi ra ngoài cửa sổ được.”
“ Có thể đêm đó bà đang chờ đợi một ai khác nữa không ?” Ông ta hỏi nàng.
“ Không.”
“ Bà có người bạn nào ghé thăm mà không thông báo trước không ?”
“ Chỉ có Burke thôi,” Chris trả lời. “ Sao vậy ?”
Nhà thám tử cúi đầu, lắc lia lịa, cau mày ngó mảnh giấy vò nhàu trong đôi tay. “ Lạ lùng…rối rắm thật.” Ông thở dài mệt mỏi. “ Rối rắm thật.” Rồi ông ngước lên nhìn Chris. “ Người chết đã đến thăm, lưu lại có hai mươi phút, thậm chí chưa kịp gặp bà, rồi bỏ đi để lại mỗi mình đứa bé gái bệnh rất nặng. Ngay thẳng mà nói, thưa bà MacNeil, như lời bà, không lý gì ông ta lại ngã từ cửa sổ xuống. Với lại một cái ngã không thể nào gây ra cớ sự cho cái cổ của ông ta như chúng tôi đã mục kích, hoặc có đi nữa, thì cũng chỉ là trường hợp ngàn lần có một mà thôi.” Ông gật đầu về phía cuốn sách khảo về thuật phù thủy. “ Bà có đọc trong sách đó về mục giết người theo nghi lễ chưa ?”
Một dự cảm nào đó làm nàng lạnh cóng người. Chris lắc đầu.
“ Có lẽ cuốn sách này không đề cập đến chuyện đó,” ông bảo. “ Tuy nhiên – xin tha lỗi cho tôi, tôi chỉ đề cập đến việc này để có lẽ giúp bà suy nghĩ kỹ hơn một chút nữa – ông Dennings khốn khổ được khám phá với cần cổ bị vặn quặt ra sau theo cái kiểu giết người trong nghi lễ thờ phượng bởi cái gọi là những ác quỷ đấy, thưa bà MacNeil.”
Chris tái hẳn mặt.
“ Một kẻ điên lọan nào đó đã giết ông Dennings,” nhà thám tử tiếp tục, mắt vẫn dán chặt lấy Chris. Lúc đầu, tôi không hề nói với bà điều ấy để tránh làm thương tổn đến bà. Vả lại xét về mặt kỷ thuật, nó vẫn có thể là một tai nạn. Nhưng tôi, tôi không nghĩ như vậy. Linh tính nghề nghiệp. Ý kiến của tôi thế đấy.Tôi tin rằng ông ta đã bị một người mạnh mẽ giết chết, điểm thứ nhất. Rồi xương sọ của ông ta bị vỡ, điểm thứ hai; cộng thêm nhiều điểm khác mà tôi đã đề cập đến khiến ta phải nghĩ rằng - rất có thể chứ không phải là chắc chắn – là người chết đã bị giết rồi sau đó bị đẩy xuống cửa sổ phòng con gái bà. Vậy thì làm sao có thể xảy ra việc đó được ? Có thể là thế này: nếu có ai đó đến vào khỏang giữa lúc cô Spencer rời nhà với lúc bà trở về. Không phải thế sao ? Có lẽ là thế. Vậy tôi xin lập lại câu hỏi: ai có thể đến vào lúc ấy ?”
“ Trời đất ơi, xin đợi cho một giây thôi !” Chris thì thầm, giọng khản đặc, vẫn còn trong cơn sốc.
“ Vâng, tôi xin lỗi. Thật hết sức đau đớn và có lẽ tôi hòan tòan sai, tôi công nhận như vậy. Nhưng bây giờ bà chịu khó suy nghĩ chứ ? Ai ? Cho tôi biết ai có thể đến ?”
Chris cuối đầu, cau mày nghĩ ngợi. Rồi nàng ngước lên nhìn Kinderman. “ Không, không, chẳng có một ai hết.”
“ Có lẽ đến lượt cô vậy, cô Spencer,” ông ta hỏi cô gái. “ Có ai đó đến thăm cô chăng ?”
“ Ồ không, không có ai cả.” Sharon đáp, mắt nàng mở to.
Chris quay sang cô gái, “ Chàng kỵ mã đó có biết chỗ cô làm việc không ?”
“ Chàng kỵ mã ?” Kinderman hỏi.
“ Bạn trai của cô a,” Chris giải thích.
Cô gái tóc vàng lắc đầu. “ Anh ta chưa bao giờ đến đây. Hơn nữa, đêm đó anh ta ở Boston. Dự một hội nghị gì đó.”
“ Anh ta là một thương nhân ?”
“ Một luật sư.”
Nhà thám tử quay trở lại Chris. “ Đám gia nhân ? Họ có khách khứa gì không ?”
“ Không bao giờ. Không hề.”
“ Hôm đó, bà có chờ đợi một kiện hàng nào không ? Một vụ giao hàng nào đó ?”
“ Theo chỗ tôi biết thì không. Tại sao vậy ?”
“ Ông Dennings – ta không dám nói xấu người đã chết, cầu cho ông ta được yên nghỉ - thể theo lời bà nói, khi say sưa ông ta khá là, chà, ta cứ gọi là bẳn tính: rất có thể ông ta đã gây ra một vụ cãi cọ, một cơn giận, trong trường hợp này có lẽ là cơn giận dữ của một nhân viên giao hàng đến giao một kiện hàng tại nhà. Vậy lúc đó bà có đang mong đợi một cái gì không ? Một mớ quần áo giặt ủi chẳng hạn ? Hàng thực phẩm ? Rượu ? Một kiện hàng ?”
“ Thực sự tôi cũng không biết nữa,” Chris bảo ông ta. “ Ba cái vụ đó đã có Karl lo cả.”
“ À, tôi hiểu.”
“ Ông muốn hỏi anh ta chăng ?”
Nhà thám tử thở dài và ngồi dựa ngửa cách xa bàn, hai tay thủ trong túi áo khóac. Ông nhìn chăm chú cuốn sách khảo về thuật phù thủy với vẻ u sầu. “ Không sao, không sao, điều đó chẳng có gì liên hệ. Bà có cô con gái rất đau yếu, và, chà, không sao cả.” Ông phác một cử chỉ phỉ phui rồi đứng dậy khỏi ghế. “ Rất vui được gặp cô, thưa cô Spencer.”
“ Đây cũng vậy,” Sharon gật đầu, vẻ xa vắng.
“ Rối rắm thật,” Kinderman nói với một cái lắc đầu. “ Lạ lùng thật.” Ông ta tập trung một tư tưởng sâu kín nào đó. Rồi ông nhìn Chris lúc nàng đứng dậy khỏi ghế. “ Vâng. Tôi rất tiếc. Tôi đã quấy rầy bà vì một chuyện không đâu. Xin thứ lỗi cho.”
“ Để tôi đưa ông ra cửa.” Chris trầm ngâm bảo ông ta.
“ Không dám phiền bà.”
“ Chẳng có gì phiền.”
“ Vâng, nếu bà đã khăng khăng như thế. À này,” ông ta nói lúc họ rời khỏi nhà bếp, “ tôi biết đây chỉ là một trường hợp hú họa triệu lần may ra có một, nhưng con gái bà, bà có thể hỏi xem cô ta có thấy ông Dennings ở trong phòng cô vào đêm hôm ấy được không ?”
Chris bước đi, hai tay khoanh lại, “ Chà, trước hết phải nói là ông ta chẳng có lý do gì để ở trong phòng con bé cả.”
“ Tôi biết điều đó, tôi hiểu, đúng là như vậy, nhưng nếu các bác sĩ người Anh nào đó đã chẳng bao giờ hỏi “ Cái lọai nấm này là gì vậy ?” thì có lẽ ngày nay chúng ta đã không có trụ sinh penicillin. Đúng không ? Vậy xin bà cứ hỏi giúp cho. Bà vui lòng hỏi chứ ?”
“ Khi con bé đủ khỏe, vâng, tôi sẽ hỏi.”
“ Không gây thương tổn gì đâu. Còn bây giờ thì…” Họ đã ra đến cửa trước và Kinderman cứ ấp a ấp úng, đầy bối rối. Ông đặt mấy đầu ngón tay lên miệng với dáng điệu ngập ngừng. “ Chà, tôi rất ngại phải hỏi, thế nhưng…”
Chris căng người vì một cơn sốc mới, mối dự cảm kia lại lăn tăn trong mạch máu nàng. “Gì vậy cơ ?”
“ Bà vui lòng tặng chữ ký …cho con gái tôi được không ạ ?” Mặt ông đỏ bừng, và Chris súyt bật cười vì nhẹ nhõm, cười cho chính nàng, cho nỗi thất vọng và tình cảm con người.
“ Dĩ nhiên là được, ông có bút chì chứ ?” nàng nói.
“ Có ngay đây !” Ông đáp tức thì, móc trong túi ra một mẩu bút chì cụt ngủn đã bị nhai nham nhở cả đầu bút, còn tay kia ông ta thò vào túi áo vét rút ra một tấm danh thiếp. “ Con gái tôi sẽ thích lắm,” ông ta nói, vừa trao giấy bút cho Chris.
“ Cô bé tên gì nhỉ ?” Chris hỏi, tựa tấm thiếp trên cửa và đặt ngay ngắn mẩu bút chì, chực viết. Tiếp theo đó là một sự lưỡng lự nặng trĩu. Nàng chỉ nghe được tiếng thở khò khè. Nàng nhìn ra sau. Trong mắt Kinderman nàng nhìn ra được vẻ phấn đấu lớn lao, khủng khiếp.
“ Tôi đã nói dối,” rốt cuộc ông ta nói, đôi mắt ông thoắt nên liều lĩnh và thách thức. “ Tôi xin chữ ký cho tôi đây.”
Ông nhìn chăm tấm danh thiếp và đỏ mặt. “ Hãy viết tặng William, William Kinderman, tên có ghi rõ ở mặt lưng ấy.”
Chris nhìn ông với một thiện cảm không ngờ và bâng khuâng, kiểm soát lại chính tả của tên ông ta và viết, William F. Kinderman, tôi yêu ông ! Rồi nàng ký tên. Sau đó, nàng trao tấm thiếp cho ông, ông đút nó vào túi, không đọc hàng chữ viết.
“ Bà là một mệnh phụ khả ái,” ông rụt rè bào nàng, mắt nhìn chỗ khác.
“ Ông là một bậc nam nhi dễ mến.” Trông ông có vẻ đỏ mặt tợn hơn nữa.
“ Không, không phải thế đâu. Tôi chỉ là kẻ quấy rầy.” Ông mở cửa. “ Đừng bận tâm về những điều tôi vừa nói bữa nay. Điều đó bực mình lắm. Quên nó đi. Hãy để tâm trí lo cho con gái bà. Con gái của bà.”
Chris gật đầu, nỗi chán chường lại dậy lên trong nàng lúc Kinderman bước ra sân trước và ngả nón.
“ Nhưng bà sẽ hỏi cô bé chứ ?” Ông nhắc nhở lúc quay lại.
“ Tôi sẽ hỏi,” Chris thì thào. “ Tôi hứa là tôi sẽ hỏi.”
“ Thôi, tạm biệt bà, và hãy bảo trọng.”
Một lần nữa, Chris gật đầu, rồi thêm, “ cả ông nữa.”
Nàng khẽ đóng cửa lại. Rồi lập tức lại mở nó ra khi ông ta gõ.
“ Thật quấy quả quá ! Tôi thật quấy rầy quá. Tôi bỏ quên cây bút chì.” Ông nhăn mặt xin lỗi.
Chris nhìn mẩu bút chì trong tay nàng, cười héo hắt rồi trả nó cho Kinderman.
“ Còn một việc nữa,” ông ta ngần ngừ. “Không nghĩa lý gì. Tôi biết - chỉ tổ quấy rầy, ngốc nghếch – nhưng tôi biết tôi sẽ không thể nào ngủ được khi nghĩ rằng có lẽ có một tên điên nào đó xổng chuồng hay một tên xì ke ma túy còn tự tung tự tác chỉ vì tôi chưa sâu sát coi ngó đến tất cả mọi tiểu tiết, vô luận là nhỏ nhặt đến đâu. Bà nghĩ rằng tôi có thể - ồ, không, không, thế thì ngớ ngẩn quá, đúng là – vâng, vâng, tôi cần phải tiến hành thôi.Có lẽ tôi xin phép được nói một lời với ông Engstrom, bà nghĩ sao ? Các chuyến giao hàng...câu hỏi về các chuyến giao hàng. Tôi nhất thiết phải...”
“ Được thôi, mời ông vào.” Chris mêt mỏi nói.
“ Không, bà bận rộn quá. Đủ rồi. Tôi có thể nói chuyện với ông ta tại đây. Thế là tốt rồi. Ngay chỗ này là tốt rồi.”
Ông ta nghiêng người trên lan can.
“ Nếu ông cứ khăng khăng,” Chris mỉm cười nhợt nhạt. “ Anh ta đang ở bên Regan. Tôi sẽ cho gọi anh ta xuống.”
“ Đa tạ bà.”
Chris nhanh chóng đóng cửa lại. Một phút sau, Karl lại mở cánh cửa ấy. Anh ta bước xuống sân trước, một tay đặt trên quả đấm cửa, giữ cửa mở hé. Đứng cao lêu nghêu như cây tre miễu, anh ta nhìn Kinderman với đôi mắt trong sáng và bình thản. “ Vâng ?” Anh ta hỏi, không một nét biểu lộ.
“ Ông có quyền giữ yên lặng,” Kinderman nghinh tiếp anh ta, tia nhìn sắt thép của ông khóa chặt lấy tia mắt Karl. “ Nếu ông từ bỏ quyền giữ yên lặng,” ông ta nói nhanh với một âm điệu phẳng lì, trí mạng, “ thì bất cứ điều gì ông nói đều có thể và sẽ được sử dụng để chống lại ông trước tòa án. Ông có quyền nói trước mặt một luật sư và vị luật sư đó sẽ hiện diện trong lúc thẩm vấn. Nếu ông muốn như thế, và không đủ khả năng mướn một luật sư, chúng tôi sẽ cử đến một luật sư miễn phí cho ông trước khi thẩm vấn. Ông có hiểu rõ mọi quyền lợi mà tôi vừa giải thích cho ông không ?”
Chim chóc ríu rít líu lo trong đám cành cây cổ thụ. Tiếng xe cộ lưu thông từ Phố M. vẳng lên đến họ, nghèn nghẹn như tiếng bầy ong vò vẻ từ một đám cỏ xa tắp. Tia nhìn của Karl không hề chao đảo lúc anh trả lời, “CÓ”.
“ Ông muốn từ bỏ quyền giữ im lặng không ?”
“ Vâng.”
“ Ông muốn từ bỏ quyền nói trước mặt luật sư và có sự hiện diện của ông ta trong lúc thẩm vấn không ?”
“ Vâng.”
“ Có phải trước đây ông đã khai rằng vào hôm 28 tháng Tư, đêm xảy ra cái chết của ông Dennings, ông đã đi xem một phim trình chiếu tại rạp Crest không ?’
“ Phải.”
“ Ông vào rạp đó lúc mấy giờ ?”
“ Tôi không nhớ.”
“ Trước đây, ông đã khai rằng ông xem xuất chiếu 6 giờ. Chi tiết đó có giúp ông nhớ lại được không ?”
“ Vâng, vâng, đúng xuất 6 giờ. Tôi nhớ rồi.”
“ Vậy là ông đã xem tuồng đó – phim đó - từ đầu chứ ?”
“ Đúng vậy.”
“ Không trước đó chứ ?’
“ Không, tôi xem đến hết phim.”
“ Rời rạp chiếu bóng, ông lên chuyến buýt Thành phố ngay trước rạp, xuống xe tại góc phố M. và Đại lộ Wisconsin vào khoảng 9 giờ 20 phút tối.”
“ Vâng.”
“ Rồi đi bộ về nhà ?”
“ Tôi đi bộ về.”
“ Và về đến nhà này vào khỏang 9 giờ 30 tối ?”
“ Tôi về đến đây đúng 9 giờ 30.” Karl đáp.
“ Ông chắc vậy ?”
“ Vâng, tôi có xem đồng hồ. Tôi quả quyết là như vậy.”
“ Và ông đã xem trọn bộ phim từ đầu đến cuối ?”
“ Vâng, tôi đã nói rồi.”
“ Các câu trả lời của ông đang được ghi âm lại, thưa ông Engstrom. Tôi muốn ông phải tuyệt đối khẳng định.”
“ Tôi khẳng định.”
“ Ông có biết một vụ gây gổ giữa một nhân viên xếp chỗ trong rạp với một ông khách say xảy ra vào năm phút cuối của phim chứ ?”
“ Có.”
“ Ông có thể cho tôi biết lý do vụ đấu khẩu đó không ?”
“ Ông khách đó say rượu và gây lộn xộn.”
“ Cuối cùng họ xử trí với ông ta ra sao ?”
“ Đuổi ra. Họ tống cổ ông ta ra ngòai.”
“ Không hề có vụ lộn xộn như thế cả. Và ông có biết là trong xuất chiếu sáu giờ đó đã xảy ra một trục trặc kỹ thuật kéo dài đâu khỏang mười lăm phút làm gián đọan việc chiếu phim không ?”
“ Tôi không biết.”
“ Ông có nhớ là khán giả la ó phản đối không ?”
“ Không, không có chuyện gì cả. Không có biến cố kỹ thuật nào hết.”
“ Ông chắc chứ ?”
“ Không có chuyện gì cả.”
“ Đã có đấy, như đã được phản ảnh trong sổ nhật ký của nhân viên phòng chiếu, buổi chiếu phim hôm đó đã kết thúc không phải lúc 8 giờ 45 phút tối, mà là khỏang 8 giờ 55 phút, điều đó có nghĩa là chuyến xe búyt sớm nhất khởi hành từ rạp hát đưa ông về đến góc phố M. và Đại lộ Wisconsin không phải lúc 9 giờ 20, mà là lúc 9 giờ 45, do đó, thời điểm sớm nhất mà ông có thể về đến nhà này là khỏang 10 giờ kém 05 phút, chứ không phải là 9 giờ 30 như điều bà MacNeil cũng đã làm chứng. Bây giờ xin ông bình luận về điểm mâu thuẩn khó hiểu này cho.”
Không hề có một giây phút nào mà Karl đánh mất vẻ bình tĩnh và anh ta vẫn giữ vững thái độ đó khi đáp, “ Không.”
Suốt một lúc, nhà thám tử cứ câm lặng nhìn anh đăm đăm, rồi ông ta thở dài ngó xuống, lúc ông tắt núm điều khiển máy ghi âm được nhét trong lần lót áo khóac. Ông cứ ghìm tia nhìn xuống một lúc, rồi ngước lên nhìn Karl. “ Ông Engstrom…” Ông bắt đầu bằng một giọng chán chường trĩu nặng thông cảm. “ Một tội ác nghiêm trọng có lẽ đã xảy ra. Ông đang bị tình nghi. Ông Dennings đã sỉ nhục ông, tôi được biết điều đó do nhiều nguồn tin khác nhau. Và rõ ràng là ông đã nói dối về nơi chốn ông có mặt lúc xảy ra cái chết của ông ta. Ồ, chuyện đó đôi khi vẫn xảy ra – chúng ta là con người mà, tại sao không ? - một nguời đàn ông có vợ, có mặt ở một nơi mà anh ta bảo là anh ta không hề đến đó. Chắc hẳn ông nhận thấy là tôi dàn xếp để chúng ta nói chuyện thật riêng tư, kín đáo đấy chứ ? Không có mặt ai khác ? Không có mặt vợ ông ? Lúc này tôi cũng không ghi âm đâu. Máy đã tắt. Ông có thể tin ở tôi. Nếu tình cờ đêm hôm đó ông đi đâu với một phụ nữ không phải là vợ ông, ông cứ bảo cho tôi biết, tôi sẽ kiểm chứng việc đó, ông sẽ thóat khỏi chuyện rắc rối này mà vợ ông cũng sẽ không hay biết gì hết. Vậy bây giờ ông hãy nói tôi nghe, ông đã ở đâu vào thời điểm Dennings chết ?”
Trong thóang chốc, một nét gì đó lóe lên từ cõi thẳm của đôi mắt Karl rồi bị dập tắt ngay.
“ Ở rạp chiếu phim !” Anh ta nói, khăng khăng, môi mím chặt.
Nhà thám tử nhìn anh ta đăm đăm, lặng lẽ, không nhúc nhích, không một tiếng động nào ngọai trừ tiếng thở khò khè của ông ta lúc từng giây đồng hồ cứ tích tắt, tích tắt trôi qua một cách nặng nề, thật nặng nề.
“ Ông sẽ bắt giữ tôi chứ ?” Rốt cuộc, Karl hỏi vào cõi yên lặng, bằng một giọng thóang dao động.
Nhà thám tử không đáp mà cứ tiếp tục nhìn anh không chớp, và lúc Karl có vẻ dợm muốn nói nữa, nhà thám tử chợt đẩy bật người ra khỏi thành lan can, di chuyển về phía xe tuần cảnh, hai tay thủ trong túi. Ông bước đi không vội vã, ngắm nhìn chung quanh từ trái qua phải như một vị khách hiếu kỳ đến thăm thành phố.
Từ sân trước, Karl nhìn theo, sắc mặt anh ta thản nhiên và lạnh lùng lúc Kinderman mở cửa xe, với tay vào hộp khăn giấy Kleenex để trong hộc gắn trên mặt đồng hồ điều khiển, rút ra một tấm, hỉ mũi vào, vừa nhìn lãng đãng qua bên kia sông như thể suy nghĩ đến một nơi ăn trưa. Sau đó, ông ta lên xe, không hề ngóai lại.
Lúc chiếc xe lao đi, quặt qua góc Phố Ba Mươi Lăm, Karl nhìn bàn tay không đặt trên quả nắm cửa và thấy nó run rẩy.
Lúc nàng nghe tiếng cánh cửa trước đóng lại, Chris đang ngồi trầm tư ở quầy rượu trong văn phòng, rót rượu vốt-ka vào ly nước đá. Có tiếng bước chân. Karl đang đi lên cầu thang. Nàng cầm ly vốt-ka lên, thong thả trở lại bếp, khuấy ly rượu bằng ngón tay trỏ, vừa lần từng bước với đôi mắt thẩn thờ. Một điều gì đó…một điều gì đó tồi tệ kinh khủng. Giống như ánh sáng từ một căn phòng len lách qua ngạch cửa, một cảm giác hãi hùng thẩm thấu vào cõi hành lang tăm tối của thần trí nàng. Đằng sau cánh cửa đó có cái gì đang chực sẳn ? Cái gì vậy ?
Đừng nhìn !
Nàng bước vào bếp, ngồi xuống bàn và nhắm nháp món rượu.
… “ Tôi tin rằng ông ấy đã bị giết bởi một người mạnh mẽ…”
Nàng thả tia nhìn xuống cuốn sách khảo về thuật phù thủy.
Một điều gì đó…
Tiếng bước chân. Sharon từ buồng ngủ của Regan quay trở lại. Bước vào. Ngồi xuống bàn cạnh máy chữ. Lắp một trang giấy mới vào trục máy.
Một điều gì đó…
“ Thật rợn tóc gáy,” Sharon thì thầm, mấy ngón tay cô nghĩ yên trên bàn chữ, mắt nhìn vào bản ghi tốc ký bên cạnh.
Không có tiếng trả lời. Vẻ bất ổn bàng bạc trong căn phòng. Chris thờ ơ nhấp rượu.
Sharon thăm dò cõi yên lặng, bằng một giọng trầm, căng thẳng. “ Có một lô một lốc các tụ điểm hippi quanh Phố M. và Đại lộ Wisconsin. Bọn hút cần sa. Bọn tín đồ đạo thần bí. Cảnh sát gọi chúng là “bọn chó ngao”. Nàng dừng lại như thể chờ lời bình luận, mắt vẫn nhìn chăm chú bản tốc ký, rồi tiếp tục. “ Em thắc mắc không biết có phải Burke đã…”
“ Trời đất ơi, Shar ! Cho tôi xin, quên phắt chuyện đó đi !” Chris nổ tung. “ Tôi đã đủ rối trí về chuyện Rags rồi ! Cô không phiền chứ ?” Nàng nhắm mắt lại. Nàng gấp sách lại.
Sharon quay phắt lại với chiếc máy chữ, đánh với một tốc độ kinh khủng trong suốt một phút, rồi chợt đứng bật dậy khỏi ghế, tuôn ra khỏi bếp. “ Em đi bách bộ một lúc !” Cô gái nói lạnh như băng.
“ Hãy tránh cho xa cái Phố M. khốn kiếp đó !” Chris quát tháo cô gái một cách bực dọc, nàng vẫn nhìn cuốn sách qua đôi tay khoanh lại.
“ Vâng.”
“ Cả phố N. nữa.”
Chris nghe tiếng cánh cửa trước mở ra, rồi đóng lại. Nàng thở dài. Cảm thấy bàng hòang hối hận. Nhưng chuyện nổi cáu này lại giúp làm giảm bớt căng thẳng. Không phải là hết hẳn. Vẫn còn cái cảm giác đó trong hành lang. Nhưng rất mờ nhạt.
Rứt nó ra khỏi tâm trí đi !
Chris hít một hơi dài, cố chú mục vào cuốn sách. Nàng tìm ra đọan đọc dở, trở nên nôn nóng, vội vội vàng vàng lật lướt các trang, đọc lóang, tìm ra những chỗ mô tả các triệu chứng của Regan. “ …quỷ ám…triệu chứng…trường hợp một cô bé tám tuổi…dị thường…bốn người đàn ông lực lưỡng kềm chặt anh ta cho khỏi…”
Lật qua một trang. Chris trợn mắt và lạnh cóng người.
Có tiếng động. Willie đi mua thực phẩm về.
“ Willie ? Willie ?” Chris hỏi, giọng lạc hẳn.
“ Vâng, thưa bà.” Willie đáp, đặt mấy túi xách xuống. Không nhìn lên, Chris giơ cao cuốn sách. “ Có phải chị đã để cuốn sách này trong văn phòng không, Willie ?”
Willie liếc nhìn cuốn sách và gật đầu, rồi quay lại bắt đầu xếp các thứ trong các túi xách ra.
“ Willie, chị tìm thấy cuốn sách này ở đâu ?”
“ Trong phòng ngủ trên lầu.” Willie đáp, vừa bỏ thỏi giăm-bông vào ngăn đựng thịt trong tủ lạnh.
“ Phòng ngủ nào, Willie ?”
“ Cô Regan. Tôi tìm thấy nó dưới giường khi dọn dẹp.”
“ Chị tìm thấy nó lúc nào ?” Chris hỏi, mắt nàng vẫn dán chặt vào các trang sách.
“ Sau khi mọi người vào y viện, thưa bà, khi tôi đang hút bụi trong phòng ngủ của Regan.”
“ Chị chắc chứ ?”
“ Dạ chắc, thưa bà. Vâng, tôi đoan chắc là vậy.”
Chris không động đậy, không nháy mắt, không thở lúc cái hình ảnh sừng sững của cánh cửa sổ mở toang trong phòng ngủ Regan vào cái đêm tai biến của Dennings cứ lao thẳng đầu về phía hồi ức nàng, các móng vuốt của nó vươn ra, như một con chim săn mồi quen biết tên nàng, lúc nàng nhận ra được một cảnh tượng quen thuộc đến lịm người, lúc nàng nhìn đăm đăm vào trang sách trước mặt.
Một rẻo sách nhỏ đã được rọc ra khỏi rìa trang sách như vết rạch của một nhà phẫu thuật, suốt theo chiều dọc.
Chris bật nẩy đầu lên trước những tiếng huyên náo vang dậy trong phòng Regan.
Những tiếng gõ nhanh, với âm thanh vang dội như cơn ác mộng, đầy khắp, giống như một chiếc búa tạ nện trong một hầm mộ.
Regan kêu thét đau đớn, khủng khiếp, van xin !
Karl! Karl đang giận dữ quát tháo Regan !
Chris tung chạy khỏi bếp.
Chúa ơi, chuyện gì thế này !
Điên cuồng, Chris phóng lên cầu thang, về phía phòng ngủ, nghe thấy một cú đấm, tiếng ai đó lăn lông lốc, có ai đó dọng xuống sàn đánh rầm như một cục đá cùng với tiếng con gái nàng kêu thét, “ Không! Đừng, đừng mà! Xin đừng mà !” và Karl gầm thét – Không, không phải Karl! Một người nào khác! Một âm thanh trầm đục như sấm dậy đầy đe dọa, đầy phẫn nộ !
Chris tuôn xuống hành lang, ào vào phòng ngủ, mồm há hốc đứng mọc rễ trong cơn chấn động đến tê cóng lúc những tiếng gõ đập bùm bùm vang dậy, rung chuyển cả tường, lúc Karl nằm bất tỉnh trên sàn nhà, gần chiếc tủ ngăn kéo, còn Regan, hai chân hẩy lên, dạng háng trên giường, nẩy tưng tưng và lắc lư dữ dội, hai bàn tay trơ khớp ghìm chặt cỗ thập ác trắng phếu như xương, cỗ thập ác lơ lửng trước cửa mình cô bé , cỗ thập ác trắng như xương mà cô bé cứ nhìn đăm đăm trong nỗi hãi hùng, đôi mắt cô bé lồi ra trên khuôn mặt đẫm máu mũi, chiếc ống truyền dịch vào đường mũi-dạ dày đã bị rứt ra ngòai.
“ Ôi, xin thôi đi mà ! Ôi, xin đừng thế nữa mà.” Con bé rít lên lúc hai tay nó đưa cỗ thập ác vào sát hơn, lúc như thể nó đang ráng sức để đẩy cỗ thập ác ra.
“ Mày phải làm theo lệnh tao, đồ rác rưởi! Mày phải làm chuyện đó đi !”
Tiếng quát tháo sấm sét đó, những ngôn từ đó, phát ra từ Regan, giọng nói của con bé khàn khàn, nhám nhúa trong cổ họng, chơm chởm những nọc độc, trong khi đó nhanh như ánh chớp, vẻ mặt và những nét đặc trưng của cô bé bị biến đổi một cách gớm ghiếc ra hình dong của bản ngã quỷ dữ hung hiểm đã từng có lần xuất hiện trong lúc thôi miên. Giờ đây, những khuôn mặt và những giọng nói, lúc Chris nhìn sũng sờ, cứ lần lượt xen kẻ nhau, nhanh loang lóang.
“ Không !”
“ Mày phải làm !’
“ Cho xin mà !”
“ Mày phải làm, đồ chó, nếu không tao giết mày !”
“ Thôi mà !”
Regan lúc đó mắt mở trợn trừng, chao đảo trước sức rấn tới của một sự chung quyết hung hãn nào đó; miệng há hốc, rít lên trước nỗi kinh hòang của một sự kết thúc nào đó. Rồi đột nhiên, gương mặt ác quỷ lại một lần nữa ám ảnh lấy con bé, làm đầy tràn nó, căn phòng bỗng chốc nồng nặc mùi hôi thối sặc mũi, cùng với một cơn lạnh băng giá thấm qua tường lúc các tiếng gõ chấm dứt, và tiếng thét hãi hùng bằn bặc biến thành một trận cười ăng ẳng trong cổ họng, nó chất chứa một nỗi thù ghét ác ôn và cơn cuồng nộ tòan thắng trong khi cô bé cứ đâm cỗ thập ác vào cửa mình và bắt đầu thủ dâm một cách tàn bạo, vừa rống lên bằng cái giọng chát chúa, nhám nhúa sâu ngun ngút, “ Bây giờ mày là của tao rồi, mày là của tao rồi, con bò cái hôi hám ạ ! Đồ chó kia ạ !”
Chris đứng như trời trồng trong nỗi kinh khiếp, tê cóng cả người, hai tay nàng áp chặt hai bên má khi tiếng cười khằng khặc như sấm của quỷ dữ lại cất lên hoan hỉ. Thình lình, với một tiếng rít cào ra từ cuống họng, Chris xông đến giường, giằng đại lấy cỗ thập ác, và nàng vẫn la hét lúc Regan nhìn tóe lửa vì phẫn nộ, nét mặt cô bé nhúm nhó lại trong vẻ cùng hung cực ác, nó đưa một tay ra nắm lấy tóc Chris, ghì đầu nàng xuống, làm dây bê bết máu trên mặt nàng trong lúc vùng xương chậu của nó cứ sàn như sóng lượn một cách điên lọan.
“ A ha ha ! Con heo mẹ bé bỏng đây rồi !” Regan ngâm nga với giọng điệu khích dục khằng khặc, ken két trong cổ họng.
Thế rồi bàn tay đang ghì đầu Chris xuống kia vội giật ngữa đầu nàng lên trong khi cánh tay kia giáng một đòn vào ngực nàng, ném nàng lăn lông lốc qua tuốt bên kia phòng, đánh “rầm” vào tường với một sức mạnh chóang váng giữa lúc Regan cười hể hả trong nỗi oán hận như sấm động.
Chris quỵ xuống sàn trong nỗi sảng sốt kinh khiếp, trong cõi quay cuồng cơ man những hình ảnh, những tiếng động trong phòng, lúc thị giác nàng xoay tít điên cuồng, chao mờ, không rõ nét, tai nàng u u vang vang những loạn âm hỗn độn lúc nàng cố nhấc người lên, nàng quá sức yếu mòn, lảo đảo nhìn về chiếc giường vẫn còn chao mờ, về phía Regan đang quay lưng lại nàng, vẫn khẽ khàng đẩy cỗ thập ác vào cửa mình, khi ra, khi vào, với cái giọng ngân nga trầm đục, sâu suốt. “ Á á a, con heo của tao đây rồi, đúng rồi, con heo bé bỏng cục cưng của tao đây, con heo con, con heo…”
Mấy tiếng đó bị cắt ngang lúc Chris khởi sự bò một cách khốn khổ về phía giường với khuôn mặt bê bết máu, với đôi mắt vẫn nhìn chưa rõ, tứ chi nhức nhối, ngang qua Karl. Thế rồi nàng co rúm, rùn hẳn người lại trong nỗi kinh hãi khó thể tưởng tượng lúc nàng nghĩ là nàng đã thấy một cách lờ mờ, trong một màn sương mông lung, cái đầu của con gái nàng cứ từ từ xoay tròn trên phần thân trên bất động, nó cứ xoay một cách quái đản, một cách tàn nhẫn, cho đến cuối cùng hình như nó bẻ quắt hẳn ra sau lưng.
“ Mày có biết nó đã làm gì không, đứa con gái ** bợm của mày ấy ?” Một giọng quen thuộc như của lọai yêu quỷ cười khúc khích.
Chris chớp mắt trước bản mặt cười nhăn nhở, với tia nhìn trừng trừng điên lọan kia, trước đôi môi khô ráo, nứt nẻ và đôi mắt như của lòai chồn cáo kia.
Nàng hét lên cho đến ngất xỉu.
Nàng đứng nơi lối đi dành cho khách bộ hành trên cầu Key Bridge, đôi tay dựa trên thành cầu, bồn chồn, chờ đợi, trong khi xe cộ trên đường về nhà nghìn nghịt đàng sau nàng, trong khi những người lái xe canh cánh bên lòng những nỗi ưu phiền thường nhật cứ bóp còi tí toe, những vè cán xe cứ thúc vào nhau với những cái cọ quẹt ơ hờ. Nàng đã gặp Mary Jo, đã nói dối với bà ta.
“ Regan khỏe ạ. Nhân tiện, tôi đang định tổ chức một dạ tiệc khác. Tên vị bác sĩ tâm thần học Dòng Tên ấy là gì nhỉ ? Có lẽ tôi sẽ ghi ông ta vào danh sách các khách mời.”
Có tiếng cười hắt lên từ phía dưới nàng, một đôi tình nhân trẻ mặc jean xanh trên một chiếc xuồng thuê bao. Bằng một cử chỉ bứt rứt, nóng vội, nàng gẩy tro trên điếu thuốc lá và ngước nhìn lối đi của khách bộ hành trên cầu chạy về hướng đặc khu. Có ai đó hối hả tiến đến nàng, quần ka-ki và áo len màu lam. Không phải một linh mục, không phải ông ta rồi. Nàng lại đảo mắt nhìn xuống sông, nhìn vào nỗi bơ vơ lúng túng của nàng đang xóay lốc sau làn nước từ chiếc xuồng màu đỏ tươi. Nàng có thể đọc được tên chiếc xuồng kẻ dọc bên lườn : Caprice.
Có tiếng bước chân. Người đàn ông mặc áo len đến gần hơn, bước chân lơi chậm lúc ông tới chỗ nàng. Nhìn liếc ngang, nàng thấy ông ta tựa một cánh tay trên thành lan can, nhanh chóng, nàng quay đầu về phía Virginia.
“ Tiếp tục đi đi, tên thô bỉ kia,” nàng quát tháo ông ta, giọng khàn khàn, vừa búng điếu thuốc xuống sông. “Nếu không, thề có Chúa, tôi sẽ hô hóan cảnh sát đến đấy.”
“ Cô MacNeil ? Tôi là cha Karras.”
Nàng giật mình, đỏ mặt, quay thoắt lại. Cái gương mặt thô kệch, nhằn nhện đó. “ Ôi lạy Chúa ! Tôi là… Giê-su ơi !”
Nàng giật cặp kính mát ra, luống cuống, rồi đẩy ngay mục kính trở lại lúc đôi mắt tối tăm, buồn thảm kia dò xét nàng.
“ Lẽ ra tôi cần phải thưa trước với cô là tôi không mặc áo dòng. Xin lỗi.”
Giọng ông nâng niu như lời ru, cởi mở cho nàng hết các gánh nặng, còn đôi bàn tay mạnh mẽ của ông khẽ chắp lại. Đôi tay to lớn nhưng lại nhạy bén: những bàn tay của Michelangelo đầy gân. Chris cảm thấy một cách nào đó, tia nhìn nàng bị hai bàn tay đó thu hút ngay lập tức.
“ Tôi nghĩ như thế có lẽ đỡ lộ liễu hơn nhiều,” ông nói tiếp. “ Dường như cô rất quan tâm muốn giữ cho chuyện này được kín đáo.”
“ Tôi ngỡ lẽ ra tôi phải quan tâm đừng có biến mình thành một con lừa như thế này,” nàng phản bác, vội dọ dẩm trong chiếc ví tay. “Tôi cứ ngỡ cha là…”
“ Người?” ông chen vào với một nụ cười.
“ Tôi đã rõ điều đó khi tôi gặp cha vào một ngày đó trong khuôn viên đại học rồi.” Nàng vừa nói vừa lục lạo mấy túi áo quần “Chính đó là lý do khiến tôi đã gọi cha. Cha có vẻ người.” Nàng ngước lên thấy ông đang ngắm đôi tay nàng. “ Cha có thuốc lá chứ, thưa cha ?’
Ông thọc tay vào túi áo sơ mi. “ Cô hút thuốc không đầu lọc được chứ ?”
“ Ngay lúc này thì thuốc lá hạng bét tôi cũng hút nữa là.”
Ông khẩy một điếu Camel ra khỏi gói thuốc. “ Với trợ cấp của tôi, tôi vẫn thường xuyên hút thuốc hạng bét.”
“ Lời khấn nguyện sống nghèo khó,” nàng thì thầm lúc rút điếu thuốc, mỉm cười, vẻ căng thẳng.
“ Một lời khẩn nguyện sống nghèo khó có nhiều công dụng,” ông bình luận, cho tay vào túi tìm diêm.
“ Chẳng hạn những công dụng gì ?”
“ Lời khấn sống nghèo khó làm cho thuốc lá rẽ tiền hút thấy ngon hơn.” Một lần nữa, ông khẽ phát một nụ cười nữa miệng lúc nhìn bàn tay nàng cầm điếu thuốc. Bàn tay đó run rẩy. Ông trông thấy điếu thuốc chao đảo theo những nhịp giật nẩy rõ nhanh, thất thường và không ngừng, ông giật điếu thuốc khỏi tay nàng rồi gắn lên miệng ông. Ông đốt thuốc, hai tay khum che lấy que diêm. Ông bập bập điều thuốc. Trao điếu thuốc lại cho Chris, ông dõi mắt ngắm xe cộ ngược xuôi qua cầu. “ Dễ chịu hơn nhiều. Gió thỏang đến từ dòng xe cộ lưu thông,” ông bảo nàng.
“ Cám ơn cha.”
Chris nhìn ông với vẻ đánh giá, với lòng biết ơn, thậm chí với niềm hy vọng. Nàng biết điều ông vừa làm. Nàng nhìn lúc ông đốt điếu thuốc lá cho chính mình. Ông quên khum đôi tay. Lúc ông thở khói ra thì mỗi người đã tì một khủyu tay lên thành cầu.
“ Cha quê ở đâu, thưa cha Karras ? Nguyên quán ấy?”
“ New York.”
“ Tôi cũng thế. Dù chẳng bao giờ trở về. Còn cha ?”
Karras cố dằn nỗi nghẹn ngào đang dâng lên cổ họng. “ Không, tôi cũng không trở về.” Ông cố phác một nụ cười. “ Nhưng tôi không phải tự quyết định những việc đó.”
“ Chúa ơi, tôi ngốc quá. Cha là một linh mục. Cha phải đi nơi nào họ phái cha đi.”
“ Đúng thế.”
“ Làm thế nào một bác sĩ tâm thần lại trở nên một linh mục đựoc ?” nàng hỏi.
Ông nôn nóng muốn biết vấn đề cấp bách mà nàng đề cập đến khi gọi điện thoại cho ông là chuyện gì. Nàng đang dò đường, ông có linh cảm đến điều gì đây ? Ông không được thúc bách. Cứ để cho nó đến… nó sẽ đến thôi.
“ Vấn đề hoàn toàn ngược lại.” Ông nhẹ nhàng chỉnh nàng. “ Hội…”
“ Ai cơ ?”
“ Hội của Đức Chúa Giê-Su. Gọi tắt là Dòng Tên.”
“ Ồ, tôi hiểu.”
“ Hội đã cử tôi đi học y khoa và môn tâm thần học.”
“ Ở đâu ?
“ Ồ, thì ở Harvard, II Johns Hopkins, Bellevue.”
Ông chợt nhận ra là ông muốn gây ấn tượng với người phụ nữ này. Tại sao vậy ? Ông tự hỏi, và lập tức ông nhìn thấy câu trả lời ngay trong những xóm nhà ổ chuột cũ thời thơ ấu ông, trong những bao lơn các rạp hát ở Mạn Dưới Khu Đông. Nhỏ Dimmy với một ngôi sao điện ảnh.
“ Không tồi.” nàng nhận xét, gật đầu.
“ Chúng tôi đâu phải khấn nguyện sống nghèo khó về mặt tinh thần.”
Nàng cảm nhận được một nét chạnh lòng, nàng nhún vai, quay ra trước đối diện với dòng sông. “ Coi kìa, chỉ đơn giản là vì tôi chưa biết cha thôi, và…” nàng rít một hơi thuốc, dài và sâu, rồi phà khói ra, dụi tắt mẩu thuốc vào thành cầu. “ Cha là bạn của cha Dyer, đúng chứ ?”
“ Phải, đúng như vậy ?”
“ Khá thân ?”
“ Khá thân.”
“ Ông ấy có kể về bữa tiệc đó không ?”
“ Ở nhà cô ấy à ?’
“ Ở nhà tôi.”
“ Vâng, ông ấy bảo là cô có vẻ người.”
Nàng bỏ qua chuyện đó, hoặc giả làm như không biết tới. “ Ông ấy có nói về con gái tôi không ?”
“ Không, tôi không biết là cô có một người con gái.”
“ Con bé được mười hai tuổi. Ông ấy không đề cập gì đến con bé sao ?”
“ Không hề.”
“ Ông ấy không kể cho cha nghe về điều con bé đã làm sao ?’
“ Ông ta chẳng hề động gì đến cô bé cả.”
“ Vậy ra các linh mục giữ mồm giữ miệng kín thật, đúng không ?”
“ Cũng còn tùy.” Karras trả lời.
“ Tùy gì cơ ?”
“ Tùy ở vị linh mục.”
Bồng bềnh bên rìa cõi nhận thức của ông là một lời cảnh cáo phải coi chừng các phụ nữ có những sức hấp dẫn điên loạn đối với các linh mục, các phụ nữ có khát vọng - một cách vô thức và núp dưới lớp vỏ ngụy trang của một vấn đề khác - muốn cám dỗ những đối tượng không thể vói tới.
“ Này, tôi muốn nói đến đại lọai như việc xưng tội. Cha không được phép nói về việc đó, đúng ?”
“ Vâng, đúng như vậy.”
“ Còn ngòai việc xưng tội ra,” nàng hỏi ông. “ Ý tôi muốn hỏi, việc gì sẽ xảy ra, nếu… có…?” Lúc này đôi tay nàng kinh động, run rẩy. “Tôi tò mò…không, không, thực sự tôi muốn biết, ý tôi muốn nói là, nếu có một người nào đó, cứ cho là một phạm nhân đi, như thể là một kẻ sát nhân hay gì gì đó, cha biết chứ ? Giả dụ y đến với cha tìm sự giúp đỡ, cha có tố cáo y với cảnh sát không ?”
Có phải người đàn bà này đang tìm kiếm lời khuyên chăng? Có phải nàng đang xua tan những nỗi nghi ngờ để dọn mình trở lại đạo chăng? Có nhiều người, Karras biết họ tiếp cận sự cứu rỗi cứ như thể đó là một chiếc cầu khả nghi treo lơ lửng qua một vực thẳm. “ Nếu anh ta đến với tôi để tìm kiếm một sự gíup đở tâm linh thì tôi xin nói là: không.” Ông đáp.
“ Vậy là cha sẽ không tố cáo y ?”
“ Đúng, đúng vậy, tôi sẽ không tố cáo anh ta. Có điều tôi sẽ cố thuyết phục anh ta tự nộp mình.”
“ Và cha sẽ làm cách nào để xin cử hành một nghi lễ đuổi quỷ ?”
“ Xin lỗi?”
“ Nếu có người bị một loài quỷ dữ nào đó ám vào, cha sẽ nghĩ sao về việc xin phép hành lễ đuổi quỷ ?”
“ À, việc trước tiên là ta phải đặt y vào một chiếc máy thời gian rồi đưa y ngược về thế kỷ mười sáu.”
Nàng chới với. “ Cha nói thế là nghĩa gì? Tôi không hiểu ý cha.”
“ Vâng thì, đơn giản là việc đuổi quỷ không còn diễn ra nũa, thưa cô MacNeil.”
“ Từ khi nào vậy ?”
“ Từ khi chúng ta hiểu biết về các chứng tâm thần, về chứng hoang tưởng pa-ra-noi-a, chứng bản ngã phân liệt; tất cả những căn bệnh mà người ta đã dạy tôi tại Harvard.”
“ Cha đang đùa ?’
Giọng nàng chao đảo vì một nỗi thất vọng, bối rối còn Karras thì ân hận vì sự bộp chộp nóng nảy của mình. Nhân đâu ông lại buộc miệng như thế chứ ? Lời lẽ nó cứ tự dưng nhảy vọt lên lưỡi ông, chẳng ai khiến cả.
“ Thưa cô Macneil, nhiều người công giáo có học thức,” ông nói với nàng bằng một giọng khoan hòa hơn, “ ngày nay không còn tin vào ma quỷ nữa, còn nói về việc đuổi quỷ thì kể từ khi tôi gia nhập Dòng Tên cho đến nay, tôi chưa hề gặp một linh mục nào từng làm phép đuổi quỷ một lần trong đời. Không một ai cả.”
“ Cha có phải thực sự là một linh mục không ?” Nàng hỏi với một giọng sắc cạnh đầy tuyệt vọng và cay đắng. “ Hay là cha xuất thân từ Trung Tâm Chuyên Trách Các Vấn Đề Tâm Thần ? Tôi muốn nói là cha nghĩ sao về tất cả những chuyện đuổi quỷ của Chúa Ki-tô được chép trong Thánh Kinh đây ?”
Lại một lần nữa ông trả lời hoạt bát, không cần suy nghĩ. “ Coi kìa, nếu Đấng Ki-tô mà lại nói với những kẻ bị nghi là quỷ ám rằng họ mắc chứng tâm thần phân liệt, chứng bệnh mà tôi nghĩ là họ mắc phải thật, thì chắc người ta đã đóng đinh ngài lên thập giá sớm hơn ba năm rồi.”
“ Ủa, thật vậy sao ?” Chris đặt một bàn tay run rẩy lên gọng kính mát, giọng nàng chùng hẳn xuống trong một nổ lực cố tự chủ. “ Đây, câu chuyện là thế này, thưa cha Karras, số là có một kẻ chí thân với tôi có thể đã bị quỷ ám. Cô ấy cần được đuổi quỷ. Cha có vui lòng hành lễ đuổi quỷ không ?”
Đối với Karas, mọi sự chợt có vẻ vô thực; cầu Key Bridge phía bên kia sông, cửa hiệu Hot Shoppe, dòng xe cộ lưu thông, Chris MacNeil, ngôi sao điện ảnh. Lúc ông nhìn chăm nàng, cố xoay sở một câu trả lời, nàng tháo kính mát ra và Karras cảm nhận được một vẻ chấn động co rúm, thóang nhanh trong sắc đỏ hoe, trong nét van vỉ khẩn cầu đến điều đó ở đôi mắt hốc hác ấy. Người đàn bà này đang nói chuyện nghiêm túc, ông nhận ra điều đó.
“ Thưa cha Karras, đó chính là con gái tôi,” nàng bảo ông, giọng khàn khàn, “con gái của tôi !”
“ Vậy thì lại càng có lý do,” rốt cuộc ông nhỏ nhẹ nói, “ để mà quên đi chuyện đuổi quỷ và..”
“ Tại sao ? Chúa ôi, tôi không còn hiểu gì cả !” Nàng bùng nổ trong một giọng rạn vỡ và cùng quẩn.
Ông nắm lấy cườm tay nàng trong một bàn tay an ủi, dỗ dành. “ Trước hết,” ông bảo nàng bằng giọng vỗ về, “ điều đó có thể khiến mọi sự trở nên tồi tệ mà thôi.”
“ Nhưng như thế nào chứ ?”
“ Nghi lễ đuổi quỷ có sức ám thị nguy hiểm. Cô thấy đó, có thể gieo cái ý niệm quỷ ám vào nơi trước đó chưa hề có ý niệm đó, hoặc giả đã có rồi, nó có thể làm củng cố mạnh mẽ thêm. Hai nữa, thưa cô MacNei, trước khi chấp thuận một nghi lễ đuổi quỷ, bao giờ Giáo hội cũng tiến hành một cuộc điều tra để xem rõ thực hư. Thủ tục đó rất mất thì giờ. Lâm thời, non gái…”
“ Thế cha không thể tự mình hành lễ đuổi quỷ được sao ?” Nàng khẩn khỏan, làn môi dưới nàng bắt đầu run rẩy. Mắt nàng đẩm lệ.
“ Coi kìa, linh mục nào cũng có quyền năng đuổi quỷ hết, nhưng ông ta cần phải được sự chấp thuận của Giáo hội đã, và thành thật mà nói, giáo hội hiếm khi nào chuẩn y việc đó, cho nên…”
“ Cả đến nhìn con bé một chút, cha cũng không được phép sao ?’
“ Ồ, xét trên cương vị một bác sĩ tâm thần thì được chứ, tôi có phép chứ, thế nhưng…”
“ Con bé cần một linh mục !” Chris chợt la lên, nét mặt lại nhúm nhó đầy giận hỏang và sợ sệt. “ Tôi đã đưa nó đến tất cả những tên bác sĩ, những chuyên gia tâm thần học chó đẻ, khốn kiếp trên thế giới và bọn đó đẩy tôi đến tìm cha, vậy mà bây giờ cha lại đẩy tôi đến bọn chúng !”
“ Nhưng con gái của…”
“ Ôi Chúa, sẽ không còn ai giúp đở tôi sao ?” TIếng hét đứng tim ấy lanh lãnh trên mặt sông. Lũ chim giật mình tung cánh bay phần phật lên khỏi hai bên bờ. “ Ôi Chúa ơi, phải có ai đó giúp đở tôi chứ !” Chris than vãn lúc nàng gục người vào ngực cha Karras mà bần bật thổn thức. “Xin hãy cứu giúp tôi ! Hãy cứu giúp ! Làm ơn ! Giúp…”
Vị tu sĩ Dòng Tên cúi nhìn nàng, ông nâng đôi tay an ủi lên đỡ đầu nàng trong khi các khách ngồi xe trên dòng lưu thông nghìn nghịt qua cầu nhìn họ qua cửa xe với vẻ thờ ơ, lãnh đạm.
“ Được rồi,” Karras thủ thỉ lúc ông vỗ về vai nàng. Ông chỉ muốn trấn an nàng, chiều ý nàng, đẩy lùi cơn kinh lọan của nàng. “…Con gái tôi ?” Chính cô ta mới là người cần đến sự giúp đở của một bác sĩ tâm thần. “ Được rồi, tôi sẽ đến thăm cô bé,” ông bảo nàng. “ Tôi sẽ đến thăm cô bé.”
Trong yên lặng, ông đến gần ngôi nhà ấy cùng với nàng, cùng với một cảm giác bâng khuâng về một cái gì không thật , cùng với những ý nghĩ về bài giảng ngày hôm sau của ông tại trường Y khoa thuộc Viện Đại học Georgetown. Ông vẫn chưa sửa sọan những ghi chú cần thiết cho bài giảng.
Họ leo lên khỏang sân trước nhà. Karras nhìn xuống con phố dến Khu Cư xá Dòng Tên và ông nhận ra là mình đã lỡ mất bữa ăn tối. Lúc đó là sáu giờ kém mười lăm phút. Ông nhìn Chris tra chìa khóa vào ổ. Nàng lưỡng lự quay lại nhìn ông. “ Thưa cha…Cha nghĩ có cần phải mặc áo linh mục không ?”
Giọng nói đó sao mà trẻ thơ, sao mà ngây ngô. “ Quá nguy hiểm,” ông bảo nàng. Nàng gật đầu và khởi sự mở cửa. Chính lúc đó Karras mới cảm thấy một sự báo động níu kéo liên tục, lạnh buốt. Nó cồn cào suốt huyết mạch ông như những mảnh nước đá.
“ Cha Karras ?”
Ông ngước lên. Chris đã bước vào trong. Nàng đang giữ cánh cửa cho ông.
Trong một thóang lưỡng lự, ông cứ đứng bất động, rồi thình lình ông quầy quả đi tới, bước vào trong ngôi nhà với một cảm giác kết thúc kỳ lạ.
Karras nghe thấy tiếng huyên náo. Trên lầu, một giọng sâu lắng vang rền đang văng ra những lời tục tĩu ầm ầm như sấm, những lời đe dọa trong cơn giận dữ, oán ghét và thất vọng.
Karras liếc nhìn Chris. Nàng đang nhìn ông đăm đăm trong câm nín. Rồi nàng tiến tới trước. Ông theo nàng lên lầu rồi xuôi hành lang đến phòng ngủ Regan, ở đó Karl dựa người vào tường đối diện ngay cánh cửa ra vào, đầu anh ta gục xuống trên đôi tay khoanh chặt. Lúc anh gia nhân chậm chạp ngước lên nhìn Chris. Karras trông thấy vẻ bối rối và nét sợ hãi trong đôi mắt anh. Giọng nói từ phòng ngủ này, ở mức độ gần sát như thế này, nó lớn cho đến nỗi nghe như thể đã được khuếch âm bằng điện tử. “ Nó vẫn không muốn bị trói,” Karl bảo Chris bằng một giọng rạn vỡ, khiếp đảm.
“ Tôi sẽ trở lại ngay, thưa cha,” Chris ảm đạm bảo vị linh mục.
Karras nhìn nàng bước xuôi hành lang, vào phòng ngủ riêng của nàng, rồi ông liếc nhìn Karl. Người Thụy Sĩ nhìn ông không rời.
“ Ông là một linh mục ?” Karl hỏi.
Karras gật đầu, rồi nhanh chóng nhìn lại cửa phòng Regan. Cái giọng thịnh nộ kia đã được thay thế bằng một tiếng rống the thé, dài hơi, của một lọai thú nào đó mà rất có thể là một con bò tơ.
Một cái gì đó chọc vào tay ông. Ông nhìn xuống. “ Con bé đấy,” Chris bảo, “ Regan đấy.” Nàng đang trao cho ông một tấm ảnh. Ông cầm lấy. Một cô gái nhỏ. Rất xinh. Nụ cười dịu dàng.
“ Tấm ảnh chụp cách đấy bốn tháng.” Chris nói , giọng tê dại. Nàng lấy lại tấm ảnh rồi hất đầu về phía cửa phòng ngủ đó. “ Bây giờ cha hãy vào nhìn qua con bé một chút.” Nàng dựa vào tường, bên cạnh Karl. “ Tôi sẽ đợi ở đây.”
“ Có ai trong đó với cô bé không ?” Karras hỏi nàng.
“ Không ai cả.”
Ông chịu đựng tia nhìn chăm chăm của nàng rồi với một cái cau mày, ông quay lưng tiến về cửa phòng ngủ đó. Lúc ông nắm quả đấm cửa, những tiếng động bên trong chợt ngừng ngang. Trong cõi yên lặng, thoáng qua đó, Karras ngập ngừng, rồi chậm rãi bước vào phòng, gần như dội ngược lại trước mùi hôi thối nồng nặc của phân người rữa rã, nó phả thẳng vào mặt ông như một luồng khí lấy tay sờ thấy được.
Vội kềm hãm nỗi nhờm tởm, ông đóng cửa lại. Thế rồi đôi mắt ông khóa chặt, bàng hoàng vào vật vốn là Regan, vào cái sinh vật đang nằm ngữa trên giường, đầu tựa lên một chiếc gối trong khi đôi mắt lồi ra thao láo trong hai hốc sâu hoắm ánh lên với vẻ xảo quyệt điên cuồng và nét thông minh cháy bỏng, với vẻ chú ý và hận thù lúc chúng dán lấy ông, lúc chúng nhìn ông gườm gườm, sôi sục, trên một bản mặt đã khuôn thành một mặt nạ gớm ghiếc, trơ xương, cực tả một vẻ độc ác có sức bẻ gẫy tinh thần. Karras đáo tia nhìn về phía mái tóc rối bù bện thành từng tết dầy cộm, về phía đôi cẳng chân gầy mòn, bao tử phồng to gồ lên thật dị hợm, rồi lại quay trở về đôi mắt: chúng đang nhìn ông...ghim chặt ông...láo liên dõi theo lúc ông di chuyển đến một cái bàn và ghế cạnh cửa sổ.
“ Chào Regan,” vị linh mục mở lời bằng giọng nồng hậu, thân ái. Ông nhấc chiếc ghế lên, đem đặt nó xuống cạnh giường.
“ Tôi là bạn của mẹ cháu. bà cho tôi hay cháu không được khỏe lắm.” Ông ngồi xuống. “ Cháu nghĩ sao? Cháu có muốn nói cho tôi nghe cháu đau yếu thế nào không? Tôi muốn giúp cháu.”
Đôi mắt đó ngời lên dữ dội không chớp, và một dòng nước miếng vàng vọt nhễu ra bên khóe miệng, nhỏ xuống cằm. Thế rồi, đôi môi cô bé kéo căng thành một cái cười hung hiểm, thành một sự nhạo báng nhăn nhở.
“ Chà, chà.” Regan nhìn hau háu với vẻ châm biếm, còn Karras dựng tóc gáy vì giọng nói có một âm vực trầm không thể tưởng tượng, ngùn ngụt nỗi đe dọa và sức mạnh. “ Thì ra là mày...bọn đó đã phái mày đến ! Chà, chúng tao cũng chẳng có gì để phải sợ mày cả.”
“ Phải, đúng như thế. Tôi là bạn cháu mà. Tôi muốn giúp đỡ ” Karras nói.
“ Vậy thì, mày có thể tháo nới sợi dây này ra được đó,” Regan cất giọng ồm ồm. Cô bé giật mạnh hai cườm tay nên mãi lúc đó Karras mới nhận thấy là hai tay cô bé bị cột chặt bằng hai lần dây đai da.
“ Dây buộc có làm cháu khó chịu không ?”
“ Hết sức. Chúng làm bực bội quá. Bực bội như địa ngục ấy.” Đôi mắt lóe sáng tinh quái với vẻ thích chí bí hiểm.
Karras trông thấy những vết cào xước trên mặt cô bé, những vết đứt trên môi, rõ ràng cô bé đã cắn đứt môi mình. “ Tôi e là cháu có thể làm tổn thương mình đấy, Regan ạ !”
“ Tao không phải là Regan,” cô bé quát tháo, vẫn với cái cười hung hiểm mà giờ đây đối với Karras nó có vẻ đã là nét đặc trưng cố hữu của cô bé. Mấy cái kẹp ngàm răng trên miệng cô bé trông mới thật là lạc điệu làm sao, ông nghĩ.
“ Ô, ta hiểu. Bây giờ có lẽ ta nên làm quen với nhau đi, ta là Damien Karras,” vị linh mục tự giới thiệu. “ Còn ngươi là ai ?”
“ Tao là quỷ.”
“ À, tốt, tốt lắm,” Karras gật gù tán thưởng. “ Bây giờ ta nói chuyện với nhau được rồi.”
“ Tán gẩu chút chăng ?”
“ Nếu ngươi thích.”
“ Rất bổ ích cho linh hồn. Tuy nhiên, mi phải thấy là tao không thể nói năng thoải mái được khi bị cột chặt trong mớ dây ràng này. Tao có thói quen nói là phải ra bộ.” Miệng Regan dãi nhớt chảy ròng ròng. “ Mi biết đấy, tao ở La Mã lâu lắm mà, Karras thân ái ạ. Nào làm ơn cởi hộ dây trói coi !”
Thật là lời ăn tiếng nói và tư tưởng khôn ngoan trước tuổi quá sức, Karras trầm ngâm. Ông nghiêng người ra trước với vẻ quan tâm nghề nghiệp.
“ Ngươi bảo ngươi là quỷ à ?” ông hỏi.
“ Tao bảo đảm với mi như vậy.”
“ Thế tại sao ngươi không khiến cho mấy sợi dây ấy biến đi có được không ?’
“ Cái trò biểu diễn quyền năng ấy hết sức thô lậu, Karras ạ. Quá sức thô thiển. Dù gì đi nữa tao cũng là một ông hoàng mà !” Một tiếng cười khúc khích. “ Tao thích sự thuyết phục hơn, Karras ạ; sự đồng tình; sự tham gia có tính cách cộng đồng. Vả lại, nếu tao tự cởi dây trói thì bạn ạ, tao đã khước từ mi cái dịp thi thố một hành vi bác ái đấy.”
“ Nhưng mà một hành vi bác ái,” Karras nói “ là một đức tính và đó chính là điều mà quỷ muốn ngăn trở, do đó trên thực tế, nếu lúc này ta không muốn cởi dây trói cho ngươi, đích thị là ta đang giúp ngươi đó. Dĩ nhiên, trừ phi,” ông nhún vai, “ ngươi không phải là quỷ thật thì không kể. Nếu trong trường hợp đó, ta sẽ cởi dây trói cho ngươi được.”
“ Mi cáo lắm, Karras ạ. Phải chi gã Herod thân mến có mặt ở đây để thưởng thức chuyện này.”
“ Herod nào ?” Karras nheo mắt lại, hỏi. Có phải cô bé này đang chơi chữ với sự tích Đấng Ki-tô gọi Herod là “loài chồn cáo” chăng ? “ Có đến hai Herod đấy nhé. Có phải ngươi đang nói về vua dân Judea không đó ?”
“ Quan Tổng đốc xứ Galilee cơ !” Cô bé đốp chát vào mặt ông với nỗi giận dữ và niềm khinh bỉ ngun ngút, rồi bất chợt cô bé lại toét miệng cười, lại phỉnh phờ bằng cái giọng nham hiểm cũ. “ Kìa, mi có thấy rằng những sợi dây ràng khốn kiếp này nó làm tao khó chịu đến mức nào không chứ ?Tháo chúng ra đi. Tháo chúng ra rồi tao sẽ nói chuyện tương lai cho mi nghe.”
“ Rất ư là cám dỗ.”
“ Sở trường của tao mà.”
“ Thế nhưng, ta làm sao biết được là ngươi có thể đọc được tương lai ?”
“ Ta là quỷ mà.”
“ Ừ, thì ngươi nói thế, nhưng ngươi có cho ta xem chứng cớ nào đâu.”
“ Mi không có đức tin.”
Karras cứng hẳn người. “ Tin gì kia ?”
“ Tin tao, Karras thân mến ạ. Tin tao đây này !” Một vẻ gỉ đó chế giễu và ma mãnh, ngầm nhảy múa trong đôi mắt kia. “ Tất cả những chứng cớ này, tất cả những dấu lạ ở trên trời này !”
“ Được rồi, bây giờ chỉ cần một điều hết sức đơn giản là có thể chứng minh được,” Karras đề nghị. “ Chẳng hạn như ma quỷ biết tất cả mọi sự, đúng ?”
“ Không, hầu hết tất cả thôi, Karras ạ - hầu hết – Mi thấy không ? Người ta cứ lải nhải rằng tao kiêu ngạo. Tao không hề ! Nào, bây giờ thì mi định giở trò gì đây, đồ chồn cáo kia ?” Đôi mắt vàng vọt, sòng sọc gân máu kia long lanh thật xảo quyệt.
“ Ta cho là chúng ta có thể trắc nghiệm tầm hiểu biết của ngươi.”
“ À, phải ! cái hồ lớn nhất ở Nam Mỹ,” Regan giễu cột, đôi mắt lồi ra với vẻ khoái hoạt, “ là hồ Titicaca ở Peru. Thế được chưa ?”
“ Chưa được, ta còn phải hỏi một điều chỉ có quỷ mới biết. Chẳng hạn như : Regan đâu ? Ngươi biết không ?’
“ Nó đây.”
“ Đây là đâu ?”
“ Trong con heo này.”
“ Cho ta xem cô bé đi.”
“ Lý do ?”
“ Lý do ư ? Thì để chứng tỏ rằng ngươi nói với ta sự thật.”
“ Mi muốn chơi con nhỏ đó hả ? Cứ cởi trói rồi tao sẽ cho mi làm thịt nó !”
“ Cho ta xem cô bé đi.”
“ Con nhỏ nước nôi ướt át lắm,” Regan liếc mắt đểu cáng, cái lưỡi thè ra đầu tưa cáu cứ liếm láp nước dãi trên đôi môi khô nẻ. “ Nhưng lại là một đứa nói chuyện tồi, bạn ạ. Tao nồng nhiệt khuyên mi nên ở lại đây với tao.”
“ Hừ, rõ ràng là ngươi không hề biết cô bé ở đâu cả” – Karras nhún vai – “ cho nên hiển nhiên ngươi không phải là quỷ.”
“ Phải mà !” Regan rống lên, người chợt rấn về phía trước, gương mặt cô bé nhúm nhó vì giận hỏang. Karras run rẩy trước giọng nói khủng khiếp, đầy khắp, nó cứ oang oang, chấn động, vang rền khắp các tường phòng. “ Ta là quỷ mà !”
“ Được rồi, thế thì cho ta thấy Regan đi,” Karras nói. “ Như thế sẽ chứng tỏ được lời ngươi.”
“ Tao sẽ cho mi thấy ? Tao sẽ đọc được ý nghĩ mi !” Nó sục sôi giận hỏang. “ Mi cứ nghĩ đến một con số nào trong phạm vi từ một đến mười đi.”
“ Không, điều đó không chứng tỏ được gì hết. Ta phải thấy Regan cơ.”
Chợt nó cười khúc khích, ngã người ra sau dựa vào đầu giường. “ Không, sẽ không có điều gì chứng tỏ cái chi với mi hết, Karras à. Tuyệt thật ! Thật hết sức tuyệt vời ! Lúc này chúng ta sẽ cố gắng giúp mi tiêu khiển cho ra trò. Suy cho cùng thì, chúng ta cũng không muốn mất mi.”
“ Chúng tao là ai ?” Karras thăm dò với sự quan tâm nhanh chóng, bén nhạy.
“ Chúng tao là một đám đông ra trò ở trong con heo con này,” nó nói, gật gù. “ Ờ, đúng vậy, đúng là một đám đông cơ man vô số. Có lẽ sau này rồi tao sẽ nghĩ đến chuyện giới thiệu cho nghiêm chỉnh tất cả. Lâm thời, tao đang bị ngứa muốn điên lên ở một chỗ tao không với tới được. Mày giúp cởi trói cho tao một lát, được không, Karras ?”
“ Không được, ngươi cứ bảo cho ta biết chỗ ngứa, ta sẽ gãi cho.”
“ Chà, láu cá thật, rất là láu cá !”
“ Cứ cho ta thấy Regan đi, may ra ta sẽ cởi cho một dây trói,” Karras đề nghị. “ Nếu…”
Thình lình, ông co rúm người lại trong nỗi khiếp đảm lúc bắt gặp mình đang chăm chăm nhìn vào đôi mắt đong đầy nỗi khủng khiếp, vào chiếc miệng đang há hốc ra trong một tiếng thét kêu cứu không thành lời.
Nhưng sau đó, nhân dạng của Regan nhanh chóng tan biến ra, những đường nét cũ được khuôn đúc lại thật chớp nhóang. “ Mi cởi dây trói ra cho tao được rồi chứ ?” một giọng dỗ ngon dỗ ngọt cất lên hỏi bằng thứ phát âm nuốt bớt tiếng của người Anh.
Trong chớp nhóang, nhân cách của quỷ lại trở về. “ Xin cha hãy giúp đỡ cho một thằng bé giúp lễ ngày xưa, cha ơi !” Nó ồm ồm nói, rồi ngã ngớn đầu ra sau mà cười khằng khặc.
Karras ngồi chết trân, cảm thấy những bàn tay giá băng chạm vào gáy ông một lần nữa, lần này rõ ràng hơn, quả quyết hơn. Cái vật-Regan kia phá lên cười khanh khách và nhìn xóay lấy ông bằng đôi mắt quở trách.
“ Ngẫu nhiên mà mẹ của mi cũng có ở đây với chúng tao đó, Karras à. Mi có muốn nhắn gởi gì không ? Ta sẽ chuyển lời hộ đến mụ ấy cho.” Kế đó, Karras chợt né tránh một luồng nôn mửa vọt ra như suối, ông nhảy bật ra khỏi ghế. Chất nôn mửa dây một mảng trên áo len ông và dính trên một bàn tay ông.
Mặt không còn chút máu, vị linh mục nhìn xuống giường. Regan cười khằng khặc khoái chí tử. Bàn tay ông nhễu chất nôn mửa xuống thảm. “ Nếu đúng như thế,” vị linh mục nói mà người lạnh cóng, “ Thì hẳn ngươi phải biết tên mẹ ta chứ. Tên gì nào ?”
Cái vật-Regan nhìn ông mà húyt như rắn, đôi mắt điên lọan long lanh, đầu khẽ lượn vòng như đầu rắn hổ mang.
“ Tên gì nào ?”
Như một con bò tơ, Regan rống lên giận dữ, chát chúa, tiếng rống xuyên qua những cánh cửa chớp, rung chuyển cả lớp kính trên cửa sổ lớn. Đôi mắt trợn ngược hẳn lên.
Trong một lúc, Karras cứ nhìn lúc tíếng rống tiếp tục, sau đó, ông nhìn tay mình rồi bước ra khỏi phòng.
Chris nhanh chóng bật người ra khỏi chỗ tường nàng đang dựa, đau đớn nhìn chiếc áo len của vị linh mục Dòng Tên. “ Có chuyện gì vậy ? Con bé nôn mửa à ?”
“ Có khăn lau không ?” Ông hỏi nàng.
“ Có phòng tắm ở ngay đây ạ !” Nàng vội nói, chỉ một cánh cửa trên lối hành lang. “ Karl, trông chừng con bé nhé !” Nàng dặn dò, rồi theo vị linh mục đến phòng tắm.
“ Cô có cho cháu bé dùng thuốc an thần không ?” ông hỏi.
Chris mở vòi nước. “ Có ạ, Librium. Nào, cha cởi áo len ra đi rồi mới rửa ráy được chứ.”
“ Liều lượng thế nào ?” Ông hỏi nàng, vừa kéo chiếc áo len bằng tay trái còn sạch của mình.
“ Nào, để tôi giúp cha.” Nàng nắm lấy gấu áo kéo ngược lại. “ Vâng, hôm nay con bé đã dùng đến 400 miligam, thưa cha ?”
“ Bốn trăm ?”
Nàng đã lôi chiếc áo len đến ngang ngực ông. “ Vâng, bằng cách đó chúng tôi mới trói nó lại bằng mấy sợi dây da được. Phải tận dụng cả bốn người chúng tôi mới..”
“ Cô đã chích cho cháu 400 miligam một lúc à ?”
“ Nào, đưa thẳng hai tay lên , cha.” Ông đưa tay lên và nàng khẽ giật.” Nó mạnh đến nỗi cha không thể tưởng tượng được đâu.”
Nàng kéo màn che chỗ tắm hoa sen ra, ném chiếc áo vào bồn tắm. “ Tôi sẽ bảo Willie giặt sạch cho cha, thưa cha. Tôi rất tiếc.”
“ Có gì đâu. Chẳng hề gì.” Ông cởi nút áo tay phải của chiếc sơ mi trắng hồ cứng rồi sắn tay áo lên, để lộ một mảng lông tơ màu nâu trên cánh tay lực lưỡng, phồng căng.
“ Tôi rất tiếc.” Chris lặng lẽ lập lại, thong thả ngồi xuống trên thành bồn tắm.
“ Con bé có ăn uống gì không ?” Karras hỏi. Ông giữ bàn tay dưới vòi nước nóng để giũ sạch chỗ nôn mửa.
Nàng cứ vò, rồi lại buông tấm khăn lau từng chập. Chíêc khăn màu hồng, hàng chữ tên Regan thêu màu lam. “ Không, thưa cha. Chỉ có tiếp chất Sustagen lúc nó ngủ thôi. Nhưng nó lại rứt ống truyền ra ngòai.”
“ Rứt ra à ?”
“ Hôm nay đấy.”
Băn khoăn, Karras xoa xà phòng rồi rửa tay. Sau một lúc yên lặng, ông nói một cách nghiêm trọng. “ Cần phải đưa cô bé vào bệnh viện.”
“ Tôi không thể làm điều đó được,” Chris trả lời bằng giọng thẩn thờ.
“ Tại sao không ?”
“ Tôi không thể làm việc đó được !” Nàng lập lại với vẻ xao xuyến run run. “ Tôi không thể để cho bất cứ ai khác dính líu vào ! Con bé…” Chris gục đầu xuống. Hít sâu. Thở ra. “ Con bé đã làm một chuyện gì đó, thưa cha. Tôi không dám liều để cho một ai khác khám phá ra. Bác sĩ cũng không…điều dưỡng cũng không…” Nàng ngước lên. “ Không một ai hết.”
Cau mày, ông khóa vòi nước lại. “ Nếu có một người nào đó, cứ cho là một phạm nhân đi…” Ông cúi thấp đầu, nhìn đăm đăm vào bồn rửa. “ Ai truyền dung dịch Sustagen cho cô bé ? Chích Librium ? Cho dùng các loại thuốc men khác ?”
“ Chúng tôi. Bác sĩ của con bé đã hướng dẫn cho chúng tôi cách thức.”
“ Cô cần phải có toa thuốc.”
“ Vâng, thì cha có thể ra toa được mà, phải không, thưa cha ?”
Karras quay sang nàng, hai tay ông giơ lên trên bồn rửa như một nhà phẩu thuật sau khi rửa ráy. Trong một thoáng, ông bắt gặp tia nhìn khắc khỏai của người phụ nữ, cảm thấy một nét bí nhiệm khủng khiếp trong đôi mắt ấy, một vẻ sợ hỏang. Ông gật đầu về phía tấm khăn nàng đang cầm. Nàng cứ nhìn đăm đăm, đờ đẩn. “ Làm ơn cho tôi xin chiếc khăn,” ông nói nhỏ nhẹ.
“ Ồ, tôi xin lỗi !” Rất nhanh nàng lúi dúi chiếc khăn cho ông, vẫn còn nhìn ông với vẻ kỳ vọng căng thẳng. Vị linh mục lau tay. “ Sao, thưa cha, cha thấy cơn chứng đó giống cái gì ?” Rốt cuộc, Chris hỏi ông. “ Cha có nghĩ con bé bị quỷ ám không ?”
“ Thế còn cô ?”
“ Tôi không biết nữa. Tôi cứ ngỡ cha là một chuyên gia.”
“ Cô biết được bao nhiêu về vấn đề quỷ ám ?”
“ Chỉ chút ít nhờ đọc sách. Một đôi điều nhờ các bác sĩ cho biết.”
“ Các bác sĩ nào ?”
“ Ở y viện Barringer.”
Ông gấp tấm khăn rồi cẩn thận máng nó lên thanh treo. “ Cô có phải tín đồ Công giáo không ?”
“ Không.”
“ Con gái cô ?”
“ Không.”
“ Cô theo tôn giáo nào ?”
“ Không theo tôn giáo nào cả, nhưng tôi...”
“ Thế thì tại sao cô lại đến tìm tôi ? Ai bảo cô ?”
“ Tôi đến vì tôi đã cùng đường rồi !” Nàng buộc miệng, đầy kích động. “ Chẳng ai bảo tôi cả !”
Ông đứng quay lưng lại nàng, mấy mép khăn vẫn còn khẽ vướng trong tay ông. “ Trước đây cô có nói là các bác sĩ tâm thần khuyên cô đến tìm tôi mà.”
“ Coi kìa, tôi có quan tâm gì đến động cơ thúc đẩy cô đâu.” Ông trả lời với một cường độ đã được thận trọng gia giảm. “ Tất cả mối quan tâm của tôi là làm gì có ích nhất cho con gái cô. Nhưng tôi xin thưa ngay với cô bây giờ, rằng nếu như cô đang mưu gì tìm một lễ đuổi quỷ xét như thể một phương thức trị liệu cơn sốc bằng tự kỷ ám thị, thì tốt hơn cô nên gọi điện thọai cho Trung Tâm Chuyên Trách Các Vấn Đề Tâm Thần, thưa cô MacNeil, chứ còn Giáo Hội sẽ không chấp nhận chuyện đó và cô chỉ phí thời giờ quý báu của cô vô ích thôi.” Karras bấu vào thanh máng khăn để kềm đôi tay run rẩy của ông. Có gì trục trặc đây ? Chuyện gì xảy ra vậy ?
“ Tiện thể cũng xin nhắc, tôi là bà MacNeil,” ông nghe giọng Chris bảo ông, khô khốc.
Ông cúi đầu, dịu giọng lại. “ Coi kìa, dù đó có là quỷ hay là chứng rối loạn thần kinh đi nữa, thì tôi cũng sẽ làm tất cả mọi sự trong khả năng để giúp đở mà. Nhưng tôi cần phải nắm vững sự thật. Điều đó quan trọng cho Regan. Lúc này, tôi đang dọ dẫm trong trạng thái mù tịt, dốt nát, điều đó không có gì là siêu nhiên hay dị thường đối với tôi, đơn giản đó chỉ là tình trạng thông thường của tôi thôi. Nào, bây giờ tại sao ta lại không thể rời phòng tắm rồi xuống thang gác mà nói chuyện có được không ?” Ông đã quay trở lại nàng với một nụ cười khẽ khàng, nồng ấm đầy vẻ khích lệ, rồi đưa tay ra để đở nàng lên. “ Tôi có thể uống một tách cà phê.”
“ Tôi có thể làm một ly rượu.”
Trong lúc Karl và Sharon coi chừng Regan, thì họ ngồi trong văn phòng, Chris trên trường kỷ, Karras trên một chiếc ghế cạnh lò sưởi. Rồi Chris kể lại bệnh sử của Regan, dù nàng đã thận trọng không đề cập gì đến các hiện tượng có liên quan đến Dennings.
Vị linh mục lắng nghe, nói rất ít : thỉnh thỏang một câu hỏi, một cái gật đầu, một cái cau mày.
Chris thừa nhận rằng lúc đầu, nàng đã cứu xét đến việc đuổi quỷ như một phương cách trị liệu cơn sốc. “ Bây giờ thì tôi cũng không biết nữa.” Nàng nói, lắc đầu. Mấy ngón tay đầy tàn nhang chắp lại, co quắp đặt trên lòng nàng. “ Quả thật tôi không biết.” Nàng nhướng mắt nhìn vị linh mục trầm ngâm kia. “ Cha nghĩ thế nào, thưa cha ?”
“ Có lẽ một hành vi bị cưỡng ép phát sinh do tội lỗi cộng chung với chứng tâm thần phân liệt.”
“ Thưa cha, tôi đã chán ngấy mấy thứ rác rến đó rồi ! Làm sao cha có thể nói như thế sau khi cha đã chứng kiến mọi sự đó ?”
“ Nếu bà đã từng gặp nhiều bệnh nhân trong những Khu Tâm thần như tôi, thì bà có thể nói như thế rất dễ thôi.” Ông trấn an nàng. “ Bây giờ hãy nghe tôi đây. Quỷ ám, được rồi: ta cứ giả thiết như đó là một sự thật của cuộc đời, rằng nó có xảy ra đi. Nhưng ở đây con gái bà không nói là quỷ nhập vào nó, nhưng nó cứ nằng nặc bảo rằng nó chính thị là con quỷ, và điều đó cũng hệt như bà xưng mình là Napoléon Bonaparte thôi ! Bà thấy chứ ?”
“ Thế thì hãy giải thích các tiếng gõ và mọi điều đó xem.”
“ Tôi không nghe thấy mấy tiếng đó.”
“ Hừ, nhưng mà người ta đã nghe thấy chúng ở Barringer, thưa cha, như vậy không phải điều đó chỉ có xảy ra ở mỗi ngôi nhà này.”
“ Chà, có lẽ thế, nhưng chúng ta cũng không cần gì đến một con quỷ để giải thích mọi việc đó.”
“ Vậy thì hãy giải thích đi,” nàng đòi hỏi.
“ Hiện tượng thần kích.”
“ Cái gì ?”
“ Sao, bà đã từng nghe về các hiện tượng yêu quái rồi, phải không ?”
“ Lũ ma quái ném bát dĩa đồ đạc ấy chứ gì ?”
Karras gật đầu. “ Điều đó cũng chẳng có gì bất thường, và hay xảy ra nơi một kẻ thiếu niên bị rối loạn tình cảm. Rõ ràng, sự căng thẳng thái quá của tâm trí đôi khi có thể phát sinh một năng lực vô danh nào đó khả dĩ di chuyển được các đồ vật ở một khỏang cách xa. Chuyện ấy thì chẳng có gì là siêu phàm cả. Giống như sức mạnh khác thường của Regan vậy. Xin nhắc lại, trong bệnh lý học, điều đó là bình thường. Cứ gọi đó là sức mạnh của tinh thần chi phối vật chất, nếu bà muốn.”
“ Tôi gọi điều đó là kỳ quặc.”
“ Dù gì đi nữa, điều đó cũng xảy ra ngòai phạm vi quỷ ám.”
“ Trời đất, xem có hay không cơ chứ,” nàng nói mỏi mệt. “ Ở đây, tôi là một người vô thần, còn cha là một linh mục vậy mà…”
“ Lời giải thích tốt nhất cho bất cứ hiện tượng nào,” Karras bất chấp lời nàng, “ luôn luôn là lởi giải thích đơn giản nhất sẳn có, nó bao hàm tất cả mọi sự kiện.”
“ Chà, có lẽ là tôi ngốc nghếch quá,” nàng trả đủa lại, “ Thế nhưng bảo tôi rằng một bộ phận lạ lùng trong đầu người ta có thể ném bát dĩa lên trần nhà thì cầm bằng như chẳng bảo tôi cái gì hết. Vậy thì nó là cái gì ? Cha có thể bảo cho tôi biết nó là cái gì được chứ ?”
“ Không, chúng ta không hiểu…”
“ Tâm thần phân liệt là cái quái gì thưa cha ? Cha nói điều đó, tôi nghe nó. Nó là cái gì ? Có phải thật tôi ngu đến mức đó không ? Cha vui lòng bảo cho tôi nghe nó là gì, bằng cách nào để cho rốt cuộc cái đầu đần độn này có thể vỡ lẽ ra được không ?” Trong đôi mắt chằng chịt gân máu đỏ là một lời khẩn cầu cực cùng bối rối.
“ Coi kìa, trên thế gian này chẳng một kẻ nào dám mạo nhận là mình hiểu được điều ấy cả.” Vị linh mục hòa nhã bảo nàng. “ Chúng ta chỉ được biết là điều đó có xảy ra mà thôi, còn bất cứ điều gì vượt quá tự thân hiện tượng đó thì chỉ thuần túy là điều ức đóan thôi. Nhưng nếu muốn, bà cứ suy nghĩ như thế này: bộ óc con người chứa đựng , cứ gọi là, mười bảy tỷ tế bào.”
Chris nghiêng người ra trước, cau mày chăm chú.
“ Nhìn vào những tế bào não này,” Karras tiếp tục, “ ta thấy chúng xử lý ngót một trăm triệu thông điệp mỗi giây đồng hồ: đó là con số những cảm giác dồn dập tấn công vào cơ thể chúng ta. Các tế bào não chẳng những tổng hợp các thông điệp đó, mà chúng còn quán xuyến việc đó một cách đầy hiệu quả, chúng làm việc đó mà không hề vấp váp hay cản trở lẫn nhau. Như vậy thì làm thế nào chúng có thể làm được việc ấy mà không có một hình thức thông tin nào đó ? Vâng, có vẻ như rằng chúng không làm được thật. Do đó rõ ràng là mỗi một tế bào ấy phải có một ý thức, có lẽ thế, của riêng nó.. Bây giờ ta hãy tưởng tượng như cơ thể con người là một thương thuyền viễn dương khổng lồ, được chứ ? Và tất cả các tế bào não của anh ta là thủy thủ đòan. Một trong các tế bào não ở mãi trên cầu tàu. Y là thuyền trưởng. Nhưng y không thể nào biết chính xác được là đám thủy thủ còn lại kia ở dưới boong tàu đang làm gì. Y chỉ biết được rằng con tàu vẫn chạy đều, rằng công việc được hòan tất chu đáo. Bây giờ viên thuyền trưởng đó là bà, đó là cái ý thức tỉnh táo của bà. Và việc xảy ra nơi một bản ngã nhị trùng – có lẽ vậy – chính là một trong những tế bào thủy thủ đòan ở dưới các boong tàu kia xông lên trên cầu tàu và chiếm quyền chỉ huy. Nói một cách khác, nổi lọan. Sao ? như thế có giúp cho bà hiểu sự việc không ?”
Nàng nhìn trừng trừng, không chớp mắt, trong vẻ ngờ vực. “ Thưa cha, điều đó quá trừu tượng cho đến nỗi tôi nghĩ là tin vào ma quỷ hầu như lại còn dễ hơn nhiều.”
“ Chà…”
“ Cha xem, tôi không biết gì về tất cả mớ lý thuyết này,” nàng ngắt lời bằng một giọng khe khẽ mãnh liệt. “ Nhưng tôi xin thưa với cha một điều, cha cứ chỉ cho tôi thấy đứa bé song sinh giống hệt như Regan: cùng khuôn mặt đó, giọng nói đó, mùi đó, giống hệt đến cả cái cách con bé chấm chữ “i” nữa, tôi vẫn nhận ngay ra được đó không phải là con bé ! Tôi biết ngay điều đó ! Tôi biết điều đó từ trong ruột biết ra và tôi xin thưa với cha rằng tôi biết cái vật trên lầu kia không phải là con gái tôi ! Tôi biết điều đó ! Tôi biết quá !”
Nàng dựa ra sau, kiệt quệ. “ Bây giờ, cha hãy bảo tôi phải làm gì đi,” nàng thách đố. “ Nào, cha hãy bảo tôi rằng cha biết rõ mười mươi là không có gì trục trặc với con gái tôi hết trừ ra trong cái đầu của nó, rằng cha biết rõ mười mươi là nó chẳng cần gì đến phép đuổi quỷ, rằng cha biết việc đó chẳng giúp ích được gì cho nó. Nào! Cha nói đi ! Cha nói cho tôi biết phải làm gì đi chứ !”
Trong mấy giây đồng hồ đầy bối rối, dài dặc đó, vị linh mục vẫn lặng thinh. Sau đó, ông nhỏ nhẹ đáp “ Vâng, thật là ít có điều gì trên thế gian này mà tôi được biết rõ mười mươi.” Ông tư lự, lọt thỏm trở lại chiếc ghế. Rồi ông nói tiếp. “ Có phải Regan có một giọng nói trầm không ? Lúc bình thường ấy ?”
“ Không. Sự thực tôi phải nói là giọng cháu rất thanh.”
“ Bà có cho rằng cháu khôn trước tuổi không ?”
“ Khoảng trung bình.”
“ Cháu quen đọc sách báo gì ?”
“ Đọc tác giả Nancy Drew và các truyện vui bằng tranh, hầu hết là thế.”
“ Còn phong cách nói năng ngay lúc này đây: theo bà thì nó khác với lối nói năng bình thường của cháu đến mức nào ?”
“ Hoàn toàn khác. Con bé chưa bao giờ dùng đến một nữa các từ ấy.”
“ Không, tôi không định bàn đến nội dung từ ngữ, tôi muốn nói đến phong cách cơ.”
“ Phong cách ?”
“ Cách mà cháu phối hợp các từ với nhau ấy.”
“ Chà, tôi cũng không dám chắc là tôi hiểu được ý cha muốn nói gì.”
“ Bà có thư từ gì của cô bé viết không ? Các bài tập làm văn ? Một đoạn ghi âm giọng nói cháu cũng...”
“ Có, có một cuốn băng ghi lời con bé với bố nó,” nàng ngắt lời. “ Nó cho thu băng đó để gởi cho bố nó, như một bức thư, nhưng nó chưa bao giờ thu xong cả. Cha cần cuốn băng đó không ?’
“ Vâng, tôi cần, và tôi cũng cần có - những hồ sơ bệnh lý của cháu, nhất là hồ sơ của y viện Barringer.”
“ Kìa cha, tôi đã đi con đường đó và tôi...”
“ Vâng, vâng, tôi biết, nhưng tôi vẫn cần đích thân xem xét các hồ sơ đó.”
“ Ra thế là cha vẫn chống lại việc đuổi quỷ.”
“ Tôi chỉ chống lại một dịp chỉ có thể làm hại con gái bà hơn là giúp ích.”
“ Nhưng cha đang nói thuần túy với tư cách một bác sĩ tâm thần, đúng ?”
“ Không, lúc này đây tôi cũng đang nói với tư cách một linh mục nữa. Nếu tôi đi đến văn phòng Bí thư Đức Giám Mục haybất cứ nơi nào tôi phải đến để xin phép họ cho cử hành một nghi lễ đuổi quỷ, thì việc đầu tiên tôi phải có sẳn chính là một sự biểu thị khá quan trọng cho thấy tình trạng của con gái bà không phải chỉ đơn thuần là một vấn đề tâm thần. Sau đó, tôi cần đến chứng cớ để Giáo hội có thể chấp nhận là những dấu hiệu của người bị quỷ ám.”
“ Chẳng hạn như cái gì ?’
“ Tôi không biết. Tôi còn phải đi tra cứu về điều đó.”
“ Cha đùa chăng ? Tôi cừ nghĩ cha hẳn là một chuyên gia ấy chứ>’
“ Ngay bây giờ có thể bà biết nhiều điều về chuyện quỷ ám hơn cả hầu hết các linh mục. Lâm thời, lúc nào thì bà có thể lấy cho tôi những hồ sơ ở Barringer đây ?’
“ Nếu cần thiết, tôi sẽ thuê bao một chiếc máy bay !”
“ Còn cuốn băng kia ?”
Nàng đứng lên. “ Để tôi đi xem có tìm thấy không.”
“ Và thêm một thứ nữa thôi,” ông thêm. Nàng dừng lại cạnh ghế ông. “ Cuốn sách mà bà đề cập đến có chương viết về quỷ ám: bà nghĩ là bà có thể cho rằng Regan đã từng đọc nó trước khi đột phát chứng bệnh này không ?’
Nàng tập trung tư tưởng, mấy ngón tay cào cào trên bờ răng. “ Chà, hình như tôi nhớ là nó có đọc một cái gì đó trước khi cái đồ chết tiệt... trước khi chuyện rắc rối này thực sự xảy ra.” Nàng bổ sung. “ Nhưng quả thực tôi cũng không dám chắc nữa. Mà quả cháu có đọc nó một lúc nào đó, tôi nghĩ vậy. Tôi muốn nói là tôi chắc vậy. Khá chắc chắn.”
“ Tôi muốn xem quyển sách ấy. Được chứ ạ ?”
“ Cuốn sách đó của cha mà. Nó mượn đã quá hạn ở thư viện của cha. Tôi đi lấy đây.” Nàng rời văn phòng. “ Cuốn băng kia chắc là ở tầng hầm. Tôi sẽ đi xem. Tôi sẽ trở lại ngay.”
Karras thờ ơ gật đầu, nhìn chăm chú một dạng hoa văn trên tấm thảm, rồi sau đó mấy phút, ông đứng dậy, thong thả bước ra hành lang lối vào, và đứng bất động trong bóng tối, đứng không một nét biểu lộ nào, trong một chiều cạnh khác, nhìn chăm vào cõi hư vô, với hai bàn tay thủ vào túi kịp lúc ông nghe thấy tiếng ủn ỉn của một con heo trên lầu, tiếng sủa ăng ẳng của một con chó rừng, tiếng nấc, tiếng huýt như rắn.
“ Ủa, ra cha đứng đó ! Thế mà tôi lại đi tìm trong văn phòng.”
Karras quay lại thấy Chris đang bật đèn lên.
“ Cha đi sao ?” Nàng trờ tới trước với cuốn sách và băng ghi âm.
“ Tôi e rằng mình còn phải soạn một bài giảng cho ngày mai.”
“ Ồ ! Giảng ở đâu ạ ?”
“ Ở trường Y khoa.” Ông nhận sách và băng từ tay nàng. “ Tôi sẽ cố đến đây vào khoảng xế trưa hay chiều mai. Lâm thời, nếu có chuyện gì khẩn cấp xảy ra, bà cứ việc gọi tôi, bất luận vào giờ nào. Tôi sẽ dặn tổng đài ở cư xá chuyển đường dây của bà cho tôi ngay.” Nàng gật đầu. Vị linh mục mở cửa. “ Còn bây giờ ba cái vụ thuốc men bà đã sắp xếp ra sao rồi ?’ Ông hỏi.
“ Ổn cả,” nàng đáp. “Cứ toa cũ bổ lại thôi ạ.”
“ Bà không mời bác sĩ đến nữa sao ?”
Người nữ diễn viên nhắm mắt lại và lắc đầu rất khẽ.
“ Bà biết đấy, tôi không phải là bác sĩ đa khoa đâu.” Ông lưu ý.
“ Tôi không thể,” nàng thì thầm. “ Tôi không thể.”
Ông có thể cảm nhận được nỗi xao xuyến của nàng đập dồn dập như những đợt sóng vỗ lên một bãi bờ xa lạ.. “ Chà, bây giờ thì sớm muộn gì tôi cũng phải trình với một bậc bề trên về việc tôi đang làm, nhất là trong trường hợp tôi còn phải lui tới đây vào những giờ giấc bất thường khác nhau trong đêm hôm.”
“ Có cần thiết phải làm như thế không ?” nàng cau mày, nhìn ông, lo lắng.
“ Kìa, nếu tôi không làm thế thì sự việc xem ra có vẻ khá kỳ dị đấy, bà thấy thế không ?’
Nàng nhìn xuống. “ Vâng, tôi hiểu cha muốn nói gì,” nàng thì thào.
“ Bà có phiền không ? Tôi chỉ trình với bề trên những gì cần thiết thôi. Đừng lo,” ông quả quyết với nàng. “ Câu chuyện không bị đồn đại đâu.”
Nàng ngước khuôn mặt đau đớn, vô vọng về phía đôi mắt buồn thảm, mạnh mẽ kia, nàng thấy được sức mạnh, thấy được niềm đau.
“ Được thôi,” nàng nói yếu ớt.
Nàng tin cậy ở niềm đau đó.
Ông gật đầu. “ Bây giờ ta nói chuyện đi.”
Ông khởi bước ra ngoài, nhưng rồi lại nấn ná ở ngưỡng cửa chốc lát, suy nghĩ một tay đặt trên môi. “ Con gái bà có biết là một linh mục lui tới đây không ?”
“ Không, không, không một ai biết, ngọai trừ tôi.”
“ Bà có biết mẹ tôi vừa mới mất ít lâu nay thôi không ?’
“ Vâng. Tôi rất lấy làm tiếc.”
“ Regan có biết điều đó không ?”
“ Sao cơ ?”
“ Cháu bé có biết điều đó không ?”
“ Không. Tuyệt không.”
Ông gật đầu.
“ Sao cha lại hỏi thế ?” Chris lặp lại, đôi mày nàng khẽ nhíu lại vì hiếu kỳ.
“ Không có gì quan trọng.” Ông nhún vai. “ Tôi chỉ thắc mắc thôi.” Ông nhìn kỹ nét mặt nàng với thoáng vẻ lo âu. “ Bà có ngủ được chút nào không ?”
“ Chút đỉnh.”
“ Vậy thì uống thuốc đi. Bà có dùng Librium không ?’
“ Có.”
“ Bao nhiêu ?” Ông hỏi.
“ Mười miligam, ngày hai lần.”
“ Vậy hãy thử dùng hai mươi miligam, ngày hai lần. Lâm thời, cố tránh xa con gái bà. Bà càng chứng kiến hành vi hiện tại của cháu bao nhiêu, những tình cảm của bà với nó càng có cơ bị tác hại vĩnh viễn bấy nhiêu. Hãy tránh cho xa. Và hãy bình tâm, thong thả trở lại. Bà phải biết là bà không thể giúp ích gì được cho Regan với tình trạng thần kinh suy sụp của bà đâu !”
Nàng gật đầu chán ngán, mắt cúi thấp.
“ Bây giờ xin bà hãy đi ngủ cho,” ông dịu dàng bảo. “ Bà có vui lòng đi ngủ ngay cho không ?”
“ Vâng, được,” nàng nhỏ nhẹ nói. “ Được, tôi hứa.” Nàng nhìn ông với một nét cười. “ Chúc cha ngủ ngon, thưa cha. Cảm ơn. Cảm ơn cha rất nhiều.”
Ông nhìn nàng chăm chú hồi lâu không chút biểu lộ gì, rồi quày quả bỏ đi.
Chris tựa cửa trông theo. Lúc ông băng qua đường, nàng chợt nhớ ra chắc ông đã lỡ mất bữa ăn tối. Rồi trong thóang chốc, nàng lại lo là ông có thể bị lạnh lắm. Ông đang buông tay áo xuống.
Tại góc phố Prospect và Đại lộ Ba Mươi Sáu, ông đánh rơi quyển sách và cuối nhanh xuống nhặt lên, xong rẽ quanh góc phố và mất dạng. Lúc nhìn ông đi khuất, Chris chợt nhận thức được một cảm giác nhẹ lâng lâng. Nàng không nhìn thấy Kinderman đang ngồi một mình trong chiếc xe không mang phù hiệu cảnh sát.
Nàng đóng cửa lại.
--------------------------
Nửa giờ sau, Damien Karras vội vã trở về phòng riêng trong Khu cư xá Dòng Tên với một số sách và tạp chí lấy ở thư viện Đại Học Georgetown. Ông hối hả ném chúng xuống bàn giấy rồi lục lọi các ngăn kéo tìm gói thuốc lá. Tìm thấy nữa gói Camel đã mốc thếch, ông đốt một điếu, rít thật sâu và ém khói trong phổi, vừa mãi suy nghĩ về Regan.
Chứng lọan thần kinh ít-tê-ri rồi. Ông biết chắc chắn là chứng ít-tê-ri, không chạy đâu cho khỏi. Ông phà khói, móc hai ngón tay vào dây thắt lưng và nhìn xuống mớ sách báo. Ông đang có trong tay các tác phẩm: “Quỷ Ám” của Oesterreich, “Những Con Quỷ Ở Loudun” của Huxley, “Chứng Lọan Thức Trong Trường Hợp Haizman Do Freud Nghiên Cứu” cũng của tác giả Huxley, “Quỷ Ám Và Phép Đuổi Quỷ Trong Buổi Ban Sơ Của Thiên Chúa Giáo Dưới Ánh Sáng Các Quan Điểm Hiện Đại Về Bệnh Tâm Thần” của McCasland, cùng các trích đoạn từ các nhật ký tâm thần học của Freud như : “Chứng Lọan Thần Kinh Chức Năng Trong Hiện Tượng Quỷ Ám Ở Thế Kỷ XVII Và Nghành Nghiên Cứu Về Quỷ Trong Tâm Thần Học Hiện Đại”.
“ Xin cha hãy giúp đỡ cho một thằng bé giúp lễ ngày xưa, cha ơi !”
Vị linh mục Dòng Tên sờ chân mày, rồi nhìn mấy ngón tay, vừa chùi một giọt mồ hôi dính dáp giữa mấy ngón tay đó. Lúc đó ông nhận thấy cửa phòng ông mở ngỏ. Ông băng ngang phòng đóng cửa lại, rồi đến kệ sách lấy cuốn Nghi Lễ La Mã bọc bìa đỏ, một pho trích yếu các nghi lễ và kinh bổn. Ngậm chặt điếu thuốc, ông liếc qua làn khói thuốc lúc lật đến “Các Quy Tắt Chung” dành cho các thầy đuổi quỷ, tìm các dấu hiệu của người bị quỷ ám. Ông lướt nhanh rồi bắt đầu đọc chậm hơn.
….. “ Thầy đuổi quỷ chớ nên quá dễ tin rằng một người bị tà linh ám, ông ta cần phải xác định được các dấu hiệu bằng vào đó một người bị quỷ ám có thể phân biệt được với một kẻ mắc một chứng bệnh nào đó, đặc biệt là một hội chứng có tính cách tâm lý. Các dấu hiệu quỷ ám có lẽ như sau đây: Khả năng nói khá lưu lóat một thứ tiếng lạ và hiểu được thứ tiếng ấy khi có ai khác nói nó, quyền năng tiết lộ được tương lai và các biến cố kín dấu, sự thi thố các năng lực vượt quá tuổi tác và điều kiện tự nhiên của nạn nhân, và nhiều điều khác, mà khi nhập chung làm một, củng cố thêm chứng cớ ấy…..”
Suốt một lúc Karras cứ trầm ngâm, xong ông tựa vào kệ sách và đọc phần còn lại của các mục chỉ dẫn. Lúc đọc xong, ông bắt gặp mình nhìn ngược lên mục chỉ dẫn số tám.
…“Một vài dấu hiệu cho thấy một tội ác đã phạm và những hung thủ gây nên tội ác đó…”
Ông ngước lên nhìn cửa lúc ông nghe có tiếng gõ. “ Damien ?”
“ Vào đi.”
Đó là cha Dyer. “ Này, Chris MacNeil đã gọi điện nằng nặc đòi gặp cha cho bằng được ấy. Bà ấy đã tiếp xúc được với cha chưa ?”
“ Khi nào ? Cha muốn nói là… tối nay ?”
“ Không, hồi xế trưa.”
“ À, vâng, tôi đã nói chuyện với bà ấy rồi.”
“ Tốt,” Dyer đáp. “ Tôi chỉ muốn biết chắc là cha đã nhận được tin ấy thôi.” Vị linh mục nhỏ thó kia lúc này đi rảo khắp phòng, cầm lên hết món này món kia như một con quỷ nhỏ trong tiệm bán đồ cũ.
“ Cha cần gì, Joe ?” Karras hỏi ông ta.
“ Có kẹo chanh không ?”
“ Gì cơ ?”
“ Tôi đã lùng sục suốt cả cái cư xá này để tìm ít viên kẹo chanh. Chẳng ai có cả. Trời đất, tôi thèm một viên kẹo muốn chết.” Dyer trầm ngâm, vẫn tiếp tục lùng sục. “ Có dạo suốt một năm trời, tôi ngồi nghe lũ trẻ con xưng tội, rốt cuộc tôi đâm ra ghiền món kẹo chanh. Mấy cái thằng lỏi tì chúng cứ đều đều phả vào mặt mình cái hơi thở nồng cái mùi ma túy đó. Thế là chỉ giữa hai buổi xưng tội, tôi đã hóa ra một anh nghiện kẹo.” Ông mở nắp một chiếc hộp đựng thuốc hút ống điếu, trong đó Karras dự trữ một ít hạt hồ trần. “ Những thứ quái gì đây ?”
Karras quay lại kệ sách tìm một tựa sách. “ Này, Joe, tôi đang phải…”
“ Chris khả ái thật đấy chứ ?” Dyer ngắt lời, thả rơi mình xuống giường. Ông duỗi thẳng người, hai tay chắp lại thỏai mái ra sau đầu. “ Một người phụ nữ khả ái. Cha đã gặp bà ta chưa ?”
“ Chúng tôi có nói chuyện rồi,” Karras trả lời, rút ra một pho sách bọc bìa xanh lục tựa là “Satan”, một tuyển tập các bài viết và các công trình biên khảo theo quan điểm Công giáo của các nhà thần học Pháp. Ông mang bộ sách về bàn giấy. “ Này, thú thật lúc này tôi phải…”
“ Giản dị. Thực tế. Không kiểu cách.” Dyer nói tiếp. “ Bà ấy có thể giúp ích chúng ta trong chương trình của tôi khi hai chúng ta bỏ đời tu sĩ.”
“ Ai định bỏ đời tu sĩ ?”
“ Bọn đồng tính luyến ái. Từng đàn từng lũ. Màu đen căn bản đã lỗi thời rồi. Bây giờ tôi…”
“ Joe, tôi có bài giảng cần phải chuẩn bị cho ngày mai.” Karras nói lúc ông đặt mớ sách lên bàn.
“ Vâng, được rồi. Chương trình của tôi bây giờ là thế này, ta đi đến gặp Chris MacNeil, hiểu chứ ? Với cái ý niệm tôi vừa có về một kịch bản dựa trên cuộc đời Thánh Ignatius Loyola. Tựa đề phim là “ Các Tu Sĩ Dòng Tên Dũng Cảm Tuần Hành”, và…”
“ Cha có vui lòng xéo khỏi đây không, Joe ?” Karras giục, vừa dụi mẩu thuốc lá vào chiếc gạt tàn.
“ Chuyện này làm cha chán chăng ?’
“ Tôi còn phải làm việc.”
“ Con quỷ ma nào cấm cản cha đâu ?”
“ Thôi, đi đi, tôi nói thật đó,” Karras bắt đầu cởi áo sơ mi. “ Tôi nhảy vào tắm một cái rồi ra làm việc liền.”
“ À này, không thấy cha ở buổi ăn tối,” Dyer nói, miễn cưỡng đứng dậy khỏi giường. “ Cha ăn ở đâu ?”
“ Tôi không ăn.”
“ Thế là điên rồ. Tại sao phải kiêng khem khi cha chỉ mặc mấy cái áo dòng ?” Ông ta đã đến bàn giấy và đang hít hít một điều thuốc lá. “ Mốc thếch.”
“ Trong cư xá có chiếc máy ghi âm nào không?”
“ Ở cái cư xá này đến một viên kẹo chanh còn không có nữa là. Cứ sử dụng phòng thính thị ấy.”
“ Ai giữ chìa khóa ? Cha Viện trưởng chăng ?”
“ Không, cha Quản lý. Cha cần nó tối nay à ?”
“ Vâng tôi cần,” Karras nói, lúc ông máng chiếc áo sơ mi vào lưng ghế ở bàn giấy. “ Kiếm cha Quản lý ở đâu được bây giờ”
“ Muốn tôi lấy chìa khóa cho cha không ?’
“ Cha giúp cho được chứ ? Tôi đang kẹt lắm.”
“ Đừng sợ, hỡi vị Bác Sĩ Phù Thủy Tên Vĩ Đại Đầy Ân Phúc kia.” Đến đầy Dyer mở cửa và bước ra.
-------------------------
Last edited by leminhchau; 06-12-2008 at 08:39 PM.
Karras tắm hoa sen xong, mặc một chiếc áo thun và quần dài. Ngồi xuống bàn làm việc, ông khám phá ra một tút thuốc Camel không đầu lọc, bên cạnh là chiếc chìa khóa có đeo nhãn “ Phòng Thính Thị” và một chiếc chìa khác đeo nhãn “ Phòng lạnh Nhà ăn”. Đính vào chiếc chìa khóa sau là một mảnh giấy nhỏ đề chữ : Thà Là Cha Còn Hơn Lũ Chuột Nhắt. Karas mỉm cười nhìn chữ ký trên đó: Thằng Bé Kẹo Chanh. Ông dẹp mảnh giấy sang bên, tháo đồng hồ tay ra đặt trước mặt, trên bàn làm việc. Lúc đó là 10 giờ 58 phút tối. Ông bắt đầu đọc. Freud. McCasland. Satan. Công trình nghiên cứu tòan diện của Oestereich. Khỏang hơn bốn giờ sáng, ông đọc xong. Ông dụi mắt. Dụi mắt. Hai mắt buốt nhức. Ông nhìn chiếc gạt tàn. Tro và những mẩu thuốc lá nhúm nhó. Khói bàng bạc đặc quánh trong không khí.
Ông đứng lên, mệt mỏi bước ra cửa sổ. Đẩy cửa sổ mở ra. Ông nuốt lấy sự mới mẻ của không khí buổi sáng ẩm ướt và cứ đứng đó suy nghĩ. Regan đã có hội chứng quỷ ám về mặt thể chất. Bao nhiêu đó thì ông biết. Về điều đó thì ông không còn nghi ngờ gì nữa. Vì hết trường hợp này đến trường hợp khác, bất kể khu vực địa dư hay thời kỳ lịch sử nào, các triệu chứng quỷ ám về thực chất vẫn bất biến. Còn một vài điều Regan vẫn chưa biểu hiện ra: những dấu hiệu lạ hiện trên da, thói thèm thuồng những thức ăn ghê tởm, tính không nhạy cảm với sự đau đớn, tiếng nấc lớn thường xuyên và không kiềm chế nổi. Còn những điều khác thì cô bé đã biểu hiện tỏ tường: sự kích thích cơ vận động ngòai ý thức, hơi thở hôi thối, lưỡi đóng đầy tưa cáu, cơ thể kiệt nhược hẳn, bao tử sưng tấy, bị rát ngứa ở da và màng nhầy. Và hiện diện một cách đầy đủ nhất là những triệu chứng căn bản của những trường hợp chính yếu mà Oestereich đã đặc tả là hội chứng quỷ ám chính cống: sự thay đổi khủng khiếp về giọng nói và nét mặt, thêm đó là sự hiển lộ của một bản ngã mới.
Karras ngước lên, buồn rầu nhìn xuống phố. Xuyên qua những cành cây, ông trông thấy được ngôi nhà ấy với cánh cửa sổ lớn nơi phòng ngủ của Regan. Khi sự ám ảnh có tính cách tự nguyện, như trường hợp những kẻ lên đồng thiếp, thì bản ngã mới thường là hiền lành. Giống như Tia… Karras trầm tư. Đó là hồn một phụ nữ ám vào một người đàn ông. Một nhà điêu khắc. Ngắn ngủi thôi. Mỗi bận chỉ có một tiếng đồng hồ. Cho đến khi một người bạn của nhà điêu khắc nọ đem lòng yêu Tia mê mệt. Anh ta van xin nhà điêu khắc cho nàng Tia được cư trú vĩnh viễn, được ám thường trực, trong cơ thể ông ta… Nhưng trong con người Regan, không hề có một nàng Tia, Karras suy nghĩ một cách khốc liệt, cái bản ngã xâm nhập vào cô bé gái ở đây rất đổi xấu xa, độc ác. Đó là điển hình của các trường hợp quỷ ám, trong đó bản ngã mới tìm cách hủy diệt thân xác chủ nhà của nó. Và thường là đạt được điều ấy.
Với tâm thái ủ ê, vị linh mục Dòng Tên quay trở lại bàn giấy, nhặt lên một gói thuốc, đốt một điếu. Thế là đúng. Cô bé đã bị hội chứng quỷ ám. Bây giờ làm sao chữa đây ? Ông vẩy tắt que diêm. Điều đó còn tùy thuộc vào nguyên nhân gây ra chứng đó là gì. Ông ngồi trên mép bàn. Cân nhắc, đắn đo. Các nữ tu sĩ ở tu viện Lille. Bị quỷ ám. Hồi đầu thế kỷ XVII tại Pháp. Họ đã thú nhận với các thầy đuổi quỷ là trong lúc tuyệt vọng giữa cơn quỷ ám, họ đã đều đặn tham gia các buổi hành lạc tập thể của quỷ xa-tăng, đã đều đặn thay đổi các tiết mục dâm lọan…Vị linh mục Dòng Tên lắc đầu. Như với trường hợp ở tu viện Lille này, ông nghĩ, các nguyên nhân của nhiều vụ quỷ ám là một phức hợp của trò trá ngụy và chứng thích cường điệu. Tuy nhiên còn có những trường hợp khác nữa dường như do bệnh tâm thần gây ra : hội chứng pa-ra-noi-a, tâm thần phân liệt, suy nhược thần kinh, suy nhược tâm thần; và chính đây là lý do - ông biết rõ - mà giáo hội trong hàng bao nhiêu năm nay đã khuyến cáo người đuổi quỷ nên làm việc với sự hiện diện của một bác sĩ tâm thần hay một bác sĩ thần kinh. Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp quỷ ám đều có những nguyên nhân rõ ràng như vậy. Nhiều vụ đã khiến cho Oestereich đi đến chỗ đặc tả chứng quỷ ám như một hiện tượng rối lọan hòan tòan độc lập của riêng nó, gạt bỏ các nhãn hiệu tâm thần học có tên là “ bản ngã phân liệt” thường dùng để giải thích nó, coi cái nhãn hiệu đó cũng chẳng hơn gì một từ thay thế mang tính huyền bí ngang hàng những ý niệm về “ quỷ” và “linh hồn người chết” đó thôi.
Karras cọ một ngón tay lên vết nhăn cạnh mũi. Những chỉ dẫn ở Barringer, Chris đã bảo ông, cho thấy sự rối lọan của Regan có thể gây ra do ám thị, do một cái gì đó có liên quan đến chứng loạn thần kinh ít-tê-ri. Và Karras nghĩ rằng rất có thể như vậy. Ông tin rằng đa số các trường hợp ông từng nghiên cứu đều gây ra bởi chính xác hai yếu tố này. Chắc chắn. Vì một lẽ, hầu hết nó tấn công vào phụ nữ. Thứ hai, tất cả những đợt bộc phát của cái bệnh dịch quỷ ám đó. Rồi đến các thầy đuổi quỷ, Karras cau mày. Thường thì chính các thầy đuổi quỷ lại thành nạn nhân của chứng quỷ ám. Ông nghĩ đến vụ Loudun ở Pháp. Đến nữ tu viện Ursuline. Trong bốn thầy đuổi quỷ được cử tới đó để đối phó với một trận dịch quỷ ám, ba vị - các cha Lucas, Lactance và Tranquille - chẳng những đã bị quỷ ám, mà lại còn chết ngay sau đó, rõ ràng là chết vì cơn sốc. Còn vị thứ tư, cha Surin, được ba mươi lăm tuổi vào lúc bị quỷ ám, đã hóa điên suốt hai mươi lăm năm còn lại trong đời ông.
Ông gật gù với mình. Nếu cơn rối lọan của Regan là chứng lọan thần ít-tê-ri, nếu việc phát sinh chứng quỷ ám là sản phẩm của sự ám thị, thì nguồn gốc của sự ám thị đó chỉ có thể là chương sách trong tác phẩm viết về thuật phù thủy đó thôi. Chương luận về quỷ ám ? Cô bé có đọc chương đó hay không ?
Ông đã, nghiền ngẫm các trang sách đó. Phải chăng đã có những sự tương đồng đáng kinh ngạc giữa bất cứ một chi tiết nào trong chương sách đó với hành vi của Regan ? Điều đó có lẽ chứng tỏ được sự việc. Nó có thể.
Ông đã tìm được những mối tương quan:
… Trường hợp một bé gái tám tuổi được mô tả trong chương sách là đã “ rống như con bò mộng bằng một giọng thật trầm, vang rền như sấm.” ( Regan thì rống như một con bò tơ ).
…. Trường hợp Helene Smith, được nhà tâm lý học vĩ đại Flournoy chữa trị, ông ta mô tả cô gái này đã “ nhanh như chớp” biến đổi giọng nói và nét mặt thành giọng nói và nét mặt của nhiều bản ngã khác nhau. (Cô bé này cũng đã làm thế với ta. Cái bản ngã đã nói bằng một giọng phát âm rặt Anh. Thay đổi nhanh chóng. Cấp kỳ ).
… Trường hợp ở Nam Phi do nhà dân tộc học lừng danh Junod phúc trình tại chỗ, ông mô tả một người phụ nữ biến mất khỏi nhà mình đã được tìm thấy vào sáng hôm sau, “ bị trói gô vào ngọn” một đại thụ cao lừng lững bằng những “ dây leo mảnh dẻ” và sau đó “đã trườn, đầu đi trước, xuống gốc cây, vừa trườn vừa húyt siên siết, lưỡi thậm thụt loang lóang như rắn. Trong một thời gian, bà ta cứ treo lơ lửng giữa trời, kế đó nói một thứ tiếng lạ chưa từng ai nghe biết.” ( Regan trườn như rắn lúc đuổi theo Sharon. Rồi nói năng huyên thuyên. Một nổ lực nói “một thứ tiếng lạ” ).
… Trường hơp Joseph và Thiebaut Burner, lên tám và mười tuổi, tác giả mô tả hai đứa bé “ đang nằm ngữa, chợt quay tít mù như những con vụ với tốc độ cực nhanh.” ( Nghe ra khá giống cơn quay cuồng như một thầy tu đạo Hồi của Regan. )
Còn có những điểm tương tự khác nữa, lại càng thêm những lý do khác nữa để tình nghi hội chứng của cô bé là do ám thị : sự đề cập đến một sức mạnh dị thường, đến lối ăn nói thô tục, và những đọan mô tả về quỷ ám trong các sách Phúc âm mà có lẽ là căn bản - Karras nghĩ - của nội dung những cơn gầm thét điên cuồng mang tính tôn giáo lạ kỳ của Regan tại Y viện Barringer. Hơn nữa trong chương sách đó, có đề cập đến sự bộc phát của chứng quỷ ám qua nhiều giai đọan:… “ Giai đọan thứ nhất, sự xâm nhập tàn phá, bao gồm một cuộc công hãm xuyên qua môi trường chung quanh nạn nhân: các tiếng động, các mùi vị, việc dời đổi đồ đạc,..Giai đọan thứ hai, sự ám ảnh, bao gồm một cuộc tấn công trực tiếp vào nạn nhân nhằm mục đích gây kinh hòang thường xuyên qua lọai thương tích mà một con người có thể gây ra cho một người khác bằng các cú đấm đá.” ( Các tiếng gõ. Các cơn vùng vẩy. Các cuộc tấn công do Đại úy Howdy. )
Có lẽ…có lẽ cô bé đã đọc chương sách đó rồi. Nhưng Karras không tin. Không một chút nào..tuyệt không. Và Chris nữa. Nàng có vẻ quá sức hòai nghi điều đó.
Ông lại bước đến cửa sổ. Vậy thì lời giải đáp là cái gì đây ? Quỷ ám thật chăng ? Một con quỷ chăng? Ông nhìn xuống và lắc đầu. Tuyệt không. Tuyệt không. Tuyệt không. Những hiện tượng phi phàm. Chắc chắn vậy. Tại sao không ? Có quá nhiều các nhà quan sát đầy năng lực đã phúc trình về điều đó. Các bác sĩ. Các nhà tâm thần học. Các nhân vật tầm ở như Junod. Nhưng vấn đề là ở chỗ làm sao ta giải thích được các hiện tượng đó ? Tư tưởng ông trở về với Oestereich. Đến trường hợp một tu sĩ phái Shaman ở Altai, Tây bá lợi á. Một trường hợp quỷ ám do tình nguyện và được kiểm tra tại một y viện đang lúc đối tượng bị quỷ ám thi triển một động tác hiển nhiên là phi phàm: sự bay bổng người lên. Ngay trước đó, nhịp mạch của ông ta đã vọt lên đến 100, sau đó nhảy lên con số đáng kinh ngạc là 200 nhịp. Những thay đổi về thân nhiệt cũng hết sức rõ rệt. Cả trong việc hô hấp. Như vậy hành động phi phàm của ông ta có liên quan chặc chẽ với lĩnh vực sinh lý học. Hành động đó gây ra do một năng lực sức mạnh thân xác nào đó. Nhưng xét như chứng cớ của người bị quỷ ám, giáo hội đòi hỏi phải có những hiện tượng ngọai giới minh bạch có hàm chứa những chứng cớ ấy.
Ông quên mất lời văn. Ông liền tra cứu. Ông lướt ngón tay trên trang một quyển sách trên bàn. Đây rồi : “… những hiện tượng ngọai giới có thể xác minh được mà có hàm ý rằng chúng phát sinh do một can thiệp phi thường của một tác nhân thông tuệ không phải là con người…” Đó có phải là trường hợp của người tu sĩ Shaman không ? Karras tự hỏi. Không. Và đây có phải là trường hợp của Regan không ?
Ông quay sang một đọan văn ông đã gạch sẳn bằng bút chì : “ Thầy đuổi quỷ phải tuyệt đối thận trọng để không có một biểu thị nào của bệnh nhân bị bỏ quên mà không được giải thích…”
Ông gật đầu. Vậy thì, tốt. Ta sẽ xem. Vừa bách bộ, ông vừa ôn lại những biểu hiện trong tình trạng rối lọan của Regan kèm theo những lời giải thích khả dĩ cho những biểu hiện đó. Ông đánh dấu chúng trong trí, từng điểm một:
Sự thay đổi đáng kinh ngạc trên nét mặt Regan.
Một phần do con bé đau ốm. Một phần do không ăn uống gì. Phần lớn, ông kết luận, chính vì diện mạo là một sự biểu lộ cho trạng thái tâm thần. Như thế là nghĩa lý quái gì chứ ? Ông gượng gạo nói thêm.
Sự thay đổi đáng kinh ngạc nơi gịọng nói của Regan.
Ông còn phải nghe giọng nói nguyên thủy của cô bé đã. Thậm chí nếu giọng nói đó đúng là giọng thanh, nhẹ, như mẹ cô bé đã cho biết, thì những cơn kêu thét liên tục cũng phải làm cho những dây thanh đới dày khít lại, do đó giọng nói sẽ trầm đục đi. Vấn đề duy nhất ở đây, ông suy nghĩ, chính là âm lượng đồ sộ, chan chứa của giọng nói đó, vì chí đến các dây thanh đới có dày khít lại đi nữa, xét về mặt sinh lý học, cái âm lượng vĩ đại này là một điều vượt ngòai sức tưởng tượng. Lại nữa, ông cân nhắc, trong những trạng thái xao xuyến hay bệnh lý, những sự phô diễn sức mạnh phi phàm vượt quá tiềm năng của bắp thịt đã được biết đến như một chuyện thường tình. Có thể nào những dây thanh đới và hộp âm thanh lại không chịu cùng một ảnh hưởng huyền nhiệm như thế sao ?
Vốn ngữ vựng và tầm kiến thức của Regan chợt phát triển rất lớn lao.
Chứng quên từ ngữ : có lẽ là những hồi ức bị chôn dấu về các từ ngữ và các dữ kiện mà đã có lần cô bé được nghe thấy, ngay cả trong thời còn ẳm ngửa. Ở những người mắc chứng mộng du và thường gặp nơi những kẻ sắp lâm chung, những dữ kiện bị chôn vùi thường nổi lên với một độ chính xác gần như được chụp ảnh.
Regan nhận ra ông là một linh mục.
Một sự phỏng đóan chính xác. Nếu quả cô bé đã đọc chương sách luận về quỷ ám, đương nhiên cô bé phải chờ đợi có một vị linh mục đến thăm. Theo Jung, khả năng nhận biết thuộc cõi vô thức và tính nhạy cảm của các bệnh nhân mắc chứng lọan thần ít-tê-ri lắm lúc có thể lớn gấp năm mươi lần người bình thường, điều đó đã lý giải cho hiện tượng “ đọc được ý nghĩ” cứ như thật của những kẻ ngồi đồng qua trung gian các tiếng gõ trên bàn, vì cái mà cõi vô thức của người ngồi đồng thực sự “đọc” được chẳng qua chỉ là những chấn động và sự rung chuyển trên bàn gây ra do đôi bàn tay gõ nhịp của kẻ mà tư tưởng được coi như là đang bị đọc thấy. Những chấn động tạo thành một dạng mẫu của các chữ cái hoặc các con số. Như vây, có thể lắm. Regan đã “đọc” được lý lịch của ông chỉ từ dáng điệu, cử chỉ của ông, từ dáng vẻ đôi bàn tay ông, từ mùi rượu lễ.
Regan biết về cái chết của mẹ ông.
Một sự phỏng đóan có cơ sở nữa. Thì ông đã bốn mươi sáu tuổi rồi.
Còn cái câu: “ Xin cha hãy giúp đỡ một thằng bé giúp lễ ngày xưa, cha oi !”
Các sách giáo khoa sử dụng trong các chủng viện Công giáo đều thừa nhận sự thần giao cách cảm như một thực tế và một hiện tượng tự nhiên.
Sự thông minh trước tuổi của Regan.
Trong quá trình đích thân quan sát một trường hợp bản ngã đa trùng liên quan đến những hiện tượng được coi là huyền bí, nhà tâm thần học Jung đã kết luận rằng trong những tình trạng mộng du mang tính lọan thần ít-tê-ri, chẳng những các nhận thức giác quan thuộc cõi vô thức vượt cao hẳn lên, mà cả chức năng của trí tuệ cũng tăng vọt, vì các bản ngã mới trong trường hợp đang được nghiên cứu đó dường như thông minh hơn bản ngã nguyên thủy thấy rõ. Dù vậy, Karras vẫn lúng túng, phải chăng đơn giản chỉ cần tường trình hiện tượng đó là giải thích được nó ?
Bất chợt, ông thôi bước, quanh quẩn bên cạnh bàn giấy vì chợt lóe lên trong tâm trí ông cái ý tưởng là trò chơi chữ về Vua Herod của Regan lại đâm ra phức tạp hơn là biểu hiện ban đầu của nó. Chẳng là thế này : khi bọn Pharisee kể cho Đấng Ki-tô nghe về lời hăm dọa của Herod, ông nhớ lại, Đấng Ki-tô đã trả lời với bọn họ rằng: “ Hãy đi bảo với lòai chồn cáo đó rằng ta đã từng đuổi quỷ…”
Ông nhìn cuộn băng ghi âm giọng nói của Regan một lúc rồi mệt mỏi ngồi xuống bàn. Ông châm một điếu thuốc…phà khói ra…lại nghĩ đến lũ bé trai nhà Burner; nghĩ đến trường hợp một bé gái tám tuổi đã biểu lộ các triệu chứng bị quỷ ám ở thời kỳ kịch phát. Cuốn sách nào cô bé này đã đọc mà lại có thể khiến cho tâm trí vô thức của cô bắt chước được giống hệt các triệu chứng đó một cách tòan bích như thế ? Làm thế nào miền vô thức của các nạn nhân ở Trung Hoa lại có thể truyền thông được các triệu chứng đó đến cho các tâm trí vô thức của nhiều người bị quỷ ám khác nhau ở tận Tây bá lợi á, ở tận Đức, tận Phi Châu, trong một cách thế mà các triệu chứng đó lúc nào cũng giống hệt nhau ?
…“ À, mà tình cờ, có cả mẹ mi ở đây với chúng tao nữa đấy, Karras ạ…”
Ông nhìn đăm đăm mà không thấy gì lúc làn khói thuốc quyện lên như những đợt ký ức thầm thì cuộn tròn. Vị linh mục dựa ngửa, nhìn xuống chiếc ngăn kéo dưới cùng phía bên trái bàn giấy. Trong một lúc, ông cứ nhìn đăm không dứt. Rồi thong thả, ông nghiêng xuống, kéo ngăn hộc rút ra một quyển vở học ngôn ngữ đã bạc màu. Trường Giáo dục Tráng niên. Quyển vở của mẹ ông. Ông đặt quyển vở đó lên bàn, lần giở từng trang với sự chăm chút âu yếm. Những chữ cái trong bảng mẫu tự ABC, viết đi viết lại nhiều lần, kế đó là những bài tập đơn giản :
BÀI HỌC VI
ĐỊA CHỈ ĐẦY ĐỦ CỦA TÔI
Giữa các trang vở, bà cố gắng tập viết một lá thư:
Dimmy thân yêu,
Mẹ vẫn đang đợi.
Rồi lại một đọan mở đầu khác. Dang dở. Ông nhìn đi chỗ khác. Ông trông thấy đôi mắt mẹ ông ở cửa sổ…đợi mong…
“Domine, non sum gignus…”
Đôi mắt đó đã biến thành đôi mắt của Regan, đôi mắt gào thét…đôi mắt đợi chờ.
“ Xin chỉ nói một lời…”
Ông liếc nhìn cuốn băng ghi âm giọng nói của Regan.
Ông rời phòng, mang cuốn băng xuống phòng thính thị. Tìm thấy một máy quay băng. Ngối xuống, ông máng đầu băng vào một chiếc lõi trống. Chụp ống nghe vào tay. Bật máy. Rồi ông nghiêng người ra trước, lắng nghe. Thật kỹ. Thật tập trung.
Trong một lúc, chỉ nghe thấy tiếng băng rít. Tiếng ken két của máy. Đột nhiên có tiếng khởi động nghe đánh “kịch” một cái. Những tiếng động. “ A lô…” Rồi có tiếng trả băng lại nghe veo véo. Chris MacNeil, giọng khẽ khàng nói từ xa. “ Đừng nói sát vào micro thế cưng. Cần xa ra.” “ Thế này ạ ?” “ Không, xa nữa kia.” “ Vầy được chưa ?” “ Ừ, tốt rồi.” “ Bây giờ tiếp tục nói đi.” Tiếng cười khúc khích. Micro va chạm vào bàn. Rồi giọng nói trong trẻo, dịu dàng của Regan MacNeil.
“ A lô, bố đó hả ? Con đây nè. Hừmm…” Tiếng cười khúc khích, sau đó là một lời bỏ nhỏ thì thầm: “ Con chẳng biết nói gì cả !” “ Ồ, thì cứ nói cho bố biết là con ra sao, cưng ạ. Kể cho bố nghe mọi việc con đang làm.” Có tiếng cười lích rích nữa, rồi : “ Hừmm, bố ơi…bố biết không…Con muốn nói là, con mong là bố nghe được con rõ, và, hừmm – Chà bây giờ để coi. À, trước hết là chúng con.. không phải, chờ chút – à trước hết là chúng con đang ở Washington, đó là nơi có tổng thống ở, và ngôi nhà này bố biết không, bố ? – Ngôi nhà này nó…không phải, chờ chút bố. Con phải bắt đầu nói lại từ đầu mới được. Coi nào, bố ơi, có…”
Karras chỉ nghe được đọan còn lại rất đỗi mơ hồ, từ xa xăm, qua tiếng mạch máu giần giật trong tai ông – như tiếng đại dương – lúc nó dâng trào lên qua lồng ngực rồi khuôn lại thành một mối trực giác tràn bãi bờ : Cái vật mà tôi thấy trong phòng đó không phải là Regan !
Ông trở lại khu cư xá Dòng Tên. Tìm thấy một phòng nhỏ. Ông hành lễ Mi-sa trước lúc sinh họat nhộn nhịp bắt đầu. Lúc ông nâng Mình Thánh lên để hiến tế, miếng bánh run rẩy giữa các ngón tay ông với một niềm hy vọng mà ông không dám cậy trông, mà ông đã chiến đấu với từng sợi tơ mong manh nhất của ý chí ông. “ Vì đây là Mình ta…” ông thì thầm, giọng run rẩy.
Không phải, bánh mì mà ! Cái này chẳng có gì khác hơn là bánh mì !
Ông không dám yêu một lần nữa rồi lại đánh mất. Sự mất mát đó quá đỗi lớn lao, quá ư buốt nhói. Ông gục đầu, nuốt bánh thánh như một ảo vọng bị đánh mất. Trong khỏang khắc, miếng bánh dính trong cổ họng khô se của ông.
Sau lễ Mi-sa, ông bỏ không ăn sáng. Ghi chú bài giảng. Lên lớp ở trường Y khoa, đại học Georgetown. Giọng khàn đặc, ông nói lãng đãng, cho qua bài giảng được chuẩn bị khá tồi: “…và trong khi cân nhắc các triệu chứng của các cơn điên lọan tâm thái, các bạn sẽ…” Bố hả…con đây nè…con đây nè…
“ Nhưng mà “con” là ai ?”..
Karras cho lớp học nghỉ sớm và trở về phòng riêng. Đến phòng, ông liền khom xuống bàn giấy, hai lòng bàn tay ép sát trên bàn, chăm chú xem xét lại lập trường của giáo hội đối với những dấu hiệu phi phàm của chứng quỷ ám. Phải chăng ta quá cố chấp ? Ông tự hỏi. Ông xem xét kỹ lưỡng các nét chính trong cuốn “Satan” : … “Thần giao cách cảm…hiện tượng tự nhiên…sự di chuyển các đồ vật từ xa này được nghi là…từ thân xác có thể phát ra chất dịch…ông cha ta…khoa học…ngày nay cần phải thận trọng hơn. Tuy nhiên, dù cho chúng có phi phàm…” Ông giảm chậm nhịp đọc… “ tất cả các cuộc đối thọai với bệnh nhân cần phải phân tích kỷ lưỡng, vì nếu chúng đưa ra cùng một hệ thống liên tưởng và cùng một hệ thống các thói quen ngữ pháp giống như cách biểu hiện trong trạng thái bình thường của bệnh nhân thì lúc đó, việc quỷ ám cần phải được xem là đáng nghi vấn.”
Karras hít thở thật sâu, thật kiệt cùng. Rồi thở ra. Đầu ông rũ xuống. Tuyệt nhiên không. Không có gì rõ ràng tách bạch cả. Ông nhìn bức tranh khắc kẽm ở trang đối diện. Một con quỷ. Tia mắt ông lãng đãng lướt đến dòng chú thích tranh: Pazuzu. Karras nhắm mắt lại. Có cái gì đó không ổn rồi. Cha Tranquille…Ông hình dung ra cái chết của vị linh mục đuổi quỷ này…những nổi thống khổ trong giờ lâm chung…tiếng rống hét…tiếng rít như rắn…nôn mửa…những lúc bị ném mạnh trên giường xuống đất bởi lũ ‘quỷ” khi chúng nỗi giận vì ông sắp chết và chúng không còn hành hạ ông được nữa. Rồi linh mục Lucas ! Lucas. Quỳ bên cạnh giường. Cầu nguyện. Nhưng lúc Tranquille chết rồi. Lucas lập tức mang lấy bản ngã của những con quỷ đã ám Tranquille, bắt đầu đã ác liệt vào cái thi thể còn nóng hổi kia, vào cái thân xác tả tơi, trầy trụa, nồng nặc mùi *** đái, nôn mửa nọ, trong khi sáu người đàn ông lực lưỡng cố sức giữ ông lại, ông vẫn không ngừng đấu đá mãi cho đến khi tử thi kia được mang ra khỏi phòng. Karras thấy điều đó. Thấy rất rõ ràng.
Có thể như thế sao ? Có lý nào lại có thể được sao ? Ông không thể rứt bỏ chuyện ấy đi được. Không thể bỏ mặc nó đó mà chưa trắc nghiệm. Ông cần phải biết. Biết bằng cách nào ? Ông mở mắt ra. “… những cuộc đối thọai với bệnh nhân cần phải thận trọng.” Đúng, đúng rồi, tại sao không ? Nếu việc khám phá ra những mẫu nói của Regan và của “quỷ” là giống hệt nhau sẽ bác bỏ dứt khóat là không hề có quỷ ám gì hết, ngay dù có các hiện tượng phi phàm đi nữa; thì hiển nhiên chắc chắn là sự khác biệt hùng hồn giữa các mẫu nói của hai đối tượng ấy phải có nghĩa là đã có thể có tình trạng quỷ ám thực sự.
Ông đi tới đi lui. Còn gì khác ? Còn gì khác nữa không ? Một cái gì đó nhanh lên nào. Cô bé - Chờ chút đã. Ông dừng bước, đăm đăm nhìn xuống, hai tay chấp sau lưng. Cái chuơng sách đó…cái chương đó trong cuốn sách luận về thuật phù thủy đó. Nó có đề cập đến…? Có, nó có đề cập đến thật: lũ quỷ bao giờ cũng phản ứng lại dữ dội khi phải đương đầu với Bánh Thánh đã được hiến tế…với các thánh tích…với nước thánh ! À! Đúng rồi! Ta sẽ đi lên đó lấy nước máy vẩy lên người con bé! Nhưng ta sẽ bảo đó là nước Thánh. Cứ thế ! Nếu con bé phản ứng lại như cách lũ quỷ phải phản ứng, lúc đó ta sẽ biết được rằng nó chẳng bị quỷ ám gì cả…rằng những triệu chứng ấy chỉ gây ra do ám thị đấy thôi…rằng con bé đã có những triệu chứng đó chỉ vì cuốn sách ! Nhưng nếu con bé không phản ứng, điều đó có nghĩa là…
Quỷ ám thực sự ?
Như người phát sốt, ông lục lọi tìm kiếm một lọ nước thánh.
---------------------------
Willie tiếp ông vào nhà. Nơi lối vào, ông liếc lên phòng Regan. Những tiếng la hét. Văng tục. Nhưng vẫn chưa phải là cái giọng thô nhám, trầm thấp của con quỷ. Mà là cái giọng bẳn gắt. Thanh hơn. Một giọng Anh nặng…Đúng rồi ! Chính đó là nét biểu hiện đã thóang lộ trong lần ông gặp Regan vừa rồi.
Karras nhìn xuống Willie đang đứng đợi. Chị ta kinh ngạc ngó sững vào chiếc cổ áo La Mã. Vào những lễ phục linh mục. “ Thưa, bà MacNeil ở đâu ạ ?” Karras hỏi chị ta.
Willie chỉ lên lầu
“ Cám ơn chị.”
Ông đi về phía cầu thang. Leo lên. Gặp Chris trong hành lang. Nàng đang ngồi trên một cái ghế cạnh phòng ngủ Regan, đầu cuối gục, hai tay khoanh trước ngực. Lúc vị linh mục đến gần, nàng nghe thấy tiếng áo dòng của ông khua lọat sọat. Nàng ngước lên và đứng nhanh dậy. “ Chào cha.”
Khỏang dưới đôi mắt nàng có những vết thâm quầng. Karras cau mày. “ Bà có ngủ không ?”
“ Chà, chút đỉnh thôi.”
Ông lắc đầu ra dáng quở trách.
“ Vâng, tôi không sao ngủ được,” nàng thở dài nhìn ông, hất đầu về phía cửa phòng Regan. “ Nó quậy suốt đêm.”
“ Có nôn mửa gì không ?”
“ Không.” Nàng nắm lấy tay áo ông như muốn dẫn ông đi. “ Nào, ta xuống nhà dưới mới có thể…”
“ Không, tôi muốn thăm cô bé ngay,” ông khẽ ngắt lời. Ông cưỡng lại sức giật khăng khăng trìu níu của nàng.
“ Ngay bây giờ à ?”
Có gì trục trặc rồi, Karras nghĩ. Trông nàng căng thẳng quá. Sợ sệt nữa. “ Tại sao không là bây giờ ?” Ông tra vấn.
Nàng len lén nhìn về cửa phòng Regan. Từ trong phòng rít lên cái giọng điên lọan, khàn khàn: “ Đồ Quốc xã khốn kiếp ! Đồ Quốc xã mặt l…!”
Chris nhìn chỗ khác, rồi miễn cưỡng gật đầu. “ Nào ta đi thôi.”
“ Bà có máy ghi âm không ?”
Đôi mắt nàng dò xét ông thật nhanh. Những cái chớp mắt thóang mau.
“ Bà vui lòng cho mang máy lên với một lõi băng trống được chứ ?”
Nàng chau mày ngờ vực. “ Để làm gì cơ ?” Rồi đâm hỏang. “ Có phải cha định ghi âm..”
“ Đúng thế, rất quan..”
“ Thưa cha, tôi không thể để cha..”
“ Tôi cần phải so sánh các mẫu nói,” ông dứt khóat cắt ngang. “ Xin bà vui lòng cho ! Bà cần phải tin cậy ở tôi mới được.”
Họ quay lại cánh cửa kịp lúc một tràng ngôn ngữ tục tĩu khôn tả rõ ràng đã đẩy bật Karl ra khỏi phòng Regan. Gương mặt anh ta xám lại và đằng đằng sát khí, anh ta đang bưng mớ tã lót và khăn giường lấm lem lấm luốt.
“ Vẫn buộc giây cẩn thận đấy chứ Karl ?” Chris hỏi người gia nhân lúc anh ta đóng cửa phòng ngủ phía sau lưng.
Karl liếc nhanh Karras, rồi nhìn Chris. “ Dây vẫn buộc,” anh ta nói ngắn gọn, xuôi nhanh hành lang đến chỗ cầu thang.
Chris nhìn anh ta. Nàng quay lại Karras.
“ Được rồi,” nàng nói yếu ớt. “ Được rồi. Tôi sẽ bảo mang máy lên.” Rồi bất chợt, nàng bước xuống hành lang.
Trong một lúc, Karras cứ nhìn nàng. Bối rối. Có gì trục trặc đây ? Rồi ông để ý thấy sự yên lặng bất ngờ trong phòng ngủ. Trong phút chốc. Thế rồi rộ lên tiếng cười của quỷ dữ ăng ẳng như chó sủa. Ông tiến tới trước. Rờ tìm lọ nước trong túi. Ông mở cửa rồi bước vào phòng.
Mùi xú uế còn nồng nặc dữ dội hơn tối hôm trước. Ông đóng cửa lại. Nhìn trừng trừng. Cái nỗi hãi hùng đó. Cái vật ở trên giường đó.
Lúc ông trờ đến gần, nó nhìn ông bằng đôi mắt nhạo báng. Đầy ranh mãnh. Đầy óan ghét. Đầy quyền năng.
“ Chào Karras.”
Vị linh mục nghe thấy tiếng tiêu chảy bài tiết rèn rẹt vào chiếc quần bằng nhựa dẻo. Từ chân giường, ông cất giọng trầm tĩnh. “ Chào quỷ, ngươi mạnh giỏi chứ ?”
“ Lúc này, tao rất sung sướng được gặp mi. Hân hạnh.” Cái lưỡi thè ra ngòai miệng, còn đôi mắt thì đánh giá Karras với vẻ xấc xược. “ Tao thấy rõ là mi đang mở cờ trong bụng. Hay lắm.” Nó quát tháo một chặp nữa. “ Mi không phiền là phòng hôi thối đấy chứ, hả Karras ?”
“ Không hề phiền.”
“ Mi nói dối !’
“ Điều đó khiến ngươi khó chịu chăng ?”
“ Tí tỉnh.”
“ Nhưng quỷ vốn thích bọn nói dối mà ?”
“ Chỉ những đứa nói dối giỏi thôi, Karras thân mến ạ, chỉ những đứa nói láo có sách thôi,” nó cười khúc khích. “ Với lại, ai bảo rằng tao là quỷ nào ?”
“ Há không phải ngươi đã nói thế sao ?”
“ Ồ, có lẽ ta đã nói thế thật. Có thể. Ta không được khỏe. Mi tin tao chứ ?”
“ Dĩ nhiên.”
“ Tao xin lỗi.”
“ Có phải ngươi định nói rằng ngươi không phải là quỷ chăng ?”
“ Chỉ là một ác quỷ khốn khổ đang phải phấn đấu bon chen. Một con quỷ, một sự khác biệt rất tế nhị, nhưng là một con quỷ chưa hòan tòan hư mất vào tay Cha Chúng Tao Ở Địa Ngục. À này, mi sẽ không nhắc đến sự lỡ lời mới rồi của tao với ông ta đấy chứ, hở Karras ? Ê, khi nào thì mi gặp ông ấy ?”
“ Gặp y à ? Y có ở đây không ?” Vị linh mục hỏi.
“ Trong con heo này ấy à ? Không bao giờ. Bạn ơi, đây chỉ là một gia đình bé mọn, khốn khó gồm tòan những cô hồn vất vưởng mà thôi. Mi không trách việc chúng tao cư trú ở đây chứ phải không ? Mà xét cho cùng, bọn tao cũng chẳng có chỗ nào mà đi. Không nhà không cửa.”
“ Và ngươi dự tính lưu lại đây bao lâu ?”
Đầu nó giật bắn lên khỏi gối, nhăn nhúm lại giận dữ, vừa rống lên. “ Cho đến khi nào con heo này chết !” Sau đó, cũng đột ngột như thế, Regan trở lại với cái cười toe tóet đầy dãi nhớt trên đôi môi dầy . “ À này, Karras, ngày hôm nay mà làm lễ đuổi quỷ thì tuyệt thật đấy.”
Cuốn sách ! Hẳn con bé phải đọc cuốn sách đó rồi !
Đôi mắt châm biếm ấy cứ nhìn chòng chọc, xuyên thấu. “ Bắt đầu hành lễ ngay đi chứ. Thật sớm đi nào.”
Mâu thuẩn. Có cái gì trật chìa, lạc điệu ở đây rồi. “ Ngươi muốn thế sao ?”
“ Muốn quá đi chứ.”
“ Nhưng há điều đó không trục xuất người ra khỏi Regan sao ?”
Con quỷ ngả ngớn đầu ra sau, cười khằng khặc như điên, rồi ngừng ngang. “ Điều đó sẽ đem chúng ta lại với nhau.”
“ Ngươi và Regan ấy à ?”
“ Mi và chúng tao ấy chứ, người bạn quý hóa ạ,” con quỷ giọng ồm ồm. “ Mi và chúng tao.” Và tận sâu trong cuống họng đó là tiếng cười nghẹt ngòi.
Karras nhìn sững. Ông cảm thấy có những bàn tay sờ sau gáy ông. Lạnh như nước đá. Chạm khẽ. Rồi thôi. Chắc là tại ta sợ, ông kết luận. Sợ.
Sợ gì chứ ?
“ Phải, mi sẽ hội nhập cùng gia đình bé nhỏ của chúng tao, Karras ạ. Mi thấy đó, điều rắc rối với các dấu hiệu ở trên trời là ở chỗ một khi người ta thấy chúng rồi, người ta không còn có thể biện minh gì được nữa. Ngươi có nhận thấy là thời kỳ gần đây, người ta ít nghe nói về phép lạ là dường nào không ? Đó không phải là lỗi của chúng tao, Karras ạ. Đừng trách chúng tao. Chúng tao có cố gắng mà !”
Karras quay ngoắt đầu ra sau trước một tiếng động đánh “rầm” vang dội đột ngột. Một ngăn kéo ở chiếc tủ com-mốt bật tung, tuôn hết ra ngòai. Ông cảm thấy một nỗi rùng mình dâng nhanh lúc nhìn chiếc ngăn kéo bất chợt đóng “sầm” trở lại. Chính nó rồi ! Thế rồi cũng bất chợt như vậy, nỗi xúc động đó trôi đi như một mảng vỏ mục bong khỏi thân cây: Thần kích rồi. Karras nghe thấy tiếng cười khúc khích. Ông nhìn trở lại Regan.
“ Chuyện trò với mi thật là thú vị, Karras ạ,” con quỷ nói, nhăn nhở cười. “ Tao cảm thấy thảnh thơi, thỏai mái. Cứ hệt như một dâm phụ. Tao sải đôi cánh vĩ đại của tao ra. Thật vậy, cho dù tao nói với mi điều này thì chỉ tổ trút thêm sự nguyền rủa lên đầu mi đấy thôi, ông bác sĩ, người thầy thuốc thân mến và nhục nhã của tao ạ.”
“ Ngươi vừa làm điều đó phải không ? Ngươi vừa mới khiển chiếc ngăn kéo tủ di chuyển đó phải không ?”
Con quỷ không nghe ông. Mắt nó hướng về phía cửa, về phía tiếng chân người từ lối hành lang bước nhanh đến, lúc này nét mặt nó đã biến ra dung mạo của một bản ngã khác. “ Đồ quân đồ tể khốn kiếp.” Nó rít lên bằng cái giọng Anh nằng nặng, khàn khàn. “ Đồ thằng Đức mặt l…”
Xuyên qua cánh cửa là Karl, bước nhanh vào với chiếc máy ghi âm. Anh ta đặt máy xuống cạnh giường, mắt nhìn chỗ khác, rồi cun cút rút lui khỏi phòng.
“ Cút đi, thằng Himmler kia ! Cút cho khuất mắt tao ! Đi mà thăm đứa con gái cà thọt của mày đi ! Đem dưa cải bắp đến cho nó ! Dưa cải bắp và héroine, Thordike nữa ! Con nhỏ sẽ mê mấy thứ đó lắm. Nó sẽ…”
Khuất rồi, Karl đã đi khuất rồi. Sau đó, bất chợt cái vật ở bên trong Regan đâm ra thành thật, nó nhìn Karras nhanh chóng chuẩn bị máy, tìm một lỗ cắm điện, gắn chấu dây vào, mắc băng từ vô lõi.
“ À, đúng rồi, alô, alô, alô. Trò gì thế này ?” Nó khóai chí nói. “ Ta sắp sửa ghi âm cái gì chăng, hở Padre ? Thú vị quá ! Chà, tao quả là khóai chơi ba cái món diễn xuất lắm, mi biết đấy ? Chèn ơi, tao khóai quá trời quá đất !”
“ Ta là Damien Karras,” vị linh mục nói, vẫn bận bịu với công việc. “ Còn ngươi là ai ?”
“ Ra mi định đòi ủy nhiệm thư của tao chăng ? Hở người bạn thân mến ? Mi thật là mặt dày mày dạn lắm nhé !” Nó cười rinh rích. “ Tao là Puck trong vở kịch diễn ở lớp dưới đây.” Nó liếc quanh. “ À này, có cái gì uống không ? Ta khát cháy cổ đây.”
Vị linh mục khẽ đặt micro lên bàn ngủ.
“ Nếu ngươi cho ta biết tên, ta sẽ kiếm thức uống cho.”
“ Dĩ nhiên là được thôi,” nó trả lời với tiếng cười khằng khặc khóai chí, “ rồi chính mi cũng sẽ uống luôn chứ gì, ta áng chừng thế.”
Vừa ấn chiếc nút “Thu”, Karras vừa đáp. “ Nói tên ngươi đi.”
“ Thằng ăn cướp chó đẻ !” nó rít ken két.
Rồi thoắt cái, nó biến mất và con quỷ kia lại thế chỗ. “ Bây giờ ta sẽ làm gì đây, hở Karras ? Ghi âm cuộc thảo luận nhỏ của chúng ta chăng ?”
Karras thẳng căng người. Nhìn đăm đăm. Rồi ông kéo một chiếc ghế đến cạnh giường và ngồi xuống. “ Ngươi không phiền chứ ?” ông nói.
“ Không hề” con quỷ giọng ồm ồm. “ Bao giờ tao cũng khóai mấy thứ máy móc quỷ quái.”
Bất chợt một mùi nồng nặc mới xông vào mũi Karras. Một mùi như thể…
“ Mùi dưa cải bắp, Karras ạ. Mi có nhận thấy không ?”
Quả nó giống mùi dưa cải bắp thật, vị linh mục Dòng Tên kinh ngạc. Có vẻ như mùi đó bốc ra từ chiếc giường. Từ thân thể Regan. Rồi mùi đó biến mất, thay vào đó là cái mùi thối hoắc cũ. Karras cau mày. Có phải ta tưởng tượng ra mùi đó không ? Tự kỷ ám thị chăng? Ông nghĩ đến lọ nước thánh. Bây giờ chưa? Khoan, để dành đó đã. Phải thu thập thêm mẫu nói đã. “ Tôi vừa nói chuyện với ai mới đây vậy ?” ông hỏi.
“ Chỉ là một thành viên trong gia đình thôi.”
“ Một con quỷ chăng.”
“ Mi quá đề cao.”
“ Sao thế ?”
“ Từ “quỷ” có nghĩa là “người khôn ngoan”. Còn gã này thì ngu ngốc thôi.”
Vị linh mục cứng cả người. “ Ở ngôn ngữ nào từ “quỷ’ có nghĩa là “người khôn ngoan” !?”
“ Ngôn ngữ Hy Lạp.”
“ Ngươi nói tiếng Hy Lạp chứ ?”
“ Rất lưu lóat.”
Một trong những dấu hiệu đây rồi ! Karras sôi nổi nghĩ. Nói một thứ tiếng lạ ! Thật là vượt quá chỗ ông mong mỏi. “ Pos ognokas hoti presbyteros eimi ?” ông vội hỏi bằng tiếng Hy Lạp cổ điển.
“ Tao không có hứng, Karras à.”
“ Ồ, thế là ngươi không thể…”
“ Tao không có hứng mà !”
Thất vọng, Karras trầm ngâm. “ Ngươi đã khiến cho ngăn kéo tủ chạy ra phải không ?” ông chất vấn.
“ Tất nhiên.”
“ Rất ngọan mục,” Karras gật gù. “ Ngươi hẳn là một con quỷ rất, rất ư quyền năng.”
“ Đích thị.”
“ Ta thắc mắc không biết ngươi có thể thi triển lại điều đó không ?”
“ Có chứ, đúng lúc của nó.”
“ Xin làm ngay bây giờ đi. Ta thực sự muốn chứng kiến điều ấy.”
“ Đúng lúc mới được.”
“ Tại sao không làm bây giờ ?’
“ Chúng tao phải cho mi vài lý do để nghi ngờ chứ,” nó cất giọng ồm ồm. “ Một vài. Đủ để khẳng định kết quả chung cuộc.” Nó ngửa đầu ra sau trong một tràng cười ma mãnh. “ Tấn công xuyên qua chân lý mới kỳ thú làm sao chứ ? A ha, mới khóai trá làm sao chứ !”
Những bàn tay băng giá lại rờ nhẹ lên cổ ông. Karras sửng sờ. Lại sợ chăng? Sợ ? Phải đó là sợ chăng?
“ Không, không phải sợ đâu,” con quỷ nói. Nó đang cười toe tóet. “ Đó là tao đấy thôi.”
Những bàn tay đã biến mất. Karras cau mày. Ông cảm thấy một điều lạ lùng mới mẻ. Ông chẻ nó ra để tìm hiểu. Thần giao cách cảm. Hay là cô bé ? Tìm cho ra. Phải tìm cho ra ngay. “ Ngươi có thể cho ta biết là ta đang nghĩ gì bây giờ không ?”
“ Tư tưởng của mi thì chán ngắt chẳng bỏ cho tao giải khuây.”
“ Vậy là ngươi không thể đọc được tâm trí ta rồi.”
“ Mi muốn nghĩ thế nào tùy ý mi…tùy ý mi.”
Thử nước thánh chăng? Ngay bây giờ? Ông nghe thấy tiếng máy thu âm kêu rin rít. Khoan. Cứ tiếp tục đào xới thêm đã. Phải thu thập được thêm một mẫu nói nữa. “ Ngươi là một nhân vật hấp dẫn thật.” Karras bảo.
Regan cười nhạo báng.
“ Ồ, không, thật vậy mà.” Karras nói. “ Ta muốn biết thêm về lý lịch của ngươi. Chẳng hạn như ngươi chưa bao giờ cho ta biết ngươi là ai.”
“ Một con quỷ,” con quỷ quát tháo.
“ Ừ, ta biết, nhưng là quỷ nào chứ ? Tên ngươi là gì ?’
“ Chà, một cái tên thì có nghĩa lý gì chứ, hở Karras ? Đừng bận tâm đến cái tên của tao. Cứ gọi tao là Howdy, nếu mi thấy như thế tiện hơn.”
“ Ồ, phải Đại úy Howdy,” Karras gật đầu, “ bạn của Regan.”
“ Bạn chí thân của nó.”
“ Ồ, thật vậy sao?”
“ Thật.”
“ Thế thì tại sao ngươi lại hành hạ cô bé ?”
“ Vì tao là bạn nó. Con heo con khóai chuyện đó.”
“ Cô bé khóai chuyện đó sao ?”
“ Nó ngưỡng mộ điều đó.”
“ Tại sao chứ ?”
“ Cứ hỏi nó !”
“ Ngươi có để cho cô bé trả lời không ?’
“ Không.”
“ Chà, thế thì ta hỏi cô bé để làm gì chứ ?”
“ Chả làm gì cả.” Đôi mắt quỷ lóe lên tia óan ghét.
“ Kẻ mà ta mới nói chuyện lúc nãy là ai vậy ?” Karras hỏi.
“ Ngươi đã hỏi câu đó rồi.”
“ Ta biết, nhưng ngươi có hề trả lời gì đâu.”
“ Chỉ là một người bạn tốt khác của con heo này thôi, Karras thân mến ạ.”
“ Ta nói chuyện với y được chứ ?”
“ Không, hắn đang bận bịu với mẹ mi.” Nó khẽ cười rúc rích, rồi thêm. “ Ôi, cái lưỡi mới tuyệt diệu làm sao, mẹ mi ấy. Cái mồm thật đáng đồng tiền bát gạo.”
Nó lóe nhìn ông nhạo báng, còn Karras cảm thấy một cơn giận dữ bừng bừng chạy qua người ông, một nỗi óan hận hừng hực mà vị linh mục giật mình nhận ra là không phải nhắm vào Regan, mà nhắm vào con quỷ. Con quỷ ! Có việc quái gì với mi thế này, hở Karras? Vị linh mục cố hết sức giữ bình tĩnh, hít thở thật sâu, rồi đứng lên rút lọ nước ra khỏi túi áo sơ mi. Ông mở nút lọ.
Con quỷ lộ vẻ cảnh giác. “ Cái gì vậy ?”
“ Ngươi không biết sao ?” Karras hỏi, ngón tay cái ông che nửa miệng lọ lúc ông bắt đầu rảy nước lên người Regan. “ Nước thánh đấy quỷ ạ.”
Lập tức con quỷ co rúm, quằn quại, hét lên vì kinh hãi và đau đớn: “ Bỏng! Bỏng! Á! Đừng rảy nữa ! Ngừng lại, tên linh mục khốn kiếp kia ! Ngừng lại đi !”
Mặt lạnh như tiền, Karras ngừng rảy. Lọan thần kinh ít-tê-ri. Ám thị. Con bé quả đã đọc quyển sách đó rồi. Ông nhìn chiếc máy ghi âm. Tại sao lại bận tâm ?
Ông nhận ra sự yên lặng. Nhìn Regan. Nhíu mày. Cái gì thế này ? Chuyện gì đang xảy ra đây? Bản ngã quỷ đã biến mất nhường chỗ cho nét mặt khác, trông tương tự. Nhưng mà lại khác. Cặp mắt trợn ngược, bày ra hai tròng trắng dã. Bây giờ nó thì thầm. Chậm rãi. Một tràng huyên thuyên sôi nổi. Karras đến bên giường. Nghiêng người xuống nghe. Cái gì vậy ? Chẳng có gì cả. Vậy mà…Tràng nói có ngữ điệu. Giống như một ngôn ngữ. Có thể thế được sao? Ông cảm thấy tiếng cánh vỗ phần phật trong bao tử ông, ông vội kềm chặt chúng, ghìm chúng đứng yên. Nào, đừng có ngu ngốc thế nữa ! Vậy mà…
Ông nhìn ô kiểm sóat âm lượng trên máy ghi âm. Không thấy lóe sáng. Ông tăng núm khuếch âm rồi lắng nghe, chăm chú, tai áp sát môi Regan. Tràng nói huyên thuyên chấm dứt, thay vào đó là những tiếng thở cò cử, sâu lắng.
Karras duỗi thẳng người. “ Ngươi là ai ?” Ông hỏi.
“ Nowonmai,” thực thể đó trả lời. Tiếng than vãn thều thào. Trong nỗi đau đớn. Đôi tròng mắt trắng dã. Mí mắt nhấp nháy. “ Nowonmai.” Cái giọng rạn vỡ, hổn hển, giống như linh hồn của chủ nhân nó, có vẻ co cụm trong một không gian trướng rũ màn che, tăm tối ở bên kia thời gian.
“ Đó là tên ngươi chăng ?” Karras cau mày.
Đôi môi đó mấp máy. Những vần hừng hực sốt. Chậm chạp. Vô nghĩa. Rồi nó ngừng ngang.
“ Ngươi hiểu được ta không ?”
Yên lặng. Chỉ có tiếng thở. Sâu lắng. Nghe nghèn nghẹn kỳ quặc. Như âm thanh kỳ lạ của giấc ngủ trong lồng dưỡng khí.
Vị linh mục Dòng Tên chờ đợi. Hy vọng sẽ có gì thêm.
Chẳng có gì xảy ra .
Ông trả băng lại, bỏ máy vào bao, xách máy lên, mang theo cuộn băng.
Ông nhìn Regan một lần cuối. Vẫn là những đầu mối rời rạc, không đâu vào với đâu. Bất quyết, ông rời phòng và bước xuống cầu thang.
Ông tìm thấy Chris trong bếp. Nàng đang ngồi ủ rũ bên tách cà phê nơi bàn, với Sharon. Lúc thấy ông lại gần, hai người ngước lên nhìn ông với vẻ mong ngóng, xốn xang, tra hỏi. Chris khẽ bảo Sharon. “ Cô lên ngó qua Regan hộ tôi. Đồng ý ?”
Sharon uống ngụm cà phê cuối cùng, uể ỏai cuối đầu chào Karras rồi bỏ đi. Ông mệt mỏi ngồi xuống bàn.
“ Vậy là chuyện gì ?” Chris hỏi ông, vừa dò xét đôi mắt ông.
Vừa định trả lời, Karras lại chờ vì lúc đó Karl từ phòng chứa thực phẩm bước vào bếp rồi đi ra phía bồn rửa để kỳ cọ soong nồi.
Chris dõi theo tia nhìn của ông. “ Không sao,” nàng nhỏ nhẹ nói. “ Cha cứ nói đi. Cuộc thực tập ra sao ?”
“ Có hai bản ngã mà trước đây tôi chưa gặp. À, không, một kẻ tôi đóan là có thấy thóang qua, kẻ có phát âm rặt giọng Anh ấy. Đó có phải là người bà quen biết không ?”
“ Điều đó có quan trọng không ?”
Ông lại trông thấy vẻ căng thẳng đặc biệt trên khuôn mặt nàng. “ Quan trọng chứ !”
Nàng nhìn xuống và gật đầu. “ Vâng, đó là một kẻ tôi có quen biết.”
“ Ai vậy ?”
Nàng ngước lên. “ Burke Dennings.”
“ Nhà đạo diễn ?”
“ Phải.”
Vị linh mục yên lặng cân nhắc câu trả lời của nàng một lúc. Ông trông thấy ngón tay trỏ của nàng giần giật.
“ Cha muốn uống chút cà phê hay thứ gì không, thưa cha ?”
Ông lắc đầu. “ Không, cảm ơn.” Ông nghiêng người ra trước, hai khủyu tay chống lên bàn. “ Regan có quen biết ông ấy không ?”
“ Có.”
“ Và…”
Có tiếng lỏang xỏang. Giật nẩy mình, Chris quay lại, trông thấy Karl đánh rơi một cái chảo xuống sàn và đang cố nhặt lên. Anh vừa nhấc chảo lên thì lại đánh rơi nữa.
“ Chúa ơi, Karl !”
“ Xin lỗi bà.”
“ Này, Karl, đi ra ngòai đi ! Đi mà xem phim hay cái gì đi ! Ta không thể nào cứ ngồi ru rú trong ngôi nhà này mãi được !” Nàng quay lại Karras, nhặt một gói thuốc lá lên, rồi lại ném phịch xuống bàn lúc nghe Karl phản đối “ Không, tôi coi…”
“ Này Karl, tôi bảo thật đấy !” Chris bực bội gắt anh ta, cao giọng nhưng không ngóai đầu lại. “ Đi ra đi ! Cứ đi ra khỏi nhà này chốc lát đi ! Rồi tất cả chúng ta cũng phải bắt đầu đi ra hết lượt thôi ! Nào, đi ra thôi !”
“ Phải rồi, anh đi đi !” Willie hưởng ứng lúc chị bước vào, giằng cái chảo trên tay Karl. Chị bực dọc đẩy chồng về phía phòng chứa thực phẩm.
Karl nhìn Karras và Chris một thóang rồi bước ra.
“ Xin lỗi cha.” Chris lắp bắp xin lỗi. Nàng nhón một điếu thuốc.” Dạo gần đây anh ta phải chịu biết bao điều cay đắng.”
“ Bà nói đúng,” Karras dịu dàng nói. Ông nhặt bao diêm lên. “ Tất cả mọi người nên cố gắng ra khỏi ngôi nhà này.” Ông châm thuốc cho nàng. “ Cả bà nữa.”
“ Thế rồi Burke nói những gì ?” Chris hỏi.
“ Tòan những lời tục tĩu.” Karras nhún vai nói.
“ Có thế thôi sao?”
Ông bắt gặp nét sợ hãi mông lung trong giọng nói nàng. “ Khá nhiều.” Ông đáp. Rồi ông hạ thấp giọng. “ À này, Karl có một con gái phải không ?”
“ Một cô con gái? Không, tôi chưa bao giờ hay biết điều đó. Mà giá có đi nữa, anh ta cũng chẳng bao giờ đả động đến điều đó.”
“ Bà chắc chứ ?”
Willie đang kỳ cọ bồn rửa bát. Chris quay lại phía chị ta. “ Chị không có đứa con gái nào, phải không Willie ?”
“ Cháu chết rồi, thưa bà, từ lâu lắm rồi.”
“ Ồ, tôi xin lỗi.”
Chris quay trở lại Karras. “ Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói về người con gái ấy.” Nàng thì thầm. “ Tại sao cha lại hỏi? Bằng cách nào cha biết được ?”
“ Regan. Cô bé đã đề cập đến điều ấy.” Karras bảo.
Chris nhìn sững.
“ Có bao giờ cô bé tỏ ra dấu hiệu là có nhận thức ngòai giác quan không ?” Ông hỏi. “ Ý tôi muốn nói là trước thời gian này.”
“ Chà…” Chris ngập ngừng. “ Chà, tôi không biết nữa. Tôi không dám chắc. Ý tôi muốn nói là, có lắm lúc như nó nghĩ cùng những điều tôi nghĩ, nhưng há điều đó không từng xảy ra với những người thân cận của ta sao ?”
Karras gật đầu. Suy nghĩ. “ Cái bản ngã mà tôi đã đề cập đến này đây,” ông bắt đầu. “ Đó chính là kẻ đã một lần xuất hiện lúc thôi miên.”
“ Nói năng huyên thuyên.”
“ Phải. Ai vậy ?”
“ Tôi không biết.”
“ Không quen biết gì sao ?”
“ Không hề.”
“ Bà đã gửi xin các hồ sơ bệnh lý chưa ?”
“ Các hồ sơ ấy sẽ đến đây xế trưa nay. Đi bằng máy bay. Chúng sẽ gửi thẳng đến chỗ cha.” Nàng nhấm nháp cà phê. “ Đó là cách duy nhất mà tôi có thể tháo cũi sổ lồng chúng, và ngay cả bằng cách ấy đi nữa, tôi cũng đã phải làm tóang lên họ mới chịu nhả chúng đó.”
“ Vâng, tôi cũng nghĩ là thế nào cũng gặp rắc rối.”
“ Có rắc rối. Nhưng mà chúng sắp tới nơi.” nàng chiêu một ngụm nữa. “ Còn bây giờ, về vụ đuổi quỷ thì sao đây. Thưa cha ?
Ông nhìn xuống rồi thở dài. “ Chà, tôi không mấy hy vọng là có thể thuyết phục được Đức Giám mục về chuyện ấy.”
“ Cha nói “ không mấy hy vọng” là nghĩa lý thế nào ?” Nàng đặt tách cà phê xuống, cau mày, lo lắng.
Ông thọc tay vào túi lôi ra lọ nước, chìa nó ra cho Chris xem. “ Thấy cái này chứ ?”
Nàng gật đầu.
“ Tôi bảo cô bé đó là nước thánh,” Karras giải thích. “ Rồi lúc tôi khởi sự rảy lên người nó, nó phản ứng rất dữ dội.”
“ Vậy thì ?’
“ Đó không phải là nước thánh. Chỉ là nước máy thường thôi.”
“ Vậy thì có lẽ một vài con quỷ không biết được sự khác biệt ấy thôi.”
“ Bà thực sự tin là có một con quỷ ở trong cô bé sao ?’
“ Tôi tin rằng có một cái gì đó ở bên trong Regan đang cố giết cho bằng được con bé, thưa cha Karras, và cho dù nó biết phân biệt nước đái hay nước thường hay không đi nữa thì dường như cũng chẳng có can hệ mấy đến điều đó, cha có nghĩ thế không ? Xin lỗi cha nhưng vì cha đã hỏi ý kiến tôi , thì tôi cũng xin nói rõ ra thế này,” nàng dụi điếu thuốc. “ dù gì đi nữa, nước thánh và nước máy thì có gì khác nhau không nào?
“ Nước thánh đã được làm phép.”
“ Xin chúc cha may mắn, thưa cha. Tôi rất sung sướng về điều ấy! Vậy thì bây giờ cha định nói gì với tôi đây. Không có chuyện đuổi quỷ chăng ?”
“ Coi kìa, tôi chỉ mới bắt đầu đào xới tìm hiểu vào sự việc này,” Karras sôi nổi nói. “ Nhưng giáo hội có những tiêu chuẩn cần phải được đáp ứng, và chúng phải được đáp ứng vì một lý do thật xác đáng: đó là gạt bỏ triệt để những thứ rác rưởi mê tín mà thiên hạ đã không ngừng gán ép cho chuyện đó hàng bao nhiêu năm nay ! Tôi đan cử cho bà vài ví dụ, chẳng hạn chuyện “ những ông tu sĩ biết bay”, những bức tượng Đức Mẹ người ta cho là biết khóc vào những ngày thứ sáu Tuần Thánh và vào những ngày lễ hội. Bây giờ tôi nghĩ là mình có thể sống mà chẳng cần đóng góp gì thêm vào những chuyện rác rưởi ấy !”
“ Cha muốn dùng chút đỉnh Librium không, thưa cha ?”
“ Tôi xin lỗi, nhưng vì bà đã hỏi ý kiến tôi.”
“ Tôi hiểu rồi.”
Ông vói tay lấy thuốc lá.
“ Cho tôi với,” Chris khàn giọng nói.
Ông giơ gói thuốc ra. Nàng rút một điếu. Ông bập điếu thuốc vào mồm rồi châm lửa cho cả hai. Họ phà thuốc ra với những tiếng thở dài sườn sượt rồi sụm người xuống quanh bàn.
“ Tôi xin lỗi,” ông nhỏ nhẹ bảo nàng.
“ Mấy thứ thuốc lá không đầu lọc này sẽ giết cha mất.”
Ông đùa nghịch với bao thuốc lá, vò nhàu lớp giấy bóng kính. “ Đây là những dấu hiệu giáo hội có thể chấp nhận. Một là nói một thứ tiếng mà trước đó bệnh nhân chưa hề biết. Chưa hề đọc. Tôi đang nghiên cứu mục này với các bảng ghi âm. Rồi ta sẽ xem. Kế đến là khả năng thấu thị, mặc dù ngày nay sự thần giao cách cảm và sự nhận thức ngoài giác quan có lẽ đã vô hiệu hóa mục này.”
“ Cha tin ở điều đó sau ?” nàng cau mày vẻ hoài nghi.
Ông nhìn nàng. Nàng hoàn toàn nghiêm túc, ông khẳng định như vậy. Ông nói tiếp. “Và cuối cùng là các quyền năng vượt quá khả năng và tuổi tác của cô bé. Đó là một cái kho chứa tạp loại hằm bà lằng. Bất cứ thứ gì huyền bí.”
“ Nào bây giờ ta phải giải thích ra sao về những tiếng nện thình thịch trên tường đây ?”
“ Tự thân, điều đó không có nghĩa lý gì cả.”
“ Còn cái cách nó bay lên bay xuống bên trên giường thì sao ?”
“ Không đủ.”
“ Thế thì, những vết hiện lên trên da nó là nghĩa làm sao ?”
“ Những vết gì cơ ?”
“ Tôi chưa kể cho cha nghe sao ?”
“ Kể cho tôi nghe cái gì ?”
“ Ồ, cái điều xảy ra ở Y viện ấy mà,” Chris giải thích. “ Có những nét...chà...” Nàng vạch một ngón tay trên ngực. “ Cha biết đấy, giống như là viết thì phải ? Chỉ là những chữ cái. Chúng hiện trên ngực con bé, rồi biến mất. Đúng như thế đó.”
Karras cau mày. “ Bà nói là những chữ cái ? Không phải những từ sao ?”
“ Không, không phải từ. Chỉ là một chữ M xuất hiện một hai lần gì đó. Rồi một chữ L.”
“ Bà đã trông thấy chứ ?” Ông hỏi nàng.
“ Không, nhưng họ kể cho tôi nghe.”
“ Ai kể cho bà ?’
“ Các bác sĩ ở Y viện. Rồi cha sẽ đọc thấy điều đó trong hồ sơ. Thật rõ mười mươi.”
“ Vâng, tôi tin chắc là như vậy. Nhưng một lần nữa, đó cũng chỉ là hiện tượng tự nhiên.”
“ Ở đâu? Vùng Transylvania à ?” Chris nói, không thể tin được.
Karras lắc đầu. “ Không, tôi tình cờ đọc được các trường hợp đó trong các tạp chí. Tôi còn nhớ có một vụ: một vị bác sĩ tâm thần trong trại giam đã báo cáo rằng một bệnh nhân của ông - một tù nhân – có thể đi vào trạng thái hôn mê do anh ta tự dẫn dụ, và có khả năng làm cho hình chòm sao Hoàng Đạo xuất hiện trên mặt anh ta.” Ông phác một cử chỉ trước ngực. “ Làm cho da gợn lên.”
“ Chà, hẳn là phép lạ cũng chẳng dễ gì hiện ra được với cha, phải không ?’
“ Một lần kia có một cuộc thí nghiệm,” ông giải thích cho nàng. “ Trong cuộc thí nghiệm đó, đối tượng được thôi miên, được làm cho hôn mê đi. Sau đó, người ta tiến hành các vết rạch phẩu thuật trên mỗi cánh tay anh ta. Đối tượng được thông báo rằng cánh tay trái của anh ta đang chảy máu, còn tay phải thì không chút hề hấn. Sức mạnh của tâm trí đã điều khiển dòng máu. Dĩ nhiên, anh ta không biết nó điều khiển bằng cách nào nhưng điều đó đã xảy ra. Do đó, trong những trường hợp các dấu lạ hiện trên da - giống như chuyện xảy ra với người tù tôi đã đề cập, hoặc với Regan – vùng tâm trí vô thức đã điều khiển độ sai biệt của dòng máu chảy lên da, tiếp thêm máu đến các vùng mà nó cần làm cho gợn lên. Thế là người ta có các hình vẽ, các chữ cái, hay bất cứ thứ gì. Kỳ bí thật, nhưng khó có thể gọi là siêu nhiên.”
“ Cha quả là một con người cứng cõi khăng khăng, thưa cha Karras, cha có biết thế không?’
Karras khẽ nhá móng tay cái. “ Bà xem đây, có lẽ điều này sẽ giúp cho bà hiểu,” rốt cuộc ông nói. “ Giáo hội - chứ không phải tôi – Giáo hội – đã có lần ra một bản tuyên bố, một lời cảnh cáo cho các nhà đuổi quỷ. Tôi đã đọc bản tuyên bố đó đêm qua. Nội dung của nó là : hầu hết những kẻ bị cho là quỷ ám hay những kẻ mà người khác tin là bị quỷ ám - ở đây tôi xin trích nguyên văn – “ đều cần đến một bác sĩ hơn là cần đến một thầy đuổi quỷ rất nhiều.” Ông ngước lên nhìn thẳng vào mắt Chris. “ Bà có đoán được lời cảnh cáo này được ban hành lúc nào không ?”
“ Không. Lúc nào vậy ?”
“ Năm 1583.”
Chris tròn xoe mắt, kinh ngạc, suy nghĩ. “ Vâng, đó quả thật là một cái năm quái quỷ,” nàng lẩm bẩm. Nàng nghe tiếng vị linh mục đứng dậy khỏi ghế. “ Để tôi chờ kiểm chứng lại hồ sơ của Y viện đã.” Ông nói.
Chris gật đầu.
“ Lâm thời,” ông nói tiếp, “ tôi sẽ ráp nối mấy cuốn băng ghi âm rồi đem chúng đến Viện Ngôn Ngữ học. Rất có thể chuỗi nói huyên thuyên này là một thứ ngôn ngữ nào đó. Tôi nghi lắm. Nhưng có thể.. Rồi so sánh các mẫu nói với nhau. Đến lúc đó rồi ta sẽ biết. Nếu những mẫu nói ấy là một, ta sẽ biết chắc là cô bé không phải bị quỷ ám.”
“ Rồi thì sao ?” nàng lo lắng hỏi.
Vị linh mục dò xét đôi mắt nàng. Đôi mắt thật xao xuyến. Bà ta cứ lo là con gái bà ta không phải bị quỷ ám! Ông nghĩ đến Dennings. Có một điều gì đó không ổn. Rất không ổn. “ Tôi bất đắc dĩ phải hỏi, bà có thể cho tôi mượn xe bà một lúc được không ?’
Nàng ủ rũ nhìn xuống sàn nhà. “ Cha có thể mượn cả cuộc đời tôi một lúc cũng còn được,” nàng thì thầm. “ Khoảng thứ năm cha trả lại xe là ổn. Nào ai biết, có thể tôi cần đến xe.”
Với niềm đau quặn thắt, Karras nhìn đăm đăm mái đầu cúi gầm, bơ bơ kia. Ông khao khát cầm lấy tay nàng mà bảo nàng rằng mọi sự rồi sẽ ổn thỏa. Nhưng bằng cách nào đây ?
“ Chờ một lát, để tôi đi lấy chìa khóa cho cha, “ nàng nói.
Ông nhìn nàng lướt đi như một lời cầu nguyện vô vọng.
Khi nàng đã trao cho ông chùm chìa khóa rồi, Karras đi bộ trở về phòng riêng ở khu cư xá. Ông để máy ghi âm lại đó và lấy cuốn băng ghi giọng nói của Regan. Xong, ông quay lại, băng qua đường đến chỗ đậu xe của Chris.
Leo lên xe, ông nghe thấy Karl từ ngưỡng cửa ngôi nhà gọi với ra. “ Cha Karras !” Karras nhìn Karl đang băng nhanh xuống khoảng sân trước nhà, vừa ném vội chiếc áo vét lên người. Anh ta vẫy vẫy. “ Cha Karras ! Chờ chút !”
Karras nghiêng qua quay kính cửa bên phía ghế hành khách. Karl nghiêng đầu vào trong xe. “ Cha đi lối nào thưa cha Karras ?”
“ Lối Bùng Binh Du Pont.”
“ Chà, vậy thì hay quá! Xin cha vui lòng cho tôi quá giang đến đó, được không cha ? Có phiền cha không ?”
“ Rất vui lòng phục vụ anh. Lên xe đi !”
Karl gật đầu. “ Rất đội ơn cha !”
Karras khởi động máy. “ Đi ra ngoài như thế là có lợi cho anh.”
“ Vâng, tôi đi xem phim. Một phim hay.”
Karras sang số xe rồi lao vút đi.
Trong một lúc, hai người cứ phóng xe trong yên lặng. Karras rất băn khoăn, tìm kiếm các đáp số. Quỷ ám ? Không thể như thế được. Nước thánh. Dù vậy vẫn...
“ Karl à, anh biết ông Dennings khá rỏ, phải vậy không ?”
Karl nhìn đăm đăm qua kính chắn gió, rồi gật đầu, vẻ cứng nhắc. “ Vâng, tôi biết ông ấy.”
“ Lúc Regan...lúc cô bé hiện ra thành ông Dennings, anh có ấn tượng rằng cô bé quả thật giống y như vậy không?”
Một lúc ngập ngừng kéo dài. Tiếp đó là một tiếng “ Có” vô hồn, dứt khoát.
Karras gật đầu, cảm thấy như bị ma ám.
Họ không còn chuyện trò gì thêm cho mãi khi đến Bùng Binh Du Pont, họ gặp đèn đỏ, phải dừng lại. “ Thưa cha Karras, tôi xin xuống đây,” Karl nói, mở cửa xe. “ Chỗ này tôi đón xe buýt được rồi.” Anh ta xuống xe, rồi nghiêng đầu vào cửa sổ. “ Thưa cha, cám ơn cha nhiều lắm. Xin đa tạ.”
Anh ta đứng nép vào ô tránh xe an toàn dành cho người đi bộ ở ngã ba đường, đợi đèn xanh. Anh mỉm cười, đưa tay vẫy lúc vị linh mục lái xe đi. Anh nhìn theo chiếc xe cho mãi đến khi nó khuất dạng sau khúc rẽ ở đầu Đại lộ Massachusets.
Sau đó, anh ta chạy theo một chiếc xe buýt, leo lên. Lấy một vé nhiều chặng. Sang xe nhiều lần. Yên lặng đáp xe cho mãi đến cuối cùng, anh xuống xe ở một khu nhà tập thể vùng đông bắc thành phố, từ đó, anh đi đến một chung cư xập xệ và bước vào trong.
Karl dừng lại dưới chân cầu thang tối tăm, ngửi thấy mùi thơm cay xè mũi bốc ra từ các gian bếp trong các căn hộ. Từ một nơi nào đó, có tiếng trẻ sơ sinh khóc. Anh cúi thấp đầu. Một con gián từ lớp ván ốp chân tường băng nhanh qua bậc thang bằng những cú phóng tới chệch choạc. Anh bấu chặt lấy thành cầu thang, dường như muốn quay trở lại, nhưng rồi lại lắc đầu và khởi sự leo lên. Mỗi bước chân rên rĩ kêu kẽo kẹt như một lời thống trách.
Đến tầng hai, anh bước đến một cánh cửa ở một bên chái tối tăm, và trong một lúc, anh cứ đứng yên đó, một tay tựa trên khung cửa. Anh nhìn lên vách tường, lớp sơn đã tróc loang lỗ. Mấy chữ Nicky và Ellen viết bằng bút chì nguệch ngoạc và dưới hàng chữ đó, một nhật ký và một quả tim nằm chính giữa là lớp vữa trát đã nứt nẻ. Karl bấm nút chuông và chờ đợi, đầu cuối gầm. Từ bên trong căn hộ, có tiếng lò xo giường kêu kin kít. Tiếng lầm thầm bực bội. Rồi có tiếng người đến gần, một âm thanh khập khiễng, tiếng bước nặng nề lê lết của một chiếc giày chỉnh hình. Thình lình cánh cửa bật mở ra nữa vời, chuỗi xích trên then cài khua lách cách cho đến hết chiều dài của nó, lúc một phụ nữ mặc quần lót quắc mắt nhìn ra khe cửa, điếu thuốc lá vắt vẻo trên khóe miệng cô ả.
“ Ồ, ra là bố,” giọng cô ả khàn khàn. Cô ta tháo xích cửa.
Karl bắt gặp đôi mắt đã là hiện thân của một nỗi khắc khổ bươn chải, đã là những cái giếng bơ phờ của niềm đau và nỗi thống trách, anh liếc nhanh đến nét cong bất quyết của đôi bờ môi và vẻ mặt rạc rài của một kẻ thiếu niên, một nhan sắc đã bị chôn sống trong hàng ngàn căn phòng khách sạn, trong hàng ngàn cơn thức tỉnh từ giấc ngủ bồn chồn với tiếng kêu khóc tức tưởi vì một nét duyên chỉ còn trong nỗi nhớ.
“ Này, bảo thằng đó cút mẹ nó đi !” Có tiếng đàn ông thô lỗ vẳng ra từ bên trong căn hộ. Giọng líu nhíu. Gã bạn trai của cô ả.
Cô gái quay đầu lại, đốp chát ngay. “ Câm mồm đi, đồ ngu ạ, đây là bố tao.”
Cô ả quay sang Karl. “ Hắn say rồi, bố ạ ! Bố cũng chẳng nên vào làm gì.”
Karl gật đầu.
Đôi mắt sâu hoắm của cô gái đảo xuống tay anh lúc bàn tay ấy thọc ra túi quần để rút ví. “ Mẹ ra sao ?” Cô ả hỏi anh, vừa rít thuốc lá, đôi mắt vẫn nhìn hai bàn tay đang thọc vào ví, hai bàn tay đang đếm những tờ giấy bạc mười đô la.
“ Bà rất khỏe.” Anh ta gật đầu, ngắn gọn. “ Mẹ con khỏe.”
Lúc anh trao món tiền cho con gái, cô ả bật lên ho như xé phổi. Cô ta đưa nhanh một bàn tay lên che miệng. “ Đồ ba cái thứ thuốc lá mả mẹ !” Cô ta ngộp thở.
Karl nhìn trừng trừng mấy chỗ đóng vẩy vì chích thuốc trên cánh tay cô ả.
“ Cảm ơn, bố.”
Anh cảm thấy món tiền đang trượt khỏi mấy ngón tay anh.
“ Trời ơi, lẹ lên đi !” Tiếng gã con trai từ phòng trong càu nhàu ra.
“ Này bố, ta nên kết thúc nhanh gọn đi. Nghe bố. Bố biết tính khí hắn ra sao rồi đấy.”
“ Elvira !” Karl chợt lách qua cửa nắm lấy cườm tay con gái. “ Ở New York bây giờ có dưỡng đừơng điều trị đấy con ạ !” Anh khẩn khoản thì thào với con gái.
Cô gái nhăn mặt, cô rứt người ra khỏi tay bố. “ Thôi mà bố !”
“ Bố sẽ đưa con đến đấy. Người ta sẽ giúp đỡ con! Con không phải vào tù đâu! Nơi đó...”
“ Chúa ơi, thôi mà bố !” Cô ả rít lên, rứt người khỏi tay bố.
“ Đừng, đừng, bố xin con! Nơi đó...”
Cô ả đóng sầm cánh cửa vào mặt anh.
Trong hành lang u ám, trong lăng mộ trải thảm của những điều anh mong ước, Karl câm nín nhìn cánh cửa một lúc, rồi cúi đầu vào nỗi ưu phiền lặng lẽ. Bên trong căn hộ vẳng ra tiếng chuyện trò loáng thoáng. Rồi một tiếng cười đàn bà đầy khinh bạc, lảnh lót. Tiếp theo là cơn ho sù sụ.
Karl quay đi và cảm thấy như bị một cơn chấn động bất thần đâm suốt vào người anh, lúc anh nhận ra lối đi đã bị Trung úy Kinderman đứng án ngữ.
“ Có lẽ bây giờ chúng ta nói chuyện được rồi, ông Engstrom ạ,” ông ta khò khè. Hai tay ông thọc sâu vào túi áo khoác. Đôi mắt u buồn. “ Chắc chúng ta có thể hàn huyên với nhau đôi chút.”
Karras máng băng vào một lõi trống trong văn phòng vị giám đốc tóc bạc, tốt tướng của Viện Ngôn ngữ học. Đã biên tập kỹ lưỡng những đọan băng thu thập được vào từng cuộn riêng rẽ, ông chuẩn bị cho chạy cuộn thứ nhất. Ông khởi động máy ghi âm rồi bước lùi ra xa bàn. Họ lắng nghe cái giọng sảng sốt đang ồm ồm phát ra những lời huyên thuyên. Rồi ông quay sang vị giám đốc. “ Đó là cái gì vậy , Frank? Có phải là một ngôn ngữ không ?”
Vị giám đốc ngồi trên mép bàn. Lúc cuộn băng đã chạy hết, ông cau mày kinh ngạc. “ Khá kỳ quặc. Cha lấy cái đó ở đâu vậy ?”
Karras cho ngừng băng. “ Ồ, đó là một tài liệu tôi đã thu thập được lúc tôi đang nghiên cứu một trường hợp nhị trùng bản ngã. Tôi đang viết một luận văn về đề tài đó.”
“ Tôi hiểu.”
“ Nào, cái đó nghĩa lý ra làm sao ?”
Vị giám đốc tháo mục kính ra, khẽ nhá chiếc gọng kính bằng đồi mồi. “ Không, đó không phải là bất cứ một ngôn ngữ nào mà tôi từng nghe biết. Tuy nhiên…” Ông cau mày. Rồi ngước nhìn Karras. “ Muốn nghe lại cuộn băng chứ?”
Karras liền trả băng rồi cho chạy lại. “ Bây giờ thì ông nghĩ sao ?” ông hỏi.
“ Chà, quả là nó có nhịp điệu của một ngôn ngữ.”
Karras cảm thấy dạt dào hy vọng. Ông trấn áp niềm cảm xúc đó xuống. “ Vâng, tôi cũng nghĩ như thế.” Ông tán đồng.
“ Nhưng chắc chắn là tôi không nhận ra nó cha ạ. Nó là một cổ ngữ hay tân ngữ ? Hoặc giả cha có biết không ?”
“ Không, tôi không biết.”
“ Ồ, nếu thế thì tại sao cha không để cuộn băng đó lại đây cho tôi, thưa cha? Tôi sẽ kiểm chứng lại nó với mấy cậu nhỏ trong viện này.”
“ Ông vui lòng sang nó thành một bản sao được không Frank? Tôi muốn đích thân lưu giữ cuộn băng gốc.”
“ Ồ, vâng, được chứ a.”
“ Lâm thời, tôi còn vấn đề này nữa. Ông có thì giờ chứ ?”
“ Dĩ nhiên là có. Cứ nói đi. Có chuyện gì vậy ?”
“ Thế này nhé, nếu bây giờ tôi đưa cho ông những đọan rời rạc, rõ ràng là do hai người phát âm, ông có thể nói cho tôi biết, bằng cách phân tích ngữ nghĩa, là có thể chỉ ra một người duy nhất đã diễn đạt được cả hai phong cách nói đó không?
”
“ Ồ, tôi nghĩ là có thể chứ.”
“ Bằng cách nào ?”
“ Vâng, theo thiển ý, một tỷ lệ ‘đặc trưng tiêu biểu” là một phương pháp hữu hiệu như bất cứ phương pháp nào. Trong những bản mẫu gồm một ngàn từ hoặc hơn, ta có thể kiểm chứng được tần số xuất hiện của các tự lọai khác nhau.”
“ Và điều đó có tính cách quyết định chung thẩm không, theo ông ?”
“ Ồ, có chứ. Khá quyết định. Cha thấy đó, lối trắc nghiệm ấy sẽ trừ hao bất cứ một thay đổi nào trong vốn ngữ vựng căn bản. Vấn đề không phải là các từ ngữ mà chính là cách diễn đạt các từ ngữ, phong cách. Chúng tôi gọi đó là “ Mục lục của tính đa dạng.” Rất đỗi rối rắm cho người không chuyên môn, điều này đã hẳn, là chỗ chúng tôi muốn vậy.” Vị giám đốc mỉm cười gượng gạo. Rồi ông gật đầu về hướng mấy cuộn băng trên tay Karras. “ Ông có hai người khác nhau trên mấy cuộn băng đó, phải thế không ?”
“ Không. Giọng nói và các từ ngữ đó phát xuất từ cửa miệng duy nhất một người mà thôi, Fank ạ. Như tôi đã nói, đó là một trường hợp nhị trùng bản ngã. Các từ ngữ và các giọng nói đó đối với tôi hòan tòan khác hẳn, nhưng cả hai đều từ cửa miệng của duy nhất một người. Này, tôi cầu xin ông một đặc ân lớn…”
“ Cha muốn chúng tôi trắc nghiệm chúng chứ gì ? Rất hân hạnh thôi. Tôi sẽ giao công việc đó cho một giảng viên.”
“ Không, Frank ạ, điểm lớn lao thật sự của đặc ân đó là ở chỗ này: Tôi muốn ông đích thân làm việc đó càng nhanh càng tốt. Việc này cực kỳ hệ trọng.”
Vị giám đốc đọc được vẻ khẩn trương trong đôi mắt người tu sĩ. Ông gật đầu. “ Được thôi. Được thôi. Tôi sẽ đảm đương.”
Vị giám đốc mang ra những bản sao từ hai cuốn băng gốc trên, rồi Karras mang những cuốn băng gốc về khu cư xá Dòng Tên. Ông thấy có một mảnh giấy thông báo nhỏ để trong phòng. Các hồ sơ từ y viện đã đến.
Ông hối hả ra phòng tiếp tân ký nhận bưu kiện. Trở lại phòng, ông bắt đầu đọc ngay và nhanh chóng, ông tin rằng cuộc viếng thăm Viện Ngôn ngữ học của ông hóa ra uổng công.
…“…những dấu hiệu cho thấy về sụ ám ảnh tội lỗi cộng với chứng mộng du có kèm theo chứng loạn thần kinh ít-tê-ri…”
Lại có chỗ cho sự nghi ngờ rồi. Luôn luôn lúc nào cũng có chỗ như vậy. Cách giải thích. Những con dấu lạ nổi trên da Regan…Karras vùi khuôn mặt mệt mỏi của mình vào đôi tay. Dấu lạ trên da mà Chris mô tả quả thực đã được phúc trình trong hồ sơ của Regan. Người ta cũng đã ghi nhận rằng Regan có lớp da tăng phản ứng, và có thể tự mình tạo ra những cái kỳ bí bằng cách chỉ việc lấy ngón tay vạch chúng ra trên da đôi phút trước khi chúng xuất hiện. Dermatographia.
Chính cô bé đã làm điều đó. Karras trầm ngâm. Ông chắc chắn như vậy. Bởi vì ngay sau khi đôi tay của Regan bị vô hiệu hóa dưới các dây trói, các hiện tượng kỳ bí đó đã chấm dứt và không hề tái diễn nữa.
Giả ngụy. Ý thức hay là vô thức. Vẫn là giả ngụy.
Ông ngẩng đầu nhìn máy điện thọai. Frank. Gọi bảo ông ta hõan lại chăng? Ông nhấc ống nói lên. Không có tiếng trả lời và ông đã nhắn bảo Frank gọi lại cho ông. Thế rồi, người mêt nhòai ông đứng lên, chậm chạp bước vào phòng tắm. Ông vỗ nước lạnh lên mặt. “.. Thầy đuổi quỷ cần phải thận trọng để không một biểu hiện nào của bệnh nhân bị bỏ sót…” Ông ngước lên nhìn mình trong gương. Ông có bỏ sót điều gì không ? Điều gì ? Cái mùi dưa bắp cải ? Ông quay lại rút chiếc khăn lau khỏi giá treo và lau mặt. Tự kỷ ám thị, ông nhớ lại. Và người bị bệnh tâm thần, trong một số trường hợp nào đó; dường như có thể điều khiển cơ thể, một cách vô thức, phát ra nhiều mùi vị khác nhau.
Karras lau tay. Những tiếng động…động tác mở đóng của chiếc ngăn kéo. Thần kích chăng ? Có thực vậy không? “ Cha cũng tin chuyện đó sao ?” Ông ngập ngừng lúc máng chiếc khăn trở lại, nhận ra rằng ông đã không suy nghĩ được sáng suốt. Quá mỏi mệt. Thế nhưng ông vẫn không dám phó mặc trường hợp của Regan cho sự phỏng đóan, cho sự phản bội tàn nhẫn của tâm trí.
Ông rời cư xá, đi đến thư viện đại học. Ông tra cứu cuốn “ Chỉ Nam Khoa Học Tạp Chí” Po…Pol…Polte…Tìm thấy điều ông cần tìm, rồi ông ngồi xuống với tạp chí khoa học và đọc một bài viết về những cuộc điều tra các hiện tượng yêu quái của tác giả người Đức, bác sĩ tâm thần Hans Bender.
Không còn nghi ngờ gì nữa, ông kết luận lúc đọc xong: các hiện tượng thần kích quả là có tồn tại, chúng đã được chứng minh tường tận bằng các tài liệu, đã được quay phim, được quan sát trong các bệnh viện tâm thần. Và tuyệt không có một trường hợp nào trong số những trường hợp được đề cập tới trong hai bài báo đó có liên quan gì đến việc quỷ ám cả. Hơn nữa, người ta lại còn giả thuýêt là năng lực thần kinh được sản sinh một cách vô thức và thông thường – Karras thấy rõ là điều này thật hết sức có ý nghĩa – do lớp tuổi thanh thiếu niên trong những giai đọan cực kỳ căng thẳng về nội tâm, cùng đường và phẫn nộ.
Karras dụi đôi mắt mệt mỏi. Ông vẫn còn cảm thấy mình cẩu thả, tắc trách. Ông ôn trở lại tất cả các triệu chứng, sờ mó vào từng triệu chứng như thể một cậu bé quay trở lại để sờ vào những thanh song gỗ trên hàng rào sơn trắng. Ông đã bỏ sót cái nào vậy ? Ông thắc mắc. Cái nào nhỉ?
Câu trả lời, ông mệt mỏi kết luận, là không – có – cái – nào - cả.
Ông trả tờ tạp chí lại bàn giấy.
Ông đi bộ đến nhà MacNeil. Willie tiếp ông và đưa ông vào văn phòng. Cửa đóng. Willie gõ. “Có cha Karras”, chị báo danh.
“ Vào đi.”
Karras bước vào và đóng cửa lại sau lưng ông. Chris đang đứng quay lưng lại ông, một tay nâng chân mày, khủyu tay chống trên quầy rượu. “ Chào cha.”
Giọng nàng là một tiếng thì thầm tuyệt vọng, khản đặc. Đầy vẻ quan tâm, ông đi lại phía nàng. “ Bà khỏe không ?” Ông khẽ hỏi.
“ Vâng, tôi khỏe.”
Giọng nàng căng thẳng. Ông cau mày. Tay nàng che lấy mặt. Bàn tay run rẩy. “ Công việc ra sao ?”. nàng hỏi ông.
“ Vâng, tôi đã được hồ sơ của y viện gửi tới.” Ông chờ đợi. Nàng không nói gì. Ông tiếp. “ Tôi tin là…” Ông ngập ngừng. “ Vâng, ngay lúc này đây, ý kiến thành thật của tôi là cháu Regan có thể được giúp ích hữu hiệu nhất bằng liệu pháp tâm thần học chuyên sâu đặc biệt.”
Nàng lắc đầu thật chậm.
“ Bố cô bé đâu ?” ông hỏi nàng.
“ Ở Âu châu,” nàng thì thầm.
“ Bà có cho ông ấy biết mọi chuyện này không ?’
Biết bao nhiêu lần nàng đã nghĩ đến việc kể lại cho anh ta nghe. Đã bị cám dỗ làm việc đó. Cuộc khủng hỏang này biết đâu chẳng đem họ trở lại với nhau, nhưng Howard và các linh mục…Vì cớ Regan, nàng đã quyết định không kể gì cho anh ta nghe hết.
“ Không,” nàng khẽ đáp.
“ Chà, tôi nghĩ giá ông ấy có mặt ở đây thì có thể giúp ích được.”
“ Nghe đây, không điều gì có thể giúp ích được trừ phi một cái gì đó phải khuất mắt !” Chris chợt bùng nổ, ngước khuôn mặt đẩm lệ về phía vị linh mục. “ Một cái gì đó phải khuất mắt.”
“ Tôi tin rằng bà nên mời ông nhà đến.”
“ Sao vậy ?”
“ Điều đó sẽ…”
“ Mẹ kiếp, tôi nhờ cha đuổi một con quỷ ra, chứ không phải nhờ cha rước một con khác vào !” Nàng thét lên với Karras trong cơn cuồng lọan bất ngờ. Gương mặt nàng nhúm nhó lại trong nỗi thống khổ. “ Cái gì bất ưng xảy ra với việc đuổi quỷ vậy ?”
“ Nào..”
“ Tôi cần quái gì với tên Howard kia chứ ?”
“ Ta có thể thảo luận về điều ấy.”
“ Hãy thảo luận điều ấy ngay bây giờ đi, mẹ kiếp! Lúc này thì Howard có ích lợi quái gì cơ chứ? Ích gì nào?”
“ Rất có thể là sự rối lọan của Regan đã bắt nguồn từ một tội lỗi về…”
“ Tội lỗi về cái gì ?” Nàng hét tướng, mắt điên dại.
“ Có thể là…”
“ Về chuyện ly dị chăng? Lại tòan những chuyện tâm thần học *** đái ấy nữa chăng?”
“ Nào…”
“ Nó phạm tội là vì nó đã giết Burke Dennings !”
Chris tru tréo lên với ông, hai tay nàng ấn chặt hai bên thái dương. “ Nó đã giết anh ấy! Nó đã giết anh ấy và rồi người ta sẽ bỏ tù nó, người ta sắp bỏ tù nó đến nơi. Ôi, lạy Chúa, ôi…”
Karras đỡ lấy nàng lúc nàng sụm xuống, nức nở, rồi dìu nàng về phía trường kỷ. “ Rồi sẽ ổn thỏa thôi.” Ông dịu dàng bảo nàng, “ sẽ ổn thỏa thôi.”
“ Không, họ sẽ bỏ…tù nó,” nàng sụt sùi. “ Họ sẽ bỏ…bỏ…ôôi…ôi…Chúa ôi !”
“ Sẽ ổn thỏa thôi…”
Ông khẽ đặt nàng nằm duỗi thỏai mái trên trường kỷ. Ông ngồi xuống bên mép trường kỷ rồi ấp tay nàng trong đôi tay ông. Những ý nghĩ về Kinderman. Về Dennings. Cơn thổn thức của nàng. Tính chất vô thực. “ Được rồi…ổn cả thôi…cứ bình tâm…ổn cả thôi…”
Chẳng mấy chốc, cơn thổn thức lắng dịu và ông đỡ nàng ngồi dậy. Ông mang đến cho nàng nước và một hộp khăn giấy ông tìm thấy trên kệ phía sau quầy rượu. Rồi ông ngồi xuống cạnh nàng.
“ Ôi, tôi rất đỗi sung sướng,” nàng vừa nói vừa khịt và hỉ mũi. “ Chúa ôi, tôi lấy làm sung sướng là đã thổ lộ điều đó ra.”
Karras lâm vào trạng thái chao đảo, nỗi chấn động vì nhận ra sự thật của ông cứ tăng tiến, trong khi người phụ nữ càng lúc càng bình tĩnh hơn. Bây giờ chỉ còn những tiếng khịt mũi khẽ khàng, những tiếng tức tưởi từng cơn trong cổ họng. Và bây giờ, gánh nặng đã nẩy trên lưng ông trở lại, nặng trĩu và ngột ngạt. Nội tâm ông tê cứng. Thôi ! Đừng nói thêm nữa ! “ Bà muốn kể thêm cho tôi nghe không ?” ông khẽ hỏi nàng.
Chris gật đầu. Thở ra. Nàng lau một bên mắt và ngập ngừng nói, trong từng cơn co thắt, về Kinderman, về quyển sách, về sự tin chắc của nàng rằng Dennings đã có mặt trên phòng Regan, về sức mạnh phi thường của Regan, về bản ngã của Dennings mà Chris nghĩ là nàng đã trông thấy với cái đầu bị vặn tréo ra sau lưng.
Nàng chấm dứt. Lúc này nàng chờ đợi phản ứng của Karras. Trong một lúc, mãi mê suy nghĩ rốt ráo lại hết mọi điều, ông không nói gì. Rốt cuộc, ông khẽ nói, “ Bà không biết rằng cô bé đã làm điều đó.”
“ Nhưng cái đầu bị vặn tréo ra sau...” Chris nói.
“ Bà đã tự hút đầu vào tường khá nặng đấy,” Karras trả lời. “ Chính bà cũng bị sốc. Bà đã tưởng tượng ra điều ấy.”
“ Nó đã bảo tôi rằng chính nó làm điều ấy.” Chris lãng đãng nói.
Một phút ngập ngừng. “ Thế cháu có bảo là nó làm như thế nào không?” Karras hỏi nàng.
Chris lắc đầu. Ông quay lại nhìn nàng. “ Không.” Nàng bảo. “ Không.”
“ Vậy thì điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả,” Karras bảo bà. “ Không, nó chẳng mang lại một ý nghĩa nào hết, trừ phi cô bé thuật cho bà nghe những chi tiết mà ngòai kẻ sát nhân ra không một ai khác có thể biết được.”
Nàng lắc đầu, vẻ hòai nghi. “ Tôi không biết,” nàng đáp. “ Tôi không biết là điều mình đang làm đây có đúng hay không. Tôi nghĩ là con bé đã làm điều ấy và nó có thể giết một người khác nữa. Tôi không biết …” nàng ngập ngừng. “ Thưa cha, tôi cần phải làm gì đây?” nàng tuyệt vọng hỏi ông.
Gánh nặng giờ đây đã được đúc bằng bêtông, được đem phơi khô, nó đã khuôn thành hình dạng mà nẩy trên lưng ông.
Ông tì một khủyu tay trên đầu gối và nhắm mắt lại. “ Vậy, giờ đây bà đã kể cho một người nghe rồi,” ông khẽ nói. “ Bà đã làm điều bà cần phải làm. Bây giờ hãy quên nó đi. Cứ bỏ mặc hết, để một mình tôi lo toan tất cả.”
Ông cảm thấy tia mắt nàng nhìn ông và ông ngó nàng.” Bây giờ bà có cảm thấy khá hơn một chút nào không ?”
Nàng gật đầu.
“ Bà vui lòng làm giúp tôi một việc chứ ?” ông hỏi nàng.
“ Việc gì ?”
“ Hãy đi ra khỏi nhà, xem một phim gì đi.”
Nàng lấy lưng bàn tay lau một bên mắt và mỉm cười. “ Tôi ghét xem phim lắm.”
“ Thế thì đi thăm một người bạn nào đó.”
Nàng chắp hai tay vào lòng và nhìn ông niềm nở. “ Tôi đã có một người bạn ngay tại đây rồi,” rốt cuộc nàng nói.
Ông mỉm cười. “ Hãy nghĩ ngơi đôi chút,” ông khuyên nàng.
“ Vâng.”
Ông lại có một ý nghĩ khác. “ Bà nghĩ là Dennings đã mang cuốn sách đó lên lầu ? Hay là nó đã có ở đó ?”
“ Tôi nghĩ là nó đã nằm sẳn ở đó rồi.” Chris trả lời.
Ông cân nhằc điều này. Rồi ông đứng lên. “ Vâng, được rồi, bà có cần xe không ?”
“ Không, cha cứ việc giữ dùng.”
“ Thế thì tốt. Sẽ gặp lại bà sau.”
“Chào cha.”
“ Chào.”
Ông bước ra con phố đã tưng bừng huyên náo. Khuấy động. Regan. Dennings. Không thể tin được ! Không ! Nhưng mà Chris đã gần như xác tín điều đó, phản ứng của nàng, cơn cuồng lọan của nàng! Và điều đó chính xác là thế này đây, sự tưởng tượng do cuồng lọan. Vậy là…Ông săn đuổi những điều xác quyết như săn đuổi những chiếc là trong cơn gió cắt da.
Lúc ông đi ngang qua dãy bậc cấp dài dặc cạnh ngôi nhà ấy, ông nghe thấy một âm thanh từ bên dưới vọng lên, cạnh dòng sông.. Ông dừng lại, nhìn xuống về phía kinh đào. Có tiếng khẩu cầm. Ai đó đang thổi bài “ Thung lũng sông Hồng” bài hát ruột của Karras từ thời thơ ấu. Ông lắng nghe cho mãi đến khi tiếng động xe cộ nhận chìm mất tiếng kèn, cho đến khi nỗi hòai tưởng phiêu bồng của ông bị đập vỡ tan nát bởi một cõi thế giới của hiện tại và của niềm quặn thắt, một cõi thế giới đang kêu thét cầu cứu, đang rỉ máu trên những hơi khói tóat ra. Ông thọc hai bàn tay vào túi. Suy nghĩ rất lung. Về Chris. Về Regan. Về Lucas đang phang những cú đá vào thi thể Tranquille. Ông cần phải làm một cái gì đó. Cái gì? Ông có thể hy vọng là ông khôn ngoan hơn các bác sĩ tại Barringer chăng? “ Hãy đi đến các Trung tâm phụ trách các vấn đề tâm thần”. Phải, phải, ông biết đó là đáp số, niềm hy vọng. Ông nhớ lại trường hợp của Achille. Bị quỷ ám. Giống như Regan, anh ta cũng gọi mình là quỷ, sự rối lọan của anh ta cũng bắt rễ từ tội lỗi, sự thống hối về nỗi bội phản trong hôn nhân.. Nhà tâm lý học Janet đã thực hiện một phương chữa bằng cách dùng thôi miên ám thị cho anh ta thấy là vợ anh ta hiện diện tại đó, thế là vợ anh ta hiện ra, trước đôi mắt bị ảo giác của Achille và chị long trọng tha thứ cho anh. Karras gật đầu. Ám thị có thể có tác dụng tốt đối với Regan. Nhưng không bằng cách thôi miên. Người ta đã thử thôi miên tại Barringer rồi. Không. Sự ám thị có tính cách phản tác dụng đối với Regan, ông tin chắc, đó chính là nghi lễ đuổi quỷ. Cô bé đã biết rõ đuổi quỷ là thế nào rồi, đã biết tác dụng của việc đó. Phản ứng của cô bé trước nước thánh. Cô đã biết điều đó từ cuốn sách. Và trong pho sách đó, có những đọan mô tả về các cuộc đuổi quỷ thành công. Nhưng làm cách nào xin được phép tắc của Văn phòng Bí thư giám mục? Làm cách nào nêu lên được vụ việc mà không đề cập đến Dennings ? Karras không thể nói dối Đức Giám mục. Không thể ngụy tạo các sự kiện. Nhưng ta có thể để cho các sự kiện tự chúng nói lên được mà !
Những sự kiện nào?
Ông phác bàn tay ngang chân mày. Cần phải ngủ. Không sao ngủ được. Ông cảm thấy hai bên thái dương đập rần rật trong cơn nhức đầu như búa bổ.
Những sự kiện nào?
Mấy cuộn băng ở Viện Ngôn ngữ học, Frank sẽ tìm thấy gì đây? Có cái gì để ông ấy có thể tìm thấy không ? Không. Nhưng nào ai biết được? Regan đã không phân biệt được nước thánh với nước máy. Hẳn rồi. Nhưng cứ giả thiết như cô bé đọc được trí ta, thế thì tại sao nó lại không biết được sự khác nhau giữa hai thứ nước đó. Ông đặt tay lên trán. Nhức đầu quá. Bối rối quá. Chúa ơi, này Karras tỉnh dậy đi! Có người đang hấp hối! Tỉnh dậy đi nào !
Trở về phòng riêng, ông điện thọai đến Viện Ngôn ngữ học. Không có Frank. Ông đặt ống nói xuống. Nước thánh. Nước máy. Một điều gì đó. Ông mở cuốn Nghi lễ đến mục “ Những Huấn Thị Dành Cho Thầy Đuổi Quỷ” : “…những tà linh…những câu đáp phỉnh phờ…do đó có thể là bệnh nhân không hề bị quỷ ám chút nào…”
Karras trầm ngâm. Thế là sao? Mấy người đang nói cái quái quỷ gì thế này ? “ Tà linh” nào chứ ?
Ông đóng sầm sách lại và trông thấy chồng hồ sơ bệnh lý. Ông đọc chúng, lướt tìm bất cứ mục gì có thể giúp ông trình bày với Đức Giám mục.
Hượm đã. Không có bệnh sử về chứng lọan thần kinh ít-tê-ri. Đó là một điểm có lý đấy chứ. Nhưng yếu quá. Có một điều gì khác nữa. Một điểm mâu thuẩn nào đó. Điểm nào thế? Ông tuyệt vọng nạo vét ký ức, cố moi móc những điều đã học được. Và quả là ông đã nhớ ra. Không nhiều. Nhưng mà có…
Ông nhấc điện thọai lên gọi Chris. Gịong nàng nghe bải hỏai.
“ Chào cha.”
“ Bà đang ngủ à ? Tôi xin lỗi.”
“ Có gì đâu.”
“ Chris, vị bác sĩ này ở đâu ?” Karras lướt ngón tay xuống tập hồ sơ. “ Bác sĩ Klein ấy ?”
“ Ở Rosslyn. Trong chung cư y khoa ấy.”
“ Bà làm ơn gọi cho ông ấy và bảo rằng bác sĩ Karras sẽ ghé qua chỗ ông ấy, rằng tôi muốn xem qua điện não đồ của Regan một chút. Bảo với ông ta là bác sĩ Karras, Chris nhé. Bà hiểu chứ ?” “ Hiểu.”
“ Tôi sẽ nói chuyện với bà sau.”
Khi ông đã gác máy xong, Karras giật tung cổ áo, trút chiếc áo dòng và quần đen, nhanh chóng thay một quần kaki và một áo thun thể thao. Bên trên, ông mặc chiếc áo mưa đen của linh mục, cài nút đến tận cổ áo. Ông soi gương và cau mày. Linh mục và cảnh sát, ông nghĩ lúc cởi nhanh nút áo mưa: quần áo của họ có mùi dễ nhận ra, không thể dấu ai được. Karras trút nhanh đôi giày đang mang, xỏ vào một đôi độc nhất không phải màu đen, đôi giày đánh quần vợt màu trắng đã vẹt gót chân của ông.
Trong chiếc xe của Chris, ông lái nhanh đến Rosslyn. Lúc đợi đèn xanh ở phố M. để qua cầu, ông nhìn qua cửa xe trông thấy một điều đáng băn khoăn: Karl đang bước ra khỏi một chiếc xe màu đen trên đường Ba Mươi Lăm, trước tiệm rượu Dixie. Người lái chiếc xe ấy là Trung úy Kinderman.
Đèn đổi màu, Karras sang số, lao xe về phía trước nhanh như một phát đạn, rẽ lên cầu rồi nhìn vào gương chiếu hậu. Họ có trông thấy ông không? Ông không nghĩ như vậy. Nhưng hai người đó đang toa rập với nhau làm điều gì vậy ? Hòan tòan tình cờ thôi chăng? Có liên quan gì đến Regan không ? Đến Regan và..?
Quên nó đi! Giờ nào việc ấy thôi chứ !
Ông đậu xe nơi chung cư y khoa rồi lên cầu thang đến dãy văn phòng của bác sĩ Klein. Vị bác sĩ đang bận, nhưng một cô điều dưỡng đã trao điện não đồ cho Karras và thóang chốc, ông đã đứng trong một phòng nhỏ, nghiên cứu nó, dải băng giấy hẹp, dài thong thả lướt qua các ngón tay ông.
Klein hối hả lướt vào, hai mắt ông lướt nhanh qua y phục của Karras với vẻ ngạc nhiên. “ Bác sĩ Karras ?”
“ Phải. Rất hân hạnh.”
Hai người bắt tay.
“ Tôi là Klein. Cô gái ra sao ?”
“ Có tiến triển.”
“ Rất vui được nghe điều đó.” Karras nhìn lại dải điện não đồ và Klein cũng xem xét nó với ông, lướt ngón tay mình trên các dạng sóng não. “ Đó, ông thấy không? Dải sóng rất đều. Không hề có bất cứ dao động nào.”
“ Vâng, tôi thấy,” Karras cau mày. “ Rất kỳ lạ.”
“ Kỳ lạ à ?”
“ Cứ giả thiết là ta đang đối phó với chứng lọan thần ít-tê-ri.”
“ Tôi chưa hiểu.”
“ Tôi cho rằng điều này không mấy người biết.” Karras thì thầm, vừa kéo dải băng giấy từ từ, đều đặn qua đôi tay, “ nhưng có một người Bỉ tên là Iteka đã khám phá ra rằng chứng lọan thần ít-tê-ri dường như có gây ra một vài dao động hơi kỳ quặc trong điện não đồ, một dạng rất tế vi, nhưng luôn luôn là một dạng giống hệt nhau. Ở đây, tôi đã chú tâm tìm kiếm dạng sóng đó, nhưng không tìm ra.”
Klein làu bàu vô thưởng vô phạt. “ Thế là sao?”
Karras nhìn ông ta. “ Cô bé chắc chắn là đang bị rối lọan khi ông ghi điện đồ này, đúng thế không ?”
“ Vâng, cô bé quả có thế thật. Tôi phải công nhận như vậy. Đúng vậy.”
“ Thế thì, sự việc cô ta chịu đựng cuộc thử nghiệm một cách tòan hảo như vậy há không phải là kỳ lạ sao ? Ngay cả những đối tượng trong trạng thái tâm lý bình thường cũng có thể gây tác dụng đến các sóng não trong phạm vi bình thường, mà Regan lúc ấy thì tâm trí đang bị rối lọan. Hình như chắc phải có một dao động nào đó. Nếu…”
“ Thưa bác sĩ, bà Simmons đang sốt ruột lắm,” một cô điều dưỡng ngắt lời, khẽ mở cánh cửa.
“ Vâng, tôi đến ngay,” Klein thở dài. Lúc người điều dưỡng đã tất bật bỏ đi, ông bước một bước về phía hành lang rồi quay trở lại, tay đặt trên mép cửa. “ Nói về chứng lọan thần ít-tê-ri thì...” Ông bình luận khô khan. “ Thôi, xin lỗi, tôi phải chạy ngay đây.”
Ông đóng cánh cửa phía sau mình. Karras nghe tiếng chân ông xuôi xuống hành lang, nghe tiếng mở một cánh cửa, nghe thấy, “ sao, hôm nay bà cảm thấy thế nào đây, thưa bà…”
Đóng cánh cửa lại, Karras trở lại nghiên cứu bức điện đồ, hòan tất, xong xếp nó lại và buộc dây ràng cẩn thận. Ông trả bức điện đồ cho người điều dưỡng ở phòng tiếp tân. Có một cái gì đó. Đó là cái ông có thể sử dụng để trình bày với Đức Giám mục như một lời biện luận Regan không phải mắc chứng lọan thần ít-tê-ri, do đó, có thể quan niệm được là cô bé đã bị quỷ ám. Tuy nhiên, điện não đồ vẫn còn đặt ra một điều bí ẩn khác: Tại sao lại không có dao động sóng ? Tại sao lại không có chút nào vậy ?
-----------------------------------
Ông lái xe về phía nhà Chris, nhưng lúc dừng xe vì đèn đỏ ở góc Phố Prospect và đường Ba Mươi Lăm, ông bỗng lạnh tóat người : án ngữ giữa Karras và Khu Cư xá Dòng Tên chính là Kinderman, ông ta đang ngồi một mình sau tay lái, khủyu tay thò ra ngòai cửa xe, mắt nhìn thẳng ra trước.
Karras vội rẽ phải trước lúc Kinderman kịp nhìn ra ông trong chiếc Jaguar của Chris. Ông nhanh chóng tìm một khỏang trống, đậu và khóa xe lại. Kế đó, ông bọc quanh góc phố như thể đi về phía cư xá. Có phải ông ta đang quan sát ngôi nhà không? Ông lo ngại. Bóng ma Dennings lại hiện lên ám ảnh ông. Có thể Kinderman đã nghĩ là Regan đã…?
Bình tĩnh nào. Cứ từ từ. Bình tĩnh nào.
Ông bước đến bên chiếc xe nọ, nghiêng đầu qua cửa xe bên phía hành khách. “ Chào Trung úy”. Nhà thám tử quay phắt lại, lộ vẻ ngạc nhiên. Rồi rạng rỡ hẳn. “Cha Karras.” Lỡ bộ rồi! Karras nghĩ. Ông nhân ra đôi tay mình đang có cảm giác ẩm ướt và lạnh giá. Phải tỉnh bơ đi mới được! Đừng để ông ta biết là mi lo lắng! Phải phớt tỉnh! “ Ông không biết là ông sẽ lãnh một vé phạt sao? Vào ngày làm việc, cấm đậu xe từ bốn đến sáu giờ.”
“ Khỏi lo chuyện đó,” Kinderman khò khè. “ Tôi đang nói chuyện với một linh mục. Anh cớm nào ở đây cũng đều là tín đồ Công giáo hay làm ra vẻ theo đạo cả mà.”
“ Dạo này ông thế nào ?”
“ Nói thật thì, thưa cha Karras, cũng chỉ tàm tạm thôi.”
“ Không thể phàn nàn điều gì. Ông đã giải quyết vụ đó chưa ?”
“ Vụ nào ?”
“ Nhà đạo diễn ấy.”
“ À, vụ ấy.” Ông ta phác một cử chỉ phỉ phui. “ Đừng hỏi. Này, đêm nay cha đang làm việc gì thế ? Cha có bận không ? Tôi có thể vào cửa rạp Crest. Hôm nay chiếu phim Othello.”
“ Những ai đóng ?”
“ Molly Pico vai Desdemona, còn Othello do Leo Fuchs đóng. Cha hài lòng chứ? Đây là vé mời, thưa cha Marlon - Đặc biệt ! Còn đây là William F. Shakespeare ! Còn ai đóng ai không thì có quan hệ quái gì đâu! Nào, cha đi xem chứ ?”
“ Tôi e rằng mình đành phải bỏ qua dịp mai này. Tôi bị tuyết phủ kín mít rồi đây.”
“ Tôi thấy rồi. Trông cha đến khiếp, xin tha lỗi cho lời nhận xét của tôi. Cha thức khuya nhỉ ?’
“ Tôi thì lúc nào trông cũng đến khiếp cả.”
“ Có điều bây giờ trông có khiếp hơn thường lệ. Nào? Nghĩ quách một đêm đi ! Ta vui chơi giải trí tí chút!”
Karras quyết định thử thách, quyết định thử “nắn gân” xem sao. “ Ông có chắc là đang chiếu phim đó không ?” Ông hỏi. Đôi mắt ông đăm đăm dò xét vào đôi mắt Kinderman. “ Tôi dám cá là người ta đang chiếu một phim của Chris MacNeil tại rạp Crest ấy.”
Nhà thám tử bị hẩng một nhịp rồi vội nói ngay. “ Không đâu, tôi dám chắc mà. Othello. Đúng là phim Othello mà.”
“ À này, nguyên do nào ông lại đến khu này nhỉ ?”
“ Thì cha! Tôi đến đây chỉ là để mời cha đi xem phim đó thôi !’
“ Phải chứ, lái xe đến lại dễ hơn bốc điện thọai lên gọi nhỉ,” Karras nói khẽ.
Nhà thám tử nhướng đôi mày lên với một vẻ ngây thơ vô tội không mấy thuyết phục. “ Thì điện thọai của cha bị bận !” Ông thì thầm, giọng khản đặc, duỗi thẳng một bàn tay ra giữa lưng trời.
Vị linh mục đăm đăm nhìn ông, không một nét biểu lộ nào.
“ Có cái gì không ổn vậy ?” Kinderman hỏi sau một lúc yên lặng.
Một cách nghiêm trọng, Karras vói tay vào trong xe, vạch mí mắt Kinderman lên. Ông xem xét tròng mắt. “ Tôi không biết nữa. Trông ông đến khiếp. Rất có thể ông bị nhiễm chứng thích cường điệu hay là ngoa ngôn đây.”
“ Tôi chẳng biết cái từ ấy có ý nghĩa gì cả.” Kinderman trả lời lúc Karras rút tay về. “ Có gì nghiêm trọng không ?”
“ Không đến nỗi trí mạng.”
“ Vậy là chứng gì vậy ? Cái trò lấp lững này làm tôi phát điên lên đây !”
“ Cứ tra cứu khắc biết,” Karras bảo.
“ Này, đừng có phách tướng quá thế nhé. Thỉnh thỏang cha cũng phải trả lại cho César chút đỉnh chứ! Tôi là pháp luật. Tôi có thể ra lệnh trục xuất cha, cha biết chứ ?”
“ Vì tội gì ?”
“ Một bác sĩ tâm thần không được phép làm người ta lo lắng. Thêm vào đó, nói cho ngay, đám dân ngọai bang sẽ khóai vụ đó lắm. Dù gì đi nữa, cha là nỗi bực mình đối với họ, thưa cha. Ồ không, nói trắng ra, cha làm họ bối rối. Họ sẽ khóai chí biết bao thấy cha bị tống khứ đi khuất mắt ! Có ai cần đến điều đó nào ? Cần đến một ông cha bận áo thun, đi giày đánh quần vợt nào ?”
Khẽ mỉm cười, Karras gật đầu. “ Tôi phải đi đây. Hãy bảo trọng.”
Ông gõ một tay trên khung cửa xe hai lần để từ biệt, sau đó, ông quay lưng, chậm rãi bước về phía cổng vào cư xá.
“ Hãy đi thăm một nhà phân tâm học đi !” Nhà thám tử gọi với theo ông, giọng khàn khàn. Thế rồi cái vẻ niềm nở của ông nhường chỗ cho nỗi lo âu. Qua khung kính cửa, ông ngước nhìn ngôi nhà, rồi rồ máy xe lái ngược lên phố. Chạy ngang qua Karras, ông nhấn còi và vẫy tay.
Karras vẫy trả, nhìn Kinderman quặt xe quanh góc đại lộ Ba Mươi Sáu. Sau đó, ông đứng bất động trên hè phố mất một lúc, khẽ xoa mày với bàn tay run rẩy. Có thể nào cô bé đã làm điều đó thực sao ? Có thể nào Regan đã giết Burke Dennings một cách khủng khiếp đến thế sao ? Bằng đôi mắt sảng sốt, ông nhìn lên cửa phòng Regan. Chúa ôi, trong ngôi nhà ấy có chuyện gì vậy ? Còn bao lâu nữa thì đến lúc Kinderman đòi gặp mặt Regan ? Đến lúc ông ta có dịp nhìn thấy bản ngã của Dennings ? Đến lúc Regan bị đưa vào dưỡng trí viện ?
Hoặc chết ?
Ông cần phải tập hợp nội vụ để trình lên phòng Bí thư Giám mục.
Ông rảo bước qua đường, chéo góc với nhà Chris. Ông bấm chuông cửa. Willie đón ông vào.
“ Bà chủ đang chợp mắt một chút,” chị ta bảo.
Karras gật đầu. “ Tốt, tốt lắm.” Ông lách qua người phụ nữ bước lên thang gác đến phòng Regan. Ông đang tìm kiếm một điều mà nó hẳn phải thôi thúc, ray rức lòng ông rất đổi.
Ông bước vào, trông thấy Karl ngồi trên ghế cạnh cửa sổ, hai tay khoanh lại, nhìn Regan. Anh ta yên lặng và luôn luôn hiện diện như một súc gỗ săn rắn, đen sẫm.
Karras bước xuống cạnh giường, nhìn xuống. Đôi tròng mắt trắng dã như lớp sương mù màu sữa. Những tiếng lầm thầm. Những lời thần chú tứ một thế giới nào khác. Karras liếc nhìn Karl. Rồi thong thả, ông cúi xuống, bắt đầu cởi những sợi dây trói cho Regan.
“ Thưa cha, đừng !”
Karl xông đến bên giường giằng mạnh tay vị linh mục lại. “ Nguy hiểm lắm, thưa cha! Mạnh lắm! Hãy để yên dây trói!”
Trong đôi mắt anh ta, có một nỗi sợ sệt và Karras nhận chân là thật, và giờ đây ông biết rằng sức mạnh của Regan không phải là lý thuyết, mà là một sự thật. Có thể lắm là cô bé đã làm điều ấy. Có thể là cô ta đã vặn tréo cổ Dennings ra sau. Chúa ơi, Karras! Nhanh lên! Phải tìm cho được bằng cớ! Suy nghĩ đi! Gấp lên không thôi…
Với sụ khám phá đau nhói như một vết đâm và niềm hy vọng sục sôi, Karras quay phắt đầu lại, nhìn xuống giường. Con quỷ cười toe tóet, đầy vẻ nhạo báng, với Karl. “ Tanzt Three Tochter gern ?”
Tiếng Đức! Nó vừa hỏi con gái Karl có thích khiêu vũ không! Tim đập bồi hồi, Karras quay lại, trông thấy đôi má người gia nhân ửng đỏ, tòan thân anh ta run rẩy, đôi mắt anh ta tóe lửa phẩn nộ. “ Karl, tốt hơn anh nên ra ngòai đi,” Karras khuyên anh ta.
Người đàn ông Thụy Sĩ lắc đầu, hai tay anh ta nắm chặc thành hai quả đấm có những đốt khớp ngón tay trắng bệch. “ Không, tôi ở lại đây.”
“ Anh làm ơn đi đi !” Vị linh mục Dòng Tên quả quyết. Tia nhìn ông xoắn lấy đôi mắt Karl, không chút xiêu lòng.
Sau một hồi kháng cự gan góc, Karl chịu thua và quầy quả rời khỏi phòng.
Karras quay lại. Con quỷ đang quan sát ông. Trông nó rất phởn. “ Ra mi đã quay lại,” nó ồm ồm nói. “ Ta ngạc nhiên đấy. Ta cứ ngỡ là bị ngượng vì vụ nước thánh mi sẽ nản lòng không hề quay lại nữa đấy. Nhưng rồi ta quên khuấy rằng là một tu sĩ đâu có hề biết xấu hổ.”
Karras thở hời hợt và cố ép mình kềm chế các nỗi mong ngóng hăm hở, cố bắt mình suy nghĩ cho thật sáng suốt. Ông biết rằng việc trắc nghiệm ngôn ngữ trong chứng quỷ ám đòi hỏi một cuộc đàm thọai thông minh coi đó như một bằng chứng chỉ rõ rằng bất luận điều gì được nói ra đều không thể truy nguyên về những hồi ức ngôn ngữ đã bị chôn vùi trong quên lãng. Bình tĩnh ! Thong thả nào ! Còn nhớ cô gái đó không ? Một cô tớ gái vị thành niên. Bị quỷ ám. Trong cơn điên loan, cô lắp bắp một thứ tiếng rốt cuộc người ta nhận ra là tiếng Syrie, Karras cố bắt mình nghĩ đến nỗi chấn động mà sự kiện ấy đã gây ra, nghĩ đến việc thế nào rốt ráo người ta mới hay rằng cô tớ gái đó đã có lần giúp việc trong một nhà trọ, ở đó có một khách trọ là sinh viên thần học. Vào hôm trườc ngày thi, chàng sinh viên này thường bách bộ trong phòng và đi lên đi xuống cầu thang, vừa đi vừa đọc lớn các bài học Syrie của mình. Và cô tớ gái đã nghe lỏm được cái bài học đó. Bình tĩnh nào. Đừng có nôn nóng quá.
“ Sprechen Sie deutsch ?” Karras trân trọng hỏi.
“ Lại thêm trò chơi mới nữa chăng ?”
“ Sprechen Sie deutsch ?” Ông lập lại, mạch ông vẫn đập mạnh với niềm hy vọng xa vời ấy.
“ Naturlich,”con quỷ liếc liếc mắt đểu cáng nhìn ông. “ Mirabile dictu, mi có đồng ý không ?”
Quả tim vị linh mục nhảy rộn ràng. Chẳng những tiếng Đức, mà còn La Tinh nữa ! Mà lại nói có nội dung đàng hòang!
“ Quod nomen mihi est ?” ông hỏi nhanh. Tên ta là gì ?
“ Karras.”
Lúc này vị linh mục hỏi rấn tới, sôi nổi.
“ Ubi sum ?” Ta ở đâu?
“ In cubiculo.” Trong một căn phòng.
“ Et ubi est cubiculum ?” Và căn phòng đó ở đâu ?
“ In domo.” Trong một ngôi nhà.
“ Ubi est Burke Dennings ?” Burke Dennings đâu rồi?
“ Mortuus.” Hắn chết rồi.
“ Quomodo mortuus est ?” Ông ta chết như thế nào ?
“ Inventus est capite reverso.” Hắn được tìm thấy với cái đầu bị vặn tréo ra sau.
“ Quis occidit eum ?” Ai giết ông ta ?
“ Regan.”
“ Quomodo ea occidit illum ? Dic mihi exacte !” Cô ấy giết ông ta như thế nào? Nói chi tiết ta nghe !
“ Này, lúc này bao nhiêu đó cũng đủ hấp dẫn rồi đấy,” con quỷ nói, cười toe tóet. “ Đủ rồi, hòan tòan đủ rồi. Mặc dù, đã hẳn diễn tiến trong đầu mi là như thế này, ta thiển nghĩ, đó là khi mi đặt các câu hỏi bằng tiếng La tinh, chính mi cũng đã hình thành các câu trả lời sẳn bằng tiếng La tinh trong trí rồi.” Nó cười. “ Hòan tòan vô thức, dĩ nhiên là vậy. Phải, có cái gì chúng ta làm mà lại không có cõi vô thức dính vào? Mi hiểu tao đang nhằm tới điều gì chứ hả Karras? Tao không hề nói được tiếng La tinh chút nào. Ta đọc từ trí mi ra đấy thôi. Ta chỉ việc gắp những câu trả lời ra từ đầu mi đấy thôi !”
Karras cảm nhận ngay một nỗi thất vọng lúc niềm tin quyết của ông đã sụp đổ, ông cảm thấy bị trêu ngươi và cùng quẩn vì nỗi hòai nghi ray rứt nay đã gieo vào đầu ông.
Con quỷ cười khúc khích. “ Phải, tao biết điều đó sẽ xảy đến với mi, Karras à.” Nó ồm òam nói với ông. “ Vì thế cho nên tao khóai mi. Vì thế cho nên tao rất yêu chiều mọi kẻ biết điều.” Đầu nó ngả ngớn ra sau trong một tràng cười khằng khặc.
Trí não vị linh mục làm việc rất nhanh, rất kịch liệt, nghĩ ra những câu hỏi không phải chỉ có một câu trả lời, mà là khá nhiều lời đáp. Nhưng có lẽ rồi ta cũng nghĩ đến hết các câu trả lời đó thôi ! Ông nhận ra. Được rồi, thế thì hãy hỏi một câu mà chính mi cũng chưa biết câu trả lời đi ! Có thể về sau ông sẽ kiểm chứng lại câu trả lời xem có đúng hay không.
Ông đợi cho con người kia ngớt đi, rồi hỏi : “ Quam profundus est imus Oceanus Indicus ?” Chỗ sâu nhất của Ấn Độ Dương là bao nhiêu ?
Đôi mắt quỷ lấp lánh. “ La plume Dennings.. ma tante,” nó cò cử.
“ Responde Latine.”
“ Bonjour ! Bonne nuit !”
“ Quam.”
Karras ngưng ngang lúc đôi mắt kia trợn hẳn vào tròng, và bản ngã hay nói huyên thuyên tái xuất hiện.
Nóng nảy và cực lòng, Karras đòi hỏi. “ Hãy để cho ta nói chuyện trở lại với con quỷ kia đi !” Không có tiếng trả lời. Chỉ có tiếng thở từ một bờ bãi khác.
“ Quis es tu ?” Ông đốp ngay, giọng khản đặc. Giọng nói sờn ra.
Vẫn là tiếng thở.
“ Hãy để ta nói với Burke Dennings !”
Một tiếng nấc. Tiếng thở. Tiếng nấc nữa. Tiếng thở.
“ Hãy để ta nói với Burke Dennings !”
Tíếng nấc, đều đặn và xoắn mạnh, tiếp tục. Karras lắc đầu. Rồi ông đến một chiếc ghế, ngồi xuống bên mé. Cúi gầm. Căng thẳng. Đau đớn. Và chờ đợi…
Thời gian trôi qua. Karras thiêm thiếp ngủ. Rồi giật phắt đầu lên. Tỉnh thức nào ! Đôi mắt chơm chớp, nặng trĩu, ông nhìn Regan. Không còn tiếng nấc. Yên lặng.
Ngủ chăng ?
Ông đến bên giường, nhìn xuống. Đôi mắt đó nhắm. Hơi thở nặng nhọc. Ông với tay xuống bắt mạch, rồi cúi người quan sát thật kỹ đôi môi cô bé. Môi khô se, nứt nẻ. Ông đứng thẳng người lên và chờ đợi. Rồi rốt cuộc, ông rời phòng. Ông xuống bếp tìm Sharon, thấy cô gái ngồi ở bàn ăn xúp và một miếng xăng úych. “ Để tôi sửa sọan cho cha một món gì ăn nhé, thưa cha ?” Cô gái hỏi ông. “ Chắc là cha đói lắm rồi.”
“ Không, cám ơn, tôi không đói đâu,” Ông đáp. Ngồi xuống, ông vói tay qua nhón lấy một cây bút chì và một tập giấy bên cạnh bàn máy chữ của Sharon. “ Cô bé vừa bị nấc,” ông bảo cô. “ Ừ, nhà đã có thuốc Compazine như đã kê trong toa chưa ?”
“ Vâng, chúng tôi đã có sẳn ít nhiều.”
Ông viết trên tập giấy. “ Thế thì tối nay cho cô bé nửa viên tọa dược hai mươi lăm miligam.”
“ Vâng.”
“ Cô bé đã bắt đầu bị mất nước,” ông nói tiếp, “ do đó, đầu tiên phải làm trong buổi sáng nay là gọi hiệu cung cấp y khoa bảo chở đến các món này ngay.”
Ông đẩy tập giấy ngang bàn , đến chỗ Sharon. “ Lâm thời, cô bé đang ngủ nên cô có thể bắt đầu truyền dịch Sustagen cho cháu được rồi.”
“ Vâng.” Sharon gật đầu. “ Tôi sẽ lo việc đó.” Vừa múc xúp ăn, cô vừa xoay ngược tập giấy lại để nhìn bảng liệt kê.
Karras nhìn cô gái. Rồi ông cau mày tập trung. “ Cô là gia sư của cô bé ?”
“ Vâng, đúng thế.”
“ Cô có dạy cho cô bé chút La tinh nào không ?”
Cô gái bối rối. “ Không, tôi không hề.”
“ Chút đỉnh tiếng Đức ?”
“ Chỉ có tiếng Pháp thôi ạ.”
“ Trình độ nào ? Cỡ La plume de ma tante chăng.”
“ Khá nhiều.”
“ Nhưng không có tiếng Đức hoặc La tinh.”
“ Ồ, không.”
“ Nhưng vợ chồng Engstrom, thỉnh thỏang họ vẫn nói tiếng Đức chứ ?”
“ Thì, đã hẳn.”
“ Cạnh bên Regan chứ?”
Cô gái nhún vai. “ Tôi ngỡ vậy.” Cô gái đứng lên mang khai ra bồn rửa mặt. “ Thực ra thì tôi khá tin chắc là như vậy.”
“ Cô có bao giờ học tiếng La tinh chưa ?” Karras hỏi cô gái.
“ Không, tôi chưa hề.”
“ Nhưng cô nhận ra được âm tổng quát của nó chứ ?”
“ Ồ, hẳn vậy.” Cô gái rửa tô xúp rồi úp nó lên giá.
“ Có bao giờ cô bé nói tiếng Latinh trước mặt cô không ?”
“ Regan ?”
“ Từ khi cô bé bị đau ốm.”
“ Không, chưa hề.”
“ Bất cứ một ngôn ngữ nào ?” Karras thăm dò.
Cô gái tắt vòi nước, nghĩ ngợi: “ Chà, có lẽ là tôi tưởng tượng ra vậy thôi, chắc vậy, nhưng mà…”
“ Cái gì cơ ?”
“ Chà, tôi nghĩ…” Cô gái cau mày. “ Chà, tôi dám thề là tôi đã nghe thấy con bé nói tiếng Nga cơ đấy.”
Karras nhìn sững. “Cô có nói tiếng Nga không ?” Ông hỏi cô gái, cổ họng khô se.
Cô gái nhún vai. “ Ồ, thì chút đỉnh vậy thôi.” Cô bắt đầu gấp khăn lại, “ tôi chỉ học qua lúc ở đại học, thế thôi.”
Karras chùng hẳn người lại. Cô bé quả đã “thuỗn” tiếng La tinh từ trong trí ta. Nhìn đăm đăm với vẻ ảm đạm, ông gục đôi chân mày lên bàn tay, rơi vào cõi nghi ngờ, vào những nỗi ray rức của kiến thức và lý trí : Thần giao cách cảm thường gặp hơn trong những trạng thái cực kỳ căng thẳng, luôn luôn nói bằng một thứ ngôn ngữ mà có ai đó trong phòng đã biết : “…nghĩ giống y những điều ta nghĩ..” : “Bonjour…” : “ La plume de ma tante…” : “ Bonne nuit…” với những tư tưởng cở như ngững tư tưởng đó, ông thong thả nhìn máu đã biến trở lại thành rượu nho.
Làm gì đây ? Ngủ một chút đi. Rồi quay lại nữa…thử nữa…thử nữa.
Ông đứng dậy, lờ mờ nhìn Sharon. Cô gái đang dựa lưng vào bồn rửa, hai tay khoanh lại, nhìn ông trầm ngâm. “ Tôi tạt về qua nhà đây,” ông bảo cô gái. “ Khi nào, Regan thức, tôi muốn cô gọi tôi.”
“ Vâng, tôi sẽ gọi cha.”
“ Còn vụ Compazine,” ông nhắc cô gái, “ cô không quên chứ ?”
Cô gái lắc đầu. “ Không đâu, tôi sẽ đi lo việc ấy ngay bây giờ đây,” cô bảo.
Ông gật đầu. Hai tay thủ trong hai túi quần sau, ông nhìn xuống, cố nghĩ xem ông có quên điều gì chưa dặn Sharon không. Luôn luôn có một điều gì đó cần phải làm. Luôn luôn có một điều gì đó bị bỏ sót khi mà mọi cái đã được làm xong.
“ Thưa cha, việc gì đang xảy ra vậy ?” Ông nghe cô gái nghiêm giọng hỏi. “ Việc gì vậy ? Việc gì đang thực sự xảy ra cho Rags ?”
Ông ngước lên đôi mắt đã quá đỗi bị ám ảnh và héo hắt. “ Thực sự tôi cũng không biết nữa,” ông nói trống rỗng.
Ông quay lưng bước ra khỏi bếp.
Lúc ông bước ra hành lang lối vào, Karras nghe có tiếng chân gấp gáp bước đến sau lưng ông.
“ Cha Karras !”
Ông quay lại. Trông thấy Karl cầm chiếc áo len của ông.
“ Xin lỗi cha.” Người gia nhân nói lúc trao áo cho ông. “ Tôi đã nghĩ phải làm xong cho cha sớm hơi nhiều kia. Nhưng tôi quên mất.”
Những vết nôn mửa đã biến mất và chiếc áo bốc mùi thơm dịu dàng. “ Anh thật hết sức chu đáo, Karl ạ,” vị linh mục khẽ nói. “ Cám ơn anh.”
“ Cám ơn cha, thưa cha Karras.”
Giọng anh ta nghe run run, đôi mắt anh đong đầy lệ.
“ Cảm tạ cha đã giúp đở cô Regan.” Karl nói dứt câu. Rồi anh ta quay đầu chỗ khác, cả thẹn , rồi vội vàng rời khỏi lối vào.
Karras nhìn, nhớ lại anh ta trong xe của Kinderman. Lại thêm một chuyện kỳ bí. Rối tung rối mù. Mệt mỏi, ông mở cửa. Trời đã vào đêm. Thất vọng, ông bước ra khỏi trũng tối tăm để đi vào vùng tăm tối.
Ông băng qua đường về cư xá, lần mò về với giấc ngủ, nhưng ngay lúc bước vào phòng, ông nhìn xuống trông thấy một mảnh giấy nhỏ hồng trên sàn nhà. Ông nhặt mẩu giấy lên. Frank nhắn tới đây. Về vụ những cuộn băng. Có ghi số điện thọai tư thất. “ Xin gọi đến…”
Ông nhấc điện thọai lên, xin số. Chờ đợi, đôi tay ông run rẩy vì một niềm hy vọng mỏng manh.
“ A lô ?” Giọng một cậu bé trai. Lanh lảnh.
“ Làm ơn cho tôi được tiếp chuyện với bố cháu.”
“ Vâng ạ, xin đợi một chút.” Có tiếng điện thọai buông lách cách. Rồi lại nhanh chóng được bốc lên. Vẫn cậu bé. “ Ai ở đầu dây đấy ạ ?”
“ Cha Karras.”
“ Cha Karras ạ ?”
Tim đập rộn ràng, Karras nói, vẫn giọng đều đều. “ Karras. Cha Karras.”
Điện thọai lại bỏ xuống một lần nữa.
Karras ấn mấy ngón tay lên chân mày.
Tiếng điện thọai.
“ Cha Karras ?”
“ Vâng, chào Frank. Tôi đang cố nói chuyện với ông cho bằng được đây.”
“ Ồ, xin lỗi. Tôi mãi bận với mấy cuộn băng của cha tại nhà.”
“ Đã xong chưa ạ ?”
“ Vâng, đã xong. À này, có điều nội dung hơi kỳ quặc đấy.”
“ Tôi biết.” Karras cố san bằng nét căng thẳng trong giọng nói ông. “ Câu chuyện như thế nào, Frank ? Ông đã tìm ra chưa ?”
“ Chà, cái tỷ lệ “đặc trưng tiêu biểu” này, trước hết…”
“ Vâng ?”
“ Chà, tôi chưa có đủ một mẫu tuyệt đối chính xác, cha hiểu đấy, nhưng tôi có thể nói là nói khá chính xác, hay ít ra cũng chính xác hết mức mà ta có thể đạt được đối với những vấn đề như thế này. Vâng, vâng, bằng mọi giá, tôi xin nói rằng hai giọng nói khác nhau trên những cuốn băng ấy có thể là của những cá nhân riêng biệt ?”
“ Có thể à ?”
“ Chà, tôi chẳng muốn ra tòa để thề thốt điều ấy đâu, nhưng trên thực tế, tôi phải nói là chỗ khác biệt quả thực là khá tế vi.”
“ Tế vi…” Karras thẩn thờ lập lại. Chà, ra trò chơi là đây đây !
“ Còn vụ nói huyên thuyên thì sao ?” Ông hỏi không chút hy vọng. “ Đó có phải là một lọai ngôn ngữ nào không ?”
Frank cười khúc khích.
“ Có gì buồn cười chăng ?” Vị linh mục hỏi, dáng ảm đạm.
“ Đây có phải đúng là một thứ trắc nghiệm tâm lý bí mật nào đó không, thưa cha ?’
“ Tôi không biết ông muốn nói gì, Frank ạ.”
“ Chà, tôi đóan là cha đã pha tạp lẫn mọi thứ trong mấy cuộn băng đó. Nó…”
“ Frank, đó có phải là một thứ ngôn ngữ hay không ?” Karras cắt ngang.
“ Ồ, tôi phải nói đó chính là một ngôn ngữ, đúng vậy.”
Karras cứng hẳn người. “ Ông đùa chăng?”
“ Không, tôi không hề đùa.”
“ Ngôn ngữ gì ?” Ông hỏi, không tin được.
“ Anh ngữ.”
Trong một lúc. Karras ngậm câm, và lúc ông cất lời, nghe trong giọng ông có mòi sắc cạnh. “ Này Frank, hình như đường dây điện thọai của ta hôm nay nghe tồi quá, hoặc giả ông muốn đem tôi ra làm trò đùa gì đây chăng ?”
“ Cha có máy ghi âm ở đó không ?” Frank hỏi.
Chiếc máy đang ở trên bàn làm việc của ông. “ Vâng, có.”
“ Máy có nút quay ngược băng không ?”
“ Chi vậy ?”
“ Mà máy có nút ấy không ?”
“ Chi vậy ?”
“ Mà máy có nút ấy không ?”
“ Đợi một lát.” Bực bội, Karras bỏ điện thọai xuống, nhấc nắp máy ghi âm ra kiểm sóat lại. “ Vâng, máy có nút ấy, Frank ạ, nhưng mà mọi chuyện này là nghĩa lý gì ?”
“ Cha hãy lắp băng vào máy và cho quay ngược lại.”
“ Cái gì ?”
“ Cha có nuôi quỷ phá nhà đấy,” Frank cười lớn. “ Cứ quay băng đi rồi mai tôi sẽ nói chuyện cha nghe. Chúc cha ngủ ngon.”
“ Chúc ông ngủ ngon, Frank.”
“ Chúc nhiều điều thú vị.”
Karras gác máy. Ông có vẻ bối rối. Ông lục cuộn băng “nói huyên thuyên” ra rồi lắp vào máy. Thọat tiên, ông cho băng chạy tới trước, lắng nghe. Lắc đầu. Không lầm lẫn gì nữa. Đó là những câu nói huyên thuyên, vô nghĩa.
Ông để băng chạy đến hết rồi chạy ngược lại. Ông nghe thấy tiếng ông nói, lộn ngược. Rồi tiếng Regan – hay ai đó – nói bằng Anh ngữ !
…Marin marin Karras be us let us…
Ông nghe kỹ trọn cuốn băng, rồi trả băng lại, nghe suốt một lần nữa. Rồi một lần nữa…Lúc đó ông nhận ra được rằng thứ tự tiếng nói bị đảo ngược cả..
Ông cho băng ngừng, trả băng ngược lại. Với bút chì và giấy, ông ngồi xuống bàn làm việc, bắt đầu cho băng chạy lại từ đầu, rồi ông sao chép các từ. Ông làm việc thật cần mẫn và lâu dài với các đợt tắt, mở máy gần như liên tục. Rốt cuộc, khi đã làm xong, ông sao một bản nữa trên tờ giấy thứ hai, lần này đảo ngược thứ tự các từ. Sau đó, ông dựa ngửa, đọc bản sao thứ hai đó :
… “ nguy hiểm. Chưa đâu. (Không giải mã được) sẽ chết. Ít thời gian. Bây giờ cái (không giải mã được). Để cho con nhỏ đó chết. Không, không, cưng ! Thân thể nó thật đáng yêu ! Ta cảm thấy. Có một (không giải mã được). Thà (không giải mã được) còn hơn là cõi trống không. Ta sợ tên tu sĩ. Hãy cho chúng ta thời gian. Sợ tên tu sĩ ! Hắn thì (không giải mã được). Không, không phải tên này : cái tên (không giải mã được), cái tên mà (không giải mã được). Á, máu, cảm thấy máu (hát ?) thế nào.”
Tới chỗ này, có giọng Karras hỏi, “ Ngươi là ai ?” và tiếng trả lời: “ Ta không là ai. Ta không là ai.” Lại tiếng Karras “ Phải tên ngươi đó không ?” và tiếp theo:
… “ Ta không có tên. Ta không là ai. Nhiều. Để chúng tao yên. Để chúng tao ấm áp trong cơ thể này. Đừng (không giải mã được) ra khỏi cơ thể này để rơi vào cõi hư vô, vào cõi (không giải mã được). Để mặc chúng tao. Mặc chúng tao. Để chúng tao yên. Mặc chúng tao. Để chúng tao yên. ( Marin ? Martin ?)…”
Ông cứ đọc lại mãi đọan văn đó, bị ám ảnh bởi giọng văn, bởi cái cảm giác có hơn một con người đang nói, mãi cho đến cuối cùng, chính sự lập đi lập lại đó đã làm cùn nhụt, những từ ấy trở thành tầm thường. Ông bỏ bản sao ấy xuống và chà xát mặt mày, chà xát đôi mắt và cả những ý nghĩ của ông. Không phải là một thứ tiếng lạ. Khả năng biết lộn ngược lưu lóat khó có thể coi là phi phàm hay ngay cả bất thường gì. Nhưng mà nói lộn ngược: điều chỉnh và thay đổi ngữ âm trong cách thế sao cho khi nói ngược lại thì sẽ có ý nghĩa, một thành tích như thế há không phải đã vượt qua cả một trí tuệ bị tăng kích thích đó sao ? Trạng thái vô thức được gia tốc như Jung đã bàn đến. Không phải. Một cái gì đó cơ…
Ông nhớ rồi. Ông ra kệ sách tìm một cuốn: “Tâm Lý Học Và Bệnh Lý Học. Những Hiện Tượng Được Gọi Là Thần Bí” của tác giả Jung. Có điều gì đó tương tự ở đây, ông nghĩ. Điều gì vậy? Ông tìm ra rồi: đọan mô tả một cuộc thí nghiệm về trạng thái viết tự động, trong đó phần vô thức của người được thực nghiệm dường như đã có thể trả lời được các câu hỏi và những phép đảo chữ cái của ông ta.
Phép đảo chữ cái !
Ông dựng đứng cuốn sách mở ngỏ ấy lên bàn, nghiêng người đọc đọan mô tả một phần của cuộc thực nghiệm:
…
NGÀY THỨ 3
Ngươi là ai ? Clelia.
Ngươi là phụ nữ à ? Phải.
Ngươi có sống trên trái đất không ? Không
Ngươi sẽ sống lại chứ ? Phải
Khi nào ? Sáu năm nữa.
Tại sao ngươi trò chuyện với ta ? E if Clelia El
Người được thực nghiệm giải thích câu trả lời này như một phép đảo chữ cái cho câu “ Chris Clelia feel” ( Ta Clelia cảm thấy.)
NGÀY THỨ 4
Ta có phải là người trả lời các câu hỏi không ? Phải.
Có Clelia đó không ? Không.
Vậy thì ai ở đó ? Không ai cả.
Clelia có hiện hữu chút nào không ? Không.
Thế thì hôm nay ta đã nói chuyện với ai vậy ? Với chẳng ai cả.
…
Karras ngừng đọc, lắc đầu. Đây chẳng phải là một thành tích phi phàm gì, chỉ là khả năng vô hạn của tâm trí đấy thôi.
Ông với lấy một điếu thuốc, ngồi xuống và châm lửa. “ Ta không là ai cả. Nhiều.” Kỳ quái thật. Thế thì nó đến từ đâu, ông thắc mắc, cái nội dung ngôn từ của cô bé ?
“ Với chẳng ai cả.”
Có phải nó đến từ cùng một chỗ với Clelia không ? Các bản ngã lộ diện này?
“ Marin…Marin…” “ Á, máu…” “Hắn bị bệnh.”
Đầu óc bị ám ảnh, ông liếc bộ sách “Satan” rồi ảm đạm lật đến câu đề từ : “Chớ để con rồng làm kẻ thủ lĩnh ta…”
Ông phà khói và nhắm mắt lại. Ông ho. Cổ họng ông cảm thấy đau buốt và sưng tấy. Ông dí tắt điếu thuốc, nước mắt ràn rụa vì khói. Mệt nhòai. Các xương cốt ông cứ như những ống nước bằng sắt. Ông đứng dậy, treo tấm biển “ Đừng Quấy Rầy” trên cửa, rồi ông tắt đèn phòng, buông mành cửa sổ, đá văng giày ra và nằm sụp xuống giường.
Những mảnh vụn vỡ. Regan. Dennings. Kinderman. Làm gì đây ? Ông cần phải giúp đỡ. Bằng cách nào ? Cố thuyết phục Đức Giám mục với chút xíu chứng cớ trong tay thế sao ? Ông không nghĩ vậy. Ông chẳng thể nào biện bạch cho vụ việc này một cách đầy đủ sức thuyết phục được.
Ông nghĩ đến chuyện cởi quần áo, chui vào chăn. Quá mệt mỏi. Cái gánh nặng này. Ông muốn được rảnh tay.
“ … Hãy để chúng tao yên..”
Hãy để tôi yên, ông trả lời cho cái manh mún đó. Ông trôi vào giấc ngủ tối đen, bất động của lòai đá hoa cương.
--------------------------
Tiếng chuông điện thoại đánh thức ông dậy. Lảo đảo, ông lần mò tìm núm bật đèn. Mấy giờ rồi vậy ? Hơn ba giờ sáng vài phút. Ông loạng quạng với tay tìm điện thọai. Có tiếng trả lời. Sharon đó. Cô gái hỏi ông có vui lòng đến ngay nhà được không. Ông sẽ đến. Ông gác máy, cảm thấy bị sa bẫy trở lại, bị ngột ngạt và lúng túng như cũ.
Ông vào phòng tắm vã nước lạnh lên mặt, lau khô rồi bắt đầu rời phòng, nhưng đến cửa, ông quay lại, trở vào lấy chiếc áo len. Ông chui đầu vào áo rồi bước ra ngòai phố.
Không khí lõang và tĩnh mịch trong bóng đêm. Vài con mèo hoang đang moi thùng rác hỏang hốt bỏ chạy lúc ông băng qua đường đến ngôi nhà kia.
Sharon đón ông ở cửa. Cô gái mặc áo len, quấn thêm một chiếc mền. Trông cô hỏang sợ. Bối rối. “ Xin lỗi cha,” cô thì thầm lúc ông đã bước vào nhà. “ Nhưng tôi nghĩ là cha cần trông thấy điều này.”
“ Điều gì vậy ?”
“ Rồi cha sẽ thấy. Bây giờ ta phải khẽ khàng. Tôi không muốn đánh thức Chris. Chị ấy cũng chẳng nên chứng kiến điều này.” Cô gái ra hiệu cho ông bước tới.
Ông theo sau cô, rón rén lên cầu thang đến phòng Regan. Lúc bước vào, vị linh mục cảm thấy lạnh buốt xương. Căn phòng như ướp nước đá. Ông cau mày kinh ngạc nhìn Sharon, và cô gái nghiêm trang gật đầu với ông. “ Vâng, lò sưởi vẫn mở thường xuyên,” cô thì thào. Rồi cô quay lại nhìn chăm chăm Regan, nhìn đôi tròng trắng của cô bé ngời lên kỳ dị dưới ánh đèn. Hình như cô bé đang trong cơn hôn mê. Hơi thở nặng nề. Bất động. Chiếc ống truyền dịch theo đường lỗ mũi-dạ dày vẫn ở yên vị trí, chất Sustagen vẫn chảy rỉ rả vào cơ thể nó.
Sharon khẽ khàng đến bên giường, Karras theo sau, vẫn còn chóang váng vì lạnh. Lúc hai người đứng bên giường, ông trông thấy những giọt mồ hôi rỉ trên trán Regan ! Ông liếc xuống trông thấy đôi tay cô bé bị buộc chặt dưới những sợi dây da.
Sharon. Cô gái nghiêng người, khẽ vạch cổ áo pi-ja-ma của Regan ra. Một niềm thương xót vô bờ xoắn lấy Karras lúc ông nhìn thấy khuôn ngực héo hon phơi rõ từng chiếc xương sườn của cô bé, trên khuôn ngực đó người ta có thể đếm được từng tuần, từng ngày còn lại của cuộc đời nó.
Ông cảm thấy cặp mắt lạc thần của Sharon chiếu lấy ông. “ Tôi không biết là nó đã chấm dứt hay chưa,” cô gái thì thầm. “ Nhưng cứ quan sát, cứ nhìn chăm lên ngực con bé.”
Cô gái quay lại và nhìn xuống. Vị linh mục Dòng Tên dõi theo tia nhìn của cô. Yên lặng. Tiếng thở. Quan sát. Sự lạnh giá. Thế rồi đôi mày vị linh mục nhíu lại lúc ông trông thấy một cái gì đó hiện lên trên làn da : một vết đỏ phảng phất; nhưng sắc nét, giống như tuồng chữ viết tay. Ông nhìn kỹ hơn.
“ Đó, nó xuất hiện rồi đó,” Sharon thì thầm.
Bất chợt, hai tay Karras nổi da gà, không phải vì cái lạnh băng giá của căn phòng, nhưng vì cái điều ông đang trông thấy xuất hiện trên khuôn ngực Regan, vì nét viết chạm nổi hằn lên thành từng chữ cái rõ ràng, đỏ như máu, trên da. Hai từ:
“ Cứu con”
“ Tuồng chữ của con bé đó,” Sharon thì thầm.
-----------------------------
Đúng chín giờ sáng ngày hôm ấy, Damien Karras đến gặp Viện trưởng Viện Đại học Georgetown xin phép đạo đạt thỉnh nguyện lên bề trên xin chuẩn y một lễ đuổi quỷ. Ông được Viện trưởng chấp thuận, ngay sau đó, ông đã đến gặp Đức Giám mục địa phận, vị này lắng nghe với sự quan tâm nghiêm chỉnh tất cà những điểm Karras tường trình.
“ Cha tin là trường hợp này xác thực chứ ?” Vị Giám mục rốt cuộc hỏi.
“ Con đã nhận xét hết sức thận trọng và thấy rằng trường hợp này phù hợp với các điều kiện đòi hỏi trong bộ “ Lễ Nghi”, Karras trả lời một cách tránh né. Ông vẫn chưa dám tin. Không phải là thần bí mà chính là con tim ông đã lôi kéo ông đến khỏang khắc này. Lòng thương xót và niềm hy vọng về một phương chữa bằng ám thị.
“ Cha muốn đích thân hành lễ đuổi quỷ chứ ?” Vị Giám mục hỏi.
Ông cảm thấy một khỏang khắc phấn khởi phơi phới, trông thấy cánh cửa mở tung ra về phía những cánh đồng, giải thóat ông khỏi gánh nặng ưu phiền oằn oại và thóat khỏi cuộc đối đầu mỗi khi hòang hôn xuống với bóng ma của lòng tin ông. “ Vâng, hẳn thế ạ.” Karras đáp.
“ Sức khỏe cha ra sao?”
“ Tốt ạ.”
“ Trước đây, cha có tham dự vào một việc như thế này bao giờ chưa ?”
“ Thưa chưa ạ.”
“ Chà, để ta xem. Tốt hơn hết có lẽ nên có một người từng trải. Dĩ nhiên, những người như thế không nhiều lắm, nhưng có lẽ có một vị nào đó từ những hội truyền giáo hải ngọai trở về. Để tôi xem có ai đó quanh đây không. Lâm thời, tôi sẽ gọi cha ngay khi chúng tôi có tin tức.”
Karras về xong, Giám mục điện thoại ngay cho cha Viện trưởng Viện Đại học Georgetown, hai người lại thảo luận về Karras lần thứ hai trong ngày hôm đó.
“ Vâng, ông ấy quả có biết rõ về quá trình của bệnh nhân.” Vị Viện trưởng bàn đến một điểm giữa cuộc điện đàm. “Tôi không tin là có gì nguy hiểm trong việc chỉ cử ông ấy làm phụ lễ thôi. Vả lại, cũng cần phải có sự hiện diện của một nhà tâm thần học.”
“ Còn nhà đuổi quỷ thì sao đây ? Có ý kiến gì không ? Tôi chẳng nghĩ ra được ai.”
“ Vâng, hiện nay Lankester Merrin đang có mặt ở Mỹ.”
“ Merrin à ? Tôi tưởng ông ấy vẫn còn ở bên Irak chứ. Tôi nhớ là tôi có được đọc về tin ông ta đang tiến hành một công trình khai quật ở vùng Ninive.”
“ Vâng, ở bên dưới đô thị Mosul. Đúng thế ạ. Nhưng ông ấy đã hòan tất công việc và đã hồi hương khỏang ba bốn tháng nay rồi, Mike ạ. Hiện ông ta đang ở Woodstock.”
“ Dạy học ư ?”
“ Không, đang viết một cuốn sách khác.”
“ Thật Chúa giúp ta ! Dù vậy, cha không nghĩ là ông ấy già quá đấy chứ ? Sức khỏe ông ấy ra sao ?”
“ Chà, hẳn là phải ổn thôi, chứ không thì ông ấy đã không còn chạy ngược chạy xuôi mà khai quật các lăng mộ như thế được mãi. Đức cha có nghĩ thế không ?”
“ Phải, tôi cũng nghĩ vậy.”
“ Với lại, ông ta có kinh nghiệm, Mike ạ.”
“ Tôi không biết điều đó đấy.”
“ Vâng, ít nhất đó cũng là lời truyền tụng.”
“ Chuyện ấy xảy ra bao giờ thế ?”
“ Ồ, có lẽ mươi, mười hai năm trước gì đó, tôi nghĩ vậy, tại Phi Châu. Hình như đâu cuộc đuổi quỷ ấy đã kéo dài hàng mấy tháng trời. Tôi nghe nói trận ấy súyt giết chết ông ấy đấy.”
“ Chà, nếu thế thì, tôi không mấy tin là ông ta muốn đảm đương thêm một lần nữa đâu.”
“ Ở đây, chúng ta làm những gì chúng ta được sai làm, Mike ạ. Hỡi các ông, những tu sĩ thế tục, với các ông thì mọi lời phản kháng đã chấm dứt.”
“ Cảm ơn đã nhắc nhở tôi.”
“ Vậy thì Đức Cha nghĩ sao ?’
“ Coi kìa, tôi giao hòan tòan việc đó cho cha và Cha Giám tỉnh.”
Vào chớm buổi tối đang được lặng lẽ chờ đợi đó, có một chủng sinh đang đợi thụ phong linh mục lần bước trên sân Chủng viện Woodstock thuộc bang Maryland. Thầy đang tìm kiếm một vị tu sĩ Dòng Tên cao niên, tóc hoa râm, dáng người thanh mảnh. Thầy tìm thấy vị linh mục này trên một lối đi, đang bách bộ ngang một lùm cây. Thầy trao cho linh mục đó một bức điện tín. Con người cao niên này cảm ơn thầy, phong thái đầy thanh thản, đôi mắt thật đôn hậu, rồi quay lại tiếp tục trầm tưởng, tiếp tục cuộc bách bộ qua một cảnh trí thiên nhiên mà ông yêu mến. Thỉnh thỏang, ông dừng chân lắng nghe tiếng hót của một chú chim cổ đỏ, lặng ngắm một nàng bướm sặc sở lượn lờ trên một cành cây. Ông không mở đọc bức điện ấy. Ông biết nội dung thế nào rồi. Ông đã biết rồi. Ông đã đọc được nội dung đó trên cát bụi của những đền đài thành Ninive. Ông đã sẳn sàng.
Ông tiếp tục đi chào từ giã.
PHẦN IV:
“ Hãy Để Cho Tiếng Kêu Cầu Tôi Thấu Đến Bên Người...”
12.
Trong bóng tối sinh động nơi văn phòng làm việc quạnh quẽ của mình, Kinderman trầm tư trên bàn làm việc.
Ông điều chỉnh tia sáng đèn bàn một nấc. Bên dưới ông là các chồng biên bản, các tang vật, hồ sơ cảnh sát, các bản báo cáo của phòng thí nghiệm hình sự, các ghi chú viết tay. Trong trạng thái trầm mặc, ông tẩn mẩn xếp mớ giấy má đó thành một tấm tranh ghép có hình một bông hồng, như thể đính chính lại cái kết luận tồi tệ mà những thứ giấy má ấy đã đưa ông đến, mà ông đã không thể nào chấp nhận.
Engstrom vô tội. Đúng lúc xảy ra cái chết của Dennings, anh ta đang đến thăm con gái mình, cho tiền cô ta mua ma túy. Anh ta đã nói dối về hành tung của mình trong đêm hôm ấy để bảo vệ con gái và che giấu mẹ cô gái, người mẹ vẫn tin là Elvira đã chết và đã thoát khỏi mọi nỗi tàn hại và sự suy đồi.
Không phải nhờ Karl mà ông biết được việc này. Vào cái đêm hôm nọ chạm trán nhau nơi hành lang căn hộ của Elvira, người gia nhân ấy vẫn ngậm câm như thóc. Mãi đến lúc Kinderman thông báo cho cô con gái biết sự dính líu của bố cô ta trong vụ Dennings thì Elvira mới chịu khai ra sự thực. Có các nhân chứng xác nhận sự thực đó. Engstrom được vô can. Vô can và lặng lẽ đối với những biến cố xảy ra trong ngôi nhà của Chris MacNeil.
Kinderman cau mày nhìn cánh bông hồng bằng giấy ghép. Có một cái gì không ổn trong bố cục. Ông khẽ di chuyển một chóp đài hoa - góc của một tờ cung khai - chếch xuống dưới và qua phải.
Những đoá hoa hồng. Elvira. Ông đã nghiêm khắc cảnh cáo cô ta rằng nếu nội trong hai tuần lễ mà cô chưa chịu đến đăng ký vào bệnh viện để chữa trị, ông sẽ săn đuổi cô với đầy đủ các lệnh truy nã cho đến khi nào có đủ bằng cớ là ông bắt giữ ngay. Tuy nhiên, ông ta vẫn không hẳn tin là cô ta sẽ chịu đi. Đã có lắm lúc ông đã trơ mắt ra nhìn không chớp vào luật pháp như kiểu ông ngó lên mặt trời lúc chính ngọ với hy vọng là nó sẽ tạm thời làm lóa mắt ông, để cho một con mồi - một kẻ phạm pháp nào đo - chuồn đi.
Engstrom vô tội. Thế thì còn lại gì đây? Kinderman, vừa thở khò khè, vừa chuyển sức mạnh thân mình qua một vị trí khác. Rồi ông nhắm mắt tưởng tượng ra mình đang ngụp lặn trong bồn tắm nước nóng bập bềnh. Bán đại hạ giá món tâm thần đây ! Ông giương khẩu hiệu ra với chính mình: Nhất định mọi việc phải chuyển ! Trong một lúc ông cứ chờ đợi, không mấy tin chắc. Thế rồi. Nhất định mà ! Ông nói thêm một cách nghiêm khắc.
Ông mở mắt ra và kiểm tra lại một lần nữa các dữ kiện đầy rắc rối đó.
Mục : Cái chết của đạo diễn Burke Dennings dường như có liên quan thế nào đến phép phù thủy và kẻ phạm thánh xảy ra tại Giáo đường Ba Ngôi. Cả hai đều dính líu đến phép phù thủy và kẻ phạm thánh vô danh đó dễ dàng có thể là kẻ đã giết Dennings.
Mục : Một chuyên gia về vấn đề phù thủy, một linh mục Dòng Tên, đã được trông thấy lui tới ngôi nhà của gia đình MacNeil nhiều lần.
Mục : Tờ giấy đánh máy mang nội dung báng bổ thần thánh gắn trong tấm thẻ bàn thờ tìm thấy ở Giáo đường Ba Ngôi đã được kiểm tra để tìm vết dấu tay. Các dấu vết được tìm thấy ở cả hai mặt. Một vài dấu vết là do Damien Karras lưu lại. Nhưng còn có một bộ dấu tay khác cũng được khám phá ra mà xét theo kích thước của chúng, đã được suy đoán là của một người có đôi bàn tay Rất Nhỏ, Hoàn Toàn Có Thể Là Một Đứa Trẻ Con.
Mục : Chữ đánh máy trên tấm thẻ bàn thờ đã được phân tích và so sánh với nét chữ trên bức thư dang dở mà Sharon Spencer đã lôi ra khỏi máy chữ, vò viên rồi ném vào giỏ rác, nhưng lại ném hụt lúc Kinderman đang hỏi Chris. Ông đã nhặt bức thư ấy và lén đem ra khỏi nhà. Nét chữ đánh trên bức thư này và nét chữ đánh trên tờ giấy gắn trong tấm thẻ bàn thờ kia đã được thực hiện Trên Cùng Một Bàn Máy Chữ. Tuy nhiên theo bản báo cáo, lực tiếp xúc máy của hai người đánh máy lại khác nhau. Người đánh máy bản văn phạm thánh Có Sức Chạm Máy Mạnh Mẽ Hơn Hẳn Sharon Spencer. Hơn nữa, vì dạng chữ đánh máy trên thẻ bàn thờ không phải là loại được đánh kiểu “mò mổ” nhưng lại được thực hiện khá khéo léo, có kỹ thuật, điều đó khiến ta nghĩ rằng người đánh máy vô danh thực hiện nội dung văn bản trên tấm thẻ bàn thờ kia là Một Người Có Sức Mạnh Phi Thường.
Mục : Burke Dennings - ngoại trừ trường hợp ông ta chết vì tai nạn – đã bị giết bởi một người có sức mạnh phi thường.
Mục : Engstrom không còn là kẻ bị tình nghi nữa.
Mục : Cuộc kiểm tra danh sách những người giữ chỗ trên các hãng hàng không quốc nội cho thấy Chris MacNeil đã từng đưa con gái bà đến Dayton, bang Ohio. Kinderman đã biết con gái bà bị bệnh và được đưa đến một y viện. Nhưng cái y viện ở Dayton đó hẳn phải là Barringer rồi. Kinderman đã kiểm chứng và y viện đó đã xác nhận là cô bé đó đã được đưa vào bệnh viện để theo dõi. Mặc dù y viện từ chối tiết lộ tính chất bệnh, rõ ràng đó là một tình trạng rối loạn tâm thần trầm trọng.
Mục : Những rối loạn tâm thần trầm trọng lắm khi tạo ra sức mạnh phi thường.
Kinderman thở dài và nhắm mắt lại. Cũng thế thôi. Ông cũng trở về với một kết luận đó thôi. Ông lắc đầu. Rồi ông mở mắt, nhìn đăm đăm vào tâm của bông hồng giấy: một tờ tạp chí tin tức toàn quốc cũ, đã phai màu. Trên bìa tạp chí là ảnh Chris và Regan. Ông nghiên cứu cô con gái : gương mặt đầy tàn nhang, khả ái, với những lọn tóc tết đuôi ngựa cột nơ, chiếc răng cửa bị sún giữa cái cười toét miệng.
Ông trông qua cửa sổ, nhìn vào vũng tối. Một cơn mưa phùn bắt đầu lún phún rơi.
Ông xuống nhà xe, leo vào chiếc xe đen đã ngụy trang kỹ, rồi lái xe băng qua những con đường bóng nhẫy loang loáng mưa, đến khu vực Georgetown. Đến nơi, ông đậu xe ở phía đông phố Prospect. Và ngồi đó suốt mười lăm phút. Cứ ngối yên như thế, nhìn đăm đăm vào cửa sổ phòng Regan. Ông có nên gõ cửa, đòi gặp cô bé không đây ? Ông cúi đầu. Dụi chân mày. William F. Kinderman ơi, mi bệnh rồi! Mi bị đau yếu rồi! Về nhà đi ! Uống thuốc. Đi ngủ!
Ông lại ngước nhìn cửa sổ và buồn bả lắc đầu. Chính đây là nơi mà cái luận lý đầy ám ảnh của ông đã dắt ông đến.
Ông đảo tia nhìn lúc một chiếc tắc xi chờ tới ngôi nhà. Ông mở máy xe, bật cần gạt nước mưa.
Từ trên tắc xi bước xuống một ông già cao lớn. Áo mưa đen, mũ và một chiếc va li cũ mèm. Ông trả tiền xe, rồi quay lại đứng yên, nhìn đăm đăm ngôi nhà. Chiếc tắc xi lao đi, rẽ qua phố Ba Mươi Sáu. Kinderman liền phóng xe theo. Lúc ông rẽ quanh góc phố, ông nhận thấy ông già cao lớn kia không đi tới mà cứ đứng yên dưới ánh sáng đèn đường, trong sương mù như một người lữ hành u sầu. Nhà thám tử nhá đèn mấy lượt vào chiếc tắc xi.
Cùng lúc đó, bên trong nhà, Karras và Karl đang kềm chặt tay Regan để Sharon chích Librium cho cô bé, nâng tổng số lượng thuốc được chích trong vòng hai giờ qua lên đến 400 miligam, liều lượng đó, Karras biết rõ, thật đáng kinh hãi. Nhưng sau thời gian lắng dịu mấy tiếng đồng hồ, con quỷ đã đột ngột thức giấc, trong một cơn giận hoảng điên cuồng cho đến nỗi cơ thể suy yếu của Regan không còn có thể kham nổi được mấy đỗi nữa.
Karras mệt nhoài. Sau khi đến Tòa Bí thư Giám mục sáng hôm đó, ông trở lại ngôi nhà thuật lại tự sự cho Chris biết. Kế đó, ông lắp đặt dụng cụ truyền dịch vào tĩnh mạch cho Regan, trở về phòng riêng ở cư xá và ngã người xuống giường. Tuy nhiên, mới ngủ đây đó được một tiếng rưỡi, điện thoại đã lôi ông dậy. Sharon. Cô gái cho biết Regan vẫn còn mê man và mạch cô bé đang từ từ tụt xuống. Karras liền tức tốc xách túi y khoa đến ngay nhà và véo vào vùng gân Achilles của Regan, dò xem phản ứng đau đớn. Không có phản ứng gì. Ông bấm mạnh lên một móng tay cô bé. Vẫn không có phản ứng gì. Ông đâm lo ngại. Mặc dừ ông biết trong chứng loạn thần ít-tê-ri và trong những trạng thái ngủ sâu, đôi khi bệnh nhân không còn nhạy cảm với sự đau đớn, nhưng giờ đây, ông lo sợ là chứng hôn mê, một trạng thái mà từ đó Regan dễ dàng có thể trôi luôn vào cõi chết. Ông đo huyết áp cho cô bé: 90 trên 60, rồi nhịp mạch : 60. Sau đó ông đợi trong phòng, và cứ mười lăm phút một , lại kiểm soát huyết áp và nhịp mạch trong suốt một tiếng rưỡi đồng hồ, rồi ông mới thấy hài lòng là huyết áp và nhịp mạch đã ổn định, điều đó chứng tỏ là Regan không phải bị sốc, mà là đang trong trạng thái sững sờ. Ông căn dặn Sharon tiếp tục thăm mạch mỗi giờ. Rồi ông về phòng riêng ngủ tiếp. Nhưng một lân nữa, điện thoại lại gọi ông dậy. Thầy đuổi quỷ, phòng Bí thư Giám mục thông báo cho ông biết, sẽ là Lankester Merrin, Karras sẽ phụ lễ.
Tin ấy khiến ông bàng hoàng cả người. Merrin ! Nhà triết học – nhà cổ sinh vật học ! Một bậc trí thức vĩ đại, cao vời ! Những tác phẩm của ông đã làm rúng động Giáo hội, vì chúng đã minh giải trên tinh thần khoa học, xem đó như một thể vật chất vẫn còn đang tiến hoá, được định sẳn để trở nên tinh thần và hoà nhập với Chúa.
Karras lập tức điện thoại cho Chris, để thông báo tin tức đó, nhưng khám phá ra là nàng đã được đức Giám mục trực tiếp thông báo điều đó rồi. Đức Giám mục đã cho nàng biết là Merrin sẽ đến vào ngày hôm sau. “ Tôi đã thưa với đức Giám mục là cha Merrin có thể lưu lại nhà tôi.” Chris nói. “ Công việc chắc chỉ một ngày là xong thôi, phải không ?” Karras ngập ngừng rồi mới trả lời: “ Tôi không biết”. Rồi lại ngập ngừng nữa, ông nói: “ Bà chớ nên hy vọng cho lắm.” “ Nếu việc ấy có hiệu quả thì tôi hy vọng chứ,” Chris đáp. Giọng nàng đã dịu lại. “ Tôi không hề có ý ám chỉ là việc ấy không hiệu quả.” Ông trấn an nàng, “ Tôi chỉ muốn nói là việc ấy có thể mất nhiều thời gian.” “ Bao lâu ?” “ Không nói trước được.” Ông biết rằng một cuộc đuổi quỷ thường mất nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng; biết rằng việc đó thường là thất bại hoàn toàn. Ông mong là nó sẽ thất bại, mong là cái gánh nặng đó, cái lối cứu chữa bằng cách ngăn chận xuyên qua phép ám thị đó, rốt ráo sẽ sụp đổ một lần nữa lên người ông. “ Con bé phải chịu đựng bao lâu, thưa cha Karras ?” “ Có thể mất vài ngày hay vài tuần.” Ông bảo nàng.
Gác máy xong, ông cảm thấy nặng nề, ray rứt. Duỗi thẳng người trên giường, ộng nghĩ đến Merrin. Merrin ! Một niềm phấn khởi và hy vọng len lách vào người ông. Theo sau đó là một nỗi băn khoăn se sắt. Theo lẽ tự nhiên đúng ra chính ông mới là kẻ phải được chọn để làm thầy đuổi quỷ, thế mà Đức Giám mục đã lờ ông đi. Sao vậy? Có phải vì Marrin đã từng đuổi quỷ rồi hay không ?
Lúc nhắm mắt lại, ông nhớ rằng các thầy đuổi quỷ được tuyển chọn trên căn bản “ đạo hạnh” và “ các phẩm chất đạo đức cao quý”, ông nhớ một đoạn trong sách phúc âm Thánh Mathieu đã kể lại đấng Kitô khi được các môn đồ hỏi lý do tại sao họ lại thất bại khi đuổi quỷ, đã trả lời họ: “...bởi vì các ngươi ít đức tin.”
Vị linh mục Giám tỉnh đã biết rõ vấn đề của ông, cha Viện trường cũng thế. Karras suy nghĩ. Có vị nào trình lên Đức Giám mục chăng ?
Lúc đó, ông đã trăn trở trên giường, nản lòng, thối chí, ông cảm thấy một cách nào đó mình bất xứng bất tài, bị loại bỏ. Điều đó làm ông đau nhói. Vô lý, nhưng mà sao vẫn đau nhói. Thế rồi cuối cùng, giấc ngủ tràn đến rót đầy nỗi trống rỗng, đong đầy các hang hốc, các vết nứt rạn trong trái tim ông.
Thế mà một lần nữa, chuông điện thoại lại réo ông dậy. Chris gọi đến cho ông hay Regan đang lâm vào một cơn điên loạn mới. Trở lại ngôi nhà, ông bắt mạch cho Regan. Mạch mạnh quá. Ông chích Librium, chích nữa. Rồi lại chích nữa. Cuối cùng, ông lần lối xuống bếp, ngồi xuống bàn uống cà phê với Chris trong chốc lát. Nàng đang đọc sách, một tác phẩm của Merrin mà nàng đã đặt hiệu sách giao đến tận nhà cho nàng. “ Cao quá, tôi không hiểu nổi,” nàng nhỏ nhẹ bảo ông, tuy nhiên, trông nàng bối rối và cảm động sâu sắc. “ Nhưng có vài đoạn thật hay, thật tuyệt diệu.” Nàng lật nhanh trở lại qua các trang, đến một đoạn nàng đánh dấu và trao quyển sách qua bàn cho Karras. Ông đọc :
“ ... Chúng ta đã kinh nghiệm quen thuộc về trật tự, về tính bất biến và sự đổi mới bất tuyệt của thế giới vật chất chung quanh ta. Mong manh và phù du là bản chất của mọi thành phần trong thế giới ấy; xao động và biến đi là bản chất của các nguyên tố cấu thành nó, vậy mà nó vẫn trường tồn. Nó được cố kết lại bởi mọi luật trường cửu, và mặc dù cho nó từng chết, nó vẫn hằng sống lại. Sự phân hủy chỉ là để khai sinh cho các mô thức cấu tạo mới, và một cái chết là cha đẻ của hàng ngàn sự sống……Chúng ta than khóc cho những bông hoa tháng Năm vì chúng tàn héo; nhưng chúng ta biết rằng tháng Năm chắc chắn có ngày rửa được thù vào tháng Mười một, bởi sự xoay chuyển của vòng tuần hòan uy nghi không hề ngưng nghỉ ấy, điều đó dạy dỗ chúng ta đang lúc ở đỉnh cao của hy vọng phải hằng biết điều độ, và trong trũng sâu của sầu muộn chớ hề thất vọng.”
“ Vâng, hay thật,” Karras nhỏ nhẹ nói. Mắt ông vẫn dán lên trang sách. Cơn giận hoảng của con quỷ trên lầu càng thêm huyên náo.
“…Đồ con hoang… cặn bã… đồ đạo đức giả !”
“ Nó vẫn hay đặt một bông hồng trên khai ăn của tôi… buổi sáng… trước khi đi làm.”
Karras ngước lên với đôi mắt hỏi han. “ Regan.” Chris bảo ông.
Nàng nhìn xuống. “ Vâng, đúng thế đấy. Tôi quên, cha đâu đã gặp con bé bao giờ.” Nàng hỉ mũi và chấm chấm mắt. “ Cha muốn dùng chút rượu mạnh với cà phê không? Thưa cha Karras?” Nàng hỏi.
“ Cám ơn, không ạ.”
“ Cà phê nhạt nhẻo quá,” nàng run giọng thầm thì, “ tôi phải đi lấy chút rượu mạnh. Xin lỗi.” Nàng nhanh chóng rời bếp.
Karras ngồi một mình, rầu rĩ nhấm nháp cà phê. Ông cảm thấy hâm hấp nóng trong chiếc áo len ông mặc bên dưới áo chùng. Cảm thấy yếu đuối vì đã không an ủi được Chris. Rồi một hồi ức về thuở ấu thời lung linh sống dậy đầy u buồn, một hồi ức về Ginger, con chó lai của ông, gầy trơ xương và mê mụ trong một chiếc hộp trong căn hộ; Ginger run lên vì sốt và cứ mửa thốc tháo trong lúc Karras lấy mấy chiếc khăn lông đắp lên người nó, cố ép nó uống sữa nóng, mãi đến khi một người hàng xóm trờ tới và nhận thấy nó bị sốt ho, lắc đầu bảo: “ Con chó của cháu cần phải chích thuốc ngay.” Rồi một buổi xế trưa tan học...đi ra đường...theo từng nhóm xếp hàng hai một ra góc phố...mẹ ông đã ở đó đón ông...thật bất ngờ...mặt buồn hiu hắt...rồi nắm lấy tay ông dúi vào đó một đồng nữa đô la sáng nhoáng...phấn khởi...nhiều tiền quá thế này ! ...rồi giọng bà nhẹ và âu yếm, “ Ginger chết rồi...”
Ông nhìn xuống chất nước men đắng, bốc hơi nghi ngút trong chiếc tách và cảm thấy đôi tay ông trống vắng cả niềm an ủi lẫn sự chữa lành.
“ ...đồ con hoang sùng tín kia !”
Con quỷ đó. Vẫn điên cuồng giận hoảng.
“ Con chó của cháu cần phải chính thuốc ngay...”
Ông vội quay về phòng Regan. Đến nơi, ông giữ cô bé cho Sharon chích Librium, nâng liều lượng tổng cộng lên đến 500 miligam.
Sharon xoa cồn vào vết chích trong lúc Karras nhìn Regan bối rối. Những lời tục tĩu cuồng dại kia dường như không nhằm vào ai trong phòng, mà là vào một người nào đó vô hình hoặc không hiện diện.
Ông gạt bỏ ý nghĩ đó qua một bên. “ Tôi sẽ quay lại,” ông bảo Sharon.
Lo âu về Chris, ông xuống bếp, ở đó ông lại gặp nàng đang ngồi một mình nơi bàn. Nàng đang rót rượu mạnh vào cà phê. “ Cha có chắc là cha không muốn dùng chút đỉnh không, thưa cha ?” nàng hỏi.
Lắc đầu, ông bước đến bên bàn, mệt mỏi ngồi xuống. Ông nhìn đăm đăm sàn nhà. Nghe những tiếng lách cách của muỗng quấy cà phê chạm vào tách sứ. “ Bà đã thảo luận với bố cô bé chưa ?” ông hỏi.
“ Có. Có, anh ấy đã gọi tới.” Một lúc ngập ngừng. “ Anh ta muốn nói chuyện với Rags.”
“ Và bà đã bảo ông ấy những gì ?”
Một lúc ngập ngừng. Rồi thì, “ Tôi đã bảo anh ta là con bé đi dự tiệc rồi.”
Yên lặng. Karras không nghe thấy những tiếng lách cách nữa. Ông ngước lên, thấy nàng đang nhìn đăm đăm trên trần nhà. Thế rồi chính ông cũng nhận thấy điều đó, những tiếng la hét trên lầu rốt cuộc đã chấm dứt.
“ Tôi nghĩ là thuốc Librium đã ngấm.” Ông nói đầy vẻ biết ơn.
Tiếng chuông cửa ngân vang. Ông liếc về phía âm thanh đó, rồi về phía Chris, nàng bắt gặp tia nhìn đầy ức đoán của ông với một nét nhướng mày âu lo, han hỏi.
Kinderman chăng ?
Những giây trôi qua. Tic-tac. Hai người chờ đợi. Willie đã ngủ yên. Sharon và Karl vẫn ở trên lầu. Không ai ra mở cửa. Căng thẳng. Chris đứng bật dậy khỏi bàn, đi ra phòng khách. Quỳ gối trên một trường kỷ, nàng khẽ hé màn len lén nhìn vị khách qua cửa sổ. Không phải Kinderman. Thay vào đó, nàng trông thấy một ông già cao lớn trong chiếc áo mưa cũ sờn, đầu ông lão cuối xuống một cách nhẫn nại trong màn mưa. Ông xách một chiếc va li cổ lỗ sĩ, cũ mèm. Trong một thoáng, một chiếc móc khóa ngời lên dưới ánh đèn đường lúc chiếc va li khẽ chao đảo trong tay ông.
Tiếng chuông cửa lại ngân vang.
Ai thế nhỉ ?
Bối rối, Chris tụt xuống trường kỷ, đi ra hành lang. Nàng mở hé cửa, nheo mắt nhìn ra ngoài trời tối lúc một cơn mưa bụi lất phát rơi trên mặt nàng. Vành mũ che khuất mặt ông khách. “ Vâng, chào ông. Tôi gíúp gì được ông đây ạ !”
“ Bà MacNeil ?” Một giọng nói cất lên từ bóng tối. Giọng nói dịu dàng, lịch sự, nhưng đầy ấm áp như mùa gặt.
Lúc ông đưa tay lên giở mũ thì Chris đang cúi đầu, thế rồi đột nhiên nàng nhìn vào đôi mắt ấy, đôi mắt tràn ngập chan chứa cả người nàng, đôi mắt sáng ngời trí tuệ và niềm cảm thông ân cần; với một vẻ thanh thoát, từ đôi mắt ấy nó rót vào người nàng giống như nguồn nước của một con sông chữa lành và ấm áp.
“ Tôi là cha Merrin.”
Trong một thoáng, nàng lộ vẻ lúng túng lúc nàng ngắm khuôn mặt khổ hạnh gầy guộc ấy, ngắm đôi lưỡng quyền như được đẻo tạc, bóng láng như đá xà phòng, thế rồi nàng nhanh chóng mở toang cửa. “ Ôi Chúa! Xin mời vào ! Ôi, xin mời vào. Chà, tôi thật... Thú thật, tôi cũng không biết trí khôn tôi để đâu.”
Ông bước vào và nàng đóng cửa lại.
“ Ý tôi muốn nói là tôi ngỡ đến mai cha mới đến cơ !”
“ Vâng, tôi biết,” nàng nghe ông nói thế.
Lúc nàng quay lại đối diện với ông, nàng thấy ông đang đứng mà đầu nghiêng ngó, liếc lên phía trên như thể ông đang lắng nghe – không phải, đang cảm nhận thì đúng hơn, nàng nghĩ thế - về một sự hiện diện nào đó ngoài tầm mắt... một sự rung động xa vời nào đó đã quen và đã biết. Bối rối, nàng nhìn ông. Làn da ông như dãi dầu nhiều với nắng gió của đường xa xứ lạ, bởi một vầng mặt trời chiếu sáng ở một nơi khác, một nơi tít tắp xa cách thời gian và không gian nàng sống.
Ông ta đang làm gì nhỉ ?
“ Để tôi đỡ chiếc va li cho cha. Bây giờ chắc nó phải nặng hàng tấn.”
“ Không sao,” ông khẽ nói. Vẫn cảm nhận. Vẫn thăm dò. “ Nó giống như một phần cánh tay của tôi rồi, rất già cũ... rất tả tơi.” Ông nhìn xuống với một nụ cười mỏi mệt nồng nàn trong ánh mắt. “ Tôi đã quen với gánh nặng... Cha Karras có ở đây không ?” Ông hỏi.
“ Vâng, có ạ. Cha ấy ở trong bếp. À, mà cha đã dùng bữa tối chưa, thưa cha ?”
Ông bắn tia nhìn lên lúc có tiếng cửa mở. “ Rồi, tôi đã dùng bữa trên tàu hỏa.”
“ Cha chắc là minh không muốn dùng thêm chút gì khác chứ ạ “
Một khoảng khắc. Rồi có tiếng cửa đóng. Ông nhìn xuống. “ Không, cám ơn bà.”
“ Chà, mưa gì mà mưa mãi,” nàng phản đối, vẫn còn bối rối. “ Giá biết cha đến, tôi đã ra ga đón rồi.”
“ Không sao.”
“ Cha có phải đợi tắc xi lâu không ?”
“ Vài phút thôi.”
“ Để tôi đỡ nó, thưa cha.”
Đó là Karl. Anh đã xuống thang lầu rõ nhanh, đỡ chiếc va li từ tay vị linh mục và xách nó xuống hành lang.
Vị linh mục Dòng Tên thong thả tiến tới quên cả Karl, quên cả Chris đang há hốc mồm vì kinh ngạc, cả Karras đang từ bếp bối rối lộ diện trong khi những tiếng nện ầm vang và những tiếng ồm ồm như ác mộng vẫn tiếp tục. Ông bình thản bước lên cầu thang, bàn tay mảnh khảnh giống như thạch cao lướt lên thành cầu thang.
Karras trờ tới bên Chris, cả hai cùng đứng dưới nhìn lên lúc Merrin bước vào phòng Regan và đóng cánh cửa lại phía sau lưng. Trong một lúc, hoàn toàn yên lặng. Thế rồi con quỷ bỗng phá lên cười gớm ghiếc và Merrin bước ra. Ông đóng cửa lại và bắt đầu đi xuống hành lang. Phía sau ông, cánh cửa phòng ngủ lại mở và Sharon nhô đầu ra, nhìn sững theo ông, nét mặt cô trông thật kỳ lạ.
Vị linh mục Dòng Tên thoăn thoắt bước xuống cầu thang, đưa tay ra cho Karras đang chờ đợi.
“ Cha Karras.”
“ Chào cha.”
Merrin cầm tay vị linh mục kia trong hai bàn tay ông, vừa siết chặt vừa dò xét khuôn mặt Karras với vẻ nghiêm trang và lo lắng trong lúc trên lầu tiếng cười đã biến thành những lời tục tĩu xấu xa nhắm vào Merrin. “ Trông cha quá đỗi mệt mỏi,” ông nói. “ Cha có mệt không ?”
“ Không hề. Sao cha lại hỏi vậy ?”
“ Cha có đem theo áo mưa đấy không ?”
Karras lắc đầu nói. “ Không ạ.”
“ Thế thì lấy áo mưa của tôi đây.” Vị linh mục tóc hoa râm nói, vứa cởi cúc áo. “ Damien, tôi muốn cha trở về cư xá soạn cho tôi một áo chùng, hai áo lễ ngắn, một khăn choàng cổ tím, ít nước thánh và hai bổn sách Lễ Nghi La Mã,” ông trao áo mưa cho Karras lúc đó đang bối rối. “ Tôi tin là ta cần khởi sự ngay.”
Karras cau mày. “ Cha muốn nói là bây giờ ư ? Ngay lúc này ư ?”
“ Phải, tôi nghĩ vậy.”
“ Thế cha không muốn nghe lai lịch về vụ này trước hay sao, thưa cha ?”
“ Tại sao ?”
Chân mày Merrin nhíu lại trong dáng điệu hết sức nghiêm chỉnh.
Karras nhận ra rằng ông không trả lời được. Ông tránh nhìn vào đôi mắt đang làm ông lúng túng kia. “ Vâng.” Ông đáp. Ông mặc áo mưa vào và quay đi. “ Tôi sẽ đi lấy các thứ.”
Karl lao nhanh qua phòng, vượt lên trước Karras và mở cửa cho ông. Hai người trao đổi cho nhau những cái nhìn ngắn ngủi, rồi Karras bước ra ngoài đêm mưa. Merrin nhìn trở lại Chris. “ Bà không phiền nếu chúng ta bắt đầu ngay chứ ?” Ông khẽ hỏi.
Nàng nhìn ông, ngời lên vẻ nhẹ nhỏm trước cái cảm giác về sự quả quyết, về quyền uy và ban lệnh, đang tuôn ào ạt, tràn vào như một tiếng reo hò giữa thanh thiên bạch nhật. “ Không, tôi rất lấy làm sung sướng,” nàng nói với niềm biết ơn. “ Mặc dù như thế thì hẳn cha phải mệt nhọc lắm, thưa cha.”
Ông thấy tia nhìn lo âu của nàng thoắt nhướng về phía cơn thịnh nộ của quỷ.
“ Cha dùng một tách cà phê nhé ?” Nàng mời. “ Cà phê mới pha xong.” Giọng nàng cố nài. Thoáng chút khẩn khoản. “ Nóng hổi. Cha dùng một chút chứ, thưa cha ?”
Ông trông thấy đôi bàn tay nàng khẽ chắp, rồi lại buông, đôi mắt nàng như hai chiếc hang sâu hoắm. “ Vâng, xin bà,” ông ân cần nói. “ Cám ơn bà.” Một cái gì đó nặng trĩu đã được gạt khẽ qua một bên, đã được bảo hãy chờ đó đã. “ Nếu bà chắc là không có gì phiền.”
Nàng đưa ông đến nhà bếp và ngay sau đó, ông đã dựa vào lò bếp với một ca cà phê trên tay.
“ Cha dùng chút rượu mạnh với cà phê không, thưa cha ?” Chris chìa chai rượu ra.
Ông cúi đầu nhìn xuống ca cà phê không chút biểu lộ gì. “ Chà, bác sĩ bảo tôi không được dùng rượu,” ông nói. Thế rồi ông đưa chiếc ca ra. “ Nhưng tạ ơn Chúa, ý chí tôi yếu đuối lắm.”
Chris ngập ngừng một lúc, do dự, rồi trông thấy nụ cười trong ánh mắt ông lúc ông ngước đầu lên. Nàng rót rượu.
“ Bà có một cái tên thật là khả ái,” ông bảo nàng. “ Chris MacNeil. Đó không phải là một cái tên sân khấu đấy chứ ?”
Chris nhỏ từng giọt rượu mạnh vào cà phê của nàng và lắc đầu. “ Không ạ. Thực sự tôi không phải là Esmerelda Glutz.”
“ Tạ ơn Chúa về điều đó,” Merrin lầm thầm.
Chris mỉm cười và ngồi xuống. “ Thế còn Lankester là gì, thưa cha? Cái tên nghe rất lạ lùng. Có phải cha được đặt theo tên một người nào đó không ?’
“ Theo tên một con tàu chở hàng.” Ông thì thầm lúc ông nhìn thẩn thờ và đưa cà phê lên môi. Ông nhấp nháp. “ Hay một chiếc cầu. Phải tôi nghĩ đó là một chiếc cầu.” Ông có vẻ phiền muộn. “ Bây giờ đến cái tên Damien, tôi ao ước có được một cái tên giống như Damien biết mấy. Thât vô cùng khả ái.”
“ Nó xuất phát từ đâu vậy, thưa cha ? Cái tên ấy ?”
“ Damien ấy à?” Ông nhìn xuống chiếc ca của mình. “ Đó là tên một vị linh mục đã dâng hiến trọn đời mình để săn sóc những kẻ bị phong cùi trên đảo Molokai. Bản thân ông ta rốt cuộc cũng bị nhiễm bệnh ấy.” Ông ngập ngừng nói. “ Một cái tên đáng yêu. Tôi tin rằng với một cái tên như Damien, tôi sẳn sàng hài lòng với ngay cả cái họ là Glutz.”
Chris cười khúc khích. Nàng cảm thấy bớt căng thẳng. Cảm thấy dễ chịu hơn. Và trong nhiều phút, nàng và Merrin nói toàn những chuyện trong nhà vặt vãnh. Cuối cùng, Sharon xuất hiện trong bếp, mãi lúc đó Merrin mới dợm đi. Cứ như thể ông đã mãi chờ đợi cô gái đến, vì ngay tức khắc ông mang ca cà phê ra bồn, rửa sạch sẽ rồi úp nó cẩn thận vào giá để chén bát. “ Cà phê rất ngon, đúng là thứ tôi cần,” ông bảo.
Chris đứng dậy nói. “ Tôi sẽ đưa cha đến phòng riêng.”
Ông cám ơn nàng rồi theo nàng đến cửa văn phòng. “ Nếu cha có cần điều gì, thưa cha,” nàng bảo, “ xin cha cứ cho tôi biết.”
Ông đặt tay lên vai nàng siết chặt, đầy khích lệ. Chris cảm thấy một nguồn sức lực và sự ấm áp tuôn chảy vào người nàng. Sự bình an. Nàng cảm thấy bình an. Và một cảm giác kì lạ như sự ...an toàn ? Nàng tự hỏi.
“ Bà thật hết sức ân cần.” Đôi mắt ông mỉm cười. “ Cám ơn bà.”
Ông rút tay về và nhìn nàng bước đi. Ngay lúc nàng đi khuất, một cơn đau căng nhói như xoắn lấy khuôn mặt ông. Ông vào văn phòng và đóng cửa lại. Ông rút túi quần lấy ra một hộp thiếc nhỏ in nhãn hiệu Bayer Aspirin, mở nắp, trút ra một viên nitroglycerin, và cẩn thận đặt viên thuốc dưới lưỡi.
Chris bước vào bếp. Ngừng tại cửa, nàng nhìn Sharon lúc đó đang đứng bên bếp lò, lòng bàn tay tựa trên chiếc bình lọc cà phê chờ cà phê nóng trở lại.
Chris trờ tới bên cô gái, đầy vẻ quan tâm. “ Này cưng,” nàng nhỏ nhẹ bảo, “ sao em không đi nghĩ một lát đi ?”
Không trả lời, Sharon có vẻ trầm tưởng. Rồi cô gái quay lại nhìn Chris, thẩn thờ. “ Xin lỗi. Chị vừa nói gì phải không ?”
Chris nhìn kỹ nét căng thẳng trên khuôn mặt cô gái, cái vẻ xa vắng ấy. “ Chuyện gì xảy ra trên đó vậy hở Sharon ?” nàng hỏi.
“ Xảy ra ở đâu ?”
“ Lúc cha Merrin bước vào phòng trên lầu ấy.”
“ À, vâng...” Sharon cau mày. Cô đảo tia nhìn xa vắng về một không gian giữa nỗi nghi ngờ và sự hồi tưởng. “ Vâng. Ngộ thật đấy.”
“ Ngộ à ?’
“ Lạ lắm. Họ mới chỉ...” Cô gái ngập ngừng. “ Vâng, họ mới chỉ nhìn nhau có một lúc, thế mà Regan - cái vật ấy – nó nói là...”
“ Nói gì ?”
“ Nó nói : Lần này thì mi thua đến nơi rồi.”
Chris nhìn chăm cô gái, đợi chờ. “ Rồi sao nữa ?”
“ Thì thế đó.” Sharon đáp. “ Cha Merrin quay lại và bước ra khỏi phòng.”
“ Lúc đó trông ông ta ra sao ?” Chris hỏi cô gái.
“ Ngộ lắm.”
“ Ôi, lạy Chúa, Sharon, cô nghĩ giùm cho một tiếng nào khác đi !” Chris đốp chát và định nói điều gì nữa thì kịp nàng nhận thấy Sharon nghiêng ngó đầu về một bên, như thể lắng nghe điều gì.
Chris nhìn lên và nàng cũng nghe thấy điều đó nữa: sự yên lặng, sự chấm dứt bất thần cơn giận hoảng của quỷ, vậy mà có một điều gì đó nữa...một cái gì đó...đang dâng lên.
Hai người phụ nữ liếc nhìn nhau.
“ Chị cũng cảm thấy điều ấy chứ ?” Sharon khẽ hỏi.
Chris gật đầu. Ngôi nhà. Một cái gì đó trong ngôi nhà. Một nỗi căng thẳng. Không khí càng lúc càng đặc quánh lại. Một vẻ giần giật, giống như những năng lượng dần dần tích tụ lại.
Tiếng chuông cửa ngân vang những âm thanh như không thật.
Sharon quay lưng. “ Để cho em.”
Cô gái bước ra hành lang và mở cửa. Karras. Ông mang một chiếc hộp các tông đựng quần áo đã giặt ủi. “ Cám ơn cô, Sharon.”
Karras đi nhanh đến văn phòng, khẻ gõ cửa rồi cầm hộp bước vào. “ Xin lỗi cha,” ông nói. “ Tôi có hơi...”
Karras ngừng ngang. Merrin mặc áo thun quần tây, đang quỳ gối cầu nguyện bên giường, trán ông cúi thấp trên đôi tay chắp chặt. Karras đứng mọc rễ một lúc, cứ như thể ông đang tình cờ rẽ quanh một góc phố thì chợt bắt gặp lại chính mình thời thơ ấu với chiếc áo chùng của thằng bé giúp lễ phủ trên một cánh tay, đang tất tả đi ngang qua mà không hề có một cái nhìn tỏ ra nhận biết nhau.
Karras đảo tia nhìn sang chiếc hộp quần áo mở ngỏ, sang những vết mưa lấm tấm trên lớp hồ cứng. Thế rồi thong thả, tia nhìn vẫn đảo sang phía khác, ông di chuyển đến trường kỷ và xếp các thứ trong hộp ra, không một tiếng động. Xong xuôi, ông cởi áo mưa, vắt cẩn thận lên một chiếc ghế. Lúc nhìn trở lại hướng Merrin, ông thấy vị linh mục đang làm dấu thánh giá. Ông vội quay đi chỗ khác, với xuống lấy chiếc áo lễ vải trắng cở lớn hơn. Ông bắt đầu mặc áo lễ lên trên áo chùng. Ông nghe tiếng Merrin đứng dậy, rồi, “ Cảm ơn cha, Damien.” Karras quay lại đối diện ông, tay kéo chiếc áo lễ xuống trong lúc Merrin trờ tới trước trường kỷ, mắt ông khẽ lướt trên các thứ đặt trên đó.
Karras với lấy một áo len. “ Tôi nghĩ cha có thể mặc chiếc áo len này bên dưới áo chùng, thưa cha.” Ông bảo Merrin lúc trao chiếc áo. “ Căn phòng ấy lắm lúc lạnh lắm.”
Merrin khẽ rờ chiếc áo len bằng cả hai tay. “ Cha thật rất chu đáo, Damien ạ.”
Karras nhặt chiếc áo chùng của Merrin ở trường kỷ lên, nhìn vị linh mục chui đầu qua chiếc áo len và chỉ lúc đó, vẻ rất bất ưng, lúc nhìn cái động tác dung tục, thân thuộc này, Karras mới cảm nhận được tác động mạnh mẽ vô biên của con người đó, của giây phút đó, của vẻ tĩnh mịch trong ngôi nhà đó đã đè bẹp ông xuống, đã khiến ông ngạt thở.
Ông tỉnh người lại với cảm giác chiếc áo chùng bị giật khỏi đôi tay ông. Merrin. Ông ta đang vội mặc chiếc áo chùng lên người. “ Cha đã quen với những quy tắc của lễ đuổi quỷ rồi chứ, Damien ?”
“ Vâng, tôi đã quen.” Karras trả lời.
Merrin bắt đầu cài nút áo chùng. “ Đặc biệt quan trọng là lời cảnh cáo phải tránh nói chuyện với quỷ...”
“ Quỷ !” Ông ta nói tiếng đó thật hết sức là đương nhiên, Karras nghĩ. Điều đó làm ông gai hết cả người.
“ Chúng ta có thể hỏi điều gì thích hợp,” Merrin nói, lúc ông cài nút cổ áo chùng. “ Nhưng bất cứ điều gì vướt quá phạm vi đó đều nguy hiểm. Cực kỳ.” Ông đỡ lấy chiếc áo lễ trên tay Karras rồi mặc nó lên trên áo chùng. “ Đặc biệt là không được nghe bất cứ điều gì nó nói. Quỷ là dối trá. Nó sẽ nói dối để khuấy rối tâm trí ta, nhưng nó cũng pha trộn những điều dối trá chung với sự thật để tấn công chúng ta. Sự tấn công đó mang tính chất tâm lý, Damien ạ. Và mạnh mẽ. Chớ nghe. Hãy nhớ điều đó. Chớ có nghe.”
Lúc Karras trao cho ông chiếc khăn choàng, nhà đuổi quỷ nói thêm. “ Cha có bất cứ điều gì muốn hỏi bây giờ không, Damien ?”
Karras lắc đầu. “ Không. Nhưng tôi nghĩ có thể giúp ích nếu tôi trình bày với cha đôi nét về lai lịch của các bản ngã mà Regan đã biểu lộ. Cho đến nay, dường như có đến ba bản ngã.”
“ Chỉ có một mà thôi.” Merrin khẽ nói, khoác chiếc khăn choàng quanh vai. Trong một thoáng, ông cứ ghì chặt dải khăn, đứng bất động, lúc một vẻ ám ảnh xuất hiện nơi mắt ông. Rồi ông với lấy mấy bổn Nghi Lễ La Mã và trao một bổn cho Karras. “ Chúng ta sẽ bỏ qua đoạn kinh Cầu Các Thánh. Cha có nước thánh chứ ?”
Karras rút trong túi ra lọ nước thánh gọn, nhỏ, đậy bằng nút bấc. Merrin cầm lấy lọ nước, rồi gật đầu cách thanh thản về phía cửa. “ Xin cha dẫn đường cho, Damien.”
Trên lầu, cạnh cửa phòng Regan, Sharon và Chris đứng căng thẳng, chờ đợi. Hai người bó mình trong chiếc áo len và áo vét dày cộm. Lúc nghe tiếng cửa mở ra, họ quay lại nhìn xuống dưới, trông thấy Karras và Merrin đang đi xuôi hành lang đến chân cầu thang trong cung cách một đám rước long trọng. Cao, họ thật là cao, Chris nghĩ. Và Karras: cái gương mặt đen đúa như đá tạc ấy ở bên trên màu trắng của chiếc khăn choàng vai của cậu bé giúp lễ hồn nhiên vô tội ấy. Nhìn họ đều bước trèo lên cầu thang, Chris cảm thấy xúc động sâu sắc, lạ lùng. Đây, người anh lớn của ta đang đến để đánh vở óc mi ra đây, đứa quấy rầy ạ ! Đó là một cảm tưởng, nàng nghĩ, rất giống như thế. Nàng cảm thấy được tim mình khởi sự đập nhanh hơn.
Tại cửa phòng, hai vị linh mục Dòng Tên dừng lại. Karras cau mày nhìn áo len và áo vét Chris mặc. “ Bà định vào sao ?”
“ Vâng, tôi thực tâm nghĩ là tôi cần phải vào.”
“ Xin đừng vào,” ông thuyết phục nàng. “ Đừng. Bà sẽ phạm một sai lầm lớn đấy.”
Chris quay lại Merrin, ánh mắt han hỏi.
“ Cha Karras biết rõ hơn ai hết.” Nhà đuổi quỷ khẽ bảo.
Chris lại nhìn Karras. Nàng gục đầu. “ Thôi được,” nàng chán nản nói. Nàng dựa người vào tường. “ Tôi sẽ đợi ngoài này.”
“ Tên lót của con gái bà là gì ?” Merrin hỏi.
“ Teresa.”
“ Một cái tên thật khả ái,” Merrin nồng nhiệt nói. Ông nhìn trả nàng hồi lâu vẻ khích lệ. Rồi ông nhìn cánh cửa, và một lần nữa, Chris lại cảm thấy điều đó, sự căng thẳng đó, sự cô đặc lại của cõi đen tối cuộn khúc đó. Ở trong đó. Trong cái phòng ngủ đó. Bên kia cánh cửa đó. Karras cũng cảm thấy điều đó, nàng nhận thấy, và Sharon nữa...
Merrin gật đầu. “ Được rồi,” ông khẽ nói.
Karras mở cửa và suýt dội bật lại vì cái mùi xú uế và cái lạnh băng giá phả vào người.. Trong một góc phòng, Karl ngồi thu lu trên một cái ghế. Anh ta mặc một chiếc áo vét đi săn màu xanh ô liu đã bạc màu và quay về Karras, vẻ mong ngóng. Vị linh mục liền ném tia nhìn về phía con quỷ trên giường. Đôi mắt lập lòe của nó nhìn trừng trừng qua người ông về phía hành lang. Đôi mắt đó dán lấy Merrin.
Karras di chuyển đến chân giường, còn Merrin cao và lừng lững, thong thả bước sang cạnh giường. Đến đó ông dừng lại và nhìn xuống cõi thù ghét kia.
Một sự tĩnh lặng ngột ngạt bủa vây căn phòng. Rồi Regan lia chiếc lưỡi đen kịt như lưỡi chó sói liếm ngang đôi môi sưng vếu, nứt nẻ của mình. Nó phát ra âm thanh như tiếng một bàn tay vuốt trên tờ giấy bằng da nhúm nhó. “ Hừ, đồ cặn bã kiêu căng !” Con quỷ giọng ồm ồm . “ Rốt cuộc ! Rốt cuộc mi đã đến !”
Vị linh mục cao niên đưa tay lên làm dấu thánh giá trên giường, rồi lặp lại cử chỉ đó về khắp phía trong phòng. Quay trở lại, ông rút nút lọ nước thánh.
“ À, phải rồi ! Nước đái thánh đây rồi !” Con quỷ giọng rin rít. “ Tinh khí của các thánh đây !”
Merrin đưa chai nước thánh lên và mặt con quỷ trở nên xám xịt, nhăn nhúm. “ À, mày dám hả, thằng con hoang kia ?” Nó sôi sục lên với ông. “ Mày dám hả ?”
Merrin bắt đầu vẩy nước thánh.
Con quỷ giật phắt đầu lên, những cơ bắp ở cổ và miệng run lên vì giận hoảng. “ Phải, rảy đi ! Rảy đi! Merrin ! Làm ướt chúng tao đi ! Nhận chìm chúng tao dưới mồ hôi của mày đi ! Mồ hôi của mày được thánh hóa rồi mà ! Thánh Merrin ! Hãy khom người xuống và phơi cái mông đít thánh khiết ấy ra cho chúng tao tôn thờ, sùng bái đi chứ ! Cho chúng tao hôn nó ! Liếm nó, cái...”
“ Im mồm !”
Mấy tiếng ấy ném ra như sấm sét. Karras co rúm người lại, hất đầu ra sau bàng hoàng nhìn Merrin, vị linh mục cao niên lúc ấy nhìn trừng trừng Regan, đầy vẻ truyền khiển. Con quỷ yên lặng. Nhìn trả lại ông. Có điều đôi mắt nó lúc đó đầy do dự. Chớp chớp. Cảnh giác.
Merrin đậy nút lọ nước thánh lại cách chiếu lệ rồi trao nó lại cho Karras. Nhà tâm thần học bỏ lọ nước vào túi và nhìn Merrin quỳ gối xuống bên cạnh giường, nhắm mắt lại, thì thầm cầu nguyện. “ Lạy cha chúng tôi...” ông ta bắt đầu.
Regan khạc ngay vào mặt Merrin một bãi đờm vàng khè nhầy nhụa. Bãi đờm từ từ nhỉ xuống trên má người đuổi quỷ.
“... Nước cha trị đến...” Đầu vẫn cuối, Merrin tiếp tục bài cầu nguyện, không hề gián đoạn, trong lúc tay ông rút túi ra một chiếc khăn tay và thong thả lau lớp đờm dãi. “... Xin chớ để chúng tôi sa chước cám dỗ. ” Ông dịu dàng kết thúc.
“ Bèn cứu chúng tôi cho khỏi sự dữ,” Karras đáp.
Ông thoáng nhìn lên. Đôi mắt Regan trợn ngược hẳn vào hai hốc mắt, chỉ còn trơ lại mỗi tròng trằng. Karras cảm thấy bất an. Cảm thấy một cái gì đó trong phòng đang đông đặc lại. Ông trở lại với sách lễ để theo dõi lời cầu nguyện của Merrin.
“ Lạy Thiên Chúa là cha của Chúa Giê su Kitô Chúa chúng tôi, tôi kêu cầu danh thánh ngài, xin ân ban cho chúng tôi sự cứu giúp để địch lại loài tà linh đang hành hạ một vật thọ tạo của ngài lúc này đây, nhờ Đức Kitô Chúa chúng tôi.”
“ Amen,” Karras họa lại.
Lúc đó, Merrin đứng lên và thành kính cầu nguyện. “ Lạy Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa và kẻ che chở loài người, xin hãy đoái thương đến kẻ tôi tớ của ngài đây là Regan Teresa MacNeil, hiện đang bị hãm trong vòng vây của kẻ thù xưa của con người, kẻ địch truyền kiếp của chúng tôi, kẻ...”
Karras liếc nhìn lên lúc ông nghe tiếng Regan rít như rắn, trông thấy cô bé ngồi thẳng đơ với đôi tròng mắt lồ lộ, còn lưỡi cô bé thì cứ thậm thụt nhoang nhoáng, đầu thì lắc lư tới lui như một con rắn hổ mang.
Lại một lần nữa, Karras cảm thấy bất ổn. Ông nhìn trở lại sách lễ.
“ Xin hãy cứu vớt kẻ tôi tớ ngài,” Merrin kêu cầu, ông vẫn đứng và đọc sách lễ.
“ Là kẻ tin đến ngài, hỡi Thiên Chúa,” Karras họa.
“ Xin hãy giúp cháu bé tìm thấy nơi ngài một tháp lũy vững bền.”
“ Trước mặt kẻ thù.”
Lúc Merrin xướng tiếp dòng kế đó, Karras nghe thấy tiếng thở hổn hển của Sharon sau lưng ông, ông liền quay lại và thấy cô gái đang nhìn sững sờ về phía giường. Bối rối quá, ông nhìn trở lại. Và lập tức điếng hẳn người như bị điện giật. Phía đầu giường đang bay bổng lên khỏi sàn nhà..?
Ông cứ nhìn trừng trừng mà không sao tin nổi. Một tấc. Một tấc rưỡi. Ba tấc. Tiếp đến hai chân giường phía sau cũng bắt đầu dâng lên
“ Gott in Himmel !” Karl khẽ thốt lên vì sơ hãi. Nhưng Karras không nghe thấy anh ta hay nhìn thấy anh ta làm dấu thánh giá lúc phía chân giường nâng cao lên ngang tầm đầu giường. Không thể xảy ra như thế được ! Ông nghĩ, lúc ông chứng kiến đến chết trân cả người.
Chiếc giường dâng cao lên ba tấc nữa rối lượn lờ ở đó, bập bềnh và chao đảo khe khẽ như đang trôi nổi trên một hồ nước tù hãm.
“ Cha Karras ?”
Regan cứ bồng bềnh. Rít siên siết như rắn.
“ Cha Karras ?”
Karras quay lại. Nhà đuổi quỷ đang thanh thản nhìn ông, lúc này hất đầu về phía bổn sách lễ trên tay Karras. “ Xin đọc lới đáp cho, Damien ạ.”
Karras lộ vẻ lúng túng và không hiểu. Sharon bỏ chạy khỏi phòng.
“ Xin chớ để kẻ thù áp đặt chút quyền năng nào trên cháu bé, “ Merrin khẽ lập lại.
Vôi vã, Karras nhìn lại nội dung sách lễ và với một con tim đập bồi hồi, ông lắp bắp câu đáp : “ Và đứa con của tội lỗi không có quyền làm hại gì được cháu.”
“ Ôi Chúa, xin hãy nghe lời khẩn nguyện tôi,” Merrin tiếp tục.
“ Và hãy để cho tiếng kêu cầu tôi thấu đến bên Người.”
“ Cầu Chúa ở cùng cháu.”
“ Và ở cùng linh hồn cháu.” Merrin bắt đầu một bài cầu nguyện dài hơi, còn Karras lại đảo tia nhìn trở lại chiếc giường, trở lại với những niềm trông cậy về Thiên Chúa của ông và sự lượn lờ siêu nhiên đang ở trên không kia. Một nỗi phấn chấn run rẩy khắp người ông. Đó ! Ngay đó đó ! Ngay trước mắt ta đó ! Đó kìa ! Ông chợt nhìn ra sau, lúc nghe tiếng cửa mở. Sharon tuồn vào cùng Chris, người phụ nữ này đứng sững lại, không tin nổi, mồm há hốc: “ Ôi, Giê su Kitô !”
“ Lạy cha toàn năng, Thiên Chúa hằng sống…”
Nhà đuổi quỷ đưa tay lên trong một cử chỉ thường nhật và thong thả vạch dấu thánh giá ba lần trên chân mày Regan, miệng vẫn không ngừng đọc lời nguyện trong sách lễ, “ Là Đấng đã sai con độc sanh của ngài xuống thế gian để đập nát loài sư tử rống kia…”
Tiếng rít ngưng bặt và từ khuôn miệng căng thành hình chữ O của Regan phát ra tiếng rống nhức óc của loài bò tơ.
“ …rứt khỏi sự tàn hại và khỏi nanh vuốt của loài quỷ dữ giữa ban trưa con người được tạo dựng theo hình ảnh ngài đây, và…”
Tiếng rống càng to hơn, xé rách cả thịt da, làm bủn rủn cả xương cốt.
“ Lạy Thiên Chúa là Đấng Sáng tạo muôn loài…” Merrin đưa tay lên theo thông lệ và ấn một mảng khăn choàng vai lên cổ Regan, trong lúc vẫn cứ cầu nguyện. “…bởi quyền năng ngài, xa tăng đã bị ném từ trời xuống như một tia chớp, xin hãy giáng sự sợ hãi xuống loài mãnh thú đang phá hoại vườn nho của ngài…”
Tiếng rống thét ngừng bặt. Một nỗi yên lặng ngân vang. Thế rồi một cơn nôn mửa đặc sệt, hôi thối từ miệng Regan phọt ra từng đợt đều đặn, nó ứa xuống bờ môi cô bé như những đợt dung nham rồi trôi như những cuộn sóng xuống tay Merrin. Nhưng ông vẫn không hề lay động bàn tay. “ Xin bàn tay quyền năng của ngài hãy đuổi loài quỷ dữ này ra khỏi Regan Teresa MacNeil, kẻ…” Karras lơ mơ nhận biết có một cánh cửa được mở ra, nhận biết Chris đang lao ra khỏi phòng.
“ Xin hãy xua đuổi kẻ hành hạ đứa trẻ vô tội…”
Chiếc giường bắt đầu lắc lư khe khẽ rồi đứng yên, bất thần, nó hạ xuống một cách mãnh liệt và bay chệch đường, với trớn nôn mửa vẫn ọc ra từ miệng Regan. Merrin bình tĩnh điều chỉnh lại các thứ và ấn chặt khăn choàng lên cổ cô bé.
“ Xin ban cho các kẻ tôi tớ ngài đầy lòng can đảm để dũng cảm đương cự lại con rồng bị đầy xuống âm phủ kia, kẻo nó xem khinh những kẻ đã đặt lòng tin cậy nơi ngài và…”
Thình lình, các chuyển động giảm bớt và lúc Karras nhìn như bị thôi miên, chiếc giường trôi dạt như một chiếc lông hồng, rất từ từ, xuống sàn nhà, rồi an vị trên thảm với một tiếng “thịch” nhè nhẹ.
“ Hỡi Chúa, xin ban ân cho…”
Tê cóng cả người, Karras đảo tia nhìn sang phía khác. Bàn tay của Merrin. Ông không còn thấy được bàn tay của vị linh mục cao niên ấy nữa. Nó đã bị chôn lấp dưới lớp nôn mửa đùn đống, bốc khói.
“ Damien ?”
Karras ngước lên.
“ Hỡi Chúa, xin hãy nghe lời cầu nguyện tôi,” nhà đuổi quỷ khẽ xướng.
Thong thả, Karras quay trở lại phía giường. “ Và hãy để cho tiếng kêu cầu tôi thấu đến ngài !”
Merrin vén chiếc khăn choàng lên, khẽ bước tới trước, rồi ông làm rung chuyển cả phòng với giọng nói bắn ra như một lằn roi, phán truyền : “ Hỡi tà linh kia, ta đuổi ngươi ra cùng với mọi quyền năng ma quỷ của kẻ thù ! Cùng với mọi thứ tà ma ở địa ngục ! Cùng với mọi đồng bọn hung dữ của ngươi !” Bên cạnh ông, bàn tay của Merrin vẫn nhỏ những nhão nhớt nôn mửa xuống thảm trải. “ Chính Chúa Kitô là Đấng ra lệnh cho ngươi, là Đấng đã từng khiến gió, biển và dông tố phải lặng đi ! Đấng đã…”
Regan thôi mửa. Ngồi lặng yên. Bất động. Đôi tròng mắt long lên vẻ ác độc mà nhìn Merrin. Từ chân giường, Karras nhìn cô gái chằm chặp lúc cơn sốc và nỗi xúc động trong ông bắt đầu dịu đi, lúc tâm trí ông bắt đầu nôn nóng mà đập, mà chọc những ngón tay của nó, một cách thúc bách, một cách tự ý, vào tận những ngóc ngách của mỗi nghi ngờ thuần lý : lũ yêu tinh quấy phá, hành động thần kích, những căng thẳng ở lứa tuổi thanh xuân và lực tâm khiển. Cau mày lúc nhớ lại một điều gì đó, ông đến bên giường, cúi xuống, đưa tay nắm lấy cườm tay Regan. Và ông đã khám phá ra điều ông hằng lo sợ. Giống như người tu sĩ shaman ở Tây bá lợi á, mạch cô bé nhảy với tốc độ không thể tưởng tượng.
Điều đó bổng rút cạn hết nắng trong ông. Vừa nhìn đồng hồ tay, ông vừa đếm nhịp tim, lúc này, giống như những lời biện bác chống lại đời sống ông.
“ Chính ngưòi là Đấng phán truyền cho ngươi. Ngài là Đấng đã ném ngươi xuống tù các tầng trời !”
Lời phán nguyền mạnh mẽ của Marrin nện ầm ầm ngoài rìa ý thức của Karras bằng những cú đấm tàn nhẫn, vang dội, lúc nhịp mạch lại thoắt nên nhanh hơn. Và nhanh hơn nữa. Karras nhìn Regan. Vẫn yên lặng. Bất động. Trôi vào trong bầu không khí lạnh như nước đá là những màn hơi nước nóng như sương khói thoảng lên từ vũng nôn mửa giống như một của hiến tế nặng mùi. Karras cảm thấy bất an. Thế rồi, đôi tay ông bổng sởn gai ốc. Với một sự thong thả như ác mộng, mỗi lần một nấc một, chiếc đầu Regan đang quay, xoay như một hình nộm, kêu kin kít thứ âm thanh của một bộ máy rỉ sét, cho đến lúc hai tròng trắng đã long lanh, khủng khiếp của đôi mắt ma quái đó dán lấy ông.
“ Vậy thì, hỡi quỷ xa tăng, giờ đây ngươi hãy khá run rẩy vì sợ hãi…”
Chiếc đầu nọ thong thả quay trở lại phía Merrin.
“ … Ngươi, kẻ làm bại hoại công lý ! Ngươi, kẻ sinh ra sự chết ! Ngươi, kẻ phản bội các dân tộc ! Ngươi, kẻ chiếm đoạt sự sống ! Ngươi…”
Karras thận trọng quay lại lúc những ánh đèn phòng bắt đầu chao đảo, lung linh rồi mờ nhạt đi thành một màu hổ phách kỳ quái, giần giật. Ông run rẩy. Lạnh hơn rồi. Căn phòng đã trở nên lạnh hơn trước.
“ …Ngươi, quân vương của bọn sát nhân ! Ngươi, kẻ phát kiến ra mọi điều thô tục ! Ngươi, kẻ thù của loài người ! Ngươi..”
Một tiếng nện nghẹt ngòi nảy ra từ căn phòng. Rồi một tiếng nữa. Rồi cứ đều đều, làm rung chuyển suốt các tường phòng, suốt dưới sàn nhà, suốt trên trần phòng, đổ vỡ xoang xoảng, đập với một nhịp độ chậm chạp như nhịp đập của một quả tim đồ sộ và bệnh tật
“ Hỡi loài quái vật kia ! Hãy ra khỏi đây ! Chỗ của ngươi là nơi vắng vẻ ! Trụ sở của ngươi là hang rắn độc ! Hãy xuống mà bò lết với chúng nó. Chính Thiên Chúa là Đấng truyền cho ngươi ! Máu của…”
Các tiếng nện trở nên ầm ỹ hơn, bắt đầu xuất hiện càng lúc càng nhanh một cách đáng ngại.
“ Ta truyền cho ngươi, hỡi con rắn ngày xưa…”
Và nhanh hơn nữa…
“ … nhân danh Đấng phán xét kẻ sống và kẻ chết, nhân danh Đấng tạo hóa ngươi, nhân danh Đấng Sáng tạo và toàn vũ trụ, để…”
Sharon hét lên, đưa hai tay bịt chặt đôi tai lúc tiếng nện trở nên đinh tai nhức óc và lúc này chúng chợt tăng tốc và vọt lên một nhịp độ khủng khiếp.
Mạch của Regan thật đáng kinh hãi. Nó đập với một tốc độ nhanh không thể đo nổi. Phía bên kia giường, Merrin bình thản đưa đầu ngón tay cái ra vạch dấu thánh giá lên bờ ngực đầy rãi nhớt nôn mửa của Regan. Những lời cầu nguyện của ông bị nuốt chửng trong tiếng nện vang rền.
Karras cảm thấy nhịp mạch đột ngột tụt hẳn, và lúc Merrin cầu nguyện và vạch dấu thánh giá trên chân mày Regan, những tiếng nện quái đản kia chợt chấm dứt.
“ Ôi, hỡi Thiên Chúa của trời và đất, hỡi Thiên Chúa của các thiên thần và các trưởng thiên thần…”
Karras lúc này đã nghe được tiếng cầu nguyện của Merrin trong khi nhịp mạch của Regan cứ tiếp tục giảm xuống, giảm xuống nữa…
“ Hỡi đứa con hoang phách lối là Merrin kia ! Đồ cặn bã kia ! Mi sẽ thua ! Con nhỏ này sẽ chết ! Con heo này sẽ chết !”
Lớp sương mù lung linh đã dần hồi trở nên sáng sủa hơn. Hiện thân của con quỷ đã trở lại và trút nỗi giận dữ hằn học lên Merrin. “ Đồ con công vênh váo phóng đãng kia ! Đồ tà giáo xưa rích ! Tao truyền cho mi, hãy quay lại mà nhìn tao đây. Nào, hãy nhìn tao đây, đồ cặn bã kia !” Con quỷ bật tới trước nhổ vào mặt Merrin, rồi ồm ồm giọng bảo ông. “ Đó là cách ông thầy của mày chữa mắt cho người mù đấy !”
“ Hỡi Thiên Chúa là Chúa của muôn loài thọ tạo…” Merrin cứ cầu nguyện vừa bình thản rút khăn ra lau bãi khạc nhổ.
“ Nào, hãy làm theo lời dạy của thầy mày đi, Merrin ! Làm đi ! Hãy đút con c… thánh hoá của mày vào mồm con heo kia mà tẩy rửa nó, lau chùi nó với cái thánh tích nhăn nheo đó, thế nào con nhỏ cũng được chữa lành đấy, Thánh Merrin ạ ! Một phép lạ ! Một…”
“ … xin hãy cứu vớt kẻ tôi tớ…”
“ Đồ giả hình ! Mi cóc có xót thương gì con heo đó cả. Tuyệt không ! Mi chỉ dùng nó làm cuộc đọ sức giữa tao và mi đó thôi !”
“ ...Tôi khiêm cung...”
“ Đồ dối trá ! Thằng con hoang dối trá ! Nói cho bọn tao nghe thử, mi khiêm cung ở chỗ nào, hở Merrin ? Nơi sa mạc chăng ? Nơi các phế tích chăng ? Trong các lăng mộ mà ngươi đã đào thoát để trốn tránh kẻ đồng loại mi đó chăng ? Để trốn tránh những kẻ thấp thỏi hơn mi, trốn tránh sự khập khiễng và què quặt của thần trí mi đó chăng ? Mi có nói với những con người không, hở thứ nôn mửa kính tín kia ? ...”
“ ...xin hãy cứu vớt...”
“ Trú sở của mi là ở nơi hang ổ của loài công vênh váo. Merrin à ! Nơi chỗ của mi chính là ở trong con người mi ! Hãy trở lên đỉnh núi mà nói năng với kẻ đồng vai phải lứa duy nhất của mi đi !..”
Merrin cứ cầu nguyện không thôi, không buồn để ý đến những lời nhục mạ tuôn đến như sóng thác. “ Ngài có đói không, thưa Thánh Merrin ? Đây, tôi xin dâng ngài rượu tiên và cỗ bàn thần thánh, tôi xin dâng ngài thức ăn của Thiên Chúa của ngài !” Con quỷ phát giọng ồm ồm. Nó đại tiện ra như tiêu chảy.
Quá sức tởm lợm, Karras cố chú ý vào sách lễ, lúc Merrin đọc một đoạn trong sách Phúc Âm thánh Luke.
“ …Tên tôi là Đạo binh - người ấy trả lời, vì có nhiều ác quỷ đã nhập vào y. Sau đó lũ quỷ cầu xin Giê su đừng bắt chúng đi vào vực thẳm. Bấy giờ có một đàn heo đang ăn trên triền núi ở đó. Lũ quỷ nài xin Giê su cho chúng nhập vào đàn heo kia. Và ngài cho phép chúng. Lũ quỷ liền ra khỏi người nọ và nhập vào đàn heo, đàn heo liền lao xuống vách đá, rơi xuống hồ và chết chìm hết thảy. Và...”
“ Willie này, ta đem đến cho mi tin tức tốt lành đây !” Con quỷ nói ồm ồm. Karras ngước lên trông thấy Willie cạnh cửa, chị ta đứng sững lại với một ôm khăn và khăn trải giường trên tay. “ Ta đem đến cho mi tin tức cứu chuộc đây !” Nó hể hả. “ Elvira còn sống ! Con nhỏ còn sống ! Nó là...”
Willie nhìn trừng trừng trong nổi chấn động. Lúc đó, Karl quay lại hét với chị. “ Không, Willie ! Không phải đâu !”
“ ...một đứa nghiện ma túy, Willie ạ, một đứa nghiện ngập vô phương...”
“ Willie, đừng có nghe !” Karl kêu lên.
“ Ta nói cho mi biết con nhỏ ở đâu nhé ?”
“ Đừng có nghe ! Đừng có nghe !” Karl vội đẩy Willie ra khỏi phòng.
“ Hãy đi mà thăm con nhỏ vào Ngày Lễ Các Bà Mẹ đi, Willie ạ ! Hãy cho con bé ngạc nhiên một mẻ ! Đi mà !”
Thình lình con quỷ ngưng ngang và chiếu mắt vào Karras. ông lại thăm mạch và thấy mạch vượng, thế có nghĩa là an toàn để chích thêm Librium cho Regan. Ông đến bên Sharon dặn cô gái chuẩn bị chích thêm một mũi nữa. “ Mi có khoái con nhỏ không ?” Con quỷ liếc mắt dâm đãng. “ Nó là của mi đó ! Đúng, con ** chuồng ngựa này là của mi đó ! Mi cứ tha hồ mà cỡi ! Chà, đêm nào con nhỏ đó cũng tơ tưởng đến mi, Karras à ! Nó vừa thủ dâm, vừa mơ tới cái của quý bự sự của bậc cha cố...”
Sharon đỏ mặt, nhìn đi chỗ khác lúc Karras dặn dò cô về vụ thuốc Librium.
“ Thêm một viên tọa dược Compazine trong trường hợp bị nôn mửa nữa,” ông dặn thêm.
Sharon gật đầu nhìn sàn nhà rồi bước đi, cứng cả người.
Lúc cô bước qua giường, đầu vẫn cúi gầm, Regan ồm ồm bảo cô, “ Đồ gái thúi !” rồi bật người tới trước bắn vào mặt cô một tràn nôn mửa có vòi, rồi giữa lúc Sharon đứng chết trân ở đó, người ướt đẫm dãi nhớt, thì bản ngã của Dennings xuất hiện, giọng nghiến trèo trẹo. “ Đồ ** chuồng ngựa ! Đồ mặt l...!”
Sharon chạy bay biến ra khỏi phòng.
Nhân vật Dennings lúc đó nhăn mặt lại vì nhờm gớm, nhìn quanh và hỏi. “ Có ai vui lòng mở hé cửa sổ ra được không ? Cái phòng này hôi thối bỏ cha đi ! Đúng là ...”
“ Thôi, thôi, thôi, đừng !” nó đính chính sau đó. “ Thôi, vì có Chúa, chớ có mở, không thôi lại có kẻ khác chết thẳng cẳng ra đấy.” Rồi nó cười khằng khặc, nheo mắt với Karras một cách quái đản rồi biến mất.
“ Chính Ngài là đấng trục xuất ngươi..”
“ Ngài có làm không, hở Merrin ? Ngài có làm không ?”
Lúc này con quỷ đã trở lại và Merrin tiếp tục phán nguyền, tiếp tục áp tấm khăn choàng và tiếp tục vạch dấu thánh giá mặc cho con quỷ cứ quất vào mặt ông những lới thô bỉ tục tĩu. Quá sức lâu, Karras lo lắng, cơn chứng này đã kéo dài liên tục quá đỗi lâu rồi.
“ Bây giờ đến lượt con heo nái đến kìa ! Mẹ của con heo con.” Con quỷ nhạo báng.
Karras quay lại, thấy Chris đang tiến về phía ông với một miếng gạc và một ống chích. Nàng cứ cúi gầm mặt xuống lúc con quỷ văng những lời nhục mạ, còn Karras đi về phía nàng, mặt cau lại.
“ Sharon bận thay quần áo,” Chris giải thích, “ còn Karl đang mãi...”
Karras cắt ngang lời nàng bằng mấy tiếng. “ Được rồi,” và cả hai đến bên giường.
“ À phải, hãy đến mà xem công trình của mi đây, con nái sề kia ! Nào !
Chris cố sức đến cùng cực để đừng nghe, đừng nhìn trong lúc Karras ghìm chặt đôi tay không còn phản kháng của Regan.
“ Xem cái đống nôn mửa đó đi ! Xem cái con chó cái sát nhân ấy đi !” Con quỷ giận dữ. “ Mi hài lòng chưa ? Chính mi mới là thủ phạm của vụ đó ! Phải, chính mi với cái thói xem trọng nghề nghiệp hơn bất cứ chuyện gì, xem trọng nghề nghiệp của mi hơn chồng, hơn con bé đó, hơn...”
Karras quay lại nhìn. Chris đứng chết trân. “ Đi đi !” Ông ra lệnh. “ Đừng có nghe ! Đi đi !”
“...chuyện ly dị của mi ! Đi tới tìm các linh mục, đúng không ? Các linh mục sẽ không giúp đở được gì đâu !” Tay Chris bắt đầu run. “ Con nhỏ điên rồi. Nó điên rồi ! Con heo con này điên rồi ! Chính mi đã đẩy nó tới chỗ điên loạn, tới chỗ giết người và...”
“ Tôi không thể !” Mặt nhăn nhúm, Chris nhìn sững ống chích đang run bần bật. Lắc đầu. “ Tôi không thể làm được !”
Karras rút ống chích ra khỏi mấy ngón tay nàng. “ Được rồi, xoa gạc đi ! Xoa trên cánh tay ấy ! Chỗ này này !” Ông bảo nàng, giọng quả quyết.
“...trong quan tài của con nhỏ, đồ chó cái kia ạ, bên...”
“ Đừng nghe !” Karras lại nhắc nhở, lúc này con quỷ quay ngoắc đầu lại, đôi mắt nó lồi ra giận dữ. “ và mày nữa, Karras !”
Chris xoa gạc lên cánh tay Regan. “ Bây giờ, ra khỏi đây ngay !” Karras lệnh cho nàng, vừa đẩy nhanh mũi kim vào lớp thịt gầy mòn.
Nàng chạy mất.
“Vâng, bọn tao đã biết về lòng nhân hậu của mi đối với các bà mẹ, Karras ạ !” Con quỷ ồ ề. Vị linh mục Dòng Tên chùn bước lại và trong khoảng khắc ông không nhúc nhích. Rồi từ từ, ông rút kim ra và nhìn thẳng vào đôi mắt đã trợn trừng hẳn vào hai hốc mắt. Từ miệng Regan phát ra một lời hát du dương, dìu dặt, gần như ngân nga, bằng một chất giọng trong trẻo, dịu dàng như một lễ sinh trong dàn hợp xướng. “ Tantum ergo sacramentum veneremur cernui...”
Đó là một thánh ca được xướng lên vào lúc chúc phúc trong lễ nghi Thiên Chúa giáo. Karras đứng đó, mặt không còn chút máu lúc lời hát cứ nhặt khoan, kỳ quặc và buốt cóng. Tiếng hát ấy là một cõi chân không mà Karras cảm thấy một cách rõ ràng khủng khiếp nỗi hãi hùng của buổi tối hôm đó đã sấn vào trong. Ông bước lên thấy Merrin hai tay cầm một chiếc khăn lau. Bằng những động tác dịu dàng, mệt mỏi, ông lau sạch những vết nôn mửa dính trên mặt và cổ Regan.
“ ...et antiquum documentum...”
Tiếng hát. Giọng của ai vậy kìa ? Karras thắc mắc. Thế rồi những mảnh vụn vỡ cũ, Dennings...Cánh cửa sổ...Lòng ngổn ngang trăm lối, ông trông thấy Sharon trở lại phòng đỡ chiếc khăn trên tay Merrin. “ Thưa cha, cha cứ để cho tôi,” cô gái bảo ông. “ Lúc này tôi đã ổn rồi. Tôi muốn thay quần áo cho cháu và lau người cháu cho sạch sẽ trước khi đặt thuốc Compazine cho nó, được chứ ạ ? Xin hai cha vui lòng ra ngoài đợi cho một chút.”
Hai vị linh mục bước ra vùng ấm áp và cõi ánh sáng lờ mờ của dãy hành lang, rồi mêt mỏi dựa lưng vào tường.